LỜI CHÚA SẺ SAN - Lm Kevin O’Shea CSsR - Mai Tá Lược Dịch



Lm Kevin O’Shea CSsR

 

 

LỜI CHÚA SẺ SAN

 

NĂM A

 

 

 

Mai Tá Lược Dịch

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO

 

CÙNG MỘT TÁC GIẢ

 

 

Chuyện Phiếm Đạo Đời I – nxb An Phong Sydney 2008

Chuyện Phiếm Đạo Đời II – nxb An Phong Sydney 2008

Chuyện Phiếm Đạo Đời III – nxb An Phong Sydney 2009

Chuyện Phiếm Đạo Đời IV – nxb An Phong Sydney 2010

Chuyện Phiếm Đạo Đời I, II, III, IV – nxb Tôn Giáo 2010

Chuyện Phiếm Đạo Đời V – nxb Hội Nhà Văn 2011

Chuyện Phiếm Đạo Đời VI - nxb Hội Nhà Văn 2012

Chuyện Phiếm Đạo Đời VII- nxb Hội Nhà Văn 2013

 

 

Suy niệm năm A do Lm Frank Doyle sj viết – Mai Tá dịch

Suy niệm năm B do Lm Frank Doyle sj viết – Mai Tá dịch

Suy niệm năm C do Lm Frank Doyle sj viết – Mai Tá dịch

Phaolô, Vị thánh của mọi thời do Lm Kevin O’Shea CSsR viết – Mai Tá dịch

Suy Niệm Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Vọng Năm A

“Dưới thềm mưa đợi hồi chuông”

Cổng im nhốt chủ nhật buồn mênh mông”

(dẫn từ thơ Trương Đình Tuấn)

 

Mt 24: 37-44

Ngày Chúa về, cũng có chuyện tình “đợi hồi chuông” để kể lể. Chuyện, là

chuyện về những  tháng ngày đợi chờ của giòng họ ông Nôê, thời buổi trước. Trước ngày xảy đến lũ lụt ghê gớm ấy, dân con giòng họ của ông vẫn ăn và vẫn uống. Vẫn lấy vợ gả chồng, cho đến ngày cùng ông lên thuyền, để ra đi. Đi đến chốn miền mà giòng nước lũ đã tẩy xoá chốn không gian.

Cũng hệt như thế. Con Chúa làm người, cũng sẽ đến cùng một tình trạng, rất tương tự. Tình trạng, là những tâm trạng có tình có tiết khi hai người ở ngoài đồng, một được bốc đi. Còn, người kia bị bỏ sót lại. Bởi vậy nên, người người cần cảnh giác. Bởi vậy, không làm sao ta có thể biết trước tháng ngày nào Chúa đến lại. Người chủ nhà cũng thế, ông cũng không thể biết trước ngày giờ kẻ trộm đến viếng, mà canh chừng. Và cũng thế, Con Người sẽ lại đến, rất bất ngờ.

Mùa Vọng đến với những đợi chờ. Vọng buồn, còn là mùa của lễ hội đầy ngóng trông.

Con Thiên Chúa đã chết đi từ thập niên 30, hồi đầu thế kỷ. Rồi sau đó, tháng ngày dài cứ chạy mãi đến thiên niên. Và, dân con Đạo Chúa vẫn cứ nghĩ: Ngài sẽ đến lại, rất sớm. Để còn phân định chuyện trăng sao vũ trụ. Ngài sẽ đến, để dứt đoạn lịch sử với con người. Thế nên, họ cứ nghĩ: Ngài sẽ đến lại, với nguyên trọn hình hài những xương thịt, như buổi trước.

Thực ra, thì Ngài đang hiện diện với con dân/mọi người, đã từ lâu. Hiện diện, Ngài vẫn hiện tỏ nơi mây trời, từng áng mây lịch sử. Ngài vẫn hiên diện, với dân con Đạo Chúa thuở đầu đời, vẫn ngóng trông. Ngóng và trông, sự kiện lịch sử có một không hai, nay xảy đến. Thành thử, thuở đầu đời, người người vẫn trông ngóng từng thế kỷ ngày Chúa đến lại. Trông và ngóng, đến độ chẳng ai buồn nghĩ chuyện dựng xây đền thờ. Trông và ngóng, đến độ chẳng ai lo hoạch định việc hành chánh lẫn Phụng vụ, để lưu lại cho dân chúng, về sau. Ai cũng chỉ nghĩ: lịch sử hội thánh, sẽ chẳng tồn tại được bao lâu nữa. Tất cả đều trông ngóng ngày Chúa đến lại, rồi mới tính sau.

Thật ra, điều này kể cũng không đúng. Chúa có bao giờ đến lại theo kiểu cách ấy. Lịch sử loài người cũng đâu bao giờ chấm dứt, một sớm một chiều, như mọi người tưởng nghĩ. Cuối cùng, người người phải tỉnh giấc. Đúng vậy, nếu ta nhìn việc Chúa đến lại, theo góc độ nào đó, thì hẳn rằng Do thái dân con mọi người đều có lý ngay từ đầu sao? Nhưng, Chúa sẽ không đến lại theo cung cách người Do thái nghĩ, là bởi: dưới góc độ đạo đức, Chúa có bao giờ bỏ rời ai đâu để đến nỗi con dân Ngài hiểu là Ngài sẽ đến lại? Sự thật, Ngài vẫn luôn có đó, và rất gần. Gần, mọi người. Gần, không theo nghĩa thời gian và không gian. Bởi, thời gian và không gian nào có nghĩa gì, đối với Ngài. Ngài vẫn ở đó, ngay sát cạnh ta. Và, luôn ở với ta. Vậy thì, làm gì có chuyện những đi và đến?

Thật sự, thì thời gian cũng đâu là chuyện quan trọng. Quan trọng, chỉ là chuyện ta có biết sử dụng nó không thôi. Ta có biết sống với nó theo cung cách nào đó, mà thôi. Sử dụng và sống với thời gian, theo nghĩa cảm nghiệm Ngài đang hiện hữu với mọi người. Và, hiện hữu ấy vẫn còn tiếp diễn, đến muôn đời. Đó là động thái nội tâm. Đó là ý hướng sống. Thế nên, Mùa Vọng phải là mùa của một “động thái”, chứ không phải của lễ hội “đợi chờ”. Bởi thế nên, ta cũng nên nghĩ đến việc cần thiết phải sắp xếp thứ tự ưu tiên để xử thế. Để hành động. Cần tỉnh giấc điệp để luôn mãi gần cận Chúa.

