FRANK DOYLE SJ
S U Y N I Ệ M L Ờ I N G À I
N Ă M A
MAI TÁ diễn dịch
Chúa Nhật 1 Vọng Năm A
Huyền Diệu về, tuyệt vời trong âm sắc Tôi đứng nơi đây mỗi chiều nắng tắt Hát bản tình ca không tiếng không lời Đêm về xanh xanh màu xanh đáy mắt Giốc cạn tình em trong âm sắc tuyệt vời (Dẫn nhập từ thơ Vĩnh Hảo)
Mt 24: 37-44 Nhà thơ ngoài đời, đứng đợi nơi đây chiều nắng tắt. Dân con trong Đạo chờ Huyền diệu về, Đấng Yêu Thương. Đấng Diệu Huyền đến, trong ánh sáng ban mai, theo tư thế rất thương yêu và nhung nhớ.
Trình thuật đầu năm phụng vụ hôm nay, mang dáng dấp của mầu xanh Hy vọng mà Đấng Huyền Diệu hẹn với đàn con. Với dân con, Ngài vẫn thương mến và hứa hẹn. Vua Vũ trụ huy hoàng đến, như đã hứa với dân Ngài bằng tiếng gọi của Vương Quốc, đang chờ mong. Tiếng gọi của Mùa Vọng, rất bức bách. Và thân thương.
Bài đọc đầu, phụng vụ đưa ra thị kiến non cao, chốn Zi-on rực sáng ấy. Ở nơi đó, có Đền thờ Chúa dựng xây. Ở nơi đó, có trung tâm của địa cầu. Và nơi đó, còn là điểm tập trung của nhân loại. Của vũ trụ. Cựu Ước khi xưa từng khẳng định: “Núi Nhà Đức Chúa đứng kiên cường vượt đỉnh non cao, vươn mình trên hết mọi ngọn đồi.” (Is 2: 2) Chốn non cao Zi-on, còn thu hút mọi người tràn về. Về, mà ca tụng và phụng thờ Gia-vê, Đấng Huyền Diệu. Nơi Đền thờ Đức Chúa.
Đền thờ Chúa nơi đây, chính là Thân Mình Huyền Diệu Đức Kitô. Đền thánh nơi đây, là chính Con Chúa đã hạ mình nhập cuộc, sống với ta. Ngài nhập cuộc, để trở nên người phàm giống như ta. Thân Mình Ngài nhập cuộc ở Bét-lê-hem, chính là Đền Chúa ngự, là Thân Mình Đấng Huyền Diệu, rất Hài Nhi.
Huyền diệu Hài Nhi, nằm nơi vòng tay nghèo của Mẹ Chúa, nơi hang lừa. Và, Huyền Diệu Hài Nhi được mục đồng Chúa đến lạy thờ. Huyền diệu Hài Nhi - chốn Đền đài bằng xương thịt, vẫn là mẫu mực để ta học hỏi sống với Chúa. Sống cuộc sống nghèo và quyết bước theo Ngài.
Phúc Âm hôm nay, chưa nói nhiều về Nhiệm Tích Nhập Thể. Nhưng, Đấng Huyền Diệu Quang Lâm được cảnh báo như một thời có nhiều xáo trộn. Xáo trộn ngày Đức Chúa Quang lâm, được mô tả giống thời Nô-ê. Một thời cần cảnh giác và tỉnh thức. Tỉnh thức, vì Ngài đến bất chợt. Rất đột xuất.
Đấng Huyền Diệu đến, sẽ không như buổi xử phạt, vào ngày cuối. Ngày Chúa đến, sẽ nhắc nhở con dân của Ngài đừng vì cảnh ly biệt tách lìa, mà hãi sợ. Cảnh giác và tỉnh thức để mọi người nhận ra Chúa luôn hiện diện, trong huyền diệu. Việc đề cao tỉnh thức, còn được thánh Phao-lô tông đồ nhắn nhủ, qua thư gửi giáo đoàn Rôma lành thánh, rằng: “Đã đến lúc anh chị em phải tỉnh giấc … Đêm hầu tàn, ngày sắp đến. Hãy vất bỏ những việc tối tăm và mặc lấy khí giới của sự sáng”.(Rm 13: 12)
Đi vào đời sống, người người cần nhận ra, rằng: đã đến lúc ta nên cảnh tỉnh. Cần giác ngộ về các hành động mình đã và đang làm. Cảnh tỉnh/giác ngộ, để không còn gì phải sợ sệt hoặc che giấu. Giấu Chúa và giấu người phàm. Và khi đã cảnh tỉnh rồi, ta sẽ không tủi hổ vì đã có hành vi bất chính. Không còn hãi sợ vì đã hành xử phản lại tâm trạng người đón chờ ngày Chúa Quang Lâm.
Đón chờ ngày Đấng Huyền Diệu Quang Lâm, là biết sẵn sàng trong tư thế của người con bình thuờng. Người con bình thường, là người không sợ phải quay về với thời ông Nô-ê, khi trước. Người con ở tư thế bình thường, là người không còn sợ ngày xét xử, vào lần cuối.
Tâm trạng của người con chờ ngày Chúa đến, còn là tâm trạng phó thác để Chúa hiện diện với chính mình. Ngài hiện diện qua tương quan rất hiện tại. Tương quan mang hình thái của một “nhiệm tích hiện tại”. Nhiệm tích xảy đến vào mọi lúc. Với mọi người. Nhiệm tích thể hiện qua hành vi, và qua công việc thường nhật. Ngài sẽ đến bất cứ lúc nào. Ở bất cứ nơi đâu.
Sống trong tương quan “nhiệm tích hiện tại”, ta nhận ra Ngài đang hiện diện nơi mọi người trong cuộc sống. Và, nhận ra bàn tay thân thương Ngài đặt nơi sự kiện đang xảy đến. Khi ấy, không còn hãi sợ. Không còn e dè ngần ngại về mọi cảnh báo. Nhưng, sẽ phấn khởi sống tình thương của Chúa. Phấn khởi, nhận ra Ngài đang gần gũi chính mình. Gần hơn cả nhịp đập rộn rã, của con tim. Nhịp tình yêu. Nhịp của “nhiệm tích hiện tại”.
Trong trông chờ “nhiệm tích hiện tại” quang lâm hiện diện, ta cứ hát lên lời ca đầy khích lệ. Rất vui, như nhà nghệ sĩ khi xưa, từng hát:
Tay nâng nâng cao, nâng hòn núi sông Hòa bình Chân đi đi mau, đi đến con đường sáng ngời Cùng nhau múa, cùng nhau nắm tay thân tình Tôi với anh, một lòng Đoàn kết từ đây
Tay vươn vươn lên, như bờ núi cao cao vời Chân khoan khoan thai, như bước theo nhịp oai hùng Bài thơ mới, và câu hát vui yêu đời Vui với bao niềm tin đời là bài ca. (Xuân Lôi – Y Vân –- Bài hát của người tự do)
Vui với bao niềm tin. Vui, vì đời là bài ca. Bài ca, mọi người đều hát. Hát cho đời. Hát cho người. Những người chợt thấy Đấng Huyền Diệu về, tuyệt vời trong âm sắc.
Chúa Nhật 2 Vọng Năm A
Em tan tác trên lưng mùa sám hối Ai nhan sắc? Cầm trên tay Thánh Giá Trả Giáo đường câm lặng, tắt theo kinh Đôi hàng ghế uy nghiêm chờ hối cải Cửa tôi buồn. Bưng bít. Những Phúc Âm (Dẫn nhập từ thơ Du Tử Lê)
Mt 3: 1-12 Mùa nắng hạ, sao nhà thơ đòi “trả Giáo đường câm lặng, tắt theo kinh”. Rồi lại bảo: “đôi hàng ghế uy nghiêm chờ hối cải”… Những hối và cải. Những bưng và bít, cửa tôi buồn. Mong rằng, cửa ấy hôm nay không là cánh cửa lòng đang chờ đón “Những Phúc Âm”. Chí ít, là những âm hưởng của ân phúc lành thánh, nơi Tin Vui mà thánh Gio-an Tiền hô loan báo, suốt tuần này.
Tin Vui tuần này, kể về một vị thánh đi vào chốn hoang vu, câm lặng mời gọi mọi người nguyện cầu, cùng hối cải. Sứ điệp thánh Gio-an, vỏn vẹn chỉ đôi giòng: “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã cận kề.” (Mt 3: 2). Sám hối ở đây, mang ý nghĩa chất chồng một hối hận về những điều mình làm trong quá khứ. Động từ metanoeite -ở Bản Bảy Mươi- bao hàm ý nghĩa đổi thay, rất triệt để. Là thay đổi cả về thế giới, nơi ta sống. Thế giới hôm nay, phải thay đi để mặc lấy giá trị của “Nước Trời”, đã cận kề.
Nước Trời cận kề, không là chốn “Tây Phương cực lạc” theo quan niệm nhà Phật. Cũng chẳng là Thiên Đường, nơi nhiều người tưởng mình sẽ đạt, sau khi chết. Với thánh Mat-thêu, đó là đổi thay tương quan phức hợp con người cần có với Chúa. Đổi thay, để có tương quan sống động hơn với người đời. Chọn lối sống đúng hơn với tình yêu thương rộng khắp, Chúa vẫn dạy.
Nước Trời cận kề mà thánh Gio-an ám chỉ, là chính Đức Kitô bằng xương thịt, đang đi tới. Là, tình Yêu Thương đích thực về với cộng đoàn mình. Nơi đây, bản chất của Đức Kitô biểu tỏ tương quan Ngài đang có với Cha. Tương quan ấy dù không thấy, nhưng ta vẫn được mời gọi: hãy sống giống như Ngài. Sống thích hợp với điều Ngài từng nói: Ta là Đường, là Sự Thật và sự Sống. Sống trong tương quan sinh động, là để ta có thể ở trong Ngài, qua Ngài và với Ngài. Có sống như thế, ta mới đạt mục tiêu và ý nghĩa của cuộc sống trong Nước Trời.
Tin vui mà thánh Gio-an Tiền Hô loan báo với mọi người, cả với bè Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc, là: “Hãy sinh hoa sinh quả, để chứng tỏ lòng mình đang sám hối.” (Mt 3: 8). Bằng vào tin này, thánh nhân muốn hàm ngụ: không phải cứ cho mình là dân con được chọn, ắt mình nên trọn hảo, chẳng cần đổi thay. Chẳng cần gì đến Nước Trời. Không phải thế. Là dân con Chúa chọn, ta càng phải thay đổi để được ơn tha thứ. Ơn mà ta có từ Đức Chúa. Được ơn Chúa, ta sẵn sàng cởi mở với Nước Trời. Sẵn sàng thay đổi cả lời nói, lẫn việc làm. Cả cuộc sống nội tâm, đã cải hối.
Sứ điệp đổi thay thánh Gio-an đặc biệt cho thấy, những gì ngài làm chỉ là “khúc dạo đầu” của “Nước Trời đã cận kề”. Nước Trời ấy, hôm nay đã được thể hiện nơi chính mình Đức Kitô bằng xương bằng thịt. Nước Trời đang đến, sẽ đầy quyền thế và còn uy lực hơn cả thánh nhân, nữa. Nước Trời nay đến, là để giúp mọi người biến đổi cuộc sống, ở trần gian. Biến đổi, để sống với Chúa qua mọi người. Sống vui tươi. Sống an hoà.
Sứ điệp thánh Gio-an Tiền Hô mang đến, còn là tín thư triệt để mà ngài đề nghị mọi người thực sự biến đổi cuộc sống, ngõ hầu thực hiện cộng đoàn tình thương có Đức Kitô ngự trị. Sứ điệp này, đã được minh xác nơi Kinh thánh và các Nhiệm tích truyền thống, vẫn hiện diện trong Nước Trời rất thân thương, rất lành thánh. Vì, cộng đoàn lành thánh là chính thân mình Đức Kitô, bằng xương bằng thịt, nay đang đến.
Sứ điệp thánh Gio-an Tiền Hô kêu gọi hàm ngụ một nhắn nhủ là ta hãy hối cải, hãy đổi thay. Và, hãy yêu thương đùm bọc trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Đùm bọc và yêu thương cả khi xôn xao những niềm vui riêng tư lẫn nỗi buồn đơn lẻ. Vui với người vui. Buồn với kẻ buồn.
Nước Trời đổi thay hôm nay, gồm những kẻ nghèo người hèn; kẻ đau người yếu lẫn người đang lỗi phạm. Cả đến những nạn nhân đang gặp bức bách, hãm hại ở chốn giam hãm, cầm tù. Ở khắp nơi. Nạn nhân ấy, người hẩm hiu ấy, không chờ ta đến, để bị xét nét, xử phạt. Nhưng, tất cả đều chờ hối cải và đổi thay, để rồi ta cùng nhau bước vào Nước Trời ở trần gian. Ở nơi đó, có sự cảm thông, giùm giúp. Nơi đó, có tha thứ. Có đỡ đần.
Nước Trời cận kề, là nhân loại cả “Trời Nam” đầy ắp những tin vui, rất an bình. Tin vui Chúa đến, Ngài ra tay chấm dứt mọi tranh chấp. Mọi ghét ghen giận hờn, đầy bạo loạn. Ngài đến, đem ánh sáng vào nơi tối tăm, đem hy vọng vào nơi ngã qụy. Ánh sáng và niềm hy vọng Ngài đem, sẽ bén chặt rễ nơi tình yêu thương, hài hoà. Hài hoà - Yêu thương của “Nước Trời cận kề” sẽ lan tỏa rộng khắp dân gian.
“Nước Trời đã cận kề” nay đang đến với thế gian, rất chậm nhưng vững chắc. Chậm và chắc, vì còn chờ thái độ và quyết tâm của mỗi người. Thái độ đã đổi thay. Quyết tâm sẽ cải hối. Bây giờ và mãi mãi.
Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta cầu mong có được quyết tâm và thái độ đúng đắn. Cầu và mong cho Nước trời thực sự đang hiện diện giữa chúng ta. Ngày Chúa đến. Trong hân hoan chờ đợi ngày Chúa đến, ta hợp lòng với mọi người, cất lên bài ca hưng phấn khi xưa, mà hát rằng:
Trong bóng vinh quang rộn ràng Anh bước hiên ngang về làng Trời Nam hân hoan reo vang Thanh bình ca. Quên tháng năm qua đợi chờ Tay nắm tay nhau hẹn hò Chung đắp xây lại cuộc đời Thái hoà. (Huỳnh Anh – Em gắng chờ)
Vâng. Gắng chờ đi em. Chờ Chúa đi anh. Chờ Chúa đến trong vinh quang. Rất rộn ràng. Không “bưng bít, lặng câm” như nhà thơ lầm tưởng. Hân hoan đi em. Reo vang đi anh. Reo vang lên thanh bình ca. Ta chung đắp xây lại cuộc đời thái hòa. Cuộc đời nơi Vương Quốc Nước Trời, đã cận kề.
Chúa Nhật 3 Mùa Vọng Năm A
Hạt cay đắng, hay là mầm hoan lạc Hãy vui lên, đừng sợ đời rách nát. Hãy sẻ chia nỗi khổ của tâm hồn Và mai này hết giông bão mưa tuôn, Nắng tươi đẹp, khung trời rồi rực sáng. (Dẫn nhập từ thơ Quách Xuân Sơn)
Mt 11: 2-11 “Hãy vui lên!”, “Hãy chia sẻ nỗi khổ của tâm hồn”. Tâm hồn nhà thơ, phản ánh tâm hồn nhà Đạo. Nhân mùa Hy Vọng đợi chờ, rất hôm nay.
Trình thuật mùa đợi chờ hôm nay, làm phấn chấn hết mọi người. Người người hôm nay, được dặn dò: Hãy vui lên!. Vui, không vì “Nắng tươi đẹp, khung trời rồi rực sáng”. Mà vì, Đức Chúa Quang Lâm nay gần đến, sao vẫn buồn?
Với phụng vụ thời xưa, Mùa Vọng là mùa đền tội. Khá nghiêm ngặt. Theo đó, con dân nhà Đạo tuần này được khuyên nên giữ chay lòng, khiết tịnh. Ít nhất ba ngày. Với Công Đồng Vatican II, Phụng vụ đã bắt đầu cho sử dụng mầu Hồng cho áo lễ. Mầu phấn khởi, nhắc nhở về lời khuyên của ngôn sứ I-sa-ia: “Vui lên đi, này đồng hoang cỏ cháy.” (Is 35: 1). “Hãy cứ vui, mà chào đón Đấng Nhân danh Chúa ngự đến” (Is 35: 2). “Ngài ngự đến, cứu chuộc hết anh em.” (Is 35: 4).
Cứu rỗi hay cứu chuộc, là ơn chữa lành. Là, những trọn vẹn – lành thánh, đến với cuộc đời mỗi người. Mọi người. Mọi người tuy được cứu rỗi, cũng đừng nên coi việc chữa lành đây mang tính xác phàm, thôi. Nhưng, còn mang cảm tính, ý nghĩa xã hội và tâm linh, nữa. Quả là, ta chỉ được kiến tạo thành người trọn vẹn, khi hạnh phúc hài hoà tuôn chảy vào chính con người mình, thôi.
Tin Mừng hôm nay, còn minh xác thêm một điều, là: ta tìm ra chính mình ngay trong cuộc đời của Đức Kitô. Điều này, được thánh Gio-an Tiền Hô công bố qua việc thánh nhân sai môn đệ mình đến hỏi Chúa: “Thầy có thật là Đấng phải đến hay không?” (Mt 11: 3). Câu hỏi, bao hàm hai việc: bản thân thánh nhân muốn biết về Đức Kitô; hoặc, chính thánh nhân muốn cho môn đệ mình hiểu về Chúa. Điều này hạ hồi sẽ rõ. Nhưng sau đó, thánh nhân lại đã công bố: “Đấng đến sau tôi, quyền thế hơn tôi… Ngài sẽ thanh tẩy anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3: 11).
Và lúc đó, câu trả lời của Đức Chúa nói lên tính cách Thiên Sai của Ngài: “Hãy về mà thuật lại với Gio-an, những điều mắt thấy tai nghe…” Câu trả lời của Đức Giê-su, ăn khớp với ý nghĩa bài đọc thứ nhất: công nhận Đức Kitô là Đấng Thiên Sai. Đấng “đến cứu anh em” (Is 35:4).
Tin mừng thánh Mat-thêu lại cũng thực sự nói lên tính Thiên sai của Chúa. Và như thế, lời xác minh này ăn khớp với tinh thần của Mùa Vọng, mùa chờ đợi. Ta chờ ngày Chúa đến lại. Ngài đến lại, là đến một cách đầy đặn, trọn vẹn cho cuộc sống của ta. Như Kinh Nhập Lễ vừa nói rõ, ta vẫn cần “kinh nghiệm sống về niềm hân hoan Đấng cứu chuộc.”.
Cần ở đây, là cần Chúa mang đến cho mỗi người ơn cứu chữa, rất trọn vẹn. Rất lành thánh. Và, đây chính là điều mỗi người chúng ta cần làm. Cần, là làm sao để mỗi người đều có kinh nghiệm trở nên toàn vẹn trong Đức Kitô. Cần là bởi, nhiều người trong chúng ta vẫn chưa thực sự biến đổi chính mình, để trở thành “một Kitô” khác. Một Kitô đích thực, như Ngài muốn. Và, thời gian cứ kéo dài. Cứ chờ đợi ta.
Nhằm giúp ta làm được như thế, bài đọc thứ hai trích dẫn lời của thánh Gia-cô-bê, khuyên bảo: “Hãy kiên nhẫn, như nhà nông chờ đất trổ sinh hoa mầu. Chờ cơn mưa đầu mùa. Mưa cuối vụ.” (Gc 5: 8).
Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su cũng giới thiệu thánh Gio-an Tiền Hô như vị thánh lớn, chưa từng thấy. Và, thánh nhân còn được thêm ưu điểm là được sinh ra cùng thời với Đức Chúa. Ưu điểm này, Đức Kitô cũng đã ban cho mỗi một người,chúng ta. Được ưu điểm ấy, ta cố gắng làm sao để Đức Kitô trở nên thành phần trong cuộc sống của mỗi người.
Thật ra, thánh Gio-an Tiền Hô là nhân vật dũng mãnh, vẹn toàn. Thánh nhân không giàu có. Cũng chẳng tiếng tăm. Lại không là bậc siêu sao, thượng thặng. Nhưng, mọi người vẫn bước theo chân mềm của thánh nhân. Bước vào chốn hoang vu vắng lặng. Nơi sỏi đá khô cằn, để được nghe thánh nhân những giảng và dạy. Lời dạy rất thách thức. Để đổi thay.
Cũng một kiểu tương tự, lời mời gọi vào chốn hoang vu, nay được gửi đến mỗi kẻ tin vào Đức Kitô, từ nhiều năm. Vẫn từ bao giờ, tín đồ của Chúa được kêu mời hãy dọn đường, và cũng dọn lòng, để Chúa đến với tâm can mỗi người. Hãy sửa soạn con tim của mọi người. Để rồi, mỗi người và mọi người đều hân hạnh có kinh nghiệm về “niềm vui cứu rỗi”. Niềm vui được ơn chữa lành, rất trọn vẹn. Rất lành thánh. Có như thế, cuộc sống của chúng ta mới có ý nghĩa. Mới đáng sống.
Giáng Sinh là thời của ân huệ. Của quà tăng. Của hành động cho đi. Lẫn tiếp nhận. Hãy đảm bảo là các quà tặng ta trao nhau, bao gồm cả niềm vui đi Đạo, mọi người đang nhận lãnh.
Trong niềm vui tặng cho nhau những món quà đợi chờ, ta ngân vang lời ca hưng phấn, hôm nào:
Rồi từ giọng hát em chợt vút cao vút cao một trời, một trời Bài ca thánh đêm vang lên trong ngày dài mệt nhoài một phận đời Ôi biết bao giờ ta đốt hết từng lời ca yêu Mặn nồng trong tim buồn phiền Người đem giá băng về trên tuổi đá buồn (Ngô Thụy Miên - Từ giọng hát em)
Cả tuổi đá buồn, hãy cứ vui lên. Vui, vì “kìa nắng tươi đẹp, khung trời rồi rực sáng”. Rực ánh hào quang hy vọng chờ ngày Chúa đến. Ngày vinh quang. Ngày rất hoan lạc. Chúa Nhật IV Mùa Vọng Năm A
Diễm phúc mới, thấy mình hưởng ơn cứu chuộc Chúa Giáng Sinh, mang bình an cho nhân loại Từ hai ngàn năm rồi, nhân thế đã reo vui. Chúa xuống thế, không phải để làm vua nhân loại Chúa xuống làm người, để cho nhân thế đóng đinh. (Dẫn nhập từ thơ Yên Nê)
Mt 1: 18-25 Bình an - cứu chuộc, hai ý nghĩa một Giáng Sinh. Cứu chuộc - bình an, hai sự kiện xuất từ việc một Giáng Hạ. Chúa Giáng Hạ trong an bình. Để rồi, Ngài Phục sinh trong vinh quang, đem cứu chuộc đến với người người.
Trình thuật ngày Chúa Giáng Hạ, được thánh Mat-thêu và Luca ghi chú rất cẩn trọng. Các thánh sử ghi lại nguồn gốc/gia phả Đức Giê-su, như người phàm. Thánh Giu-se và Đức Maria, vốn giòng tộc vua quan quyền quý, Vua Đavít. Nhưng căn tính Thiên Sai của Ngài, là do quyền năng Chúa Thánh Linh, đã cấu thành.
Ở trình thuật thánh Mat-thêu và Luca, đều có ghi thiên thần hiện đến với Đức Maria. Thiên thần đến, xác nhận việc Đức Maria cưu mang Đức Chúa là do quyền năng Chúa Thánh Linh, biến thành hiện thực. Khi Chúa đã thực hiện, Mẹ đích thực là Mẹ Thiên Chúa. Và, thánh cả Giu-se quả thực không là cha đẻ của Ngài.
Theo phong tục Do Thái, hôn nhân gồm 3 giai đoạn thật rõ nét: giai đoạn hứa hôn, đầy thử thách; kế đến, là giai đoạn yêu thương, sinh hạ con cái; và, giai đoạn chính thức: hôn nhân kết thành, rất ủi an. Ở giai đoạn hứa hôn nhiều thử thách, cặp phối ngẫu phải sống riêng rẽ. Không liên hệ về thể xác. Bên nào không muốn tiếp tục tiến tới hôn nhân, đều phải đưa đơn ly dị. Ở giai đoạn này, nếu chẳng may xảy ra sự cố, đôi bên nam nữ lỡ ăn nằm với nhau, cả hai sẽ bị ném đá, đến chết.
Thánh Giu-se là người chính trực. Thánh nhân luôn sống trong khuôn phép, rất mực. Cả luật Đạo lẫn luật đời. Vì thế, khi được loan báo Tin Vui, thánh nhân ở vào tình thế khá nghiêm trọng, nhiều lo nghĩ. Thoái lui cũng khó. Tiến tới chấp nhận, là việc hoàn toàn không dễ. Chí ít, là khi thánh nhân thấy vị hôn thê của mình đã cưu mang, lại không xuất từ sáng kiến của đôi bên. Rõ ràng, thánh nhân thấy mình đang dính dự vào một ngoại tình, khó cưỡng chống.
Về phần Đức Maria, Mẹ cũng ở vào tình thế khó xử. Làm sao cắt nghĩa Thai Nhi mà Mẹ cưu mang, lại do quyền năng của Đức Chúa? Làm sao chịu đựng được miệng tiếng của người đời, rất bôi bác. Làm sao chứng minh được sự trinh trong của Mẹ, với vị hôn phu công minh chính trực là người yêu dấu, tên Giu-se? Và lúc ấy, chính là lúc thần sứ Chúa xuất hiện. Và thần sứ đã giải tỏa mọi khúc mắc khó xử, nhờ ơn cứu chuộc, nay đã biết.
Thông điệp mà thần sứ mang đến, cũng giản đơn như sau: Hài Nhi mà Mẹ thụ thai là do quyền năng của Thần Linh Chúa, nên thành tựu. Không phàm nhân nào cả gan dính dự. Người Con của Mẹ sẽ được gọi là “Giê-su” có nghĩa là “Đấng Cứu Chuộc”. Bởi, sứ mạng Ngài đảm trách là để cứu dân Ngài không còn xa vời Đức Chúa, nữa. Theo lịch sử cho thấy, thánh Giu-se hiện thân là hậu duệ của Vua Đavít. Thánh nhân sẽ trở thành người cha hợp pháp của Đức Giê-su, Đấng Thiên Sai Đức Chúa gửi đến. Ở cuối trình thuật, thánh sử nay đã ghi rõ: Đức Giê-su được gọi là “Con Vua Đavít”. Quả, đúng như thánh Phao-lô tông đồ đã có thư cho giáo đoàn Rôma, nhằm giải thích thêm: “Xét như người phàm, Đức Giê-su xuất từ giòng dõi Vua Đavít. Nhưng xét như Đấng đã từ cõi chết sống lại nhờ Thánh Thần Chúa, Người đã được đặt làm Con Thiên Chúa, với tất cả quyền năng (cần có).” (Rm 1: 3-4).
Tin Mừng thánh Mat-thêu tổng cộng đã 11 lần cho thấy các sự kiện trong đời Đức Giê-su đều ứng nghiệm những điều hứa hẹn trong Giao Ước thánh. Cụ thể như sách I-sai-a, có nói: “Này đây, Trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên Ngài là Em-ma-nu-en” (Is 7: 14) Và thánh Mat-thêu giải thích ý nghĩa tên gọi của Đấng E-ma-ma-nu-en, là: “Chúa đến ở cùng chúng ta”.
“Chúa đến ở chúng ta”, nghĩa là Ngài thực sự đến để “ở với” và “ở cùng” chúng ta. Thực tại này, sẽ không chấm dứt bằng biến cố Phục Sinh. Cũng chẳng kết cuộc bằng sự kiện giã từ môn đệ Ngài để trở về với Cha. Lời cuối Ngài để lại, cũng vẫn là: “Và này, Thầy sẽ ở với’ anh em mọi ngày cho đến ngày thế tận.” (Mt 28: 20).
Cho đến hôm nay, Giê-su Đức Chúa vẫn tiếp tục là Em-ma-nu-en, tức “Chúa đến ở cùng chúng ta”. Chính vì thế, chúng ta vẫn tiếp tục cử hành mừng ngày Chúa Giáng Hạ, suốt hơn 2000 năm. Cùng với Thân Mình Ngài là Hội Thánh Chúa, tức cộng đồng các kẻ tin vào Đức Kitô vẫn tiếp tục “ở với” và “ở cùng” cộng đoàn dân Chúa. Ngài vẫn cứ “đến ở cùng chúng ta” bằng Lời. Và cả bằng hành động, nữa.
Cử hành Tiệc Thánh hôm nay, chúng ta mừng kính sự hiện diện của Ngài, ở giữa chúng ta. Mừng, vì Ngài đang “ở với” và “ở cùng” mỗi người, trong chúng ta. Hiệu năng của hiện diện này tùy vào việc ta có hiệp thông một cách ý thức với Ngài hay không, mà thôi. Và, hiệu năng ấy càng rõ rệt hơn, nếu mỗi người và mọi người sống sao ngõ hầu chứng minh được là: Ngài đang thực sự hiện diện với ta, trong cuộc đời thường nhật.
Một lần nữa, vào đại lễ mừng Chúa Giáng Hạ hiện diện làm người, hãy để Đức Chúa tái sinh với mỗi người. Và mọi người. Làm như thế, Ngài hoan hỉ chấp nhận “ở với” và “ở cùng” mỗi người trong cộng đoàn Tình Thương. Còn gọi là Vương Quốc Nước Trời. Ở trần gian.
Trong hân hoan mừng Chúa đến “ở với” và “ở cùng”, ta sẽ hát lên lời ca đầy khích lệ, của người xưa: “Gọi Người Yêu Dấu bao lần Nhẹ nhàng như gió thì thầm Làn mây trôi gợi nhớ chơi vơi Thương người xa xôi. Gọi Người Yêu Dấu trong hồn, Ngập ngừng tha thiết bồn chồn. Kỷ niệm xưa mơ thoáng trong sương Cho lòng nhớ thương.” (Vũ Đức Nghiêm – Gọi người yêu dấu) Thật ra, Người Yêu Dấu đang “ở với” và “ở cùng” ta, trong cuộc sống đời thường. Nhưng, Người Yêu Dấu hôm nay, muốn được đối xử như với người Tình, bình thường. Để, mọi người được “Diễm phúc mới, thấy mình hưởng ơn cứu chuộc”. Rất thân thương. Rất Giáng hạ.
Lễ Giáng Sinh Năm A Đêm hôm nay, lạnh lẽo Giáng Sinh nghèo Xin Thượng Đế cho tâm tư giải toả Thời gian nào con được biết mơ say, Con được biết tình yêu như biển cả, Phương trời nào hạnh phúc ở tầm tay. Lc 2:1-4 ( Dẫn nhập từ thơ Đào Tiến Luyện) “Tâm tư giải toả”- “hạnh phúc ở tầm tay”. Đó, chính là ý nghĩa của sự kiện Giáng sinh, rất hôm rày. Giáng sinh hôm nay, biểu tỏ tình yêu, như biển cả. Như mơ say, hạnh phúc Chúa gửi đến với dân nghèo khắp nơi nơi. Trình thuật Giáng sinh, thánh Luca ghi rõ về một Đại lễ có ánh sáng, có niềm vui khi xưa, ơn giải thoát, rất đong đầy. Niềm vui khi xưa, dân thành La Mã đã mừng kính Lễ hội này như Ngày Hội Mặt Trời, khó chinh phục. Ngày hội Mặt Trời, không chinh phục nổi- bên tiếng La tinh gọi là solis invicti- tức Định Tinh nóng cháy khó lòng khuất phục. Lễ Hội Mặt Trời ở đây là ngày lễ có Mùa Xuân chợt bừng sáng. Có niềm vui trỗi dậy, sau nhiều tháng ngủ vùi, giữa mùa Đông. Các bài đọc Lễ Đêm hôm nay, nói đến Ánh sáng nơi Chúa Hài Đồng trong máng cỏ. Chúa Hài Đồng, là Nguồn Ánh Sáng cho thế giới gian trần. Ánh lực huy hoàng rực sáng từng bao bọc các nông dân, mục đồng. Có đạo binh thiên quốc đồng loạt cất tiếng ngợi khen :“Vinh danh Thiên Chúa nơi trời cao thẳm, bình an dưới thế cho kẻ được Người đoái thương!”. (Lc 2:14) Đồng loạt với ánh sáng diệu kỳ , là niềm vui thiên thần. Niềm vui mục đồng và thần sứ, vây quanh Đấng Hài Nhi. Và niềm vui đây là niềm vui giải thoát Đức Giê –su mang đến với mọi người. là, niềm riêng Vua An Bình hạ giáng đến với đám dân nghèo, thân phận hẩm hiu. Phúc Âm hôm nay, còn tô đậm sắc thái đặc thù qua lối sống của Đức Giê-su. Sắc thái đặc thù, là mục đích Ngài nắm tới. Đặc thù, nhưng không lao xao tình huống mà dân con ngoại Đaọ vẫn thêu dệt cho vua quan lãnh chúa. Đặc thù ngày Chúa đến, không nằm nơi xa hoa đèn đóm, rất phí phạm. Cũng chẳng thấy tiếng pháo nổ xum xuê, đầy lãng phí. Đặc thù ngày Chúa đến, mang màu sắc khác biệt nơi những ẩn náu trốn chạy biện pháp kiểm tra do vua quan, lúc đó. Đặc thù ngày Chúa đến, theo nhãn giới của người thời đại sẽ như thế nào? Trả lời thắc mắc này, nhà thần học tu đức từng viết: “Đến với đồ đệ hôm nay, chắc Chúa sẽ phải hoá trang ghê lắm mới mong đem tình yêu thương cứu độ của Cha đến với mọi người? Đến với người đương thời, Ngài xử sự ra sao, khi dân con- trong Đaọ ngoài đời-đang chết dần mòn vì các căn bệnh quái ác như SIDA? Ngài có ra tay phụ giúp, khi hàng triệu nguời không công ăn việc làm? Hàng triệu người không cón phẩm cách, tác phong con cái Chúa? Khi đàn con bé bỏng, mềm yếu cứ bị xách nhiễu về tình dục? Khi người nữ phụ vẫn bị coi như thuộc giới thấp kém, người dưới cơ? Ngài sẽ làm gì, khi hiện tượng diệt chủng vẫn xảy đến ở đâu đây?” ( Lm David N Power, the Furrow 10/1998). Chúa đến, mang sắc mầu đặc thù thời hiện tại. Chắc chắn là như thế. Nhưng,Ngài đâu rồi có hiện hữu với con người hôm nay? Để trả lời , nhà văn sư huynh Thomsa Merton, đã ghi lại: “Về với thế giới gian trần, Chúa không tìm được chốn trú chân, đành trở thành vị khách không được mời. Nhưng Ngài vẫn cứ đến. Ngài đến và cảm thấy đó như là nhà mình. Vì không nơi trú ngụ, Ngài đành ở lại với đám người nghèo hèn, cơ cực. Ngài đến, là để ở với những người không thuộc về Ngài. Những người bị giới quyền bính chối bỏ. Ngài đến, cũng bị coi như kẻ yếu đuối, thấp hèn giống như ai. Ngài đến, là đến với những kẻ không nhân vị, bị ngươì khác khinh chê tư cách làm người. Là kẻ bị bách hại, bị cắt đứt mọi hiệp thông. Những người yếu hèn như thế, nay không chỗ trú chân. Ngài là Đức Chúa ở trần gian, đang có mặt với thế giới hôm nay.” (Trích từ The Tablet , 26-12-1998) Cách đây không lâu, nhà văn người Brazil, Paolo Freire, người viết cuốn “sư phạm dành cho người bị áp bức”. Trong sách, tác giả đề nghị phương cách giáo dục người nghèo mù chữ, như sau: “khi học chữ, người không biết đọc, không biết viết nên học để biết là mình đang nghèo. Và đang hèn. Học để biết hỏi tại sao mình nghèo. Làm cách nào ra khỏi cảnh nghèo? Và theo tác giả, giải đáp cho bài toán ‘nghèo và hèn’, nằm trong của chính họ. Đáng tiếc thay, ngày Chúa đến hôm nay vẫn thấy mọi hình thức bạo lực nơi thế giới hiện tai. Bạo lực, vì nhiều người mất kiên nhẫn, không áp dụng phương thức hiền hoà, bất bạo động trong cuộc sống. Bạo lực, vì nhiều người vẫn chủ trương khủng bố, làm đảo lộn chốn sống yên ổn, ôn hoà. Nhiều người vẫn kiếm tìm thoải mái nơi tiền tài,lợi nhuận ở khắp chốn. Chốn doanh thương, quyền bính, lẫn binh đao. Những người luôn chủ trương duy trì giàu sang, phú quý cho riêng mình. Chúa đến, Ngài mặc lấy hình hài của vị Vua An Bình, thanh thoát,rất chân phương, Ngài đến, mang thông điệp thanh nhàn, Hài Nhi rất đáng yêu. Nhưng rủi thay, thông điệp yêu thương hài hoà Ngài mang đến vẫn không ngăn được con người bạo động gây chết chóc. Bạo động chết chóc, cả ở phần đất của những người lâu nay vẫn chối bỏ Ngài. Những người từng trả lời với Ngài, bằng cách này hay cách khác, tương tự như: “ Rất tiếc! Không còn chỗ cho Ngài trú ngụ.” Âm vang của tình trạng đáng tiếc còn hiện rõ nơi truyện Chúa Giáng trần, vào mỗi năm. Ở nơi đây, có linh mục,tu sĩ và giáo dân đã và đang dần mòn chết, trong cách sống xa hoa trần tục. Trong lúc đó muôn ngàn người nghèo đói, túng bấn, đang kêu gào ở nhiều nơi. Giáng Sinh hôm nay, không là lễ hội đình đám chỉ một đêm. Giáng Sinh, không là ngày lễ để ta vui hưởng với thịt ngỗng gà quay, hay bánh ngọt. Giáng Sinh cũng không là tiệc rượu đình đám, ăn nhậu, tiêu phí, rất xa hoa. Giáng Sinh phải chính là dịp để ta nhớ mà cử hành mừng kính việc Chúa đến với người nghèo khổ, không nhà. Những người chiụ cảnh hẩm hiu, lép vế thiệt thòi đủ mọi thứ. Chúa đến, Ngài mang tín thư Hy Vọng giải thoát đến với người chịu thiệt thòi trong thế giới, đem yêu thương vào nơi bất hoà. Cử hành mừng lễ, là chấp nhận gia nhập tiến trình giải thoát cứu độ mà Chúa kêu mời. Cử hành mừng lễ, là gột bỏ đi mọi tàng tích, âm hưởng của kiếp nghèo sa đọa. Của những bóc lột và kỳ thị đang hiện hữu torng môi trường xa hoa, phung phí. Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta cử hành mừng ngày Chúa Giáng hạ, nhưng không quên mục đích mình mừng kính, không quên thông điệp còn đó, đằng sau bầu khí phàm tục, mọi ngày lễ. Tham dự tiệc, để rồi ta cầu mong cho thông diệp ngày Chúa Giáng trần giúp mọi người nhớ lại trọng trách của người tín hữu Đức Kitô. Trọng trách về với người nghèo hèn, thiếu thốn để đỡ nâng, như Chúa hằng giao phó. Cho ta. Cho mọi người. Trong ý thức trách nhiệm ấy, ta hân hoan cất lên lời kinh xưa, hát rằng: “ Và bây giờ, ngày buồn đã qua mọi lỗi lầm cũng được thứ tha Tình yêu đã đến trong ánh nắng mai Xoá tan màn đêm u tối Cho tôi biến đổi tâm hồn Thành một người mới…”( Đức Huy- Và con tim đã vui trở lại) Chúa đến, mọi màn đêm u tối được xoá tan. Xoá tan trong tâm hồn. Nơi thể xác, của mỗi người. Ngài đến, biến đổi mọi tâm hồn thành người mới. Người tuy nghèo, nhưng đã vui. Vui với niềm vui ngày Chúa mặc lấy cùng số phận. Vui vì Ngài vẫn vui như ta. Với ta.
Chúa Nhật Lễ Thánh gia năm A “Hãy về cùng em, lo phụ dưỡng gia đình” Anh em hãy về đi, dựng từ đầu Em đây sẽ đợi dẫu bao lâu Mái ấm gia đình cửa luôn mở Anh hãy về đi, dựng từ đầu. ( Dẫn nhập từ thơ Nguyên Đỗ)
Mt 2: 13-15, 19-23 “Anh hãy về đi, dựng từ đầu”, đúng là lời lẽ của nhà thơ. Lời ở đây , không chỉ là lời nhắn nhủ những người em thân thương, ở quê nhà. Mà, là lời kêu mời mà Hội thánh xưa nay cứ nhắn gọi mọi người vào dịp lễ Thánh Gia.
Lễ Thánh Gia, ta không chỉ đứng ngắm mà khâm phục sự êm ấm bình an của gia đình rất thánh, Đức Giê-su. Nhưng là, mời gọi người người suy niệm về một Giáng Hạ, rất an bình. Có tình thương mến. Mến mộ gia đình thánh. Thương cho gia đình Ngài gặp ngày dậy sóng gió. Sóng ưu tư. Sóng muộn phiền, ngày Chúa Con đi lạc. Sóng buồn rầu, ngày Đức Chúa chấp nhận cái chết.
Là thành viên Gia Đình Lành Thánh, các Đấng cũng đã lo âu, ray rứt khi Giê-su Đức Chúa ở lại nơi đền thờ, giảng giải cho các nhà thông luật, thêm hiểu biết. Và, cả lúc về sau, khi Ngài nổi tiếng, cùng lúc trở thành đối tượng cho nhiều người khích bác. Cử hành mừng kính Lễ Thánh Gia hôm nay, con dân chúng ta nguyện cầu Chúa chúc lành cho người người và gia đình mình. Chúc lành là bởi, dường như con cái trong gia đình hôm nay, thường hay gặp cảnh ưu tư, lo âu. Có gia đình còn phân rẽ, ghét bỏ/đấu đá lẫn nhau, chỉ vì tình thương trao ban không đều. Hoặc vì ghen ghét, đố kỵ. Có khi, chỉ vì tiến trình đổ vỡ mà nay vẫn chưa kịp hàn gắn.
Đã nhiều lần, Đức Chúa quả quyết: hễ anh em có hai, hoặc ba người ngồi lại vì Danh Ngài, Thầy sẽ đến ở cùng. Đến ở cùng, chính đó là hình ảnh của Gia Đình Rất Thánh, Đức Kitô. Gia Đình Lành Thánh, chính là cộng đoàn nền tảng của Đạo Chúa. Ở gia đình đó, Đức Kitô vẫn luôn hiện diện. Ngài hiện diện, để tỏ mình cho thế giới, biết thương yêu lẫn nhau như “ gà cùng một mẹ” trong gia đình. Gia đình lành thánh theo kiểu của Đức Kitô, không chỉ là đơn vị gia cư Giáo hội của Chúa, mà là mái ấm tình thương quyết sống đời yêu thương san sẻ, trong cộng đoàn.
Sống đời yêu thương trong gia đình, cộng đoàn không có nghĩa là mình chỉ sống cho riêng gia đình mình. Sống xa cách mọi người. Sống đời “Đèn nhà ai nấy sáng”, chẳng quan tâm đến một ai. Mà là, sống cùng và sống với thế giới quanh ta. Sống, mà không tìm lợi ích cho riêng mình. Trái lại, là sống kết hợp hài hoà. Biết nâng đỡ và san sẻ tình thương trong cộng đoàn cần nâng đỡ. San sẻ cả niềm vui, lẫn nỗi buồn. San sẻ và nâng đỡ, để rồi sẽ trở nên thành phần của Giáo hội, rộng khắp. Từ đó, thực hiện sứ mệnh làm chứng cho sự hiện diện của Đức Chúa, ở chốn gian trần.
Thực hiện công tác ấy, mọi ngày trong cuộc sống thường nhật, ta quyết làm cho bằng được qua nhiều hình thức. Bằng nhiều phương cách, tựa như cách thức mà Hội đồng Giám mục Hoa kỳ đã đề nghị trong Thư Chung năm nào, nhấn mạnh đến điều mà các ngài gọi là “ Dõi Theo Con Đường Của Tình Yêu” . Dõi theo bằng cách: · Tin tưởng nơi Chúa và thực sự xác tín rằng Ngài đang lo cho chúng ta · Yêu thương và tin tưởng mãnh liệt vào giá trị của người khác. Hình ảnh Thiên Chúa phản ảnh nơi con cái Ngài là khi họ nhận biết rằng: người thân trong gia đình hằng yêu thương nhau. Bao lâu còn nghi kỵ lẫn nhau, tức là mình đang nghi ngờ Tình Yêu của Thiên Chúa. · Kiến tạo và duy trì sự mật thiết hỗ tương, bắt đầu từ vợ chồng rồi cứ thế lan rộng đến các thành viên khác của tổ ấm gia đình. · Sống chứng tá cho các giá trị Tin Mừng bằng gương mẫu sống động trong cuộc đời người tín hữu Đức Kitô. · Đào tạo và giáo dục niềm tin yêu qua gương mẫu sống mật thiết yêu thương lẫn nhau qua vai trò làm cha, làm mẹ. Để rồi, con cái sẽ không thấy điều khác biệt giữa thực tế ở nhà và điều được dạy tại trường. · Cùng nhau nguyện cầu. Cảm tạ Thiên Chúa về những hồng ân Ngài ban. Cũng không quên xin ngài hướng dẫn những bước chân mềm vào những lúc khó khăn, lầm lạc. · Biết phục vụ và cho đi. Phục vụ người khác dù khác họ, khác dòng tộc. Cho đi những gì mình đã có, cho người có nhu cầu hơn mình. · Sẵn sàng tha thứ và tìm kiếm sự hài hoà. Biết sám hối khi có lỡ lầm. Biết lắng nghe và ủi an, khi có người cần được giúp đỡ. Tán dương ca tụng sự sống mỗi khi có dịp như : mừng sinh nhật , hôn lễ , ngày kỷ niệm… · Hợp tác với mọi người trong cộng đoàn mình hầu thăng tiến phẩm cách của mọi nhân vị . · Tranh đấu chống thói bè phái, kỳ thị. Quyết cứu đói, giảm nghèo, ở mọi nơi. · Biết tỏ ra nhạy bén với ơn mời gọi phục vụ Cộng đồng dân Chúa, và cộng đoàn rộng rãi, khắp nơi. Biết để thì giờ và công sức làm thiện nguyện, cải tiến cuộc sống của mọi gia đình, nơi chòm xóm, ngoài giáo xứ …
Đạt được lời khuyên nhủ ở trên, là việc làm thật lý tưởng. Đành rằng, chẳng thể nào có được gia đình hoặc giáo hội hoàn thiện, về mọi mặt. Nhưng ta vẫn luôn tin tưởng và cũng lạc quan, phấn khởi, để nếu cần, sẽ bảo nhau : “Anh hãy về đi, dựng từ đầu”.
Trong tinh thần phấn khởi “Dựng từ đầu”, ta hân hoan hát lên lời ca thân thương của người nghệ sĩ hôm nào đã viết nên going nhạc. Giòng nhạc vui, hát rằng:
Anh viết cho em một bài ca mới Khi nắng xụân sang, khi gió đông tàn Nhịp đập rộn rang trong trái tim anh Kết thành lời bài ca yêu thương Gởi người em gái yêu thương Gởi người em gái quê hương… (Vũ Vĩnh Phúc- Bài ca cho em)
Bài ca vui mới viết cho em, cho anh. Cho những người anh, người chị trong gia đình, rất lành thánh ở khắp nơi. Gia đình yên vui đầm ấm, có cửa luôn mở rộng. Và luôn goi: “anh hãy về đi, về cùng em lo phụng dưỡng gia đình”. Gia đình lành thánh, rất Kitô.
Lễ Hiển Linh Năm A Hãy cứ vui đi, dẫu một ngày Nàng hãy vui đi, dẫu một ngày Dẫu phần ba phút, góc tư giây Dẫu trong thoáng mắt nhìn như chớp Cũng đủ cho nàng quên đắng cay. Mt 1: 18-25 (Dẫn nhập từ thơ Nguyễn Bính)
Hãy vui đi, dù bạn có là nàng thơ, tạo nguồn hứng khởi cho thi sĩ. Hay chỉ là trai ngoan xứ Đạo nghèo. Vẫn cứ vui đi. Vui, vì Đức Chúa Nhân Hiền nay đà tỏ hiện. Ngài hiển hiện thân phận Đấng Mê-sia giáng hạ làm người. Với mọi người. Ngài hiển hiện với dân con nhà Đạo, là chuyện đã đành. Nhưng, còn đến cả với những người ở ngoài nữa, mới đáng vui. Vui đi bạn hỡi. Hãy vui, mà cử hành tiệc thánh. Tiệc agapè ngày Chúa hiển hiện, rất nên làm. Tiệc Chúa Hiển Linh ta cử hành hôm nay, là để mừng sự kiện thứ hai trong bốn sự kiện mà Đức Chúa tỏ lộ cho hết mọi người, ở dưới thế. Tiệc thánh Hiển Linh hôm nay, ta còn mừng kính, chứng giám cuộc tỏ hiện rất linh thiêng, thần thánh, cho muôn nước. Trước nhất, cho đám trẻ thơ nghèo hèn; giới “lang bạt kỳ hồ” chăn dắt chiên hiền, ngày Chúa đến. Tiệc Hiển Linh, là tiệc dài trong đó ta nhận ra thân phận Đức Chúa, từ Trời cao đã giáng hạ làm người. Ngài giáng hạ với con người trần thế, ngay từ buổi đầu hành trình Nhập Thể. Hành trình yêu thương cứu độ, được ghi rõ nơi trình thuật, rất hôm nay. Trình thuật Xuân Cứu độ hôm nay, thánh Mat-thêu ghi lại truyện kể về đoàn đạo sĩ từ phương xa vời vợi, ở trời Đông. Theo các nhà thần học ở Châu Á, như Linh mục Aloysius Pieris, thì có thể: các đạo sĩ hiền đến viếng Hài Nhi từ nơi xa như các nước Ba Tư, Đông Sy-ri-a hoặc Ả Rập Sa-u-đi… Nhưng, có điều chắc chắn: họ không phải là nhân sĩ địa phương dõi theo ánh sao đêm để ghé thăm Hài Nhi, Con Thiên Chúa. Về các đạo sĩ dõi ánh sao đêm, nhiều học giả định rằng: chắc đó là sao chổi hoặc sao băng, vừa loé sáng. Hoặc, ít nhất cũng là do có sự ma sát giữa các vì sao, rất “ấn tượng”. Ấn tượng nhất, là đối với các vị chiêm tinh nhìn ngắm sao đêm, tìm điềm lóe sáng. Nói gì đi nữa, tưởng cũng không thể nào thuyết phục được nhiều người. Sao lại có người thích cất bước dõi ánh theo sao dẫn đường? Bởi, sao đêm dù có di chuyển hay đứng im một chỗ, thì lúc nào sao ấy cũng ở trên đầu người, nơi xa tít mù tắp trên ấy. Đúng hơn, “sao lạ” lóe ánh ở đây, chỉ là biểu tượng nói lên: lằn sáng chợt loé cốt tượng trưng cho Giê-su Đức Chúa, Đấng luôn là Ánh Sáng dẫn đường cho toàn thể “dân gian vũ trụ”. Đề cập đến “sao lạ” hoặc “ánh sao dẫn đường”, thánh sử Mat-thêu không nói về khoa học thiên văn hoặc chiêm tinh, sáng chói. Nhưng, với bối cảnh ngôn từ được sử dụng trong Kinh Thánh, ánh sao đêm hay lằn sáng lóe lên ở đây cốt để diễn tả: Đức Chúa, qua con người của Đức Giê-su, đã rời bỏ vũ trụ thần thiêng các thánh để đến với con người, nơi trần thế. Mỉa mai thay, các vị thượng tế, thông luật thời đó, dù đã biết rõ Đấng Thiên Sai từ đâu đến, vẫn chẳng thiết tha tìm đến mà thờ lạy chiêm bái Ngài. Dân con nhà Đạo ở Do Thái hay nơi nào khác, cũng thế. Vẫn, cứ để “người dưng khác họ” sống ở ngoài, như Vua Hê-rô-đê, hoặc các đạo sĩ hiền, tìm đến với Chúa. Dù mỗi người tìm Ngài với mục đích khác nhau. Kẻ thì truy tìm để trừ khử, như Hê-rô-đê đã quyết. Người thì chỉ mong được yết bái lạy thờ, như các đạo sĩ hiền lành kia. Đạo sĩ hiền đến yết bái thờ lạy, đã tặng trao những là: Vàng, Nhũ hương và Mộc dược. Mỗi phẩm vật, dâng lên đều nhắc nhớ điều được báo trước ở bài đọc thứ nhất: “Tất cả những người từ Sơ-Va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương.” (Is 60: 6). Ở phương Đông, Vàng tượng trưng cho Vương quyền. Ở đây là Vương quyền của Đức Kitô. Nhũ hương, biểu tỏ bản chất thánh thiêng. Mộc dược, hàm ngụ ơn thương khó cứu độ Ngài lĩnh nhận cho mình, đến khi chết. Các phẩm vật này, luôn biểu thị đức hạnh, lời nguyện cầu và nỗi niềm đau khổ. Thông điệp lễ Hiển Linh hôm nay, còn tỏ cho mọi người biết rằng: với Chúa, không ai là “người dưng khác họ”. Và cũng chẳng ai là “người ở ngoài”, ngoài quỹ đạo tình thương, ngoài nhà Đạo cả. Nói một cách nôm na thì không ai là người ngoài cuộc hết. Trái lại, đối với Đức Chúa, tất cả là đàn con thân thương, Ngài yêu đều. Ngài vẫn yêu, dù cho dấu hiệu bên ngoài của những người-bị-cho-là-ở-ngoài, có khác biệt đôi chút. Khác ngoại hình. Khác mầu da. Khác cả văn hóa, sắc tộc nhà Đạo. Bởi tất cả chúng ta đều cùng chung một cha. Đều có quyền gọi Ngài là “Abba! Lạy Cha ơi! Thông điệp lể Hiển Linh hôm nay, còn mang đến với ta một điều nữa, là: Thiên Chúa không bao giờ ở xa ta. Trái lại, rất gần với ta, và với người hơn bao giờ hết. Ngài luôn thương yêu và kêu mời tất cả chúng ta kể cả người trong Đạo, hay ngoài Đạo, nam hay nữ, nghèo hay giàu. Nổi tiếng hay thấp hèn. Mạnh khoẻ hay yếu đau, hãy gần gũi nhau hơn. Nhìn lại, thì thấy đã nhiều lần, ta vẫn xử với nhau, như người ngoài. Rất dửng dưng. Rất lạnh nhạt. Dửng dưng, trong cách xử sự. Lạnh nhạt, trong tư thế gây bè lập phái, đấu tranh. Đấu tranh, nhằm giành giựt quyền lợi cho giòng họ của mình. Cho cộng đoàn. Cho phe của mình. Hoặc, cho bè nhóm sắc tộc, rất tư riêng. Đối xử với nhau như người ngoài, là từ chối thương yêu. Là, không còn kính trọng nhau như các nhân vị đồng đều. Như các người con yêu của Chúa. Dửng dưng, như tình “ở ngoài’, là chọn lựa khuynh hướng sống theo thể thức của thượng tế, các Pha-ri-sêu. Cử hành mừng lễ Hiển Linh, ta tự hỏi: ánh sao kia có là gì trong đời mình? Mà sao, các vị nhân hiền đạo sĩ cứ dõi theo mà đi? Sao người dân thành Giê-ru-sa-lem, lại không thế? Nay, Chúa gọi ta theo phương cách nào? Gọi ta đi đâu? Ngài muốn ta làm gì? Ta đặt Ngài ở đâu trong ta? Hỏi thì đã có nhiều người từng hỏi. Làm, thì cũng đã có nhiều người từng làm. Nhưng, khác nhau ở chỗ: ta đặt ưu tiên cho việc nào trước, việc nào sau? Bởi, ngày nay, thông điệp “ánh sao lạ lễ Hiển Linh” còn xa vời và lạ lùng đối với nhiều người. Vẫn có người chưa buồn khởi động tìm kiếm “ánh sao xưa”, nơi đời mình. Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta nghĩ nhiều về thông điệp “ánh sao xưa”. Thông điệp “sao” có thể chẳng đánh động ai. Chẳng hấp dẫn một người nào. Chẳng thay đổi được gì trong cuộc sống, của mỗi người. Nhưng không trễ, thông điệp Lễ Hiển Linh, là dịp để ta có thể hướng mắt tìm về “ánh sao quen”. Sao của riêng mình. Chẳng phải là, sao của “Tử vi đẩu số”, cố cụ Trần Đoàn, đầy giải đoán. Nhưng, nhất định là: “sao mai” nhắc nhở ta kia, trời rực sáng. Nhắc ta về với đường ngay, lối thẳng. Lối thẳng an bình trong cuộc sống. Trong chiêm nghiệm “ánh sao” an bình cuộc sống, ta hân hoan cất tiếng hát mừng một vì sao: Tay trong tay đôi lòng xao xuyến Ta cùng theo dõi ánh sao rời ngôi long lanh Ta cùng nhau ước tương lai đẹp tươi Sống bên nhau ngàn năm Dù đường đời muôn lối (Vũ Thành – Nhặt ánh sao rơi) Chắc chắn, khi đã theo ánh sao ngày Chúa hiển hiện, ta sống ngàn năm tươi đẹp. Ngàn năm trong hiện tại rất vui. Vui, vì Chúa “Hiển Linh” đã cho ta thấy ơn cứu độ rất thân thương. Đến với mọi người. Cả người đạo sĩ phương Đông, lẫn người lạ. Cả người thân quen nhà Chúa, lẫn người dưng. Người dưng hay người nhà, hãy cứ vui. Vui mừng ngày Chúa đến. Rất Hiển và rất Linh.
Chúa Nhật: Chúa Chịu Phép Rửa năm A “ Yêu là để xem mình khổ ít hay nhiều” Từ cổ đến kim, đông lẫn tây Thơ tình yêu chật cả trời mây Chẳng câu nào đúng tim tôi cả Biết lấy gì đây, để tỏ bày” Mt 3: 13-17 (dẫn nhập từ thơ Luân Hoán) Vâng. Yêu trước hết là ‘để tỏ bày”, và rồi là “để xem mình khổ ít hay nhiều” . Nhưng, hỏi rằng: nhà thơ nay đà hiểu biết ? Nếu biết mình khổ ít hay nhiều, thì còn gì đâu nữa để tỏ bày. Tỏ bày tình yêu? Tỏ bày lòng biết ơn? Có như điều Chúa tỏ bày, nơi trình thuật? Trình thuật hôm nay, thánh Mat-thêu ghi rõ về một tình yêu tuy “ không chật cả đất trời”. Nhưng lại rất thật. Rất đúng Sự Thật, trong toàn cõi trời- mây- nước, chốn gian trần. Chốn trần gian hôm nay, có Đức Chúa tỏ lộ Thiên tính của Ngài qua sự kiện thứ ba trong đời Ngài. Ở đây, là tỏ bày Thiên tính của Ngài qua Thanh Tẩy. Ngài đã chịu Thanh Tẩy từ thánh Gio-an Tiền hô, trên sông có giòng chảy an bình từ thuở đó. Thuở Đức Chúa chịu Thánh Tẩy là để bắt đầu hành trình cứu độ. Nhưng, có lẽ nhiều người vẫn còn thắc mắc: là Thiên Chúa Ngôi Hai như Đức Giê- su, mà sao Ngài vẫn cần được tẩy rửa, để làm gì? Đi thẳng vào câu trả lời, ta sẽ nói: Đức Giê-su làm thế là để chứng tỏ Ngài muốn kết hợp trọn vẹn với nhân gian nơi trần thế. Như người phàm. Làm người thường, Ngài cũng là thành viên ở chốn trần thế . Cũng mặc lấy xác phàm như mọi người. Nhưng tuyệt nhiên, Ngài không vướng mắc “ tham , sân, si” hoặc tội lỗi như bất cứ người phàm trần nào khác. Ngài chấp nhận mặc lấy cho mình sự chết. Nhưng Ngài đã sống lại để đưa loài người về với Cha. Việc Chúa tỏ bày nơi giòng chảy Gióc- đan, chứng minh Thiên tính của Ngài được Chúa Cha minh nhiên xác nhận. Xác nhận thiên tính nơi going chảy, Cha muốn nói một điều, là: Đức Giê-su đã nhận bài sai do Cha gửi đến, sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ do Chúa uỷ thác. Thoạt vào lúc Ngài bước lên khỏi going nước, Thiên Chúa Cha đã minh xác điều mà mọi người cần ghi tạc nơi lòng mình: “ Này , là Con yêu của Ta. Ta hài lòng về người” (Mt 3:17). Thiên Chúa là Cha đã tỏ bày niềm an vui hài lòng, qua cảm nghiệm của Đức Giê –su như mọi người đều thấy vào Lễ ngũ tuần. Sự hài lòng từ Thiên Cháu là Cha, còn mang ý nghĩa của một Thanh tẩy, vào độ trước. Và niềm hài lòng từ Thiên Chúa là Cha, còn là điều để chúng ta cũng như tất cả những người có được niềm tin nơi Chúa, sẽ nhận biết. Cũng thế, mọi cuộc thanh tẩy nhằm tháp nhập người phàm vào với tình yêu của Cha, cũng đều mang ý nghĩa tương tự. Đó là ý nghĩa mà Thiên Chúa là Cha, nay tỏ bày là Ngài đã hài lòng. Bài đọc thứ hai, thánh Phêrô cũng lại xác nhận thêm một lần nữa Thiên tính của Đức Giê- su được Thiên Chúa là Cha hài lòng gửi Thánh Thần Chúa đến chứng giám, khi Ngài chịu thanh tẩy:“Thiên Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong người.” (Cv 10:38). Xức dầu, là hành động tấn phong Ngài lên ngôi vị Đức Vua và Đức Chúa. Tương tự như ở Do Thái, xức dầu tức xác nhận Đức Giê-su là “ Đấng Thiên Sai” có Thánh Thần Chúa đến ngự. Và, Chúa chịu Thánh Tẩy, là Ngài chấp nhận bài sai, rao giảng Nước Trời, do Chúa gửi đến. Bài đọc thứ nhất, câu đầu sách ngôn sứ I-sai-a cũng vang lên lời xác nhận tương tự. Xác nhận này chính thức công nhận Thiên tính của Đức Giê-su là Chúa,có từ Cha. Xác nhận là công nhận có Thần khí Chúa đến ở cùng: “Đây, người tôi trung Ta nâng đỡ … ta cho Thần Khí của Ta ngự trên Ngài.” Và , lời minh xác “ Thần khí Chúa “ đến ở cùng”, được Đức Giê-su long trọng công bố, khi Ngài ngồi giảng ở hội đường: “ Thần Khí Chúa ở trên tôi, bởi Người đã xức dầu cho tôi, người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó…” (Lc 4:18). Suy niệm sự kiện Đức Chúa tỏ bày qua Thanh tẩy, là dịp để ta nhớ lại ơn thanh tẩy mà ta đã và đang nhận lĩnh kèm theo một minh xác Thiên tính của Đức Giê-su , đang ở cùng người chịu thanh tẩy. Lâu nay, người nhà Đạo chúng ta thường nghe nhiều giải thích đơn thuần về Bí tích thanh tẩy như một động tác ‘cất đi tội nguyên tổ” và để ta “ trở nên con cái Chúa”. Nhiều người vẫn coi việc thanh tẩy như nghi thức một -lần rồi-thôi. Nghi thức ấy, do cha mẹ áp đặt từ nhỏ, để khi lớn lên, ta không thể đổi ý, gặp trường hợp bất ưng. Tuyệt nhiên, giống như mọi bí tích khác, Thanh tẩy không phải là nghi thức riêng rẽ, tách rời khỏi sinh hoạt của cuộc sống. Thanh tẩy, luôn có có liên quan đến toàn bộ cuộc sống của ta. Dù ta có được tẩy rửa lúc còn bé, hay vào khi khôn lớn, điều cần nhớ, là: khi chịu thanh tẩy, ta đã chính thức trở nên thành viên của cộng đồng dân Chúa. Khi chấp nhận thanh tẩy, ta đã là con của Đức Chúa. Có Thánh Thần Chúa ngự đến. Có Chúa ở cùng. Có Thánh Thần ngự đến và có Chúa ở cùng, ta đương nhiên là chi thể của cùng Thân Mình Đức Kitô. Chính đó là Hội Thánh. Chính đó là cộng đoàn các kẻ tin vào Chúa. Và từ nay, không gì có thể tách rời ta khỏi lòng mến của Đức Chúa. Không có gì có thể khiến ta rời khỏi cộng đoàn những người luôn yêu thương, và nâng đỡ lẫn nhau. Chính vì thế, việc thanh tẩy cho người lớn, vẫn được Hội thánh thực hiện vào lễ đêm khi Đức Chúa Phục Sinh. Tức là, là trước mặt toàn thể cộng đoàn Hội thánh , ta được công khai tuyên bố trở thành con của Đức Chúa. Đó là ân huệ. Đó là quà tặng từ Đức Chúa Phục Sinh. Tựa như công việc của Đức Kitô, Thanh tẩy đòi ta có quyết tâm san sẻ niềm tin yêu với mọi người. Bằng lời nói. Bằng hành động. Tuyệt nhiên, đây không phải là động tác nhằm “cứu vớt một linh hồn”, hpặc để “sống cuộc đời trong trắng”, rất thanh cao. Nhưng là nghĩa cử thánh thiêng, từ nơi Chúa. Xem như thế, khi lĩnh nhận Thanh tẩy, ta được kêu mời sống chứng nhân cho Lời của Chúa. Sống làm muối cho đời. Là đèn rọi sáng chốn tối tăm. Nói tóm, ta được mời đến để kết hợp với mọi người trong cộng đoàn tình thương, con cái Chúa. Kết hợp, nhằm dựng xây Nước Chúa ở trần gian. Nói như của ngôn sứ I-sai-a, việc kết hợp đựơc áp dụng vào Đức Kitô trước nhất. Nhưng cùng một lượt, cũng áp dụng cho cả chúng ta, nữa. Bởi, chấp nhận ơn thanh tẩy, ta đã trở thành một Kitô -khác. Chứ không trở nên người nào khác với Đức Kitô. Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta cầu cho mọi người nhận thanh tẩy, biết sống trong cộng đoàn dân Chúa, cũng được nghe lời minh xác , từ Cha: “Này , con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về nó.” (Mt 3:17). Trong vui mừng, được Cha minh xác như thế, ta phấn khởi lên mà hát lời ca âu yếm của mọi thời: Về đây nghe em Về đây thả ước mơ đi hát dạo để chào mừng bằng hạt sương mai để bằng lòng, ngọt ngào hấp hối và hận thù người người lắng xuống rồi tìm nhau như tìm xót xa… trong lúc lệ đã đầy vơi Này hồn ơi, lên cao lên cao Đem ánh sánh hân hoan trên trời Rọi vào đời cho ta tinh cầu yêu thương”(Trần Quang Lộc-Về đây nghe em) Vâng. Em hãy về đi. Về mà xem Chúa chịu thanh tẩy. Để rồi, đem ánh sáng hân hoan trên trời rọi vào đời mình cho tinh cầu yêu thương. Và khi ấy, yêu là không còn “để xem mình khổ ít hay nhiều” nữa. Mà là, “tình yêu nay chật cả trời mây”. Vì Chúa đã chịu Thanh Tẩy. Vì Ta. Cho ta.
Chúa Nnhật 2Thường Niên năm A
“Thế gian biến đổi, vũng nên đồi” Cám ơn đệ tử theo sư phụ Đã dạy cho thầy môn khổ đau Hôm nay sinh nhật, không thắp nến Nhưng thắp trong hồn, hai mắt sao. (dẫn nhập bằng thơ của Quan Dương)
Ga 1: 29-34 Sư phụ cám ơn đệ tử, là chuyện ít thấy. Hiếm khi thấy chuyện thày trò dạy cho nhau môn khổ đau, vào ngày sinh không thắp nến. Và, hiếm hơn nữa, là cả thầy lẫn trò đều có quyết tâm biến đổi thế gian, vũng nên đồi. Vũng - đồi đã cải biến vào chuỗi ngày đầu đời Thầy rao giảng. Rất Nước Trời. Bài đọc hôm nay, nhấn mạnh về hai sự kiện trong đời của Đức Chúa: phong cách của Ngài và sứ vụ giảng rao Nước Trời, Cha trao Ngài. Là đệ tử dấn thân bước theo Thầy, môn đồ Chúa biết rõ Thầy là Ai. Ai sai Thầy đi? Thầy đi để làm gì? Theo định nghĩa, đệ tử là người cất bước theo chân Thầy. Len lỏi mọi ngõ ngách cuộc đời, để rồi cùng Thầy thực hiện ý định mà Cha bày tỏ. Ý định của Cha, là những gì được nói đến nơi trình thuật, rất hôm nay. Trình thuật hôm nay, thánh sử ghi lại sự việc diễn ra tại sông Gio-đan, khi đấng thánh Tiền Hô chỉ vào Đức Giê-su, và nói: “Đây là Con Chiên Thiên Chúa, Đấng Cứu Chuộc trần gian”. Từ lúc ấy, danh xưng “Chiên Thiên Chúa” được loan truyền khắp mọi nơi. Nhưng, sao cứ lại gọi Thầy là “Chiên Thiên Chúa”? Ngược giòng lịch sử, vào thời Cựu Ước, Gia-vê hối thúc vua quan xứ Ai Cập hãy để con dân Do Thái ra khỏi đất nước tạm dung, mà về nhà mình. Nếu không, mọi con trẻ ở đất Ai Cập sẽ phải chịu nhiều hậu quả như: dịch bệnh, chết chóc, khó khăn. Trong khi đó, con dân Do thái lại được bảo: muốn thoát chết hoặc lành lặn, hãy bôi máu chiên lên cửa, sẽ được Yavê giải phóng, cứu vớt. Và cứ thế, máu của Chiên Con Thiên Chúa, mang ý nghĩa giải thoát cứu độ, từ dạo ấy. Với con dân nhà Đạo, Đức Giê-su Kitô, Đấng đã giải phóng cứu độ mọi người khỏi ách xích xiềng của ác thần/sự dữ cũng như lỗi phạm. Ngài mang tước hiệu “Chiên Thiên Chúa” mà thánh Gio-an Tẩy Giả, từng tuyên dương, Với tước hiệu này, Ngài chấp nhận mọi hy sinh đau khổ để cứu con người. Đưa con người về với Cha. Ngang qua cái chết và sự hy sinh đau khổ, ơn cứu độ được ghi dấu bằng máu Chiên Con Thiên Chúa, vào cả thời xưa, lẫn hôm nay. Nhờ máu đào nơi đau khổ và cái chết của Đức Giê-su, con dân nhà Đạo chúng ta được ơn giải thoát khỏi cảnh trầm luân, nơi kiếp người. Ơn cứu độ từ Đức Chúa, là ơn giải thoát con người trên trần thế vì tình yêu. Do tình yêu. Như Ngài minh định vào buổi tạ từ, chiều hôm ấy. Và, trong yêu thương cứu độ, Ngài đã thực hiện ý định của Cha, suốt đời Ngài. Thực hiện ý định bằng chính sự sống của Ngài. Ngài hy sinh, không chỉ để cứu thoát các đệ tử, tôi tớ hay người nhà Đạo, thôi. Mà, tất cả mọi người. Hơn thế, Ngài đặt tất cả mọi người trong quan hệ với bạn bè người thân, chứ không chỉ giữa thầy với đầy tớ. Ngài từng xác định điều này: “Thầy gọi anh em là bạn chứ không phải đầy tớ.” Cùng một ý tương tự, thánh Gio-an Tông Đồ nói về người Thầy rất Nhân Hiền bằng các danh xưng rất khác, như: Ngôi Lời, Con của Cha, Chiên Thiên Chúa, Con Thiên Chúa, Đức Kitô Đấng Thiên Sai. Giê-su thành Na-da-rét, Con của Ông Giu-se, Vua dân Do Thái, Con của Người, vv… Đó cũng là ý nghĩa của tước hiệu được Hội thánh nhắc lại trong các bài đọc hôm nay.