Trình thuật hôm nay, mở ra niên lịch mới với phụng vụ. Vào lúc thánh Mát-thêu viết đoạn Tin Mừng này, thì thành đô La Mã đã bị bạo chúa Nêrô ra lệnh đốt cháy. Chính ông đã phóng hoả cả thành đô, để vui say chè chén đổ đốn, rồi đổ cho người của Hội thánh làm. Hai đá tảng làm cột trụ cho Giáo hội là thánh Phêrô và Phaolô lúc ấy cũng quá vãng. Và, đền thờ Giêrusalem đã bị phá hủy. Dân con Do thái bị bách hại. Nhiều vị còn bị đưa đẩy vào vòng lao lý. Thậm chí, có vị phải làm thân nô lệ người ngoại bang, nữa. Từ lúc ấy, tín hữu Chúa vẫn cứ hỏi: phải chăng lịch sử loài người nay đi vào ngõ cụt? Phải chăng lời tiên tri hôm trước nay đà ứng nghiệm?

Tin Mừng ta nghe hôm nay, còn là thời điểm mà thánh Mát-thêu đưa câu trả lời hầu trấn an những vị lúc ấy đang ưu tư, lo lắng. Đưa ra một giải đáp, thánh Mát-thêu muốn giúp dân con đi Đạo tạo cho mình động thái đúng đắn mỗi khi rơi vào tình huống, tựa hồ như thế. Giải đáp mà thánh sử Mát-thêu đưa ra hôm nay, gồm tóm một lời khuyên: hãy “sẵn sàng” mà “tỉnh thức”. Cứ mở to con mắt ra mà thấy. Mà nhìn. Mở rộng cả vòng tay ôm, như ông Nôê thuở trước thấy trước cơn lụt sắp xảy đến, nên đã “sẵn sàng” “thức tỉnh”. Trong đám dân gian người ngoài, có kẻ lại cho đó là hành động của ông Nôê sửa soạn đóng thuyền, là khùng điên. Lẩn thẩn. Bởi, đất miền Do thái lúc ấy đang gặp thời hạn hán, sao lại sợ lụt?

Quay về nhìn lại chính mình để tự kiểm, nhiều lúc ta cũng thấy mình không khác thế, là bao. Nói vậy, thử hỏi: ta rút tỉa bài học gì ở nơi đây?

Bài học, nay cho thấy Mùa Vọng không là bề dầy thời gian những bốn tuần. Hoặc, là dịp để ta tìm đọc lại những bài sách thánh khác mọi bài trong cả năm phụng vụ. Đây, cũng không là lễ hội mùa Chay kiêng rất ngắn ngày, để sám hối. Cũng chẳng là lễ hội nguyện cầu theo kiểu Hồi giáo, rất Ramadan. Mùa Vọng, chính là lễ hội nói lên cung cách hiểu và biết những gì xảy đến với cuộc sống mỗi ngày. Cung cách, giúp ta nhìn về phía trước, xa hơn đầu mũi, mà mắt thịt của ta không tài nào đạt tới. Cung cách nhìn sự vật tận chốn chân trời có bề dầy lịch sử. Nhìn, để biết rằng bên kia đầu mút mọi sự vật luôn có điều gì đó, đang trờ tới. Đó, chính là Niềm Tin.

Sự thật, thì cuộc bách hại dân con Hội thánh buổi đầu đời, cũng đã kết thúc vào thế kỷ thứ tư, dương lịch. Và sự thật, thì đã là người Công giáo, tức trở thành người trổi trang, mọi người đều biết đến. Hơn nữa, chẳng vì Hội thánh được dựng xây trên đá tảng, nên mới tồn tại được lâu dài. Mà. Là dân con Đạo Chúa đã đạt đến từ lâu. Là dân con Đạo Chúa, là ta đã đạt điểm son về lợi ích chính trị. Nên, không cần phải chờ đợi thêm nữa, để được thế. Thời của tín hữu Đức Kitô đã là thời tuyệt hảo. Mọi dự án của dân con Chúa đã thành đạt. Thế nên, Mùa Vọng không còn được mọi người coi như thời gian đợi chờ chuyện ấy đến. Vì, “thời ấy” đã đến rồi.

Ở đây, phụng vụ, muốn dân con Hội thánh không còn nhìn thời hiện tại như những gì ta hoàn tất, rất từ lâu. Mà là, còn đường trước mặt vẫn còn đó để ta đi tới. Và Chúa vẫn đồng hành với ta, như khi xưa Ngài làm với đồ đệ trên đường đi Emmaus. Thực tế, thì ta vẫn chưa đạt tới Emmaus Thiên Quốc. Bởi thế nên, như con trẻ ngồi sau xe ta, vẫn cứ hỏi bố hỏi mẹ: mình tới chưa, thưa bố. Thưa mẹ? Và, câu trả lời từ người bố/người mẹ, vẫn cứ là: chưa đâu con! Rồi, thì ta cũng tới, thôi!

Tư nay đến ngày mọi người đạt Emmaus Thiên Quốc Nước Trời, vẫn còn đó những câu hỏi:

Ta còn chờ gì nữa? Chờ Chúa. Trong tinh thần đổi tầm nhìn cho mới, chờ và đợi, để nhớ rằng Ngài đang hiện diện trong ta. Giáng Sinh, không nhất thiết là cung cách của một lễ hội qua đó Hội thánh Chúa quyết thực hành phụng vụ tốt hơn, mà là cơ hội để ta mang trong mình, một tinh thần đổi mới. Tinh thần và thái độ, đã hài hoà được với nỗi chết, với thái độ coi cái chết như cuộc Vượt Qua dẫn đến niềm vui Thiên Quốc. Nước Trời.

Ai đang chờ, đang đợi? Chính là ta. Toàn cả Hội thánh thời đã qua. Mọi người đời, thời nay.

Đợi chờ, như thế nào? Bằng hy vọng đã chúc phúc. Bằng niềm tin không ngao ngán. Rất vui.Chờ và đợi có nghĩa gì? Nghĩa là NIỀM VUI vì được biết đến tinh thần đổi mới tận thâm căn.

Chờ đợi ai? Chờ Chúa, Đấng đang về tới theo cung cách không thể đoán trước. ..

Chờ và đợi, để rồi sẽ quyết định thôi không tranh chấp/đố kỵ nhau nữa. Nhưng đã bắt đầu biết nghĩ tới những người đói khát, đang chờ ta, trên thế giới! Chờ và đợi, để ta không trao họ vào tay các nhà chính trị, chỉ tranh cãi. Chờ và đợi, để đi tới quyết định: dứt khoát phải làm việc gì, cho ra nhẽ. Việc gì tạo đổi thay. Đổi và thay, động thái quan tâm thực hiện những điều tốt đẹp, cho mọi người.

Có lẽ nên kết thúc giòng suy niệm này bằng lời lẽ thánh Bernađô viết khi trước, rằng:

 

Trước nhất, Ngài đến bằng xương thịt, kẻ yếu kém. Kế đến, Ngài lại đến bằng tinh thần và quyền uy tối thượng. Cuối cùng, Ngài sẽ đến lại trong vinh quang, bề thế. Rất oai phong. Thời gian Ngài đến lại, lúc giao thời, là cung cách ta trải qua từ lần đến đầu tiên tới lần đến cuối. Đến lần đầu, Chúa đến để cứu chuộc chúng ta. Đến vào lần cuối, Ngài sẽ đến bằng chính cuộc đời ta đang sống. Đến vào lần ở giữa chừng, Ngài lại là sự ngơi nghỉ, ủi an. Ta tĩnh dưỡng.” (Thánh Bernađô, Bài Giảng Các Ngày lễ trong Mùa Vọng)

 

 

 

 

 

 

 

Suy Niệm Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Vọng Năm A

 

“Ta thấy mùa đông chưa tuyết trắng”

sao người về như sợi tóc phai sương?”

(dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

 

 

Mt 3: 1-12

Chúa đã về. Ngài về, như sự kiện rất thật. Nhưng, nào ai thấy phai sương, vương sợi tóc? Rất đợi chờ? Ngài về, để mọi người đợi trông. Ngóng chờ, Ngài Giáng hạ làm người phàm.

Tin Mừng, nay loan báo thuở đầu đời Chúa đi vào hoạt động. Với sử gia Hy Lạp, ngày mà Ngài hoạt động, khởi từ niên biểu 15, theo niên lịch César Tiberius. Lúc, mà Pontiô Philatô làm Tổng trấn xứ Giuđêa. Hêrôđê làm vua xứ Galilê. Anna và Caipha làm thượng tế. Như thế là, thánh sử định vị được niên biểu 27-28 cho là năm Chúa xuất hiện lần đầu trước chúng dân. Lúc, Ngài trưởng thành. Để rồi, theo lịch Do thái, Ngài tử nạn vào năm 30. Và như thế, các sử gia Công giáo đã đồng ý: năm sinh của Chúa là niên biểu thứ 4 hoặc 3, trước Công nguyên.

Tuy nhiên, điều quan trọng không là ngày tháng năm sinh, của chính Ngài. Mà là, cung cách Ngài hạ sinh giống hệt như ta. Và, Ngài hạ sinh không chỉ một lần, với mọi người. Mà, là mỗi năm, Ngài sinh hạ, nơi tâm can mọi người. Và, mỗi người.

Phụng vụ Chúa Giáng hạ vào mùa dân con đợi chờ, lại đã trích Tin Mừng trong đó ghi rõ một truyện kể về thánh Gioan. Trích và ghi, là để xác chứng sự kiện Thanh tẩy ở khu Qumran. Tại đó, thánh Gioan lập phép thanh tẩy để Chúa đến với mình. Và, coi đó như nghi thức giải hoà, chứ không là cung cách của nghi lễ ở Đền Thờ. Và, chuyện thánh Gioan tẩy rửa Chúa được sử dụng để nối kết con người bình thường với nhận thức rất chuyên sâu về Đạo. Nhận thức, theo đúng truyền thống của Do thái.

Phương cách mà thánh Gioan sử dụng, lại đã thu hút chúng dân quyết bước theo chân thánh nhân để đi vào chốn sa mạc nắng cháy, ở đó khi xưa Jôshua cũng thực hiện việc khuyến khích dân được chọn biết mà theo Chúa ngang qua giòng sông Giođan, mà đến đất hứa. Thánh Gioan làm thế, để phản đối giới cầm quyền La Mã đương thời đã chiếm đoạt quyền sở hữu đất đai, của Do thái. Tức, một hành xử tuy thuộc Đạo giáo, nhưng cũng mang tính chất chính trị.

Với tham vọng như thế, thánh Gioan đã dấy lên một khí thế bất đồng, quyết nghịch chống các hoạt động của vị thượng tế, ở Đền Thờ. Kế hoạch của thánh nhân, tuy không nhằm đổi thay thể chế chính trị, mà chỉ nhằm thánh hoá dân tình theo phương cách mà người Do thái tìm cách thực hiện, nhưng không được. Thánh Gioan chẳng hề đổi thay một thể chế nào hết. Nhưng, thánh nhân chỉ muốn dân con mọi người hãy làm điều mà lẽ đáng ra mọi người đều phải làm. Làm cho tốt, chứ không chỉ chăm chú vào những việc mình đang làm, vì bổn phận.

Thánh Gioan làm thế, chẳng để nghịch chống lối sống theo gia đình, hoặc định chế nào khác mà người Do thái đã tạo ra. Sự thật, thì động lực thúc đẩy thánh nhân thực hiện đời sống mục vụ nơi sa mạc, là để thăng tiến sự thánh thiêng đích thực mà dân Do thái cần có. Thánh nhân không làm theo kiểu của thành viên nhóm Pharisêu chuyên trập trung áp đặt Luật Torah trong đời sống hằng ngày. Trái lại, thánh nhân chủ trương cung cách tĩnh lặng của cuộc sống nơi sa mạc ngõ hầu cải hoá cuộc đời mình, như Chúa muốn.

Công việc thánh nhân làm, là động thái cốt thực hiện một cuộc xuất hành về đất hứa, ngang qua sa mạc của mọi trắc trở. Khổ đau. Đó, là động thái đòi chế ngự phần đất do người La Mã tạm thời chiếm lĩnh. Thánh nhân khuyến khích mọi người hãy theo ngài về nơi hoang dã, để sống xứng hợp với Đất Lành Chúa hứa ban. Rõ ràng là, những người theo chân thánh nhân vẫn sẵn sàng đón nhận sứ điệp ngài gửi đến. Rõ ràng là, nhiều người không chỉ là cư dân sống gần Qumran, mà hầu hết những từ người khắp đất miền/thị trấn đã đến thành từng đoàn. Những người từng nắm bắt lập trường sống của thánh nhân.

Chừng như, lúc ấy Đức Giêsu cũng đang ở đó. Ngài hành xử theo cung cách của Đấng Bậc được thanh tẩy, như thánh Gioan. Cũng giảng rao Nườc Trời như sứ vụ Ngài nhận lãnh. Có điều lạ, là: Chúa nhận lĩnh ơn thanh tẩy từ thánh Gioan, là để cho mọi người thấy: đây là một cải tân, không chỉ xảy ra duy một lần, rồi thôi. Và, nhìn từ góc độ nào đó, ơn thanh tẩy từ thánh Gioan, còn nói lên sự kiện “Chúa khởi đầu đời hoạt động của Ngài theo tư cách của Ngôn sứ. Đấng Cứu Độ”.

Trình thuật thánh Mát-thêu hôm nay, không chỉ diễn lại tiến trình gặp gỡ giữa thánh Gioan Tẩy Giả và Đức Chúa, thôi. Đây cũng không là dịp để thánh nhân nói lên công trình cứu độ đã thành hiện thực nơi Đức Chúa. Nhưng, còn là sự kiện cho thấy có cả những tương đồng cũng như khác biệt giữa thánh Gioan và chính Ngài.

Tương đồng thấy rõ nhất, là ở điểm: cả Đức Chúa lẫn thánh Gioan đều đề cập đến Vương Quốc Nước Trời, có hẹn ước. Cả Chúa và thánh nhân, đều là Đấng Công Chính. Và, đất lành người Do thái muốn thủ giữ, nay thuộc về Đấng Công Chính. Đất lành Ngài hứa ban, buổi đầu là cho các bộ tộc, rất chính đáng. Luật Torah và các ngôn sứ đều kình chống nỗ lực của một số người vẫn muốn sở hữu thật nhiều đất đai. Và, quyền lực.

Kình chống, là bởi: càng ngày người ta càng thấy có người cứ cậy vào quyền mình có để giành quyền sở hữu đất đai/tài sản của người nghèo, mà con số những người này đang gia tăng một cách đáng kể. Theo luật, thì đất đai do Chúa sở hữu, con người không có quyền bán chác, đổi trao. Thế nên, hoạt động của Chúa ở đây, là để tái tạo sự công bình/chính trực, ở khắp nơi.

Công bình, hiểu theo nghĩa giảm bớt những chuyện đổi chác/bán buôn, rất lố lăng. Công bình, hiểu theo ý thức trách nhiệm qua việc “xoá tẩy” đói nghèo, sầu khổ. Để rồi, cuối cùng, Nước Trời rồi sẽ đến. Không phải vào ngày cánh chung. Nhưng, Vương Quốc Nước Trời đến rất sớm. Ngay vào lúc này.

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa và thánh Gioan xảy đến vào lúc Chúa vừa tròn độ tuổi 30. Đó là lúc Chúa quyết định rời gia đình. Bỏ chốn thị thành cùng mọi người, để tiến tới thực hiện ý định Cha giao phó. Ngài quyết định, là để định ra một động thái hợp lực với thánh Gioan. Để, sau một thời gian, Ngài sẽ lại tự mình theo con đường Cha dọn sẵn, muốn Ngài thực thi.

Một điểm khác biệt nữa, giữa động thái của thánh Gioan và Đức Giêsu, là ở chủ trương đặt nặng lên nghi thức rất thánh thiêng, về Đấng Mêsia. Đức Giêsu quyết định về với những người con bé bỏng. Nghèo hèn. Sống, hoà lẫn với họ, mà không sợ một rào cản, cách ngăn nào hết. Ngài về với họ trong tương quan rất trọn vẹn. Tương quan Ngài tạo nên, là kết quả rút từ kinh nghiệm có cuộc sống linh thiêng, sau khi chấp nhận thanh tẩy dành cho Ngài, từ thánh Gioan. Nhờ thanh tẩy, Ngài phát hiện ra ý định của Cha, vẫn dành cho Ngài. Và, khi dân con mọi người sống trong công lý và bình an như Cha đã định, thì Vương Quốc Nước Trời, được Cha hứa ban, đã thành hiện thực. Một hiện thực thấy rõ qua hình thức chữa lành mọi tật bệnh. Qua phép lạ nhân rộng những cá và bánh. Và, qua các dụ ngôn Ngài kể cho mọi người được biết. Tất cả, nay được tái thành lập trong sinh động. Cả nơi triền đồi. Cả ở Biển hồ Tibêriát. Hoặc, thôn làng hẻo lánh có truyền thống sẻ san ơn lành mình nhận lãnh. Sẻ và san, để rồi sẽ dẫn đến cuộc sống lành thánh, như ước hẹn. Ước hẹn với Cha. Ước hẹn với mọi người.

Điểm tương đồng giữa Đức Chúa và thánh Gioan còn thấy rõ ở điểm: cả hai đều kình chống lối nhận thức về Đấng Mêsia theo nhãn quan chính trị. Cả hai Đấng đều kình chống lối giữ Đạo nặng hình thức. Nhiều lễ nghi quan cách. Cả hai Đấng đều cho thấy cung cách rất khác biệt ngõ hầu giúp sống như người Do thái được dạy phải sống như thế. Và rồi, sẽ sống Đạo đúng như Giao Ước mình ký kết với Chúa. Với tha nhân.

Nói cho cùng, trình thuật hôm nay kể nhiều về thánh Gioan Tẩy Giả, là để minh xác về thuở đầu cuộc đời hoạt động của Đức Giêsu. Giai đoạn ấy, không chỉ hiện rõ qua nghi thức có tẩy và có rửa, mà thôi. Nhưng là giai đoạn tuyên dương tín điều đích thực, rằng: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia mà người người đợi trông. Đấng Mêsia, do Cha gửi đến, cốt không để ta thống lĩnh ba quân mà chống lại người La Mã, đang thống trị. Mà, Đức Mêsia đây, chính là Đấng Cứu Độ mà đường đường một thánh nhân rất trổi bật như Gioan Tẩy Giả cũng “không xứng đáng để cài dép, hoặc xách giày cho Ngài”.

Tin Mừng kể nhiều về thánh Gioan Tẩy Giả, là để nói rằng: Đấng Mêsia tuy đến sau thánh nhân, nhưng Ngài lại quyền thế hơn. Ngài đến, để tẩy rửa hết mọi người trong Thánh Thần. Bởi, như bài đọc 1, lại đã viết: “Thần Khí Chúa sẽ ngự trên vị này: Thần Khí khôn ngoan và minh mẫn, Thần Khí mưu lược và dũng mãnh, Thần Khí hiểu biết và kính sợ Chúa.” (Is 11: 2) Để, “các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự, sẽ rực rỡ vinh quang.” (Is 11: 10)

Và, cùng một ý tưởng tương tự, thánh Phaolô cũng nói: “Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta.”(Rm 15: 4) Bởi thế nên, “Anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng Danh Thiên Chúa.” (Rm 15: 7)

Cuối cùng thì, phụng vụ thánh năm nay trích dẫn lời kinh hay trình thuật về thánh Gioan Tẩy Giả, cũng để mọi người xác tín rằng: “Tất cả chúng ta đều là anh em. Anh em, cùng một Cha. Cùng được Đấng Mêsia cứu độ. Ngài, đang đến với mọi người lâu nay hằng chờ Ngài, suốt nhiều năm.

 

 

 

Suy Niệm Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Vọng Năm A

 

“Gió chiều cầu nguyện đâu đây.”

“Nắng chiều cắt đoạn một ngày cuối thu”.

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

 

 

 

Mt 11: 2-11

Nguyện cầu có nắng gió ngày cuối thu, hãy cứ làm. Đợi chờ ngày Chúa đến, có vui chơi hát hò ngày Chúa đến, cứ hân hoan.

Phụng vụ tuần thứ 3 mùa Vọng, mang sắc mầu hân hoan rất vui chơi và nguyện cầu. Nguyện và cầu với sắc mầu hồng tía, vào mùa tím. Một mùa, có lời dặn “hãy vui lên, hỡi sa mạc nóng cháy. Hãy vui mừng, hỡi cỏ khô hoang địa”. Vui và mừng, có nụ cười râm ran. Chứa chan hy vọng, một buổi chiều. Dù mùa Đông lạnh lẽo. Hoặc, mùa hạ ở Nam bán cầu, rất nóng cháy.