Bài đọc thứ nhất, Hội thánh nói về Đức Giê-su như người đầy tớ: “Israel, ngươi là đầy tớ của ta.” Và, về Đức Kitô, như “Đấng tạo nên tôi nơi cung lòng của đầy tớ Ngài.” Và, việc của người đầy tớ là “Đưa Gia-cóp trở về với Ngài..” Ngoài ra, còn một danh xưng khác Chúa bày tỏ cho thấy: Ngài là Ánh sáng thế gian. Tỏ bày điều này, Ngài muốn hết mọi người nhận biết và có kinh nghiệm về ơn cứu độ, Ngài thực hiện. Là con dân Đức Chúa, mỗi người và mọi người đều đã và sẽ có kinh nghiệm riêng về sự thật, tình thương và tự do mình nhận lĩnh, qua Phúc Âm. Nhờ Phúc Âm, ta biết được Đức Giê-su thực hiện sứ mạng cứu độ trong suốt cuộc đời rao giảng của Ngài. Sứ mạng ấy, là đem dân con thế giới về với Chúa, Đấng là Đầu và Cuối Hết mọi sự. Sứ mạng của Đức Chúa, cũng là sứ mạng của mọi người. Không thể tự nhận mình là đồ đệ của Chúa được, nếu không đích thực nghe biết Lời Ngài. Là đệ tử ngoan hiền, ta đương nhiên trở thành người rao truyền Lời Ngài, cho đúng cách. Làm như thế, ta nhận lãnh trọng trách không chỉ mong riêng hồn mình được cứu rỗi. Hoặc, chỉ riêng mình ta là đạt Vương Quốc Nước Trời, thôi. Nhưng, là san sẻ niềm tin – yêu với người khác. Làm đệ tử theo chân Thầy, là giúp mọi người nhận ra dung mạo Đức Kitô, nơi người khác. Nhận và biết Lời Hằng Sống Ngài ban, là am hiểu và sống đích thực tình yêu của Chúa, nơi đời thường. Là, sống ở bất cứ nơi nào, ta vẫn thực hiện niềm tin – yêu Chúa dạy, cho bất cứ ai. Dù là người dưng khác họ, người hàng xóm, xứ đạo, hoặc ở nơi công sở, nhất nhất chứng tỏ mình là đệ tử chân truyền quyết bước theo chân Thầy, không ngơi nghỉ. Cử hành tiệc thánh hôm nay, ta cầu mong được hợp tác dựng xây Nước Trời, ở mọi nơi. Cầu và mong sao, bất cứ nơi nào ta đặt chân đến, đều sẽ ghi hằn dấu ấn tình yêu thương hài hòa, của Đức Chúa. Ghi cả, niềm tin - yêu đặc thù của người đồ đệ. Của đệ tử chân truyền luôn dấn thân, tiến bước. Những đệ tử và đồ đệ cương quyết giảng rao Tin Mừng giải thoát, cứu độ. Rao giảng, không chỉ bằng lời. Nhưng, bằng chính cuộc sống cụ thể, ở giữa đời. Trong quyết tâm rao giảng như thế, ta hân hoan cùng người nghệ sĩ khi xưa hát rằng: “Khúc ca chơi vơi Khắp nơi… khắp nơi Người ơi! Anh em ta đi muôn phương xa, non xanh bao la Ta vui câu ca, những đêm xa nhà cùng ngồi bên đá. Nhịp đàn vui bay theo gió qua Mang vó câu lên đường Đem chí trai can trường Đời ta sống thác vì cố hương.” (Văn Phụng – Vó câu muôn dặm)
Đúng thế. Đời ta sống là vì Cố Hương. Hay còn gọi là Quê Trời. Cố hương hay Quê trời, là Vương Quốc Nước Trời, ngay miền đất phía dưới, chốn địa cầu nơi đây. Nơi nghèo buồn, có đệ tử chân truyền. Có Thầy Chí Thánh thân thương, tất cả cùng nhau biến đổi vũng nên đồi. Những đồi và vũng được cải biến, để tình “Chiên Con Thiên Chúa’ giải thoát cứu độ, hết mọi người. Trong cũng như ngoài nhà Đạo.
Chúa Nhật 3 Thường Niên Năm A Gió lùa ánh sáng vô trong bãi Gió lùa ánh sáng vô trong bãi Trăng ngậm đầy sông, chảy láng lai Buồm trắng phất phơ như cuống lá Lòng tôi bát ngát rộng bằng hai. Mt 4: 12-23 (dẫn nhập thơ Hàn Mặc Tử) Ánh sáng, nhà thơ hôm nay ghi nhận, không là hào quang sáng chói, “lùa trong bãi”. Nhưng, là ảnh hình Chúa Kitô sáng mãi với thế gian. Ảnh hình Ngài tỏa sáng như ban ngày. Sáng từ thời Cựu Ước mãi đến hôm nay. Nơi trình thuật sáng chói, ngày Chúa gọi. Trình thuật sáng chói hôm nay, đề cập nhiều đến ánh sáng Vương Quốc Nước Trời, đem đến những canh cải đổi thay, những đáp ứng lời mời của Thầy Chí Thánh, đang toả sáng. Bước đầu đường đời Ngài rao giảng, Đức Giê-su cũng đã mời và đã gọi. Ngài mời gọi đám dân đen thuyền chài nhỏ bé, rất tầm thường, đưa các vị ấy vào chốn toả sáng “lùa trong bãi”, làm đồ đệ. Khởi đầu công cuộc rao giảng, Đức Giê-su đã xuất hành từ thị trấn Na-da-rét. Tiếp theo đó, Ngài đi Ca-pha-Na-Um, một thị trấn bé nhỏ bên bờ Ga-li-lê nơi vùng biển mang tên “Zê-Bu-Lun” và “Náp-Ta-Li”. Đi như thế, Ngài đã ứng nghiệm lời tiên tri I-sa-ya, nơi Cựu Ước, có lời rằng: “Hãy canh cải, vì Vương Quốc Nước Trời đã gần kề”. Nước Trời đã gần kề nói ở đây, không là Thiên đường sống ở trên cao, nơi ta đạt đến sau khi chết. Nhưng chính là cộng đoàn tiên khởi, gồm con dân nhà Đạo gốc Do Thái giáo nay đà hoán cải. Thoạt tiên, người Do thái rất ngại ngần, vì không quen sử dụng trực tiếp danh tánh của Chúa, mỗi khi trao đổi hoặc nguyện cầu. Vì thế, sử gia Mat-thêu mới phải viết tả về Đức Chúa, bằng lối gián tiếp như “thiên đường”, hoặc bằng thể thụ động nơi động từ, vẫn nghe quen. Với nhà Đạo, cụm từ Vương Quốc xuất từ ngôn ngữ cổ của Hy Lạp bằng từ “basileia”. Basileia trước nhất có nghĩa: vương quyền, quy luật và triều đại. Cũng từ đó, khi nói Vương Quốc Nước Trời đã gần kề, không có nghĩa bảo rằng: ta đã gần đạt chốn đền đài cung điện đầy nguy nga. Dù ở đời này hay đời sau. Thành thử, lời khuyên Hãy canh cải là có ý bảo: hãy đặt mình dưới sức mạnh/quyền uy của Đức Chúa. Hãy sống vì Vương Quốc Nước Trời. Vì Vương Quyền của Đức Chúa. Đặt mình sống vì Vương Quyền của Chúa, là đặt mình trong tương quan đầy thương mến với Trời. Và với Chúa của ta. Đặt mình trong tương quan, là sống trong môi trường nơi đó có các giá trị đáng để ta trân trọng thực hiện như: tình yêu, lòng thương xót, sự công chính, tự do, sống với cộng đồng, sống trong an bình… Nhất nhất đều là những điều, ta vẫn cần thắng lướt trong cuộc sống. Đặt mình trong tương quan với Chúa - với người nơi Vương Quốc Nước Trời, còn là biết canh cải, đổi thay, đáp ứng lời mời của Đức Chúa. Nói đến canh cải - đổi thay, người người thường chỉ nghĩ là: ta phải ưu tư áy náy về những lỗi phạm, mình đã mắc phải. Nhưng, mời gọi của Đức Giê-su còn đi xa hơn thế nữa. Ngài không muốn ta xóa sạch mọi tàn tích của lỗi phạm trong quá khứ. Bởi lẽ điều ấy, chẳng thể nào làm được. Canh cải đổi thay là chuyển hướng hành động từ ngày hôm nay, đến lai thời. Canh cải đổi thay, cụm từ bắt nguồn từ metanoia tiếng Hy Lạp. Cụm từ trên, bao gồm một thay đổi từ gốc rễ mọi suy tư nghĩ ngợi. Quyết hướng nhìn về cuộc sống theo đường lối mới. Đường lối được Tân Ước bộc lộ trong trọn bộ Thánh Kinh. Chỉ khi nào có quyết tâm canh cải đổi thay tận gốc rễ như thế, ta mới trở nên thành viên của Vương Quốc Nước Trời. Mới đặt mình dưới sức mạnh chuyển đổi nhờ uy lực của Đức Chúa. Hơn nữa, lời mời gọi của Đức Giê-su là yêu cầu ta không chỉ sám hối về những gì mình lỗi phạm trong quá khứ, quyết không lập lại. Nhưng là đổi thay trọn vẹn lối hành xử, để tháp nhập công việc Chúa muốn ta làm. Công việc ấy, là hợp tác cùng mọi người nhất định chấm dứt cơn túng cực bần hàn, của người dân đen trên thế giới. Là, chấm dứt nạn đói nghèo, thất nghiệp. Là, vứt bỏ tính hờn - ghen nơi cộng đồng nhà Đạo và dứt đoạn lòng “tham - sân – si” quá mức độ. Chấm dứt lòng ham mua sắm quá khả năng. Lời mời gọi của Chúa, là cốt để cho dân con nhà Đạo biết tháp nhập vào với Vương Quốc Nước Trời. Ở đây. Ngay bây giờ. Lời Ngài mời gọi, được gửi đến không chỉ với dân con nhà Đạo, nhưng cả muôn dân nước, khắp nơi trên địa cầu. Vương Quốc Ngài lập, cần vượt trên không gian - thời gian, vượt biên giới của nhà Đạo. Nước Ngài mời gọi, cần thể hiện bằng nhiều cách. Ở nhiều nơi. Cả những nơi, Đạo Chúa chưa hội nhập được. Bởi, trên thực tế, có đến 80% dân số thế giới chưa biết đến Tin Mừng của Đức Chúa. Chưa biết Lời Ngài, vì Lời Mời Gọi ấy chưa phổ biến khắp dương gian. Thế nên, ta cần chuyển tải và coi Lời Ngài như mục tiêu đời sống, của mọi người chúng ta. Người nhận rao giảng Nước Trời, vào buổi đầu đời, chẳng phải là những kinh sư, lẫn Pharisêu, Biệt Phái. Mà là, giới thuyền nhân chài lưới, rất bình dân. Những người cả năm không cần sách bút, lẫn kinh kệ. Nhưng lại hiểu Lời, hơn ai hết. Và, có điều hi hữu nữa là: lời mời gọi Chúa gửi đến được chuyển tải ngay vào lúc các ngài làm công việc chài lưới. Chính vì thế, Chúa vẫn xác nhận: Thầy chọn các con, chứ không phải các con chọn Thầy.” Với các môn đệ, metainoia (canh cải) còn có nghĩa trọn vẹn thay đổi lối sống trở về trước. Là, làm như các môn đệ gốc thuyền chài: dứt khoát bỏ thuyền, bỏ lưới bỏ cả giòng sông, quyết theo Thầy. Quyết theo Thầy, nên các ngài hoàn toàn tin tưởng nơi Thầy. Tin, đến độ bỏ lại đằng sau mọi phương tiện sống, kế sinh nhai. Bỏ mặc mà đi, dù không rõ thuyền về bến nao, đi nơi nào. Cũng tựa như Thầy đã dứt khoát bỏ rời thôn làng Na-da-rét. Bỏ mẹ cha, bỏ cả cuộc sống tay nghề thợ mộc chân phương cần cù, vào mọi lúc. Bỏ là như thế. Nhập vào với Đạo là như vậy. Bởi từ nay, mối lo âu không biết mình lấy gì mà sống, cho bằng sự lo lắng quan tâm đến anh chị em đồng loại của mình, sống sao đây. Xem như thế, đáp ứng lời mời của Đức Chúa trong canh cải, là khởi sự sống đời rất mới. Một đời có những hỗ tương đùm bọc hết mọi người. Mọi người, nơi cộng đồng nhân loại, đang ngóng chờ. Bởi, cộng đồng này giờ đây đã trở thành gia đình thân thương, rộng hơn. Lớn hơn. Yêu thương nhau hơn. Về yêu thương người cùng cộng đồng, thánh Phao-lô cũng đã căn dặn cộng đoàn dân Chúa ở Cô-rin-thô, bằng những lời đanh thép nhưng thật tình: “Tôi khẩn khoản kêu mời anh em, nhân danh Đức Kitô, hãy thuận thảo với nhau để không có sự chia rẽ nơi anh em và anh em sẽ hoàn toàn hiệp nhất trong tư tưởng và thần trí”(1Cr 1:10). Lời mời gọi canh cải và biến đổi hôm nay, không phải để Đức Chúa thích nghi với lối sống ta đã lựa chọn, nhưng để ta trở nên xứng hợp với thị kiến của Ngài về sự sống. Làm như thế, không phải là ta đang thực hiện một hy sinh, đổi chác. Nhưng ngược lại, để bảo rằng ta đang trên đường ngay nẻo chính. Con đường dẫn ta đến thành tựu, Chúa bảo ban. Trong hân hoan thực hiện cuộc canh cải, ta hiên ngang cất cao lời ca yêu từng hát thuở nào: Yêu là tình dâng cao Gió lao xao ngả hàng phi lao Phút ái ân đắm say tâm hồn Nhớ mãi đêm nào bên nhau. Yêu là thêm thương đau Với xót xa lệ tình khôn lau Biết nói sao những khi âu sầu Những khi úa nhầu tâm tư. (Văn Phụng – Yêu)
Vâng. Trong cộng đoàn Nước Trời ở trần gian, sống yêu cũng có những lúc là thêm thương đau. Là, lệ tình khôn lau. Nhưng, hãy cứ yêu như Đức Chúa bảo ta yêu. Yêu rất nhiều. Yêu ngay bây giờ. Và mãi mãi vẫn cứ yêu. Như “gió lùa ánh sáng vô trong bãi”. Yêu, “với lòng bát ngát rộng bằng hai”. Chúa Nhật 4 Thường Niên Năm A “Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa” Người có nghe xôn xao muôn tinh tú Người có nghe náo động cả muôn trời? Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời Để ca tụng , bằng hương hoa sáng láng. Mt 5: 1-12 (dẫn nhập từ thơ Hàn Mặc Tử)
Thơ mầu nhiệm ra đời, nghe xôn xao náo động muôn tinh tú. Náo động, phải chăng người thi sĩ muốn nói đến mầu nhiệm cứu chuộc dân gian nơi trần thế? Bằng Hiến Chương/Cương Lĩnh Nước Trời? Trình thuật Cương Lĩnh hôm nay, là những chương đoạn về hạnh phúc ở trần gian. Nơi đất miền thân thương, dẫy đầy phúc đức có chen lẫn những cực hình. Hiến chương/Cương lĩnh Nước Trời mà thánh sử lược ghi, là để người người được thấy dung mạo Đức Chúa, một Mô-sê rất mới. Giống hệt như Môsê thời buổi trước, Đức Giê-su nay khởi đầu cuộc đời Ngài giảng rao bằng 5 bài giảng thuyết có những đề xuất, rất nghịch thường. Giống hệt như sách Ngũ Thư của Cựu Ước, Hiến chương Hạnh phúc Chúa ban hành trên non cao chốn núi vắng, là để tỏ bày cho người Do thái biết về đường lối Chúa dạy. Tức, những điều Ngài muốn ta thực hiện, trong cuộc sống. Bài thuyết giảng đầu đời Chúa tuyên bố, không là băng hình đậm nét về những sự kiện vừa xảy ra trên núi thánh. Mà, là sưu tập tóm tắt những lời vàng Thầy gửi đến với đồ đệ rất thân thương. Lời Thầy khuyên dạy sẽ giúp những ai dấn bước theo Thầy, biết đường nghe theo mà sống những chuỗi ngày hạnh phúc, với anh em. Núi thánh ở đây, là địa điểm Thầy ban hành Hiến Chương mới. Là, điểm mốc lịch sử nơi diễn tiến mọi sự kiện đổi đời, có từ Thầy. Vị thế Thầy ngồi khi tuyên bố Hiến Chương Hạnh Phúc, nói lên quyền uy rất mực của Đấng Vị Vọng, rất Tối Cao. Cách Chúa ngồi giảng rao, còn diễn tả quyền uy thế thượng mà các vị cha chung trong Giáo hội, vẫn đương làm khi có phán quyết quan trọng, gửi đến con dân. Phán quyết quan trọng, là quyết định có liên quan đến cuộc sống hạnh phúc của mỗi người. Cho mọi người. Phán quyết Chúa ban, là Hiến Chương còn hệ trọng hơn cả Mười Điều Giáo Lệnh Mô-sê rao truyền, vào thuở trước. Các giáo Lệnh Mô-sê chuyển giao, là luật sống cho con dân Do Thái để thi hành, không mấy khó. Không khó, vì luật là luật chẳng cần đến tình thương. Chẳng cần phải tôn trọng. Cứ theo phương cách vị kỷ, tập trung vào chính mình. Hệt như thái độ chàng thanh niên rất giàu mà Tin Mừng từng nhắc đến: anh giữ trọn đủ 10 điều, từ hồi nhỏ. Giữ, nhưng chẳng cần tình thương yêu tha thứ. Anh là công dân tốt, nhưng không thể là đồ đệ đúng nghĩa của Chúa. Hiến chương Thầy công bố, không là giới lệnh rất dễ làm. Tuy rằng, mỗi điều khoản bắt đầu bằng cụm từ “Phúc thay!”. Cụm từ này, xuất xứ từ tiếng Hy Lạp makarios, hoặc felix, tiếng La-tinh, cả hai bao hàm ý niệm hạnh phúc, rất cao trọng. Muốn am hiểu niềm hạnh phúc Chúa tuyên ban, có lẽ cũng nên am tường bối cảnh Nước Trời, Ngài tỏ bày. Tức, cần có tương quan tốt đẹp giữa ta và Đức Chúa. Cần chấp nhận Ngài là Chúa, Đấng hướng dẫn cuộc đời mà mọi người nên giữ. Về bối cảnh Nước Trời, không chỉ người giàu sang, thành đạt hoặc quyền uy mới là người cao trọng, nhiều hạnh phúc. Trái lại, chỉ người hiền biết chấp nhận khổ đau mới đích thực là người được Chúa chúc phúc. Đây, không hẳn là hiến chương bình thường, cho muôn nước. Nhưng là Hiến Chương Hạnh Phúc Nước Trời Chúa đã ban. Hiến chương Hạnh Phúc Ngài ban, chú trọng nhiều đến nhu cầu thiết thực đổi thay cách sống. Đổi cả quan niệm về giá trị cuộc đời. Giá trị, nơi uy lực của kẻ yếu mềm, bị bỏ rơi. Tìm hiểu ý nghĩa đích thực của Hiến Chương Hạnh Phúc, mọi người sẽ nhận ra điều Chúa thách thức lối suy tư bình thường, theo qui ước. Có tìm và có hiểu, ta mới thấy được ý nghĩa Ngài đưa ra: *Hạnh phúc thay, người có tinh thần khó nghèo vì Nước Trời là của họ: người có tinh thần khó nghèo chính là người biết phó mặc hoàn toàn cho Đức Chúa. Có thái độ như thế, người người mới thực sự bước vào triều đại của Ngài. Không ỷ vào những gì mình đang có. *Hạnh phúc thay cho người sầu khổ, vì họ sẽ được ủi an: sầu buồn và khổ đau nói ở đây, không là tâm trạng của người vừa có mất mát. Mất bạn bè. Mất người thân. Nhưng, còn vì ác thần/sự dữ cứ xảy đến với thế giới nhân trần. Nên, sầu buồn và khổ đau vẫn cứ đến. Hạnh phúc, là bởi họ vẫn cùng với mọi người đã giáp mặt khổ đau. Giáp mặt và sẻ san, chứ không bỏ chạy. *Hạnh phúc thay cho người mềm yếu, vì họ sẽ thừa hưởng trái đất này: cụm từ “mềm yếu” trong Tin Mừng thánh Mat-thêu xuất từ tiếng Hy Lạp praus có nghĩa là: từ bi, bác ái. Trái ngược hẳn tính kiêu căng trịch thượng, chèn ép hoặc bạo tàn. Điều Chúa nói, ám chỉ sự tôn kính, tính hiền hoà phải có, với mọi người. Đây, còn là thái độ lùng kiếm bản chất thiện căn hầu tỏa sáng khắp nơi. Điều này trái với tính nhút nhát, đớn hèn mà người Do Thái đương thời thường lây nhiễm. *Hạnh phúc thay, những ai đói khát sự công chính, vì họ sẽ được no đầy: điều Thầy Chí Thánh muốn nói, là: những ai sống ở đất miền ứ tràn những của ăn cùng thức uống, sẽ chẳng bao giờ có được kinh nghiệm về sự đói khát người dân vùng sa mạc, vẫn hứng chịu. Người đói khát sự công chính mà Chúa nói, từng hiến trọn công sức và cuộc đời ngõ hầu tái tạo công bằng và bình an ở xã hội, họ đang sống. Những người như thế, chắc chắn thuộc về Triều đại Nước Trời. Làm Chúa yên vui. *Hạnh phúc thay,những ai có lòng thương xót vì sẽ được xót thương: đây không cốt ý chỉ sự thương hại hoặc cảm xúc hời hợt, nhưng là tâm tình thương cảm sẻ san. Tâm tình bước vào với nỗi niềm buồn đau, nơi người khác. Những người như thế, chắc chắn sẽ được Chúa đoái thương. Ở đoạn khác trong Tin Mừng, Đức Giê-su cũng khuyên môn đệ mình bắt chước lòng thương yêu của Đức Chúa. Điều này có nghĩa: ta hãy bỏ qua một bên mọi thành kiến lẫn ác cảm. Bỏ mọi ghét ghen miệt thị trong giao tiếp, đối xử. *Hạnh phúc thay, những ai có tâm hồn trong trắng vì họ sẽ được diện kiến Đức Chúa: trong trắng ở đây không là sự trinh trong xác thịt. Nhưng, nhìn sự vật với cặp mắt không thành kiến, méo mó. Không kỳ thị hoặc có đầu óc hẹp hòi như các luật sĩ đầy xung khắc, vị kỷ. Có tâm hồn trong trắng, là người nhận ra tình yêu Đức Chúa đang ở với họ. Người như thế quả thật họ đang có phúc. *Hạnh phúc thay, những người biết dựng xây hòa bình, vì họ được gọi là con Thiên Chúa. Hạnh phúc là phúc cho ai hoạt động cho việc hòa giải, hòa hợp ở khắp nơi. Hòa giải - hòa hợp, không chỉ bãi bỏ tâm tình kình chống mà thôi. Nhưng còn là, đến với nhau. Chữa lành cho nhau. Cùng nhau kiến tạo sự hòa hoãn trong gia đình. Nơi phố chợ. Tại công sở. Ở chốn thị thành. Bình an trong chung sống, không để cho bất cứ ác tậm sự xấu được tồn đọng với nội tâm. Sự xấu, chính là thành kiến, xung khắc, kỳ thị; và cả đến những khai thác, bóc lột nữa. Tóm lại, có dựng xây hòa bình, mới tự nhận mình là dân con Đức Chúa. *Hạnh phúc thay, những người bị bách hại vì sự công chính, bởi Nước Trời thuộc về họ: ở đây, có lẽ có người sẽ hỏi: tại sao kẻ đau buồn cực khổ lại được Chúa chúc phúc? Lý do, những gì khiến họ đau buồn cực khổ là vì Tin Mừng. Do sự công bình và lành thánh, Tin Mừng Ngài đem đến. Người chịu đựng khổ đau, là cốt đem chân lý và bình an đến với thế giới nhân trần. Làm thế, họ đem niềm an vui hạnh phúc đến cho ta. Niềm vui ta có được, khi đã hoàn thành mục đích Ngài giảng rao. Lịch sử nhân loại dẫy đầy gương sáng của những người như thế. Ở Ấn Độ, Trung và Nam Mỹ, và khắp nơi. Đâu đâu cũng thấy những gương lành thánh những người như thế. Thế kỷ 20 là thế kỷ sản sinh nhiều gương lành tử đạo hơn các thế kỷ trước. Các vị, đã chấp nhận tử đạo vì niềm tin. Vì bình an và công bình. Ngày nay, nhiều người vẫn chấp nhận hy sinh thân xác cho lý tưởng cao đẹp, hơn bao giờ. Hiến Chương Nước Trời, quả thật sâu sắc. Rất cao đẹp. Hiến chương vẫn kêu mời mọi người kiến tạo tương quan mật thiết, giữa ta với Chúa. Với mọi người. Hiến chương cũng đòi ta quan tâm sâu sắc, tham gia dựng xây thế giới đương đại cho tốt đẹp. Và, kêu gọi mọi người hãy tìm cách biến đổi thế giới thành nơi ngập tràn tình yêu thương. Ngập tràn chân lý công bình và lòng xót thương. Đầy ngập sự tự do và hài hòa giữa mọi người. Đó là ý nghĩa của Hiến Chương Hạnh Phúc. Của Cương Lĩnh Nước Trời. Là mục tiêu của cuộc sống. Sống hạnh phúc đích thật. Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta cầu cho mỗi người và mọi người sẵn sàng tham gia dựng xây Nước Trời đầy hạnh phúc, ở nơi đây. Nơi ta chung sống, chốn gian trần. Trong tinh thần ấy, ta cùng cất tiếng hát lên bài ca tạ ơn khi xưa: Ôi ơn đời chói vói, nhớ khi thân tròn ôm gối Ba trăm ngày trong gói, ngóng trông ra đời góp mối chung vui Ôi ơn đời mãi mãi, thoát theo đời vun sới Bao nhân tình thế giới, lớn lên trong vườn ân ái muôn đời.(Phạm Duy-Tạ ơn đời) Tạ ơn đời. Nhưng, đích thực là tạ ơn Người. Tạ ơn Thầy đã ban cho mọi người Hiến Chương Hạnh Phúc Nước Trời. Hiến Chương “xông lên lời ca ngợi sum hoà”. Rất yêu thương. Chúa Nhật 1 - Mùa Chay Năm A “Chúa cao xa sẽ thấu rõ nội dung” Xin cho con đươc giữ vững niềm tin, Xin cho con được như hình với bóng, Suốt cuộc đời hạnh phúc sống bên nhau Dù mai đây trong thăng trầm cuộc sống. Mt 4: 1-11 (dẫn nhập từ thơ Đào Tiến Luyện) Tâm tư con, dù nay chưa giải tỏa. Vẫn nhận rằng Chúa thấu rõ nội dung. Nội dung đây, là tâm tưởng của nhà thơ tựa hồ như tâm trạng Chúa chịu thử thách trên non cao. Nơi trình thuật. Trình thuật Tin Mừng hôm nay, ghi lại sự việc Đức Giê-su được Thần Linh Thánh Ái dẫn đưa vào nơi hoang vu chốn ấy, chịu thử thách những 40 ngày. Thử và thách đặt ra cho Đức Giê-su hôm nay nối kết với chủ đề: chay kiêng - sám hối - hoà giải. Hòa giải với Chúa. Hòa giải với người anh người chị, đang sầu buồn. Cả ba bài đọc Đầu Mùa Chay hôm nay, đều có liên quan đến những thử và thách, rất chịu đựng. Tuy nhiên, chừng như có điều tương phản giữa trạng thái/tâm tư của Đức Chúa so với tâm trạng của nhị vị tiên tổ, trích dẫn ở bài đọc thứ nhất. Bài đọc thứ hai, lại khác. Ở nơi thư gửi đến cộng đoàn Hội thánh tiên khởi ở Rô-ma, thánh Phao-lô đã nối kết hai biến cố lớn có liên quan đến công trình cứu độ. Biến cố đầu đời của con người xảy ra tại khu vườn hoang rộng, ở dưới đất. Và trình thuật kể lại hôm nay, là kinh nghiệm từng trải về một đối đầu giữa Đức Chúa và Sa-tan, tay sừng sỏ đại diện Sự Dữ/Ác Thần. Cả hai bài đọc, đều không mang tính sử liệu. Nhưng, vẫn là phương tiện chuyển tải chân lý ngàn đời. Chân lý đưa dẫn người đọc về với niềm tin muôn thuở của con người. Ở mọi thời. Trình thuật hôm nay, cũng là truyện kể kế tiếp với sự kiện Đức Giê-su lĩnh nhận ơn Thanh Tẩy từ vị Tiền Hô đấng thánh, vào hôm ấy. Chính hôm này, có Chúa xác nhận Ngài là Người Con mà Cha yêu dấu, rất đẹp lòng. Cụm từ “Thần Khí dẫn đưa vào nơi hoang địa” ở đầu trình thuật, có ý bảo: Đức Chúa chẳng muốn làm chuyện bất thường, lạ lùng. Ngài không gieo vãi trạng thái mê tín, rất cuồng điên. Nhưng, những thử và thách nơi truyện, là cốt xét xem Đức Kitô có phù hợp với sứ vụ Cứu Độ mà Cha giao phó, không. Ngài có xử sự theo cách thế chủ bại, như A-dam tiên tổ, không. Xét xem và ứng nghiệm thử thách hôm nay, thật ra không do Chúa Cha thực hiện. Mà, do Ác Thần/ Sự Dữ mang đến. Tựa hồ Mô-sê khi xưa, cũng từng chay kiêng sám hối chịu đựng cơn đói lả suốt 40 ngày, Đức Giê-su nay cũng một thân một mình bước vào nơi hoang vu trống vắng, mà chịu đựng. Không lương khô. Chẳng có thực phẩm. Chẳng màng gì đến của ăn. Cũng không đến biện pháp chống đói. Ngài bằng lòng chấp nhận cơn rã rời, vùi dập. Có thách thức. Có dỗ dành. Ở cả ba lần thử thách, Ác Thần/ Sự Dữ đều đề cập đến tư cách làm Con của Đức Chúa. Tư cách này được xác định vào buổi sớm Ngài lĩnh nhận ơn thanh tẩy. Ở thử thách lần thứ nhất, Ác Thần/ Sự Dữ khởi đầu bằng việc ám chỉ quà tặng Manna gửi người Do Thái đang lang thang khốn khó, nơi xứ người. Qua thử và thách này, Ác Thần/ Sự Dữ muốn coi xem Đức Giê-su có thực sự được Cha Ngài dưỡng nuôi, không? Thử và thách, là tự thắc mắc: đường đường là Đấng Quyền Uy rất mực, sao Ngài không sử dụng uy quyền sẵn có, để ra oai. Thử và thách này, còn để hỏi: sao Đức Giê-su không nhân đó mà chứng minh Ngài là Con Đức Chúa? Cuối cùng thật sự thử và thách này là để đưa Ngài vào tư thế xác định sứ vụ làm Chúa. Làm Đấng Cứu Chuộc mọi người.
Nhằm đáp trả thử thách, Đức Giê-su không sử dụng lời lẽ thông dụng ở đời thường, nhưng Ngài trích dẫn một đoạn viết xưa trong Cựu Ước. Trích dẫn, là để đáp trả theo cách ‘nói có sách mách có chứng’: “con người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng nhờ vào lời Chúa, đã nói ra.” (Mt 4: 4). Trích dẫn Lời, là để chứng tỏ cho mọi người biết: hạnh phúc thực không nằm ở việc bon chen chất chồng vật chất. Mà, là thẩm định cuộc đời Chúa ban, qua Đức Giê-su. Biến đá thành bánh, cụm từ này cho thấy có tình trạng thiếu vắng niềm tin. Thiếu cả quan tâm chăm sóc Cha gửi đến. Quan tâm, dành cho sứ mệnh Ngài hoàn thành. Thử thách kế tiếp, Ác Thần/Sự Dữ đưa Đức Giê-su vào nơi cao vút của Đền Thờ, chốn vắng dành riêng cho Đức Chúa. Hắn tưởng rằng làm thế Đức Chúa sẽ quan tâm hơn đến Người Con của Ngài. Ở đây nữa, có hai sự việc cần minh định: Trước nhất, Thiên Chúa sẽ không để cho Đức Giê-su bị tổn thương. Ác Thần hẳn đã rõ chuyện này, nên mới trích Cựu Ước mà nói: Có Lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho thiên sứ để lo cho Ông; và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho Ông khỏi vấp chân vào đó.” (Mt 4: 5). Thật ra, Ác Thần nào đã biết rằng: Thiên Chúa vẫn hứa chăm nom săn sóc loài người trong suốt quá trình sống. Nhưng Ngài chẳng hứa hẹn dùng quyền uy siêu nhiên mà can thiệp khi ta hành động rất vô tâm. Thứ đến, nếu Đức Giê-su gieo mình từ chốn non cao và kịp thời được cứu vớt, thì hẳn mọi người nhận ra gốc gác thần thiêng của Ngài, rồi mới tin. Ở đây, một lần nữa, Đức Giê-su cũng lại trở về với Sách xưa mà trích dẫn: “Chớ nên thử thách Đức Chúa là Thiên Chúa của anh!” (Mt 4: 7). Với những thử và thách lúc cuối, Ác Thần/Sự Dữ đã chạm đúng tim đen của người chịu thử thách, là: muốn thu vén cả thế gian về một mối, dưới trướng của mình. Đây là một mặc cả vẫn diễn ra trong cuộc đời, người phàm trần. Mặc cả nào cũng đều khó xử: nếu theo Chúa thì sẽ lợi gì về của cải vật chất ?. Còn theo đường mình đã vạch, sẽ đạt được tất cả. Tiền bạc, vật chất,công danh, quyền lực. Cuối cùng, thử thách nào cũng dẫn tới giai đoạn cuối thúc đẩy ta chọn lựa. Một chọn và lựa được Đức Chúa nhắc nhở, bấy lâu nay: được cả và thế gian mà mất đi sự sống đích thật, nào đã lợi gì? Và ở một đọan khác, Chúa cũng nói: con người hãy cho đi mọi sự để, đổi lại, sẽ có được tương quan đậm sâu với Đức Chúa. Đây mới chính là mục tiêu của cuộc sống. Và chọn lựa ở cuối trình thuật là lời đáp trả rất dứt khoát của Đức Giê-su: “Xa-tan kia, hãy cút xéo!” Nội dung lời đáp hôm nay gợi nhớ lại lời xảy đến với thánh Phê-rô ở đoạn khác. Thánh Phê-rô khi ấy, chỉ muốn có đề nghị “đẹp cả đôi đằng”, toan tính kéo Ngài đi trệch con đường Ngài đã chọn. Ngài đã chọn con đường ngang qua khổ hình, trong vinh dự. Đức Giê-su còn phải qua nhiều thử thách khác suốt cuộc đời, Cho đến chết. Có lúc Ngài cũng đã muốn thoái thác, bỏ cuộc. Như hồi ở vườn khổ não Cây Dầu, Ngài cũng đã muốn xin Cha để qua một bên ý định cần Ngài tận hiến. Chung cục Ngài đã dâng phó trọn vẹn cuộc sống, thể theo ý Cha. Phó dâng, để thực hiện ý của Cha cho đến chết. Con đường mà Chúa Cha muốn Ngài kinh qua là đường duy nhất dẫn Ngài -và cả chúng ta cùng với Ngài- đạt đến cuộc sống miên trường. Vào với cuộc sống, khi những giọt nước mắt ngà đã được lau sạch. Trong hiệp thông với Đức Giê-su trong thử thách, ta hiên ngang cất lời ngợi ca tình yêu, hát rằng: Rồi mai chân hoang vu lên phố gầy Tôi về nhớ trong mắt môi đã đắng cay Còn ai mơ trên tay khi hoàng hôn Vỗ giấc xuân muộn về trên mây hồng. (Trường Sa – Rồi mai tôi đưa em) Chính ở nơi hoang vu môi mắt đã đắng cay, tình yêu Chúa vẫn về lại với chúng ta. Với mọi người. Trên mây hồng. Và, ở nơi hoang vu nhiều thử thách ấy, “Chúa đã thấu rõ nội dung cuộc sống”. Thật nhiều đắng cay. Đắng, nhưng vẫn vững lòng. Cay, nhưng vẫn tin và vẫn yêu. Một tình yêu rất rộng mở.
Chúa Nhật 2 Mùa Chay Năm A “Trên đỉnh non nhòa, mây xôn xao” Bạn có nghe này bạn có nghe Trên đỉnh non nhòa, mây xôn xao Về nơi hẹn nào không định trước Vũ trụ miên man chuyển động đều. (Dẫn nhập từ thơ Tô Thùy Yên) Mt 19: 1-9 Trên đỉnh non nhòa, nơi cao ấy. Xôn xao Chúa hẹn, với tiền nhân. Tiền nhân Chúa hẹn hôm ấy, chẳng là ai khác ngoài các tiên tri-ngôn sứ, với tông đồ. Có Mô-sê, Ê-li-a và đồ đệ rất thân thương. Thân thương đồ đệ nay được rõ, Thiên Sai Cứu Chuộc Đấng minh nhiên. Và, để hiểu rõ ý nghĩa một mặc khải về Đấng Thiên Sai Cứu Độ hôm nay, hẳn người đọc Kinh thánh phải tự đặt mình vào một bối cảnh của truyện kể, vào buổi ấy. Bối cảnh, là lúc Phê-rô thánh nhân đại diện cho các người anh người em mới gia nhập làm đồ đệ. Là đồ đệ của Đức Chúa, các ngài nhận ra tác phong thiên tính của Thầy mình chính là Thiên Sai của Đức Chúa. Đấng mà toàn dân con Do Thái đang kỳ vọng nghênh đón, Chúa tái lâm. Hòa chung vào bối cảnh mặc khải, Phê-rô thánh nhân đã có lúc mạnh dạn tuyên bố: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng sống!”. Bối cảnh mặc khải, là khoảnh khắc dâng cao trong quan hệ mật thiết giữa Đức Giê-su và các đồ đệ của Ngài. Hòa với bối cảnh mặc khải, Đức Giê-su còn bày tỏ cho đồ đệ biết Ngài chính là Đấng Thiên Sai, mọi người trông ngóng. Thiên Sai đây, không là Đức Vua chinh chiến quyết đè bẹp đám thù địch chuyên đối nghịch với dân con của Chúa. Hòa chung bối cảnh, còn được biết viễn tượng Chúa bị các thủ lĩnh trong đám dân con của Ngài sẽ chối bỏ, bắt giam, xử lý cùng lên án. Lên án rồi, còn hành hạ nhục mạ; và, cuối cùng là dứt điểm bằng nỗi chết trên thập giá dương cao. Dứt điểm cuộc sống Ngài, không do kẻ thù thực hiện, mà do chính bọn người đang chờ mong Đấng Thiên Sai đến lật đổ chế độ bức bách, đô hộ. Ở vào bối cảnh khắc khoải như thế, Phê-rô thánh nhân cũng có lần phản kháng. Phản kháng, đến độ bị la rầy quở mắng, để tuân theo đường lối Chúa dạy, là: chấp nhận tỉa bỏ, o ép dẫn đưa đến nỗi chết. Lúc ấy, đồ đệ Chúa thấy như có gáo nước lạnh tạt vào đầu. Tức, hoàn toàn khác biệt những gì đuợc nghe biết về Đấng Thiên Sai, vào độ trước. Để giúp dân con đồ đệ nhận ra con đường dẫn đến chiến thắng, Đức Giê-su đem Phêrô, Gia-cô-bê và Gio-an lên đồi cao chốn vắng. Chỉ một nhóm nòng cốt Tông đồ được chứng kiến cảnh biến thái biến hình lồng lộng, thôi. Sự kiện xảy đến vào sáu ngày sau khi Đức Giê-su tỏ bày Ngài là Đấng Thiên Sai. Điều này gợi nhớ sự kiện Mô-sê được Yavê Thiên Chúa gọi đi vào mây trời vinh quang đồi cao, núi thánh. Theo kinh nghiệm Kinh thánh, mọi sự kiện quan trọng về cứu rỗi đều được mặc khải trên núi vắng. Cụm từ “biến đổi hình dạng” nói trong trình thuật hôm nay, xuất từ tiếng Hy Lạp metamorphoo ít gặp thấy trong Tân Ước, như: diện mạo Ngài chói sáng như mặt trời và y phục trắng tinh như ánh sáng”. Điều này khiến người người nhớ lại tình huống khi xưa lúc Môsêlên núi thánh gặp gỡ giáp mặt cùng Ya-vê Rất Thánh. Ở đây, cả Mô-sê lẫn Ê-li-a đã có mặt cùng đàm đạo với Đức Giê-su, Ngôn Sứ Mới. Sự hiện diện của Mô-sê, hiện thân cho lề luật mà dân con Đức Chúa lâu nay tuân thủ. Còn Ê-li-a, đại diện cho truyền thống các ngôn sứ, được truyền tụng bấy lâu nay. Đàm đạo giữa các vị, là biểu tỏ một hỗ trợ trọn vẹn công việc Đức Giê-su làm. Đàm đạo hôm này, cũng để tỏ bày hậu thuẫn cho sự việc Ngài quyết giữ, vào ngày sắp tới. Nói tóm, “biến đổi hình dạng” là một trong bốn sự kiện tỏ bày Thiên tính của Đức Giê-su, tỏ bày mà người Do Thái cần thấy. Tỏ bày Thiên tính Đức Giê-su lần này, Phê-rô rất cảm kích, muốn dựng lều ở lại trên núi thánh. Ở chốn thánh này, Phê-rô muốn giữ chân Thầy mình ở lại, có Mô-sê với Ê-li-a, đến ở cùng. Một lần và mãi mãi. Nhưng với cuộc đời, đâu thể như thế mãi. Mọi việc còn phải tiếp diễn. Diễn tiếp và tiến về phía trước. Diễn và tiến, để rồi còn phải chấp nhận những bất ưng trong đời người, rất “xôn xao tình thế”. Ở bài đọc thứ nhất, chính Áp-ra-ham cũng xôn xao, cũng bức xúc bỏ cửa bỏ nhà, ra đi giáp mặt Yavê Đức Chúa. Ở vào cuộc sống hôm nay, Đức Chúa cũng đang nói với ta, với mọi người, cùng một kiểu tương tự, vào mọi ngày. Nơi cuộc sống. Ở nơi đó, có những lúc mọi người như Phê-rô đã thấy rạng ngời ánh chói chang trên đám mây ngời sáng, bao phủ. Áng mây bao phủ Phê-rô, cũng đã bao trùm lấy Mô-sê khi ông giáp mặt Ya-vê Đức Chúa, ngày trọng đại. Đám mây và ánh sáng, tất cả đều là tình huống qua đó Đức Chúa mặc khải cho ta, cho người những điều trọng đại. Điều trọng đại ngày cải biến, có tiếng Chúa vang vọng từ mây cao: “Này đây, Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người.” Lời vang vọng ở trên, dân con đồ đệ Chúa đều đã nghe và nghiệm thấy hôm Ngài lĩnh nhận ơn Thanh Tẩy, rất tỏ bày. Ơn Ngài nhận, sẽ đỡ nâng Ngài trên bước đường kinh qua đau khổ, nhục hình và nỗi chết do chính dân con Ngài đem đến. Hãy lắng nghe lời Người, trước nhất trực chỉ vào Phê-rô và các đồ đệ có mặt, vào buổi ấy. Lắng nghe lời Người, là nghe những gì Ngài nói. Là, chấp nhận những gì Ngài dạy làm. Và, nhận lấy làm của riêng cho mình, mà kết hợp. Kết hợp trong tư thế trọn vẹn. Chấp nhận mà thực hiện. Đó là điều đồ đệ Chúa được nghe biết. Chính vì thế, cả Phê-rô lẫn đồ đệ, đều ngã sấp mặt xuống đất, và phủ phục. Cùng lúc ấy, đã có lời phán bảo: “Đứng dậy mà đi, chớ có sợ!” Lời phán Chúa đưa ra, đưa dẫn người nghe kể liên tưởng đến thái độ phải có, trong cuộc sống. Đấy chính là thái độ đầu cao mắt sáng, hiên ngang đứng thẳng mà bước đi. Không do dự. Không hãi sợ. Bởi lẽ, vào những khi hãi sợ nếu người người ngước mặt nhìn lên, đều sẽ thấy: “Chỉ một mình Đức Giê-su đứng đó, không thấy ai.”Ngài luôn đứng đó, như khi Ngài sống lại, để hỗ trợ cho đàn con của Ngài đang sợ hãi. Sợ con người. Sợ cả chính mình. Và, trình thuật “biến đổi hình hài” hôm nay kết thúc bằng lời dặn dò: “Đừng nói cho ai hay thị kiến ấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết trỗi dậy”. Thị kiến hôm nay, con dân cùng với đồ đệ của Chúa đã chứng thực một tỏ bày: Ngài là Đấng Thiên Sai, vẫn ở cùng với mọi người, chứ không đứng mãi trên núi ấy. Và trong cuộc đời thường nhật chỉ mỗi Đức Giê-su vẫn còn ở với ta ngay cả khi chẳng có ai ở lại với mình, kể cả thánh truyền, ngôn sứ. Tham dự Tiệc thánh hôm nay, ta cầu và mong sao thị kiến “biến hình đổi dạng” sẽ ở mãi trong ta, gợi nhớ sự thật: Đức Chúa ở với và ở cùng ta mãi mãi, chỉ mình Ngài. Được Ngài ở cùng, ta vẫn cứ theo lời dặn “Hãy vâng nghe lời Ngài.” Trong tinh thần sẵn sàng vâng nghe lời Ngài, ta cứ hiên ngang đứng thẳng lên, mà hát: Nếu có điều gì vĩnh cửu được Thì em ơi đó là tình yêu chúng ta Dù mai đây trăng có úa bên thềm Và ngày buồn thu tàn kéo qua đây Rồi mùa đông vội vã đến bên ta Anh giữ mãi lời nguyền cùng bên em. (Từ Công Phụng – Mãi mãi bên em) Vâng. Điều vĩnh cửu ấy, đang ở với em. Với tôi. Với ta. Dù ta đang ở trên non nhòa, có trời mây xôn xao ấy. Dù ta thấy Ngài biến đổi hình dạng. Thấy thánh nhân ngã sấp mặt, vẫn có Chúa ở mãi bên ta. Chỉ một mình Ngài. Bây giờ và mãi mãi. Rất miên trường. Chúa Nhật 3- Mùa Chay Năm A
“Tình thơm tho như ngấn lệ còn nguyên” Ta ước ao đầu đội mũ triều thiên, Và tắm gội ở trong nguồn ánh sáng. Ca những điệu ngọc vàng cao sao sáng, Lời vang xa truyền nhiễm đến vô song. (dẫn nhập lời thơ Hàn Mặc Tử)
Ga 4: 5-42 Tình thơm tho của nhà thơ, như đã ngấn lệ, khi giáp mặt Đấng Thiên Sai. Đấng Thiên Sai Đức Chúa, Ngài thấy rõ nguyên hình nguyên trạng, như trình thuật truyện kể hôm nay. Trình thuật Lời Chúa hôm nay, gồm chuyện xoay quanh chủ đề, những nước và nước. Nước, là nguồn mạch của sự sống, nhưng cũng là sức mạnh chuyên tàn sát, phá hoại và bức bách. Nơi truyện Đại Hồng Thuỷ, nước mang ơn cứu rỗi đến với gia đình ông No-ê và con cháu. Đồng thời, lại đem sự chết chóc đến với những người có lỗi. Cũng thế, ở truyện Biển Đỏ, nước đã chôn vùi đoàn quân tinh nhuệ của Pha-ra-ô, nhưng lại cứu sống toàn thể dân tộc Israel khỏi sa mạc. Trình thuật Phúc Âm hôm nay, nói đến Đức Giê-su đứng cạnh người nữ phụ phạm lỗi, bên giếng nước Gia-cóp. Người nữ phụ trong trình thuật, đại diện cho 3 nhóm người bị bức bách mà Đức Giê-su và Phúc Âm nhắm đến: đàn bà – gái làng chơi – những người bất trung, bất tinh tuyền, người ở ngoài. Trình thuật bắt đầu bằng cảnh tình của Đức Chúa với thân phận người mệt mỏi, rất đói và rất khát. Ngài mon men đến với người nữ phụ đầy lỗi phạm mà ai cũng né. Chính vì thế, nữ phụ lâu nay bị né tránh, mới tỏ bày sự ngạc nhiên khi Đức Giê-su đến gần mình. Càng ngạc nhiên hơn, khi Đức Giê-su đảo ngược lề luật, hứa đem cho chị “nước hằng sống”. Khiến chị càng ngạc nhiên, hơn bao giờ. Nước hằng sống Đức Giê-su nói, là Thần Khí Chúa ta lĩnh nhận vào dịp thanh tẩy. Bởi, thanh tẩy không chỉ là nghi thức đơn thuần mang lại hiệu năng thần thánh cho muôn dân, nhưng là dấu hiệu bên ngoài của thực tại sâu sắc. Tức, Đức Chúa Quang Lâm bằng sức mạnh xuyên suốt mọi khía cạnh của cuộc đời con người. Và, việc này luôn xảy đến nếu ta đặt mình vào tình huống sẵn sàng đón tiếp Đức Giê-su. Đón tiếp thị kiến Tin Mừng về sự sống. Và, việc mở lòng đón tiếp sẽ giúp ta chuyển đổi toàn bộ cuộc sống. Ở bài đọc thứ hai, thánh Phao-lô đã quả quyết với giáo đoàn Rô-ma, khi thánh nhân nói: “Thiên Chúa đã đổ tràn tình yêu Người nơi chúng ta ngang qua Thần Khí của Người.” (Rm 5: 5). Đổ như thế, không chỉ là nghi thức tắm gội kèm theo dăm ba câu thần chú, nhưng đích thực là uống “nước hằng sống” từ Chúa Thánh Thần. Vì, chính Thần Khí Chúa sẽ giúp ta tiếp tục ao ước được Chúa đến gần. Khi bảo người nữ phụ hãy gọi chồng mình tới, Đức Giê-su hàm ngụ sứ vụ của con dân Đạo Chúa là ra đi đến với gia đình. Bởi, gia đình là mái ấm thu hút ơn lành của Đức Chúa. Gia đình, là chốn Chúa ban Nước Hằng Sống. Là, nơi khuyên dắt con cháu hồi hướng trở về. Về với đường ngay nẻo chính. Ở nơi đó, có thứ tha mọi sơ xuất, lỡ lầm mà người trong gia đình của Chúa, vẫn lỗi phạm. Nhắc đến lỗi phạm, người nữ phụ bất chợt xử sự như nhiều người thời nay. Xử sự, theo cách thế chuyển đổi đề tài rất nhanh chóng. Chuyển đổi, khi Đức Chúa nhắc đến chồng của chị, điều mà chị lỗi phạm, như chúng ta thường làm khi bị nhắc nhở đến lỗi phạm của mình. Chị chẳng muốn nói đến sự an lành - đạo đức ngoài những nơi như đền thờ Giê-ru-sa-lem. Hay, như núi Ge-ri-zim mà người Sa-ma-ri luôn coi là chốn thánh. Chính nhờ tình huống này, người nữ phụ đã tạo cho Đức Chúa cơ hội thuận tiện để nhắc nhớ mọi người, rằng: “Nay là lúc, kẻ tôn thờ đích thực sẽ thờ Chúa Cha trong tinh thần và chân lý. Chính đó là sự tôn thờ mà Chúa Cha muốn.” (Ga 4: 23). Trình thuật tiếp tục với đề tài về Đấng Thiên Sai. Đây là lúc Đức Giê-su mặc khải Thiên tính của Ngài. Mặc khải rằng, chính Ngài là Đấng Thiên Sai, đang tiếp chuyện người phụ nữ lạ. Lạ lùng hơn, là chuyện người ngoài Đạo –một nữ phụ lầm lỡ- lại là người đầu tiên trong Tin Mừng được nghe biết về mặc khải. Mặc khải ân huệ Chúa ban cho dân ngoại. Những người đang biết và cần ơn cứu độ, hơn cả. Chính lúc Ngài mặc khải về thiên tính Đấng Mê-si-a Thiên sai với người nữ lạ, thì các tông đồ kịp về tới. Họ cũng ngạc nhiên khi thấy Thầy Chí Thánh tiếp chuyện với đàn bà, ngoài Đạo. Ngạc nhiên, khi các thánh chính tai nghe Thầy nói: “Thầy vốn có thức ăn mà các con không biết” (Ga 4: 32). Và khi ấy, Đức Giê-su thêm một lần nữa lại bày tỏ: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người.” (Ga 4: 34) Cuối cùng, thì Đức Giê-su liên kết với ý tưởng về bánh và của ăn nuôi dưỡng mọi người. Ngài nói về “đồng lúa chín vàng, chờ gặt hái” (Ga 4: 35). Lúa chín vàng hôm nay, bao gồm cả những người ngoài Đạo, như người Sa-ma-ri, các nữ phụ phạm lỗi, những người chưa tin hoặc không tin tưởng, tất cả những ai không cùng một ràn chiên Hội thánh… Mùa lúa chín vàng, nay chờ gặt hái. Hái và gặt, để thưởng công lao khó nhọc của mọi người. Mọi dân nước. Đó cũng là lúc số đông người Sa-ma-ri đã chứng kiến tình huống xảy ra. Và, họ đã tin. Trình thuật thời xưa, người người thảy đều đã nghe: “Cũng chẳng phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian. (Ga 4: 42) Ngày nay nghe lại truyện kể về người nữ phụ bên bờ giếng, hẳn là các kẻ tin vào Đức Chúa sẽ phải nói như thánh Phao-lô khi trước: “Tôi sống, nhưng không phải là tôi, mà là chính Chúa sống trong tôi.” Điều đáng nhớ là mọi kẻ tin hôm ấy, đã ngỏ lời mời Ngài nán lại ở với họ. Nếu không, Ngài lại đã tiếp tục hành trình rong ruổi, chốn cao xa. Đọc trình thuật người xưa, hẳn chúng ta, các kẻ tin thời nay, cũng nên mở lòng mời Đức Giê-su nán lại. Mời Ngài nán lại, để ở với con dân, cả trong lẫn ngoài. Nếu không mời, Ngài có lẽ sẽ cứ đứng ở bên ngoài, mà gõ cửa. Ngài vẫn đứng đó từ xưa, trừ phi người ở trong ra mở cửa mời mọc, rất trân quý. Tham dự tiệc Lời Chúa hôm nay, ta cứ cầu mong sao người người sẽ ngỏ lời mời Ngài nán lại. Mời Ngài thực sự, chứ không phải bằng môi miếng. Bởi, có mời thực sự như hai đấng thánh tông đồ trên đường Em-mau thuở trước, Ngài mới nán lại mà bảo ban. Trong nghênh đón mời mọc Ngài bảo ban, ta hiên ngang mừng đón tình huống rất vui, mà hát: Vì đường xa ướt mưa Đừng bắt anh đưa em về Anh xin em đừng về …đường quá xa xôi Xin mưa triền miên mãi không lắng đọng Cho đôi tình nhân đuối trong giấc mộng Trong cơn ngủ quên trốn câu giã từ Vì đường xa ướt mưa. (Đức Huy – Đường xa ướt mưa) Con đường tin - yêu hôm nay, đôi lúc cũng ướt mưa. Có ướt và có mưa, vẫn không làm anh và em, những người tin yêu Đức Chúa, chùn lòng. Không chùn lòng, để sẽ ở lại mãi mãi bên nhau, trong yêu thương. Yêu bằng tình yêu của người con, người em hằng tin Lời của Chúa. Tin vào “tình thơm tho như ngấn lệ còn nguyên”. Chúa Nhật 4 Mùa Chay Năm A
“Đời còn ai thông cảm kiếp đoạn trường” Em biền biệt như một loài chim biển, Anh quay về kiếp gối đất màn sương, Đời còn ai thông cảm kiếp đoạn trường, Anh khẽ vuốt sợi tóc mềm ngấn lệ (dẫn nhập lời thơ Thanh Tâm)
Ga 9:1- 41 Lại một nhà thơ có tâm tình ngấn lệ. Lệ đã ngấn, cùng với kiếp gối đất màn sương như người mù đã chịu được kể trong trình thuật, diện kiến Chúa hôm nay.
Tin Mừng hôm nay, là đoạn truyện kể về việc Chúa chữa lành cho người mù thuở mới sinh. Một chữa lành, tạo ưu tư/thắc mắc giữa các tông đồ, luật sĩ cùng thủ lĩnh cao sang, vào thời ấy. Thắc mắc ưu tư hôm xưa, về nguyên do của mù loà. Về, việc Chúa chữa lành dẫn đến niềm tin. Niềm tin của người mù. Và, của người chứng kiến việc Chúa làm.
Các tông đồ, luật sĩ đã chứng kiến rồi mà còn thắc mắc, là bởi họ luôn để trong đầu quan niệm rất sai khi nghĩ là: có ràng buộc giữa tội lỗi và tật nguyền. Có người lại coi đây như hình phạt gửi từ Trên, do lỗi phạm của con người. Của cha mẹ và người thân! Dù, đã hơn một lần, Đức Giê-su từng bảo: “Lỗi của chị được tha thứ, và đã cất đi!”. Trình thuật hôm nay, Chúa còn thay đổi lối nhìn của người thắc mắc, với một khẳng định: “Làm thế, là để thiên hạ nhìn thấy được công trình của Thiên Chúa hiện rõ nơi anh.” (Ga 9: 3)
Là để ta thấy rõ công trình của Chúa, là phân biệt ánh sáng với cõi tối tăm. Là, biết được việc Chúa chữa lành người mù, tức: đưa người ấy vào cuộc sống mới. Cuộc sống, biết phân biệt sự sáng với tối tăm. Là, biết nhận ra không chỉ ánh sáng của đời thường, mà còn nhận ra chính Ngài là “ánh sáng cho muôn dân.”
Khởi đầu trình thuật, ai cũng hiểu: người mù từ bẩm sinh là người khất thực, sống ngoài Đạo. Không được đứng chung với cộng đoàn dân con Đức Chúa. Anh thuộc nhóm người, bị né tránh. Nhưng khi lành lặn, anh được phép gia nhập cộng đoàn kẻ tin, trở nên môn đệ trung kiên của Chúa. Điều này cho thấy: theo quan niệm Tin Mừng, người được chữa sẽ không ở trong tăm tối nữa, nhưng đã ngập tràn ánh sáng của Chúa. Ngập tràn hồng ân Chúa ban. Hồng ân làm môn đệ, rất kiên vững.
Tin mừng kể: Đức Giê-su dùng bùn đất và nước miếng, để chữa lành. Bùn và nước miếng Chúa dùng, là lối chữa dân gian, không để xác nhận lối chữa lành nhờ phù phép, nhưng để nhắc nhở người nghe về quyền uy Đức Chúa, qua việc tạo dựng. Tạo dựng, là đem sự sống mới đến với con người. Sự sống nơi người mới, khác với A-đam đầy lỗi phạm. Sự sống Chúa ban,là xác nhận mà thánh Phao-lô gọi là Thanh tẩy. Thanh lọc và tẩy rửa nơi hồ Si-lô-am, biểu hiện sức sống mới nhờ Thánh Thần.
Thánh thần Chúa chữa lành ngày Sa-bát, tuy vi phạm luật Do Thái, nhưng như thế càng chứng tỏ Thiên tính của Đức Giê-su, Đấng bẻ gãy thói tật người xưa chỉ tuân giữ lề luật và chỉ vì lề luật. Chữa lành ngày Sa-bát, còn chứng tỏ Đức Giê-su không chỉ là một phàm nhân tội lỗi, giống mọi người. Bởi, họ đều rõ: “nếu là người tội lỗi, sao Ông Ta có thể làm được như vậy” (Ga 9: 16). Việc Ngài làm, đã gây tranh cãi và thắc mắc kéo dài, là để xác minh về Thiên tính của Đức Giê-su.
Tranh cãi và biện luận kéo dài, vì Chúa đã bẻ gẫy thói tật người xưa chỉ tuân giữ lề luật một cách cứng ngắc. Và, họ lo sợ rằng Chúa sẽ lôi cuốn những người lưng chừng về với niềm tin rằng Ngài đích thực là Đấng Thiên Sai. Ý đồ và hành động của những người tự-cho-mình-là người-giữ-Luật là công việc của con cái sự tăm tối, như xác định của thánh Phao-lô trong bài đọc thứ hai, hôm nay: “Anh chị em hãy ăn ở như con cái sự sáng; mà ánh sáng đem lại tất cả những gì là lương thiện, công chính và chân thật.. Đừng cộng tác vào việc vô bổ của con cái sự tối tăm, nhưng phải vạch trần việc ấy ra mới đúng.” (Êp 5: 10)
Người mù nay được sáng đã làm như thế. Anh đã tin “vào Người Con là Đấng Thiên Sai, đang đứng trước mặt và nói chuyện với anh” (Ga 9: 35), nên anh được cứu chữa. Cả về mặt thần tính. Chính vì anh tin, nên ta có được lời minh xác về Thiên tính, từ Đức Giê-su ngay lúc đó: “Tôi đến thế gian, chính là để xem xét: cho người không nhìn được thấy, và kẻ vẫn thấy lại nên đui mù.” (Ga 9: 39). Và, đui mù cùng nhìn thấy, nay được liên kết với người vô tội và kẻ tội lỗi.
Từ đó, theo định nghĩa, ta lại có hai loại người chính thức trong xã hội: 1-kẻ đui mù thể xác, chấp nhận lời của Chúa, nay trở thành chiên con được Ngài dẫn dắt. 2-nhóm Pha-ri-sêu cho mình sáng suốt đã không tin, nên vẫn cứ nghịch chống Đức Giê-su. Nói khác đi, những kẻ tội lỗi, từ chối không chịu nghe, hoặc tự hào về đầu óc sáng suốt đã thực sự là người đui mù hoặc tự làm mình mù đui. Hoặc, nhóm Pha-ri-sêu những tưởng mình thấy được, mới thực sự là kẻ tội lỗi. Và người mù từ thuở mới sinh nhưng chấp nhận lời Chúa dạy, đã được thấy trở lại. Không còn mù đui nữa. Cả về mặt thần tính lẫn niềm tin.
Xem như thế, Phúc Âm hôm nay là một nối kết rõ ràng với thanh tẩy. Chúng ta tuyên bố Lời Chúa cho các dự tòng, những người chuẩn bị nhận lĩnh ơn thanh tẩy và vào với cộng đoàn các kẻ tin vào Đức Kitô. Những người đã bắt đầu nhìn thấy Đức Giê-su. Bắt đầu nhận biết và đi theo Ngài. Đi theo, để rao truyền Lời Ngài đến muôn dân nước.
Thể theo lời xác minh đề nghị của thánh Phao-lô nơi bài đọc thứ hai, nay ta có được ánh sáng của Tin Mừng, ta sẽ xử sự như người sáng mắt. Sáng cả về thể xác, lẫn niềm tin. Như người sáng suốt với niềm tin vào Chúa, ta hân hoan tiến bước, miệng vui tươi hát rằng:
Ôi! Nắng lụa vàng, nắng lụa vàng nắng ướt môi em, Ôi!Nắng lụa vàng,nắng lụa vàng quấn quít chân em. Trên con đường này, ngày xưa, ngày xưa Trên con đường này, chiều nay, chiều nay… (Phạm Thế Mỹ - Áo lụa vàng)
Đúng thế. Trên con đường này, chiều nay ta tiến bước. Có nắng lụa vàng quấn quít chân em. Và cả chân tôi. Những người quyết ra đi báo tin vui cho mọi người. Tin rằng: ai nông nổi kiếp đoạn trường, nay có Chúa ở cùng. Cùng đến gối đất kiếp màn sương. Với người mù từ bẩm sinh. Với dân con, mọi người. Mọi thời.
Chúa Nhật 5 Mùa Chay Năm A “Tình đã chết những mong tình sống lại” Khi biết lòng anh như đã chết Mây thôi hồng mà lá cũng thôi xanh. Mầu hoa tươi cũng héo ở trên cành. Và vũ trụ thấy một mầu đen tối. (dẫn nhập từ thơ Thâm Tâm)
Ga 11: 1-45 Tình đã chết, nhưng tin chắc tình anh sẽ sống lại. Sống lại rồi, để tất cả sẽ vinh danh tình của Cha. Tình Chúa Cha, hôm nay được diễn bày thật rõ nét nơi trình thuật về anh La-za-rô. Có sự chết. Có tình người sống lại. Trình thuật hôm nay, là Tin Mừng về sự sống, nỗi chết và sự sống lại. Qui trình sống-chết, là qui trình không ngừng diễn tiến nơi mọi sinh vật, nơi trần thế. Nơi con người. Với muông thú, cùng cỏ cây. Trình thuật hôm nay, thánh Gio-an viết khởi đầu bằng một khẩn báo, là: La-za-rô, người anh của Mác-ta và Ma-ri-a, bạn thiết thân với Đức Giê-su, nay đã mệt nhiều. Nghe anh mệt nhiều, nhưng Đức Giê-su vẫn cứ ngồi trầm tĩnh, rồi mới giải thích: La-za-rô dù mệt nhiều, nhưng nào đã đi dần vào cõi chết. Đây, là cơ hội để vinh quang Chúa được tỏ bày nơi mọi người. Vinh quang Chúa, nay thể hiện nơi Người Con Thân yêu của Cha. Vì thế, dù thương bạn đang mệt nhiều, Đức Giê-su vẫn bình thản. Trầm tĩnh. Những hai ngày sau, Ngài mới dạy: nào ta đi Giu-đê-a, đến thăm anh. Thoạt nghe Ngài dạy bảo, các môn đồ liền cảnh báo ngay về những nguy hiểm, đang chờ Ngài. Đó là những đe doạ ném đá. Đe dọa ném đá, là vì các vị thủ lĩnh tôn giáo cứ kích động người dân đi Đạo nổi lên, quyết ám hại Ngài. Và đó cũng là lúc, ta có được câu nói để đời, từ Đức Chúa: “Phàm ai đi đứng vào lúc ban ngày, ắt sẽ không bị vấp ngã. Có vấp chăng, chỉ về đêm, khi không có ánh sáng ở với mình.” (Ga 11: 9-10). Bằng vào xác quyết này của Ngài đã ám chỉ: nay đã đến thời của sự sáng. Thời, mà mọi người không còn hãi sợ, dù có đe doạ bị ném đá. Hẳn ta còn nhớ, trước đó Đức Giê-su đã nhất mực tỏ bày: “Giờ Ta chưa đến”. Ngài tỏ bày nhiều lần, để mọi người không còn thôi thúc Ngài ra tay, không đúng lúc. Nay đã đến thời của sự sáng, tức: thời của những đối đầu chung cục, khó tránh. Và, Đức Chúa: “Thầy đi đánh thức anh ấy đây!” (Ga 11: 11) Ở đây nữa, cũng như dân thường, môn đồ Chúa đã lẫn lộn giữa thức và ngủ. Thức – ngủ, ở đời thường. Thức - ngủ, tựa sự chết với sống lại. Thế nên, Chúa nói tiếp: “La-za-rô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy không có đó để anh em tin.” (Ga 11: 14-15). Thành thử, “nay đã đến thời của sự sáng”, còn là xác định về thời để “anh em tin”! Với niềm tin sẵn có, em của La-za-rô là Mác-ta bèn thưa: “Có Thầy ở đây, em con đã không chết!” (Ga 11: 21). Lại nữa, cũng từ đây, hậu duệ chúng ta lại có thêm xác quyết để đời khác, từ Đức Chúa: “Thầy là sự sống và sự sống lại. Ai tin Thầy, dù có chết cũng sẽ được sống.”(Ga 11: 25). Trọng tâm Lời Chúa hôm nay, nhằm vào nhận định kiên vững, Ngài vừa nói. Kiên định và vững chắc đến độ, nếu tiếp tục nghe, người người đều hiểu rõ lập trường của Đức Giê-su về sự chết và sự sống. Với Ngài, sự sống nay đã vượt quá mộ phần. Vượt cả lằn ranh sống - chết. Bởi từ nay, sự sống mới đã khởi đầu. Khởi đầu là khởi từ thái độ sống đối với những ai chấp nhận con Đường Ngài vạch ra. Chấp nhận con đường sống, là có được thái độ như Mác-ta:“Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến với thế gian” (Ga 11: 26). Lời thân thưa của Mác-ta làm ta trở về nhớ lại mặc khải Chúa ban cho nhiều người, cả người nữ phụ thành Sa-ma-ri, cho chí người hành khất mù ở Ga-li-lê, vào độ trước. Mặc khải ấy, nay lại đã trao ban cho anh em nhà La-za-rô, đại diện dân con của Đức Chúa. Và khi đó, Mác-ta đã nhận ra, rằng:”Thầy đến rồi!” (Ga 11: 28). Thầy đến rồi, là lời tuyên tín xuất từ tiếng Hy Lạp “parousia”, chỉ việc Đức Chúa Quang Lâm, nay hiện diện. Với thánh Gio-an, Thầy đến rồi! và Thầy vẫn đang hiện diện nơi sự sống không có kết đoạn. Việc này, thực sự khởi sắc từ lúc Đức Giê-su đi vào cuộc sống. Của mọi người. Nghe câu nói đó, người chị Ma-ri-a lại đã một lần nhắc khéo Đức Chúa:”Thưa Thầy, nếu Thầy có ở đây, em con đã không chết!” (Ga 11; 32). Nghe đến đây, hẳn người đọc nhận ra khía cạnh rất “người” của Đức Giê-su, khi Ngài bật lên thành tiếng lòng, đầy thổn thức. “Thổn thức trong lòng và xao xuyến”, là ngôn từ mà trình thuật hôm nay muốn chứng tỏ: Đức Giê-su, cũng như mọi người, Ngài cũng biết sầu buồn. Cũng cảm thông trước tình huống phàm trần của đàn con thân yêu, khi có người thân thuộc vừa ra đi. Nghĩa là, Ngài cũng cất bước đến mộ phần người bạn thân La-za-rô, để làm cử chỉ tỏ bày tình thân; và để thông truyền một sứ điệp. Nơi mộ phần đục sâu những đá tảng, Đức Giê-su đã trấn an thân thuộc người quá vãng, bằng một khẳng định: “Thầy há đã chẳng nói: nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Và, sự việc tiếp diễn là để mọi người được thấy vinh quang Đức Chúa, ở với Ngài. Toàn bộ trình thuật hôm nay, cần đọc và hiểu như một ngụ ngôn Chúa muốn kể: Đức Giê-su chính là Đức Kitô mà mọi người trông đợi. Việc La-za-rô sống lại từ cõi chết, không chỉ vực dậy thân xác con người vừa chết đi, nhưng còn là biểu trưng một cách hùng hồn về cuộc sống mới. Cuộc sống, mà mọi dân con nhà Đạo có lẽ sẽ từng trải. Là, khi tất cả đặt mình nơi quyền uy sức mạnh của Đức Giê-su là Đức Chúa, Đấng Cứu Độ chúng ta, mọi người sẽ trỗi dậy từ việc chết đi cho những lầm lỡ/lỗi phạm, để rồi đến với sự sống, thấm nhuần tình yêu thương Thiên Chúa. La-za-rô bước khỏi mộ phần, khiến ta nhớ lại lời lẽ thánh Phao-lô mô tả phép thanh tẩy thời Hội thánh tiên khởi. Vào thời đó, người chịu thanh tẩy đều ở bên hồ, cởi bỏ lớp áo trên người, bước sâu vào giòng nước, tượng trưng chấp nhận chết đi cho lỗi lầm mình mắc phạm, thời đã qua. Cũng giống như Đức Kitô Giêsu đi vào với sự chết, mang theo Ngài là toàn bộ lỗi phạm của ta. Để rồi, khi lên khỏi mặt nước, (ở đây, phản ảnh việc Đức Giê-su rời bỏ mộ phần), mặc áo trinh trong tượng trưng cho cuộc sống mới, có Chúa ở cùng. Bằng vào trình thuật hôm nay, thánh Gio-an đưa ta về với bối cảnh Nhiệm tích Lễ Vượt Qua. Dịp đó, ta cử hành mừng kính tình yêu thương Chúa tỏ lộ cho ta, qua mọi sầu buồn, đau khổ. Qua sự chết. Và rồi, đạt sự sống lại của Đức Chúa. Kể như thế, thánh Gio-an cũng đưa người đọc về với bối cảnh trong đó các dự tòng thời tiên khởi chuẩn bị lĩnh nhận ơn thanh tẩy, đêm Phục Sinh. Kể như thế, còn để giúp ta chuẩn bị hầu khởi đầu cuộc sống đích thực với ơn thanh tẩy, ta nhận lãnh. Trong thông cảm cuộc Vượt Qua đầy thống khổ nhưng hy vọng, ta sẽ hát lời ca ý nghĩa, sau đây: Bây giờ tháng mấy rồi hỡi anh? Em đi tìm mùa Xuân trên đời Mùa đông chết đi rồi mùa xuân Mắt ta đẹp trời sao Cho tình mình thương nhớ nhau (Từ Công Phụng – Bây giờ tháng mấy) Vâng. Đã chết rồi mùa đông đầy lỗi phạm, những giá băng. Để rồi, ta đi vào mùa Xuân có thương. Có nhớ. Nhớ rằng: “tình đã chết những mong tình sống lại”. Sống lại với Chúa. Với mọi người. “Khơi kỷ niệm tìm hương thơm mùa cũ” Nghe rất nhẹ mơ hồ như sương phủ Mt 26: 14, 27: 66 (dẫn nhập từ thơ Hồ Công Tâm) Khung trời kỷ niệm mà nhà thơ khơi lại, có lẽ cũng là kỷ niệm mà người dân đi Đạo vẫn có vào buổi phụng vụ Vượt Qua, hôm nay. Khơi lại kỷ niệm, là khơi mào tình thương yêu mến mộ Chúa đã ban, ghi rõ ở trình thuật. Trình thuật ghi hôm nay, diễn tả tình thương Chúa gửi đến với mọi người con yêu dấu, ở trần gian. Tình thương đó, là đặc ân cứu độ ta có được qua mầu nhiệm thống khổ. Qua nỗi chết và sự phục sinh của Đức Chúa. Phục sinh cứu độ, đã giải thoát mọi người. Giải thoát chúng ta. Qua cử hành tuần lễ thánh, Giáo Hội không chỉ “khơi kỷ niệm” cứu độ Ngài thực hiện, thôi. Nhưng, còn giúp ta đồng hành với Chúa. Đồng hành để ta cùng vào quỹ đạo tình thương. Vào cuộc sống. Ở nơi đó, có tình tự bi-ai, sầu-buồn ta từng trải trong cuộc sống. Sống với Chúa. Với mọi người. Phụng vụ hôm nay, trổi bật lên hai sự kiện đan kết nhau trong cùng một nghi thức. Phần đầu nghi thức, cử hành việc Chúa chiến thắng nỗi sầu-buồn, với không khí tưng bừng ngày mừng lễ. Qua cử hành nghi thức, ta sẽ cùng với Đức Kitô tay cầm tàu lá, miệng hát vang rền lời tung hô chúc tụng. Và, hiên ngang tiến vào đền thánh Giê-ru-sa-lem. Đầu cao mắt sáng, nhưng không cao ngạo như vua quan lãnh chúa, ở ngoài đời. Hiên ngang vào cung điện bàn thờ, linh mục chủ tế mặc hồng bào khởi đầu cuộc khổ nạn xưa, Chúa vui nhận. Khổ nạn Chúa vui nhận, gồm hai yếu tố đích thực. Thứ nhất: vào giai đoạn đầu tiến trình Vượt Qua, tình hình ở Do Thái rất sôi sục. Nhà cầm quyền khi ấy, rất lo ngại về một nhen nhúm nổi dậy và kình chống khởi từ phía người Do Thái, do Đức Giê-su khởi xướng. Vốn những lo ngại, họ đành nhúng tay vào lĩnh vực tôn giáo, cốt trừ khử Đức Chúa khỏi hiện trường chính trị và xã hội để tránh hậu họa. Yếu tố thứ hai, là ý nghĩa của cuộc Vượt Qua mới, tức: công trình cứu độ, Ngài thực hiện ngang qua khổ đau thân xác. Khổ đau, không có nghĩa: Cha để mặc Ngài đi vào chỗ chết. Nhưng, khổ đau ở đây do chính Ngài đã tự ý lĩnh nhận cho đến chết. Hầu thực hiện thánh ý Cha. Chấp nhận khổ đau, Đức Kitô tỏ bày tình yêu cao độ Ngài phú ban cho mọi người. Con dân yêu quý nơi nhà Đạo, lẫn kẻ thù ở ngoài. Tình thương Ngài ban, là gương sáng Ngài lĩnh nhận từ nơi Cha. Và, chính tình thương yêu cao cả, đã khiến Ngài hy sinh trọn cuộc sống, quyết thực hiện công trình cứu độ, đã đề ra. Trình thuật khổ đau hôm nay, cho thấy Đức Kitô chấp nhận đặt mình vào hoàn cảnh rất “người”, giống mọi người. Chấp nhận như thế, Ngài đã chuyển tải ý nghĩa của tương quan Ngài vẫn có, đối với ta. Tương quan Ngài có, là thế này: chỉ bằng vào tin-yêu đích thực, ta mới nhận ra việc Chúa làm. Công việc Ngài làm, là biến ý định của Cha thành hiện thực qua kinh nghiệm khổ đau, rất người. Và, bằng vào chết nhục mà người phàm ở dưới thế không thể hình dung. Như, thánh Phao-lô quả quyết: “với người Do Thái, đây là cớ vấp phạm. Với kẻ không tin, đây là điều vô nghĩa lý.” Trình thuật việc Chúa chấp nhận khổ đau và nỗi chết, là điều rất thích hợp và cũng rất thật. Thật đến như thế, mà nhiều người vẫn không tin. Vì họ cứ biện giải: là Chúa, sao Ngài cứ phải khổ đau? Nhiều người không tin Chúa đau khổ, vì vẫn chối bỏ lời Ngài, trong Tân Ước. Rõ ràng, các thánh sử đã quả quyết: Thiên Chúa hạ giáng làm người, Ngài mặc lấy thân phận và tính chất rất “người”. Vì thế, Ngài chấp nhận khổ đau và nỗi chết, là để hoàn tất công trình Cha giao phó. Là người, Đức Chúa nhận thức khổ đau hơn bất cứ ai. Đau khổ nhiều, khi đồ đệ bỏ đi để Ngài lại một mình, nơi vườn Dầu sầu thảm. Và, đau khổ đến tột đỉnh, khi Cha dường như cũng làm thinh. Với bản chất rất “người” của Ngài, Đức Giê-su dốc tàn hơi nói lời cuối của Người Con có bản chất rất “Chúa”: “Lạy Cha! Lạy Cha! sao Cha nỡ bỏ con?”(Mc 15: 34). Thốt lên lời cuối, Chúa công khai tỏ bầy một sự thật: nay, đã hoàn tất công trình cứu độ, Cha trao phó. Mặc lấy tính “người” cho đến chết, Đức Giê-su vẫn có tư cách, quyền uy và thế lực, của người thường. Quyền uy Ngài rất chói sáng, suốt một đời. Chói sáng đến độ, binh đội bắt Ngài, đã phải xử sự cách lạ lùng hệt như kẻ đến để bảo vệ. Và, dù đủ sức phản chống, Ngài vẫn ứng xử đúng theo tư cách của Đấng có uy và có quyền. Quyền uy đến độ, trước mặt quan án rất hùng hổ, Ngài vẫn lặng im không khuất phục. Không bị uy hiếp, lẫn khiếp sợ. Ngược lại, Ngài vẫn nguyện cầu và thứ tha cho kẻ gây sầu, quyết hại Ngài. Cuối cùng, chính lúc Ngài chết đi, là lúc Ngài giúp mọi người được vui sống. Bài đọc thứ hai, thánh Phao-lô đã viết: “Chúa tự trút bỏ con người” của Ngài, cách hoàn toàn. Trút bỏ như thế, Ngài đã lấp đầy thân mình Ngài bằng Thần Khí của Cha. Trút bỏ như thế, Ngài không còn dính dự vào bất cứ gì. Và, để mặc cho vật chất tất cả trở thành hư vô. Đây chính là điều mà những người không có niềm tin-yêu mãnh liệt, không hiểu thấu. Ở cuối trình thuật thống khổ, thánh Mát-thêu có ghi: “Đức Giê-su đã trút linh hồn” (Mt 27: 50). Thông thường, đây là lối nói diễn tả việc Ngài thở hơi cuối cùng. Nhưng, trong bối cảnh công trình cứu độ, điều này có nghĩa: sự sống, nỗi khổ và sự chết của Đức Giê-su, hiểu đúng cách, đã chiến thắng và chuyển quyền uy sức mạnh đến với thế giới nhân trần. Quyền uy ở đây, là sức mạnh của Thánh Thần Chúa vốn lấp đầy nơi thân mình Đức Giê-su, nay được chuyển cho hết mọi dân con đi theo Ngài. Thừa hưởng uy quyền được Chúa ban, đồ đệ chúng ta cũng sẽ trải qua các kinh nghiệm như Thầy từng trải. Nghĩa là: cũng giống Thầy, ta sẽ chứng kiến nỗi khiếp sợ ban đầu. Nhưng, sẽ được tràn đầy quả cảm để không còn hãi sợ nữa. Không sợ, vì đã có niềm vui Thần Khí Chúa ở cùng. Và, dù có bị đưa đẩy vào chốn tù đày có giết chóc có hãm hại, đồ đệ Thầy là chúng ta cũng tồn tại. Sẽ tiếp tục rao truyền Lời Chúa, không khiếp sợ. Và, Sự Thật lâu nay vẫn chứng minh điều này. Đau khổ và nỗi chết của Đức Giê-su ta mừng kính hôm nay, vẫn không là dấu vết của một gục ngã. Nhưng, chính là sự khải hoàn và chiến thắng như cuộc sống các đấng tử đạo và người chứng của Đức Chúa vẫn xác minh, suốt hơn 2000 năm. Trong tinh thần háo hức bước vào tuần mừng Chúa chấp nhận khổ nạn, ta cũng đừng quá tập trung vào những sầu buồn khổ đau của Chúa. Bởi, làm như thế, có người lại coi đó như thú đau thương, thích khổ hình. Trong khi, đau thương và khổ hình chỉ đích thực mang nghĩa thích thú, khi chúng soi dọi và dẫn đến khổ đau và sống lại, của Đức Giê-su mà thôi. Mặt khác, khổ đau con người, tuyệt nhiên không thể mang ý nghĩa của trừng phạt từ Đức Chúa. Thành thử, cũng đừng nên tìm đến khổ đau sầu buồn, để rồi than vãn hoặc công kích. Sự thật thì, khổ đau sầu buồn, vẫn là nguồn gốc dẫn đến mọi tốt lành vì chúng giúp ta trưởng thành hơn. Biết yêu thương, biết chăm sóc và có thiện cảm với những người buồn và khổ. Nói cách khác, khổ đau sầu buồn giúp ta trở nên giống Đức Kitô hơn. Giống, vì nó giúp giải thoát mọi người, trong chúng ta. Trong tinh thần hiên ngang theo Chúa chấp nhận sầu buồn, ta hãy phấn khởi lên mà ca hát: Thôi một giọt nước mắt này Cho cuộc tình đam mê,cho người tình trăm năm, Em về đan tóc lụa là Kết từng chuỗi ngày buồn riêng mang Anh đi về dấu giáo đường Cho cuộc tình bay cao, cho lòng mình xôn xao Em cuộn theo tháng ngày dài Kiếp này trót gặp người cho buồn. (Ngô Thuỵ Miên – Giọt nước mắt ngà) Vâng. Giọt nước mắt ngà, mà người anh người chị đang lăn trào, chắc chắn sẽ không là giọt nước mắt cho Cha, cho Thầy Chí Thánh. Bởi hôm nay, mùa Vượt Qua rất khổ và rất đau, thì cũng đã qua rồi. Còn lại, là ngày rực sáng sống lại của công trình cứu độ Thầy cưu mang. Cho mỗi người và mọi người. Rất hôm nay. Chúa Nhật Phục Sinh Năm A “Chôn chết yêu đương đến tận giờ” Yêu đương sống lại Con Người ấy Lại thấy đời tươi tựa nắng vàng... Gặp gỡ, hẳn duyên trời định trước! (dẫn nhập từ thơ Nguyễn Bính) Ga 20: 1-18 Duyên Trời - Tình Chúa, đã chôn sâu đến ba ngày. Yêu Đương – Thống Khổ, Chúa vùng dậy sống lại với nhân gian. Nhân gian hôm nay, tìm lại được niềm tin bắt rễ nơi lòng người. Tìm ra ý nghĩa sự sống và sự sống lại, nơi Đức Kitô. Đức Kitô sống lại, làm nền tảng cho niềm tin vùng dậy, từ cõi chết. Như thánh Phao-lô từng xác định, khi ngài có thư gửi cộng đoàn Cô-lô-sê, hôm trước: “Nếu Đức Kitô không sống lại, thì niềm tin của ta ra hư luống.” (Co 3: 1-4). Nhận ra ý nghĩa xác thực Lễ Phục Sinh, tín hữu chúng ta đều hiểu: thập giá bỏ trống, không có Đức Giê-su trên đó, là tụ điểm đưa ta về gần Chúa. Thập giá trống, tức Chúa đã tuân thủ hiến mình dâng Cha. Ngài tận hiến vì con người. Ngài không còn đó, Ngài về cùng Cha bước vào sự sống mới. Thập giá bỏ trống, không có Chúa, tức: Chúa đã sống lại thật rồi. Có sống lại, Ngài mới lôi kéo đem con người về với vinh quang, có Cha ở cùng. Về với Phục Sinh, người người mới san sẻ kinh nghiệm khổ đau và vinh hiển. Kinh nghiệm thánh ấy, không phải để tưởng nhớ việc Chúa bừng sống lại mà thôi, nhưng còn đem cho ta ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Ý nghĩa Phục Sinh, mời gọi ta đổi mới con người mình. Đổi từ gốc, như môn đệ Chúa đã đổi và đã trở thành những người, rất mới. Luôn có Cha ở cùng. Chủ đề phụng vụ hôm nay, gồm việc rao truyền lẫn làm chứng tá cho Lời Chúa, đã Phục Sinh. Bài đọc thứ nhất, thánh Phê-rô đề cập đến kinh nghiệm từng trải mọi môn đệ Chúa đã kinh qua. Kinh nghiệm từng trải, là cuộc sống thực tế có tương quan mật thiết với Đức Chúa đã sống lại. Cũng với tương quan này, thánh Phê-rô tuyên tín: Đức Giê-su chết trên thập giá, nay Ngài đã cùng sống với mọi người. Bài đọc thứ hai, cũng mang một ý nghĩa tương tự. Thánh Phao-lô, lúc trước là một Pha-ri-sêu tận tụy và chính trực, từng bức bách nhiều đồng đạo Đức Kitô vì ngỡ rằng họ sai quấy, không giữ luật Chúa theo quan niệm người Do Thái. Gặp Chúa, thánh nhân đã đổi mới toàn bộ con người mình. Đã có cái nhìn chính đáng hơn, về mọi sự. Đặc biệt nhất, thánh nhân đã hiểu rõ ý nghĩa của sự sống và thông điệp Chúa gửi, qua sự kiện Chúa Sống Lại. Rồi từ đó, thánh nhân tận lực giúp đỡ mọi người biết thương yêu, dõi bước theo Ngài. Bài trình thuật, đề cập đến kinh nghiệm về mồ trống và Phục Sinh, đồ đệ Chúa có dịp đã làm chứng. Kinh nghiệm Phục Sinh, là kinh nghiệm bằng mắt thịt THẤY Chúa chết thật, trên thập giá. Là, bằng cặp mắt đức tin BIẾT rằng Ngài nay đã Phục Sinh. Thấy và biết Ngài Phục Sinh, không bằng giác quan thân xác, nhưng bằng niềm tin và yêu. Bởi, Chúa chấp nhận nỗi chết thập giá, là sự kiện rất lịch sử. Nhưng, Ngài Phục Sinh vinh hiển là sự kiện, rất đáng tin. Tin rằng: nay Sống Lại, Ngài đã về với cuộc sống, theo cách mới. Văn kiện kinh thánh thời hậu-Phục Sinh cho thấy: lúc đầu, đồ đệ Chúa không nhận ra thân xác phục sinh của Ngài. Nhưng, khi đã Phục Sinh, Ngài hiện diện sống khắp nơi nơi. Và, đồ đệ chúng ta nay cũng được dạy phải hiện diện giống như thế. Thành thử, sống cuộc sống đã Phục sinh, tức là sống với trạng thái Chúa hiện diện với mình. Sống Phục sinh, tức nay đang sống trong yêu thương thân tình, được vực dậy. Sống Phục Sinh, tức cộng đoàn ta nay trở thành Mình Chúa, được vực dậy để sống, có đổi thay. Vì thế, ở đoạn kế tiếp, thánh Gio-an ghi thêm chi tiết, bảo rằng: chính thánh Phê-rô và người “môn đệ Chúa yêu” đã về báo cho anh em điều mình phát hiện. Đặc biệt hơn cả, là phát giác của Ma-ri-a Mác-đa-la cứ đăm đăm nhìn Chúa, nhưng không THẤY. Nhìn Thầy của mình, nhưng chị cứ ngỡ người-làm-vườn này đã đem Thầy đi nơi khác. Trình thuật thánh Gio-an ghi hôm nay, đề cập đến chữ “vườn”, là nơi chôn cất Chúa. Khi xưa, “Vườn” là nơi A-đam Cũ đã lỗi phạm. Nay, cũng ở nơi “vườn” Đức Chúa Phục Sinh, đã khởi đầu công trình Cứu Độ. Công trình do A-Đam Mới thực hiện. Và, cũng trong trình thuật khi “Người-làm-vườn-Ban-Ơn-Cứu-Độ” gọi đích danh tên mình, Ma-ri-a Mác-đa-la mới nhận ra Thầy. Và, từ “vườn” Phục Sinh, Ma-ri-a Mác-đa-la về báo cho các môn đệ Chúa, chi tiết: “Tôi đã THẤY Chúa” (Ga 20: 18). Xem thế, THẤY và BIẾT Chúa là hai động tác, nhưng cùng một kinh nghiệm. Kinh nghiệm rằng: chỉ thật sự BIẾT được Chúa Sống Lại, nếu ta quyết tâm đổi mới chính mình. Không đổi mới, không thể nói mình thật sự tin Chúa sống lại. Ngay Ma-ri-a Mác-đa-la, người nữ phụ theo chân Thầy Chí Thánh chỉ có kinh nghiệm THẤY và BIẾT Thầy Sống Lại, khi chị đổi mới hoàn toàn thân mình đầy lỗi phạm, khi trước. Cũng thế, ta chỉ THẤY và NHẬN BIẾT được Chúa nơi môn đồ đã đổi mới của Chúa. Và, chỉ những người thực sự đã đổi mới, mới có thể gọi mình là đồ đệ, bước theo chân Thầy, mà thôi . Thánh Phao-lô đã xác định thêm chuyện này, khi thánh nhân có thư gửi đến cộng đoàn Cô-rin-thô, và bảo: “Anh em hãy loại bỏ men cũ đi mà trở thành bột mới.” Men và bột, đã được vực dậy. Đã sống lại. Cùng chiều hướng tương tự, thánh Phê-rô nhấn mạnh ở bài đọc thứ nhất: điều quan trọng với đồ đệ Đức Giê-su không chỉ là kinh nghiệm và vui hưởng niềm hạnh phúc có Chúa sống lại, mà thôi. Nhưng, còn phải chia sẻ kinh nghiệm và niềm vui chung ấy với nhiều người. Chia sẻ bằng cách rao truyền và làm chứng cho Chúa đã sống lại (Cv 10: 42-43). Và, thánh Phê-rô đại diện Hội thánh hôm nay kêu gọi con dân Đức Chúa hãy triệt để đổi mới chính mình. Đổi, tận thâm căn. Đổi, như người Do Thái đã đổi bằng biểu tượng vứt bỏ bánh có men để chỉ giữ lại bánh không men, đã vực dậy. Đã đổi mới. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, ta hãy dùng dây đo thước đạc mà đo lường chính mình. Đo và lường, không theo kiểu người tín hữu khi xưa, nhưng như người con bình thường, ở trần thế. Đo và lường, là tháp nhập vào cách thức Đức Giê-su đã thực hiện. Cách của Sự Thật và Sự Sống. Tức, tái lập tương quan mật thiết với Chúa. Với tất cả những người anh người chị, của chúng ta. Nơi cộng đoàn ta đang sống. Tức, đem công bình, tự do và an vui đến với mọi người. Với thế giới hiện tại. Trong tinh thần đo và lường lòng mình để trở nên một với Đức Kitô Phục Sinh, ta cứ vui mà hát với người nghệ sĩ hôm nay:
Rồi cuộc vui tàn, mọi người bước đi một mình tôi về, nhiều lần ướt mi chờ tình yêu đến trong ánh nắng mai xóa tan màn đêm u tối cho tôi biến đổi tâm hồn thành một người mới.. (Và con tim đã vui trở lại… Đức Huy)
Con tim nhà nghệ sĩ, tim mọi người nay vui trở lại. Vui, vì màn đêm được tan xoá. Vì, tâm hồn người anh người chị, và chúng ta đã biến đổi thành người mới. Những người đã thấy “đời tươi vui tựa nắng vàng”. Chúa Nhật 2 Phục Sinh Năm A “Tháp cho người đôi cánh lớn hăng say” Như đại bàng khi dũng mãnh nghiêng vai Săn hạnh phúc từ vòm trời lý tưởng. Ga 20: 19-31 (dẫn nhập từ thơ Nguyễn Tất Nhiên) Đại bàng dũng mãnh trên đời, có còn săn hạnh phúc như thời xưa không? Việc này không rõ. Nhưng, Đại Bàng Tình Thương, nay vẫn tháp cánh cho người. Để người người cứ hăng say rao truyền hạnh phúc, nơi vòm trời lý tưởng. Chốn an bình. Vòm trời lý tưởng – hăng say hạnh phúc, cũng là tình tự thân thương, ngày Chúa hiện đến. Trình thuật ngày Chúa hiển hiện, mang an vui đến với tất cả mọi người. Từ dân con đồ đệ, cho chí dân lành nhà Đạo, đang hãi sợ. Dân con hãi sợ, vì vốn biết mình đồng hành với Đức Chúa, ắt phải chung số phận, bị đóng đinh. Vì sợ hãi đủ điều, nên đồ đệ Chúa vẫn “cửa đóng then cài”, không ngờ Ngài đến thăm. Bình an cho anh em - shalom, là một khẳng định, và cũng là lời chúc. Lời chúc, người Do thái vẫn quen gửi đến mọi người mình gặp, trong ngày. Shalom - Bình an cho anh em, cũng là lời chào của Đức Chúa, tái khẳng định về lời hứa, khi tạ từ. Lời hứa ấy, nay được thực hiện. Lời hứa hôm tạ từ, Ngài quả quyết: bình an Ngài để lại, sẽ không hư nát, và cũng chẳng bị lấy đi. Bình an cho anh em, nay đã thành một thực thể. Thực thể có Chúa. Có anh em đồng đạo. Có cả niềm hoan lạc, Chúa đem đến. Như Cha đã sai Thầy thế nào, Thầy cũng sai anh em như thế (Ga 20: 20). Một lần nữa, sứ mạng Thầy sai đi, gồm tóm những hai điều: trước nhất, là sự bình an Cha trao cho Thầy. Nay, Thầy cũng chuyển lại cho anh em, hệt như thế. Anh em cũng nên theo cùng một kiểu, mà làm cho nhau. Để rồi, cùng Thầy, anh em sẽ tiếp tục sống đời cộng đoàn. Có tình thương. Với an bình, của Thầy. Và, sứ vụ Thầy gửi gấm, là phần cốt thiết nơi vai trò người đồ đệ. Và, là kinh nghiệm nhận thức và yêu thương của Đức Chúa. Và, đem kinh nghiệm này đến với mọi người. Để rồi, người người sẽ hoà hợp và hân hoan tiến bước hầu rao truyền tình thương rộng rãi, chốn dương gian. Đích thực ý nghĩa phụng vụ, ta tiến hành. Hãy nhận Thánh Thần và tha thứ cho nhau, đây là một sáng tạo mới, Chúa tác thành. Sáng tạo mà Ngài đã làm cho người con, ngay từ buổi đầu đời. Tác thành đổi mới, là yêu cầu cấp thiết Chúa gửi đến với dân con đồ đệ. Tác thành đổi mới có Thánh Linh ở cùng, sẽ giúp tông đồ chắp cánh hăng say bằng thị kiến và năng lượng, cũng rất mới. Khi tiếp nhận năng lượng - thị kiến Ngài trao ban, ta cần chuyển đạt cho người anh người chị trong cộng đoàn yêu thương, có Chúa. Tha thứ và cầm buộc Chúa nói, không chỉ có nghĩa ta hãy quên đi các lỗi phạm đã vướng mắc, thôi. Nhưng, còn làm hoà một cách thâm sâu với Chúa. Với nhau. Đây, cũng là sứ mạng mới Chúa uỷ thác. Ngõ hầu thu phục mọi người về lại với nhau. Như anh em một nhà. Và, đây còn là mục tiêu mọi người phải đạt: chính là Vương Quốc Nước Trời. Chốn vui sống an hoà ở trần gian. Chính là điều, mà các tông đồ đồng thanh kêu lên: “Chúng tôi đã THẤY Chúa.” (Mt 28: 25) Hãy đặt ngón tay vào đây, và xem tay của Thầy. Tô-ma thánh nhân đã làm như thế. Và, ông THẤY được Bình An. Ông bèn thưa: “Lạy Chúa của con!”. Và, Chúa cũng tiếp lời: “Phúc cho ai chẳng được THẤY, nhưng vẫn tin!” Lời vàng tựa hiến chương đây, Chúa không chỉ chuyển đến cho riêng mình Tô-ma, mà thôi. Nhưng, cho tất cả những người chưa BIẾT Ngài, vào độ trước biến cố Phục Sinh. Và cũng từ biến cố Phục Sinh, dân con đồ đệ đã nhận BIẾT Chúa, bằng niềm tin – yêu. Tin rằng Thầy sẽ ở lại mãi mãi. Với mọi người. Qua việc ta làm. Bởi, Ngài là Bình An và An vui đích thực. Trong bối cảnh an bình như thế, Hội Thánh Chúa đã được gầy dựng. Gầy dựng lúc này, để rồi ta cử hành ngày sinh của Hội thánh vào lễ Ngũ Tuần, sắp tới sau. Nhưng, ngay từ giờ phút ấy, đàn con Hội thánh Chúa đã quây quần tụ hợp, thực hiện lời Chúa trăn trối, cả vào trước lúc Chúa Phục Sinh. Quây quần, như bài đọc hôm nay ghi rõ:“Tín hữu ân cần nghe Tông đồ giảng, luôn hiệp thông tham dự lễ bẻ bánh và không ngừng nguyện cầu.” (Cv 2: 42) Quây quần hiệp thông, để ta có thể cùng sống với Đức Kitô. Trong Đức Kitô. Bằng sinh hoạt cụ thể, ở đời thường. Tin tưởng và lắng nghe lời dạy của Hội thánh; ta luôn nối kết các người anh em trong cộng đoàn. Quây quần hiệp thông, để ta cùng tham dự lễ bẻ bánh. Và nguyện cầu. Đó, chính là huyết mạch đời sống của Hội thánh. Bây giờ, và lúc xưa. San sẻ và cùng sống với Hội thánh, tín hữu Đức Kitô vẫn tuân theo lời giảng dạy từ các bậc thày trong Đạo. Đây mới là truyền thống liên kết, hết mọi thành viên chúng ta. Truyền thống liên kết, ngang qua chứng từ tiên khởi được duy trì nơi Tân Ước. Liên kết, cả vào bối cảnh hiệp thông được duy trì, từ nhiều thế kỷ. Truyền thống Hội thánh, vẫn được thể hiện qua cách sống của người tín hữu. Sống theo lời dạy của Đức Chúa. Qua nhiều thế hệ. San sẻ và cùng sống với Hội thánh, còn là thể hiện tình thân thương anh em mà tiếng Hy lạp gọi là “koinonia”, tức sống tình đệ huynh của người con cùng nhà. Sống tình huynh đệ, là sống Lời Chúa qua căn dặn: “Bằng vào lối sống này mà mọi người biết được các con là môn đệ của Thầy, là các con hãy yêu thương lẫn nhau như anh em”.(Ga 13: 35). Yêu thương nhau theo cách thế của anh em, ta mới chứng minh cho mọi người biết được quyền năng của Đức Kitô, trong đời sống. Có yêu thương nhau, ta mới lôi kéo được mọi người về với cùng một niềm tin và niềm yêu. Bởi, ta chỉ có thể đến với Chúa, qua các người anh em của ta, thôi. Dự tiệc Bẻ bánh, nay gọi là Tiệc Thánh Thể, (hay Tiệc agapè của Lòng Mến), là sinh hoạt trọng tâm của cộng đoàn tín hữu Đức Kitô. Có tham dự Tiệc của Lòng Mến, ta mới xác minh được là mình đã quyết tâm sống hiệp thông san sẻ, trong yêu thương. Đùm bọc. Sống như con cùng một Cha. Như tông đồ đích thực của Thầy Chí Thánh. Sống nguyện cầu, là cuộc sống của mỗi thành viên Hội thánh, trong mọi ngày. Sống không cho riêng mình. Nhưng quan tâm đến nhau. Nguyện cầu cho nhau. Cả trong nguyện đường. Lẫn ngoài phố chợ. Sống trong nguyện cầu, là lối sống đã và đang được đào sâu, mở rộng từ nhiều thế kỷ qua. Sống trong nguyện cầu, không chỉ đơn giản có ca hát, hoặc đọc kinh. Nhưng, còn chiêm nghiệm hoặc có kinh nghiệm niệm suy, thương mến. Sống nguyện cầu, là việc cần thiết cho mọi kẻ tin. Không nguyện cầu, không thể bảo mình là đồ đệ theo Chúa, rất chính danh. Tóm lại, khi đã quyết tâm sống nguyện cầu với cộng đoàn, ta mới được bảo đảm như thánh Phê-rô viết trong bài đọc: “Nhờ Ngài, ta được tái sinh để nhận lĩnh một hy vọng sống và lời hứa ban cho gia tài không hư nát, không vẩn đục và tàn phai… để rồi, nhờ vào lòng tin, ta được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ đến đời sau hết.” (1P 1: 4). Và khi sống hiệp thông tình cộng đoàn, ta còn được bảo đảm khác: “Anh em được chan chứa niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người.” (1P 1: 8-9). Thành quả niềm tin Ơn cứu độ, nghe như khuôn sáo, nói nhiều lần. Nhưng kỳ thực, lời của thánh Phê-rô đã trở thành niềm mơ ước ta khao khát từ lâu. Ước mơ và khao khát, như con người tổng thể nằm gọn trong vòng tay yêu thương của Đức Chúa. Trong trông đợi được chắp cánh hăng say, ta mạnh dạn hát lên lời ca thuở nào: “Nếu đời là một giấc chiêm bao Xin yêu em thiết tha như yêu lần đầu Anh muốn yêu em dài lâu Anh muốn yêu em dài lâu Anh muốn yêu em đậm sâu Anh đã thương em từ lâu Anh muốn yêu em dài lâu”. (Đức Huy –Yêu em dài lâu) Vâng. Yêu em dài lâu, vẫn là lời của người anh người chị trong cộng đoàn tình thương nói với em. Và với ta. Những người con vừa được chắp hăng say, niềm tin – yêu mới. Tin và yêu có Chúa Phục Sinh ở cùng ta. Cùng cộng đoàn tình thương, trong Vương Quốc Nước Trời. Nơi có tình anh yêu dài lâu. Có cả Đại bàng Tình Thương, luôn hạnh phúc. Chúa Nhật 3 – Mùa Phuc Sinh Năm A “Và những Con Đường thật riêng tây” Ở chỗ nhân gian không thể hiểu Tôi xin Người sớm phục sinh tôi. (dẫn nhập từ thơ Du Tử Lê – Bài nhân gian thứ nhất) Lc 24: 13-35 Những Con Đường thật riêng tây, như Em-mau đường đời. Có Chúa sống lại. Có sự hiện diện thân quen của đồ đệ gặp Thầy, là trọng tâm trình thuật bừng giấc vui, buổi hôm nay. Trình thuật hôm nay, là truyện kể về hai đồ đệ thân quen trên đường Em-mau, lòng đượm những sầu buồn, rất “riêng tây”. Con Đường riêng tây hôm ấy, Thầy không hẹn mà gặp. Có chuyện trò bàn bạc. Có giảng giải phân minh, suốt hành trình. Và, hành trình riêng tây đã phản ánh ngôn hành gặp gỡ sống Đạo, đầy Phúc Âm. Hành trình riêng tây sống Đạo, theo ngôn ngữ Hy Lạp hodos (có nghĩa là: “Con Đường”), đã xuất hiện trong bối cảnh Tin Vui An Bình, ở Tân Ước. Trình thuật về “Con Đường”, mà các tín hữu khi xưa vẫn gợi nhớ những “Người bước theo Con Đường, Chúa đi”. Và, vấn đề về “Con Đường” hôm nay, là: quá nhiều người đồ đệ theo Chúa nay vẫn lạc. Lạc Đường, lạc lối vì vô tâm hay cố tình đi trệch dẫn đi xa. Hành trình Con Đường trần thế, theo thánh sử Luca, là tập trung hướng về tụ điểm có cứu độ của Đức Chúa. Và, chính đó là ưu tư buồn bã, mà đồ đệ Chúa, vẫn ngộ nhận. Ngộ nhận lớn, là: sau cái chết của Thầy, dân con đồ đệ như mất hướng, rất chán nản. Tuyệt vọng. Họ tuyệt vọng, là bởi đã cản trở không để Chúa hiện diện đi vào đường đời của chính mình. Đức Chúa chỉ đi vào “đường đời riêng tây của mọi người một cách thầm lặng và bất ngờ”. Ngài thường đến với cuộc đời mỗi người qua hình hài người bạn thân, đồng môn hoặc đồng nghiệp. Hoặc, như một khách lữ hành, ngang qua đời mình. Cũng có thể, là người mà ta yêu thương, ngưỡng mộ, hoặc ghét bỏ sợ sệt, chỉ muốn quên. Đến với ta, Chúa có thể mang thân phận hình hài của biến cố. Một sự vật. Không hình tượng, hoặc cũng chẳng định hình. Nhưng, qua các sự vật và hình hài ấy, Ngài muốn nói với tất cả thật nhiều điều. Nhưng có điều là: con người cứ tự che kín không nhận ra, đấy thôi. Điều quan trọng nữa , là ta phải xác tín rằng: trong hành trình đường đời, chẳng khi nào ta cô đơn, lẻ bóng. Bởi, Ngài vẫn luôn hiện diện ngay đó, như Ngài từng nói: “Thầy sẽ ở lại với các con mọi ngày, cho đến ngày sau hết”. Tuy vậy, đôi lúc ta hành xử giống hệt đồ đệ thân quen trên Em-mau đường đời, ta cứ ngỡ là Ngài bỏ rơi. Để ta lại một mình. Chẳng đoái thương. Thực tế đời thường từng minh chứng, Ngài vẫn ở gần bên, mỗi khi ta gặp âu sầu, bức bách. Cả những lúc lo âu, ta vẫn thấy như có ai hỏi: “Các anh vừa trao đổi với nhau về gì vậy?” (Lc 24: 17). Đây là điểm hẹn để ta có thể gặp gỡ Chúa. Tuy nhiên, không phải như nhiều người thường nghĩ: khi cầu nguyện, là ta có thể trút bỏ mọi yếu đuối, buồn đau và khổ ải. Là dẹp bỏ được các hờn căm, chán chường. Mà nguyện cầu thực sự là biết suy tư ứng nghiệm Tin Mừng và lấy đó làm đường hướng quyết tâm đi theo. Trong thực tế ngày thường, khi gặp khó khăn, ta nên tập trung nguyện cầu. Nguyện và cầu ở đây, không phải để xin xỏ. Nhưng, là giáp mặt gặp gỡ với Ngài tại nơi ta gặp thấy khó khăn. Vì, Ngài thường hiển hiện, gặp ta vào lúc ấy. Gặp gỡ trực diện Đức Chúa, vẫn xảy đến những đối thoại đáng ngạc nhiên, như nhận định vừa nghe: “Ông hẳn là người duy nhất không hay biết” (Lc 24: 18), Chúa bèn hỏi: ”Chuyện gì vậy?” Và, trọng tâm của gặp gỡ càng đi sâu vào điều họ phân trần: “Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en.” (Lc 24: 21) Lời đáp của Ngài đã cho thấy: hy vọng dấy lên trong họ đã có nền tảng thật, nhưng ý niệm về phương cách Chúa thực thi công cuộc cứu chuộc, chắc đồ đệ chưa nắm rõ. Hầu hết trong các tình huống gặp gỡ Chúa, ta đều không nhận ra Ngài. Hoặc có nghe Ngài nói đó, nhưng vẫn không hiểu về ơn cứu chuộc, Ngài thực hiện. Và, giải thích của Chúa đã làm nền tảng cho chiến thắng khải hoàn, như Ngài nhận định: “Lòng trí các anh thật chậm tin vào lời các ngôn sứ. Nào Đấng Kitô há có chịu khổ hình như thế, mới đi vào vinh quang của Người sao?” (Lc 24: 25) Gặp gỡ Chúa, còn là tìm Ngài trong Sách Thánh. Vì, ở nơi đó, Ngài tỏ bày đối thoại với muôn dân. Đáng tiếc thay, nhiều con dân Đức Chúa rất đạo đức sốt sắng, nhưng lại không có cơ hội tìm gặp Ngài nơi Lời Chúa. Có người cũng đọc nhưng hiểu theo cách lầm lạc, không được chú giải ý nghĩa cho tường tận. Đọc Lời Ngài, tưởng cũng nên am tường các quá trình điển tích hoặc biểu trưng ghi rõ nơi Cựu và Tân Ước. Hiểu thấu đáo tường tận Lời Chúa nơi kho tàng vô giá của Kinh Sách, cũng nên giống như đồ đệ trên Con Đường riêng tây, cảm nhận lòng “bừng cháy khi tiếp chuyện cùng Ngài” (Lc 24: 32). Là con dân Đạo Chúa, ta sẽ nhận thấy lòng mình bừng cháy vào Tiệc thánh có Phụng Vụ Lời Chúa. Vì, Lời Chúa chính là Bánh Hằng Sống nuôi dưỡng niềm tin yêu, trong cuộc đời. Của mọi người. Không tìm về với Lời Chúa trong Kinh thánh, là chưa thực sự gặp gỡ Ngài. Không tìm cách nuôi dưỡng đời mình bằng Lời của Ngài, là vẫn đi trệch Con Đường riêng tây, Ngài mở rộng. Chính qua nhận thức cách Ngài bẻ bánh, “Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người” (Lc 24: 31). Và, Giáo hội tiên khởi vẫn gặp gỡ nhận ra Ngài bằng Tiệc Lời Chúa, Bẻ Bánh. Tiệc Bẻ Bánh Thánh Thể, chính là phương cách Chúa hiện diện giữa chúng ta. Nói cách khác, mỗi khi tập hợp cử hành Tiệc Bẻ Bánh, chia sẻ Lời Chúa theo hình thức cộng đoàn, thì đã có sự hiện diện đích thực của Ngài. Và, khi đã nhập Tiệc, con dân của Chúa được trông đợi là đã vứt bỏ đi mọi oán thán, hờn căm và ghen ghét. Và, một khi đã có kinh nghiệm yêu thương của người đồ đệ như được mô tả: “họ đứng dậy, quay về Giê-ru-sa-lem gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp.” (Lc 24: 33). Ngôn hành đồ đệ, nói lên sinh hoạt của Giáo hội tiên khởi đã biết quay về sẻ san kinh nghiệm yêu thương, với nhau. Cho nhau. Sẻ san kinh nghiệm, để mọi người nhận ra và dấn bước theo Đường Chúa Đi. Đường Ngài đi chính là Sự thật. Và, cũng là Sự Sống, gương mẫu cho cuộc đời. Cuối cùng, mọi người đều thấy được nơi trình thuật Đường riêng tây Em-Mau, hình ảnh của Tiệc Thánh Tình Thương. Vào buổi ấy, Chúa tiềm ẩn nơi người thường ở huyện. Người khách lạ, chưa từng quen biết. Một Kitô khác trong cộng đoàn. Tiệc agapè Thương Yêu, chính là một gặp gỡ thân mật nơi Con Đường riêng tây, Chúa gặp. Ngài gặp gỡ, không chỉ riêng tư một người, hay cặp đồ đệ thân quen, mà là tất cộng đoàn dân Chúa. Cộng đoàn người dưng ta chung sống, cần sẻ san. Trong nhận thức tri ân gặp gỡ ấy, ta hân hoan gióng lên tin vui an bình mà hát:
“Còn nhớ phút giây gặp gỡ Mùa xuân muôn hoa sắc hồng Chiều xuống gió xuân nồng cháy Người cho môi em ngỡ ngàng Người đến cho tình em chợt mở Muôn hoa thổn thức.” (Xuân yêu thương-Lời Việt của Quỳnh Giang)
Vâng. Sẽ là Xuân Yêu Thương, mỗi phút giây ta gặp gỡ. Gặp, với cộng đoàn. Gặp, ở Tiệc agapè đầy thương mến. Tiệc có muôn hoa sắc hồng. Có muôn hoa thổn thức riêng tây, những Con Đường. Đường, của Phục Sinh tôi. Phục Sinh anh và chị. Phục sinh của chúng ta. Những người anh người chị đầy Yêu Thương, của mùa Xuân kéo dài.
Chúa Nhật – Mùa Phuc Sinh Năm A “Mưa đã chờ tôi, mưa đã mưa” Mai kia sống với vầng trăng ấy Người có còn thương một bóng cây Góc phố còn treo đôi mắt bão Ai nhớ ngàn năm một ngón tay? (dẫn nhập từ thơ Du Tử Lê) Ga 10: 1-10 Ngàn năm một ngón tay, tôi nhớ lời Thầy chỉ dẫn. Thầy vẫn chỉ và vẫn dẫn, bằng ngón ngàn yêu thương nơi tình Chúa Chiên Lành, ở trình thuật. Vẫn hôm nay. Trình thuật hôm nay, gồm hình ảnh về “Lời kêu gọi”, Chúa đợi chờ. Hình ảnh Vị Mục Tử Nhân Hiến chăn dắt đàn chiên, là lịch sử dân Chúa trải dài nhiều tháng năm. Và, hình ảnh Chúa Chiên Lành, là ảnh hình sắc nét từng xuất hiện rất nhiều, nơi Tân Ước. Bởi thế, khi nhắc nhở ảnh và hình của chiên con được Chúa dẫn dắt, người Do Thái hiểu ngay điều Chúa muốn nói. Ở các nơi, như đất miền có không khí dịu mát, ảnh hình về người chăn dắt chiên con là chuyện ít thấy. Có nhiều nơi, bà con chưa từng biết chiên lẫn cừu. Biết hay chăng, cũng chỉ thấy trên phim ảnh - truyền hình, nhiều quảng cáo. Càng hiếm hơn, là ảnh hình của kẻ chăn luôn ôm gọn chiên con hiền vào vòng tay trìu mến, rất thường thấy ở đất miền Trung Đông, dân dã ấy. Nơi Kinh Sách miền Trung Đông bừng cháy, tương quan ta có giữa vị mục tử nhân hiền với chiên con nhỏ bé, là chuyện thường ngày xảy ra. Ở nơi đây, kẻ chăn dắt chiên đàn vẫn cứ ngày ngày tìm đến đồng cỏ xanh mầu mỡ, mà an vui. Và kẻ chăn, vẫn ở lại với chiên suốt ngày dài đến nắng quá chiều hôm. Chiều hôm đến, kẻ chăn hiền lại cất giữ bảo vệ chiên nhỏ như ưu ái đàn con dại, trước mọi hiểm nguy đang chực chờ từ sói dữ. Ở đất miền Trung Đông, người mục tử luôn đi trước ới gọi, và chiên đàn cất bước men theo, nghe rõ tiếng gọi người chủ chăn hiền. Nơi Tin Mừng nhất lãm, các qui chiếu về chiên con và mục tử được nhắc đi nhắc lại, nhiều lần. Ở Tin Mừng thánh Mác-cô, Chúa chạnh lòng thương thấy đám đông “như chiên bầy không chăn dắt” (Mc 6: 34). Và, thánh sử hàm ngụ: Đức Chúa là Mục Tử Nhân hiền chăn dắt chiên đàn như vị từ mẫu, rất thân thương. Với thánh Gio-an, Đức Chúa đáp lại lời công kích/khích bác của nhóm Pharisêu/Biệt Phái vẫn trách cứ Ngài lân la gần gũi đám tội nhân, nhơ bẩn. Riêng thánh Luca ghi rõ, Đức Chúa dám bỏ chiên đàn 99 con ở lại, để tìm kiếm mỗi chiên lành, nay lạc mất (Lc 15: 3-7). Còn đối với thánh Mát-thêu, tín hữu Đức Kitô vẫn được cảnh báo về đám tiên tri giả lân la quanh họ. Tiên tri giả ấy, kỳ thực chỉ là lang sói đội lốt chiên con rất hiền từ. Và thánh sử lại ghi: ở thời sau hết, “muôn dân thiên hạ tập hợp trước mặt Người, và Người tách biệt họ như mục tử tách biệt chiên - dê” (Mt 25: 32). Tin Mừng thánh hôm nay, thánh Gio-an ghi lại 10 câu gọn ngắn, rất xác thực. Cả 10 câu, bao gồm hai dụ ngôn, rất tách biệt. Dụ ngôn đầu, là để cảnh cáo người đến để bắt chiên. Và ở truyện sau, Chúa nhấn mạnh đến tương quan mật thiết giữa chiên hiền với kẻ chăn. Nhưng, ảnh hình làm trọng tâm cho Tin Mừng hôm nay, nói Chúa Chiên Lành chính là cửa ngõ. Và sau đó, Ngài lại công khai bày tỏ: “Tôi LÀ cửa cho chiên ra vào… Tôi đến, để chiên con được sống và sống dồi dào (Ga 10: 10). “Cửa cho chiên ra vào” nói ở đây, hàm ngụ ý nghĩa Ngài lĩnh đạo cộng đoàn có trọng trách chăm sóc chiên, không chểnh mảng. Trong quá trình chăm nom chăn dắt, chiên nghe biết tiếng gọi của kẻ chăn. Và, kẻ chăn biết rõ tâm tánh chiên. Cả đôi bên, vẫn tương quan mật thiết. Vẫn liên kết phục vụ, thật ăn ý. Đó là tương quan thường tình. Là quan hệ hiểu biết, rất trân trọng. Trân trọng tự do của đôi bên. Chiên con ra vào cửa chuồng thoải mái, không bị ràng buộc bằng nội qui, những luật và luật. Nhưng, bằng tình thân trân trọng, có tự do. Các chiên lạ thuộc ràn khác, chỉ đứng đằng sau. Những ngỡ ngàng và ngơ ngác. Nên, khi đi xuống đồng cỏ xanh tươi, chiên lẳng lặng tuân thủ “vì đã quen tiếng gọi, người chủ chăn”. Ở sách tiên tri Ê-dê-ki-en, có đoạn tuyệt tác nói: các kẻ chăn người Israel bị lên án về tộì bỏ trốn trách nhiệm Chúa trao gửi. Khiến, Ngài hơn một lần xác định: “Ta là ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của chúng. Ta ở với chúng, còn chúng, nhà Ít-ra-en, chúng là dân của Ta. Phần các ngươi, hỡi các chiên của Ta, các ngươi là đàn chiên trong đồng cỏ của Ta. Các ngươi là phàm nhân, còn Ta là Thiên Chúa các ngươi.” - sấm ngôn của Đức Chúa, là Chúa Thượng. (X. Êd 34: 30-31) Sấm ngôn Chúa Thượng là như thế. Dụ ngôn Chúa kể là như vậy. Thế mà, tông đồ Chúa vẫn chưa hiểu. Đây là trường hợp thường thấy trong Tin Mừng nhất lãm. Thánh Mác-cô viết rất: “Phần anh em, mầu nhiệm Chúa đã được ban cho anh em; còn với những người ở ngoài, phải dùng dụ ngôn, để họ có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy, có lắng tai nghe cũng không hiểu, kẻo họ trở lại và được ơn tha thứ."(Mc 4: 10-12). Ở đây nữa, khi viết “người ở trong” và “người ngoại cuộc”, Đức Giê-su nói rất rõ điều Ngài muốn nói. Ngài cho thấy Ngài là “Cửa ngõ” cho chiên con ra vào. Và, người vào từ cửa khác, đều không đáng tin cậy. Là “Kẻ trộm, họ chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Và, ai “qua tôi mà vào thì sẽ được cứu.” (Ga 10: 8). Và trình thuật hôm nay kết cấu bằng một tin vui rất an bình: “Phần Tôi, Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10: 9). Sống dồi dào, chính đó là quả quyết của Đức Chúa Phục Sinh. Theo chân Chúa mà bước đi, người người sẽ có được cuộc sống đầy đặn, rất dồi dào. Chính đó là phần thưởng, ngay đời này, dành để cho những người dấn thân theo bước chân mềm phục vụ của Đức Chúa. Như nhà văn nọ từng cảm kích bằng nhận định: “Tin Vui An Bình, là quả quyết chắc nịch về cuộc sống. Sống một đời người”. Theo Chúa sống đời kẻ chăn, là đáp ứng lời “ới gọi” từ Thầy Chí Ái, rất hôm nay. Hiền thê của Thầy là Giáo hội Chúa, đang cần đến kẻ chăn tình nguyện theo Chúa, hầu rao truyền Lời Ngài. Cần, “người mở cửa” cho chiên ra vào. Cần người thiện nguyện đáp ứng lời gọi khẩn thiết của Thầy. Lời gọi còn đó, nhưng có người hiểu sai vai trò thiện nguyện phục vụ của kẻ chăn. Hoặc, theo nghĩa hạn hẹp. Hạn hẹp và gói gọn, trong khuôn khổ đời sống linh mục/tu sĩ xa vời cuộc sống bình thường, của chiên con. Lời Thầy gọi kiếm kẻ chăn hôm nay, được gửi đến với tất cả chúng ta. Gửi, để ta có thể thực hiện công việc “mở cửa cho chiên” qua vai trò riêng rẽ trong cộng đoàn rộng lớn, của kẻ tin. Trừ phi ta quan niệm nhu cầu đáp ứng lời “ới gọi” của Thầy theo ý nghĩa khác, lời Thầy khẩn thiết vẫn được gửi đến mỗi người, hầu đáp ứng phù hợp nhu cầu phục vụ trong cộng đoàn dân Chúa. Nhu cầu đóng góp dựng xây cho cộng đoàn mình tăng trưởng, là trọng trách của mỗi người. Và mọi người. Trừ phi thành viên cộng đoàn thấy được: ân sủng đáp lời “ới gọi” của Thầy được gửi là để ta đáp ứng, bằng không cũng sẽ chỉ là tiếng kêu nơi sa mạc hoang vắng, rất âm u. Chính vì thế, có nhiều người lo ngại rồi ra cộng đoàn dân Chúa ứng xử theo não trạng của “siêu thị bán buôn”, trong đó người dân đi Đạo tựa như “đi chợ”. Ở nơi đó, Giáo hội Chúa chỉ cung cấp món hàng tinh thần hoặc linh đạo, khi ta cần thôi. Nhưng mối nguy của siêu thị như thế, là: rồi ra không còn hàng linh đạo để giao bán. Và, cũng không có người phân phối phục vụ, khi khách hàng có nhu cầu. Cộng đoàn tín hữu Đức Kitô chỉ có thể gia tăng và phát triển nếu thành viên biết đóng góp phần tốt đẹp của mình vào sự sống còn của cộng đoàn như một tổng thể, mà thôi. Và, khi mọi thành viên đều đóng góp phần tốt đẹp của mình như thế, cả cộng đoàn sẽ lĩnh hội trong sung mãn. Và sự sung mãn ấy, là điều Đức Giê-su nói đến trong trình thuật, rất hôm nay. Hôm nay, ngày đề nghị mọi con dân hãy nguyện cầu cho ơn “mời gọi” kẻ chăn dắt đàn chiên. Ắt hẳn ai cũng sốt sắng hưởng ứng lời đề nghị ấy. Nhưng, có điều nguy hiểm là: ta vẫn chỉ nguyện cầu để có được đáp ứng từ người khác, chứ không từ chính mình. Để có thể nói lên ý nguyện này với sự trung thực của người đồ đệ Thầy Chí Thánh, cũng nên tự hỏi: Chúa có mời gọi tôi đóng góp phần riêng của chính mình cho việc dựng xây cộng đoàn tình thương. Cộng đoàn giáo xứ chăng? Thực tế, chắc hẳn mọi người trong cộng đoàn đều cảm kích trước sự việc có nhiều thành viên đang đóng góp rất tích cực, bằng cách này hay cách khác, để đời sống cộng đoàn được phát triển. Chủ Nhật “Ơn Gọi” hôm nay, thách thức mỗi người hãy suy tư đáp ứng lời mời của Đức Giê-su, gửi đến với mọi người. Và mỗi người. Là thành viên cộng đoàn, ta sẽ đáp ứng với nhận thức rằng: tất cả đang cần người, để duy trì và phát triển cộng đoàn của ta. Trong suy tư chuẩn bị đáp ứng, ta sẽ cùng với người nghệ sĩ khi xưa hát lên lời ca hứng khởi: Tay vươn vươn lên, như bờ núi cao cao vời Chân khoan khoan thai, như bước theo nhịp oai hùng Bài thơ mới, và câu hát vui yêu đời Vui với bao niềm tin đời là bài ca (Xuân Lôi – Y Vân Bài hát của người tự do) Vâng. Hãy ra đi khoan thai vui hát. Tin đời là bài ca. Bài của người tự do, có đóng góp. Đi đi mà vui hát, vì “mưa đã chờ ta, mưa đã mưa”. Và, Đức Chúa ới gọi ta như cơn mưa những mời và gọi, vẫn cứ chờ.
Chúa Nhật 5 – Mùa Phuc Sinh Năm A “Tôi sẽ hát về những thiên thần, cạnh bên tôi” Ôi những thiên thần luôn ở cạnh bên tôi. không ở trên trời cũng không có cánh. những thiên thần cận kề bên tôi lắm, chia môi cười, chia cả những ưu tư. Ga 14: 1-12 (Dẫn nhập từ thơ Tiếu Thảo) Hát về những thiên thần cận kề bên tôi, ai chẳng thích hát. Nhưng, sao lại cứ hát về những thiên thần “không ở trên trời”, cũng “không có cánh”. Thiên thần cận kề không cánh, nhưng vẫn sẻ chia. Chia nụ cười. Chia cả ưu tư, ảnh hình những xuất hiện nơi trình thuật Tình Chúa, hôm nay. Trình thuật hôm nay, ghi rõ tương quan nồng thắm giữa Đức Chúa và Cha. Trình thuật nhấn mạnh cả đến tương quan ta có với Chúa. Với công trình Ngài rao giảng. Trình thuật còn là kết đoạn lời Chúa nhắn nhủ vào buổi tạ từ, lúc Ngài đi. Ngài ra đi, đem tâm tình xao xuyến quạnh hiu, nơi đồ đệ. Anh em đừng xao xuyến, lời Chúa gửi đến các thánh, là những dặn dò và khuyến khích: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Đây, chính là lời truyền gọi dân con đồ đệ hãy trở về với niềm tin trọn vẹn, có Đức Chúa. Niềm Tin trọn vẹn, còn có nghĩa: hãy tin tưởng cả vào người khác. Ở cuối trình thuật, Chúa kêu gọi đồ đệ dân con chứng tỏ điều họ vẫn nghe và thấy Ngài làm: “Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy; nhược bằng không, hãy tin vào việc Thầy làm. “ (Ga 14: 11) Thầy đi đâu, anh em hẳn đã biết đường, điều này còn chứng tỏ: đồ đệ Chúa vẫn nghe và chấp nhận Con Đường Ngài chỉ dẫn. Nghe và chấp nhận, nhưng đồ đệ của Thầy vẫn cứ hiểu nghĩa đen, theo địa thế. Do vậy, thánh Tô-ma mới vấn nạn: “Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết đường?” (Ga 14: 2). May thay, cũng nhờ vào vấn nạn này ta mới có được xác quyết để đời, từ Chúa: “Thầy là Đường, là Sự Thật và Sự Sống. Không ai đến được với Cha, mà không qua Thầy.” (Ga 14: 6) Đến được với Cha qua Thầy, là tương quan nối kết Thầy về với Cha. Với cả những người theo Thầy. Theo Đường Chúa đi. Đường Thầy đi, trải đầy khổ ải, đau thương và nỗi chết. Đường Thầy đeo đuổi, sẽ kết thúc ở cuộc sống dồi dào, rất mới. Dồi dào và mới, ở sự sống Ngài đem đến, với mọi người. Theo Đường của Chúa, không là ra đi đến bất cứ nơi nào, chẳng hề định hướng. Mà, là trở thành người đặc biệt để nhận chân ra Sự Thật và Sự Sống, Chúa tỏ bày. Theo Đường của Chúa, là tháp nhập vào thị kiến - giá trị của Chúa. Tháp nhập, để trở thành người của Sự Thật, và Sự Sống. Ở đây nữa, tháp nhập không chỉ theo nghĩa của một nhận thức, trí tri. Bởi Sự Thật Chúa tỏ bày, không là nhận thức trí tri, nhưng là những hài hòa toàn vẹn diễn bày nơi sự sống và ở nơi bản chất thánh thiêng, của chính Thầy. Sự Thật về Chúa, là cảm xúc. Là, ý nghĩ, hành động lẫn tương quan. Là, tất cả nhân vị ở trong hay ở ngoài, Thầy vẫn có. Với mọi người, sống Sự Thật là sống năng động, biết đáp ứng với sự sống an lành, Chúa ban. Đến với Cha qua Thầy-là-Đường, còn có nghĩa: đến với Cha qua Sự Thật và Sự Sống-của-Thầy. Bởi, nơi Thầy vẫn gồm tóm Sự Sống của Cha, rất đích thực. Thành thử, tháp nhập vào Sự Sống của Cha, Thầy là mẫu mực cho ta tăng trưởng, giống Cha Thầy. Giống Cha Thầy, để rồi ta sẽ có kinh nghiệm sống tình yêu thương viên mãn, ở nơi ta. Nếu anh em biết Thầy, anh em cũng biết Cha Thầy. Ngay bây giờ, anh em biết Người và đã thấy Người (Ga 14: 7). Bằng vào khẳng định này, ta hiểu lời Thầy theo nghĩa: là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su đã trở nên một với Cha, trong mọi sự. Khi Ngài nói, tức Chúa Cha nói. Khi Ngài cứu chữa, là chính Cha-làm-một-với-Ngài đã chữa lành. Nhưng, khi Ngài chết đi, Cha vẫn không chết. Duy chỉ tính cách phàm trần của Người Con mới chết, thôi. Và, nỗi chết của Đức Giê-su nơi thân phận làm người, là chứng cứ làm bằng cho Tình Yêu Thương cao cả nơi Thiên Chúa Hằng Sống. Chúa Hằng Sống nơi bản vị Đức Giê-su, phản chiếu Sự Thật và Lành Thánh Toàn Năng, rất vô song. Thấy Ngài, là thấy Cha. Nhưng không thấy được trọn vẹn những gì thuộc thiên tính của Cha. Chính vì thế, Đức Giê-su mới xác nhận Ngài là Đường. Điều này còn có nghĩa: qua Ngài, dân con đồ đệ mới đạt trọn Sự Thật, của Đức Chúa. Trọn Sự Thật, mà chỉ các nhà thần bí mới cảm nhận đôi chút ánh sáng của nhận thức, mà thôi. Còn lại, tất cả chỉ biết đến Sự Thật trọn vẹn, khi lìa bỏ cõi trần. Tựa như thánh Phi-líp-phê, những tưởng rằng các thánh hễ có hân hạnh được gần gũi Thầy tự khắc đã biết Thầy. Không hẳn thế. Nếu không nhận Thầy là Đường, mà chỉ biết Đoạn Kết cuộc đời của Đức Chúa, ta sẽ thấy tương quan kết hợp ta vào với Chúa, sụt giảm rất nhiều. Vấn đề của người thời đại, là: không thấy được Cha nơi bản vị Đức Kitô. Và như thế, cũng sẽ không nhận ra được Cha-qua-Thầy vẫn có mặt trong thế giới hiện tại. Không nhận ra Cha, cả nơi người anh người chị sống quanh ta nữa. Ngay từ đầu, Đức Giê-su đã quả quyết: “Nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở” (Ga 14: 2). Thoạt nghe, người người vẫn cứ tưởng điều Thầy nói chính là Thiên đàng, chỉ một chốn. Dĩ nhiên là thế. Nhưng, “nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”, còn phải hiểu đây chính là Hội thánh Chúa. Bởi, cộng đoàn kẻ tin vào Đức Kitô, tức Hội thánh, vẫn là “nhà Cha Thầy”. Nhà của Chúa. Đằng khác, là đồ đệ theo chân Chúa, ta đã là Đền thờ Chúa ngự rồi. Cuối cùng, lời Thầy quả quyết: “Ai tin Thầy, người ấy sẽ làm được việc Thầy làm. Và, còn làm được việc lớn lao hơn. Vì, Thầy đến cùng Cha.” (Ga 14: 12). Đó mới là việc lớn, mà Hội thánh Chúa hôm nay và mọi thành viên trong cộng đoàn Hội thánh vẫn tiếp tục thực hiện. Tiếp tục công cuộc tông đồ mục mà Thầy truyền dạy, lâu nay. Về với Cha, Đức Kitô đã ủy thác công việc lớn lao ấy, để mọi người nhớ mà thực hiện. Về với Cha, Đức Kitô cũng để lại cho đàn con yêu dấu, các kẻ tin, tất cả năng lượng và sự sống, Ngài vẫn hứa. Có về với Cha, Đức Kitô mới khởi phát Con Đường của Sự Thật và Sự Sống. Mới đưa tất cả vào hoạt động. Có về với Cha, Ngài mới thông chuyển tín thư sống động của Ngài đến với thế giới nhân trần. Mới biến tín thư ấy thành hiện thực, được. Với thế giới đương đại đầy phương tiện truyền thông, tín thư ấy được gửi đến hết mọi người. Cả những chưa từng nghe và biết đến. Đức Giáo Hoàng và các lãnh tụ tôn giáo, hôm nay, đã có thể dùng hệ thống truyền thông đại chúng, để chuyển thông điệp Chúa gửi đạt đến hàng triệu người, khắp nơi nơi. Đó là điều, mà ở vào thời tiên khởi, Hội thánh Chúa chưa đủ phương tiện để thực hiện, như hôm nay. Là hợp tác viên rao truyền Lời Chúa, công cuộc thừa sai mục vụ của ta cũng tương tự như thế. Ta cũng đến với mọi người, hầu giúp họ chọn Con Đường của Chúa, mà đi. Chính đó là Con Đường của Sự Thật. Và Sự Sống. Cộng tác với nhau trong công việc mục vụ, ta sẽ làm được nhiều hơn nữa. Nói đúng hơn, Đức Kitô sẽ làm việc ấy, qua chúng ta. Như mọi thời mọi lúc, Ngài vẫn cần nhiều người thiện nguyện để ta rao truyền Lời Ngài, trong hăng say. Nhiều quả cảm. Có chất lượng. Là bạn và là người đồng hành với Chúa, mỗi người và mọi người được kêu mời ra đi lên đường rao truyền Lời của Chúa. Rao truyền, trong tư thế thực tiễn. Rao và truyền, để đem Bánh Sự Sống và Sự Thật đến với muôn dân. Cho muôn người. Ở mọi nơi. Như Ngài bảo: “Không có Thầy, các con chẳng làm được gì.” Ngày nay, với phương tiện truyền thông cải tiến, ta có thể nói ngược lại: không có ta, Chúa cũng sẽ làm được, rất ít. Trong trông chờ người người ra tay cùng làm với Chúa, ta hãy phấn khởi lên mà hát: “Này hồn ơi vươn cao, vươn cao đem ánh sáng hân hoan trên trời rọi vào đời cho ta tinh cầu yêu thương. Nụ cười tươi trên môi em thơ Là tiếng hát hân hoan cho đời Và về đây cho nhau nụ cười tương lai ”(Trần Quang Lộc-Về đây nghe em) Vâng. Về đây nghe em. Về đây nghe anh. Về, mà đem ánh sáng hân hoan trên trời rọi vào đời được Chúa yêu thương. Về, để ta sẽ hát về những thiên thần, về những người anh người chị bên ta, đang cùng nhau chia sẻ cả môi cười, lẫn ưu tư. Về, để lập nên tinh cầu yêu thương, đầy tình Chúa. Về đây em nhé. Ta hãy về! Chúa Nhật 6- Mùa Phuc Sinh Năm A
“Em gọi tên Người, gọi yêu thương” Em gọi tên Ngưòi, gọi khàn hơi, Dư âm dội, tâm nhói rã rời! Khuya đã tàn dần, bình minh đến, Hồn nhiên lại hẹn, chẳng giữ lời. (dẫn nhập từ thơ Niệm Nhiên)
Ga 14: 15-21 Trình thuật thánh Gio-an hôm nay, không thấy có tiếng “em gọi tên Người, gọi khàn hơi”. Nhưng vẫn thấy tiếng của Thầy Chí Thánh, luôn mời và vẫn gọi dân con đồ đệ “hãy tuân giữ lời Thầy”. Lời răn hay lời Thầy, vẫn là lời “gọi tên người, gọi yêu thương”. Yêu thương, Thầy gọi suốt canh trường, nơi Kinh Sách. Rất Phúc Âm. Phúc Âm hôm nay, một lần nữa, lại được lồng trong bối cảnh của tiệc Tạ Từ. Ở Tiệc này, Đức Kitô sửa soạn cho môn đệ mình biết chấp nhận thống khổ và nỗi chết, Ngài sắp chịu. Thống khổ Ngài chịu, là để các thánh nhận ra được: Phục Sinh, Ngài sẽ về với Cha. Anh em sẽ giữ lời răn của Thầy (Ga 14: 15), dặn dò ở đây nhấn mạnh nhiều đến cụm từ “của Thầy”, thật trong sáng. Qua cụm từ này, Đức Kitô không qui chiếu 10 điều giới lệnh, theo truyền thống. Truyền thống, thấy rõ trong Tân Ước của người Do Thái. Đành rằng, các giới lệnh mà người Do Thái chủ trương vẫn hiệu lực. Nhưng, Đức Kitô muốn đi xa hơn thế nữa. Đi xa hơn, như Ngài từng nhấn mạnh nơi Hiến chương Nước Trời, rằng: Ngài không bãi bỏ luật Do Thái, hoặc lời ngôn sứ dẫn giải. Nhưng, Ngài hoàn tất tiềm lực bên trong vẫn có nơi Ngài. Đó chính là nội dung lời dặn, ta vẫn nghe: “Anh em vẫn nghe người xưa nói rằng… còn Tôi, Tôi nói thế này”… Tôi nói thế này… là “lời răn của Thầy”, thuộc một bình diện khác. Lời răn ấy, là điều người người cần tuân giữ. Một điều Ngài răn dạy, để mọi người biết mà yêu mến. Yêu Chúa hết lòng trí lẫn tâm can. Mến thương mọi người, trọn vẹn như yêu chính mình. Mến và yêu mọi người, như Đức Kitô vẫn yêu và mến, hết chúng ta. Yêu, các tội nhân. Mến, hết kẻ thù. Có yêu và mến như Chúa răn dạy, là để ta biết mà tìm gặp Chúa nơi mọi người. Nơi kẻ đói khát, nghèo khổ, cho chí người tật bệnh. Cả, những người bị gạt bỏ ra ngoài xã hội, và phạm nhân. Lời Thầy, gồm tóm giới răn chăm nom giùm giúp lẫn cho nhau. Giùm giúp, và đến với nhau để hàn gắn lỗi lầm. Hàn gắn, trong yêu thương phục vụ. Trình thuật hôm nay, Đức Giê-su còn khẳng định Ngài không bỏ đàn con môn đệ, như vẫn nói: “Thầy sẽ xin Cha. Và, Người sẽ ban cho anh em Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em mãi. Đấng ấy, chính là Thần Khí Sự Thật.” (Ga 14: 16-17). “Đấng Bảo Trợ”, cụm từ dùng ở đây xuất xứ từ tiếng Hy Lạp “parakletos”, mang nhiều ý nghĩa khó dịch. Nói chung, “parakletos” được dùng để chỉ định người nào đó sẽ đến bên ta. Gìn giữ bảo vệ và đem cho ta mọi hỗ trợ. Là, người đem cho ta lòng quả cảm để ta giáp mặt với khó khăn. Người vẫn uỷ lạo ủi an, khi ta ở vào tình cảnh lo lắng, khó chịu. Những đặc trưng trên đây, có thể áp dụng cho Đấng Thánh của Sự Thật mà Đức Kitô hứa gửi đến đồ đệ. Với Hội thánh. Là Đấng Thánh của Sự Thật, không theo nghĩa hạn hẹp. Mà, theo nghĩa chuyển tải thị kiến về sự sống hài hoà với Chúa. Với Đức Kitô. Đấng Thánh của Sự Thật, hôm nay và mãi mãi không chỉ chuyển đạt cho ta biết, mà còn hướng dẫn rọi soi cho ta, trong mọi quyết định hành động, những tương quan. Thần Khí Sự Thật, là Đấng mà thế gian không thể đón nhận. Bởi, “thế gian” (dịch từ “Kosmos” bên tiếng Hy Lạp) vẫn cứ mù mờ như không hiểu được Sự Thật. Và, cũng chẳng nhận biết Ngài. Chính vì thế, Chúa nói thêm: “Nhưng anh em vẫn biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em” (Ga 14: 17). Và, chỉ những ai có được thị kiến lẫn niềm tin ban cho, mới nhận rõ Đức Chúa của Sự Thật đang hiện diện quanh ta. Và, với ta. Niềm tin là quà tặng huyền bí Chúa ban. Quà tặng rất đặc biệt. Nhưng, cũng đòi hỏi một trách nhiệm lớn lao. Trách nhiệm được gồm tóm trong vui sống. Sống phù hợp với Lời khuyên răn của Đức Chúa, nói ở trên. Không thể hiểu điều Chúa nói, vì đồ đệ Ngài đang trong tình cảnh lo lắng, rất ưu tư. Nhưng, cứ để Thầy ra đi về với Cha. Có đi như thế, Thầy mới hiện diện ở nhiều nơi, không bằng thân xác. Hiện diện theo phương cách khác. Rất mới. Ngài hiện diện ngang qua Thần Mình mới mẻ, nơi Hội Thánh. Nơi cộng đoàn đồ đệ, các kẻ tin. Bằng vào hình hài đổi mới, Ngài sẽ có thể hiện diện cùng lúc, ở nhiều nơi. Tựa như, đang ở với chúng ta, trong ta ngay bây giờ. Vào lúc này. Bằng tình yêu và lòng thương xót, Ngài vẫn hiện diện với mọi dân con, đồ đệ đang cần đến. Tức, cộng đồng nhân loại được Ngài yêu thương và phục vụ, không bỏ sót. Bằng vào sự hiện diện như thế, Ngài chính là Đức Kitô của Kosmos thế gian, như được bảo: “bởi nơi Ngài, vạn vật được tạo thành, chốn trời cao nơi dương thế - mọi sự đã được tạo thành nhờ Ngài và cho Ngài”. (Col 1: 16). Đó là điều, mà Đức Kitô khẳng định nơi trình thuật hôm nay: “Anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.(Ga 14: 20). Và, Ngài chỉ ở trong dân con đồ đệ, khi mọi người: “có và giữ điều răn của Thầy.”(Ga 14: 21). Có và giữ điều răn, không còn là chuyện đáng chán, chẳng thiết tha. Nhưng, đó chính là nguồn cội của những an vui, sung mãn và giải phóng. Đồ đệ dân con, nay đều hiểu: tuân giữ Lời Thầy khuyên răn, không là trọng trách khô khan, gò bó; mà là tình trạng giải thoát mọi lỡ lầm dễ phạm, và cố gắng ở lại với thể trạng “đầy ân sủng”, Chúa vẫn ban. Và khi, dân con đồ đệ trở thành người thân với bạn bè lẫn địch thù, với giòng họ người dưng, ta sẽ nhận ra Đấng Thánh Sự Thật đang sống trong ta và biến đổi con người của ta. Vào lúc đó, như Lời Thầy quyết đoán: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14: 21) chính là lới hứa làm nền. Là, nguyên do để ta được thấy. Nguyên do và cũng là lý lẽ, để ta thực sự sống còn. Sống mãi mãi. Còn ở lại trong tình yêu của Đức Chúa. Trong hân hoan đón nhận quả quyết này, ta sẽ ca vang lời hát hôm xưa, rằng:
“Tôi yêu tiếng ngang trời Những câu hò giận hờn không nguôi Nhớ nhung hoài mảnh tình xa xôi Vững tin vào mộng đẹp ngày mai” (Phạm Duy - Tình ca)
Vâng. Khi đã nghe theo lời dạy của Đức Chúa, ta sẽ nhất mực vững tin vào mộng đẹp ngày mai. Mộng đẹp có mảnh tình xa xôi. Không còn giận hờn. Và cũng chẳng cần “gọi tên Người, gọi yêu thương”. Vì Người vẫn có đó. Rất gần bên.
Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên Năm A “Những con sóng của đại dương thơ nhạc” Những nhịp sống, những cung đời nhạc trổi Đưa hồn tôi vượt tầm mức tự nhiên Đưa tôi đi, nhìn thấy được muôn miền Của vũ trụ, của không gian, cảm giác. (Dẫn nhập từ thơ Nguyên Đỗ)
Mt 28: 16-20 Những con sóng của vũ trụ, của không gian, cảm giác. Phải chăng, đó là tâm tình của đồ đệ dân con, ngày Chúa về với Cha. Ngày Chúa ra đi về với Cha, có “cung đời nhạc trổi”. Có cả, “cơn sóng của đại dương thơ nhạc”, đưa ta “nhìn thấy được muôn miền”. Muôn miền hạnh phúc, như trình thuật quảng diễn, hôm nay. Trình thuật hôm nay, vẫn thánh Mát-thêu diễn lại buổi Thăng Thiên về Trời, có Đức Chúa, có đồ đệ thân thương, nhiều tưởng nhớ. Tưởng và nhớ, là trạng thái tâm tình của các thánh, ngày Chúa về trời. Chúa ra về, nhiều người chỉ hiểu nghĩa đen, theo sử ký lẫn địa dư. Vì hiểu theo địa dư, nên họ những tưởng Chúa được nâng nhấc về chốn không gian quê trời, nhiều tầng mây. Chốn trời cao trên ấy, vượt quá thành Giê-ru-sa-lem, thẳng tắp. “Về trời” ở đây, không nên hiểu theo điạ danh nơi chốn. Nhưng, theo tương quan mà mọi người vẫn có với Chúa. Với dân gian. Có hiểu thế, ta mới thấy Đức Kitô chẳng cần “đi tận đâu đâu”, mới về được cùng Cha. Về quê trời, là thành phần của Nhiệm tích Chúa Vượt Qua, gồm 4 chặng đời: thống khổ và nỗi chết, sống lại, về trời và cuối cùng: Chúa gửi Thần Khí Ngài đến với dân con, đồ đệ. Cả 4 chặng đường đời, đều chung một thực tại. Cùng một ý nghĩa. Ý và nghĩa, chính là công trình cứu độ, Ngài đem đến. Công trình cứu độ, được Hội thánh Chúa diễn tả bằng nhiều cách thức. Qua nhiều bản văn khác nhau, nơi Tân Ước. Đặc biệt, là các bài Sách thánh đọc vào buổi Tiệc Lòng Mến, như hôm nay. Bài đọc hai, thư gửi giáo đoàn Ê-phê-sô, thánh Phao-lô ghi: “quyền lực lớn lao Người đã thi thố cho ta –các tín hữu- là sức mạnh toàn năng hiệu lực, mà Người biểu dương nơi Đức Ki-tô, khi để cho Ngài trỗi dậy từ cõi chết, và đặt ngự bên hữu Người, trên trời. Người đã tôn Đức Ki-tô lên trên mọi quyền lực thần thiêng, mọi tước vị có thể có, không những trong thế giới hiện tại, mà cả thế giới tương lai.” (Ep 1: 19-20). Đây là giải thích xác thực chuyện “Chúa về trời”. Về trời, Đức Kitô, Đấng Thiên Sai và Đức Vua toàn thắng, đã và đang vinh quang ngự trị trên hết mọi loài. Ngài ngự trị, chứ không ở tại một nơi, một chốn nào hết. Thánh Phao-lô chẳng nói gì đến cách thức Chúa ngự trị, nào khác. Bài đọc thứ nhất, sách Công vụ diễn tả cho tín hữu thời tiên khởi hiểu thế nào là triều đại và Vương Quốc của Chúa. Diển tả để tín hữu hiểu rành rẽ rằng Thầy đã Phục Sinh và ở lại 40 ngày. Đó là lúc các thánh thời tiên khởi vẫn tự hỏi: làm sao Thầy tái tạo Vương quốc cho dân mình được. Chính vì tự hỏi như thế, các thánh mới hiểu sai sứ vụ Thầy quyết thực hiện. Sai cả ý nghĩa lẫn mục tiêu công cuộc tông đồ, Thầy giao phó. Khi hiểu rồi, các thánh đã hăng say thiết lập “quê trời” cho mọi người. Ở trần gian. Trần gian ấy, khi các thánh ngước mắt nhìn Thầy “được cất nhắc” về trời, có “đám mây quyện lấy Người Thầy”. “Được cất nhắc”, hiểu theo nghĩa tinh thần như thánh Gio-an từng đề cập nhiều lần ở nhiều nơi trong Tân Ước, như: “khi Tôi được cất nhắc khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người về với Tôi” (Ga 12: 32). Điều này ý nói: Ngài được cất nhắc về với Cha. “Có đám mây quyện vào người”, đây là lối nói thường thấy nơi Tân Ước của người Do Thái, như khi Đức Chúa biến hình trên núi. Tức, tình huống mỗi khi Ngài tỏ bày cho mọi người biết và thấy về công trình cứu độ Ngài thực hiện. Tình huống quan trọng, là khi Chúa hiển hiện hoặc biến đi. Tình huống hôm nay, có Đức Chúa vinh thăng về trời. Thầy về trời, nhưng Thầy vẫn sẽ gặp lại dân con đồ đệ, không ở non cao chốn núi như trước, mà ở Giê-ru-sa-lem, nơi quê miền ở bên dưới. Ở đây, dân con đồ đệ sẽ được tràn đầy Thánh Thần Chúa. Tràn đầy sinh lực của người Thầy đã Sống Lại đã Vinh-thăng-về-với-Cha. Và, Chúa cũng dặn: “anh em sẽ nhận được sức mạnh quyền uy của Chúa Thánh Linh khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, khắp miền Giu-đê, Sa-ma-ri đến tận cùng trái đất.” (Cv 1: 8) Giống như trình thuật Lời Chúa vào tuần trước, dân con đồ đệ được bảo là Thầy buộc lòng phải ra đi. Bởi, cho đến nay, Thầy chỉ hiện diện trong thân mình nhỏ bé, ở một góc trời. Chỉ đến được với một số ít người, vào thời đại lịch sử rất chóng vánh. Nay, có về cùng Cha, Thầy mới đạt tới được toàn thế giới, nhân loại. Mới đến với mọi người, thuộc mọi lứa tuổi. Tình huống hôm nay, nơi quê Trời Thầy về, sẽ có đủ “tình yêu, niềm vui, sự an bình, lòng kiên nhẫn, và tử tế. Có cả tình thân thương chung thuỷ, nữa. Bởi, bất cứ nơi nào có sự thật, tình yêu, lòng xót thương; có chân lý, tự do, có chân thiện mỹ, nơi ấy Thánh Thần Chúa sẽ đến ngự trị. Tin Mừng hôm nay, cũng mang một tín thư tương tự. Với thánh Luca, công vụ mà các thánh thực hiện đã diễn ra ở Giê-ru-sa-lem, trọng tâm của thế giới. Trong khi đó, thánh Mát-thêu lại mô tả các thánh kẻ tin nay quay về với quê mẹ, ở Ga-li-lê. Bởi lẽ, với thánh Mát-thêu, tình nhà thân quen là nơi ta gặp lại Đức Kitô. Chứ không ở trời cao xanh thẳm, nơi chốn ấy. Và sở dĩ, các thánh thường tụ tập trên núi, vì nơi đây là chốn vắng Thầy tỏ mình cho đồ đệ, ngày biến hình. Và cũng tại nơi đây, Thầy đã đánh động rất nhiều người. Tin Mừng hôm nay, không nhấn mạnh đến chuyện Đức Kitô xuất thần hiển hiện, mà về điều Ngài phải nói cho môn đệ biết. Ngài nói qua ba trạng thái: quá khứ, hiện tại và lai thời. Điều Ngài muốn mặc khải, trước nhất về: quyền Cha ban, là ban cho Ngài. Thành thử, ta có hiến trọn thân mình cho Đức Kitô là hiến trọn cho Đức Chúa. Thứ đến, Đức Kitô ban hiệu lệnh “tuyển dụng đồ đệ”, là tuyển từ mọi người. Ở khắp nơi. Và quyền bính Ngài ban hôm nay, là ban cho dân con đồ đệ. Để đến lễ Ngũ Tuần, mới là ngày Ngài chính thức xác nhận việc trao ban quyền bính ấy. Hiệu lệnh hôm nay, đồ đệ Chúa nhận làm công việc Ngài đã làm. Với hiệu lệnh này, các thánh có quyền hoá giải những ai lạc đường lầm lỡ, về với Chúa. Về với cộng đoàn. Đồ đệ Chúa có thể xác định là ai chưa sẵn sàng để được hoá giải. Ai đã dấn thân về với đời sống cộng đoàn. Một cộng đoàn có trọng trách gìn giữ quyền năng ấy, ngõ hầu sống chứng tá cho Đức Chúa. Cho Lời vàng Phúc Âm. Sống chứng tá bằng việc giảng dạy, chữa lành, phá bỏ mọi tính chia rẽ đố kỵ gây phân lìa, người khỏi người. Tất cả đều trở thành đồ đệ, anh em. Để từ đó, các thánh sẽ làm phép rửa nhân Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Linh, đặc trưng cho sự hiệp nhất, làm thành phần của Thân Mình Đức Kitô. Làm đồ đệ của Đức Chúa, quyết từ nay. Cuối hết, Đức Kitô Phục Sinh Vinh Thăng, vẫn không ở nơi nào xa xôi, biệt xứ. Nhưng trái lại, Ngài vẫn hiện diện nơi người bước đi theo Ngài. Và, “Ngài sẽ ở với họ, mọi ngày cho đến năm cùng tháng tận”. Đây, là một nhắc nhở về lời Ngài từng hứa hẹn ngay ở giòng đầu Tin Mừng, khi thánh Mát-thêu ghi chép rằng Mẹ đã hạ sinh Đức Chúa: “Này, Trinh Nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một người con, mọi người sẽ gọi tên con trẻ là Em-ma-nu-en, nghĩa là "Thiên-Chúa-ở-cùng-ta." (Mt 1: 23). Và ở một đoạn khác: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, có Thầy ở đấy, chính giữa họ." (Mt 18: 20). Dù ở đây, thánh sử không nói đến quà tặng là Thánh Linh, nhưng rõ ràng thánh Mát-thêu vẫn hàm ngụ lời hứa Chúa ban: hiện diện của Ngài với dân con. Với cộng đoàn. Cử hành Tiệc thánh, hôm nay ta mừng kính Đức Kitô vinh thăng sau ngày Ngài trải qua cơn thống khổ và nỗi chết. Mừng kính, còn để sẻ san niềm hy vọng. Và cũng mừng kính cử hành việc Đức Kitô Phục Sinh hiện diện, ở với ta. Cử hành tiệc thánh, ta sẽ mời mỗi người và mọi người hãy sống chứng tá cho sự hiện diện của Ngài nơi của cộng đoàn mình. Và làm thế, cho đến năm cùng tháng tận, của trời đất. Trong hân hoan cử hành việc Ngài hiện diện nơi ta, hãy cứ vui lên mà ca hát. Hát rằng: “Về đây nghe em, về đây nghe em Về đây đứng hát trên sông nước này Chở lòng người trở về quê hương Chở hồn người vào dòng suối mát Chở thật thà vào lòng dối trá Và nhạc hoa xin tạ chút ơn Hạnh phúc khi đã gặp nhau.” (Trần Quang Lộc – Về đây nghe em) Về đây nghe em. Nghe anh. Về mà “chở hồn người vào dòng suối mát”. Để rồi, “nhạc hoa xin tạ chút ơn”. Ơn trời, ơn được gặp nhau. Gặp Chúa. Đức Chúa Phục Sinh, Vinh thăng về trời, rất hôm nay.
Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện xuống Năm A “Cả không gian là bể sáng tràn lan…” Rồi sắc đẹp hiện ra trong chính phẩm Linh thiêng như mây nước đỉnh Nga My! Và muôn hồn hoa lên vì say ngấm. Và muôn lòng phát tiết cả uy nghi. (dẫn nhập bằng thơ Bích Khê)
Ga 20: 19-23 Cả không gian là bể sáng, khi Thần Linh Chúa, hiện đến. Ngài đến, trong chính phẩm, linh thiêng như mây nước. Có muôn lòng phát tiết cả uy nghi. Có tình tự của thi nhân, diễn tả hết nét đẹp, với muôn người. Phải chăng, đây cũng là ý nghĩa mà trình thuật lễ Ngũ Tuần, đã ghi lại. Trình thuật lễ Ngũ Tuần hôm nay, thánh sử Gio-an viết về công trình tổng thể khởi từ tuần thánh. Tổng thể công trình, gồm cuộc Vượt Qua, tiến đến sự chết. Có Phục Sinh. Có Thăng Thiên. Có lễ Ngũ Tuần, ngày Thần Linh Chúa ngự đến, rất đầy đủ. Tất cả, nói lên thực trạng công trình cứu độ, luôn soi rọi tâm can con người, trong hành trình hiệp thông với Chúa, vào mỗi ngày. Như đã thấy ở trình thuật ngày Thăng Thiên tuần trước, truyền thống giáo lý Hội thánh thời tiên khởi có khuynh hướng thẩm định ý nghĩa của lễ Ngũ tuần, qua các chương đoạn rút từ sách Công vụ Tông đồ. Điều này, được bộc lộ rõ nơi bài đọc thứ nhất. Trong khi đó, Tin Mừng thánh Gio-an cho thấy: Đức Kitô, trước khi Ngài về trời, đã trao ban Thần Linh Chúa cho các đồ đệ. Đồng thời, Ngài còn uỷ thác cho các thánh sứ vụ rao truyền Tin Vui Cứu Độ đến với mọi người. Hai trình thuật sử dụng phương cách khác nhau, để nói lên cùng một thực tại. Thực tại này, không đặt nặng về thời gian và nơi chốn/địa điểm xảy ra công trình cứu độ, Ngài đem đến. Theo Tin Mừng, sự kiện này xảy đến vào ngày thứ nhất trong tuần, tức Chúa Nhật Phục Sinh. Vào tình huống lúc ấy, các môn đệ co cụm trong phòng kín, e rằng sẽ có ruồng bắt, hành hình hoặc tệ hơn. Nhưng bất chợt, Chúa đã hiện diện giữa các thánh. Ngài chào hỏi mọi người bằng những lời chào thân thương: “”Shalom” - Bình an cho các con”. Lời chào, còn là lời chúc phúc an lành. Bởi, Đức Chúa của Bình An đang ở giữa các thánh, không còn gì phải sợ hãi. Và, niềm vui đã đến với mọi người. Chúa đến, Ngài đem Hoà Bình lẫn An Vui hoà lẫn nơi tâm hồn mọi con dân, cần thương mến. Và cũng vào lúc ấy, Chúa uỷ thác các công việc linh thiêng trọng đại: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.” Như thế, là mọi người nay đã có công tác để làm. Không còn thu người lại mà ẩn lánh. Nhưng, hiên ngang nhận bài sai dấn bước ra đi, làm việc nghĩa. Việc nghĩa ở đây, là: thiết lập Vương Quốc Nước Trời, ở nơi nào mình đặt chân đến. Cùng với bài sai Ngài trao, Đức Kitô còn thổi hơi vào người các môn đệ. “Hơi thở” và “thần khí”, bên tiếng Hy Lạp đều một nghĩa. Chúa thở hơi, để dân con đồ đệ nhớ việc Gia-vê Thiên Chúa dùng hơi sự sống thổi vào cõi bụi mù, đưa con người vào chốn ngàn năm, hiện diện. Ở đây nữa, khi thở làn hơi sống động vào người, Chúa tái tạo đồ đệ thành con-người mới. Con-người, mà thánh Phao-lô có nói trong thư gửi giáo đoàn Cô-rin-thô, tức người con đầy Thần Khí Chúa nhận hiệu lệnh tiếp tục rao truyền Bình An và Niềm Vui sống, đến muôn dân. Thực thi hiệu lệnh, các thánh có toàn quyền thứ tha tội nhân và hoà giải đưa họ về lại trong tương quan mật thiết với Chúa. Với mọi người. Để mọi người trở thành những người anh người chị, và con em có cùng một Cha. Hoà giải còn có nghĩa, chữa lành vết thương đau ẩn tàng dưới mọi hình thức của những rẽ chia. Hận thù. Đây là công tác mà thành viên Nước Trời đều được mời gọi, để thực thi. Bài đọc thứ nhất, thánh Lu-ca thuật lại kinh nghiệm mà thành viên Nước Trời thời tiên khởi đã từng trải. Đôi khi, kinh nghiệm từng trải này được coi như Xuất Hành lần nữa. Xuất Hành là bởi, làm ta nhớ việc Gia-vê Thiên Chúa giải thoát dân Do Thái khỏi vòng vây nô lệ, xứ Ai Cập. Trong Xuất Hành lần nữa, cũng có hai sự kiện tương tự: cơn gió Thần Khí Chúa, mà Tin Mừng thánh Gio-an gọi là “hơi thở”. Và, có cả lửa ngọn theo hình lưỡi , phủ trùm hết cả mọi người có mặt. Như một Xuất Hành đích thực, có quyền năng Thiên Chúa đang phủ trùm, và hiện hữu. Xuất hành có lửa ngọn phủ trùm, làm mọi người nhớ lại tình huống khi xưa mỗi lần Gia-vê phán bảo điều gì với tổ phụ Mô-sê, Ngài đều ra hiệu lệnh đi đến với dân mình. Lửa ngọn, còn làm ta liên tưởng đến các cột lửa dẫn dắt dân con người Do Thái băng qua sa-mạc. Lửa ngọn hay cột lửa, vẫn cho thấy con cái của Chúa chẳng hề bị bỏ rơi, bao giờ. Kinh nghiệm tiếp cận với Chúa, đã giúp dân con đồ đệ không còn biết hãi sợ. Nhưng, nay đã biết san sẻ các kinh nghiệm cho mọi người. San sẻ, cả kinh nghiệm có chung với Đức Kitô, cả vào giai đoạn chịu hành hình, tù tội. Nay không còn biết sợ. Cùng lúc với kinh nghiệm được sẻ san, là quyền năng ban cho các thánh được hiệp thông, trao đổi. Tín thư hiệp thông ấy, đã được đón nhận và mọi người đều đã hiểu. Đến độ, các rào cản Babel về ngôn ngữ đã bị bẻ gãy. Đây không chỉ là đặc sủng về khoa ăn nói, nhưng còn là cách thức cho thấy tín thư của Đức Chúa đã được chuyển tải và mọi người đều đón nhận. Nhận với tất cả tấm lòng, như Sách đã viết: “Tâm hồn ta sẽ chẳng được nghỉ yên cho đến khi lửa Thần Khí yên nghỉ trong ta.” Khi lửa Thần Khí ở trong ta, là ta được mời dự phần sống trong Nước Trời, có Thần Khí. Và, kinh nghiệm sống trong Nước Trời có Thần Khí, được thánh Phao-lô diễn tả trong bài đọc 2 như sau: “Không ai có thể nói: Đức Giê-su là Chúa”, nếu họ không ở trong Thần Khí Chúa” (1Cr 12: 3). Nói: Đức Giê-su là “Chúa”, không chỉ là lời nói lên lòng sùng Đạo, nhưng còn hàm ngụ niềm tin vào Ngài. Tin, và chứng tỏ niềm tin của mình, bằng cách sống cho ra sống. Sống chứng tỏ có Thần Khí Chúa ở với mình, còn là ân huệ mà thành viên cộng đoàn Nước trời đều nhận lĩnh. Thần khí Chúa, là nguồn ân sủng vẫn hiệp nhất nối kết những ai nhận lĩnh ơn ấy về sống với nhau, thành cộng đoàn. Ơn Thần Khí ban cho, không là ân huệ riêng tư cho mỗi mình. Nhưng, là khả năng đặc biệt giúp ta phục vụ nhu cầu của người khác trong cộng đoàn Nước Trời, nữa. Xem như thế, sử dụng ân đặc sủng để cùng làm việc với nhau ngõ hầu dựng xây cộng đoàn mình đang sống. Tính theo số lượng, chúng ta là đám đông, số nhiều. Nhưng qua tác động của Thần Khí, ta trở nên một tổng thể, trong cùng Thân Mình Đức Kitô. Chỉ một Chúa. Như thánh Phao-lô đã xác định: “Vì trong Thần Khí độc nhất, hết thảy ta được thanh tẩy mà nhập vào Thân mình độc nhất, dù là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do; hết thảy ta được cùng uống Thần Khí độc nhất.” (1 Cr 12: 13) Thần Khí Chúa, là con đường của tự do và giải thoát. Thần Khí Chúa không là đường dẫn đến tình trạng nô lệ, dù đó là nô lệ thân xác, tiền của và tham vọng. Bằng vào Thần Khí, và qua Thần Khí ta được hiệp thông tương quan với Chúa, Đấng cho phép ta gọi Ngài là “Abba” (Cha/Ba). Ngập tràn thần Khí, ta thực sự là con cái Chúa theo nghĩa đầy đặn nhất. Và, là ảnh hình sống động của Cha ta. Thần Khí biến ta thành đồng-thừa-tự với Đức Kitô để cùng chịu khổ hình và cùng vinh quang với Ngài. Có được Thần Khí Chúa ở cùng, ta toả sáng Thần Khí bằng lời nói và gương sống lành mạnh. Để rồi, mời gọi người khác san sẻ đặc sủng ấy. Ta vẫn biết, đặc sủng Thần Khí không để ta hưởng một mình, nhưng sẻ san. Như đã thấy, đồ đệ Đức Kitô sau khi nhận lĩnh Thần Khí, đã không ở lại trong phòng kín hưởng thụ. Nhưng, đã bung đi khắp nơi. Đi, mà kể cho thế giới biết tình Chúa thương yêu mọi người. Và, ta muốn mọi người có kinh nghiệm về tình thương yêu ấy. Trong hân hoan nhận Thần Khí, ta cùng hát lên lời ca của người nghệ sĩ đời thường, thuở trước:
“Ta cánh chim lướt bay thênh thang đem sức gieo khắp nơi oai vang cho phỉ chí tang bồng Đi đi đi cùng nhau ta cười Cười tiếng cười muôn đời còn luôn xinh tươi. Đôi mắt ta ngời lên ngàn tia sáng Sáng cho đời hùng luôn không thôi (Văn Giảng – Đoàn người phiêu lưu) Vâng. Đi, đi đi cùng nhau ta cười. Cười vui, vì đã có Thần Khí Chúa, dẫn bước ta đi. Đi đi, đôi mắt ngời lên tia sáng. Sáng cho đời. Sáng cho người. Vì, đời đã có Thần Khí Chúa. Vì, người đã có bạn và có ta. Có cả không gian, là bể sáng tràn lan… những đặc sủng.
Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi Năm A “Khắp đất trời mới mẻ lạ lùng sao” Thế giới đẹp như trang hoàng trở lại Những chiếc lá rụng trong chiều lộng lẫy Cũng nghiêng mình thủ thỉ lúc ta qua Và một điều huyền bí được sinh ra. (Dẫn nhập từ thơ Nguyễn Nhật Ánh)
Ga 3: 16-18 “Điều huyền bí được sinh ra”, còn là ý nghĩa nội dung mà trình thuật hôm nay muốn gửi đến, hết mọi người. Trình thuật thánh Gio-an, một lần nữa, đề cập đến nội dung làm nền của niềm tin ta vẫn có. Nội dung, là tín lý nền tảng nơi Lời dạy, rất khó diễn đạt. Khó diễn tả, bằng ngôn từ. Khó đạt đến, qua vốn liếng tư duy của nhân sinh. Nhưng, nội dung trình thuật hôm nay thôi thúc ta giữ vững niềm tin vào huyền nhiệm Ba Ngôi Đức Chúa. Có sẵn nơi Giao Ước của người Do Thái, cụm từ “huyền nhiệm” trước tiên không qui về những điều tăm tối, khó hiểu. Nhưng, cốt ý nói về những gì trước đây được giấu kín, nay tỏ lộ cho những người sống ở “bên trong”. Nếu Ngài không biểu lộ, ta chẳng tài nào nhận biết được nội dung huyền nhiệm. Huyền nhiệm Chúa Ba Ngôi là ví dụ, rất điển hình. Qua huyền nhiệm, ta được bảo: Đức Kitô, Ngài vừa là Chúa, vừa là phàm nhân, mang thân phận phàm trần, giống như ta. Đó là nhiệm tích Chúa làm người. Đáp ứng với huyền nhiệm, người đời thường lãnh đạm, chẳng thiết tha. Quan tâm lắm, cũng chỉ tìm cách tinh giản, hạ thấp những gì khó hiểu nơi nhiệm tích hầu đặt ngang hàng tầm mức của đặc thù nằm lặng im nơi phần sâu thẳm, của tri thức. Để hỗ trợ lòng hăng say tìm kiếm sự thật, và hiểu thêm đôi chút về Ba Ngôi Đức Chúa, cũng nên cố gắng đào sâu huyền nhiệm theo khả năng Ngài đã ban. Nhưng dù thế, vẫn cứ phải minh định ngay từ đầu, rằng: ta chẳng có ý đối phó với các mâu thuẫn ngay lập tức. Cũng chẳng tìm cách tin tưởng vào những gì không thể xảy ra. Hoặc cố tình hoá giải công thức 3 = 1. Lâu nay, người người được yêu cầu hãy tin vào Hữu Thể Huyền Nhiệm, của Ba Ngôi Đức Chúa. Tự thân, đó là quả quyết mà ta không thể khẳng định hoặc chối bỏ, trên căn bản luận lý. Quả quyết như thế, không buộc ta phải cam kết về một Đức Chúa siêu việt, về hình tượng. Nhưng trái lại, hãy khiêm tốn lắng nghe lời kinh mà các linh mục vẫn dâng lên Cha vào mỗi Buổi Tiệc Bẻ Bánh. Lời kinh dâng lên, là các linh mục vẫn thân thưa: Ba Ngôi đồng uy nghi, không phân ly vẫn huy hoàng, Ngài Thiên Chúa duy nhất, chúng con thờ.” Hay hơn cả, cũng đừng tìm cách cột mình vào mối giây thòng thần học, đầy khúc mắc. Nhưng, cứ để lòng mình đọng lắng trong nguyện cầu với các bài đọc, rất thành kính. Các bài đọc hôm nay, mang tính chú giải hoặc biện luận, khó hiểu. Vì thế, cũng chẳng nên chú tâm vào các giới từ ở thể hỏi đáp, như: Là gì? Tại sao? Cách nào?…Tốt hơn hết, nên theo cách thiết thực, mà sờ chạm vào Bản vị của Ba ngôi Đức Chúa. Đấng luôn hiệp thông, tương quan với chúng ta. Tín thư của các bài đọc hôm nay, muốn nói lên rằng: Đức Chúa của ta, Ngài không ở đâu xa. Ngài không là các ông “ngáo ộp” chỉ nuốn nhảy bổ vào mình, mỗi khi ta phạm lỗi. Tín thư về Ba Ngôi Đức Chúa, thật ra Kinh Thánh muốn nói là: Thiên Chúa, Ngài là Đấng gần gũi bên ta. Ngài chăm nom săn sóc mỗi người chúng ta, từng chút một. Bài đọc thứ nhất từ sách Xuất Hành, Môsê được bảo cho biết: Đức Chúa, Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, vẫn nén cơn tức giận, giàu lòng nhân nghĩa và thành tín” (Xh 34: 6). Ta cần lắng nghe lời Ngài căn dặn, mỗi khi có khó khăn, gian khổ. Những năm về trước, nhiều người rủ nhau xem phim “E-va, ba bộ mặt”. Truyện phim kể về một người đàn bà có ba cá tính khác biệt, nhập chung trong một nhân vật. Trên sân khấu cổ điển La - Hy, người ta vẫn có thói quen cho diễn viên đeo mặt nạ ngõ hầu diễn tả một cách sâu sát hơn diện mạo của nhân vật, mình thủ vai. Kịch nghệ Trung Hoa, cũng có thói quen bôi vẽ lên mặt tài tử bằng nhiều mầu sắc, mỗi khi họ diễn xuất. Tiếng La tinh, ta gọi đó là persona – Bản vị. Với Chúa, ta có thể nói: Ngài có ba Bản vị, tức Ba Ngôi, trong cùng một tính cách của Đức Chúa. Với ngành kịch nghệ, mỗi vai trò/bản vị chỉ kéo dài suốt buổi diễn, cho đến khi hạ màn là chấm dứt. Nhưng với Chúa, Ba Ngôi Vị vẫn cứ dính liền, không ly tán. Không nhạt phai. Cũng nên xét đến các Ngôi Vị của Đức Chúa, diễn bày trong Kinh Thánh: Chúa Cha. Theo truyền thống người Công Giáo, Giao Ước nói về Chúa như người Cha. Ở đây, ta hiểu rằng: Kinh Thánh không phân biệt giới tính của Thiên Chúa. Chính vì thế, ngày nay có người còn coi Thiên Chúa như Mẹ Hiền Phúc Hậu. Ở cả hai trường hợp, ta vẫn nhận thấy Chúa chính là Đấng Có từ buổi đầu. Ngài là Nguồn Gốc. Là, Đấng Duy Trì Bảo Quản Sự Sống của tất cả mọi sinh vật, đang hiện hữu. Sách Tông Đồ Công Vụ, có đoạn viết: “Nơi Ngài, ta được sống, được chuyển động và có mặt bằng Bản vị chủ thể.” Nhưng Thiên-Chúa-là-Cha, không phải là con rối động đậy ở trên cao, chín tầng mây mù mịt ấy. Ngài chính là Đức Chúa cùng chung cơ ngơi, vẫn ở cùng với ta. Ta vẫn kiếm ra Ngài ở mọi nơi. Với mọi vật. Mọi vật do Ngài dựng nên, vẫn duy trì bản thể. Từ vật nhỏ mọn đơn thuần, cho chí hữu- thể-làm-người đầy sáng tạo. Cùng với tổ phụ Môsê, ta xin thưa: “Lạy Chúa, xin Người cùng đi với tôi.” Chúa Con. Nếu bảo Thiên Chúa là Cha, thì cũng phải nói Người Con duy nhất của Ngài chính là Chúa Con. Chúa Con, cùng Bản Thể. Một Ngôi Vị. Là, Đấng Nhập Thể làm Người, Ngài mang thân phận “Người”, nhưng không có nghĩa là nam nhân, hay nữ giới. Như Kinh Tin Kính khởi đầu viết bằng tiếng La-tinh nhấn mạnh “et homo factus est” – Bản Thể Người. Ta biết được “Chúa Con”, ngang qua Đức Giê-su, Con của Đức Maria. Nơi Ngài, ta có được tổng hợp thiên tính và chất người phàm trong cùng một Ngôi Vị. Sự Thật này, vượt quá sức hiểu biết như chính Ba Ngôi Đức Chúa. Chỉ cần tin. Đức Giê-su là món quà tặng rất quý cho con người. Bởi, nơi Ngài, ta có được một phần mặc khải về tính cách hạn chế của người phàm mà Đức Chúa chấp nhận mặc lấy cho Ngài. Tín thư thần thánh bộc lộ cho ta biết về tình Chúa yêu ta, mà thánh Gio-an ghi rất rõ trong trình thuật hôm nay: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.” (Ga 3: 17). Chúa Thánh Linh. Thiên Chúa dựng lều ở với con người qua Ngôi vị Chúa Thánh Linh. Thánh Linh, được diễn tả bằng ngôn từ thần học như tình thương yêu vô tận giữa Chúa Cha và Người Con của Ngài. Lại nữa, không thể nói về Ngài mà không nói về Tình Yêu, không giới tính. Trên thực tế, Thánh thần Chúa chính là Đức-Chúa-dựng-lều-ở-cùng-chúng-ta, nơi mọi vật. Và, Ngài tỏ lộ chính mình Ngài qua việc “ở-cùng” ấy. Nơi nào có sự thật, tình yêu hoặc chân-thiện-mỹ dù nơi thiên nhiên hay con người, ở đó có Thần Linh Chúa. Mỗi tác động của sự thật và vẹn toàn, mỗi động tác của tình yêu hoặc lòng xót thương, mỗi cử chỉ cảm thông, kết đoàn, của tha thứ, đón nhận và công minh, chính đó là thần Linh Chúa tác động trong ta, và ngang qua ta. Và, mỗi khi động tác này kéo dài, chính đó là dấu hiệu mọi người đang có ảnh hưởng tác động của Thánh Thần Chúa. Cảm nhận được điều đó, thánh Phao-lô đã nhắn nhủ Hội thánh Chúa ở Cô-rin-thô: “anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau, hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an, sẽ ở cùng anh em. (2Cr 13: 11). Và rồi thánh nhân, kết thúc lời lẽ tâm tình ấy bằng lời cầu và chúc tụng cùng Chúa Ba Ngôi: “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa, và ơn hiệp thông của Thánh Thần. A-men.” (2Cr 13: 13). Cùng mọi người, ta hãy ngợi ca Tình Chúa Ba Ngôi, nguồn yêu thương của người, của mình: “Tôi còn yêu, tôi cứ yêu! Tôi còn yêu, tôi cứ yêu! Tôi còn yêu mãi … mãi mãi. Tôi còn yêu đời, tôi còn yêu người Tôi còn yêu ai. Cho dù ai xa lánh tôi. Cho dù ai oán trách tôi Cho dù duyên mới đã chắp nối Cho tình xa vời, đã tan vỡ rồi. Tôi còn yêu hoài. (Phạm Duy – Tôi còn yêu tôi cứ yêu)
Vâng. Tôi còn yêu. Vẫn cứ yêu. Yêu, như Chúa hằng yêu tôi. Yêu người. Dù ai có lánh xa. Oán trách. Không còn yêu. Dù, “đất trời mới mẻ, rất lạ”, thì “điều bí hiểm được sinh ra”. Đó chính là Tình Yêu của Ba ngôi Đức Chúa. Tuy rất lạ. Nhưng vẫn yêu ta.
Chúa Nhật Lễ Mình Máu Chúa Năm A “Cho tôi thắp hai hàng cây bạch lạp” Khói nghiêm trang sẽ dâng lên tràn ngập Cả Hàn giang và mầu sắc thiên không, Lút trí khôn và ám ảnh hương lòng Cho sốt sắng, đê mê nguyền ước. Ga 6: 51-52 (Dẫn nhập từ thơ Hàn Mặc Tử) Mới chỉ xin, “thắp hai hàng cây bạch lạp” thôi, mà nhà thơ đã “sốt sắng, đê mê nguyền ước”. Hẳn là khi, mừng lễ Mình Máu Thánh Chúa, sẽ có “cả Hàn Giang nhân loại, thiên không”, tràn trái đất? “Đê mê ngập tràn” - “lút trí khôn”, “ám ảnh hương lòng”, là tâm tình người dự Tiệc vẫn có, thấy lâu nay. Trình thuật lễ Mình Chúa hôm nay, thánh Gio-an ghi: “Ai ăn thịt và uống máu Ta, sẽ được sống đời đời, và Ta sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6: 54) Thoạt ngày đầu, Lời Chúa không nói về “Tiệc Thánh Thể” hoặc rước lễ, nhiều cho lắm. Người Do Thái lúc trước đều không muốn dính vào máu. Họ cho rằng, máu động vật là thứ gì ô uế, không được đụng đến, huống hồ là ăn hoặc uống. Chí ít, là hàng tư tế. Có lẽ vì thế nên, ở truyện người Sa-ma-ri-ta-nô hiền, cả vị thượng tế lẫn Lê-vi dù thấy người bị nạn sõng xoài trên vũng máu, vẫn bỏ đi. Bỏ mà đi, không phải vì họ vội vã lên đền thờ kịp dâng lễ; nhưng vì, không muốn dính đến người có vấy máu. Ai ăn thịt và uống máu Ta, trước nhất nên hiểu theo nghĩa liên kết/tháp nhập Lời Chúa. Có thị kiến Ngài ban cho. Và, thấy được giá trị của máu. Có như thế, mới hiểu thấu ý nghĩa và mục tiêu của sự sống, thật đúng cách. Khi hiểu rồi, ta sẽ nói như thánh Phao-lô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi, mà chính là Đức Kitô sống trong tôi.” (Ga 3: 22); hoặc: “Anh em hãy mặc nơi mình, tâm tư vẫn có trong Đức Kitô Giê-su.” (Pl 2: 5). Tâm tư vẫn có trong Ngài, chính là điều ta suy nghĩ. Là, mộng ước ta xây. Và là, ý nghĩa của lời khuyên nhủ: hãy ăn thịt và uống máu Chúa, tức: hiệp thông liên kết qua động tác nghĩ và sống đời cộng đoàn. Khi nói: ăn Thịt và uống Máu Chúa, thánh Gio-an không có ý nói thân xác/thể hình khi Ngài chết trên thập giá. Cũng chẳng là, máu đào rỉ tuôn từ nương long, nơi xương thịt. Thân Mình Đức Chúa Phục Sinh hôm nay, gồm tất cả đồ đệ người thân của Đức Chúa. Cả những người đã và đang liên kết với nhau trong cộng đoàn tình thương, trên thế giới. Ngài là Đầu. Còn ta, qua kỹ năng đa dạng của mỗi người, là tứ chi nơi Thân Mình Ngài. Thân Mình Ngài cùng với tứ chi, có trọng trách yêu thương, phục vụ và chăm sóc lẫn nhau. Yêu thương, hầu làm chứng để thế giới biết đến Ngài. Yêu thương, chứng tỏ Chúa sống nơi mình. Thêm vào đó, ta có Bí tích Mình Máu Chúa, nữa. Nếu không biết yêu thương/phục vụ cộng đoàn, thì Mình Máu Chúa chẳng đem cho ta ý nghĩa nào hết. Hoặc có chăng, cũng rất ít. Nói cách khác, không biết rõ Đức Kitô hoặc chối từ nhận lãnh thị kiến Ngài trao, ta sẽ chẳng thể nào “ăn Thịt và uống Máu Ngài” được. Và như thế, tham dự Tiệc Thánh chỉ là thói quen vô bổ. Và như thế, những ai cho rằng mình là kẻ bước theo chân Chúa, vẫn tham dự đều Tiệc Thánh, một cách năng động hay thụ động, mà lại không tha thiết làm thành viên cộng đoàn tình thương của Chúa, ắt chỉ hưởng lợi ích của Bí tích Thánh Thể, rất ít. Tham dự Tiệc Thánh, còn là hành vi cảm tạ. Bởi, nếu tầm nguyên ngôn ngữ, ta sẽ thấy cụm từ “Thánh Thể” (eucharistia) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, mang ý nghĩa của một cảm tạ. Nên nhớ là, trong mọi việc, Thiên Chúa thể hiện tình thương cho ta qua sự sống của Đức Giê-su, và Lời Ngài dạy. Qua nỗi đau, cái chết và sự sống lại của Ngài, mà thôi. Bởi thế nên, khi tham dự Tiệc Thánh, ta nhớ đến Đức Chúa của Tình Yêu. Nhớ, để cảm tạ. Nhớ, để yêu thương. Cảm tạ, vì ta đã được Tình yêu Chúa đánh động, và đi vào cuộc sống của ta. Đánh động, qua kinh nghiệm bản thân, của mỗi người. Dự Tiệc Thánh, là đi vào với chiêm ngắm và cảm tạ mọi phúc lành, Ngài ban cho sự sống. Dự Tiệc Thánh, còn là cử hành sự kiện mình trở nên thành viên đích thực của cộng đoàn. Vì thế, ta sẽ cử hành trong vui tươi, đậm nét thân thương tình bằng hữu. Vui tươi, vì Tiệc Thánh Thể, tự bản chất, không tạo ra cộng đoàn. Nhưng, khi dự Tiệc Thánh, ta biết rõ ràng cộng đoàn có mặt ở đó, đang quây quần tề tựu, rất tươi và rất vui. Tham dự Tiệc Thánh, không chỉ có nghĩa là “xem lễ”, bước đến nhà thờ để “đi lễ”, rất cá thể. Dự Tiệc Thánh, cũng chẳng cốt để giữ điều răn Hội thánh, là: “Hãy giữ ngày Chúa Nhật”. Dự Tiệc Thánh, hay giữ ngày Chúa Nhật, không thể là như đi xem hát/diễn kịch, để giải trí. Không phải để ta lãnh nhận điều gì có lợi, dù vật chất hay tinh thần. Nhưng tham dự Tiệc, là cho đi. Cho rất nhiều. Cho toàn bộ con người mình, hầu liên kết hiệp thông. Tiệc Thánh là một Bí tích, điều này có ý nghĩa còn lớn hơn cả ý nghĩa đến dự chỉ để dâng lên đồ cúng kiến, tế thần. Tiệc Thánh, là thước đo chất lượng của tình bằng hữu, nơi cộng đoàn. Đo, là đo cả bản chất và tình trạng của cộng đoàn, nữa. Cộng đoàn nào sinh động, ắt không thể cử hành Tiệc Thánh theo cách lê thê, đáng chán. Nơi nào, không có tinh thần cộng đoàn theo đúng cách thì nơi ấy không thể có Tiệc theo đúng nghĩa. Dù nguyện đường có hoành tráng. Phẩm phục có uy nghi. Ban hợp xướng có tiếng hát thanh trong thiên thần đi nữa, thì Tiệc Thánh ta dự vẫn không mang ý nghĩa đích thực được. Có giáo dân đến dự Tiệc Thánh rất thường nhưng vẫn tự hỏi: sao cứ phải “đi lễ”, mà không thể cầu nguyện ở nhà? Đúng thế. Ai cũng có thể ở tại nhà, mà nguyện cầu. Nhiều khi, nhà là chốn ấm nguyện cầu, rất tốt. Nhưng, Tiệc Thánh đâu chỉ là thời gian để nguyện cầu. Thánh lễ chính là Bữa Tiệc. Là, mảng thời gian để ta vui mừng với cộng đoàn thân thương, ta lui tới. Và tiệc vui thánh, không thể thực hiện một cách riêng lẻ, ở tại nhà. Mà, chỉ có thể thực hiện trong chung vui, với nhau. Chung cộng đoàn. Cùng cộng đoàn. Bài đọc hai, thánh Phao-lô nói: “Khi nâng chén chúc tụng cảm tạ Chúa, há chẳng là ta dự phần vào Máu Đức Ki-tô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh, há chẳng là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi, chỉ một tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, ta vẫn chỉ là một thân thể.” (1Cr 10: 16-17). Tiếc thay, dĩa thánh đựng Mình Chúa còn hơi nhỏ, khó có thể diễn tả phương cách để cộng đoàn ta cùng vui sẻ san Mình Máu Chúa, trong hiệp thông. Nên cũng tạo phần nào giảm sút ý nghĩa trọng tâm của Tiệc ThánhThể. Và cũng còn khiến cho sự kiện đón nhận Mình Máu Chúa như là chỉ là việc riêng tư, cá thể. Nhưng kỳ thực, dự Tiệc Thánh là có Chúa đến với ta. Ở nơi ta. Ngài đến, như thành phần của cộng đoàn thân thương, đang vui sống. Bởi thế, những gì ta cử hành khi tham dự Tiệc Thánh, vẫn nói lên kinh nghiệm sẻ san, cùng đem cho nhau tư cách vui tươi, của cộng đoàn. Và khi bắt đầu phần rước Chúa vào lòng, cộng đoàn ta cùng nhau dâng lên lời nguyện cầu mà Đức Giê-su đã chỉ dạy. Đó chính là lúc, ta ngỏ lời với vị Cha Chung của ta ở trên cao, chứ không phải với người cha riêng của một ai. Qua ngỏ lời, ta cầu Chúa ban cho mọi người có đủ cơm bánh hằng ngày. Cầu mong cho nhau, được ơn tha thứ, biết làm hoà. Làm hoà, bằng cử chỉ tay trong tay nắm thành vòng. Và làm hoà, bằng lời chúc bình an cho nhau. Tức, cử chỉ của sự thân thương tình bằng hữu. Của tình an hoà biết thứ tha hết mọi người, trước khi bước lên bàn thánh đón Chúa vào ngự trong cung lòng của chúng ta. Thực hiện động tác an bình hài hoà, tất cả chúng ta sẽ nhớ lại Lời Ngài ở Núi thánh: “Vậy, khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ người anh em đang có chuyện bất bình với anh, hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh/em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. (Mt 5: 23-24). Nói cho cùng, nếu không chuẩn bị, ta không thể có được tình an hoà bằng hữu, khi đến với cộng đoàn, ở nhà thờ. Đến dự Tiệc, là ta đã sẵn sàng mang niềm vui tặng trao mọi người. Giáo xứ nào, nếu chỉ lo tổ chức thánh lễ rềnh rang cho có mà chẳng thiết tha gì chuyện buồn/vui xảy đến, với người xứ mình. Thì nơi ấy, sẽ trở thành giáo xứ khô cằn, rẫy chết. Tiệc Thánh lúc đó, chỉ là thói quen nhàm chán, đáng từ bỏ. Tiệc Thánh, phải là Tiệc sinh động của cộng đoàn. Cho cộng đoàn. Và do cộng đoàn thực hiện. Giáo xứ năng động, không chỉ là toà kiến trúc, nguy nga có thánh lễ, có bài giảng và có đàn hát, rất hăng say. Nhưng, là cộng đoàn tươi vui, biết dựng xây tình yêu thương con cái Chúa, trong hiệp nhất. Và, Tiệc Thánh, là dấu chỉ của cộng đoàn vui tươi sinh động, ở giáo xứ . Ở nơi đây, Đức Kitô đang hiện diện sống động trong mọi người. Qua mọi người. Ngài hiện diện, như một tổng thể có Thân Mình rất Thánh, hiệp thông. Liên kết. Hiểu được ý nghĩa đích thực của Tiệc, ta sẽ nhận ra Lời Ngài vẫn chờ và vẫn đợi mọi người. Cả vào lễ Mình Máu Chúa, rất hôm nay. Tham dự Tiệc hôm nay, ta cầu cho dân con nhà Đạo thấm nhuần ý nghĩa của Tiệc Lòng Mến đích thực. Rất cộng đoàn. Trong tâm tình đó, ta hân hoan hát lời nghệ sĩ khi xưa, vẫn mời: “Hát với tôi trong nỗi vui hay trong cơn buồn. Hát với tôi qua tiếng reo hay bằng lời than Đời đẹp thì ta hát vẻ vang, Đời buồn thì ta hát nỉ non., Đừng ngậm miệng im hơi thành xác không hồn Hát với tôi nào ! Hát với tôi nào ! Hát với nhau những lời hôm nay cùng hát Hát với tôi nào ! Hát với tôi nào ! Hát với nhau những lời của người Việt Nam.” (Phạm Duy – Hát với tôi) Hát với tôi. Với nhau. Nơi cộng đoàn đang dự Tiệc lòng mến, rất nghiêm trang rộn ràng. Có “hàng bạch lạp thắp cho nhau”. Cho cộng đoàn, mừng kính Mình Máu Chúa, rất hôm nay.
Chúa Nhật 9 Thường Niên Năm A
“Con xin Chúa một giờ, chuông ngọ đổ” Chuông ngọ từng hồi, chuông ngọ đổ Từng hồi chuông ngọ đổ, chơi vơi Con nghe chuông đổ, rồi con khóc Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi! Mt 7: 21-27 (dẫn nhập nguồn thơ Nguyễn Bính)
“Chơi vơi, nghe chuông ngọ đổ từng hồi”, nhà thơ khóc. Khóc xong, nhà thơ xin Chúa cứu hồn mình, và chuông đổ. Chuông ngọ đổ, dân con nhà Đạo cũng nghe nhưng không khóc, chỉ cầu kinh. Cầu kinh kêu van cùng khóc lóc, là tình tự Chúa nói ở trình thuật, viết hôm nay. Trình thuật hôm nay, là đoạn cuối Bài Giảng nghe Trên Núi, thật rõ nghĩa. Giảng trên núi, Chúa nói về đặc trưng/đặc điểm mà dân con đồ đệ, nay thường có. Đặc trưng/đặc điểm ấy, không thể đo lường mực thước điều mình nói hoặc làm, dù có là thánh. Thành thử, không thể ngồi “nghe chuông đổ”, rồi kêu cầu “Lạy Chúa!”, “Lạy Chúa!” suốt ngày là đủ đâu. Than van kêu cầu “Lạy Chúa!” Lạy Chúa!” suốt ngày, là kiểu nói/thói tục, bấy lâu nay. Xưa nay, dân con nhà Đạo dù có để thì giờ kêu van hay đi nhà thờ nhà thánh, hoặc hành hương, làm tuần cửu nhật, sớm tối đọc kinh, kiệu rước linh đình… thì chưa chắc đã thể hiện được ý Cha. Có vị, còn chủ trương bói bùa trừ quỷ, giảng thuyết hùng hồn hoặc bày biện chuyện lạ giựt gân nhằm thu hút nhiều người, cũng chưa chắc để danh Cha được cả sáng. Là dân con đồ đệ, đòi hỏi ta làm nhiều hơn thế nữa. Trước hết, nên nghĩ đến trách nhiệm hiệp thông liên kết trọn vẹn với Chúa. Liên kết trọn vẹn cả hồn xác, là thấm nhuần thần trí Đức Kitô. Là, biết suy nghĩ như Ngài vẫn suy tư. Biết nhận thức, thực hiện ý định của Ngài, trong mọi việc. Là đồ đệ đúng nghĩa, còn phải biết thực sự tiếp cận với ý định của Ngài nữa. Tiếp cận, trong tâm trạng tỉnh trí biết lắng nghe, hơn là nói nhiều và ê a nhiều, qua kinh kệ. Tiếp cận là để khi giáp mặt Ngài vào giờ phút cuối, Ngài sẽ nhận ra mình, người đồ đệ thân thương vẫn chu toàn thánh ý của Ngài, trong cuộc sống. Chu toàn thánh ý của Chúa, còn là tương tác với Ngài bằng bốn đặc trưng, như sau: Trước nhất, biết lắng nghe xem Ngài dạy những gì. Chỉ làm được như thế, nếu biết tiếp cận Lời Ngài. Lời Ngài vẫn rõ ghi trong Kinh Thánh, cả ở Cựu Uớc lẫn Tân Ước. Đặc biệt là Tân Ước. Bởi, phần đông dân con nhà Đạo thường biết rất ít về Lời Ngài nói trong Kinh Thánh. Trong cuộc sống bận rộn, ít người chịu mở Kinh Sách ra đọc, và gẫm suy. Tuy nhiên, làm sao suy gẫm, nếu chưa bao giờ sở hữu đến một Cuốn. Có người còn nghĩ: vốn liếng về Đạo học được ở trường/vào giờ lễ, cũng quá đủ. Người khác lại nói: chỉ cần ta ăn ngay ở lành, làm đúng lương tâm đạo đức, đã là may. Thậm chí, đến như người có học, cũng còn biết rất ít về đặc trưng/đặc điểm ở tín thư Tin Mừng, nữa cũng nên. Tiếp đến, cũng nên am tường những điều mình nghe biết, nơi Lời Ngài. Lời Ngài dạy, ta đã nghe và cũng đã có dịp đọc, nhưng không am hiểu ý nghĩa tóm gọn, bên trong. Thành thử, không thể am tường, nếu không có cố gắng. Làm sao cố gắng, nếu chỉ đọc và hiểu Lời theo tầm hiểu biết rất thô sơ, của chính mình. Đọc và diễn nghĩa bậy mà không được dẫn dắt, là điều rất nguy hiểm. Nguy hiểm, như vẫn từng xảy ra qua nhiều thế kỷ. Lời Chúa, được viết vào thời buổi có văn hoá khác hẳn, thời hôm nay. Đọc Lời Chúa, mà không được giải thích dẫn dắt, thật khó mà hiểu cho thấu đáo. Nếu chỉ đọc hời hợt/thoáng qua, ta dễ bóp méo hoặc thay đổi ý hướng của văn kiện. Thành ra, ta nên tìm đọc và học hỏi các sách chuyên sâu chú giải, mới hiểu thấu Lời Chúa. Và từ đó, mới thấy hữu ích. Thứ ba, là có thái độ thuần thục chấp nhận và biết đồng hoá tiếp thu những gì giúp ta hiểu biết thấu đáo Lời Ngài dạy bảo. Ta sẽ trở nên đồ đệ đích thực của Ngài, nếu biến suy tư của Đức Chúa thành suy nghĩ của chính ta. Như thánh Phao-lô có nói trong thư gửi cộng đoàn Phi-líp-phê: “Đối với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi”. (Pl 1: 21). Mối lợi với thánh nhân, là kết hợp trọn vẹn với Chúa. Là, tiếp tục sẻ san kinh nghiệm về Ngài với người anh người chị, trong cộng đoàn các kẻ tin. Cuối cùng, lại như thánh Phao-lô, một khi ta đã đồng hoá/tiếp thu trở nên thành phần suy tư điều mình đã nghe và hiểu, ta cứ theo đó mà hành động. Bởi, thánh ý của Chúa và suy nghĩ của ta khi đó đã trùng lập. Thị kiến của Ngài cũng trở thành cái nhìn của ta, như một. Như của ta. Là đồ đệ của Chúa và quyết làm theo Lời Ngài, không còn là vấn đề của ý chí, nữa. Mà là, nhìn thấy sự việc theo cùng một cách như Tin Mừng. Như Tony De Mello nói: “Tất cả là thái độ sống”. Khi thấy được sự sống và tương quan cùng một cách như Tin Mừng thấy, thái độ của ta sẽ dễ dàng tiến theo sau, rất tự nhiên. Bài đọc một, nói đến chọn lựa của ta có thể là một chúc phúc hay nguyền rủa. Với Giao Ước Mới, giới lệnh đích thực không là điều răn có được từ núi Si-na-i; mà là, theo cách sống sự thật. Sống công chính. Và, sống trong yêu thương dựa trên sự kết hiệp tình yêu giữa Chúa và mọi người. Mọi người ở quanh ta. “Chúc phúc”/“nguyền rủa”, không là quyết định thánh thiêng của Chúa. Quyết định là quyết định, theo sau đáp ứng của ta với lời mời của Chúa. Nghe và làm theo lời Ngài, ta sẽ được bình an - hạnh phúc, ta hằng đeo đuổi. Từ chối không nghe/không làm, đem cho ta những âu lo nghịch thường, trong cuộc sống. Bài đọc hai, thánh Phao-lô nhắc nhở ta hãy nên người công chính, việc này không do bởi ta có giữ luật Mô-sê truyền không, nhưng đây là quà tặng của tình yêu, nơi cuộc sống. Qua, sự thống khổ, cái chết và sự phục sinh của Chúa. Tin điều Chúa dạy, đó là ý định Chúa muốn ta nhận biết và có được niềm tin tươi mát. Nói cách khác, trở nên người công chính với Chúa, là do mình có quyết định tin - yêu trọn vẹn vào Đức Kitô. Chứ không do nỗ lực vẫn có nơi ta. Hiểu như thế, là theo đúng Tin Mừng của Chúa, hôm nay. Mọi việc ta làm, đều qua Ngài. Với Ngài. Và trong Ngài. Sống, mà chỉ biết có kinh kệ hoặc vụ hình thức, những “chũm choẹ chập choeng”, chẳng khác nào như Chúa nói: “như người dại xây nhà trên cát. Gặp mưa sa, gió cuốn bão ập vào, tất cả đề ra hư luống, đổ ào.” (Mt 7: 27). Đó cũng là trạng huống của các bạn đồng Đạo, những sống hình thức. Rất dễ ngã quỵ, trong hối tiếc. Nghe Lời Ngài, là biết sống trong sự thật. Rất yêu thương, đùm bọc. Rất nội tâm. “Đừng thề với hứa, mà không thể thực hiện! Hãy biến những điều mình hứa hẹn và thề nguyện, thành hiện thực!” Điều này, vẫn thường xảy đến vào thời của Đức Chúa. Thời mà dân con trong/ngoài nhà Đạo vẫn cứ chỉ tay lên trời mà thề. Lập trường Chúa kêu gọi mọi người, vẫn là: đừng thề nguyền hoặc hứa hão. Cứ luôn sống trung thực. Trung thực như một kẻ tin, rất lương thiện. Rất đáng tin cậy. Lương thiện, không cần phải bảo kê lời mình nói. Không cần phải dẫn chứng Chúa lẫn Mẹ, mỗi khi nói. Cứ trong sáng. Trong sáng, như những người không có gì phải giấu. Có nhiều người Công giáo luôn nghĩ rằng: nếu mình giữ trọn 10 điều răn Đức Chúa Trời, đương nhiên trở thành người công chính. Lên thiên đàng thẳng rọt. Họ là những người, thường cứ nhất nhất một điều bối rối, hỏi rằng: việc này có là tội? Có phản chống lề luật của Đức Chúa không?. Người Công giáo đích thực, là người chẳng cần hỏi: việc đó có đúng luật, không? Mà, chỉ biết yêu Chúa qua các người anh người chị trong cộng đồng. Chỉ biết đến phục vụ và yêu thương, nhiều hơn nữa. Yêu thương phục vụ, không là tự hỏi: mình đã thi hành đúng luật pháp chưa. Mà, luôn hỏi: ta làm như thế có đúng luật yêu thương, phục vụ người đồng loại không? Có cần yêu thương nhiều hơn nữa không? Trả lời được câu hỏi này rồi, thì đòi hỏi của những luật và pháp, cũng sẽ lọt tọt đuổi theo sau mình, mà thôi. Hiểu như thế, ta quyết tay nắm tay, ra đi mà phục vụ kẻ khác. Phục vụ người. Như người vẫn hát: “Đi với tôi đến chốn trời xa Bên suối mơ là nhà của ta, tay đàn miệng ca và mơ màng ta múa Gót chân theo nhịp bước thần tiên Có ai đâu vui như tôi Tuy không có dài hơi Người nào chán và buồn tình đời Đều cùng yêu tôi.” (Canh Thân – Đi với tôi đến chốn trời xa)
Vâng. Khi đã quyết tâm như thế, ta cứ đi. Đi để thấy, đời rất đẹp. Thấy mọi người “đều yêu ta” và ta yêu người. Yêu ta yêu người, chứ không ê a Lạy Chúa, và không khóc. Dù khóc, khi nghe chuông đổ. Hay khóc, vì gọi Chúa mãi Ngài không nghe. Bởi than hay khóc, giống như người xây nhà trên cát. Rất dễ sụp. Rất mau chán. Chán sống. Chán cả yêu.