Trình thuật, nay nhấn mạnh một điều quan trọng và mừng vui hơn những gì dân con Đạo Chúa đáng được hưởng. Đó, cũng là ý tưởng của thánh Gioan, khi thánh nhân khuyên răn mọi người hãy để lòng mình trùng xuống, mà sám hối. Với thánh Gioan, sám hối là sám hối trong nguyện cầu, chưa có nụ cười nở trên môi. Đợi tới lúc Đức Giêsu đến, Ngài mới đem theo nụ cười, cả vào lúc loài người chủ trương sám hối, để ngóng chờ.

Nụ cười vui, Chúa đem đến cho kẻ đợi chờ Ngài, nay thấy rất rõ nơi tâm tình mừng kính Chúa Giáng Sinh, ở đời người. Tâm tình, thể hiện nơi cung cách lẫn ý nghĩa của mỗi hành xử. Trước nhất, là lẵng hoa có lá cành của cây trạng nguyên quấn vòng quanh 4 ngọn nến. Để thắp sáng suốt 4 tuần lễ mùa đợi chờ. Màu xanh của lá, là mầu truyền thống có từ thời xưa ở Yuletide, xứ Xcăng-đi-na-vi.

Người Na-Uy rất thích mầu xanh, cả trên băng tuyết. Người Ái Nhĩ Lan cũng làm thế, là để tỏ rõ một biểu tượng của lễ hội, dù người người đang ở vào mùa băng giá. Trong khi đó, cây thông Noel lại có gốc nguồn từ sử hạnh của thánh Bônifaxiô, ở bên Đức. Nến cháy ở lẵng hoa, lại xuất xứ từ Đức, vào thời Luther, người khởi xướng đạo Thệ Phản. Chí ít, là tập tục của đêm ca hát nhạc Giáng Sinh, rất linh đình như bài “Đêm Thánh Vô Cùng”, “O Tannebaum”, cũng xuất xứ từ các nền văn hoá rất đa dạng. Có khi còn kình chống nhau về chánh kiến, với thần học.

Tóm lại, lễ hội mừng ngày Chúa Giáng Hạ, rày diễn tả tình tự hài hoà, bình an. Không cần biết người mừng lễ, có gốc nguồn từ đâu tới.

Truyện kể về Ông già tuyết mà mọi người ở trời Tây có thói quen gọi là “Santa Claus”, là truyện tích kể về sử hạnh thánh Nicholas, một đấng bậc người Hoà Lan nhưng lại có nguồn gốc phát xuất từ tập tục miền Nam nước Ý. Trong khi đó, nai gạc tuần lộc chuyên chở quà giúp ông Già Tuyết phân phối lộc thánh lại thuộc giống giòng chốn Nữu Ước, nhiều năm trước.

Tóm lại, mỗi khi mừng ngày hội Chúa Giáng Trần, đa phần người các nước đều tổ chức giữa mùa Đông rất băng giá, đều là tập tục của lễ hội từ người ngoài Đạo, chỉ muốn chuyện vui tươi, hiền hoà gửi đến hết mọi người. 25 tháng Chạp, chưa hẳn là ngày Chúa chào đời. Tuy nhiên, ngày ấy vẫn đánh dấu một kỷ niệm Giáo hội thời tiên khởi vẫn muốn chung vui ngày lễ mừng thần nông Satuya, từng định vị ngày 17-19, rất tháng Chạp.

Tất cả mọi chi tiết dù có khác, vẫn chỉ muốn nói lên tính đa dạng ở văn hoá dân con Đạo Chúa, suốt từ lâu. Đa dạng, nhưng không đa tạp, cả vào lúc người Việt ở Nam Bán Cầu vẫn hát bài “Đêm Đông Lạnh Lẽo Chúa Sinh Ra Đời” của Hùng Lân. Dù, những ngày ấy thời tiết nóng cháy đến 38 độ. Hát gì thì hát. Mừng gì thì mừng. Ta vẫn cứ mừng bằng niềm tin ngày Con Thiên Chúa Giáng hạ làm người, để ở với chúng dân. Rất hài hoà. Bình an.

Biết được thế, là nhờ các đoạn Tin Mừng được thánh Mát-thêu và Luca ghi chép. Hai thánh sử đểu đã bỏ ra nguyên hai chương đầu của Sách để kể về Đức Giêsu, thuở thiếu thời. Về trình thuật thời niên thiếu của Chúa, thánh Luca viết nhiều hơn thánh Mát-thêu. Nhất thứ, là chi tiết/dữ liệu. Tuy nhiên, cả hai thánh sử đều ghi chép theo văn phong/văn bản, rất khác biệt về tình tiết. Ý niệm. Mặc dù thế, cốt lõi của trình thuật, vẫn giống nhau.

Trình thuật được hai thánh sử ghi lại, đều có kể về hạnh thánh Giuse và Đức Maria. Dù, hai đấng đã đính hôn theo tập tục Do thái, nhưng các ngài lại không sống chung. Cùng nhà. Thánh Giuse thuộc giống giòng hào kiệt, rất trâm anh. Giòng Đavít. Còn Đức Maria, lại là thiếu nữ trắng trong, một lòng một dạ giữ mình khiết tịnh. Chợt đến lúc, sứ thần thiên quốc hiện đến báo tin lành Mẹ sẽ cưu mang và hạ sinh, Đấng Cứu Thế. Rồi, đề nghị đặt tên Trẻ Bé, là Giêsu. Và, Hài nhi Giêsu đà Giáng hạ ở thôn làng Bét-Lê-Hem, xứ Đạo cùng cực thuộc vùng Giuđêa, rất nổi tiếng. Kịp đến khi Ngài khôn lớn, Thiếu Niên Giêsu mới trở về Nadarét thuộc đất miền Galilê, trở thành Giêsu Nadarét, như Kinh Sách từng báo trước.

Truyện kể ngày Chúa Giáng Hạ, mang tính chất rất “người”, là để nói lên đặc tính “có một không hai” Tình Chúa Thương, rất đặc biệt. Ngài thương yêu loài người đến độ đã tặng ban cho ta, chính Người Con Duy Nhất của Ngài. Chính đó là quà Giáng Sinh, thật chân tình. Chính đó, là quà quý giá, Ngài đem đến có đính kèm sự Bình An/hài hoà cho muôn người. Ngài chính là sự Bình An, Hài Hoà bằng xương thịt. Vì ngày xưa, loài người vẫn sử dụng tập tục Giáng Sinh để biểu trưng tính Hài hoà/Bình an, rất chân chính.

Tin Mừng mùa Vọng, còn hàm ngụ một chi tiết khiến mọi người ngạc nhiên. Đó là: vào các tuần trước đó, Tin Mừng từng đề cập đến ngày thế tận, có bạo lực, khổ đau, âu sầu mà người người đều cảm nghiệm. Tiếp theo đó, các thánh sử còn trích dẫn lời thánh Gioan Tẩy Giả, kêu gọi mọi người hãy về nơi vắng vẻ, để sám hối/nguyện cầu, nơi hoang vắng. Tất cả, cốt ý làm nổi bật hình ảnh Đức Giêsu, Đấng Mêsia Giáng hạ mà mọi người kỳ vọng.

Dù là bà con bàng tộc với Đức Giêsu, thánh Gioan vẫn chủ trương cuộc sống nhiệm nhặt, nặng chất âm thầm, khắc khổ. Ăn, thì thánh nhân kêu gọi đoàn người theo chân ngài hãy dùng thức ăn đặc biệt của sa mạc. Tức, gồm toàn cây trái. Mật ngọt của đàn ong. Mặc, thì chỉ mặc vải áo giản đơn, rất bắt nắng. Nóng bỏng. Và, lời thánh nhân khuyên răn, lại chuyên chú những cải tân. Sám hối. Dọn lòng cho trống vắng, hầu đón rước Đức Chúa vào với đời mình. Thánh nhân chủ trương khuyên bảo mọi người hãy đón rước Đấng Cứu Độ, trong tinh thần nhiệm nhặt, giản đơn mà Cựu Ước từng đề cập.

Còn, Đức Giêsu, thì Ngài lại bảo: Thời đã đến. Thời đây, là Thời của An Bình/Hài Hoà, rất đích thật. Và, muốn được Bình An/Hài Hoà Chúa hứa ban, dân con mọi người hãy một lòng đổi thay cả tâm can, lẫn đầu óc. Thay và đổi, ngay cả động thái mình quyết sống. Thay và đổi, để rồi sẽ bỏ lại đằng sau, mọi tranh chấp. Rất bạo động. Thay và đổi, không chỉ trong phút chốc. Nhưng còn đổi và thay, như Tin Mừng Ngài mang đến.

Tin Mừng Chúa đem đến, sẽ không còn như tin về ngày thế tận, rất đáng sợ. Tin rất Mừng, Ngài chủ trương, chính là quà tặng Chúa đem đến với mọi người. Chính là Bình An, Hài hoà mà trước đây chẳng ai đem đến. An Bình/Hài hoà, không chỉ xảy đến, mỗi ngày vui. Dù, người người có gọi ngày ấy là lễ hội Giáng Sinh hay linh đình ngày Ông Già Tuyết phát quà cho em bé. An Bình/hài hoà, vẫn sẽ là và luôn là, quà đích thực Chúa gửi đến hết mọi người. Mỗi ngày, và mọi ngày. Chí ít, là những người được Chúa đoái hoài. Thương mến.

Thành thử, vào với Tiệc Thánh ta tham dự ngày Đại Lễ, hãy chuyển đến hết mọi người quà tặng Bình An/Hài Hoà Chúa vẫn ban. Để, người người không chỉ vui chơi nhận lãnh thứ quà tặng hời hợt chóng qua, dù được bao bọc bằng sắc mầu/hình thái gì đi nữa. Chuyển quà Chúa ban, còn để mọi người nhớ mà cảm tạ. Cảm tạ Chúa, vì nay mình có thể sử dụng mọi hình thức biểu tượng, đặc trưng của văn hoá đa dạng, từ ngàn xưa, như ảnh hình của Bình An và Ân Sủng. Ảnh hình ấy, đích thực là chính Đức Giêsu bằng xương bằng thịt, đã đến với thế gian. Đã trở thành người, như mọi người. Đó, chính là lý do rất thực, để ta vui chơi. Ăn mừng. Và, tưởng nhớ. Nhớ Đức Chúa đang hiện diện nơi mọi người, bằng sự kiện Giáng Sinh. Linh đình. Ngày Hội lớn.

Suy Niệm Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Vọng Năm A

 

“Từ độ vầng trăng tắt bóng trên đồi’”

ta mang thơ đi vào đời máu chảy.”

(dẫn từ thơ Trần Trung Đạo)

 

 

Mt 1: 18-24

Đem thi ca vào đời, nhà thơ rày thấy máu chảy. Thấy vầng trăng tắt bóng, ở trên đồi. Đem tình thương đến với người đời, nhà Đạo thấy được bình an ơn cứu độ, Chúa gửi đến.

Bình an cứu độ, thánh sử diễn tả bằng ngôn ngữ của đời thường, nên nhiều lúc thấy cũng chệch hướng. Tương tự như, chủ nhà nuôi chó cưng ở nhà là Tôtô, mỗi lần đưa ngón tay muốn chỉ về phía nào đó có thức ăn, thì chó nhỏ thường nhìn vào tay chủ, chứ nào biết chủ muốn mình nhìn về đâu, mà hướng tầm mắt. Người mình thường cũng thế. Mỗi khi lặng nhìn máng cỏ Chúa Hạ Sinh, người đời chỉ nhìn vào cảnh trí, chứ để ý gì đến ý nghĩa của Máng cỏ muốn nói lên!

Ảnh hình “Máng cỏ” bao giờ cũng chỉ là máng ống đựng thức ăn của loài thú, dù vào mỗi dịp Giáng Sinh vẫn thấy đầy trên thiệp giấy. Hoặc, trong hang đá thường đặt ở thánh cung để người người thưởng lãm. Và, các thánh sử nào kể vể thú đàn nằm cạnh thánh Giuse và Đức Maria đâu? Thật ra, thú loài nuôi ngoài đồng chỉ quanh quẩn ở ngoài trời, với chủ chăn, thôi.

Trình thuật, nay kể về Đức Maria và thánh Giuse cố tìm “nhà trọ” để Mẹ Chúa có chỗ hạ sinh Đấng Cứu Thế. Nhưng, nhà trọ không còn chỗ (Lc 2: 7). Cụm từ “nhà trọ” mà thánh sử ghi lại, thật sự lại mang ý nghĩa, rất khác biệt. Tựu trung, đây chỉ là “sàn đất căn hộ được dùng làm nơi tạm thời trú ngụ, mà thôi”. Tại sàn đó, loài thú đôi lúc cũng kéo đến nằm dài, để nghỉ ngơi. Bởi thế nên, trình thuật mới đề cập đến máng đựng thức ăn, ngõ hầu xác chứng tình trạng nghèo, rất cùng cực.

Tuy thế, nếu người đọc quá chú trọng đến ngôn từ “máng cỏ”, họ sẽ quên đi những gì được thánh sử nhắc đến, ngay từ đầu. Trước nhất, đây là “dấu hiệu” để kẻ chăn biết rõ Chúa là ai, để kiếm tìm.

“Máng cỏ” đây, là để mục đồng/trẻ bé thấy những gì thần sứ trên cao từng nói đến, là chuyện rất xác thực. Là, nôi ấm Chúa Hài Đồng tìm đến để trú ngụ. Bởi thế nên, thoạt nhìn thấy, mục đồng/trẻ bé đã hiểu rằng Hài Nhi là chính Chúa đến với những kẻ nhếch nhác, hèn mọn, rất hỗn độn. Giống hệt như mình. Quả thật là thế, khi Đức-Chúa-nhập-cuộc, Ngài chấp nhận cảnh nằm dài trên sàn đất với khách lạ/người dưng. Với kẻ nghèo.