Chúa Nhật 10 Thường Niên Năm A “Lòng bâng khuâng bối rối, trước khúc quanh” Chiều nay lạnh, có nhiều sương rơi quá,
Mt 9: 9-13 Bâng khuâng bối rối, là tâm tình của nhà thơ, trước khúc quanh. Khúc quanh đời mình. Với nhà Đạo, cũng chẳng làm ai bối rối, vẫn quyết tâm. Quyết theo Chúa, như Mát-thêu-người-thu-thuế, đã diễn tả ở Phúc Âm. Hôm nay. Phúc Âm hôm nay, kể về việc Chúa gọi người thu-thuế-mang-tên-Matthêu. Phải chăng, đây là Mát-thêu-thánh-sử nhiều người mến? Các nhà chú giải đương đại, lại nghĩ: Tin Mừng hôm nay được viết bằng ngòi bút của tác giả ẩn danh, thời các thánh. Theo truyền thống, tác giả nào nổi danh viết điều gì, sẽ được gắn tên mình lên bài viết/tác phẩm ấy. Ở Tin Mừng Mác-cô và Luca, vị ấy mang tên: Lê-vi. Dù có là ai khác, khúc quanh cuộc đời nơi Lê-vi hay Mát-thêu-người-thu-thuế, nói lên một chuyện không ai ngờ trước. Như đoạn văn/thơ nơi bài đọc một: “Ta phải ra sức nhận biết Chúa, như hừng đông mỗi ngày xuất hiện. Người đến, như mưa rào, mưa xuân tưới gội đất đai.” (Hs 6: 3). Ngày giờ Chúa đến gọi, vẫn bất ngờ là thế. Nhưng, Mát-thêu-thu-thuế vẫn luôn sẵn sàng, khi Ngài gọi. Là dân thu thuế, Mat-thêu bị xã hội Do Thái luôn coi rẻ. Vào thời của Chúa, những người như thế còn bị ghét bỏ/tẩy chay vì đã phục vụ đám thực dân người La Mã, ở bên trên. Bởi thế, họ vẫn bị người đời coi như đã bội phản dân mình. Phản cả Đạo Chúa. Thực dân La Mã có thói quen tính sưu cao thuế nặng rồi bổ lên đầu lên cổ người dân đen. Dân thu thuế thường thu nhiều hơn cả số thuế mà đám thực trên dân đòi hỏi. Thu nhiều hơn, hầu có của dư của để mà sống cuộc đời thoải mái qua sai biệt. Sai biệt ấy, họ coi như thù lao mình được quyền. Thành thử, đám người thu thuế ở Do Thái vẫn kiếm bổng lộc phụ trội, thành thói quen tham nhũng, với mãi lộ. Tham ô/nhũng lạm bị toàn dân ghét bỏ, là chuyện dễ nhận thấy; nhưng ở đây, Chúa vẫn mời gọi những người này cất bước ra đi theo chân Ngài, để giảng rao. Hãy tưởng tượng, Mát-thêu-thu-thuế ngỡ ngàng đến độ nào khi ông được Chúa đích danh, chào mời. Đây là mô hình tuyệt hảo, cho thấy tầm nhìn của Chúa vượt mọi khuôn đúc cấm kỵ, vẫn hằn in bên trong tâm khảm người đương thời. Đây là bài học ta cần biết đến để rồi đừng đánh giá thấp các thiếu xót/ lỡ lầm của con người. Lỡ lầm và thiếu xót ấy, Mát-thêu-thu-thuế đã biết bỏ lại, hầu bước theo chân Chúa, trọn niềm tin. Bài đọc hai, thánh Phao-lô nói nhiều về niềm cậy trông/tin tưởng của Áp-ra-ham nơi Đức Chúa. Cậy trông - tin tưởng, cả khi ông biết mình đã già nua/tuyệt vọng trong ao ước có con nối dõi tông đường. Thánh nhân viết: “chính nhờ niềm tin, ông đã vững mạnh và tôn thờ Thiên Chúa” (Rm 8: 20). Và, Mát-thêu-thu-thuế không những đã bước theo chân Thầy, mà còn: “dùng bữa tại ngôi nhà.” Dùng bữa tại nhà, có các môn đệ và đám thu thuế khác, cùng ngồi ăn. Tại ngôi nhà, là nhà của ai? Có thể, nhà ấy là nhà của chính Mát-thêu-thu-thuế. Cũng có thể, là nhà của ai đó Chúa nán lại. Cũng có khả năng, nhà đây chính là nhà của Đức Chúa. Tại ngôi nhà, là cụm từ thường lặp đi lặp lại nhiều lần trong Tin Mừng Nhất Lãm. “Ngôi nhà”, là nơi Đức Chúa cùng với nhóm môn đệ và nhiều người khác, đã ngồi lại để cùng ăn. Ngồi lại và cùng ăn bên giường của Ngài, hầu nghe và nhận thức điều cần biết. Cùng ngồi và cùng ăn, để được Ngài chữa lành. Đây là khuôn vàng thước ngọc, mà cộng đoàn Hội thánh luôn nhắm đến cùng một mục đích. Nhìn cộng đoàn dân Chúa cùng ăn và cùng ngồi, nhiều “đấng bậc” Pha-ri-sêu tỏ ra rất bất mãn. Họ bèn vấn nạn: “Sao Thầy lại cứ ngồi mà ăn với bọn người-thu-thuế, quân tội lỗi thế?” (Mt 9: 11). Hỏi, là có ý bảo rằng: nếu Ngài là Đức Chúa và bậc Thầy, sao lại giao du với phường “giá áo túi cơm”, thiếu đạo đức như thế? Giao du gần gũi, Thầy đâu ngại lây lan những tật bệnh. Hơn thế nữa, Thầy vẫn dùng của ăn/thức uống ở những nơi Ngài lưu lại, trú chân. Những nơi, mà sự thường chẳng vị nào dám mời phường tệ lậu như thế. Và, đáp ứng của Đức Giê-su luôn qui về lời lẽ ghi trong Cựu Ước. Ở đây, là lời tiên tri Hô-sê được ghi trong bài đọc: “Ta muốn tình yêu chứ không cần của lễ; muốn được người nhận biết, hơn lễ vật toàn thiêu.” (Hs 6: 6). Dùng ngôn-từ thời đại hôm nay, hẳn tiên tri Hôsê sẽ nói: lễ lạy, kiệu rước kinh kệ sẽ chẳng có giá trị gì; trừ phi ở đằng sau, chứa đựng một hiểu biết, rất đích thực. Hiểu rõ ý định của Chúa. Biết chắc con Đường Ngài đang đi. Rồi từ đó, đón nhận Thiên Chúa hết lòng mình. Hiểu biết và thực hiện động tác yêu thương giùm giúp các người anh người chị đang mỏi ngóng trông chờ ta kêu mời, như Đức Chúa. Đáp trả như thế, Đức Giê-su đã đích danh chỉ trích đám Pha-ri-sêu tự phụ, nặng hình thức. Ngài đem đến cho họ, tầm nhìn mới có viễn tượng hoàn toàn khác biệt. Việc họ cần bàn, không là chuyện Ngài có bị lây lan thói tục của người ô uế - rất tội phạm, hay không. Nhưng đúng hơn, chính họ mới là người cần được chữa lành bằng sự hiện diện, bằng ảnh hưởng của Ngài. Họ cần, để rồi tâm can mình sẽ ngập tràn tình thương yêu đích thực. Thương yêu tha nhân. Giùm giúp mọi người. Bởi, những ai biết quan tâm đến người khác, sẽ luôn tìm phương cách để hỗ tương giùm giúp các thiếu hụt mà người anh người chị của mình, đang chịu nhiều cay đắng, với khổ đau. Chính vì thế, Chúa đã có câu nói để đời: “Người đau ốm tật bệnh mới cần thầy thuốc” (Mt 9: 12). Quả thật, chính những người như thế mới cần có Chúa ở sát bên. Mặt khác, chỉ những ai thiếu thốn về mặt tâm linh/đạo đức mới mong Chúa dành thì giờ quây quần, ở bên họ. Bài đọc hôm nay, là một bài học hữu ích cho thế giới đương đại. Đã nhiều lần, ta từng nghe thiên hạ xầm xì vấn nạn, khi Chúa chỉ chọn lựa mỗi giới tầm thường thấp bé làm bậc thủ lĩnh trong Đạo, như: linh mục, tu sĩ hoặc giáo dân ngoan, mà thôi. Nhìn vai vế “lý lịch” của Nhóm Mười Hai, sẽ thấy các thánh đều thuộc thành phần nông dân/thuyền chài - văn dốt/võ rát, hơn ai hết. Các thánh, là những người thường ngay như ta cũng chẳng hề ngó ngàng, bận tâm đến. Biết bao tụ điểm thị thành nơi ta sinh sống, là những nơi mà đa số dân con đi Đạo thường không muốn bén mảng. Có người còn viện cớ chủ trương: nơi đó không thích hợp cho người dân ngoan hiền đi Đạo, giống như ta. Rồi vì thế, mọi người đều vẫn mong né tránh. Cứ thử hỏi, Đức Chúa có hiện diện nơi xí nghiệp/công sở ngập đầy những người vô thần, chẳng tin một ai? Ở nơi có nghiện ngập/hút sách, có chốn ăn chơi/phòng trà, dành riêng cho kẻ vô gia cư, thất nghiệp, cô đơn và lẻ bóng. Nếu Chúa vẫn xuất hiện tại chốn thị thành nơi ta sống, ta sẽ gặp Ngài ở nơi đâu? Chốn nào? Nơi giáo xứ, dòng tu hay căn nhà ổ chuột, không ai thích? Thiết tưởng, hôm nay đây, chắc hẳn Ngài cũng lân la nơi phố chợ đầy mùi hôi, những xú uế. Hoặc, tại phố phường chật chội, lem luốc, chốn người qua? Gặp lại dân đen hôm nay, chắc Ngài sẽ bảo: Ta muốn con yêu thương giùm giúp kẻ không nhà, đang chui rúc đầu đường xó chợ, chứ không mong con đem quà tế lễ, với hiến dâng, đâu! Nói cách khác, làm dân con đồ đệ, người người phải cất bước đến với nơi nào/người nào cần mình hơn cả. Cần mình, là cần đến để san sẻ yêu thương và giùm giúp. Chứ, không là chỉ để thì giờ ra mà sinh hoạt tình tiết, với “lễ nghi”. Dù, có là nghi lễ của nhà Đạo. Hoặc, lễ tiếp tân đình đám ở ngoài đời. Tức là, những người chi li với chấm phết lễ tân, đầy kiểu cách. Là, các vị chỉ biết có nhà thờ, kiệu rước với đọc kinh. Nhưng lại ngủ yên trong niềm tự hào, đầy mãn nguyện. Ngủ yên không bối rối. Chẳng bâng khuâng, cũng không vấn nạn. Trung thành nghe Lời Ngài dạy bảo, người người cũng cần được chữa lành. Cần, để cho lòng thương xót trở thành tình tự thân quen,của riêng mình. Lòng Chúa xót thương, cần được chuyển tải - hướng về những ai thật cần thiết. Đó mới là của lễ đích thực, ta dâng tiến. Đó chính là điều Chúa mong muốn, từ chúng ta. Nếu không có lòng xót thương nội tại, việc tham dự Tiệc Thánh sẽ trở thành hành động rỗng tuếch, mất ý nghĩa trọng tâm. Trong nhận định vững chãi như thế, ta hiên ngang cùng người nghệ sĩ hôm xưa cùng hát: “Tôi yêu, đi bộ dưới hàng cây đấu vui với bạn bè và ly rượu ngon, tôi yêu, trong nhà nhiều cây lá tôi yêu, những người già…” (Và tôi cũng yêu em! - Đức Huy) Và, tôi vẫn yêu em. Dù em tôi có nghèo hèn, tội lỗi hoặc chỉ là dân chích choác. Dù anh, dù chị có là người già - nhiều đau khổ, tôi vẫn yêu. Yêu, như Chúa dạy bảo, mà lòng chẳng “bâng khuâng bối rối, trước khúc quanh”. Những khúc quanh cuộc đời, nơi lập trường. Nơi tư tưởng. Vẫn gần bên.
Chúa Nhật 11 Thường Niên Năm A “Trên gương mặt người, cao vợi một niềm tin” Khi mỗi một ngày, là một lời kinh Đem đến trong tim, an bình tịnh độ Thế giới của tôi chẳng còn đau khổ bất hạnh, không hề có chỗ dung thân.” (Dẫn nhập bằng thơ Tiểu Thảo)
Mt 9: 36; 10: 1-8 Quả có đúng, khi mỗi ngày là một lời kinh. Kinh an bình, tịnh độ, rất dễ thương. Có an bình lời kinh đến trong tim, thế giới chẳng còn khổ đau, nữa. Đó là thông điệp nơi trình thuật, buổi hôm sớm. Tin Mừng hôm sớm bữa nay, bắt đầu một nhận định: “Chúa nhìn đoàn người đông đảo, bèn chạnh lòng thương”. Thương người, Ngài nói: “Họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt.” (Mt 9: 36). Từ ngày ấy, mọi sự như chẳng đổi. Người người vẫn lầm than - vất vưởng, không hướng sống. Không hướng, tựa như ý/lời nhạc bản ở nơi đó Diana Ross và The Supremes vẫn hỏi han: “Anh biết chăng anh, con đường ta đang đi tới?” Và, câu trả lời nay kiếm tìm, thấy ở đâu? Lúa chín đầy đồng, mà thợ thì ít. Anh em hãy xin chủ sai thợ ra đi gặt lúa.(Mt 9: 37b). Nếu đếm, ta sẽ thấy: thế giới hôm nay, những người bước đi theo Chúa, cộng lại cũng đã một phần năm. Bốn phần còn lại, còn chưa biết Tin Mừng. Vẫn lạ như người dưng, những lầm than và vất vưởng. Người dưng vất vưởng, có cả dân con nhà Đạo mang danh Kitô hữu. Đã thanh tẩy nhưng vẫn cứ như người lạ. Trong khi ấy, hàng triệu dân con tuy ngoài Đạo, vẫn có niềm tin thần thánh. Niềm tin riêng của Do Thái giáo. Lòng sùng bái vững mạnh, ở Đạo Hồi. Chất đạo hạnh, của Phật và Ấn giáo. Chẳng nghi ngờ gì, tôn giáo bạn đã nhận thức nghĩa sâu của cuộc đời và sản sinh nhiều bậc thánh, các tiên tri nhà thần bí. Quả là sai, nếu ta vẫn coi họ như “dân ngoại”, với “vô thần”. Bởi, dân ngoại hay vô thần chỉ thấy có ở xã hội giàu sang, phương Tây. Nơi đó, có văn minh thượng thặng, chẳng ai tin. Quả có đúng, mùa hái gặt vẫn đầy đồng, khắp mọi nơi. Duy ở nhà Đạo, người người vẫn quả quyết: thợ hái gặt nay vẫn thiếu. Thiếu nhiều, thiếu lắm, nhưng đâu cần thợ gặt có chức quyền tựa linh mục- tu sĩ, hoặc các sơ? Thợ gặt cần, mà Thầy kiếm tìm ở đây chính là người anh người chị dấn bước theo Thầy, tại khắp chốn. Gặt hái thế nào, vẫn còn tuỳ hoàn cảnh tình đời, ta đang sống. Tuỳ gia đình. Tuỳ công việc, tuỳ nền giáo dục - bản vị - tâm linh, dân con đi Đạo. Đáp lời Thầy, lẽ ra ta phải nói rằng: “Thưa Ngài, này con đây!” Nhưng, xưa nay ta vẫn tưởng rằng: Lời Thầy gọi là chỉ kêu ta trở nên linh mục/tu sĩ/nữ tu, thôi. Hơn nữa, ta nghĩ “ơn gọi”/“lời mời” làm thợ gặt là lời chào mời mà Thầy gửi đến một ai khác chứ không phải là ta. Vì thế, ta mới lơ là/dửng dưng và và cứ cho rằng chẳng bao giờ Thầy lại ám chỉ vào chính ta. Trình thuật hôm nay, khởi đầu bằng lời nhắn nhủ hãy xin Thầy gửi thêm thợ gặt cho cánh đồng vàng ươm, nhiều lúa chín. Thực sự, vụ mùa hôm Thầy gặt đếm được chỉ mười hai. Mười hai vị, được trao quyền chữa tật bệnh, và đẩy lùi thần ô uế. Và, Thầy trao quyền giải thoát hết mọi người, không chỉ mang tính thánh thiêng tôn giáo, những giải thoát mà còn là chữa cả tinh thần lẫn và thể xác, rất trọn vẹn. Ở mọi mặt. Nơi thánh sử Mát- thêu, đồ đệ Thầy chọn với danh xưng “tông đồ”, chỉ được ghi lại duy nhất có một lần. Gọi là ‘Đồ đệ’ theo thánh sử Mát-thêu, là người bước theo chân mềm của Chúa đi. Những người quyết học hỏi điều xuất phát từ Lời Thầy đã bảo, quyết giống thầy. Danh xưng “tông đồ” là để chỉ dân con đồ đệ, những ai đặt trọn niềm tin nơi Thầy. Những người mang trọng trách chuyển giao thông điệp Thầy gửi đến. Thành thử, hãy trở nên đồ đệ trước đã. Sau đó, hãy thành tông đồ cận kề năng động, sau. Nhưng, ‘tông đồ’ Thầy chọn chỉ đếm được, có mười hai? Mười hai, là số con mà tổ phụ Gia-cóp xưa, đã từng có. Mười hai người con duy nhất, thành lãnh tụ chi tộc trên toàn Israel, lúc còn chia cắt. Mười hai, nay là con số thủ lãnh của Israel mới. Một Vương Quốc, được gầy dựng nhờ Đức Giê-su. Về tông tích, tông đồ là người được Chúa phối kết, hội tụ. Có vị rất kém chữ, cần học thêm. Có vị, xuất từ đám công-bộc-rặt-dân-thu-thuế, những nhũng lạm. Còn vị khác, lại đã mang tăm tiếng đối kháng với nổi loạn. Tức là, con người chỉ hăm he lật đổ giới chức cầm quyền, vào khi ấy. Và có vị, cuối cùng trở thành tên bội phản, rất nổi danh. Nhưng tất cả, đều đứng dậy vội bước theo Thầy, làm thợ gặt. Làm thợ cho Thầy, chẳng vị nào từ chối khéo, như: “Tôi không xứng với việc Ngài giao phó” Nhìn vào Hội thánh hôm nay, theo chiều kích rộng mở - phức hợp và theo đặc trưng đa năng văn hoá, phải công nhận rằng: tông đồ Chúa hôm nay vẫn hiếm quý. Quý và hiếm vì thiếu câu hỏi: nếu khi xưa Chúa dùng các ngài được thì nay sao không phải là chính ta? Và hôm nay, nếu Chúa đích danh mời gọi, ta có đáp trả như đồ đệ xưa, thưa rằng:”Thưa Ngài, này con đây!”,không? Thoạt đầu, tông đồ Chúa được bảo: hãy đến với “đàn chiên đi lạc”, tránh người Samaritanô và dân ngoại. Lời mời Chúa đưa ra, lúc ấy chỉ gửi đến với đàn con riêng của Ngài. Việc Chúa làm, tưởng chừng như chỉ tập trung gửi người Do thái, thôi. Nhưng, việc Ngài uỷ thác là uỷ nhiệm cho dân gian mọi người ở khắp chốn. Và điều Chúa kỳ vọng nơi tông đồ, là lời Ngài loan báo “Nước Trời đã gần kề”. Nước gần kề, không có nghĩa là: ngày thế tận nay đã đến. Cũng chẳng là ngày dân con người người khi chết được về chốn “thiên đàng”. Thật ra, thánh Mát-thêu khi viết sử là muốn chúng ta ra khỏi lối hiểu biết hạn hẹp của nhiều người vào thời ấy. Chính vì thế, thánh nhân nhiều chỗ đã tránh sử dụng cụm từ “Thiên Chúa” và “thiên đàng”. Thay vào đó, ngài viết rõ “Nước Trời”, tức Vương Quốc hiền hoà của Đức Chúa. Vương quốc, không là chốn không gian mang tính địa dư. Mà là triều đại, có sự hiện diện của Đức Giê-su Kitô. Về với Vương quốc hiền hoà của Chúa, không là về lối mòn thầm bước nào đó, nhưng là đặt trọn tâm can của mình theo đường lối Ngài nhủ khuyên. Làm như thế, ta có được suy tư của Đức Chúa truyền cho ta. Làm như thế, là biến đường lối của Ngài dạy thành đường đi ta nhắm đến. Tông đồ của Chúa, là người biết theo lời Ngài mà loan báo Vương quốc Nước Trời Ngài đã hứa nay gần kề. Nước gần kề, bằng những chữa lành người tật bệnh. Bằng, vực dậy kẻ đã chết. Bằng, chùi sạch vết thương phong cùi, đẩy lùi loài ma quái. Nhất nhất, là dấu chỉ quyền lực tình thương, nhiều giùm giúp. Tình ấy, nay đi dần vào nơi sâu lắng, của lòng người. Vào cuộc sống dân gian, con của Chúa. Dùng ngôn ngữ thời đại, điều này có nghĩa: *Mang điều lành, chạy chữa đến với mọi người. Những người đau yếu theo nhiều cách. Không chỉ yếu đau về thể xác, mà thôi. *Dù không thể vực dậy người đã chết, nhưng ta vẫn có thể giúp mọi người tạo lại niềm vui sống. Bởi, nhiều người tuy đang sống thật về thể xác, nhưng lại đã chết về mặt khác. *Lau vết phong cùi, đẩy lùi loài ma quái/ghẻ lở. Với ta, điều này có nghĩa: ta hãy phục hồi đưa mọi người sống ngoài lề bị xã hội bỏ rơi hoặc tẩy chay/khinh thường do sắc tộc, mầu da, tôn giáo, giới tính, hoặc trở ngại trong hôn nhân, được về với cộng đoàn, đầy năng động. *Đẩy lùi loài ma quái hôm nay, là đẩy lùi mãnh lực làm ta ngộp thở. Buộc ta sống như người nô lệ, thời buổi trước. Đẩy lùi những gì đang thao túng/giới hạn tự do khiến mình không thể sống trong sự thật và tình thương yêu, đùm bọc. Đẩy lùi mãnh lực của ma quái, là bỏ đi lối sống thác loạn. Lối sống, nhiều sức ép bắt buộc mọi người theo, tựa như: thời trang, mải mê ăn chơi, sống thác loạn với ma tuý, độc dược. Là, khoái lạc chủ nghĩa. Là, cá nhân vị kỷ và bạo lực đủ mọi hình thức. Hãy đẩy lùi thứ đó khỏi nơi ta, trước khi tìm cách giùm giúp mọi người được giải thoát.
Cuối cùng, lời dặn dò: “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho nhưng không như thế.” (Mt 10: 8). Đây là quà tặng Chúa trao ban cho mỗi một người. Món quà vô giá, cần được cho đi một cách nhưng-không. Cho một cách tự do, vì lợi ích của tất cả mọi người. Cho đi, không phải để chia sớt tiền bạc và tiếng tăm đã tậu được. Nhưng cho đi, như tổng thống Mỹ Kennedy, khi trước từng nói: Đừng hỏi người khác đã làm gì được cho mình, nhưng hãy tự hỏi mình làm được gì cho người khác, chưa. Trong tinh thần biết lắng nghe lời Chúa, hãy cùng người nghệ sĩ hát lên lời nhắn, với loài chim: “Bay đi, cánh chim biển hiền lành chẳng còn, giấc mơ nào để giữ đôi chân anh chẳng còn, tiếng nói nào để trách cứ anh khi mặt trời đậu trên đôi cánh vỗ. Giấc mơ của tôi, và cánh chim hải âu. Bay ra khỏi tầm tay, và tiếng sóng..” (Đức Huy – Bay đi cánh chim biển) Vâng. Cứ đi và cứ bay, như loài chim biển. Bay đi, để người người biết nhận ra “trên gương mặt người, cao vợi niềm tin”. Tin rằng, thế giới nay chẳng còn đau khổ. Vì, có tông đồ nghe theo lời mời Chúa gọi, đã ra đi. Đi, mà hái gặt đồng lúa chín đầy. Đi, để đem đến cho người, những an bình - tịnh độ, rất trong tim. Chúa Nhật 12 Thường Niên Năm A “Nhưng Chúa hiểu tại sao con yêu người lắm” Con nguyện cầu tình con luôn đằm thắm Chia nụ cười , an ủi lúc khổ đau Giúp chúng con luôn nâng đỡ lẫn nhau Và xin Cháu bảo tồn tình con nhé (dẫn nhập từ thơ SC) Mt 10: 26-33 Trong nguyện cầu, nhà thơ mong tình yêu luôn đằm thắm. Thắm tình người, thắm cả vào lúc khổ đau. Tình người hôm nay, Chúa có nói: “đừng sợ! Chớ lo! Kẻo mất tình thân thương, cộng đoàn. Không sợ và chẳng lo nhưng vẫn giữ tình dân con, là tâm tình Chúa nhắn nhủ, ở Phúc âm. Phúc âm hôm nay, ghi rõ lời Ngài: “ Anh em đừng sợ!” Sợ ở đây, là: sợ cho sự an toàn của cải. Sợ, cả khi mọi chuyện đang yên ổn. Với cộng đoàn tình thương, an toàn của cải không là vấn đề chính, để ta lo. Mà, chỉ nên lo lắng cho nhau; san sẻ những gì mình có, chuyển cho người thiếu thốn, đang cần. Bài đọc hôm nay, đặt trọng tâm vào việc thiết yếu: những chuyện có thể xảy đến với ta trong khi ta sống và thực hiện Lời Chúa, một cách nghiêm chỉnh. Như đã biết, bước theo chân Chúa nên hiểu cho đúng, (chứ không chỉ là chuyện lo đi nhà thờ/đọc kinh), mà là gieo rắc và truyền giao thông điệp thương yêu, công bình và an lạc bằng lời nói và hành động. Thông điệp này, đã và đang bị nhiều người coi như một mối đe doạ, cần phản bác. Điều ảo tưởng lâu nay ta vẫn có, là: người theo Chúa cách trọn vẹn, chắc chắn là những người luôn được mọi kẻ yêu thương – thán phục. Nhưng, không phải thế. Người theo Chúa, thường hay bị ghen ghét, vì Danh Ngài. Thật ra, là Kitô hữu đích thực, không hẳn là kẻ được mọi người yêu thương tìm đến, thán phục. Nhưng, chính là người, bằng vào lời nói và gương sáng, biết rao truyền thị kiến sống trọn vẹn, điều Chúa khuyên. Dù luôn được Chúa nhủ khuyên, nhưng Kitô hữu chúng ta lại hay mâu thuẫn khi so sánh cuộc đời mình với cuộc sống nhởn nhơ ngoài đời. Sống điều Chúa khuyên, dù rằng hiền lành, tử tế, yên hàn,bất bạo động, chẳng đụng chạm đến ai. Thế mà, vẫn bị người đời coi khinh, ghét bỏ, thậm chí, có vị còn bị đe doạ/ trù dập nguy đến tính mạng, nữa. Trường hợp điển hình như thế, vẫn dẫy đầy nơi lịch sử nhà Đạo. Dễ thấy nhất, là trường hợp Đức Tổng Giám Mục Oscar Romero bị giết đang khi dâng lễ, ở El Salvador. Sau cái chết của ngài , sáu linh mục đồng hành cũng bị vạ lây. Bị giết chết vào nửa đêm. Công việc các ngài làm, chỉ là kêu gọi phải công bình trong đối xử với giới nghèo hèn/bất lực trong xã hội. Điều tệ hại, là: sự dữ cứ xảy ra không chỉ tai Nam Mỹ, mà còn ở nơi khác nữa. Ở nhiều nơi, dân con Đạo Chúa chỉ muốn sống đời Phúc Âm thôi, cũng bị bách hại. Phúc Âm hôm nay, gợi nhớ Lời Ngài dạy: “Phàm ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 10:32) Sống Lời Chúa, ta sẽ được Ngài bảo vệ và giúp đỡ. Được Chúa giúp, ta không còn nguy cơ để luột mất sự sống của chính mình. Bởi, trên thực tế, nhiều người vẫn cứ nhượng bộ chấp nhận sự xấu để được sống thoải mái dễ chịu. Chính vì thế, Ngài đã bảo:” Anh em đừng sợ những kẻ giết được xác, nhưng không giết được hồn; hãy sợ Đấng có thể diệt cả hồn lẫn xác, trong hoả ngục”. (Mt 10:28).Quả thật, lo sợ lớn đối với mọi người không là sự chết, nhưng sợ bị lôi cuốn mà phản lại các đặc trưng / đặc điểm lâu nay ta vẫn có, trong cộng đoàn. Sống có đặc trưng/đặc điểm nơi cộng đoàn, là sống biết truyền rao thông điệp của Chúa. Đó là cuộc sống của tiên tri/ngôn sứ. Sống tiên tri, không có nghĩa sống theo kiểu cách của nhà phù thuỷ, biết trước sự việc xảy đến. Sống tiên tri, là đọc được “dấu chỉ thời đại”. Là, biết hướng đi xấu của xã hội đang trên đà đi xuống. Sống tiên tri, là như Winston Churchill thập niên ‘30’, đã dám tự mình chống lại chính sách nhượng bộ, muốn quay sang với Hitler. Sống tiên tri, là sống vai trò đã diễn tả ở bài đọc một, trong đó ông Giêrêmia lúc ban đầu chẳng muốn làm ngôn sứ. Ông nghĩ, mình không đủ tài năng và tư cách làm theo lời Chúa, cho đến khi Chúa quyết định chọn ông. Và khi ấy, ông chợt nhận ra: vai trò truyền rao thông điệp của Chúa, đã làm, đã làm mất đi nhiều bè bạn, nên ông nói : “ Hãy tố cáo, hãy tố cáo nó đi! Tất cả bạn bè thân thích đều rình xem con vấp ngã .” ( Ge 20:10). Tố cáo và rình xem con vấp ngã, là cách thức con người ngày nay đã đối xử với Gandhi, Martin Luther King, và nhiều ngôn sứ khác. Tố cáo và rình rập, vẫn dễ làm hơn là chịu nghe theo lời khuyên. Và ngôn sứ đã đã chịu nghe vì biết có Thiên Chúa, có Đấng –Là- Sự- Thật luôn chống đỡ: “ Nhưng Đức Chúa hằng ở bên con, như dũng tướng vạn năng; bởi thế, những kẻ bách hại con trượt nhào không sao thắng nỗi.” ( Ge 20:11) Ở Hội thánh hôm nay, cũng có hai nhóm ngôn sứ. nhóm đầu coi như theo đúng ’hiến pháp’ gồm giám mục, linh mục, các nhà thần học và thủ lĩnh tôn giáo, nam lẫn nữ. Vai trò của các vị này là giúp ta sống niềm tin theo đúng tinh thần Phúc Âm, ở đời thuờng. Nhóm thứ hai, là các tiên tri có “đặc sủng “ theo đúng nghĩa của thế giới gian trần. Là những Martin Luther King,những Giám mục Romero thời đại, ta vẫn thấy. Nói chung, ngôn sứ là những vị biết trao tặng đời mình cho những gì mình tin tưởng. Cùng một chiều hướng, có thể nói không sai rằng: Mẹ Têresa Calcutta đã là ngôn sứ. Mẹ là ngôn sứ không theo nghĩa những gì mẹ nói. Nhưng là theo những gì mẹ làm. Nhất thứ, điều mẹ làm đã nhắc ta nhớ đến kẻ nghèo nhất trong số người nghèo hèn. Và, nhận ra diện mạo Đức Chúa nơi người hèn yếu. Cũng nên biết rằng, tên và tuổi chúng ta đã và đang được sắp vào danh sách các ngôn sứ Đạo Chúa ngay ngày hôm nay. Trong cộng đoàn thân thương của chính mình. Với Tân Ước, ngôn sứ là quà tặng của Chúa Thánh Linh. Và theo ý nghĩa đích thực của danh xưng, đây chính là “ ơn gọi” rất đặc thù. Tuy nhiên, một số loại hình của vai trò ngôn sứ đã có sẵn nơi mỗi một người chúng ta. Bởi, khi thanh tẩy, ta đã đã được mời gọi làm nhân chứng cho giá trị của Lời Chúa. Nhân chứng, bằng lời nói và bằng gương sáng trước các nghịch cảnh xảy ra ở gia đình, nơi sở làm, ngoài phố chợ và đường đời. Giả như, ta thấy sống đời con Chúa không khác gì như đời sống của người dưng ở đời thường. Hoặc giả như cộng đoàn ta sinh hoạt chẳng để lại dấu ấn nào với xã hội quanh ta thì lúc ấy ta cũng nên tự kiểm, coi xem lối sống của ta có phản ánh điều Phúc Âm vẫn đòi hỏi không. Bởi, chúng ta tề tựu quanh nhau mỗi tuần để dâng tiến nguyện cầu thôi, chưa đủ. Cuộc sống của ta phải làm chứng cho sự công bình, phẩm cách, chính trực, tinh thần phục vụ, san sẻ nguồn lợi tức, bảo vệ kẻ hèn yếu, bị bỏ rơi, mới đúng nghĩa. Sống làm chứng, có thể gây nhiều phản đối/chống trả từ phía bạn bè/người quen. Sống, với chủ trương ‘lương thiện’ hơn bon chen, ‘phục vụ’ hơn thao túng, ‘công minh’ hơn ngạo mạn. ‘Bảo bọc, giùm giúp’ khách lạ người dưng hơn cứng ngắc với luật lệ, vẫn là, những việc khó làm trong cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, sống chính trực với Đức Kitô, vẫn hơn là o bế mị dân để lôi kéo kẻ yếu về phe ta. Và, trong mọi trường hợp, vẫn cần tin tưởng nơi Chúa và nơi chính mình. Và trên hết, cần thâm tín rằng: phương cách duy nhất làm lợi cho mọi người là Đường Chúa dẫn đi. Trong tin tưởng vào Đường Chúa dẫn đi, ta chung vui góp giọng cùng lời ca hôm trước: “ Cho tôi được một lần Nhìn quê hương đợi sáng Một lần nhân nghĩa sống lên ngôi Người người cùng chung vui một lối Đời thôi không lừa dối Vì đã yêu thương rồi” ( Bảo Thu- Cho tôi được một lần)
Đúng thế. Khi, người người cùng chung một lối- lối sống, lối nhìn sự việc – thì đời người sẽ “thôi không lừa dối”, mà là yêu thương. Yêu, như Chúa vẫn dạy. Yêu, khi “chia nhau nụ cười”, và “ an ủi lúc khổ đau”. Yêu, bằng tình đằm thắm. Rất thân thương.
Chúa Nhật 13 Thường Niên Năm A ( Thánh Phêrô & Phao Lô) “Tôi ngao ngán thờ ơ, khinh bỉ hết” Ôm khối hận gia đình, trĩu nặng Tôi căm hờn, thù ghét hôn nhân Lang thang sống, giữa vùng im lặng Chuỗi ngày tan tác, mảnh phù vân. (Dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương) Mt 10: 37-42 Ghét hôn nhân - Hận gia đình. Lang thang. Căm hờn. Thù ghét. Có là, tình tự khiến nhà thơ thấy lòng trĩu nặng, tan tác mảnh phù vân? Im lặng - tan tác, có là tình cảnh xảy đến nếu không bắt chước Phêrô tuyên xưng Đức Chúa, trong trình thuật? Trình thuật hôm nay, kể về việc Chúa mặc khải rằng sở dĩ thánh Phêrô nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa Hằng Sống, là nhờ Chúa Cha. Chúa mặc khải, đúng vào lúc Giáo hội vẫn ngờ ngợ về vai trò của đấng chủ quản Hội thánh, lúc ấy. Là chủ quản, thánh Phêrô còn là ảnh hình của sự ổn định trong Giáo Hội. Hơn nữa, thánh nhân cũng duy trì được truyền thống của cộng đoàn dân Chúa, ngay từ đầu. Truyền thống hiệp nhất. Truyền thống không lung lạc. Hiệp nhất không lung lạc, nay lan rộng tới dân gian, ở nhiều nước. Cả các nước có bản sắc văn hoá đa dạng. Rất đặc thù. Riêng lẻ. Ở nhiều nơi. Và hôm nay, Đức Giáo Hoàng hiện thân như thánh Phêrô, là đấng bậc quản cai duy trì sự hiệp nhất dài lâu ấy, trong Giáo hội. Hôm nay, các giáo hội cùng tin vào Chúa, dù không mang sắc mầu hiệp nhất như giáo hội Công giáo La Mã, cũng đã và đang hiệp thông với ta, để rồi sẽ trở thành Hội thánh duy nhất. Một cộng đoàn đa năng, quyết thực hiện hiệp nhất đại kết Chúa đã khuyên vào bữa tiệc Tạ Từ, chiều hôm ấy. Từ buổi ấy, Hội thánh đã và đang hoạt động đến cùng mút sức lực của mình, hầu đẩy lùi làn ranh biên thuỳ đến mọi nơi. Ranh biên, không theo địa dư nhiều hạn chế, nhưng theo ưu tư kiếm tìm vùng bị bỏ rơi trong quên lãng. Hội thánh nay đạt đến phương trời dồi dào ân đức bằng phương tiện truyền thông, rất mới. Chính vì thế, Hội thánh nay cũng canh tân chuyển biến. Rất liên hồi. Rất đổi mới. Canh tân, tiếp cận thế giới đang đổi thay đến chóng mặt. Đổi thay tận gốc rễ. Đổi thay, không chỉ mặt kỹ thuật tân kỳ, mà cả về nhận thức lẫn tâm tưởng để sẽ trỗi dậy, trong tinh mơ. Rộng khắp. Cùng với thế giới đã đổi và có thay, Giáo hội nay mời gọi dân con nhà Đạo cũng hãy thay đổi theo phương hướng thích hợp. Tân kỳ Một thần học gia Châu Á nọ có nói: “Thế giới hôm nay đang lập nghị trình mới để Giáo hội thực thi, mà thay đổi”. Nói thế, ông không có ý bảo: Giáo hội phải đi theo hướng của thế giới đã đổi mới, mà thích nghi. Nhưng, nên hiểu là: việc rao truyền Lời Chúa hôm nay cần làm sao cho tương xứng với đường hướng sống động của thế giới, đã biến đổi. Rủi thay, nhiều vị trong Hội thánh vẫn mang lối sống chẳng buồn đổi thay. Chẳng tha thiết nhận ra bản chất của thế giới mình đang sống. Để từ đó, cần có những bước cải tiến, trong: *cách chuyển tải thông điệp; *tái cấu trúc cơ chế; *có phong thái biết tiếp cận thông điệp một cách chính xác; và, *thực hiện đối thoại một cách thực tiễn với thế giới đương đại. Rất có thể, thế giới hôm nay không còn muốn nghe những gì Hội thánh nói, nhưng vẫn hiểu Hội thánh đang nói gì. Từ đó, mới nắm bắt điều Hội thánh đề nghị; ngõ hầu sống hứng khởi. Hạnh phúc. Thế giới đã biến đổi, nay kéo theo sau nhiều thách thức mới. Thách thức, trong nhận định về những gì sai - đúng. Thách thức, về quyết tâm cần đổi thay. Bởi, có thay đổi mới nắm bắt được các vấn đề mới. Các yếu tố mới, nơi xã hội đang trở mình. Yếu tố mới ấy, sẽ đậm nét hơn khi ta nhìn vào cảnh nghèo khó, trong xã hội. Về những bất công, kỳ thị. Về hành vi bóc lột. Thiếu tự do. Về cách sống Đạo và cả những lo toan cho một nền hoà bình thế giới, rất chung. Có như thế, Hội thánh mới tạo phong cách đã biến đổi trong rao truyền Lời Chúa. Hầu, làm chứng cho yêu thương, công bằng. Tự do. Và an bình. Muốn được thế, Hội thánh cần mặc lấy cho mình vai trò của ngôn sứ. Biết lo toan dựng xây trên nền tảng truyền thống, nhất quán. Biết loại bỏ phong thái tiêu cực như vùi đầu trong cát, né tránh sự thật. Cùng là phong thái lơ là chểnh mảng trong duy trì truyền thống. Hoặc, chỉ khoác lên mình những biến thái tưởng như mới mẻ, nhưng chẳng dựa trên nền tảng nào hết. Gia dĩ, có vị còn bày tỏ nhiều phản chống, không quan tâm. Hoặc, vẫn trùm mền, lặng thinh. Hành xử này, chẳng giải quyết được gì. Dù nó có xuất phát từ chính Hội thánh. Hay, chỉ là vấn đề của thời đại. Mà thôi. Trình thuật hôm nay, nhấn mạnh nhiều đến sự hiện diện của Đức Chúa nơi Giáo hội. Bằng vào hiện diện này, Hội thánh tin và nhận rằng Đức Kitô là nền tảng vẫn giúp đỡ Hội thánh sống vững mạnh. Sống, duy trì truyền thống thương yêu, không ngơi nghỉ. Đức Kitô vẫn đỡ nâng Hội thánh, trong mọi tình huống. Trong nâng đỡ, Ngài tặng trao “chìa khoá Nước Trời”, uy lực quyền bính Ngài nhận từ Cha. Trải qua nhiều thế kỷ, Hội thánh vẫn ngủ vùi trong lãng quên. Cũng may, Hội thánh vẫn có được ân sủng lãnh nhận từ Chúa, từng hứa ban. Hội thánh vẫn tăng trưởng và lớn rộng về con số. Vẫn trung thành với nguyên tắc nhận từ Thầy Chí Ái. Và, có được bản chất Thiên Chúa, xứng hợp với niềm khao khát sâu xa nơi bản chất người. Thế nên, Hội thánh không bao giờ ngã quỵ. Sự Thật và Tình Thương vẫn không hề mai một. Ở bài đọc 1, sự thật và tình thương được thể hiện qua việc thánh Phêrô bị nằm tù vì đã giảng rao thông điệp của Chúa. Và Nước trời. Cả Phaolô nữa, thánh nhân cũng cùng chung số phận tù đày, không thua kém. Phận tù đày, là để Lời Chúa được vinh quang, trải rộng. Khi thoát cảnh tù đày, thánh Phêrô đã trở về lại với cuộc sống giảng rao. Về người Thầy. Việc này mang ý nghĩa: Chúa vẫn duy trì bảo vệ Hội thánh như Ngài hứa. Nơi Phúc Âm. Bài đọc 2, thánh Phaolô một lần nữa nói về cuộc sống rất phục tùng: “Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến chính nghĩa; đã chạy hết chặng đường; đã giữ vững niềm tin” (2Tm 4: 7). Và, thánh nhân còn nói về việc Chúa đã bảo vệ ngài ngang qua thử thách, tố khổ, và bách hại: “Chúa đã phù hộ tôi và ban sức mạnh cho tôi, dùng tôi hoàn thành công việc rao giảng, và cho mọi dân tộc được nghe biết.” (2Tm 4: 17). Thánh Phaolô cũng nói: Chúa tiếp tục bảo vệ thánh nhân, rất nhiều năm. Hân hoan mừng lễ các vị tông đồ rường cột của Hội thánh, có lẽ không gì bằng ta tập trung nguyện cầu để mọi thành viên biết thuỷ chung với truyền thống Giáo hội. Một Giáo hội, đã trải qua ngàn năm khốn khó. Đồng thời, sẵn sàng chấp nhận canh tân biến đổi. Để rồi, cuộc sống mỗi người sẽ thích hợp với thông điệp Chúa gửi đến. Nguyện cầu, cho ta còn biết khao khát tình thương và sự thật. Cầu cho những người chưa đổi thay, nhiều thế kỷ. Vào Tiệc thánh có nguyện cầu, ta cùng với Giáo hội cử hành phụng vụ trong hân hoan chứng tỏ quyết tâm ra đi thi hành sứ vụ giảng rao. Rao giảng rằng, Chúa uỷ thác cho ta qua Đức Kitô, một cộng đoàn hiệp nhất. Tề tựu nơi đây. Quanh bàn thánh này. Để, ta sẽ làm chứng cho Chúa. Để, cộng đồng ta đang sống viết lên nghị trình hoạt động hăng say, đầy truyền thống cho giáo hội địa phương. Giáo hội sở tại. Điều cần là, ta cử hành phụng vụ ngày của Chúa, có lòng thành và phẩm chất cao. Có niềm vui hiệp nhất. Mang ý nghĩa thực sự phản ánh cuộc đời hứng khởi ta đang sống. Sống trung thực. Sống yêu thương, như Chúa kêu mời ta uỷ thác. Rất canh tân. Thật đổi mới. Trong xác tín sống đời tin yêu là thế, ta cứ vui lên mà hát. Hát những lời, người nghệ sĩ diễn tả: “Và cuộc sống, không có u sầu. Và hạnh phúc vẫn thắm muôn mầu, Bạn ơi! Hãy giữ lấy cho lòng một niềm tin yêu. Dù cho bao gió sương trên đường của ta. Dù cho nắng cháy hay phong ba Vẫn mơ cùng đi khắp cõi đời. Sống hết mãi trái tim chân thành Này bạn ơi! Ta cứ vui và mơ ước. Kìa tương lai tươi sáng như ánh mặt trời. Dù gian khó vẫn cứ mỉm cười. Rồi hạnh phúc sẽ đến bên người, Hãy cứ tin vào một ngày đẹp tươi.” (Quốc Vượng – Niềm Tin Yêu)
Quả là, ta cứ vui lên mà mơ ước. Bởi, tương lai vẫn tươi sáng như mặt trời. Vui tươi, như hai thánh trụ cột từng kinh nghiệm. Kinh nghiệm, về những ngao ngán, thờ ơ, khinh miệt. Nhưng, tin rằng hạnh phúc vẫn gần bên. Hạnh phúc ấy, Thầy đã hứa và đã ban. Cho mỗi người. Với mọi người.
Chúa Nhật 14 Thường Niên Năm A “Lưu luyến ấy gợi thêm niềm nhung nhớ” (dẫn nhập từ thơ Nguyễn Vạn Thắng) Mt 11: 25-30 Hẳn nhiều người cũng như nhà thơ, thường hay hỏi: giòng đời có nặng gánh nỗi oan khiên? Và còn nói: tình mình đoạn cuối, dấu chân buồn trên lối nhỏ, rất thương? Nơi nhà Đạo, lối hỏi và kiểu nói ấy, có thể là ý tưởng gợi nhớ từ trình thuật được thánh sử đề cập, vào buổi lễ hôm nay? Trình thuật hôm nay, có thánh sử Mat-thêu cũng đã hỏi và đã nói bằng một khẳng định thoạt nghe tưởng như mâu thuẫn, ở đâu đó. Mâu thuẫn chăng, ở Tin Mừng dạo trước Chúa vẫn bảo: “Ai trong anh em không từ bỏ những gì mình có, thì không thể làm môn đệ của Tôi.” (Lc 14: 33)? Và hôm nay, Chúa còn thêm: “Ai đang vất vả gánh nặng, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ cho bổ dưỡng… anh em đựợc nghỉ ngơi, bồi sức.” (Mt 11: 29). Thật ra, khẳng định của Chúa vẫn gọi mời ta từ bỏ. Từ và bỏ, không như một khước từ/chối bỏ chính bản thân. Nhưng, như phương cách để tìm được bản chất đích thực của chính mình. Và cũng biết được Thiên Chúa là Đức Chúa cực kỳ nhẫn nại, rất vô song. Ngài rất có lòng từ bi thương xót. Thương xót con người và người con của Ngài, đã hơn một lần sai phạm. Vấp ngã. Đã ngưng đọng mọi kết hợp toàn bộ cả con người mình. Với Ngài. Chủ đề hôm nay, còn là ý tưởng chủ lực về niềm bình an, có uỷ lạo. Ở bài đọc 1, ngôn sứ Zakaria đề cập đến chuyện “vị vua” ra đi về với Giê-ru-sa-lem, trên lưng lừa. Nhỏ bé. Khiêm tốn. Cảnh trí câu truyện, coi như một sỉ nhục đối với “vua”. Nhưng vẫn êm đềm. Bình an. Bởi, khiêm hạ ngồi trên mình lừa, “vị vua” vẫn “quét sạch các chiến xa và chiến mã khỏi Giê-ru-sa-lem; cung nỏ chiến tranh bị người bẻ gãy.” (Za 9: 10). Nhỏ và bé, nhưng “vị vua” cao cả vẫn “công bố Hoà Bình cho muôn dân”. Vẫn kêu gọi người người “Hãy mừng vui!”. Hoan hỉ. “Vua” Giê-su cũng thế. Yêu cầu Ngài đặt, thoạt nghe có vẻ khó. Nhưng, chủ yếu điều Ngài muốn gửi đến muôn người, chính là nguồn ủi an, nhiều khích lệ. Là, những thứ tha. Hoà hoãn. Dù ta ra thế nào đi chăng nữa, Ngài vẫn thế. Vẫn ở bên ta. Vỗ về. Giùm giúp. Có thể, ta không đạt yêu cầu Ngài mong muốn, ngay tức thì. Nhưng, Ngài vẫn kiên nhẫn chẳng vội đi, khi ta gặp nỗi khó khăn, cần Ngài giúp. “Giòng thời gian mỏi mòn bước cô liêu”, mà nhà thơ hỏi ở trên còn là kinh nghiệm Ngài từng trải. Ngài từng sống rất trung thực. Sống đơn độc, giáp mặt với khổ đau. Buồn chán. Đắng cay. Tất cả những “hương xưa buồn lắng đọng” mà nhà thơ nói, Ngài đã nếm. Đủ cả. Nhưng, đã vượt qua. Bởi, bên Ngài luôn có Cha. Bởi, với Ngài vẫn có quyết tâm: “Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà theo ý Cha." (Mt 26: 39). Quyết tâm nói lời “Xin vâng!”, nay truyền lại cho dân con đồ đệ. Đáng mến. Chúa “xin vâng”, cả khi Cha Ngài như lặng lẽ. Vẫn để mặc, một mình Ngài giáp mặt với thời gian. Với không gian, đầy ắp những lo sợ việc sắp đến. Nhưng, khi trỗi dậy từ lòng quyết tâm, Ngài đã trở thành người khác hẳn. Người biết ”từ bỏ những gì mình có, làm tôi Cha theo ý Cha nhân hiền.” Và, nơi Ngài đã hiển hiện phẩm cách huy hoàng có sức “quét sạch chiến xa và chiến mã” của những lạm dụng. Tủi nhục. Chết chóc. Và khi từ bỏ ý định rất riêng, Ngài “sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng… vì Ngài có lòng hiền hậu và khiêm nhường “ (Mt 11: 28-29), hết mọi người. Bài đọc 2, thánh Phao-lô cũng thuật lại nỗi niềm “vất vả và gánh nặng” đậm đặc những đắng cay, bị bỏ lại: “Đã ba lần tôi xin Chúa cho thoát khỏi nỗi khổ này.” (2Cr 12:8). Và, thánh nhân cũng đã nguyện cầu. Cầu rất nhiều, nhưng vẫn có tiếng trả lời: “Ơn Thầy đã đủ, vì sức mạnh Thầy biểu lộ trọn vẹn nơi kẻ yếu." (2Cr 12: 9). Cũng từ đó, thánh nhân tháo bỏ hết buồn đau, nên cương quyết: “tôi sướng khi thấy mình yếu đuối, bị sỉ nhục; bị hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô.” (2Cr 12: 10). Và thánh nhân, đã tìm ra niềm riêng an bình có bổ sức, nên đã quyết: “Khi tôi yếu, đó là lúc tôi trở nên mạnh mẽ.” (2Cr 12: 10). Kinh nghiệm thánh Phao-lô đã minh chứng cho thấy: “Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng."(Mt 11: 29). Ta chỉ được nghỉ ngơi bồi dưỡng, khi có quyết tâm thay đổi lối sống. Đổi cả con người mình. Tuy nhiên, có những điều ta không thể thay và đổi; nhưng vẫn chấp nhận, để vui sống. Có như thế, bình an mới thành tựu. Chỉ thành tựu, khi ta nói lời “xin vâng!”. Nguyện theo ý thánh Cha, suốt đời mình. Chính lúc ấy, ta sẽ được bổ dưỡng. Bình an. Và, an bình chỉ đến khi người người ứng đáp ý định của Cha. Trong hân hoan. Tích cực. “Anh em hãy mang lấy ách Tôi… vì ách Tôi êm; và gánh Tôi nhẹ”, thoạt nghe những lời như thế, người người cứ tưởng là lời lẽ vu vơ không thuyết phục. Nhưng, hãy tìm hiểu thêm điều thánh sử Gio-an từng ghi chép: “Điều đó, anh em lấy làm chướng, không chấp nhận được? Vậy, nếu anh em thấy Con Người lên nơi đã ở trước, thì sao? Thần khí mới làm cho ta sống, chứ xác thịt chẳng ích gì. Lời Thầy nói với các anh là Thần khí và Sự sống.” (Ga 6: 60). Hiểu lời Ngài, ta mới nhận chân rằng: chẳng có con đường nào ngoài việc sống trong tự do. An bình. Như Thầy mình quả quyết. Để hiểu được ảnh hình điều Chúa nói: “ách của Tôi”, hãy thử nghĩ về ách nhân tăng gấp đôi, vẫn choàng lên cổ của hai chú bò. Cả hai sẽ thực hiện cùng một công tác. Cả hai sẽ chung lưng làm cùng một việc. Ta cũng thế, nếu ta cùng chung công tác gánh lấy ách của Thầy, hẳn rằng lời khuyên ở trên sẽ trở thành mệnh lệnh: “Hãy san sẻ chung cùng một ách với Ta…” Chung như thế, ta sẽ cùng đến bất cứ nơi nào Ngài đã đi. Chung như thế, ta nhận ra ách Thầy gửi, sẽ êm nhẹ. Dễ mang. Cuối cùng, trọng tâm Trình thuật nay có nghĩa: ta được gọi mời bước theo lối mòn, Đường Chúa đi. Được gọi mời chấp nhận thị kiến đời Ngài đã sống. Chấp nhận tiêu chuẩn, giá trị Ngài mang đến. Chấp nhận, vô điều kiện. Và, chấp nhận Lời Thầy một cách giản đơn. Và, rộng mở con người, cả con tim, tâm tư lẫn với người con. Rộng mở để rồi coi đó như cội nguồn mọi êm ái. An hoà. Nguồn giải thoát, cho mọi người. Hôm nay, có thêm hiến chương Nước Trời Ngài gửi đến: “Phúc cho ai biết mặc lấy cung cách của Phúc Âm.” Chính đó là bí quyết để sống vui và sống khoẻ. Sống nhẹ nhàng, như bí kíp con dân của Chúa cần tìm đến. Cứ tìm, sẽ khám phá nhiều điều để sẻ san, với muôn người. Trong vui sống sẻ san điều mình xác tín, ta hân hoan ca lên lời người xưa, vẫn hát: “Tôi còn yêu, tôi cứ yêu! Tôi còn lẽo đẽo mang nhiều mộng nghèo Đường về cõi tiên xa vời Nhạc trời đứt dây tơ rồi Thần đồng gẫy đôi cánh vàng tả tơi Vâng, tôi còn yêu! Tôi còn yêu, tôi cứ yêu! Tôi còn yêu, tôi cứ yêu! Tôi còn yêu mãi mãi mãi Tôi còn yêu đời, tôi còn yêu người, Tôi còn yêu tôi!” (Phạm Duy – Tôi còn yêu tôi cứ yêu) Hãy cứ yêu. Yêu cả vào lúc ta đang mặc lấy ách của Cha. Của Thầy. Vì ách Thầy rất êm. Rất nhẹ. Êm và nhẹ, như nhung nhớ. Nhớ về kỷ niệm Thầy nhắn nhủ. Về điều Cha đã mặc khải cho người mọn bé. Rất đẹp ý Cha. Cũng là ý Thầy. Rất nhân hiền. Đầy thương mến. Chúa Nhật 15 Thường Niên Năm A “Nắng xuân nào long lanh trong mắt bé” hãy duyên dáng nở nụ cười âu yếm nhẹ hạt răng đều chới với đứa ngồi trông thơ học trò anh gieo vần tuyệt kỹ thơ học trò, anh thổi ấm gió tàn đông.” (dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên) Mt 13: 1-13 Ở đời thường, nhà thơ cứ mải gieo đôi vần tuyệt kỹ, với học trò. Nơi nhà Đạo, vị thánh sử luôn viết dụ ngôn kỳ bí, cho muôn người. Dụ ngôn “người gieo giống” hôm nay có những lời dạy, rất nên thơ. Không kỳ bí. Vẫn rất thực. Thơ hay thực, đều nói lên tình Chúa rắc gieo cho muôn dân. Nơi cuộc đời. Trình thuật hôm nay cũng nói đến vãi gieo, gói ghém cả một dặn dò đầy ý nhị, từ Đức Chúa. Thánh Mat-thêu hôm nay ghi rõ một tình tự. Tình tự thẩm thấu tin – yêu, khi Thầy dạy dỗ bằng dụ ngôn. Dụ ngôn Thầy dạy hôm ấy, gồm tóm những 3 điểm: lời ẩn dụ, thời giải khuây và ý quảng diễn. Ý quảng bá lời diễn giải hôm nay Thầy nhấn mạnh, là về thành quả Lời được gieo vãi, cho mọi người. Lời Thầy dạy, kết nối với vần thơ Isaya-ngôn-sứ, nói hôm trước. Ở cả hai Lời, người đọc đều biết rõ: Đức Chúa vẫn san sẻ sự viên mãn của Ngài gửi đến với mọi người chúng ta. Lời, không làm ai thất vọng. Lời, là chính công việc Ngài làm, được so và sánh: “như mưa sa cùng tuyết xuống, sẽ không trở về nếu chưa thấm xuống đất.” (Is 55: 10). Với Tin Mừng Mátthêu- thánh-sử, cả chương đoạn 13 thần thiêng thánh hoá đều hàm ngụ “Dụ Ngôn Nước Trời” bằng nhiều hình thức. Có hình thức qua đó Chúa nói ngay từ ban đầu, Nước Trời tựa như “kho tàng giấu dưới ruộng” (Mt 13: 44), hoặc như “ngọc quý đắt giá, thương gia tìm..” (Mt 13: 45). Khi phát hiện đuợc ngọc quý là Lời, người người sẽ bỏ tất cả, để ra đi trở nên thành phần của “Nước Chúa”. Thành phần, của Nước Trời thể hiện nơi cộng đoàn của Chúa, ở trần gian. Có thể bảo, toàn bộ Lời kinh sách rất thánh của Chúa không chỉ mỗi Lời xuất từ miệng Ngài mà thôi. Nhưng Lời luôn viên mãn ở nơi hành động. Có sáng thế. Có tạo dựng. Chính đó là Lời sống động. Lời, tựa hạt mầm của sự sống. Lời, nay hiện diện trong kinh nghiệm ở cuộc đời. Kinh nghiệm của mỗi người. Dù, kinh nghiệm ấy có là vui sống, hay đời buồn. Dù thành công hay thất bại. Dù mang sắc mầu hài hoà viên mãn hay khổ tâm. Vẫn là Lời. Rõ ràng, ta chỉ có thể sống với Lời qua Đức Chúa. Bởi, Ngài là Lời đã nên xác phàm. Lời nhập thể (Yn 1: 14). Nhập, cả nơi nào Lời được nói ra. Vào, những gì Lời đã làm. Tất cả, đều chuyển tải chính bản thể Thiên Chúa đến với ta, qua Đức Kitô. Chuyển tải, không chỉ nhờ giáo huấn của Ngài, mà thôi. Nhưng, vào cả cuộc sống trọn vẹn của Ngài. Trọn vẹn, cả vào năm tháng Ngài ẩn dật ở làng xã Na-da-rét. Trọn vẹn, đời công khai rao giảng. Công khai rao Lời, cho đến chết. Để rồi, Lời cũng đã sống lại. “Hạt rơi trên sỏi đá” nói ở đây, chính là đá-sỏi-cát-sạn ở đầu óc của dân con, đồ đệ. Những người từng nghe biết cuộc sống và sứ vụ Thầy cưu mang, cả vào những lúc tưởng chừng như Ngài đã thất bại, rất suy sụp. Cả vào khi, Lời tưởng như bị ngộp, rất chết ngạt. Chẳng thể đâm hoa kết trái. Chẳng làm sao trực chỉ tâm can con người. Chính cả vào lúc đó, Lời vẫn như hạt lúa được “gieo xuống đất để rồi chết đi!” (Yn 12: 24), Lời đã bén rễ, nơi lòng người. Khởi đầu như mầm hạt nhỏ bé, như dúm men trong bột, Lời đã tăng trưởng mạnh, bất chấp mọi xung đột - trở ngại. Tranh chấp. Ở bài đọc 1, ngôn sứ Isaya có nói trước: “Lời Ta cũng vậy, khi xuất phát từ miệng Ta, sẽ không trở về với Ta nếu chưa đạt kết quả, chưa thực hiện ý của Ta, chưa chu toàn sứ mạng Ta trao”. (Is 55: 11). Kết hợp lại, ý và Lời của Isaya-ngôn-sứ nói tiên tri, thì “Nước Thiên Chúa” không hề thất bại, nhưng đã thành công. Vì, được thiết lập trên nền tảng vững chãi. Chính vì thế, Ngài đã nói thêm: “Ai có tai, hãy nghe.” và: “Nhiều người công chính đã mong được thấy điều anh em đang thấy, mà không được; muốn nghe điều anh em đang nghe, mà chẳng được nghe.” (Mt 13: 17). Trong bối cảnh cộng đoàn tiên khởi, Tin Mừng thánh Mát-thêu chừng như ám chỉ riêng về các vị trong Hội thánh ban sơ từng chối bỏ Đức Chúa. Thật sự, Tin Mừng áp dụng cho tất cả các vị nào từng bịt mắt che tai, để không nghe không thấy, vì có sẵn thành kiến. Đã biết sợ. Chỉ thẳng vào môn đệ và những người theo Ngài, Đức Giê-su nói: “Phúc cho mắt của anh em vì được thấy, tai của anh em vì đã nghe!” Nhiều người cùng sống vào thời của Chúa, cũng từng thấy và nghe nhưng chẳng khi nào có được vinh dự của người theo Chúa. Ngày nay, động từ chính yếu là “nghe” trong Kinh Thánh chứa đựng đến 4 yếu tố rất quan trọng: *nghe bằng tâm tư rộng mở, vô điều kiện (“phúc cho ai có lòng trong sách, vì họ sẽ được thấy Chúa”). *hiểu những gì mình nghe biết. *chấp nhận và thích ứng những gì mình đã hiểu *Đi ngay vào hành xử, khi đã chấp nhận và thích ứng. Tựu trung, con người chúng ta có thể lắng tai nghe, nhưng không hiểu. Có thể hiểu, nhưng không chấp nhận. Rất dễ chấp nhận, nhưng lại chẳng thực thi. Cả bốn tác động, đều là bốn trạng thái cần thiết. Rất trọn vẹn. Những điều ở trên, dẫn thẳng đến phần thứ ba của trình thuật. Tức, phần dẫn giải dụ ngôn ở mức độ nghe nhìn khác nhau. *Có hạt rơi xuống vệ đường, tức nơi không có đất. Hạt mầm rơi như thế, không có triển vọng bắt rễ. Bởi, cả tai lẫn mắt đều đóng lại. Chẳng đón nhận Lời. *Có những hạt rơi trên sỏi đá, chỉ một lớp đất phủ bên trên. Hạt mầm có thể bén rễ, và tăng trưởng. Nhưng sẽ cháy rụi vị thiếu nước, với sức nóng mặt trời. Tình huống này, chẳng khác nào tâm trạng người theo chân Chúa đã thanh tẩy, có tĩnh tâm, nhiều linh đạo. Cũng phấn khởi chạy đến với Chúa đấy, nhưng vẫn chịu sức ép của ai đó, kiệt dần hơi. Rồi vỡ nát. Nghe thật đấy, nhưng thật tình chẳng mấy lắng nghe. Cũng chẳng hiểu. Chẳng có quyết tâm. Chẳng thật tình. *Có hạt rơi nơi bụi gại, cỏ dại. Tức, có cạnh tranh. Đây, như giải pháp: “hãy cầm lấy mà ăn”. Nghĩa là, những muốn làm người công chính, nhưng lại vẫn muốn sở hữu đủ mọi thứ mà thế giới coi là điều quan trọng hơn cả. Nhất là, vào khi những thứ ấy nghịch chống lại tinh thần của Phúc Âm. Như thế không được. Ta không thể, vừa muốn phục vụ Đức Chúa. Lại vừa có chủ trương hưởng thụ tiền bạc/vất chất. Chừng như, nhiều người trong chúng ta thuộc nhóm này. Và vì thế, Hội thánh chịu ảnh hưởng nghiêm trọng trong nỗ lực dựng xây Nước Trời. *Có những hạt rơi vào nơi đất mầu, đầy triển vọng. Đất mầu ngày nay, là như “người nghe và hiểu được Lời”. Những người đã thành công trong gieo và vãi. Nay, hưởng huê lợi vụ gặt. Về lâu về dài, tác động Lời của Đức Chúa không thể bị hư mất vì những đe nẹt hù doạ, từ phía xã hội hoặc cộng đoàn. Và vấn đề cuối cùng đặt ra, là: bản thân chúng ta đáp ứng thế nào với Lời? Chối từ đất mầu triển vọng Ngài đã gieo? Hoặc không bén rễ sâu nơi lòng đất mẹ? Đáp trả thế nào đi nữa, thì kế hoạch về Lời phải trọn vẹn thành đạt, tùy mỗi người. Tùy quyết tâm. Ta có muốn trở nên thành phần của kế hoạch “bén rễ sâu” trong đất mầu đầy viên mãn, của Đức Chúa?. Tuỳ thái độ biết nói tiếng xin vâng; hoặc do dự, hay vẫn chối từ. Thái độ của ta, có ra sao đi nữa cũng đừng như các kẻ hiện đang chống lại mọi đổi thay. Những đổi thay tận gốc rễ. Đổi và thay rất cần thiết, để rồi sẽ không luột mất cơ hội để Chúa đến với cuộc sống mình, mang theo ý nghĩa của giải thoát. Bình an. Hạnh phúc. Ngõ hầu đón nhận ơn giải thoát, bình an và hạnh phúc, ta hân hoan hát vang lời ca hôm trước: “Đi với tôi đến chốn trời xa. Đâu có chi đẹp bằng đời ta Mặc ngày dần qua nào vang lừng câu hát. Dắt tay nhau về chốn bồng lai Anh em ta quanh năm ta vui ta vui ta vui ca Dưới những ánh đèn hằng ngàn màu sắc với những tiếng kêu òa òa òa Đó là … Đó là . Một cuộc đời đầy huy hoàng nhạc và thơ xinh như mơ.” (Canh Thân – Đi với tôi)
Vâng. Hãy cứ hát. Và cứ đi. Đi với tôi hay với bất cứ ai đó. Đi đi mà gieo vãi niềm vui. Vào với đất mầu, đầy triển vọng. Triển vọng có “nắng xuân long lanh trong mắt bé”. Triển vọng về một Nước trời hài hoà. Ở trần gian. Với người mình. Ở huyện.
Chúa Nhật 16 Thường Niên Năm A “Chợt mơ ước chiều mưa về chốn cũ.” (dẫn từ thơ Thanh Tâm) Mt 13: 24-43 Có ước mơ mưa nhiều về chốn cũ, thì nhà thơ hôm nay cũng chỉ thêm trĩu nặng, đời lưu lạc. Có lưu lạc một đời những thơ văn, thì dân con nhà Đạo cũng sẽ tìm ra ý nghĩa cuộc đời, nơi dụ ngôn Chúa dạy hôm nay. Trình thuật dụ ngôn hôm nay, có những giòng thơ đầy ý nhạc. Giòng thơ văn, thánh Mát-thêu ghi thêm về Nước Trời. Nước Trời mà thánh sử ghi, là thế giới thân thương Chúa muốn thấy nơi con người. Ở trần gian. Bây giờ. Như ta vẫn nguyện cầu qua lời Kinh: “Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời.” Trời, là từ ngữ mà thánh sử Mát-thêu dùng riêng cho cộng đoàn Do Thái để chỉ về Đức Chúa. Bởi, người Do Thái không thích kiểu gọi thẳng tên Đức Chúa Trời. Vì thế, “Trời” còn được diễn tả bằng cụm từ “Thiên đường” hay “Thiên đàng”, là lối “nói trại” mà người bình dân có thói quen hay dùng, vào thời đó. Thánh sử Mác-cô thì khác. Mác-cô thánh nhân viết cho người đọc thuộc tầng lớp không có những khúc mắc như thế. Nên, thánh Mác-cô dùng thẳng cụm từ: “Nước của Thiên Chúa”. “Nước” hay “Vương quốc”, không diễn tả nơi chốn địa dư, ở đây hay ở đó. Bên tiếng Hylạp, cụm từ basileia thường được dịch ra thành “triều đại”, “vương quyền”, hay “quyền uy thống trị”. Trên thực tế, có bản dịch vẫn hay dùng cụm từ “quyền uy của Đức Chúa”, là để chỉ về “Nước”. Nước mà thánh sử nói ở đây, trước tiên là môi trường. Là, tập hợp gồm các tương quan/trạng huống nơi có giá trị của Đức Chúa ở vị thế thượng phong. Trên thực tế, đây chính là giá trị nhân bản đậm sâu, phản ánh sức sống của Đức Giê-su, nơi đó có sự thật. Có tình yêu, lòng thương xót, sự công bình; có, ý nghĩa của sự kết hợp với bản vị khác. Nói tóm, là một đúc kết của trạng huống sống ở nơi đó mọi người biết tôn trọng phẩm cách của nhau. Ở đó, ý niệm bản vị con người vẫn gia tăng, phát triển. Nơi Nước Trời, mọi người, với tư cách cá nhân hay tập thể, vẫn đích thực sống các giá trị ấy cùng lúc với Đức Giê-su, trong Vương quốc của Thiên Chúa. Ở Nước Trời, mọi người sống liên kết với quyền uy thống trị của Đức Chúa bằng cách dựng xây một thế giới mà mọi người muốn có. Là những thứ, chúng ta sống cho ở đây. Lúc này. Căn bản, thì đây là đặc trưng ơn gọi của Hội thánh. Của mỗi cộng đoàn giáo xứ. Mỗi thành viên của cộng đoàn mình. Cũng thế, ta cần nhận ra rằng Vương quốc và Hội thánh không cùng đi đến điểm tận cùng. Vương quốc Nước Trời còn vượt qua ranh giới Hội thánh nữa. Quả là, nhiều người có lẽ dù không công khai biết đến Đức Kitô hoặc bầy tỏ lòng trung thành với Chúa, nhưng vẫn sống lý tưởng và các giá trị của Vương Quốc Ngài trong cuộc sống. Đặc trưng hơn cả như Mahatma Ghandi, là ví dụ cụ thể. Ngược lại, có lẽ cũng nên nói: ta không thể nói mình thuộc về Vương Quốc của Chúa nếu chỉ vin vào mỗi việc là đã được thanh tẩy. Hoặc chỉ cậy rằng mình là thành viên Hội thánh, là đã đủ. Nhưng,còn phải chứng minh cho Nước Trời bằng yếu tố hữu hiệu trong cuộc sống thường nhật nữa. Cỏ lùng, nói ở trình thuật hôm nay, là một trong ba ảnh hình của Vương quốc đang hoạt động nơi chúng ta. Vương quốc của Chúa rõ ràng kêu gọi mọi người có lòng đại độ, lý tưởng. Đại độ, nơi lòng khoan dung, kiên nhẫn, cảm thông và biết rằng Vương quốc của Ngài đang trở thành hiện thực. Biết rằng xã hội ta sống đang biến cải từ từ thành cộng đoàn tương tự như Vương Quốc. Biết rằng mình không hơn hẳn người khác có cùng niềm tin vào Đức Chúa. Nhưng, phải là đồng hàng. Và đồng hành. Dụ ngôn hôm nay, còn nói: người nhận thức được giá trị cuộc sống của Đức Chúa, còn phải chung lưng mà sống với mọi người đang có cuộc sống khác biệt. Tức, những ai chưa san sẻ cùng một niềm tin, biết Chúa. Người có cuộc sống khác biệt ở đây là không chỉ quanh quẩn giữa những người có tin hay không tin Đức Kitô, mà cả những người đã tin, đang sống trong cộng đoàn nữa. Quả thật, Giáo Hội của Chúa vừa thánh thiện, vừa dễ sa ngã lỗi phạm. Nếu ta bảo, cộng đoàn Giáo hội ta là một đặc trưng khác với mọi cộng đoàn khác chưa tin. Nói thế chưa hẳn là đã nói sự thật. Bởi, ta vẫn được bảo: không phải là những nguời lành mạnh mới cần đến vị Thầy thuốc tuyệt hảo là Đức Kitô, nhưng là những kẻ phạm lỗi hoặc dân thu thuế. Đi xa hơn, mỗi người chúng ta vẫn là một tổng thể gồm cả cỏ lùng, lẫn lúa tốt. Mỗi người, đều vừa là thành tố của Vương quốc Nước Trời, vừa là kẻ kình chống/khích bác, mạnh hơn ai hết. Phao-lô thánh nhân cũng đã nhận ra sự xung khắc chiến đấu ấy ngay nơi chính con người mình (Rm 7: 21-25). Thành thử, nghe dụ ngôn Chúa dạy, ta cũng nên học biết nhân nhượng với chính sự yếu kém, của chính mình. Bởi như thánh Phao-lô, chính qua sự yếu kém này, Chúa mới được tôn dương: “Bởi quyền năng trong yếu đuối mới viên thành.” (2Cr 12: 9). Thành ra, Vương quốc Nước Trời không suông sẻ qua tiến trình gọn nhẹ, đẹp đẽ. Nhưng, bằng vào kinh nghiệm đổi thay/cải biến, của mỗi người. Dụ ngôn tiếp, nói về đặc trưng khác của “Nước”. Ảnh hình hạt cải biểu trưng công việc của “Nước” khởi đầu, chỉ rất nhỏ. Như, kinh nghiệm rất mới của Hội thánh do Đức Kitô thiết lập. Như, bước đầu của trào lưu mang ảnh hình “Vương Quốc Đức Chúa”. Trào lưu ấy, khi đã bắt rễ nơi Hội thánh, sẽ gia tăng phát triển, như thường lệ. Đây, là truờng hợp Giáo hội ở các xứ truyền giáo, rất mục vụ. Thuở ban đầu nào, cũng có ngăn cấm. Có bách hại. Có biện pháp tẩy chay, xua đuổi. Nhưng, với thời gian và có Ngài ban sức, cỏ lùng chống đối đã nhường chỗ cho Sự thật, Tình yêu và sự Công chính. Dụ ngôn cuối, là về men trong bột. Là, ảnh hình của Hội thánh nơi cộng đồng nhân loại. Hội thánh phải nằm trong, là thành tố vực dậy môi trường. Là, năng lượng sản sinh nhiều ảnh hưởng giúp gia tăng, mọi lãnh vực. Lãnh vực nào, cũng phản ánh sự vui sống của cộng đoàn thân thương có Chúa ở cùng. Và, ở với. Tựu trung, ba dụ ngôn hôm nay đưa ra ảnh hình đặc trưng rất lạ về Vương Quốc Nước Trời vẫn triển nở trong ta. Cộng đoàn dân Chúa hôm nay, trộn lẫn kẻ xấu người tốt hỗn độn lúc ban đầu. Có người luôn kình chống khích bác, khó ngồi yên. Tuy nhiên nếu cộng đoàn Ngài biết một lòng trung thực với Vương Quốc, dù nhỏ bé, chắc chắn là ta sẽ vượt thắng mọi trở ngại, khó khăn và hiểm nghèo, vẫn thường thấy. Cộng đoàn Nước trời hôm nay, tuy nhỏ bé, vẫn có khả năng lớn mạnh trong yêu thương nhường nhịn, hầu quảng bá giá trị, Chúa vẫn khuyên. Trong hân hoan quảng bá các giá trị ấy, ta hiên ngang dấn bước về phía trước mà truyền rao: “Kìa chim, hót vang tưng bừng trên cây Mà lòng người như, bay vút tới ngàn mây Theo gió, ra đi phiêu bạt tháng ngày Gieo khúc yêu đời, tràn lan đó đây. Cùng hát, vang lên trong trời hôm nay Dù rằng đường đi, xa tắp đến ngày mai Ta đi hương thơm trên đồng thắm tươi Lúa với muôn nơi còn mãi nhịp sống vui Chim ca, chít chiu là vang, chít chiu khắp trời bao la Cùng nhau ta vui ca lên Ðó đây, đó đây đón chào, vui chào vui đón ánh sáng Ánh sáng chiếu khắp phương trời xa.” (Phạm Đình Chương-Ra đi khi trời vừa sáng) Khi ánh sáng dụ ngôn chiếu khắp phương trời, mơ ước chiều mưa sẽ không về chốn cũ, nữa. Và, chim chóc, lòng người cứ thế hát vang trong trời hôm nay. Trời, là trời mới. Là, Nước Trời thân thương. Yêu đời. Thắm tươi.