“Máng cỏ” nói ở đây, để chỉ có tầm vóc quan trọng như bảng-chỉ-đường, hoặc ngón tay trỏ của người chủ luôn chỉ hướng cho loài chó nhỏ biết mà chạy đến. Hướng ở đây, là phương hướng của an bình cứu độ, Ngài đạt tới. Hướng ở đây, còn là phương hướng được thánh sử giải thích rõ ở trình thuật. Phương hướng ấy, nay thể hiện nơi Hài Nhi bé bỏng vừa chào đời đã được chúc tụng/ngợi khen là “Con Thiên Chúa” rất Hằng Sống. Và, người dấn bước theo chân Chúa vẫn coi Ngài là Đấng Mêsia Cứu Độ. Chúa của muôn loài.

Nội một việc Hài Nhi bé bỏng hạ sinh ở xứ làng nghèo Ở Bê-Lem thôi, cũng đã dấy lên tranh chấp lớn giữa “Vương Quốc của Đức Chúa” với “dương gian chốn ngút ngàn”, của La Mã. Vương quốc của Chúa chỉ yếu ớt, không đáng kể. Dễ bị hại. Trong khi đó, dương gian ngút ngàn chốn đế đô La Mã lại là uy quyền dũng mãnh, độc quyền, và chuyên chế. Bởi lẽ, Hoàng đế Augustô của La Mã chả bao giờ nghe biết Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa.

Với thế trần, chuyện gọi Đức Giêsu là Chúa, có nghĩa là người ấy chối bỏ danh tánh chức phận của Cesar. Và, sở dĩ dân con theo Chúa ở thế kỷ đầu vốn bị bách hại, chẳng phải do họ cứ để trong đầu các ý tưởng kỳ quái đó. Mà vì họ dám phản chống tư cách rất lãnh chúa của vua quan. Phản chống, vì dân con Đạo Chúa không tin vào “lãnh chúa” đang thống lĩnh dân gian. Trái lại, họ tin Chúa mới là Chúa đích thật của mình, thôi. Trong khi đó, Hoàng đế La Mã cho rằng: hành xử của Đức Giêsu chỉ là để tiếm quyền. Để, khinh chê quyền bính của Hoàng đế, đang quản cai, áp bức dân con nghèo túng, rất thấp hèn.

Chính vì thế, nên mỗi khi nhìn ngắm “máng cỏ” ở thiệp mừng chúc hay đâu đó, ta cũng đừng nên dừng lại ở đó. Trái lại, hãy coi đó như đường hướng đem ta về với sự thật rất nổ bùng khi xưa, nơi Hài Nhi nhỏ bé, nhưng lại chính là Vua Cha đích thật của mọi người. Phần còn lại của trình thuật, là phần diễn nghĩa giúp ta hiểu cung cách rất mới lạ Chúa giáng lâm.

Với thánh sử Mát-thêu, Chúa giáng lâm theo cung cách của vua quan thuộc giống giòng hào kiệt xuyên suốt mãi tận thời đại của Đavít. Bảo Ngài thuộc giống giòng hào kiệt, là vì: trong cả 3 phần của trình thuật về gia phả, mỗi phần đều gồm những 14 thế hệ. Có chỗ là lịch sử được viết rõ; có chỗ chỉ là truyền khẩu, thôi. Thậm chí, còn vài vị mang dáng dấp rất thần thoại. Có vị lại thuộc phường giá áo, túi cơm. Rất chao đảo. Tất cả, chỉ để nói rằng: ơn cứu độ không chỉ đến với giòng dõi rất tinh khiết của chi tộc Israel thôi, nhưng cả với dân thường, giản đơn và đớn hèn, nữa.

Dẫn vào trình thuật hôm nay, là đoạn viết về gia phả của Chúa. Ở đây, thánh Mát-thêu mô tả thánh cả Giuse là vị anh hùng cái thế, của muôn người. Thánh nhân đã thành thân với Đức Maria theo luật định. Rất đúng mực, theo tập tục người Do thái. Tất cả mọi chi tiết, được thánh sử dẫn nhập vào trọng tâm trình thuật để nói về nguồn gốc của Đức Chúa.

Trọng tâm ấy, thánh sử muốn nhấn mạnh đến cơn khủng hoảng về lương tâm mà thánh Giuse đang gặp phải. Khủng hoảng, là ở chỗ thánh nhân biết rõ vị hôn thê của mình đã có thai, lại ở vào tuổi đời còn quá trẻ mà luật pháp không cho phép. Thành thử, cuối cùng thần sứ Chúa phải đến cứu bằng một thẩm định chính đáng. Xác thực.

Khủng hoảng, còn ở điểm thánh Giuse, nhân vật chính của trình thuật, không phải là thánh Giuse của truyền thống ngoan Đạo, trong Giáo hội thời đó. Vì theo luật thì vị hôn thê của thánh nhân có thể sẽ bị ném đá cho chết một khi dám gần gũi và mang thai với người khác không phải là chồng mình. Khủng hoảng, là khủng hoảng của người “công chính” vì vẫn phải giữ luật.

Thế nên, khủng hoảng này chỉ được giải quyết khi chính Đấng là Chủ của luật lệ đã đích thân mạc khải cho thánh nhân phương cách để giải quyết. Tuy không hiểu rõ cho lắm, nhưng thánh nhân vẫn tôn trọng nhiệm tích Chúa ban, và đón nhận ơn mạc khải soi sáng với tất cả sự tôn kính của bậc hiền nhân quân tử. Với sự trợ giúp của chính Chúa, thánh Giuse đi đến quyết định chung cuộc đành phải hành xử theo cung cách xung khắc trái với luật lệ của người đời thời đó, để chấp nhận “luật chơi” của Thiên Chúa. Và, sau một đêm dài phấn đấu, thánh nhân đã đón nhận Đấng Cứu Độ của mình. Thánh nhân chấp nhận đưa tên tuổi mình vào gia phả thánh, bằng hành xử đón Chúa đến, qua sự việc Giáng Sinh. Rất quang vinh.

Quả thật, ta sẽ chẳng thể nào hiểu được tính chất rất bi kịch của trình thuật, nếu mọi người không đối chiếu với truyện kể Abraham được lệnh phải hy sinh con mình là Isaac, làm của lễ như luật lệ đã qui định. Kịp khi ấy, thần sứ của Giavê đến cản ngăn. Ban trả lại cho ông vị quí tử và đưa ông vào tương quan thật rất mới.

Cũng trong chiều hướng tương tự, bài đọc 1 đã sử dụng sách tiên tri Isaya, với đoạn trích nói rất rõ: “Chính Chúa Thượng sẽ ban cho các ngươi một dấu lạ: này đây người thiếu nữ mang thai và hạ sinh con trai, đặt tên Ngài là Em-ma-nu-en.” (Is 7: 14). Tức, Thiên-Chúa-Ở-Cùng.