Chúa Nhật 17 Thường Niên Năm A “Bỏ quên giấc mộng ngây ngô thuở nào” Ngẩng đầu hỏi trời cao thăm thẳm (dẫn từ thơ Trường Phong)
Mt 13: 44-52 Hỏi trời cao, nhà thơ chỉ hỏi về kiếp dã tràng sao lắm truân chuyên. Hỏi nhà Đạo, có hỏi cho nhiều chắc cũng chỉ hỏi về ý nghĩa của dụ ngôn. Dụ ngôn người hỏi, là lời Ngài dạy về Nước Trời. Về, kho tàng giấu dưới ruộng. Nhưng, kho quý Nước Trời, lại là trọng tâm trình thuật bàn, rất hôm nay. Trình thuật hôm nay, là đoạn cuối chương 13 Tin Mừng thánh sử tập trung vào dụ ngôn Nước Trời. Như tuần trước, dụ ngôn hôm nay là nhận biết Chúa. Sống đích thực Lời Ngài dẫn dụ nơi Tin Mừng. Nhờ vào Tin Mừng, ta mới hiểu và mới biết. Biết đi vào hiện thực ý nghĩa của sự sống. Biết nắm bắt những gì là quan yếu, ở đời thường. Ở đầu truyện, Chúa sánh ví Nước Trời như kho tàng được chốn giấu ở trong ruộng. Với người Do Thái thời của Chúa, khắp nơi chưa có ngân hàng để gửi gắm tiền vàng, đồ quý, người dân thường ở huyện chỉ biết gửi gắm của cải quý báu vào những nơi không ai có thể dò tìm: những ruộng ngút ngàn rất nhiều thửa. Nhưng chinh chiến lẫn binh đao ập tràn, khiến người chôn giấu bỏ của chạy lấy người. Để đến khi quay trở về, đất đai ruộng nương bị phát giác/chiếm giữ, đành mất không. Ở dụ ngôn, có ám chỉ là khi đã nhận ra rằng Đức Chúa còn quý hơn vàng bạc châu báu, người người sẽ hiểu là mọi chuyện khác đều trở nên thứ yếu, không quan trọng. Nay chỉ cần có Ngài là đã đủ hầu thực hiện Lời, trong cuộc sống. Cuộc sống thân thương trong cộng đoàn, như Phao-lô thánh nhân từng quả quyết: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Đức Kitô Giêsu, Chúa của tôi. Vì Người, tôi đành mất hết, và coi tất cả như rác rưởi, để chỉ được Đức Kitô.” (Pl 3: 8) Dụ ngôn thứ hai, cũng tương tự như câu truyện đầu, chỉ khác một điều là: nhân vật được kể trong truyện, không cố ý kiếm tìm kho tàng cất giấu trong ruộng, để đào xới. Anh bất chợt khám phá ra kho tàng cất giấu khi lam lũ cày bừa và vun xới. Đây, chính là hình tượng nói về Đức Giê-su. Ngài đến với ta, cũng hệt một kiểu như thế. Khi đến, Ngài chỉ đến rất bất chợt. Chỉ theo cung cách thường tình, gặp thấy trong ngày thường. Đấy chính là kinh nghiệm của nhiều người khi tìm gặp Chúa. Tìm trong ưu tư. Gặp lúc bất chợt, đột xuất. Và đây lại là ý niệm chính được kể nơi truyện sử, thánh Mát-thêu đã viết. Dụ ngôn kế tiếp, kể về nhân vật chính trong truyện đích thân kiếm tìm “ngọc quý”. Anh bỏ công sức nghị lực ra để tìm gặp cho bằng được. Ở cuộc đời, thực tế là dù ta đã được thanh tẩy vẫn chưa là hoàn tất. Vẫn cứ nên đeo đuổi kiếm tìm ý nghĩa đích thật của Phúc Âm, trong cuộc sống. Bởi, Lời Hằng Sống Phúc Âm dường như nay biến khỏi nơi tâm can con người, quá bận rộn. Hãy biết cảm thông hơn. Yêu nhiều hơn. Phục vụ nhiều hơn. Bài đọc 1, sách Các Vua diễn tả tâm trạng của những người cùng một bối cảnh. Như vua Salômôn. Và, câu hỏi của Đức Chúa chuyển đến Salômôn, vẫn là câu vấn nạn Ngài gửi đến với hết mọi người: “Cứ xin những gì ngươi muốn Ta ban cho” (1V 3: 7). Và hôm nay, lời đáp trả của dân con ngoài Đạo, cũng vẫn là tiền bạc. Là, của cải/đồ châu báu hoặc an toàn vật chất. Trong khi đó, Salômôn, chỉ xin có mỗi: “tâm hồn biết lắng nghe, để cai trị dân Chúa và phân biệt phải trái.” (1V 3: 9). Tức, khôn ngoan. Salômôn chẳng cần đến giàu sang phú quý. Vua cũng chẳng mê chuộng quyền hành, dù tất cả đã đến với vua. Vua chẳng xin có được nhiều thứ. Cả đến việc xin Chúa cất đi những rào cản cuộc đời. Điều vua cần, là: khả năng được nhìn. Được thấy. Nhìn và thấy, là chủ đề trải dài suốt Phúc Âm. Rõ ràng, Phúc Âm nói nhiều đến người mù được nhìn thấy, có khôn ngoan. Được nhìn thấy và khôn ngoan, là có được khả năng có được những gì mình cần. Cần giáp mặt mọi tình huống của cuộc đời. Tình huống buồn vui, dễ chịu. Hoặc sầu khổ. Khôn ngoan nơi Salômôn, còn là điều vua biết thưa với Chúa: “Xin cho tôi tớ Chúa đây, tâm hồn biết lắng nghe.” Và vì thế, Đức Chúa phán: “Bởi, ngươi đã xin điều đó, ngươi không xin sống lâu, hay được của cải; cũng không xin cho kẻ thù mình phải chết; mà lại xin cho được khả năng phân biệt để xét xử. Thì này, Ta làm theo lời ngươi: Ta ban cho ngươi tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến mức độ trước ngươi chẳng ai sánh được; và sau ngươi, cũng chẳng ai bì kịp.” (1V 3: 10-11). Lời Chúa nói, mới là của cải/vàng bạc/châu báu, cất giữ trong ruộng. Là, ngọc quý mà các vị đại gia mải kiếm tìm, để phòng thân. Và, khả năng biết nhìn thấy/lắng nghe, chính là những gì khiến cho cửa ngõ Nước Trời, được rộng mở. Là, tình thương yêu đùm bọc cần phải có giữa các thành viên trong cộng đồng thế giới. Là, tương quan giữa Thiên Chúa và loài người. Tình thương - tương quan ấy, nay đem lại hạnh phúc và bình an đến với muôn dân. Đây mới là sự thật, cần tìm kiếm. Bởi nơi đây, vẫn hiện diện tình thương yêu đùm bọc. Có tự do. Có an hoà. Tự kiểm điểm, người người sẽ thấy mình hằng chạy theo của cải vật chất, với bạc tiền. Chạy theo cả những vui thú/địa vị, trong xã hội. Chính vì thế, người người cứ bị khoá chặt vào quá khứ. Một quá khứ dầy đặc nhung nhớ, với tiếc thương. Hết tiếc nhớ quá trình đầy bận tâm, lại lo toan ước muốn tương lai xa vời, không thể có. Trong khi đó, hiện tại mà ta cần trân quý vẫn cứ trôi nhanh, lỡ hỏng. Vì lỡ hỏng, ta chẳng thể nào tìm gặp được kho châu báu đích thực, khó tậu được. Và, ngọc quý có giá trị vĩnh cửu kia, ta càng khó có thể bắt gặp. Điều này đưa dẫn người đọc đến đại ý của dụ ngôn cuối truyện. Hai dụ ngôn đầu Chúa đề cập, nói lên quyết tâm và ý hướng phục vụ. Quyết tâm và ý hướng, của những người bước theo chân Chúa. Dụ ngôn cuối truyện, dẫn đưa ta về với thực tại cuộc sống. Thực tế cho thấy, không nên quá lý tưởng mà tạo cho mình tính khí tự mãn, tách rời. Tự mãn ở điểm, cứ tự cho mình, cộng đoàn Giáo hội là nhất. Là, dân con được tuyển. Ngoài người mình ra, tất cả đều thấp kém. Thua thiệt. Dụ ngôn hôm nay, còn nhắc thêm một điều: Nước Trời Hội thánh tràn ngập đủ loại người, sang hèn. Thấp cao. Giáo hội Chúa là Hội giáo của các thánh nhân. Và, cũng là của kẻ mắc phạm. Đầy lỗi lầm. Giáo hội Chúa, vẫn được Tin Mừng nhắc nhở bằng những câu: “Cần đến lương y, hẳn không phải là người lành mạnh, mà là kẻ đau ốm! Ta đến không phải để gọi những người công chính, mà kẻ tội lỗi.” (Mc 2: 17). Vai trò của Giáo hội, là đưa dẫn, đón nhận vào lòng mình “người nghèo hèn, đui mù, tàn tật, què quặt” (Lc 14: 21), như Thầy dặn. Với bài học dụ ngôn, “vương quốc” Giáo hội như lúa tốt lẫn trộn với cỏ lùng. Là bao gộp, cả người lành lẫn kẻ có lỗi. Vẫn còn đó, thái độ trịch thượng của những người cho mình là cao sang, chỉ tìm cách tách rời cỏ lùng, cá tạp, loại đồ bỏ. Lời Thầy còn đó, vẫn nhắc nhở: việc Chúa sàng lọc sẽ được thực hiện vào đúng thời, đúng buổi. Của Ngài. Trong trông chờ ngày ấy, việc của ta là: khoan dung, độ lượng. Độ lượng, để cảm thông, thương yêu những người còn xa vời đòi hỏi của Phúc Âm. Của Vương quốc Nước Trời. Trong học hỏi ý nghĩa của ngụ ngôn, cũng nên nhớ: vẫn thấy ở nơi ta còn có những người chưa biết hoà trộn tốt/xấu, sang/hèn, giàu/nghèo trong cộng đoàn. Giả như ta thấy là: có nhiều người còn bị phân cách, tách rời ở ven biên cộng đoàn, hãy cứ tự nhủ để cùng nói với thánh Âu-tinh, câu để đời: “Vì ân sủng của Đức Chúa, tôi sẽ ra đi đến với họ.” Phán đoán là chuyện để sau sẽ tính. Ngay giờ đây, chỉ nên toan tính có một điều: đã đến lúc để ta ra đi mà kiếm tìm vàng bạc/châu báu có giá trị to lớn, là quà tặng Chúa gửi để cùng với Đức Giê-su biết nhận ra, đâu là kho tàng đích thật. Là, trân châu ngọc quý. Và, giúp người khác cũng biết kiếm tìm, hệt như thế. Trong lo toan kiếm tìm ngọc quý, ta cứ hân hoan ra đi và vui hát. Hát lời người xưa, mà rằng: “Tìm một miếng đất cho gã si tình Giàn thiên lý đã xa mãi nghìn xanh Miếng đất cát hoang, miếng đất ngay bên giáo đường Biển sẽ ru tiếng hát bên trùng dương.” (Phạm Duy – Giàn Thiên Lý Đã Xa)
Vâng. Biển sẽ ru tiếng hát bên trùng dương. Tiếng hát của những người cứ “ngẩng đầu hỏi trời cao thăm thẳm”. Và, những người “bỏ quên giấc mộng ngây ngô thuở nào”. Giấc mộng ngày nay, không còn ngây ngô nữa. Nhưng là, “hạnh phúc tơ duyên một đời”. Đời của người. Của mình.
Chúa Nhật 18 Thường Niên Năm A “Ghềnh đá nhỏ lặng ngồi hồn mơ mộng” Mt 14: 13-21 (dẫn nhập từ thơ Gió Bụi) Có những lúc, ta cũng được kêu mời ra ghềnh đá lặng ngồi, hồn mơ mộng. Giống nhà thơ. Ở nhà Đạo, cũng nhiều lần, có những ới gọi ngồi lặng thinh, không để mộng mơ nhưng để đọng lắng tâm tư, suy niệm về chuyện lạ Chúa làm cho mọi người. Như trình thuật hôm nay, còn ghi đậm. Trình thuật hôm nay, thánh Mát-thêu ghi rõ về một sự lạ. Sự lạ thánh nhân ghi, là ý nghĩa việc Chúa làm vào thời ấy. Rất lạ. Sự việc thánh sử ghi, thấy cũng lạ: “Nghe tin ấy, Ngài lánh khỏi nơi đó”. (Mt 14: 13). Ngài tránh, không phải để chối từ mọi nghịch chống, đối kháng. Hoặc khổ đau. Mà là: “đi thuyền đến nơi hoang vắng, riêng biệt” (cạnh hồ) (Mt 14: 13b). Và, “ra khỏi thuyền Ngài nhìn đoàn người đông đảo, thấy mà thương.” Chạnh lòng thương, Ngài đã chữa lành cho họ. Với Tin Mừng thánh Mác-cô, việc chạnh lòng thương khiến Chúa “lên tiếng dạy họ nhiều điều” (Mc 6: 33). Chúa chữa lành, được hiểu như việc Ngài dạy cho dân biết mục tiêu Ngài nhắm, là: tái tạo mọi người thành một tổng thể, xác và hồn. Là, tỏ rõ công trình cứu độ, Ngài thực hiện. Vấn nạn đặt ra hôm nay: chúng ta đáp ứng thế nào với lời gọi mời “chạnh lòng thương”/“giùm giúp chữa lành”, Chúa gửi đến? Vấn nạn, không chỉ nơi hành động của thầy Lêvi - tư tế, trên đường Giê-ri-khô, hôm trước. Hành động quên cả người bị nạn, “sõng soài trên vũng máu”. Vấn nạn, nay còn là mời gọi mọi người, lạ cũng như quen, biết đáp ứng tinh thần “chạnh lòng thương”. Biết chuyển biến tinh thần ấy thành hành động. Đáp ứng lời mời gọi thương yêu giùm giúp, thật không dễ. Vì tính chất đa dạng, khó khăn khi đáp ứng. Có người đặt mọi trọng tâm vào chính mình, trước đã. Đặt trọng tâm nơi mình, sẽ chẳng làm sao có được đức tính “chạnh lòng thương”, những người khác. Không đáp ứng. Bởi,biết là nếu đáp ứng, sẽ gây ảnh hưởng gián đoạn mọi chương trình, mình đã tính. Có người cũng đáp ứng đấy, nhưng miễn cưỡng. Sơ sài. Vì kiệt sức. Hoặc, không quen. Tóm lại mọi điều, đều thấy khó. Khó thực hiện. Khó thích nghi, với thói lệ thông thường. Của mỗi người. Trong cuộc sống hằng ngày. Có người, nhất định chối từ tỏ bày “lòng thương yêu/giùm giúp”, vì nghĩ mình chẳng có gì để cho,chẳng có gì đáng giá, để giùm giúp. Hoặc, vẫn nói: “đã muộn rồi”, “con chỉ vỏn vẹn có năm cái bánh và hai con cá”, làm sao cho. Chúa khác hẳn, Ngài vẫn dạy đồ đệ Ngài hãy tự tin. Ngài cứ hối thúc các thánh biết sẻ san, dù một chút. Chính nhờ thế, “ai nấy đều ăn và được no nê” (Mt 14: 20). Ngước nhìn trời, Ngài dâng lời chúc tụng, là cử chỉ Chúa hướng về Cha Ngài. Là, động tác chúc tụng ngợi khen. Ban phép lành trên của ăn. Là, thực hiện động tác san sẻ bẻ bánh, cho môn đệ. Bảo ban các thánh, hãy dấn bước mà cho đi. Phân phát. Người ta thu lại được 12 giỏ đầy, khi đã no nê tràn đầy. Ai cũng no. 12, là con số ám chỉ số lượng chi tộc Israel. 12, là con số các chi tộc được 12 thánh tông đồ luôn chăm sóc. Chăm nom - săn sóc, như thành phần công tác cho Israel, dân rất mới. 12 nguồn chăm sóc, xuất phát từ lòng độ lượng Chúa ban. Ban cho hết mọi người, không riêng gì Israel, thôi. Số người ăn, có tới năm ngàn, không kể đàn bà và trẻ con, theo các nhà chú giải, số người được ban cho của ăn hôm ấy, có thể lên đến hai ba chục ngàn. Số người đây, phản ánh cảnh tình Do Thái vào các năm lưu lạc, nơi sa mạc. Thức ăn Chúa ban, tượng trưng cho việc Ngài ban phát gửi đến dân con nhà Đạo được no đầy, ơn giùm giúp. Sự lạ “được no đầy ơn giùm giúp”, tự thân, tượng trưng cho Tiệc Thánh thể, ta mừng kính. Tiệc thánh Thể, là tiệc sẻ san đoàn kết, qua bẻ bánh. Sẻ san ân huệ Chúa ban, gửi đến cộng đoàn tình thương, vào buổi tiệc. Tiếc một điều, là: ở nhiều nơi, Tiệc Lòng Mến Thánh Thể chỉ mang ý nghĩa tượng trưng, khá trống rỗng về thực tại ta đang có. Cũng có câu hỏi rằng nếu Chúa quan tâm đến mọi người, thì tại sao trên thực tế, nhiều người vẫn chưa thực thi điều Ngài mong muốn? Sao vẫn còn, nhiều kẻ đơn côi, đói khát, vô gia cư, không tìm được nơi bảo bọc, giùm giúp? Như ở bài đọc 1, sao vẫn có vần thơ đầy khuyến khích, từ vị ngôn sứ: “Hãy đến cả đi, hỡi những người đang khao khát, nước sẵn đây! Dù không tiền, cứ đến lấy mà dùng. Cứ mua rượu mua sữa, chẳng cần mất đồng xu.” (Is 55: 1). Đáp ứng cho vấn nạn trên, cộng thêm nơi đây lời ngôn sứ: “Sao phung phí bạc tiền vào của không nuôi sống, tốn công lao vất vả vào thứ chẳng chắc dạ, no lòng?´(Is 55: 2). Lời ngôn sứ, ở đây muốn nói: hãy chi tiêu bạc tiền cách nào để ta có thể nuôi dưỡng người túng thiếu, kẻ nghèo hèn khiến họ no nê, đầy ắp. Đáp ứng nhu cầu, không chỉ những đáp và ứng cho riêng mình. Để mọi người hiểu rõ, ngôn sứ còn thêm: “Hãy chăm chú nghe lời ta, các ngươi sẽ được ăn ngon, được thưởng thức cao lương mỹ vị.” (Is 55: 2). Bài đọc 2, Phao-lô thánh-nhân nhắc giáo đoàn ở Rôma, nhớ thật rõ: “Không gì có thể tách ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Dù, có là gian khổ, đói rách, hiểm nguy bắt bớ, lẫn giáo gươm? Trong mọi thử thách, ta toàn thắng là nhờ Đấng đã yêu mến ta.” (Rm 8: 35). Nói chung, 3 bài đọc hôm nay, đều qui về mấy điểm, sau đây: *Chúa thực sự quan tâm chăm sóc dân Người. Ngài ban đủ mọi thứ. Cho mọi người. *Thăng trầm cuộc sống, dù có là cảm xúc, linh đạo, xác thể hay vật chất; dù cuộc sống trở thành bi hài kịch nhiều màn, dù cho đó là thiên tai không thoát khỏi, cũng không nên cản ngăn/kình chống tình thương yêu Chúa đùm bọc. Mọi việc xảy đến với cuộc đời, là để ta tăng trưởng trong cảm nghiệm. Tăng trưởng và nhận thức được đâu là hạnh phúc đích thực. Đâu là bình an, cần phải có. *Quan tâm chăm sóc Chúa phó ban, là để ta thực hiện như một trọng trách khẩn thiết. Khổ đau nơi con người, là do đồng loại mình tạo nên. Chúa nuôi sống mọi người, Ngài không trực tiếp để dân ăn uống, những no say. Nhưng làm thế, Ngài vẫn dùng bàn tay hợp tác của mọi dân con đồ đệ. Ngài vẫn làm và chỉ làm, mỗi việc thiện. Ngài làm mỗi việc thiện, thế mà vẫn có nhiều người hằng than trách. Than và phiền, rồi đổ lỗi cho Ngài. Cho người khác. Thật ra, gán đổ mọi khó khăn/phiền trách cho người khác, là việc dễ làm. Bởi, người người vẫn quan niệm: khó khăn kia, là của người khác. Do anh. Do chị mà có. Nào phải do tôi?.
Và, trình thuật việc lạ “Chúa ban phát” hôm nay, còn là ý nghĩa đích thực của Tiệc Lòng Mến Thánh thể, ta cử hành hằng tuần. Rất thân thương. Trang trọng. Cử hành Tiệc, để ta sẻ san tình thân thương như Chúa. Với Chúa. Với người anh người chị, ở gần quanh. Ngõ hầu, ta có thể chuyển tải lòng thương xót Chúa, đến mọi người. Là Thiên Chúa của tình thương yêu đùm bọc, bao giờ Ngài cũng mong mỏi ta sẻ san hợp tác, để làm chứng cho mọi người thấy rằng Ngài vẫn hằng thương yêu ta. Thương rất mực. Yêu không mệt mỏi. Trong hân hoan nhận thức lòng thương yêu của Chúa, ta cứ vui hát lời ca vang, thưở trước: “Đi, đi mau rồi tới nơi. Đất trời còn đen tối Theo tâm tư tìm gió khơi. Đã thấy mặt trời soi Anh ơi ! Chuyện này đây câu ruộng cầy Anh em trong một ngày chung vai vơi thù ai.” (Phạm Duy – Lữ hành) Cứ lữ hành mà đi. Đi mau. Sẽ thấy mặt trời vẫn soi sáng chiếu rọi, để chung vai. Không thù ai. Không quên một ai. Bởi, “gió trùng dương vang vọng khúc tình ca. Hoà với sóng điệu thiết tha êm ái”. Thiết tha, cả một đời. Có ta. Có Chúa, luôn thương yêu. Đỡ dần. Hết mọi người.
Chúa Nhật 19 Thường Niên Năm A “Ta đứng ngồi, ướt lạnh dưới cơn mưa” Chén đã cạn tình vừa đơm trái ngọt Mt 14: 22-33 (dẫn từ thơ Trần Từ Duy)
Tình nhà thơ, có vị xem ra đã biết sợ. Sợ tình mình đã cạn. Sợ, người khép cổng bỏ rong chơi, chốn nợ đời. Tình nhà Đạo, có thánh tông đồ cũng biết sợ. Sợ quỷ, sợ ma, sợ cả sông nước lẫn thuyền bè, thiếu niềm tin. Thiếu niềm tin nay đã sợ, còn là ý nghĩa trình thuật Chúa nói, suốt hôm nay. Trình thuật hôm nay, ghi đoạn kế tiếp trong đó thánh sử có nói: Đức Giê-su giải tán đám đông, để “lên núi một mình, mà nguyện cầu.(Mt 14: 22). Riêng, thánh Gio-an lại thêm: “Đức Giê-su biết rõ là bọn họ sắp đến để tôn Ngài lên làm vua, Ngài bèn rút lên núi một mình.” (Yn 6: 14). Như đồ đệ, dân con người Do Thái đều không hiểu ý nghĩa của việc sắp xảy đến. Nên mới lo âu. Sợ sệt. Đức Giê-su “bỏ lên núi một mình, mà nguyện cầu”, đây là “điều lạ” Ngài tỏ cho mọi người thấy. Lên núi, không phải để có tầm nhìn hoành tráng về vương quốc ở thế trần. Nhưng, để Ngài có thể “một mình, nguyện cầu cùng Cha” mặc dù Ngài có uy lực của vị Vua. Lên núi, để đổi mới tâm can. Quyết theo đường Cha đã định. Lên núi, Ngài dùng quyền cao chức cả ngõ hầu thực hiện công trình thương yêu, phục vụ. Không khuynh loát. Cũng chẳng có ý kích động người dân nổi dậy, đòi thay đổi thể chế. Việc Ngài làm, không nhằm chứng tỏ quyền uy tối thượng Ngài vốn có; hoặc, phô trương quyền phép vô song, đầy “sự lạ”. Nhưng trước hết và trên hết, là để thực hiện sứ vụ Chúa Cha trao cho Ngài trong tương quan đầy phẩm chất mà Ngài có với Cha. Với mọi người. Với chính Ngài. Sứ mạng ấy, không gì khác ngoài tinh thần phục vụ, sẻ san và dựng xây tình cộng đoàn. Là, biến cải môi trường sinh động, thành Vương Quốc của tình thân thương. Thuyền đã xa bờ, sóng đánh mạnh, là ảnh hình của Hội thánh, ở mọi thời. Một thời, có các đồ đệ ngồi trên thuyền, nhưng hãi sợ. Một thời, đầy thù địch hòng chực bủa vây. Với sóng gió, thù địch. Thù và địch từ phiá thế gian, luôn tìm chuyển lay tình đoàn kết thân thương giữa dân Đức Chúa. Chân chất. Thật thà. Ngài lướt đi trên mặt biển mà đến với các ông, điều này làm cho đồ đệ Chúa càng hãi sợ, nhiều hơn. Quá hoảng sợ, có vị còn hét lên “Ma đấy!” Tâm trạng này, nói lên tính dị đoan - mê tín vẫn ẩn tàng, nơi nhiều vị. Tính chất dị đoan mê hoặc của các vị, cần được trừ khử để, thay vào đó, bằng niềm tin vững mạnh. Thật lòng. Đây là tâm trạng vẫn còn thấy có ở nhiều nơi. Ngay hôm nay. Ở xã hội này. Xã hội tự hào về nền văn minh hiện đại. Ngài lên tiếng: “Hãy yên tâm, có Thầy đây, đừng sợ! đây lời trấn tỉnh gửi đến với dân con đồ đệ còn nghi-hoặc, ít dũng cảm. Nghi-hoặc, vẫn là bản tính chưa thể bỏ của các vị muốn bước theo Chúa, xưa và nay. Vẫn là các vị, cần tự tin/phó thác vào Đức Chúa, Đấng vỗ về, bảo bọc. “Có Thầy đây!”, cụm từ này dịch từ tiếng Hy Lạp “ego eimi” hàm ngụ ý nghĩa: Đức Kitô muốn tỏ bày Ngài có quyền uy/sức mạnh của Thiên Chúa. Ý nghĩa của cụm từ, qui về lời lẽ khi xưa lúc Chúa tỏ bày cùng Môsê, nơi Cựu Ước. “Có Thầy đây!” Chớ lo âu, khiếp sợ. Dù, hiểm nguy đang bao trùm. Ứng đáp tức thời, là lời của Phê-rô, vị tông đồ bộc trực, lãnh tụ các môn đồ: “Nếu là Ngài, xin cho con được đi trên nước!” Thánh nhân đã nhanh chân đến với Thầy, tràn đầy sức mạnh vượt sóng gió, ngút ngàn. Nhưng, vốn hãi sợ và lòng còn nghi-hoặc, thánh nhân đã ngúm chìm, vội kêu lên: “Cứu con với, hỡi Thầy!”. Đây, là lời nài van từ tín hữu Đạo Chúa, luôn lo sợ thế gian vùi dập, bóp nghẹt. Rất nhiều năm. Ở đây cũng có đôi điều nên suy nghĩ: Đức Giê-su không ở trong thuyền của dân con, đồ đệ. Nhưng Ngài có mặt tại môi trường thù địch, ở khắp nơi trên thế giới. Ở nơi nào, mọi người còn hãi sợ. Quẩn quanh bên Hội thánh. Nhiều lúc, Chúa cũng có mặt nơi sông biển có phong ba/sóng dồn, chốn thế gian. Là con Chúa, ta cũng nên ra ngoài để gặp Ngài. Dù làm thế, rất hiểm nghèo. Dù nhiều lúc, ta cứ ở trong thuyền mà lo âu. Hãi sợ. Ta vẫn quên rằng, gặp khi sóng dồn cùng bão táp, vẫn còn đó lời nhắc nhở: “Hỡi người kém tin, sao vẫn còn nghi-hoặc?” Và Lời ấy, hôm nay lại được gửi đến với chúng ta, mỗi người, thêm một lần. Trình thuật hôm nay, có Phêrô-thánh-nhân cùng Chúa bước vào thuyền. Gió lặng im. Như thế, là bình an. Như vậy, là lặng êm. Lặng và êm trong an bình, nghĩa là: đồ đệ Chúa nay đã hiểu. Cũng vẫn tin. Và, vị thủ lãnh đã mau mắn tuyên xưng lời xác chứng để đời: “Quả thật, Thầy là Con Thiên Chúa!”. Điều này xác nhận: Thầy đã vào thuyền. Và, Thầy còn lưu lại với mọi người. Ở trần thế. Đến muôn đời. Trình thuật hôm nay, còn phản ánh một số vấn đề của Hội thánh thời tiên khởi. Vấn đề của những rẽ chia. Xung khắc. Có khác biệt về thần học và tu đức, của người ở trong. Còn bên ngoài, là những bách hại. Thiếu cảm thông. Niềm cảm thông/hỗ trợ, từ phía người Do thái, có thẩm quyền. Điều này, thánh Phao-lô đã đề cập trong thư gửi cộng đoàn Rôma, khi thánh nhân thấy đau lòng phiền não, vì có sự phân biệt giữa con cái Chúa với người Do Thái, chưa nhập đoàn. Vẫn cãi tranh. Vẫn thù nghịch. Và hôm nay, quan hệ ngay giữa người đồng Đạo cũng đã có vấn đề. Vấn đề khác biệt. Rất đau lòng. Thánh Mát-thêu hôm nay, nói đến vai trò đặc biệt của vị thủ lĩnh Giáo hội là thánh Phêrô, người dám bước ra khỏi thuyền để gặp Thầy, ngay lúc có phong ba/sóng dồn. Đây, là ảnh hình của Hội thánh đang bước khỏi con thuyền “nội bộ”, để đem Chúa đến với nhân trần. Dù, chốn nhân trần còn nhiều thù nghịch. Và, vai trò của Hội thánh, không còn mang ý nghĩa co cụm, cục bộ, ở trong thuyền, để né tránh vấn đề, nữa. Nay qua rồi, tác phong vẫn có khi xưa, trước Lễ Ngũ Tuần. Nhưng hôm nay, Thánh Thần Chúa đã cải biến tất cả. Ngài thổi Thần Lực đến với các thánh. Để, chúng ta có thể ra đi mà phục vụ. Ra đi, để rao báo Nước Trời đến với đất-miền tận cùng, của trái đất. Làm như thế, tất nhiên sẽ chuốc vào mình, nhiều hiểm nguy. Làm như thế, sẽ không tránh khỏi mọi chống đối, gây thương tổn. Nhưng, ta luôn có Chúa cận kề. Ngài vẫn hiện diện tại nơi nào ta đặt chân đến, để giảng rao. Ngài quyết không để cho Hội thánh đắm chìm trong phong ba/sóng dồn, bão táp. Thực tế chứng minh: mỗi khi Hội thánh Chúa trỗi dậy từ đống tro tàn nát đổ, thì cộng đồng dân con của Ngài đã mạnh mẽ hơn nhiều. Như, cộng đoàn Giáo Hội ở Trung Quốc vẫn trỗi dậy sau gần 4 thế kỷ lặn hụp nơi phong ba/bão táp, rất nghịch thù. Bài đọc hôm nay, đem đến cho ta nhiều điều để học hỏi: ta vốn từng trải qua chốn nhiễu nhương/sóng dồn thật nhiều lúc. Nhưng, có Chúa là cội nguồn mọi an bình. Yên ổn. Lời Ngài xác quyết với các thánh tông đồ còn đó hôm Tạ từ: “Thầy để lại bình an cho anh em. Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban, không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến. Cũng đừng sợ.” (Yn 14: 27). Lời bảo ban, Thầy nói vào hôm Thầy ra đi chấp nhận khổ hình, đã chứng tỏ rằng: thế giới chẳng thể nào tạo sự an bình, đem đến cho ta. Chỉ mỗi Chúa. Ngài, duy nhất, là Đấng ban bình an cho hết mọi người, vào mọi lúc. Lúc siêu thăng, cũng như khi trầm mặc. Ở mọi giai đoạn, rất đời thường. Bài đọc 1, sách Các Vua có lời dặn: “Hãy ra ngoài mà đứng trên núi, trước mặt Đức Chúa.” (1V 19: 11). Và, Chúa đã đi ngang. Đi ngang, nhưng Ngài không ở trong gió làm rung chuyển, xẻ lấp núi. Ngài không ở nơi đất động, những cuồng phong. Không ở trong lửa. Cũng chẳng hiện diện chốn thiên tai, chết chóc. Nhưng, Ngài có mặt ở nơi có tiếng gió hiu hiu, nhè nhẹ thổi. Nơi, Ê-li-a và mọi người nhận ra rằng: mình được Chúa tỏ bày, sự hiện hữu. Ngài sờ chạm làn da của chúng ta, bằng gió hiu hiu nhè nhẹ thổi. Mỗi ngày. Mọi ngày. Nhưng, chừng như ta mải bận tâm với những bất hạnh. Thiên tai. Động đất. Với lửa ngọn thiêu đốt toàn cuộc sống. Rất đáng lo. Bài đọc hôm nay, còn đem đến cho ta thêm đôi điều, để học hỏi: *Đời người, chẳng có gì khiến ta lo âu, hãi sợ. Có Chúa ở bên, ta còn gì để lo ngại. Thiên tai xảy đến, ta có lo cũng thế. Không lo, cũng vẫn thế. Vậy, chớ nên lo, dù mọi chuyện có xảy ra. *Hãy bỏ mặc mọi đam mê/ước vọng, với thế trần. Bỏ tất cả, tìm chốn lặng yên, mà nguyện cầu. Thế giới nhân trần, sẽ là nơi ta ra đi ngõ hầu dựng xây Nước Trời. Là nơi, ta được mời –đừng tuỳ thuộc vào thế gian, nhưng về với thế giới- để trở nên muối ướp, trở thành men trong bột. Ta được gọi mời hãy ra đi, mà hướng dẫn hết mọi người; để họ biết rằng: Chúa vẫn có mặt. Ngài luôn sinh động, ở trong ta. Ra đi, mà nói với mọi người: “Quả, Ngài là Con Thiên Chúa.”
Ra đi, ta sẽ hân hoan cùng mọi người cất cao giọng hát: “Người đã cho tôi tiếng nói con tim hiền hòa Đầy chứa thương yêu dù cho mưa gió cuốn nhạt nhòa Gọi tiếng anh ơi cùng góp bàn tay Gọi tiếng em ơi cùng chung lấp nỗi đau đọa đầy”. (Ngô Thuỵ Miên – Lời cám ơn)
Gọi tiếng anh ơi. Gọi tiếng em ơi. Tiếng ấy, vẫn rao vẫn gọi, vang cùng khắp ngõ. Nơi đất trời, có lời mời gọi, hãy ra đi. Vào vùng biển cả, có người anh, người chị đang cần bàn tay dựng xây Hội thánh. Dựng và xây, Nước Trời ở trần gian. Dù anh, dù chị “có ướt lạnh dưới cơn mưa”. Mưa cuộc đời. Mời cả một đời người. Chúa Nhật 20 Thường Niên Năm A “Khi say sưa với lượn sóng triền miên” khi nhận lấy trong thâm tâm cay nghiệt, giọng hờn đau trăm vạn nỗi niềm riêng. Ta muốn vớt ai ra ngoài sóng điện, để nhìn xem sắc mặt với làn da.” (dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử) Mt 15: 21-28 Say sưa lượn sóng. Thâm tâm cay nghiệt, trăm vạn nỗi niềm riêng. Niềm rất riêng, có là nỗi niềm Chúa nhắn nhủ. Ở trình thuật, thánh sử ghi hôm nay. Trình thuật hôm nay, thánh Mát-thêu ghi lại sự kiện Đức Giê-su tiến vào vùng lãnh thổ không thuộc người Do Thái. Đây là việc Ngài ít khi làm. Tyre và Xi-đôn, là hai thủ phủ nằm cạnh biển dọc bờ duyên Địa Trung Hải. Ngày nay thuộc nước Li-băng, Trung Đông. Khác với các thành phố được Tin Mừng ghi, có Chúa ghé, nhưng không còn thấy trên bản đồ, hai thị trấn này vẫn nở rộ. Thật bất ngờ, khi ta thấy xuất hiện người nữ phụ của xứ Ca-na-an. Bà đến với Chúa trong kêu gào, rất đáng thương. Đáng thương, là vì người Ca-na-an luôn kình chống Do Thái, vẫn bị coi là người ngoài. Ngoài Đạo. Ngoài luồng. Ngoài cả truyền thống gọn gàng, rất lễ nghi. Nhưng, chuyện này không làm cho nữ phụ nọ thêm nao núng. Chí ít, là khi tăm tiếng Thầy được nhận biết, ở khắp nơi. Lạy Ngài! là Con vua Đa-vít, xin dủ lòng thương. Con gái tôi bị quỷ ám, thật khốn khổ, ở đây nữa, chẳng biết con gái bà có bị mà thuật ám ảnh, thật hay không. Hoặc, tật đó chỉ là căn bệnh kinh niên, khó chữa. Nhưng, sở dĩ bà kêu cứu vì bà rất lo âu. Hãi sợ. Và, tuyệt vọng. Vì, chẳng còn biết níu kéo những ai để đỡ đần. Ủi an. Nhưng bà vẫn tin tưởng. Như Đức Chúa từng nói vào buổi Tạ từ, chiều hôm ấy: “Không có Thầy, anh em chẳng làm nên chuyện.” Niềm tin tưởng của người nữ phụ vẫn có, dù là người ngoài Đạo, đã nói lên thiên tính của Đức Chúa. Ngài đích thực là “Con vua Đa-vít”. Như thế có nghiã, là: người mẹ hiền khốn khổ kia, đã thấy được nơi Đức Giê-su, Đấng-làm-Người trên mức bình thường. Đấng, tuy là Người, nhưng rất đặc biệt. Và, danh xưng “Con vua Đa-vít” mà bà tuyên dương hôm ấy, đã hàm ngụ đặc trưng Thiên Sai, của chính Ngài. Dù đã nghe, nhưng Đức Giê-su chừng như vẫn làm ngơ. Làm như thể, người nữ phụ không có đó. Đây, cũng là cảm giác mà nhiều người lâu nay vẫn có, mỗi khi nguyện cầu cùng Chúa. Nhiều người, vẫn cứ tưởng là Chúa chẳng mấy đoái hoài, đến lời mình kêu. Đây, còn là tâm trạng của các môn đệ Chúa, đã lo âu khi cuồng phong ùn ùn kéo đến; thế mà, Chúa vẫn yên và vẫn ngủ trên thuyền, chẳng động tĩnh. “Không đáp lấy một lời.” (Mt 15: 23) Và, lý do tưởng chừng như Chúa chẳng đoái hoài, đó chính là: “Thầy chỉ được sai đến với các chiên con lạc bước, của Israel mà thôi.” (Mt 15: 24). Thật sự, thì sứ vụ của Chúa hầu như chỉ tập trung cho dân Ngài. Như ta biết, sách Công vụ có đề cập, là: các tông đồ cũng không biết điều đó, ngay từ đầu. Nên cứ chờ mãi, cho đến khi các thánh nhận ra rằng: ‘người-ở-ngoài’ cũng được phép ứ tràn Thần Linh Chúa. Cũng được mời chào: hãy dấn bước ra đi, theo chân Ngài. Bài đọc 1, ngôn sứ Isaia có nói trước việc này, khi ông bảo: “Người ngoại bang gắn bó cùng Đức Chúa, hầu phụng sự Người và yêu mến Thánh Danh, cũng trở nên tôi tớ Nguời.” (Is 56: 6). Và vì thế, nữ-phụ-ngoài-Đạo nọ vẫn không bỏ cuộc. Bà quyết tâm mon men đến gần Ngài, mà thưa: “Hỡi Ngài, xin thương giúp!”. Thêm điều nữa, lời Chúa đáp trả xem ra hơi phũ phàng: “Không nên lấy bánh của con cái mà ném cho đàn chó nhỏ!” (Mt 15: 26). Cụ thể hơn, ở một đoạn khác Ngài có nói với tông đồ: “Của thánh, đừng đem cho chó; châu ngọc chớ bỏ trước bầy heo.” (Mt 7: 6) “Quăng cho chó”, là cụm từ được người ngoài Đạo, vào thời của Chúa, vẫn thông dụng. Với người Do Thái, “bầy chó nhỏ” vẫn được coi là loài ô uế. Nhớp tạp. Chúng ăn bất cứ thứ gì, ta ném vứt. Gồm trong đó, có heo/lợn loài hôi tanh. Là, giống thịt thà, chỉ đáng bỏ. Với người Do Thái, người-ngoài-Đạo cũng chẳng sạch hơn loài chó. Nhưng, vấn đề ở đây còn tuỳ âm giọng, của người nói. Có thể, đây là lời cao ngạo, đầy miệt thị. Là, kẻ cả. Trịch thượng. Nhưng, qua những gì ta biết về Đức Chúa, nghĩa bóng Ngài nói ở đây, hàm ngụ tư tưởng hoàn toàn khác hẳn. Có thể, đây chỉ để xét nghiệm niềm tin tưởng của người nữ phụ, về những gì bà nghe biết, mà thôi. Và, từ lời ứng đáp đầy tin tưởng của người nữ ấy, đã chinh phục được lòng xót thương của Chúa: “Này bà, lòng tin của bà thật lớn.” (Mt 15: 28). Và, vì lòng gan dạ sắt của bà, nên Chúa đã đáp lại một cách tích cực: “Bà muốn sao, sẽ được vậy.” Bài đọc hôm nay, đem đến cho ta nhiều bài học. Trên hết và trước hết, vẫn là: niềm tin yêu phó thác trọn vẹn vào sự thương yêu - đùm bọc của Chúa. Nếu nhìn từ ngoài, ta cứ tưởng đây như một thất bại. Chán chường. Tuyệt vọng. Thứ đến là bài học về sự liên lỉ trong nguyện cầu. Đây cũng là bài học, mà đôi lúc ta vẫn nghĩ: cũng chẳng được như ta trông mong. Thật ra, vì tuyệt vọng, ta thường muốn xem Chúa muốn gì ở nơi ta mà quên mất là cần cầu nguyện liên lỉ để biết ta cần ở nơi Chúa. Bài học quý giá hôm nay cần học là ta chớ nên trông ngóng những gì ta mong ước mà hãy chỉ nên ao ước những gì mình cần có trong an bình và yên ổn, qua việc kết hợp với Chúa, rất trọn vẹn. Lòng trông đợi ta cần hơn cả, vẫn là cầu mong cho ta được thực hiện những điều Ngài mong muốn. Nói khác đi, ý định của Chúa và ý muốn của ta vẫn phải trở nên một. Thật tương hợp. Rất ăn khớp. Thêm điều nữa: Tin Mừng hôm nay xác nhận về lòng thương xót của Đức Chúa. Xót thương ấy, nay trải dài cho hết mọi người. Cả những người biết tin yêu. Biết phó thác nơi Ngài mà chẳng cần hỏi người ấy là ai. Ở trong, hay ở ngoài. Hiện ở đâu. Bên Tây hay bên Tầu. Điều này, ngôn sứ Isaya đã quả quyết, nơi bài đọc: “Những ai giữ ngày sa-bát mà không vi phạm, và những ai tuân thủ giao ước của Ta, đều được Ta dẫn lên núi thánh và cho hoan hỷ nơi nhà cầu nguyện của Ta. (Is 56: 6-7). Lời sấm này, lại do người Do Thái viết cho người-ở-ngoài, được tín hữu Đức Kitô gửi đến với người có thiện tâm. Và hảo ý. Với Chúa. Với muôn người. Là thành viên cộng đoàn, ta được biết và tiếp cận với tình thương yêu vỗ về, của Đức Chúa. Nhưng kèm theo, vẫn có bổn phận, là: chứng tỏ cho mọi người thấy, cả người-ở-ngoài lẫn người ở trong, về đường lối. Về, cách ta sống. Ăn nói. Và, hành động sao cho phù hợp với tình thương yêu, Chúa khuyên dạy. Nhất nhất, mọi lời nói và sinh hoạt đều nên phản ánh lòng thương xót Chúa, đã chứng tỏ cho mọi người. Ở trong, cũng như ở ngoài. Trong nhà Đạo. Ở ngoài đời. Dưới mắt Chúa, không ai bị coi là “lũ chó nhỏ” hoặc “heo/lợn” yếu kém, ở bên dưới. Và, các mảnh vụn thức ăn rơi từ bàn ngồi của chủ, chính là Lời Chúa. Là, tình thương yêu Ngài ban phát,. Mảnh vụn rơi vãi, không là mẩu bánh dành cho loài chó nhỏ, nhưng là những gì cao quý Chúa dành để, cho mọi người. Không luật trừ. Không ngoại lệ, phân biệt. Không kỳ thị, bỏ rơi. Trong tinh thần nhận đón Tin Mừng Chúa gửi đến, ta cứ vui lên mà cất lời ca hôm trước: “Tuôn ra thế giới mịt mù Ta về bao la, trôi suôi theo dòng tinh tú (u... ú) Êm êm người dệt bài thơ Nâng ta trong lưới mơ hồ Ta về lòng người bỡ ngỡ Khóc cười như bé bơ vơ Ta theo đường mộng còn lưa. Hương đưa vào nẻo ngàn thu. Người về tay ngà thương nhớ Kêu ta bằng một lời ru”. (Phạm Duy – Mộng du) Tuôn ra thế giới mịt mù. Không như một mộng du. Nhưng, là vào nẻo ngàn thu. Ở nơi đó, có người anh người chị đang trông chờ. Trông chờ, ta đem Chúa đến với tất cả. Có lòng xót thương ân cần. Có chữa lành. Thân thương. Đùm bọc. Của Nước Trời. Chúa Nhật 21 Thường Niên Năm A “Cho tôi hát cùng em, bài hát cũ” Bài ngợi ca Thiên Chúa ở trên trời Để tôi về cầu nguyện với Ngôi Hai Cho ta sống một ngày như mấy kiếp. Mt 16: 13-20 (dẫn thơ Du Tử Lê)
Sống một ngày hay mấy kiếp, nhà thi sĩ vẫn cứ ca lên, bài hát cũ. Bài hát, đầy ắp những ngợi khen Thiên Chúa. Ở trên cao. Ngợi khen, nào khác lời trình thuật của thánh Mát-thêu, ghi ở bản Kinh. Trình thuật hôm nay, gợi nhớ nơi ta, lời thánh Mát-thêu ghi rõ về mối tương quan hài hoà Chúa vẫn có. Với môn đệ. Tương quan ấy, chứng tỏ đã có bước tiến đáng kể, trong hiểu biết quyền năng của Đức Chúa. Mãi tới hôm nay, môn đệ Chúa mới nhận rõ Đức Giê-su đích thực là Đấng nào. Trình thuật đây, diễn tả niềm tin của Hội thánh thời tiên khởi. Không riêng gì tông đồ Chúa, vào buổi ấy. Với Tin Mừng Mác-cô, thánh nhân nhấn mạnh tầm hiểu biết hạn hẹp của tông đồ Chúa, về Thiên tính. Và về giáo huấn của Ngài. Với thánh sử, nhân vật đầu tiên được mô tả, là đã nhận biết Đức Kitô cách trọn vẹn, không ai khác ngoài anh quân nhân đang đứng gác, dưới chân thập tự (Mc 15: 39). Vào buổi ấy, tông đồ Chúa biến đi đâu, không thấy nói. Trình thuật, nay khởi đầu bằng câu hỏi từ Đức Chúa: “Mọi người bảo Con Người là ai?” Ở đây, Đức Giê-su mặc khải Ngài chính là “Con-Người”. Ngài qui về Đấng Thiên Sai, có nói trong sách Đa-ni-en, thuở trước: “Với mây trời, như thể một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến…Ngài được ban tặng quyền bính, vinh quang, vương triều…Quyền bính của Người sẽ không bị huỷ.” (Đn 7: 13). Đáp lại, các tông đồ đã có lời nhận biết rõ: *Ngài là Gio-an Tẩy Giả, bị Hêrôđê đem đi chém đầu,nay đà hồi hướng trở về..(Lc 9: 7) *Ngài là Ê-li-a được trông ngóng, sẽ về lại mặt đất, có dấu ấn của Đấng Thiên Sai. *Ngài là Giê-rê-mi-a, ngôn sứ bị bách hại và khổ đau, Đấng Thiên Sai chịu bài bác. Tin Mừng Nhất Lãm, chỉ mỗi thánh Mát-thêu là nhắc đến lời ngôn sứ Giê-rê-mi-a. Rõ ràng là, dân thường thời ấy coi Đức Giê-su như Vị Ngôn sứ, phát-ngôn-nhân của Thiên Chúa. Và, Ngài đích thực là thế. Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống, câu trả lời của thánh Phê-rô, ở đây, nói lên điểm cao trong quan hệ với Chúa Cha. Trả lời thế, tức là: các tông đồ nhận ra Thầy mình là Đấng Thiên Sai, mọi người trông. Thầy là Vua của người Do Thái, Đấng Được Xức Dầu. Tiếng Hy Lạp, Christos là cụm từ nói về Vị Thiên Sai, Đấng “Được Xức Dầu”. Xem như vậy, các tông đồ nay hiểu rõ vai trò Thiên Sứ của Thầy mình. Qua trình thuật, ta đều thấy các thánh cũng phải mất một thời gian, mới nhận biết Thiên tính của Thầy. Này Si-môn, anh có phúc vì không phải thịt/máu đã mặc khải cho anh, mà Cha Thầy.. chính niềm tin nơi đây đã giúp thánh Phê-rô nhận biết Chúa. Bởi, muốn nhận biết Vua-Cứu Thế, cần có niềm tin vững mạnh, mới xác tín được rằng Vị Ngôn Sứ đang đứng trước mặt mình, khác hẳn ảnh hình mà người Do Thái, đang ngóng chờ. Nhờ có ánh sáng của Thiên Chúa soi rọi, Phê-rô thánh-nhân mới nhận biết Ngài. Dù như thế, Phê-rô và các thánh, đã phải mất nhiều tháng ngày, mới nhận biết Chúa. Về điểm này, có thể nói: Hội thánh hôm nay cũng cùng vị thế, giống như vậy. Từ lâu, có lẽ ta đều biết rõ Đức Giê-su là Con Thiên Chúa. Là, Chúa của ta. Nhưng phải mất khá lâu, ta mới hiểu thấu đáo Thiên Tính của Ngài. Và, phải mất rất nhiều năm tháng, ta mới dấn bước theo chân Chúa, cách trọn vẹn. Nay, Chúa khẳng định: Anh là Đá, trên Đá này Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy. Tiếng Hy Lạp “Petros” là Phê-rô và “Petra” là Đá. Trong khi đó, ngôn ngữ Aram là tiếng mà Đức Giê-su và các tông đồ sử dụng, hai từ này được diễn tả bằng cụm từ “kepa”. Chính vì thế, ta thấy ở một số thư của các thánh các ngài sử dụng cụm từ kê-pha để đặt tên cho Phê-rô thánh nhân (Ga 2: 11) Kê-pha hay Phê-rô, cũng vẫn là Đá. Tức, đá tảng làm nền cho cộng đoàn Hội thánh có Danh xưng và quyền uy của Đức Chúa. Với thế giới. Nơi Ngài, có môn đệ và các kẻ tin đồng hành. Đồng hành, và chuyển tải đời sống cũng như thông điệp của Chúa, qua tư cách thành viên cộng đoàn Hội thánh, “ekklesia”. Ở Tin Mừng Nhất Lãm, cụm từ “cộng đoàn Hội thánh” (tức ekklesia) chỉ thấy có ở đây và duy nhất trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu đoạn 18 - câu 17, mà thôi. Thầy sẽ xây dựng Hội thánh của Thầy là bằng chứng Chúa thiết lập cộng đoàn Hội Thánh ekklesia trên Đá Tảng làm nền, là Kê-pha. Thầy còn hứa, phú ban cho cộng đoàn Hội thánh, sức sống mãnh liệt nhằm chống trả ảnh hưởng của mọi xấu xa/sự dữ. Lời hứa này, Chúa vẫn giữ hơn 20 thế kỷ, mãi đến nay. Và, bằng chứng đầy uy lực dũng mãnh, vẫn thấy có từ Sự Thật và Tình Thương, Ngài trao ban. Được Ngài hứa, ta còn sợ gì. Thầy trao cho anh chìa khoá Nước Trời, ở đây có nghĩa: trách nhiệm và cương vị của người cai quản cộng đoàn Hội thánh, nay quyết trao cho Phê-rô thánh-nhân. Giáo hội Chúa, không đơn giản là Nước Trời, mà thôi. Nhưng Hội thánh, còn sở hữu chìa khoá, theo nghĩa có đủ quyền lực, đủ tư cách để tiếp cận, ngõ hầu dựng xây Vương Quốc của Đức Chúa, ở trần gian. Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, thì cũng sẽ cầm buộc như thế, ở trên trời. Với thánh Mát-thêu, “Trời” đây chính là Đức Chúa. Thánh Mát-thêu viết Tin Mừng là viết cho cộng đoàn người Do Thái, vốn là những người không muốn thánh-nhân sử dụng cụm từ “Thiên Chúa”, để nói về Chúa. Và, quyền cai quản Nước Trời, là quyền Chúa trao ban cho Hội thánh, qua Đức Giê-su. Ngài trao ban, trước khi rời cộng đoàn dân con của Ngài, để về cùng Cha. Từ nay, những gì Hội thánh quyết đoán dưới sự chỉ đạo của thánh Phê-rô và các Tông đồ, đều được Chúa chấp thuận. Được như thế, là vì Hội thánh Chúa được Cha gửi Thần Khí Ngài đến, như Vị Thầy. Và Ngài gửi Đấng Bảo Vệ đến, là để ở với cộng đoàn. Qua Thần Khí, Đức Giê-su sẽ ở lại với Hội thánh, mọi ngày cho đến giây phút cùng tận, ở dưới đất. Xem như thế, Hội thánh là Thân Mình Đức Kitô. Bởi thế nên, mỗi khi Hội thánh phán quyết điều gì, vẫn là phán quyết ấy qua tư cách của Tổng Thể Thân Mình Ngài, tức: Đức Kitô. Cương vị lãnh đạo của Phê-rô thánh-nhân và các vị kế nhiệm, không là áp đặt mang tính cách cưỡng ép. Cũng chẳng là quyền bính chính trị. Nhưng rõ ràng, là mẫu gương phục vụ. Bao lâu, niềm tin - yêu và hy vọng vẫn vững mạnh trong cộng đoàn Hội thánh, thì cương vị này còn tồn tại. Và triển nở. Ở đây, không còn vấn đề đòi ta phải hoàn toàn tuân phục hoặc không được cật vấn, như nghị định ban hành từ cơ chế nào đó, có ở trần gian. Quyền bính và uy lực, nay được ban từ cơ quan tư lệnh đầu não, rất phàm trần. Là, quyền uy đích thực, không nghi vấn. Ngày nay, Đức Giáo Hoàng là vị kế nhiệm đầy quyền bính, của thánh Phê-rô. Đức Thánh cha san sẻ cùng một quyền bính như quà tặng lãnh đạo, do Chúa ban. Lãnh đạo bằng phục vụ. Lãnh đạo trong khiêm tốn. Từ lâu, các Đức Giáo hoàng vẫn tự gọi là Người tôi mọi của mọi tôi tớ của Đức Chúa. Tức, Đức Giáo hoàng không là nhà độc tài toàn trị, như đôi lúc đã từng xảy ra, trong quá khứ. Ngài bị hạn chế, do bởi niềm tin của toàn thể Giáo Hội. Ngài không sáng tạo niềm tin. Ngài không xác quyết ta phải tin như thế nào. Đúng ra, ngài là vị đứng đầu, thông truyền niềm tin cho cộng đoàn Hội thánh. Giáo hoàng, là tụ điểm của một kết-đoàn đầy niềm-tin. Là, hiệp thông trong Thánh Thần. Đức Giáo hoàng, là tôi mọi của cộng đoàn nay liên kết với nhau, trong niềm tin. Giáo hội hôm nay, đang có dấu hiệu xung đột về thần học và tu đức. Chưa bao giờ, Giáo hội cần đến kết hợp. Tập trung, Giáo hội không đòi phải đồng dạng cùng một kiểu. Nhưng, cần có sự hiệp nhất các tín hữu. Như Phao-lô thánh-nhân đã từng nói: “Chỉ có một thân mình, một Thần Khí... Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người. Qua mọi người. Và, trong mọi người.” (Ep 4: 4-6). Đây là điều, mà các người anh người chị bên Anh giáo và giáo phái Lu-ther vẫn bận tâm. Đây còn là, sự quan tâm rất mực, mà các người anh người chị của ta ở Trung quốc, đã từng trải với cách ly. Phân tán. Đức Giáo Hoàng là điểm đồng qui, của mọi thành phần. Khi tìm sự cảm thông với những gì đem đến cho ta ý nghĩa của người đồ đệ dõi bước theo chân Đức Kitô, ở thế giới không ngừng đổi thay, ta cũng nên tìm đến với Đức Giáo hoàng như nhân vật cần đến với ngài, để hội ý. Ngài là mục tử gìn giữ tình thân giữa các tín hữu, ở khắp nơi. Bởi thế nên, đừng làm tắt ngúm mọi ơn lành của Thánh Thần Chúa đang giúp ta sống Tin Mừng. Sống niềm tin, trong bối cảnh to lớn, đầy khác biệt. Khác lập trường. Nhưng, giống niềm tin. Bởi, chúng ta đều cùng một Hội thánh, có giáo hội địa phương. Bởi, nơi Hội thánh của địa phương ta sống, điều cần quan tâm hơn cả chính là sống và lưu lại trong hiệp nhất với người anh em đồ đệ, ở khắp nơi, vượt qua khỏi mọi ranh giới. Cách chia. Đồng thời, cùng sống đời tín hữu theo cách thế có hiệu năng. Có sinh khí. Cách thế hữu hiệu, đầy sinh khí sẽ đem tinh thần Vương Quốc Nước Trời đến với mọi người. Đến, vào buổi nhiễu nhương. Thử thách. Trong quan tâm bức xúc, ta cứ hân hoan hy vọng. Cứ hát lên lời ca đầy phấn khởi, rằng: “Rồi mai, có một lần tôi đưa em,về trên đỉnh yên bình, hiền hoà một mùa xuân lên cao, hôn lên làn tóc xoã, theo mây trôi bềnh bồng.” (Từ Công Phụng – Mùa xuân trên đỉnh bình yên)
Đỉnh yên bình hiền hoà ấy, luôn có mặt Hội thánh Chúa. Hội thánh đa dạng, nhưng hiệp nhất. Vẫn cùng anh cùng chị và cùng em“ ta sẽ hát bài ngợi khen Chúa ở trên cao”. Vẫn “nguyện cầu với Ngôi Hai”. Cầu và nguyện cho sự hiệp nhất. Ở khắp nơi. Trong Chúa.
Chúa Nhật 22 Thường Niên Năm A “Đắm muôn ngôi tinh lạc, xuống mười phương” cả trời bỗng tiêu diêu như báu vỡ: nên tiếng vang thầm dội đến thâm tâm, mà ta ngỡ Đấng Tiên Tri muôn thuở Giữa đêm nay còn đứng giảng Phúc Âm.” Mt 16: 21-27 (dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)
Ngôi tinh lạc xuống mười phương. Hay, cả trời tiêu diêu thầm dội, đến thâm tâm. Thâm tâm, nay đọng lắng tiếng vang thầm, Tiên Tri giảng. Tiên tri hay thánh sử, lâu nay vẫn giảng về Đức Giê-su, Con Thiên Chúa Hằng Sống. Như, Phê-rô thánh-nhân tuyên xưng, vào độ trước. Tin Mừng tuần này, có Chúa mặc khải: “Ngài phải đi Giêrusalem chịu khổ hình, do kỳ mục, thượng tế và kinh sư, mang đến.” (Mt 16: 21). Chẳng còn ngờ, sự kiện này đã gây chấn động, khắp muôn nơi. Chấn động vì: khổ hình Chúa chịu, không do người-ở-ngoài như đám thực dân, tân tạo. Nhưng khổ hình, lại do chính vị đầu đàn/thủ lĩnh đấng-ở-trên, nay đem đến. Gọi họ, là thân hào nhân sĩ, hay thượng tế/kinh sư, thật chẳng oan. Nói không oan, khi mọi xấu xa/sự dữ đều dồn về với Giêrusalem, Đền Thờ Chúa ngự. Đến với Giêrusalem – Đền thờ Của Chúa, là đến với thị thành xôn xao, vẫn chứng kiến cái chết của nhiều ngôn sứ. Và, Chúa vẫn không ngừng trách mắng: “Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-sa-lem! Ngươi từng giết các ngôn sứ và ném đá kẻ được sai đến với ngươi!” (Mt 23: 37). Nghe Ngài trách, môn đệ Chúa hẳn đều chột dạ. Lúng túng. Âu lo. Lo âu, là thái độ rất thường tình của vị thánh được cất nhắc làm thủ lĩnh dân con của Thầy. Là thủ lĩnh, Phê-rô thánh-nhân nào tránh được những phản ứng rất “người” đầy cản ngăn, như: “Thiên Chúa thương, xin đừng để Thầy gặp chuyện như thế đấy.”(Mt 16: 22). Thánh Phê-rô nào muốn chuyện xấu xảy đến với Thầy, Đức Mê-si-a. Nhưng điều này, kéo theo điều giận dữ, từ nơi Chúa. “Xéo đi sau Ta, hỡi Xa-tan!” lời này, tuyệt nhiên không là chúc dữ phát xuất từ Thầy Chí Ái, với dân con. Bởi chính Thầy, vừa cất nhắc người đồ đệ rất mực trung tín, để tuyên dương. Nếu bảo rằng Thầy giận dữ, thì thật ra Thầy chỉ muốn đầy lùi bất kỳ cám dỗ nào khiến Thầy lẩn tránh con đường dẫn đến ý định của Cha. Thái độ của Phê-rô thánh-nhân, cũng giống hệt như chuyện người thường vẫn làm. Chuyện người thường chúng ta vẫn làm, là cản ngăn mọi người thực hiện Lời Chúa. “Anh cản Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mt 16: 23). Ở đây nữa, Phê-rô thánh nhân lại bị coi như một rào cản, ngăn chặn nhiều người thực hiện điều Chúa muốn. Tư tưởng của ông, có thể là cơ duyên gây vấp ngã. Trì trệ. Ngoan cố. Nhưng rủi thay, những rào cản như của thánh-nhân, nay thấy khá nhiều ở thế giới hôm nay. Rất thực tế. Rất cản ngăn. Cản và ngăn, theo lời thánh Phao-lô, là do họ không có được “những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su” (Pl 2: 5), muốn họ có. Tâm tình Chúa, không như tâm tình của dân con đồ đệ, những kẻ chỉ muốn Ngài làm Vua; để giải thoát dân đen, thôi. Thấy rõ tâm tình hạn hẹp của họ, Ngài chạnh lòng. Và ở đây, ta lại có thêm một mặc khải, nữa là: Ngài chuẩn bị chấp nhận mọi khổ hình, cho đến chết. Ngài chấp nhận, vì lòng thương vô bờ bến, muốn tỏ lộ cho những người, mà Ngài coi như “bạn”. Chấp nhận về với nỗi chết, không là mục tiêu Ngài quyết tìm đến. Nhưng chấp nhận, là để dân con hiểu được Tình thương vô bờ bến Ngài trao ban. Cuối cùng, đồ đệ nhận ra được cái chết của Thầy mình, chính là cội nguồn vinh quang và uy lực, như thánh Gio-an từng ghi rõ: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi." (Yn 12: 32) Bài đọc 1, tiên tri Giê-rê-mi-a chừng như vẫn còn tiếc nuối vì được Chúa gọi mời làm ngôn sứ, cho Ngài:”Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ.” Chính vì thế, tiên tri mới “nên trò cười cho thiên hạ, để họ nhạo báng.” (Ge 20: 7). Và mỗi khi lên tiếng, tiên tri đã phải kêu gào lời cảnh báo: “hành hung! ức hiếp!” gửi đến dân con của Người. Và ông, cũng tự nhủ “Tôi sẽ không nghĩ đến nữa; cũng sẽ chẳng nhân Danh Ngài nữa.” (Ge 20: 9) Nhưng, cố tránh cũng không được. Cuối cùng, tiên tri bất chợt nhận thức: “Lời Ngài như lửa bừng bừng, cứ dồn ép nơi tâm can tôi.” (Ge 20: 9) Đó, là lý do khiến nhiều người từng chấp nhận mọi rủi ro, thử thách. Chấp nhận khổ hình cùng nỗi chết,chỉ để làm chứng cho Sự Thật và Tình Thương Yêu. Các tội nhân ở khám đường, nay có cùng một tâm trạng. Họ chấp nhận sầu buồn, là để đấu tranh cho niềm tin, yêu và hy vọng. Nhờ có niềm tin và hy vọng được trui luyện trong khổ ải, nên nhiều vị đã “hồi hướng”, trở về. Trở về rồi, sẽ lại tiếp tục đấu tranh cho phẩm cách, của con người. Bài đọc 2, Phao-lô thánh-nhân cũng cảm nghiệm cùng một tình huống, tương tự. Chính vì thế, thánh-nhân mới thúc giục mọi người, hãy: “hiến dâng thân mình làm của lễ sống động. Thánh thiện. Đẹp lòng Thiên Chúa.” Hãy nhất quyết: “đừng rập theo thói đời này, nhưng cải biến con người mình bằng việc đổi mới tâm thần.” (Rm 12: 2). Đổi tâm thần, là cách thức Chúa từng làm. Đây cũng là điều, mà Phêrô thánh-nhân không chợt nghĩ đến, khi ra tay ngăn cản ý định của Thầy. Ở Phúc Âm. Phúc Âm hôm nay, mời mọi người tiến xa thêm nữa. Gọi mời ta dấn bước ra đi, theo con đường khổ hạnh, cùng với Chúa: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 20: 24). Mời gọi mọi người, Chúa muốn ta cống hiến đời mình vì người khác. Cống hiến, trong phục vụ. Cống hiến, vào mọi lúc. Cả khi, không hiểu. Cả vào lúc, bị tủi nhục. Phỉ báng. Giễu cợt. Thật là sai, nếu ai đó nghĩ rằng: Chúa muốn ta sống đời cùng cực/khốn khổ. Và đôi khi, cũng có người dám giải thích những “cung đàn lạc điệu”, sai và lầm như thế. Thật ra, dấn bước theo Chúa cách trọn vẹn, là dám nhìn vào cuộc đời, như Chúa nhìn. Là, biết “chạnh lòng thương” “như Đức Kitô” vẫn từng thương. Là, trở nên người tín hữu biết yêu thương đùm bọc, đúng ý nghĩa. Bởi một khi, có được tâm tình “chạnh lòng thương” hết mọi người như Đức Kitô vẫn có, hẳn chúng ta cũng sẽ nhìn cuộc sống của mình đầy ý nghĩa của thương yêu. Vui sống. Thương yêu - giùm giúp, không vì để tâm đeo đuổi nhiều tham vọng. Tham lam và vọng tưởng, cốt nâng cao chính mình. Đánh bóng con người mình. Hoặc, gia đình giòng họ, của mình. Và khi, có được tâm tình của Đức Chúa, người người sẽ chuyển hướng cuộc đời. Chuyển, cả quan niệm về hạnh phúc, nữa. Đức Chúa gọi mời mọi người, Ngài không gọi ta hy sinh cuộc đời, để tìm đến thú đau thương. Đúng hơn, Ngài mời gọi ta sống đời thương yêu giùm giúp, có tự do. Những ai chấp nhận đi tù vì niềm tin – yêu cao quý, bao giờ cũng là người rất mực tự do. Và thông thường, họ sẽ hạnh phúc hơn những người tự trói cột vào với của cải/vật chất. Với thú vui thấp hèn. Chóng qua. Đầy nguy hiểm. “Từ bỏ chính mình” Chúa đề nghị, không có nghĩa là diệt bỏ bản vị, hoặc nhân phẩm. Mà là, cởi bỏ mọi vướng bận vật chất, lẫn cái tôi. Để ung dung. Sảng khoái. Có thế, ta mới khám phá ra con người thật, của chính mình. Làm như Chúa gọi mời, có thể, sẽ bị nhiều phẩm bình. Giễu cợt. Kích xung. Nhưng, đó mới là con đường dẫn đến thành công. Hạnh phúc. Rất đích thật. Chỉ những ai, quyết theo con đường Ngài dẫn dắt, mới xác chứng được rằng đời mình đầy ắp những tự do. Hạnh phúc. Bình an. Và cuối cùng, vấn đề hỏi rằng: phải chăng đây chính là mục tiêu ta nhắm đến? Trong chờ đợi câu giải đáp rất tích cực, ta cứ vui lên, mà ca hát. Hát lời hưng phấn khi xưa: “Giọng hát bay cao, lời cám ơn sâu. Từng người đã góp phần cho nương náu Từng người đã cùng nhau chung sức đắp xây tình thương Một nhà Việt Nam dấu yêu. Tình vẫn trôi quanh theo nước long lanh về nguồn Thả ánh trăng thanh về đây soi sáng giấc mộng lành. Nhìn cuối chân mây chợt thấy bình yên. Người đã cho tôi niềm tin mới yêu thương cuộc đời”.(Ngô Thuỵ Miên-Lời cám ơn)
Vâng. Cứ dâng lên “giọng hát bay cao”. Mà cám ơn sâu. Cám ơn, Đấng chỉ đường ta dấn bước. Cám ơn, vì có Đấng Tiên Tri muôn thuở, còn đứng giảng Phúc Âm. Đêm nay. Suốt mọi ngày.
Chúa Nhật 23 Thường Niên Năm A “Nếu trăng thôi là nguyệt” chẳng còn gì nữa loài người nhọc nhằn kiệt sức quả đất cũng ngừng quay nếu trăng thôi là nguyệt em vẫn mãi là em… Mt 18: 15-20 (dẫn nhập thừ thơ Phạm Ngọc) Vẫn hỏi rằng: nếu tfor nowrăng thôi là nguyệt, người thi sĩ có còn làm thơ, nữa hay chăng? Và hỏi thêm: quả đất này nếu ngừng quay, thì người em cũng vẫn là em, đấy chứ? Vẫn là em, nhưng nay đà kiệt sức, có còn sống trong yêu thương? Yêu người hơn thương mình, là bản sắc lời vàng Chúa nhủ khuyên cộng đoàn, nơi trình thuật, rất hôm nay. Trình thuật hôm nay, có thánh sử Mát-thêu nói rất rõ về tương quan khập khễnh nơi cộng đoàn dân con của Đức Chúa. Tương quan khập khễnh, là tương quan thấy nảy sinh nhiều xung đột. Đố kỵ. Phạm lỗi. Cộng đoàn ta sống hôm nay, cũng nên sửa đổi lối sống cho công minh, chính trực. Hầu rạng danh dân con được Chúa chọn. Bài đọc hôm nay, có ghi đôi điều trục trặc xảy đến với các người con của Đức Chúa. Do có hành xử tệ hại cho tư cách thành viên, như Tin Mừng đề cập. Tin Mừng nay không ngừng nhắc nhở, như ở Cựu Ước, qua đó Gia-vê Thiên Chúa gạn hỏi Ca-in: “Em ngươi, nay ở đâu? Và, câu đáp trả, còn đó cũng khá buồn: “há tôi là người giữ em sao?” Trình thuật Tin Mừng, hôm nay gửi gắm đến muôn người, lời nhắc nhớ về bổn phận của mỗi người đối với người anh/người chị, nơi cộng đoàn, Nhắc nhớ hôm nay, làm trổi bật cảnh tình của cộng đoàn kẻ tin. Mọi thời. Mọi lúc. Đặc biệt nhất, chương 18 sách Phúc Âm, thánh sử Mát-thêu đã diễn trình một tương quan đầy phân rẽ. Rất khúc mắc. Khó chịu. Cộng đoàn mà thánh sử đề cập, gồm những người còn lỗi phạm. Là những người vẫn muốn nên thánh, nhưng qua nhiều bẫy cạm, vẫn giăng mắc. Tiến trình ba giai đoạn phạm lỗi, cho thấy tình hình sai trái nơi cung cách xử sự tác hại đến vai trò nhân chứng, của thành viên. Ở trình thuật, mỗi thành viên nên thực hiện hoà giải, hơn là chỉ nghĩ đến trừng phạt người sai phạm. Hoà giải, để mọi sơ xuất trục trặc sẽ không nổ lớn, lan rộng. Trước nhất, cần giải quyết khúc mắc đang có, ở mỗi bên. Nếu mọi việc diễn tiến tốt, đó là điều lý tưởng. Và như thế, mọi người sẽ nói: “Anh đã chinh phục được người anh em”, thật đáng quý. “Chinh phục”, là động từ mà người Do Thái sử dụng để ám chỉ một hồi hướng, trở về. Hồi hướng, không nhằm chấm dứt lối xử sự ngang ngược, thôi. Nhưng, là để thay đổi lối sống. Hồi hướng, là để làm hoà với những người sai phạm, đang chung sống. Nếu người sai phạm không chấp nhận nghe theo lời giải cứu, hãy tìm nhân chứng. Và nếu người sai phạm lại khước từ cả nhân chứng nữa, thì: “hãy thưa chuyện với Hội thánh”. “Hội thánh” ở đây (là nhóm từ “ekklesia”, tiếng Hy Lạp) diễn tả cộng đoàn hiệp nhất, ở địa phương. Tín hữu thời của Chúa, vẫn hiểu rằng cộng đoàn địa phương, là “Hội thánh” tự quản (với chương sách Kh 1: 4/ 3:22, mọi thư từ đều được gửi cho 7 Hội thánh ở Tiểu Á, tức: 7 cộng đoàn địa phương). Nói cho cùng, nếu người sai phạm vẫn không nghe lời hoặc không thay đổi lối hành xử, lúc ấy: “hãy kể như hắn ta là người ngoại hoặc phường thu thuế” (Mt 18: 17). Điều này, có nghĩa: hãy để y rời khỏi cộng đoàn và coi y như người ở ngoài, đừng bận tâm. Rõ ràng, đây là biện pháp cuối cùng, không mang tính trả đũa, hoặc hận thù. Nhưng, đặt ra ngoài mối bận tâm bức xúc của mọi thành viên, đầy hiệp nhất. Việc này khá tế nhị. Bởi, khi bị loại, đương sự sẽ kể cho cộng đoàn nghe sự thật, mình nên biết. Các ngôn sứ có kinh nghiệm, đều nhận thấy sự việc xảy ra y hệt như thế. Có nghĩa là, nếu ta chỉ quan tâm đến tạo dựng một “ảnh hình đáng kính” về cộng đoàn; hoặc, chỉ nhìn vào khía cạnh tranh chấp với giới có thẩm quyền đã thiết lập, thì càng tệ hại thêm. Tệ hại và tranh chấp, nếu kết thúc bằng việc “dứt phép thông công”, dù miễn cưỡng. Thì, đây là trạng thái trái nghịch với sứ vụ chứng tá, để mọi người thấy rằng ta thuộc cùng một Thân Mình Đức Kitô. Trái và nghịch, cả với tinh thần giảng rao Tin Mừng, cho mọi dân. “Dứt phép thông công”, là đi ngược lại lời khuyên của Đức Kitô: hãy đến với người sai phạm. Với, phường thu thuế. Mãi dâm. Hoặc, hãy mở rộng vòng tay ôm đón tiếp người con bỏ đi hoang, nay quay về. Thật ra, Đức Kitô đón nhận người sai phạm trở về, là để họ nhận biết. Để, biến đổi tâm can. Và, từ bỏ “lối mòn xưa cũ”, nhiều lôi kéo. Đức Kitô lân la cùng bàn với người sai phạm, chẳng phải vì Ngài ưa thích họ hơn những người công chính. Nhưng, vì Ngài vẫn muốn thuyết phục họ trở về nẻo chính, với đường ngay. Khi tha thứ cho người nữ phụ sai phạm lỗi ngoại tình, Ngài từng bảo: “Hãy ra đi và đừng lỗi phạm.” Sở dĩ, người con đi hoang trở về đã được đón nhận trong vòng tay ôm rộng mở, là vì anh nhất quyết không còn “ngựa quen đường cũ”. Nhưng, quyết hồi hướng, trở về. Về cùng Chúa. Với anh em. Anh em cầm buộc điều gì ở dưới đất, thì cũng sẽ cầm buộc, ở trên trời, các lời này chứng tỏ cộng đoàn nay có quyền uy/thế lực. Có quyền, là được quyền phán quyết xem ai thích hợp thuộc về Thân Mình Đức Kitô. Quyền này cần, là để bảo quản tính vẹn toàn của cộng đoàn khi làm chứng tá cho Phúc Âm. Nhưng, cũng rất nguy hiểm cho những trường hợp lạm dụng quyền hành. Ở dưới đất, nếu hai người trong anh em hợp lòng xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy sẽ ban cho. Bởi, ở đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Thầy, thì Thầy ở đấy. Giữa họ, có nghĩa là: hễ thành viên cộng đoàn gặp nhau trong yêu thương thật lòng, dù chỉ để nguyện cầu hay phẩm bình, thì Đức Chúa sẽ ở đấy. Ngài sẽ nói và hoạt động, vì ta. Đây là quà tặng vô giá. Và, cũng là trách nhiệm thật cao cả. Bài thánh thư, thánh Phao-lô cũng đã đặt nặng vấn đề thương yêu. Thương và yêu, ràng buộc hết mọi tín hữu mang danh hiệu của Đức Chúa. Đức Giê-su Kitô. Thánh Phao-lô viết: “Hãy yêu thương, vì kẻ biết yêu thương tức đã chu toàn Lề luật.” (Rm 13: 8) Trong tinh thần ấy, có thể nói: chu toàn lề luật, mà không yêu thương, tức trở thành không phải là Kitô khác, mà là Pha-ri-sêu, khác với Đức Kitô. Nói rộng hơn, nếu ta quan tâm yêu mến người đồng loại, tức là ta đã giữ lề luật, và đồng thời, đã yêu mến Chúa. Bài đọc 1, cũng một chiều hướng, khi tiên tri Ê-dê-ki-en nói: “Nếu ngươi không chịu nói để cảnh giác kẻ gian ác từ bỏ đường xấu nó đi theo, nó sẽ chết vì tội của nó; nhưng Ta sẽ đòi ngươi đền nợ máu nó.” (Ez 33: 8). Xem như thế, thành viên cộng đoàn không chỉ có trọng trách cứu người anh em trong cộng đoàn, khỏi sai phạm. Mà còn, còn có trách nhiệm về ơn cứu độ của người ấy nữa. Là con dân nhà Đạo, không chỉ biết quan tâm đến ơn cứu rỗi cho riêng mình. Nhưng, là quan tâm đến phần rỗi của người anh em trong cộng đoàn, nữa. Vì thế nên, ý nghĩa của câu nói “xin cứu linh hồn con” còn là: con quyết tâm trở thành người biết yêu thương và chăm sóc kẻ khác; coi đó như một bổn phận của dân con, trong cộng đoàn. Và, yêu thương cùng chăm sóc người khác, trên thực tế, là đem người ấy về trực diện đòi hỏi của Tin Mừng. Không thể nói: yêu thường giùm giúp kẻ khác, mà lại nhắm, mắt làm ngơ trước các hành xử thiếu tính cách Kitô. Là thành viên cộng đoàn, ta có bổn phận quan tâm đến sự vui sống của anh em. Không thể làm chứng tá cho Đức Kitô nếu chỉ nói chữ “yêu thương” nơi môi miệng, chứ không thực hiện bằng hành động. Nói rõ hơn, không thể làm ngơ để người anh em bần hàn cứ mãi chìm dần trong các tệ nạn xã hội. Cứ mải mê hút xách, nghiện nghập, cờ bạc, bạo lực trong nhà, hoặc chê bai kỳ thị người khuyết tật. Bóc lột người thua kém về tài năng, trí tuệ. Không thể đương đầu với các vấn đề bức xúc của xã hội ở chốn riêng tư, hoặc nơi toà cáo giải mà thôi. Bởi, việc giảng hoà, đền tội phải được thực hiện trên lãnh vực cộng đoàn, rất chung. Và, bổn phận ấy chính là trọng trách ứng đáp lời mời gọi của Hội thánh. Bởi vì, cộng đoàn Hội thánh chính là Thân Mình Đức Kitô. Trong hân hoan ghi nhận lời khuyên của Đức Chúa, ta sẽ hát lên lời ca vang thuở trước:“Hát với tôi trong lúc chơi hay trong khi làm, Hát với tôi trong đám đông hay trong phòng loan Từ vỉa hè thơm cát bụi đen Từ ruộng đồng xanh ngát thần tiên Từ biển vàng ta ca vượt sóng lên ngàn… Hát với tôi thương lúa non không ưa phũ phàng, Hát với tôi thương cánh hoa sớm nở chiều tan Buồn vì người gieo rắc lầm than. Mừng vì còn mong ước người hơn Vì lòng còn tin yêu còn hát nghìn năm.” (Phạm Duy – Hát với tôi) Vâng, trong yêu thương mong ước, ta cứ hát. Hát mãi hát hoài, dù “trăng có thôi là nguyệt”. Dù, nhọc nhằn kiệt sức, đất ngừng quay, Chúa vẫn ở với ta. Vẫn an ủi vỗ về, nhủ khuyên. Để ta hát mãi với cộng đoàn, bài yêu thương, đùm bọc. Bài ca hưng phấn, rất Phúc Âm. Chúa Nhật 24 Thường Niên Năm A U uẩn mãi, theo mùa trăng đã chết Cám ơn người, lời kinh đêm cùng nguyện Không tội nào, bằng tội đã dối gian Lòng muốn yên, tim hỡi hãy ngủ ngoan Chắp tay cầu, xin một lời tha thứ… Mt 18:21-35 (dẫn nhập từ thơ Hoài Yên) U uẩn, mùa trăng chết; và , nguyện cầu xin thứ tha, là tâm tình của nhà thơ, nay cải hối. Cải hối – thứ tha, một tình tự nơi dụ ngôn thánh Mat-thêu gửi đến dân con nhà Đạo, bằng trình thuật. Trình thuật hôm nay , ghi lại một thắc mắc của Phê-rô thánh nhân, khi ông hỏi Đức Chúa về tha thứ. Chuyện thứ tha thánh nhân hỏi, vẫn quanh quẩn: nên đếm tới bao lần? và thánh nhân những tưởng , rằng: Thầy dạy chỉ nên tha, có mỗi bảy lần. Đáp lại điều môn đệ mình cật vấn, Đức Giê –su đã đi xa hơn bằng con số: “ Thầy không nói bẩy lần , mà là: bảy mươi lần bẩy.” (Mt 18:21). 70 lần 7, là con số mà thánh sử từng ghi trong sách Khởi nguyên, thời Cựu Ước. Sách Khởi nguyên xưa, vốn đề cập đến chuyện báo thù, nên đã viết:”Thê thiếp của La-méc, hãy lắng nghe lời ta đây! Vì vết thương, ta giết một người; vì sây sát , ta giết một đứa trẻ , Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy , nhưng La-méc thì gấp bảy mươi lần bảy!” (Kn 4:23-24). Sách Cựu Ước từng viết thế, nhưng Tân Ước, nay đổi chữ “báo thù” thành “hành động”, có thứ tha. Thứ lỗi và tha tội, những 70 lần 7. Lời Chúa ở đây, thoạt xem, ra như có vẻ nghịch chống với tư tưởng Ngài đưa ra, vào tuần trước. Tuần lễ trước, thánh sử Mat-thêu có viết về cảnh tình “người anh em” nhiều sai phạm. Dù đã sai, người anh em vẫn khước từ/chối bỏ mọi đổi thay. Nên anh lùi dần vào chốn suy sụp, vỡ đổ. Chẳng được tha thứ. Vì thế, anh phải rời xa cộng đoàn thân thương. Tin Mừng hôm nay, đi sâu vào dụ ngôn Chúa kể ngay sau khi Ngài quả quyết, về tha thứ. Dụ ngôn hôm nay , nói nhiều về người quản gia mắc nợ những mười ngàn ‘yên vang”. Yên vang, là đơn vị tiền tệ Chúa dùng, để chỉ món nợ to lớn mà bản thân các tôi tớ không bao giờ có khả năng làm trả, suốt cuộc đời. Vấn đề cốt thiết của dụ ngôn, là ở điểm: người tôi tớ thân cận kia, đã không biết phận mình, lại còn quay lại trì chiết/ bóp cổ đàn em dân con, chỉ thiếu có trăm tiền. Với người Do thái thời bấy giờ, tiền trăm đây là món nợ nhỏ, không đáng kể. Chỉ tương đương sức lao động, một ngày công. Dầu thế, quản gia nhà ta vẫn cứ không tha thứ cho đàn em, rất phận hèn. Nhiều túng thiếu. Và tống vào ngục tối đám em nghèo hèn. Tống vào ngục chết thảm, cho đến khi có người cho vay trả giúp mới được tha. Nghe chuyện, Vua -cha bèn truyền lệnh tống giam quản gia độc ác kia không mong ngày về. Dụ ngôn hôm nay, liên kết người nghe về với lời dặn hôm trước, ở lời kinh: “ Xin tha tội nợ chúng tôi, như chúng tôi cũng tha cho khách nợ.” (Mt 6;12). Và sau đó thánh Mat-thêu đã thêm lời giải thích , cho rõ :“ nếu anh em tha thứ cho người ta những điều họ sai lỗi, thì Cha anh em cũng, Đấng ở trên trời, cũng sẽ tha cho anh em. Nhược bằng, anh em không tha cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha thứ những điều anh em sai lỗi.” (Mt 6:14-15). Ở đây, người đọc có thể rút ra đôi điều bổ ích, từ lời dạy: * Trước nhất, ta chẳng thể rút ơn tha thứ khỏi những người đã được Chúa thứ tha. Như đã biết, thái độ của Chúa đối với người sai phạm, dù có hiều hướng xấu, vẫn là: tha thứ và tha thứ. Tha thứ mà không đòi hỏi gì nhiều. Đơn giản là, tha thứ và chỉ tha thứ. * Thêm nữa, Đức Kitô đã mặc khải để ta hiểu rõ: Thiên Chúa sẵn sàng tha thức cho ta đến 77 lần 7. Và, khi đã được tha mọi lỗi lầm mình mắc phạm, ta nên coi chuyện này là ân- huệ nhưng- không, có từ Trên. Thêm vào đó , việc Chúa thứ tha bao giờ cũng kèm thêm một dặn dò gửi đến người được tha, là: hãy sẵn sàng sám hối và biết đường mà trở về. Trở về, khi đã được tha, để sẽ bắt chước Ngài thực thi ân điển tha thứ ấy, bằng cách trải dài ơn tha thứ cho những người đem phiền hà đến cho mình. Thêm nữa, Thiên Chúa quyền năng, Ngài không thể hoàn toàn tha cho ai đã lĩnh nhận ơn tha thứ rồi, lại quay đi, chối từ mọi hoà hoãn /thứ lỗi cho người khác. Từ đó, ta nhận ra, rằng: khi người được tha đã không biết mà làm hoà ,và chừa bỏ mọi cơ hội phạm lỗi, hoặc hy vọng tiến tới hoà giải, thì hành vi tha thứ ấy không thể là một thứ tha, theo đúng nghĩa. Tha thứ, hiểu theo nghĩa người tín hữu vẫn cảm nghiệm, là hình thức cụ thể để ta quảng bá tình yêu thương, đùm bọc, có chăm sóc. Vấn đề thường thấy ở đây, là: hành vi của nhiều người ứng xử với ta, thường được coi như một khích bác, dễ gây tổn thương, xúc phạm, trên cả lòng tự trọng của ta, nữa. Để rồi, ta không thấy những điều nằm phía sau hành vi sai phạm, của người khác. Người hay ghen ghét, giận dữ vẫn gây tác hại cho chính mình nhiều hơn đối tượng của sự ghen ghét, dữ dằn. Vì tự thân, mình đã không cố gắng đủ, để nhìn thấy những gì đang xảy ra đến với người khác. Để nhận ra rằng: tha thứ, hoà giải và chữa lành vẫn có nơi người ấy. Và mỗi khi xảy đến sự kiện có người xử sự với mình theo phương cách giận dữ - ghét ghen, ta hãy nên tự hỏi: “ Có điều gì không ổn trong con người mình, để đến nỗi người kia đã xử tệ với mình, chăng?”. Tự vấn theo cách ấy, thì tha thứ và hoà giải nơi ta, sẽ nên dễ dàng hơn. Tự hỏi thế, ta sẽ cảm thấy bớt bị “chạm nọc”. Và, có thể thông cảm, cùng xót thương mà đi ra tìm đến làm hoà với người khác, người xử tệ với ta hoặc đã bị chính ta làm khổ. Thường những ai biết mình được Chúa thương yêu trọn vẹn và biết mình không đáng được yêu như thế sẽ không thấy chuyện tha thứ và hoà giải, là khó khăn. Tha thứ những 77 lần 7, phải được coi không những là chuyện thực tế mà còn là phương cách duy nhất, để thực hiện. Đồng thời, giống như Chúa và cộng đoàn Kitô hữu xử sự, tha thứ và hoà giải không có nghiã khiến ta nhân nhượng ác thần/sự dữ hoặc hành vi vô liêm sỉ. Như trong dụ ngôn Chua kể, vua-cha đã sẵn sàng tha thứ cho người quản gia” nợ như chúa chổm”, nhưng làm sao tạo được sự hoà giải khi người tôi tớ gian ngoa ấy vẫn xử sự tànác với người anh em hèn yếu của mình? Nói tóm lại, cứ sẵn sàng tha thứ không hạn định, cho người phạm lỗi. Nhưng đồng thời, vẫn nên chiến đấu chống cưỡng mọi sai trái/lỗi lầm, mà chẳng nên tính toán cái giá phải trả, của nó. Chúa có thể tha thứ cho các tội nhân nào biết ăn ăn, hối hỗi. Nhưng, Ngài không chấp nhận được hành động của những ai không biết tha thứ có sám hối. Bởi, đó là nguồn gốc của ác thần/ sự dữ, lẫn khổ đau. Thiên Chúa cũng không nhân nhượng / hoà giải với người phạm lỗi nào vẫn tiếp tục giữ tình trạng sai trái, lỗi phạm. Và, cộng đoàn dân Chúa cũng chẳng thể sát nhập thành viên nào quyết chối từ mọi hoà giải có sám hối. Những người như thế, thường không muốn từ bỏ hành vi gây tổn hại cho Sự Thật và Tình Yêu Thương, đùm bọc. Với Chúa, bằng vào Nhiệm tích Hoà giải, và với cá nhân Kitô –hữu, dứt khoát chỉ có thể tha thứ khi người sai phạm tìm cách hàn gắn vết thương lòng, nhiều sai trái. Và, chỉ hoà giải khi nào đương sự có ước ao thay đổi ý định và hành vi sai trái, quyết chấm dứt con đường dẫn đến lỗi phạm, thôi. Quyết tâm tu sửa, xa rời con đường lầm lạc, ta hát lên niềm hy vọng giải hoà, qua lời ca: ‘Dẫu như tôi phải đi qua vực sâu u tối, tôi vẫn không sợ hãi gì Vì người gần bên tôi mãi…” (Đức Huy- Và con tim đã vui trở lại) Chính thế. Dù sai phạm, ngập vùi nơi vực sâu, vẫn không sợ. Dù “mùa trăng đã chết, vì dối gian”, hãy cứ “chắp tay nguyện cầu, được thứ tha”. Vì luôn biết là, Người gần mãi bên ta. Bên mọi người. Chúa Nhật 25 Thường Niên Năm A “Tình mới lớn phải không em, rất mỏng” Cách tập tành nào cũng dễ hư hao Thuở đầu đời, cầm đũa thấp cao Và nâng chén, dĩ nhiên đổ vỡ. Khi mỏi mòn nghe đời mình trắc trở Hơn lúc nào tôi quá đỗi thương tôi! Mt 20: 1-16 (Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)
Thuở đầu đời, tập tành là để “quá đỗi thương tôi”. Đã hẳn, điều ấy nhà thơ nay mới biết. Với nhà Đạo, sống đời công chính, là ý hướng Thầy vẫn dạy dân con, qua trình thuật. Trình thuật, đề cập đến chủ đề xuyên suốt từ Cựu - Tân Ước, đến hôm nay. Chủ đề làm nền ở đây, là lời gọi mời từ Thầy Chí Thánh gửi đến với mọi người -cá nhân và tập thể- hãy cố mà sống lấy, đời công chính. Sống công chính, là chủ trương sống cuộc đời, được Chúa dẫn giải qua dụ ngôn “ngày mướn thợ”. Dụ ngôn hôm nay, nối thẳng với Phúc Âm chương 19 của thánh Mát-thêu. Vào buổi đó, có hội thoại giữa Đức Giê-su và các tông đồ, với lời Chúa quả quyết, ngay sau truyện người thanh niên giàu từ chối một quyết tâm. Và, Chúa nhắn nhủ: “Có nhiều kẻ đầu hết, sẽ nên cuối hết, và những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết” (Mt 19: 30), ở Nước Trời. Dụ ngôn hôm nay Chúa tỏ bày thật rõ nét, về Nước Trời. Chủ vườn, tảng sáng ra đã kiếm thợ cho vườn nho, của mình. Thợ đến làm, nhất quyết tuân thủ mọi cam kết, giữa đôi bên. Thoả thuận miệng, (ngày nay gọi là hợp đồng) cam kết mỗi người nhận lãnh, một quan tiền. Chẳng cần biết thợ đến từ giờ nào. Kết thúc vào lúc nào. Mỗi người được hứa, sẽ trả theo “giá phải chăng”. Đã thoả thuận giá cả, nhưng sao người làm vẫn kêu ca? Oán trách? Thái độ của người thợ, gợi nhớ tâm trạng những than và trách của người Do Thái, vốn kình chống lối hành xử chính trực/“phải chăng”, của Môsê và A-ha-rôn, ở sa mạc (Xh 16: 3-8). Nghe lại thoả thuận của chủ vườn, ta thấy rõ một hành xử chính trực/phải chăng: “Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi một quan tiền sao?”. Và thợ vườn, nay “há miệng mắc quai”, vì đã chấp nhận thoả thuận ấy. Thêm nữa, ở đây thánh Mát-thêu ghi thêm ý chủ lực: “Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót được bằng bạn, há tôi lại không được phép làm như tôi muốn, sao? Hay, vì thấy tôi tốt bụng mà bạn ghen tức?” (Mt 16: 14-16). Câu trả lời, nói lên bài học quan trọng về sự công minh, của Đức Chúa. Nhìn sự việc, theo quan niệm hẹp hòi của người thường, ta những tưởng truyện ở đây không mang nhãn giới công bình, chính trực. Bởi, như quan niệm ở đời, vẫn là: làm nhiều ăn nhiều, làm ít ăn ít. Vẫn thấy nhan nhản ở đời thường: lương luật sư/bác sĩ vẫn ở trên số tiền kiếm được, của công nhân/lao động. Người đời vẫn cứ lầm tưởng, làm nhiều cho Chúa, ta sẽ được Ngài đoái thương nhiều. Trọng thưởng nhiều hơn người thường. Bởi thế nên, dụ ngôn hôm nay, đích thực phản ánh thái độ của những người quen thói kêu rêu/chê trách, đấn bậc ở trên. Bàn về công minh – chính trực, cũng nên nhìn sự việc bằng những tầm nhìn, khác biệt. Trước hết, làm nhiều điều cho Chúa/cho mọi người, không nhất thiết ràng buộc Chúa phải thương ta nhiều hơn người khác. Bởi, có làm nhiều hay chẳng làm gì cả, cũng đâu thể buộc Chúa thương con người nhiều hơn mức độ, Ngài vẫn yêu. Thêm nữa, Chúa không nhìn vào số lượng công việc con người làm. Cho bằng, Ngài nhìn vào tình cảnh mỗi đang sinh sống. Có thể là, dân con nhà Đạo hôm nay, sẽ xử sự như các thợ đến vào giờ đầu. Tức, những người vốn nghĩ rằng: mình lâu nay tuân giữ chặt chẽ luật của Chúa, chắc chắn sẽ lĩnh nhiều bổng lộc, qua mọi hình thức. Và từ đó cho rằng: họ sẽ “hơn hẳn” người dân thường, đến với Chúa chỉ một giờ. Hôm nay, chắc vẫn còn nhiều người suy tính, hệt như thợ vườn đến đầu giờ, như thế. Nghĩ như thế, tức không thích hợp với phương cách Chúa xử sự. Xử sự như các tông đồ, là những người đến với Chúa, vào phút chót. Các thánh xả thân phục vụ Chúa, trên đường rong ruổi buổi chiều hôm. Tuy thế, các ngài vẫn nhận lãnh chỉ một tình thương, như mọi người. Nhận lãnh nhiều, tức phải mở rộng lòng mình. Cho nhiều. Cho nhanh chóng và rộng rãi, khi Chúa đến kêu gọi ta từ bỏ mọi việc, để theo Ngài. Chỉ thế thôi. Nếu có ai, ngả theo phe của thợ “đến giờ đầu” chỉ biết cằn nhằn/chê trách giới ở trên, hãy nhớ đến cảnh tình của riêng mình. Nhớ, để tỏ lòng cảm kích biết ơn vì Đức Chúa công minh. Ngài công minh, đến độ sự kiên nhẫn của Ngài, cũng giới hạn. Chúa thương Mẹ, và các thánh cùng một cách, một mức độ như mọi người. Thử nghĩ xem, mình chỉ là người được gọi mời vào giờ phút cuối, lại được nhận lãnh bằng người đầu hết, hẳn ta sẽ biết ơn Ngài, biết chừng nào. Chúa thương ta, như tình cảnh ta đang sống. Ngài không giữ sổ hụi, ghi nợ đối với ai. Dù có là thánh nhân, tham gia nhà vườn vào giờ đầu, ta vẫn có thể rời bỏ Ngài, vào phút cuối. Là tội phạm, dù có đến vào giờ chót, ta vẫn có nhiều cơ hội để hồi hướng, trở về. Về với Ngài. Với cộng đoàn. Với tương quan mật thiết, có từ lâu. Dù, ta có cất bước đi hoang, rất lầm lỡ. Đó còn là, tâm trạng của những người đến vào giờ đầu. Rất sốt sắng tham gia công việc của Chúa. Rất hiệu năng. Hăng say. Nhưng, đã vội “bỏ của, chạy lấy người” khi có khó khăn xảy đến. Khi gặp khổ, là có thể bỏ Chúa. Bỏ anh em. Thêm nữa, còn là trường hợp của những người gia nhập Đạo, vì gượng ép. Mông lung. Họ giữ Đạo, rất hình thức. Họ sống Đạo, nhưng chỉ chú trọng bề ngoài. Dễ đổi thay. Chẳng hăng say quan hệ mật thiết với Chúa, với mọi người, nữa. Tin Mừng hôm nay, thêm một điều: dù ta có hành xử sai trái không ít. Dù, ta có thất bại rất nhiều lần. Dù, ta sống tâm trạng của người “đến vào giờ cuối”, trễ nải, ta vẫn hân hạnh gặp gỡ Chúa. Là Đấng Công Minh, Chúa chẳng hề chấp nê vị nể, bất cứ một ai. Chính vì Công Minh, nên Ngài đã bỏ 99 chiên con hiền lành, để tìm mỗi chiên lạc. Bơ vơ. Sợ hãi. Là Cha Nhân Hiền, Ngài mở tiệc mừng đón người con đi hoang, chịu hồi hướng. Ngài để mặc người anh cả, những cằn nhằn. Trách móc. Thở than. Trình thuật hôm nay, cũng cho thấy: Chúa vẫn theo đường lối riêng Ngài đã chọn. Trưng dụ ngôn “thợ làm vườn”, Ngài cốt để cho dân con đồ đệ, đối xử giống như Ngài. Đối xử, trong tha thứ. Hoà mình. Tha thứ và hoà mình, để ta sống vui với tất cả người anh, người chị trong cộng đoàn. Sống vui, như Tin Mừng từng nhấn mạnh. Đó chính là, phương cách tốt đẹp nhằm giúp dân con, biết sống hài hoà với mọi người. Bài học hôm nay, còn giúp ta chấp nhận mọi người như chính họ. Đánh giá mọi người, theo tư cách con người của họ. Theo khả năng/công việc của mỗi người. Theo vị thế, chức năng cao hay thấp. Không thành kiến. Chẳng kỳ thị. Bởi, trong xã hội nhiễu nhương hôm nay, tất cả chúng ta đều là con một Cha. Là anh là chị, và em chung một nhà. Hãy đối xử với mọi người, đúng như con người họ. Không câu nệ. Không chấp nê. Dù, quá khứ của họ có đượm nhiều u ám. Thấp kém. Đau buồn. Sống như thế, chắc chắn ta sẽ được Chúa tiếp sức. Hộ phù. Ngài hộ phù, để ta có thể học hỏi và tuân thủ đường lối công minh – chính trực, Ngài vẫn dạy. Để rồi, khi ấy, con đường rộng mở ta đi đến, sẽ là đường lối Ngài bảo ban. Tư tưởng của ta, khi ấy, sẽ là ý Ngài từng mong muốn. Niềm tin của ta, khi ấy, sẽ giải phóng hết mọi người. Trong hân hoan sống lời Ngài dạy bảo, ta sẽ ca vang tiếng hát của nghệ sĩ, khi xưa viết:: “Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang Lê sau bàn chân gông xiềng một thời xa xăm Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loàng xoàng Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian”. (Nguyễn Đức Quang- Việt Nam quê hương ngạo nghễ)
Dấn bước đi, là bước theo đường công chính. Có Chúa đồng hành, kề cận. Chúa đồng hành, ta sẽ không còn “nghe đời mình đầy trắc trở”. Nhưng, vẫn cười vang. “Tung xiềng vào nhân gian”. Nhân gian ngạo nghễ. Thiếu công minh. Chưa chính trực.
Chúa Nhật 26 Thường Niên Năm A “Ta sẽ thở, bằng trầm hương của gió” (dẫn từ thơ Du Tử Lê)
Mt 21: 28-32 Vẫn hít thở, bằng hương trầm của gió. Vẫn lắng nghe, bước chân mòn của muôn thú mơ hồ, nhà thơ bèn gọi mọi người trở lại, với thiên nhiên. Thế còn nhà Đạo thì sao? Vẫn đọng lắng tâm tư, nghe kể truyện dụ ngôn, về người Cha mời hai con đi làm vườn, đấy chứ? Dụ ngôn hôm nay, dưới mắt thượng tế/kinh sư, khẳng định Chúa đưa ra về người phạm lỗi vào Nước Trời trước các đấng bậc, gây nhiều giận dữ. Giận và dữ, là bởi các “đấng bậc” của ta không chú tâm đến lời tiên tri Ezêkien, ở bài đọc. Bài đọc 1, tiên tri Êzêkien từng nói như Đức Chúa, ở Tân Ước: “Khi ác nhân bỏ điều ác nó đã làm, mà trở lại, cùng làm điều phải, sự thiện, nó đã cứu sống mạng nó. Nó đã thấy và từ bỏ mọi tội phản nghịch nó phạm, thì chắc chắn sẽ sống, không phải chết.” (Ez 18: 26). Điều này áp dụng cho mọi người, không riêng kẻ có lỗi. Với bối cảnh thời trước, Đức Giê-su áp dụng truyện kể, trước nhất cho những người đang nghe Ngài. Những người, đi theo vết chân của tiên tổ, vẫn có truyền thống tuân giữ Luật của Chúa. Nhưng nay, khi diện kiến với Gio-an Tẩy Giả, và Đức Kitô, Con Thiên Chúa, họ vẫn dửng dưng, chối từ. Trong khi đó, người-ở-ngoài xưa nay thờ ngẫu-thần nhiều thế kỷ, nay quay về mở rộng lòng, chào đón lời dạy và quyền uy của Đức Chúa. Đây là trọng tâm, của mọi việc. Và điều này, áp dụng cho mọi người, cả hôm nay. Dụ ngôn hôm nay, đưa ra hai yếu tố thật rõ nét, quan trọng. Một mặt, ta không thể tự mãn về tương quan ta có, với Chúa. Bởi, bất cứ lúc nào, và ai cũng có thể rơi vào tình trạng quên đi quyết tâm mình đã có, với Chúa. Với Tin Mừng. Dù, Chúa chẳng nề hà. Ngài vẫn chấp nhận sơ xuất, từ phía dân con. Và, khi ta bền bỉ nối kết - hiệp thông, mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Nhưng, khi ta đã xa rời, từ bỏ Chúa, Ngài vẫn chấp nhận. Vẫn đợi chờ, ta/ người con hồi hướng quay về. Quay về, dù có người đã “chết trong lỗi phạm”. Mặt khác, dù xa rời Đức Chúa, hoặc bỏ bê Tin Mừng; dù trong tâm trạng khốn khổ thế nào đi nữa, vẫn không nên nghĩ là quá trễ. Hãy cứ quay về. Bởi, khi ấy, vòng tay ôm của Cha Nhân Hiền, vẫn ân cần rộng mở. Cha chẳng hề cật vấn: “sao, con lại làm thế?”. Thế đó, là ý nghĩa của dụ ngôn “chiên lạc” và “người con đi hoang.” Thế đó, là lý do Thầy cứ hỏi mãi: “Phê-rô, con có thương Thầy, không?”, những ba lần. Dù, Thầy biết chắc đồ đệ sẽ chối bỏ Ngài đến ba lần, Thầy dẫu biết, vẫn cứ trao ban trọng trách “Hãy dẫn dắt chiên đàn Hội thánh”. Xem như thế, thì gặp những điều không vừa ý xảy đến thì có là trừng phạt dành cho người phạm lỗi?. Ta có giống như nhiều người cứ cho rằng: vẫn có đó, nhiều trừng phạt?. Ở đây phải hiểu là trừng phạt là do chính người phạm lỗi tự xử. Tự xử bằng hình phạt, vốn sẽ lún dần trong tội lỗi, như tiên tri gọi: “Hỡi nhà Israel, nghe đây: phải chăng đường lối của Ta, không chỉnh?” (Ez 18: 25). Cũng thế, không phải là hiếm khi nghe nhiều người vẫn than vãn: Chúa thật bất công, với tôi? Và nay phải khẳng định là: người tốt lành, khi để mất tính chính trực mình vốn có, sẽ làm điều ác độc/tự huỷ, trong tội lỗi. Đó, là kết quả của những ác độc, tự gây nên. Lỗi phạm đây, là việc chối bỏ và quay lưng lại Đấng Nhân Hiền vẫn thương mình. Lỗi phạm đây, đưa dẫn họ về với hình phạt do chính mình làm. Và như thế, người phạm lỗi sẽ lún sâu trong ghen tức, với bạo lực. Trong giận dữ, với tương tàn. Trong nhỏ mọn, và tự tôn. Và như thế, họ sẽ đi dần vào chốn cô đơn, ly cách. Để rồi, sẽ càng phẫn nộ, hiềm khích. Càng tự chuốc lấy cho mình mọi trầm thống. Rất suy sụp. Trên thực tế, Đức Chúa không trừng phạt ai cả. Việc ấy là do ta tự tạo. Do ta tự đi sâu vào chốn lỗi lầm. Tạo vết thâm trầm, càng khó chữa. Thêm vào đó, cũng nên tự hỏi: tội, do đâu mà đến? Lỗi phạm, là gì? Câu trả lời sẽ là: tội, không là hành động vi phạm luật pháp, hoặc các qui định, do người khác đặt. Và, là phản chống bản chất tự nhiên, của chính mình. Sai phạm, là hành vi sai trái, nghịch chống lại giới răn. Và, giới răn là những gì? Do ai đặt? Có là tội, nếu chỉ bỏ lễ Chủ nhật? Nhưng sao gọi việc đó là tội? Tội ở đâu? Chỗ nào? Thế thì, hành xử bạo lực, trộm cắp, dối gian, tham lam, bủn xỉn, có là tội không? Sao không phải là tội? Là tội, có phải vì Giáo hội bảo thế? Hoặc, vị linh mục ngồi toà, nói như vậy? Là tội, vì trong kinh sách, có liệt kê? Điều cần khẳng định ở đây, là tội, chỉ vì đó là điều xấu xa, độc ác. Lỗi phạm, bởi vì hành vi đó chối-từ tình-yêu. Là, phản chống Đức Chúa. Nghịch cả nhân cách, lẽ phải và sự công chính, đối với người khác. Là tội, không chỉ vì những việc mà người Công giáo không được phép làm; mà, bất cứ một ai cũng không nên làm như thế. Thiên Chúa, Sự Thật và Tình Thương Yêu không thuộc của riêng một tôn giáo nào cả. Và chỉ là tội, vì việc ấy đã vi phạm tương quan ta cần có, với Đức Chúa. Với, Sự Thật và Tình Yêu Thương. Nhưng vi phạm, chỉ đem lại thương đau và mất mát. Cho mình và cho người. Vậy, chính mình là người để quy trách, thôi. Trình thuật hôm nay, rõ ràng ám chỉ giới lãnh đạo tôn giáo và dân sự, thời Chúa sống. Trình thuật nói nhiều đến Đức Chúa. Đặc biệt, là cách thức làm sao phục vụ Chúa qua tuân giữ Lề luật. Nhưng rõ ràng, các đấng bậc ấy không tạo cho mình có được tinh thần mà Đức Giê-su vẫn chuyển tải. Ngài chuyển tải bằng chính cuộc sống và lời dạy của Ngài. Tinh thần, là tinh thần yêu thương, rất độ lượng. Là, chăm sóc - thứ tha đem đến với người yếu hèn, dễ thương tổn. Các đấng bậc, cũng đã nghe biết Lời dạy của Ngài, nhưng không cố gắng thực hiện. Những người như thế, chỉ nại cớ để thách thức quyền năng Đức Giê-su qua việc Ngài làm. Bởi, Ngài không thích hợp với quỹ đạo luật pháp, họ bày ra. Vì thế nên, họ đóng khung Ngài và chối bỏ Ngài. Trong khi đó, “quân thu thuế và lũ đàng điếm qua trước các ông, mà vào Nước Thiên Chúa”. (Mt 21: 31). Chắc chắn một điều, là: họ chẳng biết tuân giữ Luật lệ. Họ nói KHÔNG với giới răn của Ngài, rất nhiều lần. Đến khi gặp Chúa, họ thay đổi tận gốc rễ, chính đời mình. Biết lắng nghe. Và đáp ứng. Thời ấy, các thượng tế kinh sư, cũng giống như người con thứ hai, trong truyện. Nghĩa là, cũng biết nói tiếng ‘Vâng!’ con sẽ làm’. Cũng dự định tuân thủ lời Chúa, nhưng rồi lại không để tai nghe lời Chúa dạy. Hoặc, không tuân theo lời Ngài chỉ dẫn. Bài đọc 2, ta có một ca vịnh tuyệt vời về tinh thần phục vụ và bỏ mình, của Đức Giê-su. Phao-lô thánh nhân nói đến tinh thần ấy trong bối cảnh khẩn thiết yêu cầu cộng đồng dân Chúa ở Philíphê, nên đoàn kết. Khi thúc giục người Kitô hữu phục vụ nhu cầu của người khác, với lòng tôn trọng, thánh nhân khuyến dụ họ nên mang theo tâm tình của Thầy mình. Nên suy nghĩ như Thầy. Để minh hoạ điều này, thánh-nhân đã làm ra như bài vịnh. Để ca tụng nhân cách Đức Giê-su, Con Thiên Chúa. Đức Giê-su, không nhấn mạnh đến điều này, khi Ngài còn ở với chúng ta. Trái lại, Ngài tự trút bỏ vinh quang của chính Ngài, để trở nên giống như người phàm. Còn hơn thế, Ngài còn chấp nhận thân phận nô lệ. Chấp nhận cả nỗi chết. Chết như tội phạm, trên thập tự. Bị hành hình. Khổ sai. Nếu như ta, cũng có nơi chốn tràn ngập tinh thần Đức Giê-su vẫn có, ta sẽ không còn gì để hãi sợ. Và nơi chốn, mà cộng đồng tín hữu Đức Kitô hiện đang sống, chính là chốn ấm tình người, có sự kết hợp của tình thương yêu, chăm sóc. Có sự độ lượng và yểm trợ song phương. Có chăm nom săn sóc, cho nhau. Chuyện như thế, không bao giờ là quá trễ. Ta vẫn có thể bắt đầu, ở đây. Bây giờ. Trong quyết tâm như thế, ta hãy vui lên mà ca hát. Hát những lời vui, thuở trước, rằng: “Tôi yêu, những gì đến tự nhiên những câu nói thành thật và yêu ngày nắng tôi yêu mặc Jean và áo trắng yêu trăng sáng ngày rằm Và, tôi cũng yêu em, Yêu em rộn ràng, yêu em nồng nàn Yêu em chứa chan…” (Đức Huy – Và tôi cũng yêu em)
Vẫn cứ yêu. Yêu nồng nàn, yêu chứa chan. Dù, em anh có lỗi phạm, dù em có sai sót. Vẫn cứ yêu và cứ thở. Thở bằng trầm hương của gió. Vì ngài, rừng, và thế giới quanh ta, vẫn mở rộng vòng tay mời ta trở lại. Trở lại, mà về với yêu thương. Nhiều chăm sóc. Đùm bọc.
Chúa Nhật 27 Thường Niên Năm A “Thư về em, tím nét thương đau” Mai mốt rồi đây lầm cát bụi Anh lại đuờng xa trải kiếp người Tim tím rừng chiều, tim tím núi Chiều hôm nhiều tím, thế em ơi! (Dẫn từ thơ Nguyễn Bính) Mt 21: 33-43 Thư tím, chiều tím, đời cũng tím. Mầu tím chiều hôm, mà nhà thơ diễn tả, nay trải dài khắp muôn nơi. Nơi nhà Đạo thì không thế. Nhà Đạo, không nói mầu tím nét thương đau của riêng ai. Nhưng, vẫn mời gọi mọi người vào vườn nho, có Chúa. Có anh em. Mời đi vào trình thuật, có dụ ngôn mới. Dụ ngôn hôm nay, thánh sử Mát-thêu diễn bày về “vườn nho nhà Chúa”. Dụ ngôn mới, là câu truyện đầy ý nghĩa bóng bảy, nhằm đưa ra một bài học gửi đến hết mọi người. Mỗi chi tiết dụ ngôn, đều mang ý nghĩa của hình tượng, rất tế nhị. Đượm nhiều nét thông điệp. Có liên quan đến con dân/tá điền, người của Chúa. Về hình tượng dụ ngôn, ta không nên ngồi đó phẩm-bình hiện-trạng, của nhiều người, như trong quá khứ. Nghe dụ ngôn, hãy nên suy tư nghiền ngẫm, hiểu cho kỹ. Hiểu kỹ, ngõ hầu áp dụng cho đời mình,mỗi người. Vì thế, đừng nghe đọc dụ ngôn với tâm tình tra cứu nguồn gốc, cốt truyện. Đúng hơn, hãy suy nghĩ về cuộc sống, của mỗi người. Về phong thái hành xử, với tha nhân. Bài đọc hôm nay, nói nhiều đến truyện của vườn nho. Ở nơi đó, dân con Đức Chúa vẫn thường gặp đủ mọi người. Những người Chúa chọn làm dân riêng, của Ngài. Những người lâu nay đồng hành với Chúa ở sa mạc cuộc đời. Có gian lao, kham khổ. Nhưng cuối cùng, cũng kết thúc nơi “đất miền đầy sữa và mật ong.” Sung mãn. Cật lực. Cật lực đến độ vẫn bắt gặp nơi Lời Chúa, một câu hỏi: “Ở vườn nho của tôi, nào có điều gì cần làm thêm, mà tôi đã không làm?” (Is 5: 4) Bài đọc 1, chừng như là hồi đáp của dân con/tá điền còn xa với kỳ vọng của gia chủ. Chủ nhân ông, như muốn bảo: “Tôi những mong hoa trái tốt lành, sao nó sinh nho dại?” (Is 5: 4b). Trình thuật hôm nay, cũng thấy xảy ra tình huống tương tự:“chủ vườn sai đầy tớ đến gặp các tá điền, để thu hoa lợi”. Nhưng, tá điền cứ bắt bớ tớ/thầy của ông, đem giết đi. Chủ vườn đành sai phái tiên tri cùng người thân đến với họ, nhưng bị chối từ. Họ vẫn không thuần phục. Không sinh hoa, kết trái. Chủ vườn gửi con ruột mình đến, với hy vọng dân con kính nể con ruột của mình. Nhưng, cả đến con một của ông cũng bị quăng khỏi vườn, và bị giết. Giết, để bịt miệng. Giết, để tiếm đoạt gia tài. Điều này, nhắc người nghe gợi nhớ truyện Cựu Ước, khi tiên tổ loài người những chỉ muốn tiếm đoạt quyền uy của Đấng Trên Cao. Và, truyện dân con quyết xây mộng dựng tháp, đụng “mây trời”. Giết con ruột của chủ vườn, và “quăng bên ngoài…”, là ám chỉ Chúa sẽ phải chết, ngoài thành thánh. Trên thập tự. Áp dụng vào thực tế, có thể ví dân con/tá điền, là chính ta. Những người con của Chúa, thời đương đại. Chủ vườn nho, những mong dân con/tá điền sinh hoa kết trái, để tồn tại. Còn lại, là câu hỏi cho ta: Nào có ai, khác biệt hơn tá điền/dân con thời của Chúa? Bản thân, ta có hơn gì đám thượng tế/ kinh sư, cùng luật sĩ với Pha-ri-sêu? Nhờ thanh tẩy, ta cũng là dân tuyển chọn, được mời gọi kịp đến làm việc, trong vườn nho Hội thánh. Mỗi tuần, ta còn được gọi mời quây quần với tụ tập, hầu đón nhận thông điệp ở Phúc Âm. Mời gọi thế, để ta làm thành viên năng động nơi cộng đoàn tình thương, Thân Mình Chúa. Tức, cộng đoàn Hội thánh, vẫn chờ đợi. Mời gọi - đợi chờ, còn là đặc sủng và ân phúc rất riêng. Tuyệt nhiên, không là gánh nặng, hoặc cho bất cứ người nào. Vấn đề đặt ra, là: nhận thông điệp Chúa gửi, ta sử dụng phương án nào, để giải quyết? Ở các thế kỷ trước, nhiều tiên tri/ngôn sứ ở cộng đoàn Hội thánh, cũng bị khước từ, chối bỏ, kể cả bị giết đi. Vào thời trước, các vị mang tên Gio-an thành Arc, Thomas Moore, Oliver Plunkett. Vừa hôm qua đây, là Martin Luther King, Giám mục Oscar Romeo, là Phan-xi-cô Nguyễn Văn Thuận…những nạn nhân kể không hết, ở Nam Mỹ, Châu Á lẫn Châu Phi. Các vị ấy, có chung một mẫu số: bị giết đi, không do bàn tay người-ở-ngoài. Mà lại, do chính người đồng Đạo, những tá điền của Chúa, ở vườn nho. Nếu phẩm bình, chắc hẳn ta cũng không hơn gì những nhân vật, được đề cập ở trình thuật, rất hôm nay. Ở bài đọc, có những lời: “Mong sao họ sống công bình, nhưng toàn là đổ máu. Ta chờ đợi họ làm điều chính trực, mà chỉ nghe tiếng khóc.”(Is 5: 7). Ở thế giới hôm nay, chẳng cần đi đâu xa, ta cũng vẫn gặp những trường hợp mà lời Chúa nói đến ngay trong cộng đoàn ta đang sống. Áp dụng vào cuộc sống Đạo, có thể hỏi: cộng đoàn kẻ tin chúng ta thuộc loại nào, của giàn nho? Chua, chát, nhạt bùi, hay rất ngọt? Cộng đoàn tình thương ta sống, có là dấu chỉ Đức Kitô đang hiện diện? Có thể hiện tình thương, ở nơi này? Tất cả, có đánh động lên niềm tin, của riêng ta? Có là như, lời thánh Phao-lô từng khuyến khích: “Phàm những gì là chân thật, khả kính, công minh; là danh thơm tiếng tốt, là nhân đức hay những điều đáng ngợi khen, anh em hãy chú trọng đến tất cả.” (Ph 4: 8) Và nhất là câu cuối của bài đọc, được trích dẫn: “Và Thiên Chúa của bình an, sẽ ở cùng anh em.”(Ph 4: 8) Giả như nhà thờ, hội thánh của ta bị đóng cửa, bán đi cho phàm nhân làm chốn vui chơi, nhảy múa, có gì khác biệt xảy đến với chòm xóm, láng giềng ta thường lui tới? Đã đành, vì năng lui tới chốn này nên ta mới nhớ. Thế còn, người-dưng-khác họ sống ở ngoài, chẳng bao giờ “về dấu giáo đường”, sẽ thấy ra sao? Và khi đó, những người quanh ta có hệ luỵ vương vấn đến nhu cầu/nội quy, của tôn giáo sẽ ra sao? Và lúc ấy, có còn ai để đo đạc chất lượng xứ đạo, cộng đoàn? Có còn ai ngó ngàng, tới những gì xảy đến, ở bên trong? Những gì đang diễn tiến, khi ta rời bỏ? Dĩ nhiên, cả hai phía đều quan trọng. Không thể có điều này, mà bỏ mất điều kia. Không thể sống hạnh phúc, mà lại thiếu cộng đoàn. Vắng người thân. Hân hoan tham dự tiệc thánh với người thân, ta hát lên lời ca vang đầy phấn chấn: “Hát với tôi trong cõi tim sâu xa tuyệt vời Hát với tôi vươn mãi ra đến tận mù khơi Đừng thèm nhờ máy hát lạ tai Đừng thèm nhờ ai hát hộ ai Để lòng mình dâng lên miệng hát đầy vơi. Hát với tôi nào ! Hát với tôi nào! Hát với nhau những lời hôm nay cùng hát Hát với tôi nào ! Hát với tôi nào !
Hãy hát với tôi. Với nhau. Cho, đời thêm vui. Dù, nhà thơ đã ngừng viết. Rất mầu xanh. Dù nhà thờ, có đóng cửa. Rất tím than. Vẫn cứ hát. Hát những lời của người đang vui, phấn khởi. Lời Việt Nam.
Chúa Nhật 28 Thường Niên Năm A “Anh đã để tình yêu nay tuột mất”… Anh đã để ngôi sao bay khỏi cát Biển xanh êm, mãi chớp sáng vòm trời Điều có thể, đã biến thành không thể Biển bạc đầu, nông nổi tưổi hai mươi. (Dẫn từ thơ Nguyễn Trọng Tạo) Mt 22: 1-4 Tình yêu mà anh còn để mất, thì làm sao anh biến được điều có thể, thành không thể? Dù điều ấy, có là nông nổi tuổi hai mươi. Hay, chuyện mời chào/ới gọi anh dự tiệc cưới. Tiệc cưới, nhà chủ vẫn mải mời. Và vẫn gọi. Nhưng, chẳng ai thèm đến dự. Đó là tình tự, diễn tả ở trình thuật, hôm nay. Trình thuật hôm nay, thánh Mát-thêu kể thêm một dụ ngôn Nước Trời. Câu truyện Chúa mời gọi dân con/người người hãy đến dự. Dự tiệc linh đình, do con ruột Vua tha thiết. Ới gọi/lời mời hôm nay rất chân phương. Rất thân tình, từ Đức Chúa. Nhưng, chừng như chẳng ai buồn bén mảng. Để tâm. Bài đọc 1, lời tiên tri Isaya, cũng mang ảnh hình về bàn tiệc lớn do Chúa sửa soạn cho dân con của Ngài. Có thức ăn dồi dào. Có rượu ngon đầy tràn. Có cả âu sầu, nỗi chết: “Chúa sẽ lau khô dòng lệ, trên khuôn mặt mọi người “ (Is 25: 8). Và, mọi người nhận ra sự vui mừng, “vì được Ngài cứu độ”. Ở dụ ngôn, Vua cha sai đầy tớ ra đi thỉnh cầu quan khách, ám chỉ hàng hàng lớp lớp ngôn sứ được sai đến với muôn dân. Ra đi, kêu gọi mọi người hãy thương yêu, đi vào phục vụ. Và, Đức Chúa kể tiếp: “nhưng bọn họ chẳng chịu đến”. (Mt 22: 3) Để rồi, nhiều đầy tớ khác được tiếp tục sai đi, với lời dặn: “Hãy thưa cùng quan khách: cỗ bàn ta đã dọn. Mọi sự nay sẵn sàng. Xin đến dự.” (Mt 22: 4). Lời Chúa luôn mang tính cấp bách, khẩn trương. Mỗi khi Ngài mời ai? làm gì? bao giờ cũng mong ta đáp ứng, trong hiện tại. Rất đúng giờ. Bao giờ Chúa cũng mời tất cả con dân tham dự Tiệc thánh Nước Trời. Nhưng, người được mời cứ dửng dưng. Chẳng hề bận tâm. Đáp ứng lời mời của Chúa, người đời thường chọn hai phương cách: hoặc, quá bận với chuyện phàm trần. Hoặc, bắt giữ sứ giả được gửi đến, “để làm nhục và giết đi” (Mt 22: 6). Vấn đề đặt ra hôm nay, là: ta thuộc lớp người nào ở hai phương cách trên? Và, hôm nay, ta có bịt tai tảng lờ như không nghe tiếng Chúa? Tảng lờ, vì còn nhiều thứ phải bận tâm. Nhiều thứ để lo toan, tính toán? Hoặc, ta chỉ để ý những chuyện gì khả dĩ bảo đảm cho ta niềm hạnh phúc, rất đời thường? Và, Chúa kể tiếp: “Nhà vua nổi cơn thịnh nộ, sai quân tru diệt bọn sát nhân và thiêu huỷ thành phố của chúng.” (Mt 22: 7). Đoạn này hoàn toàn không có trong truyện, nhưng do thánh sử viết thêm vào, là để ám chỉ hành động của đế quốc thực dân La mã đã phá huỷ đền Giê-ru-sa-lem, năm 70. Cũng nên nhớ, Tin Mừng theo thánh Mát-thêu chỉ xuất hiện vào niên biểu trước sau 85, thôi. Điều này chứng tỏ: cả hôm nay, người ta vẫn tìm cách giam giữ, hành hình, hãm hại và giết đi các ngôn sứ của Chúa. Bị chối từ, nhưng nhà Vua vẫn cả quyết: “Tiệc cưới đã sẵn!” Sẵn ở đây, hàm ngụ một điều: đáp ứng lời mời của Chúa, là chuyện luôn khẩn thiết. Bởi thế, đầy tớ Chúa được sai đi, không phải để đến với người giàu, đáng quý trọng; mà là, kẻ đầu đường xó chợ, chẳng xứng đáng. Họ là những người tiêu biểu ở phố chợ, miền Trung Đông. Nơi tập trung, phường “giá áo túi cơm”, toàn tội phạm. Tất cả, đều được mời gọi. Xấu tốt, không loại trừ. Cho đến khi nào phòng tiệc đầy ứ, những người. Mới thôi. Ở đây nữa, không có chuyện “dân được tuyển”, và người ở ngoài. Không có chuyện giáo dân hạng thứ. Người tốt lành. Dĩ nhiên, giáo xứ nào nhiều người công chính, tốt lành, vẫn rất quý. Nhưng, không vì thế mà quên đi việc chuyển tải tình thương yêu của Chúa, với hết mọi người. Đó mới đích thật là Giáo hội Công giáo. Đạo của chung. Dầu sao nữa, phần cuối dụ ngôn xem ra có vẻ mâu thuẫn với điều ta vừa nhận định. Thậm chí, thiếu công minh. Khi đã có nhã ý mời hết mọi người đến dự tiệc, sao lại thắc mắc chuyện có người không ăn vận cho tề chỉnh, áo tân hôn? Thật ra, đây vẫn là thành phần văn bản chính thức, một lời dạy. Lời dạy rằng, lãnh đạo người Do Thái vẫn bài bác Đức Giê-su. Người dân thường, lại được mời. Tuy nhiên, chỉ có mặt ở buổi tiệc thôi, vẫn không đủ. Dự tiệc Chúa mời, người người vẫn cần ăn mặc cho phải phép. Tức ăn mặc áo ‘ tình yêu thương’ để tỏ lòng tôn trọng người anh em thực khách, cùng đến với mình. Thực tế cuộc đời, mọi người đều được mời đến với Hội thánh, đang mở rộng vòng tay ôm. Cả những người đã và đang phạm lỗi. Và Hội Thánh, vẫn kỳ vọng người đến với mình, có cố gắng sám hối. Cố gắng hồi hướng, trở về. Cộng đoàn, sẽ không thể chấp nhận thái độ của những người vẫn cứ đến, nhưng chẳng mảy may thay đổi cách sống hoang tàng, bê bối. Chẳng nể vì. Làm thế, thật chẳng xứng. Còn nhớ, ở các đoạn Tin Mừng khác, Đức Giê-su đích thân ra khỏi đường lối của riêng Ngài, để trở nên thân thiện với phường thu thuế, giới bê tha, đầy phạm lỗi. Làm như thế, không có nghĩa là Ngài chấp nhận phong cách “đắm chìm trong phạm lỗi, sống ngoài rià”; nhưng đây là phong cách kêu mời người phạm lỗi biết hồi hướng, đổi thay, như Ngài từng nói: “Niềm tin đã cứu chị. Hãy đi đi, và đừng lỗi phạm nữa.” Và, trình thuật kết thúc bằng một nhận định hơi bi quan, khắc nghiệt, nhưng đúng thực, là: “kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít.” (Mt 22: 14). Nhận định chỉ muốn nói lên sự thực nghiệt ngã: Hội thánh kêu gọi mọi người chứng tỏ tình yêu Thiên Chúa bằng chính cuộc sống, của riêng mình. Nhưng quá ít người đáp ứng, kinh qua kinh nghiệm ấy. Người người hầu như chỉ kiếm tìm hạnh phúc nơi giàu sang, với vui thú thân xác, bạc tiền, thôi. Thật ra, “y phục ngày cưới” nói ở dụ ngôn, ám chỉ thực khách đến dự, được khoác lên mình Đức Kitô. Khoác như thế, tức là đã ngang qua nhiệm tích thanh tẩy, được tiếp cận bàn tiệc của Đức Chúa. Và, lớn lên mặc lấy cho mình áo dự tiệc trinh trong, có tinh thần và lời dạy của Đức Giê-su, đang đợi chờ. Điều này chứng tỏ, đang có cuộc sống đổi thay biến từ từ, dưới tầm ảnh hưởng của Đức Giê-su trong tương quan với cộng đồng các kẻ tin. Vấn đề, là: ta thấy thế nào về lời mời của Chúa? Đây có phải là ân sủng, là chúc phúc hoặc là gánh nặng đầy phức tạp? Ta đáp ứng thế nào với lời mời của Ngài? Thêm nữa, trong suy tư nguyện cầu Lời Chúa, có lẽ cũng nên tự hỏi lòng mình đã gìn giữ áo mặc dự tiệc cho sạch trong không? Và, mình cảm kích thế nào, để đáp ứng tình thương yêu phục vụ của Đức Giê-su? Với cộng đoàn của Ngài? Có nên xem lại thái độ và hành xử của mình có xứng hợp với lời dạy của Phúc Âm không? Ta vẫn nên khoác áo cưới dự tiệc như thường, hoặc nay đà gian dối? Hoặc, đây có phải là lúc thích hợp để ta khoác lên mình chiếc áo trinh trong ngày cưới, một lần nữa? Và cuối cùng, cũng không nên quên rằng: Tuy Hội thánh luôn kêu mời và kỳ vọng mỗi thành viên đóng góp cho cuộc sống chứng tá của mình nhưng Chúa và Hội thánh vẫn luôn mở rộng tha thứ đón ta, nếu ta có đi trệch đường. Bài đọc hôm nay, còn minh chứng rằng Chúa vẫn dành nhiều thứ quý giá cho mỗi người. Dù quá khứ của ta có thế nào đi nữa, ta vẫn được mời đi vào bàn tiệc của Chúa. Nhưng, dù được mời, ta vẫn không thể coi đó như chuyện nhưng-không, dễ dàng. Ở đây không có chuyện tự mãn, hay ngạo mạn. Thái độ này, còn nguy hiểm hơn những người tự cho mình tầm thường, thấp kém, ít đạo hạnh, chẳng đạo đức/tốt lành. Nếu tự mãn, kiêu căng, thì chính ta mới là người bỏ cuộc nơi bàn tiệc, chứ không phải Chúa. Tham dự Tiệc Lòng Mến hôm nay, ta cầu mong cho mọi người luôn giữ gìn “áo dự tiệc” được trinh trong, thẳng nếp. Cầu và mong ta trở thành đồ đệ thân thương biết lắng nghe và thực hiện lời Chúa dạy. Cầu và mong cho mọi người anh em, ta luôn giữ niềm tin – yêu trong sáng. Có tinh thần thân thương phục vụ. Có trách nhiệm với mọi thành viên trong cộng đoàn của Chúa. Cầu như thế, ta cứ vui tươi trong sáng, hát vang lên những lời ca đầy cảm kích, ở mọi thời: Ngày mai em đến, xin mặc áo lụa vàng, nghe em hãy nhớ. Quê hương anh đó, đang cần đến tình người, đang cần đến nụ cười. Cho tâm hồn nghỉ ngơi. (Phạm Thế Mỹ - Áo lụa vàng) Lụa vàng, màu áo em vẫn mặc khi dự tiệc. Tiệc cưới năm xưa, hay tiệc thánh hôm nay Chúa vẫn đợi. Đợi em. Đợi cả anh đến. Cho tâm hồn nghỉ ngơi. Cho tình người thêm nụ cười. Nụ cười hôm nay, “anh chẳng còn sợ tình yêu tuột mất”. Vẫn biến điều không thể, thành có thể. Bởi, với tình yêu của Chúa, của cộng đoàn, tất cả không còn “nông nổi tuổi hai mươi”. Nhưng, đã chững chạc. Thành người của Chúa.
Chúa Nhật 29 Thường Niên Năm A “Ôi vật vô tri cũng có hồn” “những ngày nắng mới, những hoàng hôn tình yêu sau trước đều như vậy những thoáng vui, xen những nỗi buồn.” Mt 22: 15-21 (dẫn từ thơ Hồ Dzếnh) Vô tri vật hôm trước, là bạc tiền – bạc bẽo của người đời. Thương yêu tình hôm nay, là tình người ta tặng gửi, đến muôn người. Vô tri bạc tiền của hoàng đế, ta trao trả những gì của hoàng đế. Yêu thương tình Chúa ta ghi nhận, như trình thuật thánh sử gửi tín hữu Đạo Chúa, rất hôm nay. Trình thuật hôm nay, ghi lại thách thức mà hàng ngũ lãnh đạo tôn giáo, những Pha-ri-sêu thời trước, đã lập mưu cho người hội ý Chúa, như bẫy cạm tạo cớ bắt giam Ngài. Khi lựa lời mềm mỏng, rất nịnh nọt để làm đề tài hội ý, nhóm Pharisê/Luật sĩ đi thẳng vào vấn nạn đặt ra với Chúa: “được phép nộp thuế cho hoàng đế, có nên không?”(Mt 22: 17) Thật ra, câu hỏi thoạt tưởng-như-là-đơn-giản, được bọn người này cân nhắc biến thành đề tài nóng bỏng, có bẫy giăng. Palestin là thuộc địa La Mã lúc ấy rất xôn xao, xáo trộn. Xáo trộn, vì người Do thái, tuy thù ghét đám thực dân La Mã, chuyên hà hiếp dân đen; nhưng họ cũng thù ghét cả tính bạo tàn, thiếu đạo đức còn hơn tâm tính vô thần, trâng tráo, của bọn quan lại tay sai cùng xứ. Nắm yếu điểm, nhóm Pharisêu/Biệt Phái vẫn tự cho mình là những người yêu nước, luôn nghĩ rằng: không nên đóng thuế cho bọn người thống trị. Trong khi đó, đám người nịnh bợ, lại coi việc hợp tác với La Mã, là chuyện “đôi bên đều có lợi”, nào mất mát gì. Và, cạm bẫy đây nằm ở điểm: nếu Chúa trả lời không nên đóng thuế cho bất cứ ai, thì Ngài cũng chỉ làm hài lòng nhóm Pharisêu/Biệt Phái. Nhưng làm thế, tức là Ngài đã tạo cớ để họ dựng chuyện tố cáo là Ngài vừa xúi dân làm bậy, mà giăng bắt. Còn, nếu Chúa xúi giục dân cứ nộp thuế, thì Ngài cũng chỉ làm vừa lòng đám nịnh bợ vua, thôi. Làm như thế, Ngài sẽ để mất niềm tin nơi dân tình. Bởi, người Do Thái lâu nay vẫn tin chỉ có Chúa, là Vị Thủ Lãnh tối cao của họ, thôi. Là dân đen, mọi người đều có bổn phận đóng thuế cho Vị Đại diện Chúa, bằng của lễ dâng tiến nơi đền thờ. Chỉ như thế. Bài đọc 1, tiên tri I-sa-ya đã viết: Vua Ky-rô, bậc minh quân quyền cao chức trọng thời buổi trước, vẫn buộc dân Do thái chỉ tùng phục, mỗi nhà vua. Và, vua cha vẫn được thần dân coi như cánh tay mặt, của Đức Chúa. Trình thuật hôm nay, Chúa nghe hỏi đã biết lòng dạ bọn người gian ác chỉ muốn gài bẫy để Ngài rơi vào tròng, khó xử sự. Thế nên, Ngài đã yêu cầu cho trưng dẫn hình tiền và giòng chữ, khắc ghi trên đó. Quả thật, hình tiền lẫn danh hiệu đều đã ghi: “Ti-bê-riô Xê-da, con của Thượng tế Au-gus-tô”. Xê-da, không chỉ là hoàng đế thống trị không gian địa cầu ở nơi ấy, thôi. Nhưng, ông còn là đấng thần thiêng/linh thánh, mọi người dưới trướng phải tôn sùng. Tôn và sùng kính Xê-da, còn có nghĩa: ta phải trung thành với quyền bính tập trung trong Đạo. Đó, chính là đề tài mà mọi Kitô hữu thời bấy giờ, đều phải quan tâm. Với Pharisêu và đám người nịnh bợ, tôn sùng Xê-da, tức là chấp nhận tôn thờ ngẫu thần, như người ngoại. Với phần đông Kitô hữu, đây là chuyện nghiêm trọng, về tín lý. Thế nên, nhiều vị đã chấp nhận tử đạo chứ nhất mực không chịu cúi đầu trước lệnh bài Đạo của hoàng đế. Và hôm nay, nhiều vị hoàng đế tân thời đang tạo nhiều thử thách khiến tín hữu ta chấp nhận tử vì đạo, chọn lấy cái chết. Điều này khiến ta nhớ đến các vị đã và đang âm thầm sống đạo, rất kiên tâm. Các vị, nhất quyết không chịu thuần phục quyền bính thế trần, chỉ nhằm trấn-áp đặt để mọi quyền uy trần thế lên đầu lên cổ, người dân lành. Và chuyện như thế, vẫn xảy đến suốt nửa thế kỷ qua, ở Trung quốc. Nhưng nay, với câu đáp trả để đời “Hãy trả lại cho Xê-da, những gì của Xê-da. Của Thiên Chúa, trả về cho Chúa.” (Mt 22: 21), ta có lý để xử sự cho đúng cách. Tuy nhiên, cũng không nên hiểu câu đáp của Chúa theo nghĩa của những người bất mãn, không chấp nhận quyền bính thế trần, theo kiểu bọn người khủng bố, vô chính phủ. Ngược lại, làm thế cũng không phải để quyền bính thế trần có lý do lấn áp thần-quyền. Tức, chiều hướng coi uy quyền của mình là tuyệt đối. Rất độc tài. Toàn trị. Không ai được coi mình có quyền như Ông Trời, bắt mọi người kính trọng mình như Trời con, đấng thế tử. Qua cung cách nào đó, chúng ta là thần dân của hai vương quốc: dân riêng của quyền uy chính trị, rất thế trần. Đồng thời, ta còn là thần dân của Vương Quốc Nước Trời. Như Chúa nói, ta buộc phải trung thành với cả hai. Bởi lẽ, ta vẫn còn là thần dân của chính quyền dân dã, chốn thế trần. Thời nay, rất ít người bằng lòng chu cấp điện nước và lợi lộc tư riêng của mình, cho mọi người. Nhưng dịch vụ công cộng quyền thế khác, vẫn có thể cung cấp nền giáo dục, y tế, các phúc lợi, bệnh viện, đường xá cho mọi người. Từ người thất nghiệp, cho chí bậc cao niên, hoặc người tật nguyền. Rõ ràng là, các dịch vụ công ích như thế cần được tiếp tục cải thiện để có thể tạo được hỗ trợ hợp tác, từ người dân. Ta vẫn làm những việc công ích, bằng cách đóng thuế thu nhập, hoặc bán buôn. Dịch vụ. Thật sự, thuế má không là ác thần/sự dữ. Ở chế độ công minh chính trực, đó là cách đóng góp thực tiễn để ta có thể tạo các dịch vụ tạo phúc lợi biến thành những việc cho không, có ích. Chế độ nào, có hệ thống thuế má công minh, mới tạo sự giàu mạnh cho cộng đoàn ta chung sống. Có như thế, mọi người mới có thể tiếp cận các dịch vụ mà họ cần; ngõ hầu sống đúng phẩm giá con người. Thật ra, có nhiều cách giúp ta thể hiện một xã hội tốt đẹp, lành mạnh. Tốt và lành, để nhờ đó ta đóng góp được nhiều thứ; tạo được chất lượng cho cuộc sống, của cộng đoàn. Tốt và lành, để thực hiện điều Chúa khuyên răn: “hãy trả cho Xê-da, những gì của Xê-da”. Tiếc thay, nhiều người lại trích dẫn câu của Chúa theo hướng: “cha chung chết không ai khóc”, cứ lấy của chung mà làm tư lợi cho riêng mình, hoặc gia đình mình; mà chẳng nghĩ cách cho lại người khác. Cho chung mọi người. Đằng khác, với cộng đoàn Nước Trời, có khi chẳng hề thấy xảy ra xung đột giữa “Xê-da” và Nhà Chúa. Có thể là như thế. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng vậy. Đôi lúc, có vị lợi dụng dựa Lời Chúa để chỉ khích bác hành động của một số lãnh đạo trong chính quyền, bên ngoài. Hoặc, chỉ để chống lại thái độ “bất hoạt động” của chính quyền, nào đó. Rất nhiều lần, ta cũng phải biết từ chối giữ luật lệ, do chính phủ nào đó đề ra. Như, luật kỳ thị/phân biệt chủng tộc ở Nam Phi thời trước. Tại Hoa Kỳ, cả người da trắng lẫn da mầu, vẫn vi phạm luật kỳ thị đặt ra, ở một số tiểu bang. Nhân danh sự thật, sự công bình và phẩm giá con người, họ không còn chọn lựa nào khác. Cũng nên nhận ra rằng, khi thực sự yêu quê hương và dân mình, có thể chúng ta cũng phải có lập trường vững mạnh chống chọi lại giới cầm quyền về một số vấn đề. Dĩ nhiên, trong trường hợp đó, nhà cầm quyền sẽ coi những người này thuộc thành phần bội phản, đe doạ sự ổn định của đất nước. Nhưng những người có lòng quan tâm thật tình như thế, lại là những người biết tỏ ra yêu thương đất nước mình hơn đám được gọi là “đa số thầm lặng” , rất nhiều. Trình thuật hôm nay cho thấy rõ, chúng ta có hai bổn phận: bổn phận đối với đất nước hoặc vùng đất của mình và với Chúa. Ở nơi nào, mà cả hai quyền bính được thuận hoà, thì sẽ không có xung đột. Nhưng hễ nơi nào có những lối hành xử bất nhân và vô luân, đi ngược lại phẩm giá và quyền lợi của dân chúng, chắc chắn nơi ấy sẽ xảy ra tranh chấp. Tuy nhiên, đôi khi tranh chấp không phải là điều tệ. Trái lại, vì là xung đột có sáng tạo nên xã hội của ta mới thay đổi và tiến bộ. Nếu chúng ta luôn hành xử theo đường lối chính đáng, có sáng tạo, như thánh Phao-lô viết: “tức là biết nói lên được sự thật trong yêu thương” (Êp 4: 15), thì vương quốc do con người dựng xây, sẽ trở thành Vương Quốc Nước trời. Đúng như vị tử đạo , một thời nổi tiếng là thành phần bất đồng chính kiến, thánh Thomas Moore có nói: “Là bầy tôi của Vua cha, nhưng phải là tôi tớ Chúa trước đã.” Trong hân hoan đón nhận lập trường Chúa khuyên dạy, ta cùng hát lên lời ca vui hôm nào: “Bạn hỡi, vang lên. Lời ước thiêng liêng. Chúc non sông hoà bình, hoà bình. Ngày máu xương thôi tuôn rơi.Ngày ấy quê hương yên vui. Đợi anh về trong chén tình đầy vơi.”(Phạm Đình Chương – Ly Rượu Mừng) Vẫn cứ hân hoan. Và cứ mừng. Mừng trong chén tình đầy vơi. Có quê hương an bình hài hoà, để mà sống. Với, Vương Quốc Nước Trời, “tình yêu sau trước đều như vậy”. Có nắng mới. Có hoàng hôn. Có cả “vật vô tri”, nay có hồn. Hồn, của những thương yêu. Sung mãn. Hài hoà.
Chúa Nhật 30 Thường Niên Năm A Mau với chứ ! Thời gian không đứng đợi. Tình thổi gió, màu yêu lên phấp phới Mt 22: 34-40 (dẫn từ thơ Xuân Diệu)
Nếu thánh Âu tinh là người Việt, thì khi ấy chắc ngài cũng làm thơ. Thơ tình. Thơ Đạo. Hay tuyệt tác. Và, thơ của thánh nhân sẽ đầy từ yêu đương như thế này: Hãy yêu đi, và rồi cứ làm những điều em rất muốn.” Nếu thánh Mát-thêu là người mình, hẳn thánh sử cũng sẽ kêu gọi mọi người, hãy biết yêu. Yêu Chúa. Yêu người. Rất tràn đầy. Dễ nhớ. Như trình thuật ngài viết, buổi hôm nay. Trình thuật hôm nay, hằn in dấu ấn nơi tâm trí người nghe, và người đọc. Mấy tuần rồi, theo dõi trình thuật của thánh sử, ta thấy Chúa chịu thách thức, từ mọi người. Hết lãnh đạo Do Thái, rồi nhóm người Sa-đốc, nay lại những Pha-ri-sêu. Rất đối đầu. Hỏi han. Hỏi han, vì Pharisêu là nhóm tư tế, hay hỏi han thắc mắc, về luật. Hôm nay họ hỏi: “Thưa Thầy, trong sách Mô-sê, điều răn nào trọng nhất?” (Mt 22: 34) Trong 600 điều luật người Do Thái, nhiều khoản gói ghém mọi chi tiết, cần tuân giữ. Nhưng, câu mà nhóm Pharisêu hôm nay hỏi, lại đi thẳng vào trọng tâm vấn đề: về tương quan giữa Chúa với dân con. Câu hỏi hôm nay, tóm gọn những điều mà toàn bộ lề luật, muốn đề cập. Thông thường khi được hỏi, Đức Giê-su vẫn đặt lại câu hỏi, thay cho trả lời. Hôm nay, Ngài trả lời ngay vào vấn đề: Ngài trích dẫn không chỉ một luật, mà là hai. Trước hết, trích dẫn sách Đệ Nhị Luật, Ngài nói: “Ngươi phải yêu mến Chúa, Đức Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và trí khôn”. Và, Ngài lại tiếp: “Đó là điều răn lớn, giới răn thứ nhất” Nghe thế, người theo Chúa không thấy có vấn đề gì để phản chống. Nên, Ngài tiếp: “Thứ đến, cũng giống điều ấy: ngươi phải yêu mến người đồng loại như chính mình.”(Mt 22: 38-40). Với người nghe, lời dạy trên là đòi hỏi thứ yếu. Và, ý nghĩa của cụm từ “người đồng loại” cũng hạn hẹp. Như truyện “người Samaritanô hiền” ở Tin Mừng Luca, Chúa cho thấy người đồng loại là ai. Người ấy, khác với ý của Ngài nêu ra, ở đây. Hôm nay. Hôm nay, bận tâm của Chúa là về con người, chứ không chỉ về kính thờ Đức Chúa như được tỏ bày ở bài đọc 1, sách Xuất Hành. Nơi sách này, lòng xót thương, thiện cảm được chứng tỏ qua thái độ cho khách lạ ngụ cư, biết thương yêu bà mẹ goá, với con côi: “Nếu ngươi ức hiếp nó, và nó kêu oán lên Ta, ắt Ta sẽ nghe tiếng nó kêu cứu.” (Xh 22: 21). Điều Chúa nói, tuân giữ lề luật ở Cựu Ước thôi, chưa đủ. Chúa nối kết hai giới răn chung làm một, không tách rời. Như Tân Ước quả quyết: ta không thể nói mến Chúa mà lại không yêu người anh người chị của mình. Bởi, không thể chỉ nói tiếng yêu thôi là đủ. Mà còn phải tiến xa hơn. Không thể đến với Chúa ngang qua người khác. Nhưng, tìm đến và yêu Chúa nơi họ, như đã viết: “Những gì các ngươi làm cho người anh em hèn mọn này, là các ngươi làm cho chính mình Ta”(Mt 25: 40) Như đã rõ, Đức Giê-su đồng hoá Ngài với người đói khát, trần trưồng. Kẻ ốm đau/bệnh tật và các tội phạm trong lao tù (bất kể tù về tội gì). Và, Chúa tự đồng hoá với những ai đang cần đến tình thương yêu và lòng thương xót. Khi xưa, Ngài thương xót người phong cùi. Thì nay, Ngài thương người bệnh Liệt kháng, rượu chè, ma tuý, vô gia cư, và người bị ruồng bỏ. Cả, lớp địch thù, luôn đe doạ, nữa. Giới răn yêu Chúa và mến người đồng loại, thật ra không phải là giới răn duy nhất, đích thực. Yêu thương mến mộ, không là thương yêu/mộ mến nếu việc ấy không hoàn toàn tự do, và bộc phát. Điều Chúa đề nghị, không chỉ là giới răn hoặc luật lệ qui định, nhưng là trọn vẹn phương cách sống cuộc đời mình đang sống; và, sống với mọi người, mà ta thường tương giao. Thật ra, chỉ là giới răn duy nhất nhưng gồm hai việc, không tách rời. Cụm từ chính, vẫn là “tình thương”. Về tình thương, thực ra trong đó có ba mối tình: tình Chúa, tình người và tình mình. Cuối cùng, tình Chúa là cội nguồn của sự sống, muôn người. Luôn đến trước. Sau đó, mới là tình người. Đến rất tự nhiên. Tự nhiên, vì là nơi chốn Chúa ngự. Và bởi, người khác là đối tượng của tình Chúa. Nên, họ còn là đối tượng của tình mình, nữa. Và sau cùng, mới là tình mình. Như thế, mình cũng đáng được thương. Thật lạ, nếu tháp đặt các tình này cách hữu hiệu, có lẽ cũng nên thay đổi thứ tự, cho chuẩn: tình mình đi trước, tiếp đến là tình người và cuối cùng, là tình Chúa. Theo cách thức nào đó, tình căn bản nhất vẫn là tình mình. Bởi, như Chúa nói ở trình thuật: “Hãy yêu người đồng loại, như chính mình.” Nghe vậy , có người sẽ nghĩ: đây là giới răn không cần thiết và cũng mâu thuẫn nữa , bởi, ai mà chẳng yêu chính mình. Nghĩ về mình và lo cho mình. Đằng khác, rất nhiều lần ta vẫn được dạy rằng: không nên tự ái, ích kỷ. Không nên chỉ biết có mình thôi. Vì vậy cũng nhiều người còn tự ghét mình. Ghét cái “tôi đáng ghét” hoặc, không tự tin. Và ngược lại cũng có nhiều người chỉ tìm cách làm đẹp bề ngoài của mình, bỏ ra quá nhiều tiền của cho quần áo, son phấn, ảnh hình làm kỷ niệm. Chả thế mà kỹ nghệ thẩm mỹ tốn hàng tỷ bạc, chỉ để giúp ta tô đẹp chính mình. Nhiều người còn chạy theo biểu tượng, người mẫu để chứng tỏ là mình “đạt”. Chứng tỏ rằng, mình đang sống ở thành thị. Mua đồ hàng hiệu qua xe cộ, thời trang, đồ dùng. Nhất nhất, được chọn lựa cẩn thận để diện mạo của mình khá hơn mặt thật, của chính mình. Nhưng thật sự, là chính họ đang lo sợ, ở trong lòng. Tại sao ta phải yêu chính mình? Vì, nếu không yêu thương chính mình, thì khó mà thương nguời khác được. Nếu không thương mình, thì ta sẽ không ưu tư là không biết người khác có thương mình không. Hoặc, quá lo cho ngoại hình của mình, để người khác chú ý, thương yêu. Đây mới là vấn đề. Vấn đề là, ngày nay ta quá chú trọng đến cá nhân. Quá tự do. Quá lo lắng về mình. Chẳng đoái hoài gì đến người khác. Và, điều này ảnh hưởng lên cách hành xử của ta trong cộng đoàn. Phải nên hiểu yêu thương chính mình, là chấp nhận những gì mình đã có, từ khi sinh. Cả đặc điểm, lẫn nhược điểm, hoặc cá tính. Cả tính xấu của mình. Chấp nhận mình nhưng không phải là không sẵn sàng đổi thay những tính xấu ấy mà không biết lắng nghe những ý kiến đóng góp tích của của người khác. Cũng không phải là cứ khư khư giữ lấy cái, mà đôi khi ‘đáng ghét’ của mình. Ở đây là một khi đã chấp nhận như vậy thì yêu chính mình, biết đổi thay và không ngại ngần khi người khác nghĩ về mình. Như thế ta lại càng có nhiều thì giờ, hầu lo cho người khác và để ý đến nhu cầu của người khác. Và ta sẽ có tự do để đến với người khác cùng bận tâm đến an lành của người khác. Có như thế, ta mới bắt đầu biết yêu thương người khác, như yêu mình. Và cuối cùng, là tình Chúa. Nếu chỉ biết nói “Lạy Chúa, con yêu Chúa.”, thôi, là điều dễ làm nhất trên trần gian. Cái khó, là dám nói yêu Chúa, bằng hành động. Khó, là khi mình chẳng có kinh nghiệm gì về yêu đương và đương yêu. Vì có kinh nghiệm, mình mới thấy là Chúa đang hiện diện trong các kinh nghiệm về yêu thương, của mình. Như thánh Gio-an nói: “Nơi nào có tình thương yêu, ở đó có Chúa.” Có như thế thì giới răn Chúa đưa ra mới giúp ta đi vào hiện thực. Có như thế, ta mới biết rõ khi có người thực sự yêu ta, Vì chính lúc ấy đích thực là ta đang có kinh nghiệm về tình Chúa thương ta. Bởi, tình yêu thực sự là cách thức chứng tỏ Chúa đang hiện hữu. Với con người. Rất nhiều lần, Chúa chứng tỏ Ngài thương yêu ta, ngang qua những người đến với ta, trong đời. Chúa thương ta, là khi người khác đang có lòng yêu thương đối với ta. Và ta chỉ dám nói mình yêu thương Chúa khi ta biết yêu thương người khác. Cuối cùng, không phải có ba thứ tình, mà là duy nhất chỉ có một mà thôi. Thêm nữa, điều nên nói ở đây, là: tình yêu không nhất thiết phải là thứ tình đầy cảm xúc. Lãng mạn. Tình yêu, như được nói đến ở bài đọc 1, là có mọi người dự phần. Có sự tôn kính, rất sâu sắc. Tình đó, ngang qua cả đến những người đang hành xử tồi tệ, chỉ muốn hại mình. Đây là thứ tình khát khao mà mọi người đều trải nghiệm về cái tốt đẹp nhất, đối với họ. Đây là cách thức có liên quan đến tất cả mọi người để giúp họ trở nên người biết yêu thương, chăm sóc và giùm giúp. Để yêu nhiều hơn.Yêu mình. Yêu người. Và yêu Chúa. Bài đọc 2, thánh Phaol-lô nói với giáo đoàn Thessalonika:”Anh chị em biết đấy, khi ở với anh chị em, chúng tôi đã sống thế nào để mưu ích cho anh chị em. Còn anh chị em, anh chị em đã bắt chước chúng tôi và noi gương Chúa.(1Th 1: 5). Đây là cốt lõi của việc tông đồ, rao giảng Tin Mừng của Chúa. Cốt lõi, không ở việc giúp họ trở lại Đạo. Thành người Công giáo. Nhưng, là dẫn dắt họ tìm đến với Chúa, Đấng yêu thương họ. Tìm gặp Chúa, qua yêu thương những người sống chung quanh. Trong nhận thức như thế, ta hát lên bài ca đầy phấn chấn, thuở nào:
“Đừng sợ bạn ơi, hãy đứng thẳng lên. Cuộc đời đang dang tay đón ta bằng yêu thương ta đi xoá tan mọi căm hờn…” (Lê Hựu Hà – Bài Ca Tuổi Trẻ)
Đừng sợ. Nhưng cứ yêu. Yêu mình. Yêu người. Yêu Chúa. Vì, tình yêu Thiên Chúa luôn đến yêu ta mãi mãi.
Chúa Nhật 31 Thường Niên Năm A “Nhưng cúi đầu, trước vẻ ngọc trang nghiêm.” Ta khẩn cầu từng sớm lại từng đêm, (dẫn từ thơ Đinh Hùng) Mt 23: 1-12 Vẻ ngọc trang nghiêm, có là Thơ? Là, Lời dạy của Đức Chúa ở trình thuật, rất hôm nay? Trình thuật hôm nay, thánh sử Mát-thêu cho thấy có khác biệt giữa Đức Giê-su và các nhà lãnh đạo tôn giáo, thời của Chúa. Là, khác biệt hay tranh chấp, của giai cấp lãnh đạo, rất cứng đầu. Có đâu như dân đen thấp hèn, rày phấn khởi. Dân con thấp hèn nay phấn khởi đi theo Chúa, khi được nghe Chúa nói, và đã làm. Bài đọc 1, tiên tri Ma-La-Ki quả quyết: “Các ngươi đã trệch đường; đã làm cho nhiều người lảo đảo trên đường Luật dạy. Còn Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi đáng khinh rẻ, hèn mạt trước mặt dân, vì các ngươi không tuân giữ đường lối của Ta; hay nể vì, khi áp dụng Luật.”(Ma 2: 8) Trình thuật hôm nay, Đức Giê-su không đả kích nhóm Pha-ri-sêu/Kinh sư, hoặc Biệt phái, nào cả. Bởi, nhiều người trong họ, là thủ lĩnh được kính trọng, nể vì. Chúa lên án, thái độ kiêu căng ngạo mạn khi họ suy tư - hành xử, đã khiến kẻ thấp hèn nghĩ là họ đáng bị chê trách. Điều dễ chê trách, không là sự thật về niềm tin mà Biệt Phái/Kinh Sư đưa ra, cho mọi người. Nhưng, là chê lối hành xử bêu xấu, kháng nghịch lời của Chúa. Nói cách khác, họ khuyên răn một đằng, nhưng làm một nẻo. Tiền hậu bất nhất. Chẳng sống như người tốt lành, hầu làm gương. Thêm nữa, điều đáng trách ở nơi các nhà lãnh đạo tôn giáo, chính trị lẫn gia đình, là: cứ áp đặt ràng buộc nặng nề lên người khác, trong khi chính họ lại chẳng ra tay phụ giúp mọi người chu toàn, thi hành luật. Điều đáng chê hơn, là: động thái vẫn hưởng lợi, cứ “ăn trên ngồi chốc”, tưởng rằng thành quả người người đạt được, là do công lênh mình bỏ ra. Bởi thế nên, họ nghĩ mình đáng hưởng công lênh. Đáng được mọi người thuần phục. Đáng hưởng mọi vinh hoa phú quý. Đáng được hưởng nhiều cơm áo/bạc tiền. Do có thái độ chỉ biết hưởng thụ, nên lớp “trưởng giả”/đứng ở trên, còn nghĩ: mình đáng được thần dân bên dưới tặng ban mọi tước hiệu, thật xứng đáng. Họ nghĩ: mình là vua quan/lãnh chúa, những “đức ngài”. Nghĩ mình là thầy, là cha đáng được hưởng phúc đức do cha ông mình để lại. Họ mua mọi danh chức/tước hiệu, bằng tiền bạc. Nhưng, lại phản nghịch lời Chúa dạy ban. Điều, Chúa đưa ra hôm nay: chính Ngài là cội nguồn sự sống. Chỉ mình Ngài, mới thích đáng với thẩm quyền và danh xưng/tên gọi “Ngài” hoặc “Đức Chúa”, mà thôi. Còn lại, ta sẽ là người đáng kính nể nếu ta biết phục vụ anh em mình, cho phải phép. Quả thật, ‘áo dòng không làm nên thày tu’. Bởi đâu phải,cứ có người cầm vương trượng, gậy gộc đi trước mình, là đã biểu hiện là mình làm lớn. Cũng chẳng phải, cứ có người nhường bước, tránh chỗ để mình đi, tức: mình là đấng quyền cao chức trọng! Cũng chẳng là bậc vị vọng, nếu được lên xe xuống ngựa rất đủng đỉnh, được kẻ đưa người đón. Hoặc là đã lên ngôi nếu thường xuyên xuất hiện trên “đài”. Chỉ là người cao trọng, nếu biết sử dụng tài ba/năng khiếu Chúa tặng, hầu làm lợi cho dân lành, sống chung quanh. Làm theo lời Chúa dạy, vẫn chưa đủ để chứng tỏ mình là người cao trọng, hợp lẽ. Hơn nữa, điều chính yếu mà trình thuật hôm nay đưa ra, là ở chỗ: khi xưa hàng giáo sĩ Do Thái thường chỉ biết “chỉ tay năm ngón” sai khiến hết mọi người. Họ tưởng rằng, Lời Chúa dạy là dạy ai khác, chứ đâu phải chính họ. Nên, họ chẳng lý gì đến việc tự kiểm. Hoặc cũng chẳng màng gì đến việc sám hối. Bài đọc 2, thánh Phao-lô đề cập đến kinh nghiệm chính bản thân. Về các lãnh tụ tôn giáo, thánh nhân nói: “Không khác gì người mẹ nuôi con dại ấp ủ con mình, chúng tôi thật lòng quý mến anh chị em.” không chỉ qua Tin Mừng -bởi điều đó không khó- nhưng bằng cả mạng sống của chúng tôi. (1Th 2: 7). Không như nhóm Pharisêu/Biệt phái, thánh nhân chẳng muốn thành gánh nặng cho ai. Nhưng, chỉ muốn Tin Mừng trở nên “quyền uy sống động”, với kẻ tin. Vì, Tin Mừng giải phóng mọi người. Giải toả gánh nặng của muôn dân. Thánh nhân còn xác định: “Bởi, anh chị em đã chịu lấy Lời của Thiên Chúa từ chúng tôi; anh chị em đã đón nhận, không phải như lời người phàm, nhưng như lời của Thiên Chúa.” (1Th 2: 13) Với bậc phụ huynh, linh mục và giáo chức, cũng phải như thế. Thật ra, ta chỉ là kênh lạch thông chuyển và đón nhận Lời Sự Thật. Ta vẫn chưa nắm vững được Lời.Ta mới chỉ là người quản lý, giữ gìn Lời, mà thôi. Quyền uy đích thực, chính là quyền của Lời. Quyền của Sự Thật. Của Tình Thương. Những người được ta phục vụ, cũng phải nắm vững rằng: những gì ta thông chuyển, không xuất phát do tự chính nơi ta. Mà, theo ngôn từ của thánh Phao-lô, ta chỉ là máng thông, rất dễ bể. Chính vì thế, đừng ngạo mạn cho rằng mình nắm vững chân lý, của Đức Chúa. Ngược lại, ta chỉ là người san sẻ mọi điều tốt lành cho người anh người chị, thế thôi. Hãy nhớ rằng dù có là các đấng bậc vị vọng đ nữa như giáo chức, phụ huynh, thì cũng có những khía cạnh yếu mềm, dễ thương tổn. Thế nên, phải luôn đề cao cảnh giác. Trong chiều hướng ấy, tự thân Hội thánh cũng biết mình chẳng nên kỳ vọng dân con/đấng bậc sống hoàn thiện. Vì trong quá khứ, các vị ấy đã sống xa cách/tách rời với dân con bình thường. Họ chuyên ở trên cao, xa lánh mọi giới thấp hèn, ở dưới. Trong khi thực chất sự việc, vẫn cứ thấy toàn những va chạm, gương xấu, vỡ đổ. Gương xấu và tai tiếng, cũng xảy đến với cả với phụ huynh, lẫn nhà giáo. Đó là chưa kể, chính trị gia, giới hành nghề “chuyên ăn trên ngồi chốc”. Vị nào cũng muốn có hào quang chiếu trên đầu, nhưng thực tế xử sự rất thậm tệ. Và, điều Chúa thực sự chê trách, chính là thái độ giả hình mà ta hay mắc phải. Thực tế là, càng nghĩ chuyện để được ăn trên ngồi chốc, ta càng dễ bị khuynh đảo, đánh gục. Chỉ khi nào, biết hạ mình phục vụ người anh người chị như người một nhà, lúc ấy ta sẽ được cảm thông, hỗ trợ và hợp tác, đưa dẫn mọi người đến gần với Chúa. Và khi ấy thì ta chẳng còn sợ gì nỗi cô đơn, lạnh lẽo dù có ở trên cao. Là con cái Chúa, ta hiểu được tâm trạng yếu mềm của bậc cha mẹ, người lớn. Là thần dân, ta cũng thông cảm cho các nhược điểm của các vị lãnh đạo. Chính vì có nhược điểm nên họ mới càng biểu lộ tính nóng nảy bực bõ, bằng nhiều hình thức. Chí ít, là chủ trương khắt khe với người, nhưng lại dễ dãi với chính mình. Là thành viên cộng đoàn tình thương, ta vẫn có nhiều trách nhiệm để chu toàn. Trách nhiệm khác nhau. Có thứ đòi hỏi nhiều. Có loại cần năng khiếu, kỹ năng đặc biệt. Tuy nhiên hãy nhớ rằng quan trọng hơn cả vẫn là phục vụ cho nhu cầu của người anh em mình, trong cộng đoàn. Có thể, vì chức vụ đòi hỏi, đôi khi ta cũng cần đến tài xế, cần lên xe xuống ngựa. Nhưng, không phải để vênh vang, thụ hưởng. Mà phải quan niệm rằng đó chỉ là phương tiện cần thiết để hoàn thành chức năng, cùng sứ vụ. Để phục vụ cho nhiều người mà thôi. Trình thuật hôm nay, gửi đến với hết mọi người. Kêu gọi tất cả, sống xứng đáng với phẩm cách, cùng chức năng. Không nên lấy đó làm điều vênh vang, nổi bật cho chính mình mà khắt khe với mọi người. Cũng chẳng nên đòi hỏi người khác kính trọng mình, vì mình làm lớn. Nhưng là kính trọng lẫn nhau. Coi nhau như người có quyền lợi đồng đều. Ngang cùngmột phẩm trật. Trong mọi trường hợp, hãy luôn ước vọng phục vụ cho thật nhiều. San sẻ hết mọi thứ. Để mọi người đều có lợi ngang nhau. Trong tinh thần đó, hãy cùng nhau cất tiếng cao, ta vui hát. Hát lời người xưa, vẫn khuyến khích: “Xe lăn êm êm dưới ánh trăng vang. Môi ai say sưa hé mấy cung đàn Ca lên cho tan nỗi niềm cay đắng. Vui ca lên đi trong chiếc xe già Sau khi men say lắng mấy tơ đàn. Hồn ta vụt bước lên trời xanh lam.” (Trọng Khương – Bánh xe lãng tử) Cứ vui ca lên đi, dù đời ta có là chiếc xe già. Xe lãng đãng cả một đời. Vẫn cứ ca. Ca mà khẩn cầu. Để rồi, sẽ không dùng “bàn chân cao ngạo, dẫm lên thơ”. Lên cả Lời dặn dò, của Đức Chúa. Về tình thương. Về cuộc đời. “Như gã si tình...”
Mc 8:27-35 Với nhà Đạo, yêu nhau không chỉ để “cho bõ lúc phong trần”, mà thôi. Bõ hay không, ta vẫn cứ yêu. Yêu, cả khi người ấy giã từ trần thế, chốn lặng yên. Yêu, cả khi bạn mình ra đi, thành người thiên cổ, chốn hoằng thiên. Hoằng thiên, là chốn im ắng dành cho bậc hiển thánh/các đẳng, được kể ở trình thuật, thật hôm nay. Trình thuật hôm nay, ghi đậm đôi điều giúp ta suy tư/cảm nghiệm về nỗi chết. Về, thái độ trực diện sẵn có với nỗi chết, sẽ xảy đến. Đúng hơn, là cảm nghiệm từng nhớ Lời Chúa, khi xưa nói: ”Ngài sẽ đến vào ban đêm, như kẻ trộm.” Và, vào lúc Ngài đến, người người chắc chẳng muốn cửa gài then đóng, với mình. Và cũng đâu muốn nghe lời Ngài bảo ban: “Quả thật, ta chẳng biết người là ai!” Ngài nói thế, là muốn cảnh giác mọi người: Hãy chuẩn bị mà ra đi gặp gỡ Chúa, vào mọi lúc. Tin Mừng thánh Máccô hôm nay, nói đến tương quan vẫn có giữa Đức Chúa và môn đệ. Môn đệ Ngài, hiểu rõ nhiều điều Thầy mặc khải nhận lĩnh lời Thầy, đủ chi tiết. Và, không như, nhóm Kinh Sư Biệt Phái chỉ nói nhiều, các thánh còn mục kích bằng mắt thịt sự việc Thầy chữa lành, nhiều bệnh nhân. Bằng vào việc Thầy trừ quỷ, là Thầy đã tha thứ hết lỗi lầm, của con dân. Thành thử, khi nghe hỏi, đồ đệ dấu yêu đã hiểu được sứ mạng của Thầy, nên dám thưa: “Thầy là Đức Kitô, Đấng Mêsia đã đến!” Thoạt nghe Thầy cấm đoán không cho phổ biến cho mọi người biết, nhất là đám Biệt Phái, rất Kinh sư, đồ đệ Chúa thấy như gặp phải “bom nổ chậm”. Đó là lý do, Phê-rô thánh nhân kéo Thầy ra chỗ riêng tư mà nói nhỏ. Có đâu ngờ, Thầy ban cho mặc khải khác: “Xa-tăng, hãy lui ra sau!, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa.” (Mt 8: 33) Tư tưởng của Thiên Chúa, Phê-rô đâu nào dám phá bỏ. Duy có điều mà thánh nhân chưa hiểu, đó là ý định của Chúa muốn mọi dân con/đồ đệ cũng theo hệt đường lối của Ngài. Tức, cũng bị người đời phỉ báng/chối bỏ. Lại còn bị hành hạ, kỳ thị đến nỗi chết. Chính vì thế, Thầy nói rõ: “Ai cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn ai liều mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, sẽ cứu được mạng sống ấy”. (Mt 8: 35). Người quyết theo Chúa đến cùng, ắt đều nhớ tâm đến điều khó quên, đó là: theo Chúa, là bỏ lại tất cả, mất tất cả không còn gì mang theo khi đi vào nỗi chết. Tựa như Thầy mình từng nói với Chúa Cha: “Xin Cha cất khỏi chén đắng này, nhưng một theo ý Cha, mà thôi.” (Mt 26: 39). Về thiên tính Mêsia Đấng Cứu Độ, lời tiên tri nơi bài đọc 1 đã thành hiện thực, khi ngôn sứ nói: “Đây là Thiên Chúa, chúng ta từng trông đợi, và ta đã được Người thương yêu cứu độ.” (Is 25: 9). Tiên tri, chính là lời mà ngôn sứ đã nói trước cả khi ta còn sống, hay khi ta theo Chúa đi vào nỗi chết: “Người là Đức Chúa, Đấng ta trông đợi. Ta cùng hoan hỉ mừng vui, bởi được Người cứu vớt.” (Is 25: 9). Bài đọc 2, thánh Phao-lô đã lại xác quyết điều ấy trong thư thánh nhân gửi đến giáo đoàn Corinthô: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lời chúng tôi rao truyền ra như rỗng tuếch.” (1Cr 15; 14) và những gì xảy đến trên đồi Calvary, sẽ là kết đoạn của mọi sự. Không có sống lại, thì Đức Kitô sẽ đi vào chốn hư vô. Và, cuộc sống của ta sẽ ra vô nghĩa. Thêm vào đó, thánh nhân còn quả quyết: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy từ cõi chết, thì lòng tin của anh em nên hão huyền; và anh em vẫn còn sống trong lỗi phạm.” (1Cr 15: 17). Nói rõ hơn, sự sống lại của Đức Kitô đã đem lại ý nghĩa sống còn tự tại cho cuộc đời của chính ta. Cho các giá trị mà ta quyết sống vì nó. Bởi, sống một cuộc đời mà không có sự thật hoặc tình thương yêu, thì cũng chỉ là chết rồi, dù còn đang thở. Và, chỉ có Đức Chúa sống động, mới làm cho Sự Thật và Tình Thương Yêu nên hiện thực. Hôm nay, là ngày nối kết đoàn tụ giữa những người tin vào Đức Kitô, các Kitô khác. Hôm nay, là ngày ta mừng kính sự Hiệp thông của các thánh. Các đấng bậc, rất vinh hiển trở thành thánh nhân. Ta cũng trở thành thánh nhân, ngay khi ta nhận lãnh ơn thanh tẩy, trong Chúa. Hiệp thông cùng các thánh, ta được tham dự vào ba phần gồm các thánh: thứ nhất gồm các vị mà ta mừng kính hôm qua, bậc hiển thánh đi trước chúng ta. Nay, được vui hưởng sự vinh quang hạnh phúc diện kiến nhan thánh Chúa. Thứ đến, là chính chúng ta, những người còn đang góp phần xây dựng hành trình thương yêu và phục vụ. Những người làm hết sức mình để sống đích thực lời khuyên của Tin Mừng, Chúa để lại. Và thứ ba, là các vị mà chúng ta hân hạnh mừng kính ngày hôm nay. Các vị này, đã khuất dạng nhưng chưa sẵn sàng diện kiến Đức Chúa. Còn phải trải qua một tiến trình, thanh lọc. Bằng vào lời cầu của các đấng bậc thuộc vế thứ nhất, các ngài có thể can thiệp cầu bàu cho những ai còn ở dưới thế trần, và cả những vị đã khuất bóng, nhưng trông đợi được đến với Chúa. Và, đó là lý do khiến chúng ta tụ tập tại đây, hôm nay. Bởi trong số những vị đã quá vãng, có cả bạn bè/người thân của ta. Có cả, những vị đang cần vào lời nguyện cầu của ta, nữa. Bởi vào ngày “N”, các vị sẽ làm trung gian, can thiệp để ta được toại nguyện mà ở với Chúa, chốn miên trường. Mãi mãi. Vì lý do đó, ta dâng lên Cha lời nguyện cầu ý nghĩa rút từ nội dung của Thánh lễ hôm nay, rằng: “Lạy Chúa, là đấng tạo Dựng và Cứu độ chúng con, nhờ vào quyền năng của Đức Kitô đã chiến thắng sự chết và trở về cùng Chúa trong vinh quang, xin cho các vị đã đi trước chúng con trong niềm tin vào Chúa được sẻ san sự vinh quang của ngài và vui hưởng thị kiến vinh quang ấy, bây giờ và mãi mãi.” Trong nguyện cầu, ta cùng gửi tâm tình mình về các Đấng đi trước, qua câu hát, rằng:
ôm ta, trong cõi mơ hồ giã từ đời bằng hơi gió hoá hồn theo cánh mây xa. Ta đi bằng một sợi tơ Lung linh luồn trong khói mờ Ta treo bằng vào Tình Thu Thấy mình trôi loãng trăng hoà. Ta rơi bằng một đời hoa Tan theo với ngàn cánh úa Không ngờ hồn hoà Vào làn phấn bướm xanh lờ… (ơ ớ).” (Phạm Duy – Mộng du)
“Mở lòng, tan theo ngàn cánh úa. Để, hồn hoà vào làn phấn bướm”, mà tin chắc có linh hồn các Đấng, các Đẳng, ngày hôm nay. Trong mừng kính kỷ niệm lễ ngày các Đấng đã ra đi, xin một lòng nay cam kết: “Yêu nhau cho bõ lúc phong trần. Nhịp đời lên mạnh, hồn ta đẹp”. Đẹp, chốn Nước Trời, đời hiệp nhất, có các thánh và các Đẳng. Có cả chúng ta. Rất phong trần. Chúa Nhật 32 Thường Niên Năm A “Chia tay chẳng biết phương nào tìm quê” Mt 25: 1-13 (dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương) Kinh đô của ước thề, nay là kinh thành Ngài đã hứa. Chúa hứa, sẽ lại về ngày quang lâm ấy. Ngày mà muôn muôn người đợi chờ, vẫn hôm nay. Có thể nói, ngay từ buổi đầu đời, Hội thánh vẫn đợi chờ ngày Chúa tái lâm, lần chung cuộc. Chuyện này, các thánh vẫn hy vọng sẽ được gặp trong đời mình. Có vị, lại nghĩ ngày ấy sẽ chỉ xảy đến, khi ta sẵn sàng. Sẵn sàng và chuẩn bị, vẫn là điều Chúa nhắn nhủ, ở trình thuật. Trình thuật Chúa kể hôm nay, có những ảnh hình bóng bảy về Nước Thiên Chúa, mà người Do Thái ở Palestin, rất nghe quen. Những ảnh hình tiệc cưới ở thôn làng bé nhỏ. Có những tập tục thân thương, thường dễ nhớ. Tập tục đơn giản của những cô phù dâu, luôn ngong ngóng không biết giờ nào chú rể tới, mà tiếp rước. Ảnh hình về hôn lễ, là truyền thống người quê muốn diễn tả quan hệ giữa Đức Chúa với dân Ngài. Tương quan – hình ảnh, là ý niệm Chúa dẫn đến mỗi khi đề cập. Như, khi được hỏi: sao môn đồ Ngài không như đệ tử Gio-an Tiền Hô, không chịu kiêng cữ, Chúa đáp ngay: “Chẳng lẽ khách dự tiệc cưới lại than khóc, khi chú rể còn ở với họ sao?” (Mt 9: 15). Và, mới đây, Chúa cũng kể về tiệc cưới con ông chủ. Như thế, sinh hoạt chung quanh tiệc cưới hỏi, đã đi vào lòng người dân quê ở Do Thái. Người trinh nữ ở đây, tượng trưng cho đồ đệ của Chúa, luôn mong chờ ngày Ngài đến. Dựa trên những gì xảy đến mãi về sau, 5 người trong đó rất khôn, số còn lại ra như khờ dại. Khôn ngoan Chúa nói ở đây, là có được những bước thận trọng, để làm những gì cần làm, hầu giáp mặt Thầy mình. Vấn đề là, chú rể chờ mãi vẫn chưa đến. Lúc đầu, mọi người cứ nghĩ Chúa Quang Lâm lần nhì, vẫn chưa xảy đến. Bởi thế nên, cả người khôn lẫn kẻ dại, vẫn cứ “thiếp đi, rồi ngủ cả”. Bởi thế nên, vấn đề không phải là hoàn toàn tỉnh thức vào mọi lúc, nhưng luôn sẵn sàng khi thời tới, mà đáp ứng. Kịp đến khi, có tiếng hô to: “Chú rể kia rồi, ra mà đón!” (Mt 25: 6), mới thật ngạc nhiên. Quả thật, Thiên Chúa của ta, là Đức Chúa tạo ngạc nhiên. Ta không thể nào biết trước: Ngài đến vào lúc nào và theo cách thế nào. Với một số người, đó là lời loan báo sau bao ngày mỏi mòn, chờ đợi. Với người khác thì lời loan báo trên tạo ngạc nhiên cũng như cảnh giác. Với những người biết chuẩn bị chai dầu - luôn hành thiện, thì tiếng hô kia là thông tin nhằm lấp đầy tâm hồn họ bằng niềm vui, đem đến báo trước. Những người, được thánh Phao-lô diễn tả, như: “với tôi, sống là Đức Ki-tô, và chết là một mối lợi…tôi không biết phải chọn đàng nào. Vì tôi bị giằng co giữa hai đàng: ao ước của tôi là ra đi để được ở với Đức Ki-tô, điều này tốt hơn bội phần.”(Pl 1: 23) Với người lãng phí, tiêu hoang nguyên vật liệu, thì thông tin về việc Chúa sẽ quang lâm, chỉ làm cho họ thêm kinh hãi. Sầu buồn. Đọc dụ ngôn, có lẽ có người cho rằng: các cô phù dâu khôn ngoan, là người ích kỷ, vì họ khước từ không phụ giúp những người thiếu chuẩn bị, gặp nghịch cảnh. Nhưng, dụ ngôn Chúa kể, là những sinh hoạt rút từ cuộc sống, rất thông thường, hằng ngày. Và, Chúa chỉ tập trung vào chuyện sẵn sàng chờ đón. Các chi tiết khác, không là thành phần của vấn đề Chúa đặt ra. Điểm chính yếu mà câu truyện dụ ngôn muốn nhấn mạnh, là thái độ sẵn sàng gặp Đức Chúa. Đây, chỉ là thứ gì đó cuối cùng thuộc về trách nhiệm của mỗi người chúng ta, thôi. Không ai có thể nói tiếng “Xin vâng!” với Chúa, thay cho mình. Khi các cô phù dâu ra đi tìm mua dầu ở cửa hàng, tức là tự mình để mất thời gian. Rất phung phí. Rất dại khờ. Trong khi đó, các cô khôn ngoan luôn ở tư thế “sẵn sàng”, nên được vào tham dự tiệc. Điều này chứng tỏ: tất cả mọi người đều được mời đến dự, nhưng không phải là tất đều được vào trong để dự. Kẻ được gọi thì nhiều, nhưng được chọn thì ít, là như thế. Điều này, càng không thể do có bất công, kỳ thị từ phía chàng rể. Nhưng đích thực, là do có sự chậm trễ trong phong thái đáp ứng với lời mời. “Cửa đóng lại”, có nghĩa: việc đến với Chúa, không là chuyện máy móc tự động, khi ta đã chịu thanh tẩy. Không là, quà tặng nhưng không. Và, đây cũng là lời cảnh báo, trong bài đọc. “Thưa Ngài, xin mở cửa cho chúng tôi với!” và, lời đáp trả: “Tôi bảo thật. Tôi chẳng biết các cô là ai”, nói lên trạng thái “khi tỉnh giấc, thì đã muộn” của những người không ở tư thế “đề cao cảnh giác”. Biết sẵn sàng là sẵn sàng gặp gỡ Chúa. Sẵn sàng đón nhận Lời Chúa. Rất trọn vẹn. Đón nhận, để rồi đưa Lời Chúa vào với cuộc sống. Rất thực tế. Bài đọc 1, nói lên tâm tình chiêm ngưỡng Đức Khôn ngoan, sáng chói. Không tàn tạ. “Ai, từ sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan, thì không nhọc nhằn vất vả. Sẽ thấy Đức Khôn ngoan ngồi ngay trước cửa”. Người khôn, là người không cần chờ đến tương lai, mới hành động. Nhưng, quyết chí đưa Lời Chúa vào cuộc sống ngay ngày hôm nay. Nhiều người vẫn dành ưu tiên cho việc kiếm ăn, kiếm tiền, hơn kiếm tìm Chúa, hơn sống Lời Chúa. Có lẽ, những người này không khác các cô phù dâu dại khờ, ở đây. Người thực khôn, biết xây dựng cuộc sống mình theo đường hướng Chúa, Đấng là Sự Thật và là Sự Sống, đã chỉ dẫn. Xây dựng cuộc sống, ở đây. Ngay bây giờ. Người như thế, đã hiểu biết và thực thi áp dụng chỉ chương trình nào khả dĩ đảm bảo mọi hoan lạc, hạnh phúc. Ngay lập tức. Còn lại, chỉ tuỳ thuộc vào tương lai mai ngày. Người khôn ngoan, là người sống dưới thị kiến, ánh sáng của Đức Kitô. Người như thế, vẫn gặp gỡ Ngài trong đời thường. Ở mọi nơi. Nơi dân tình, họ vẫn gặp. Nơi biến cố, xảy ra cùng khắp. Ở cảnh tình cuộc sống, của chính mình. Với những người như thế, Giê-su Đức Chúa sẽ không là ai xa lạ, ngạc nhiên. Vì khi nghe được tiếng hô to: “Chú rể tới rồi, ra mà đón!”, thì đã sẵn sàng, ra gặp mặt. Vì họ đã quen gặp gỡ ngài rồi. Gặp gỡ Ngài, không là chuyện may rủi, đánh bạc hoặc chỉ lo xưng thú mọi lỗi vào giờ phút cuối, trên giường bệnh lúc chờ chết. Tuy nhiên rất nhiều người đâu có chết trên giường mình. Vấn đề là, ta hoạch định thế nào cho giờ phút gặp gỡ Ngài trong mỗi ngày, và mọi ngày trong đời mình. Và thiết tưởng, không có phương cách nào hay hơn để chuẩn bị cho lời mời gọi cuối cùng theo hai cách sau. Trước hết, là đưa Lời Chúa vào trong đầu của ta và mọi người. Thứ đến là học hỏi cách thức bỏ thì giờ trong ngày và mỗi ngày để gần gũi Chúa. Để ta nói được rằng: “Lúc nào Chúa cũng ở bên tôi!”. Để thực hiện điều ấy, có hai câu kinh ngắn ngủi, khả dĩ giúp mọi người nguyện cầu vào mọi lúc. Trong mọi ngày. Đó là: “Lạy Chúa, con xin dâng Chúa mỗi hơi thở, hành vi, ngôn ngữ, và ý định của con để theo ý Chúa, phục vụ Chúa, mọi ngày suốt đời con.” Và,“Lạy Chúa, xin giúp con tìm kiếm và gặp Chúa, để con biết đáp ứng mọi điều Chúa khuyên dạy, trong mỗi kinh nghiệm con từng trải, trong một ngày, suốt đời con.” Nếu các lời kinh trên đây, tạo nên lớp lụa là, vải vóc cho cuộc sống mỗi ngày của mình, thì hãy để cho “chàng rể” đến bất cứ lúc nào, vị ấy muốn. Vì ta luôn sẵn sàng. Và, thay vì gõ cửa của Ngài, ta sẽ thấy Ngài đến gõ cửa đời mình, và Ngài sẽ nói: “Này đây Ta đứng trước cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta.” (Kh 3: 20). Trong tinh thần sẵn sàng với ngày Chúa đến, ta hãy vui lên mà cất tiếng hát; hát rằng: “Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người
Ngạo nghễ, không vì ta là người Việt Nam, mà thôi. Nhưng vì, là dân con nhà Đạo ta đã sẵn sàng. Đã nghe Lời Chúa. Biết đem Lời vào cuộc đời. Và, biết sẵn sàng đón chờ ngày Chúa Quang Lâm, đến lại. Rất vinh quang. . Chúa Nhật 33 Thường Niên Năm A Tỉnh giấc thời gian có đổi màu? Mt 25: 14-30 (Dẫn từ thơ Đinh Hùng)
Tỉnh giấc, thật ra chẳng vì thời gian có đổi mầu. Nét buồn, thật sự nơi khuôn mặt anh, nay tạc những trăm năm. Trăm năm, nguyện khấn tỉnh giấc nồng, có phải vì hôm nay phụng vụ Hội thánh đi dần vào những ngày cuối? Hay, vì ta chờ ngày Chúa đến,như ý nghĩa trình thuật thánh sử, viết hôm nay. Trình thuật hôm nay, thánh Matthêu viết về công cuộc chuẩn bị cùng trông đợi, ta cần có. Cần có, để ta có thể đón rước Chúa, Vua Tình Yêu. Bài đọc 2, hôm nay có đoạn viết: “Ngày Chúa đến như như kẻ trộm vào ban đêm”. Thế nên, càng lơ là chểnh mảng, ta càng thiếu sẵn sàng mà chào đón. Bởi, như thánh Phao-lô từng viết: “Chúng ta không thuộc về đêm và tối tăm. Vậy, ta đừng ngủ mê như kẻ khác, song hãy canh thức và tỉnh táo.” (1Th 5: 6). Vậy, ta sẽ làm gì để tỉnh táo canh thức, chờ ngày Chúa đến, khi còn sớm? Bài đọc 1, đề nghị ta nên tỉnh táo và cần cù như người vợ hiền, đảm đang bởi:”nàng quý quý giá vượt xa châu ngọc”. Nàng làm việc cật lực, phần lớn là cho gia đình hoặc cho riêng mình, nhưng nàng cũng “rộng tay giùm giúp người nghèo khổ, và ra tay cứu kẻ khốn cùng.” (Cn 31: 19). Nói cách khác, giá trị của người vợ hiền đảm đang, không do nhan sắc diễm kiều, mà là ở tính khôn ngoan, biết những việc ưu tiên, cần làm trước. Cũng thế, trích đoạn Tin Mừng hôm nay đặt nặng nơi mục tiêu sinh hoạt, của chúng ta. Nói nôm na, là tài năng ta đặt nặng vào chuyện bạc tiền, vẫn tương đương với bạc ngàn bạc vạn. Vì thế, dụ ngôn mới khuyên ta nên khôn ngoan có thái độ mà xử sự đúng đắn trong thời gian từ lúc Chúa Phục sinh tới ngày Ngài đến lại. Khôn ngoan, là như người đầy tớ nọ biết dùng tiền mà Chủ trao phó để khi trở về, Chủ sẽ tín nhiệm vào tài kinh bang tế thế của mình, mà đề cao. Khôn ngoan, là như hai người đầy tớ đầu, người nhận năm quan tiền, nhưng đã biết kinh doanh, để tạo lãi. Chứ không như, người cuối hết “chỉ biết đào đất chôn giấu bạc tiền của chủ”, chẳng làm gì. Theo Bản 70, cụm từ bên tiếng Hy Lạp được dịch ra thành “làm lợi” hay “gây lời”, mang ý nghĩa trong bối cảnh của việc hồi hướng, trở về. Bởi thế nên, điều mà dụ ngôn muốn tỏ bày, là những “điều có lợi”, mà tín hữu Đức Kitô cần nhắm đến. Ở đây, chẳng liên quan gì đến đồng xu, hay bạc tiền gì hết. Sở dĩ người đầy tớ dại khờ kia chỉ biết đào lỗ chôn giấu tiền, là vì anh chỉ nghĩ đến mỗi chính mình. Chẳng dám xả thân đánh liều, vì người khác. Những người, đang còn chờ những lợi lộc do anh cố gắng tạo ra, rồi mang đến. “Sau một thời gian dài”, là nói đến khoảng cách thời gian từ ngày Chúa sống lại đến ngày Ngài Quang Lâm. Đây cũng là thời gian, để nhận biết là Vị Chủ quay về gọi tôi tớ đến mà “giao phó tài sản của ông”. Ông hài lòng với cách giải quyết của hai người tôi tớ đầu, đã gia tăng làm lợi lên gấp đôi. Như thế, cả hai đã tỏ ra biết xử sự cách lương hảo và trung tín, quyết chấp nhận hiểm nguy, chỉ lĩnh nhận một chút ít cho phần mình thôi, nên đã được chủ tín nhiệm trao cho việc lớn. Nhờ đó, cả hai đều được “hưởng sự vui mừng của vị chủ”. Nơi Vương Quốc, của Chúa. Người tôi tớ thứ ba cũng tiến đến, nhưng ngượng ngùng chỉ đưa lại một nén bạc mà chủ trao, rất hãi sợ. Nên anh nói: “Tôi biết ngài là người hà khắc, không gieo mà gặt, không vãi mà thu. Thì đây, xin ngài nhận lấy của ngài.” (Mt 25: 24). Nghe thấy thế, người chủ tỏ bày nỗi giận dữ. Bởi, nếu là người khôn ngoan, thì người tôi tớ kia lẽ đáng ra phải gửi số bạc mình nhận được nơi ngân hàng nào đó mà sinh lãi. Đằng này, anh chẳng làm lợi đến một xu. Cũng tựa như trong dụ ngôn nói về nhánh nho không cho trái, đã bị chủ ném vào lửa đỏ, để làm củi. Theo ngôn ngữ của trình thuật, thì đại ý đây nói đến tâm trạng của kẻ tin vào Đức Kitô, ở mọi thời. Là kẻ tin, như hai đầy tớ đầu, những sốt sắng đạo đức, luôn đóng góp khá nhiều thứ cho đời sống cộng đoàn dân con Đức Chúa. Họ còn là người đảm nhận trọng trách làm nhân chứng cho Tin Mừng của Chúa với thế gian. Trọng trách này, còn nguy hiểm nhiều hơn việc kinh doanh, và mậu dịch. Diễn giải Tin Mừng, thần học gia William Barclay đưa ra 4 điểm chính, để suy tư: 1) Thiên Chúa tặng ban cho mỗi người nhiều ân huệ khác nhau. Ta có thói quen thường hay ganh đua hơn thiệt với người khác, nhưng thật thì số lượng và chất lượng của ân huệ không là chuyện quan trọng. Bởi, ta được yêu cầu sử dụng trọn vẹn ân huệ mà chỉ một mình ta nhận lĩnh, là để làm lợi cho cộng đoàn, nói chung. Nếu ai ai cũng làm như thế, thì cộng đoàn ta sẽ trở nên giàu có, và phong phú. 2) Việc ta làm sẽ chẳng bao giờ hoàn thành Khi, hai người đầy tớ đầu chứng tỏ là họ đã làm lợi cho chủ, thì khi ấy, họ đâu đã vào ngay chốn nghỉ ngơi, để hưởng lạc. Trái lại, vì sự trung tín của những người này, nên họ lại còn phải nhận thêm nhiều trọng trách, nữa. Như vị chủ đã quyết:“những kẻ đã có, sẽ được cho thêm mà dư dật.” 3) Người bị xử phạt, là những người chẳng làm gì hết, cứ ngồi chơi. Người nhận chỉ một nén bạc, đâu đã làm mất vốn, ông chủ giao. Chỉ là, anh chẳng chịu lo làm gì về nén bạc ấy mà sinh lợi. Bởi, nếu anh đã có cố gắng và đã thử thời vận và dù thất bại, cũng sẽ nhận sự xót thương và tha thứ. Hình ảnh người chủ như “quan trên cứng cỏi”, là để nhấn mạnh một điều, rằng: người biết chịu khó một chút, sẽ thấy được điều Chúa quan tâm là sự thương yêu, hiểu biết và lòng xót thương của Đức Chúa. Cả đến những người tài năng kém cỏi, cũng vẫn có chút gì để trao tặng người khác, vẫn như thường. 4) Những ai đã có, còn được cho thêm; phàm những ai không có, cũng sẽ bị lấy đi mất. Ý tưởng này, thoạt nghe có vẻ như không công bằng, như thể lấy đi của người nghèo mà cho thêm người giàu có thêm dư dả. Nhưng ở đây, Chúa có ý nói: những ai san sẻ quà tặng mà họ nhận lãnh, xem ra sẽ thấy mình vẫn liên tục được no đầy. Còn, những ai đành hanh, tị nạnh cứ khư khư bảo vệ và giữ rịt những gì được ban cho, lại còn lo gom góp thêm rồi trốn, cất vào nơi kín đáo vì sợ người khác bên ngoài cướp mất, thì cứ thế sẽ chết dần mòn với của cải mình cất giữ. Như thế, những ai lo gìn giữ cuộc sống của mình, sẽ mất đi. Còn, những ai rộng tay san sẻ những gì mình có cho người khác, sẽ thấy mình giàu có đến mực độ không đo lường được. Đó là luật của Tin Mừng. Đó, còn là luật của sự sống mà phần đông chúng ta, trên thực tế, thấy khó mà tin. Diễn giải Tin Mừng, có thể nói: đây là một chỉ trích đối với tôn giáo, chuyên khước từ việc đổi mới. Mở mang. Phát triển. Đây là, hiện tượng vẫn thấy, nơi mọi tôn giáo. Kể cả Đạo của ta. Vào thời của Chúa, nhiều người Do Thái đã khư khư giữ rịt lề luật và thói quen lâu nay. Họ đối kháng lại đổi thay. Từ chối lời gọi mời phát triển. Vì, quá tuỳ thuộc vào truyền thống, nên họ quên đi tinh thần nguyên thuỷ của Lề luật và từ đó, chống đối lại Đức Chúa. Chống đối, luôn cả Đấng đã cảnh giác họ về chuyện ấy. Với Hội thánh hôm nay, có nhiều người chẳng muốn đổi thay gì hết. Chỉ muốn chui vào lại vỏ sò của thời trước, chỉ ưa làm chuyện cũ, mấy chục năm. Làm như thế, họ đã và đang chôn đi Thần Tính của Đức Chúa trong lớp vỏ bọc, mà họ gọi là tuyền thống. Họ chỉ thích rượu cũ, bình cũ. Nói cho đúng, đây không là phương cách để sống cho ra sống. Nói tóm, ta cần để thời gian ra mà suy tư. Suy tư, mọi ngày. Cả ngày hôm nay, nữa. Suy tư, về kỹ năng/quà tặng Chúa phú ban tặng. Suy tư, để hỏi rằng: mình đã sử dụng quà tặng ấy để phục vụ cộng đoàn Hội thánh, chưa? Phục vụ xã hội, nữa? Nếu không thế, thì chỉ đáng vùi quà ấy vào trong cát, mà chôn giấu. Vì, không gây lời. Có thể, có người trong chúng ta, sẽ ra đi trong nay mai, gặp Chúa sẽ được Ngài gạn hỏi: “Con đã làm gì với những quà tặng, cùng kỹ năng ta ban cho? Ai là người hưởng được lợi lộc từ quà ấy?” Và, vấn đề là, làm sao ta có câu trả lời cho Ngài đây? Và rồi Vị Chủ sẽ quay về “vào khoảnh khắc bất chợt như kẻ trộm ghé viếng”. Vì thế nên, ta hãy sẵn sàng. Nếu đã trót chôn giấu thứ ấy, hoặc sử dụng theo cách vị kỷ, thì hãy vội ra đi mà lấy lại và làm lợi cho cộng đoàn Nước Trời, của Đức Chúa. Trong hiểu biết dụ ngôn Chúa dạy, ta hân hoan phấn khởi mà hát lời người xưa: “Em là tặng phẩm từ Trời, đã cho tôi hạnh phúc hôm nay Khi nào trái đất vẫn quay mong chân tình này vẫn vậy.” (Vũ Thành An – Bài Không Tên số 29)
Quà tặng từ Trời, quà hạnh phúc. Quà tỉnh thức với thời gian, đừng nên chôn giấu. Những tặng ban, hãy trao cho nhau trên đường xây dựng cộng đoàn Nước trời, của Chúa. Của anh em. Lễ Kitô Vua Năm A “Giữa hư vô xây dựng bởi trăng sao” Xa lắm rồi, xa lắm, hãi dường bao!... Mt 25: 31-46 (dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử) Hư vô ấy, là trăng sao xây dựng, giữa giòng đời? Là, trần gian chốn vắng, rất hãi hùng. Xa vắng, hãi hùng toà châu báu, vẫn kết bằng hương hoa dị kỳ. Của tình yêu rung động, ra đón Chúa. Chúa xuân - Vua Vũ Trụ hôm nay ta mừng kính, là chính Đức Kitô, Đấng đã ra đi rao giảng chốn “hư vô” xô bồ khắp đất miền, ở Do Thái. Từ, Galilê, Samari cho chí vùng Giu-đêa, Giêrusalem ấy, nơi nào Ngài cũng đến. Chốn nào, Ngài cũng khuyên dạy. Chữa lành. Ủi an. Giải thoát. Ngài là Đức Chúa. Là Vua Cha, luôn hiện diện hữu hình, nơi ta sống. Các bài đọc hôm nay, đưa ra hai ảnh hình tương phản về Đức Kitô. Bài đọc 2, bằng vào thư chung gửi giáo đoàn Côrinthô, thánh Phao-lô trưng diễn hình ảnh về Đức Kitô, là Vua. Và, là Chúa. Thánh Phao-lô nói: “Nếu tại một người mà nhân loại phải chết, thì nhờ một người mà kẻ chết được sống lại” (1Cr 15: 21). Và, Đức Kitô được trưng dẫn, như Đấng có toàn quyền trên mọi quyền. Bởi, cuối cùng thì quyền lực của thế gian cũng phải lui bước, “phải quy về thần phục Đấng vẫn bắt muôn loài phải quy phục Người.” (1Cr 15: 26). Và, “Đức Kitô nắm vương quyền cho đến khi Thiên Chúa đặt mọi địch thù dưới chân Ngài” (1Cr 15: 25). Trong khi hai bài đọc 1 và 2 đưa ra ảnh hình khác biệt, về Đức Giêsu, con Thiên Chúa. Qua việc Ngài chấp nhận thân phận làm người. Bài đọc 1 nói đến hình ảnh Đức Giê-su là Đấng Chăn Chiên Hiền Lành. Nơi ảnh hình này, chiên con được đưa lên đồi cao, xứ Palestin. Ở nơi đó, cỏ rất non xanh mượt mà. Ở nơi đó, chiên con trộn lẫn chan hoà với đàn chiên, của kẻ khác. Ở nơi đó, Chủ Chăn đã bỏ giờ ra để chăm sóc cho chiên mình. Đem chiên về cùng một ràn chiên. Ở đây, Đức Giê-su xác nhận Ngài là Chúa Chiên Hiền, như: “Chính Ta sẽ chăm sóc chiên của Ta và thân hành kiểm điểm.” Và, “Ta sẽ kéo chúng ra khỏi nơi chúng đã bị tản mác, vào ngày mây đen đến mịt mù.” (Êz 34: 12). Và, nếu chiên con có đi lạc, Ngài sẽ đích thân tìm: “Ta sẽ đáp cứu chiên của Ta. Chúng sẽ không là mồi cho kẻ cướp” (Êz 35: 22). Chính từ đoạn sách này, Đức Kitô rút ra ảnh hình gọi Ngài là Chủ Chăn Hiền Lành. Về sau, Ngài có nói: Ngài sẽ bỏ 99 chiên ngoan hiền ở lại, để đi tìm mỗi chiên con lạc loài, sa ngã. Ở đời thường, có lúc chiên con bị đối xử không đồng đều. Như lời tiên tri: “Chiên nào béo mạnh, Ta diệt đi. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.” (Êz 34: 16). Nghe điều này, hẳn nhiều người sẽ nghĩ là: Chúa thiên vị. Thật ra, Ngài chỉ làm thế với những người tìm cách bóc lột kẻ nghèo hèn, hiếp đáp người cô thế. Chính trực của Chúa, không dựa trên sự công minh đạo đức, mà thôi. Nhưng, trên san sẻ đồng đều. Trên sự kiện, mọi người đều có thể tiếp cận nguồn phúc lợi đã dành sẵn. Ngõ hầu giúp mình sống đúng phẩm chất. Sống, tự trọng. Chỉ thế thôi. Đó, chính là bối cảnh Tin Mừng hôm nay. Tin Mừng, đưa ra cảnh trí của phán quyết chung cuộc. Ngày thế tận. Bối cảnh hôm nay, không nên hiểu theo nghĩa đen, từng chữ. Nhưng, chỉ nên nhìn vào ý nghĩa nằm ở hậu trường. Tức, nên coi đó như ảnh hình về một trực diện với Chúa, xảy đến trong cuộc sống hằng ngày. Nếu hỏi rằng: có chăng giá trị nào đó nơi sự khác biệt thường thấy giữa phán quyết riêng tư và thông thường, không? Thì, ảnh hình nói hôm nay về việc Con Người hiện đến, giữa mây trời bao phủ, có thần linh thiên sứ quây quần, là hình ảnh ám chỉ sự cao cả và trong sáng của Đức Chúa. Tuyệt nhiên không có ý mô tả kinh nghiệm thực tế, ta sẽ gặp. Trong mai ngày. Theo ảnh hình diễn tả, có hai loại người đến với phán quyết chung cuộc, như “chiên con” và “dê đàn”. Tức, người nhân hiền và các lão trự. Và, vấn đề là: làm sao tách bạch được người nhân hiền với lão trự? Ở đây, cả hai loại người ấy đều sửng sốt, trước các chuẩn mực, Chúa đưa ra. Trước tiên, Ngài nói với chiên con: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi, ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước;Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han." (Mt 25: 34-36) Nghe như thế, chiên con đều sững sờ. Vì, có bao giờ họ trông đợi chuyện tương tự, để được thấy, đâu. Vì sững sờ, nên họ chẳng nhớ rằng mình đã từng làm, như thế. Có điều chắc, là chẳng ai nhớ được rằng mình đã làm như thế, với Chúa. Bởi thế nên, họ nói:“Có bao giờ chúng con thấy Chúa đói mà cho ăn, khát mà cho uống; có bao giờ thấy Chúa là khách lạ mà tiếp rước; hoặc trần truồng mà cho mặc? Có bao giờ chúng con thấy Chúa đau yếu hoặc ngồi tù, mà đến hỏi han đâu? (Mt 25: 39). Sững sờ hơn, câu đáp của Chúa lại là câu mà chẳng người nào muốn:“Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.”(Mt 25: 40) Thế rồi, quay về phía dê đàn, Ngài lên án những kẻ đã không làm điều mà Ngài liệt kê. Tức, không nhận ra Ngài, nơi người anh người chị trong cộng đồng nhân loại. Ở đây, cần ghi chú đôi điều như sau: -Những gì Chúa nói đến ở trình thuật, chẳng điều nào mang bản chất tôn giáo, lẫn niềm tin. -Chúa chẳng đả động gì đến các giới lệnh. Giới lệnh nào từng được tuân giữ. Điều nào không. -Điều mọi người bị lên án, không những ở nơi: vô luân, đã làm điều phản Đạo; mà còn là, chẳng làm gì hết. -Và, những điều ta làm (hoặc đã không làm) CHO Chúa, đều không phải VÌ Chúa. Nói cách khác, Chúa vẫn thực sự hiện diện nơi mỗi người ta từng gặp. Tôi không chỉ tốt bụng với người này người kia (tức, người mà có thể tôi không lưu tâm nhiều cho lắm) chỉ để được tiếng là: đã làm “việc thiện”. Để rồi, Chúa thưởng công cho mình. Và, để cộng thêm vào tài khoản có ghi “việc thiện ta làm”. Không thể dùng con người, vào mục đích dù là việc thiêng liêng, tốt lành.
Tựu chung, điều Chúa muốn nói, là: nếu muốn được kể là mình thuộc thành phần “chiên con”, thì khi đó ta phải trở thành người biết yêu thương thực sự. Và, chẳng cần biết, ta đáp ứng thế nào với tình yêu đó. Đây là cách Chúa yêu ta. Bởi, thật tình mà nói, nếu ta chỉ làm tròn bổn phận đạo đức, tôn giáo, chu toàn mọi lễ lạy này khác thôi, vẫn chưa đủ. Bởi, không thể nói:”tôi chỉ cần làm người Công giáo ngoan hiền đạo hạnh, là đủ đâu”. Trên thực tế, người người vẫn trông đợi ta dấn bước ra đi, hầu đến với mọi người, bằng phương cách thích hợp. Dấn bước ra đi, để tỏ bày tình thương. Ra đi, để đến với những người đói ăn, thiếu mặc. Với, người dưng khác họ, nghèo hèn. Người ốm đau. Cô thế. Những người, còn sống mãi ở chốn lao tù, hờn căm. Người bệnh. Nan y. Nghiện ngập. Khủng bố. Điếm đàng. Chính họ, mới là người có nhu cầu khẩn thiết, trong cuộc sống. Chính họ, là những người mà Vị Vua Nhân Hiền vẫn gọi mời ta đến phục vụ. Và, phương cách mà Vị Vua Hiền muốn ta đến phục vụ, là: lấp đầy nơi ta, tâm tư và trạng thái biết chăm nom, đùm bọc. Biết đỡ đần. Giùm giúp. Biết xót thương các người anh người chị, ở mọi nơi. Chí ít, là những người còn xa Chúa. Những người chưa được ban tặng, đầy ân sủng. Nói chung, những người nghèo đói. Thấp hèn về mọi mặt. Cả thể xác, lẫn tinh thần. Ảnh hình về phán quyết chung cuộc ở trình thuật, không phải để ta hãi sợ và, rẩy run. Nhưng đó chỉ là một thách thức. Thách thức không chỉ cho mai ngày, nhưng chính là ngày hôm nay. Cách tốt nhất, để đảm bảo là ta thuộc phía chiên lành, là: ngay từ bây giờ, ta hãy trở nên người biết yêu thương. Biết,chăm sóc. Đùm bọc. Biết chấp nhận và dung thứ người khác. Trong quyết tâm trở nên thứ người mà Chúa muốn, ta hân hoan hát lên lời vui hôm nay. Rằng: “Cho nhau chẳng tiếc gì nhau. Cho nhau gửi đã từ lâu Cho nhau cho lúc sơ sinh ngày đầu. Cho những hoa niên nhịp cầu Đưa tuổi thơ đến về đâu ? Cho nhau nào có gì đâu ! Cho nhau dù có là bao. Cho nhau cho phút yêu đương lần đầu Cho rất luôn luôn cuộc sầu. Cho tình cho cả niềm đau.” (Phạm Duy – Cho nhau)
Cho như thế. Yêu như thế. Tức, ta đã xây dựng “toà châu báu kết bằng hương thơm kỳ dị”. Hương tình yêu. Yêu thương rất mực. Thứ tình yêu của chiên hiền, Chúa vẫn dành để. Lễ Kitô Vua. |
Trang Chinh > Sách Báo trong Gia Đình >