Bài đọc 2 trích lời thánh Phaolô quả quyết với dân thành Rôma, là giáo đoàn còn hoang mang, vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa của ơn cứu độ thể hiện nơi Chúa-Làm-Người, bằng những câu: “Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Đức Kitô Giêsu; tôi được gọi làm Tông Đồ và dành riêng để loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa. Tin Mừng ấy, xưa Người đã dùng các ngôn sứ mà hứa trước trong Kinh Thánh. Là, Tin Mừng về Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (Rm 1: 1-2)

Bằng vào tin vui rất mừng ấy, người người hôm nay, thay vì mừng kính lễ hội đình đám những vui chơi, ta hãy nhận biết rằng: lời ngôn sứ khi trước nay đã thành hiện thực. Lời ấy, là thế này: Đấng-Mêsia-Làm-Người được Chúa gửi đến với trần gian hôm nay không chỉ là Hài Nhi Bé Nhỏ Giáng Hạ cho trần thế, rất chân phương. Hiền lành. Nhưng, Ngài chính là Đấng Mêsia đến ở với chúng ta. Bây giờ và mãi mãi. Suốt mọi thời.

 

Suy Niệm  Chúa Nhật Lễ Giáng Sinh Năm A

 

“À ơi! Hai tiếng làm người,

“Héo xuân chói hạ, nảy chồi thu đông.”

(dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)

 

 

Lc 2: 1-14

Làm người, đâu nào khó đến thế! Làm người, như Chúa đã làm, bằng sự kiện Giáng Hạ, từ nơi cao sang vẫn là chuyện đáng nói. Và đáng làm, như một truyện kể rất hôm nay. Thời đại này. Bằng ngôn ngữ đời thường. Của người thường, như sau:

Thánh Luca viết trình thuật về ngày Chúa Giáng Hạ là viết cho người đọc sống cùng thời. Có người hỏi: nếu thánh sử sống vào thời đại rất hôm nay, hẳn thánh nhân sẽ dùng văn phong cung cách khác hẳn thời buổi trước? Đúng vậy nên, người đọc và nghe trình thuật hãy cứ tưởng tượng một cảnh trí qua đó, thánh nhân tay cầm máy vi âm, miệng lưỡi hùng hồn kể những điều rất như sau:

Thập niên đầu thuộc thiên niên kỷ thứ ba, vị tổng thống đại cường quốc số 1 thế giới, đã nhân danh tư cách lãnh đạo toàn thế giới, quyết định lập tổng kiểm tra dân số để, nhân đó, điều tra về vũ khí giết người hàng loạt, do Taliban sắm tậu từ một nước Hồi giáo ở Trung Đông. Đây là lệnh tổng kiểm tra lớn nhất từ trước đến nay, trong thời gian gần đây, khi toàn thể thế giới vẫn lo ngại về một thế chiến sẽ bùng nổ rất sớm, nếu không kịp ngăn chặn.

Vì là kiểm tra kê đặc biệt, nên người dân mọi nước đều phải chuẩn bị về quê thôn làng của mình. Kẻ, thì tòng chinh nhập ngũ. Người, mua tậu vũ khí rất tối tân hy vọng có thể cầm cự qua cơn bĩ cực mong ngày thái lai. Ai nấy đều lo toan quay về chốn miền sinh sống cũ theo đoàn/nhóm ngôn ngữ, sắc tộc, và tín ngưỡng. Bởi, chiến tranh có thể bộc phát bất cứ lúc nào. Và, ngòi nổ chiến tranh có thể xuất phát cả từ thôn làng hẻo lánh, ở khắp nơi. Dù, thế giới thứ ba. Châu Âu hay là châu Á.

Trình thuật tiếp tục kể về nhân vật thuộc sắc tộc ngoại bang, đang lang thang rày đây mai đó, ở đâu đấy. Ông có gốc nguồn là dân tộc Do Thái. Thuộc gia đình lao động loại cần cù. Mọi người đều gọi ông bằng tên tục rất thân quen, bố già Giuse. Bố xuất thân tận đất miền làm việc chẳng từ nan, cũng theo lệnh trở về nơi chôn rau cắt rốn, để làm thống kê.

Cùng đi với ông có người vợ trẻ đang mang thai gần ngày sinh. Hai vị tìm mãi không thấy nơi nào thích hợp để ở cữ. Nói gì đến việc tìm nơi ở vừa tiện lại vừa túi tiền được. Theo lệnh của lãnh đạo ở cấp cao, nên bà con lũ lượt trở về, thi hành lệnh. Do đó, nhà trọ và khách sạn đều hết chỗ. Hiền mẫu trẻ, đành hạ sinh em bé rất hiền hoà, ở góc bụi. Nơi công viên ít người héo lánh. Bà tìm vội ba tấm vải thô làm tã lót quấn thân mềm của em bé. Cũng chỉ qua quít để Hài Nhi thấy bớt lạnh, ngày Đông giá.

Ở cạnh đó, thấy có đôi phần tử “tứ cố vô thân” thay nhau để mắt canh chừng kẻ làm hỗn. Hầu tránh khỏi mọi trục trặc xảy đến lúc tối trời. Chính vào lúc ấy, họ phát hiện ra bé em đang nằm gọn trên đôi tay bà mẹ trẻ. Mẹ vỗ về em bé với lời ru ời ợi, cạnh “Bố già” có dáng vẻ khá thấm mệt, dính bụi đường xa. Trước cảnh tượng ít thấy xảy ra, đám “bụi” lân la cùng mấy chú khuyển trông ngó bé em bằng cặp mắt rất thân thiện.

Với đám người “sống vô gia cư chết vô địa táng” chuyên “lang bạt kỳ hồ”, thì lệnh tổng kiểm tra có ghê gớm đến thế nào đi chăng nữa, cũng chẳng làm họ bận tâm. Điều, khiến họ bận đến tâm can hơn cả là: ngó chừng cho bé em qua được đêm dài nhiều trắc trở. Với họ, thân phận của bé em chắc rồi cũng sẽ đổi dời cả một thế hệ. Bởi, chỉ sự hiện diện của bé em thôi, đã đem lại cho họ cả một an bình họ tìm mãi, vẫn không thấy.

Kể từ đây, kẻ không nhà không cửa như họ, nay mới biết thế nào là niềm vui đích thực khi gần cận với bé em. Niềm vui ấy, nay thấm nhập thẳng tận tâm can khiến họ cứ đi đây đó mà kể lại cho bạn bè đồng trang lứa. Kể, để mọi người biết chuyện mà tìm đến. Tìm, để được bình an trong tâm hồn. Đến, để phổ biến tin vui an bình, Ngài vẫn hứa. Đồng giọng với họ, có đủ mọi giọng ca vang từ đâu đến hát khen những nốt nhạc, thật sự vui.

Càng vui hơn, khi mọi người nhìn được tận mắt ánh thân thương mẹ hiền nhè nhẹ trân trọng mừng đón cảnh tình của bé em. Điều đó, đủ chứng tỏ cho họ thấy Bé đích thực là Đấng mà mọi người đợi trông.

Càng vui nhiều, khi người người nhận ra sứ vụ của thiếu niên Giêsu nay khôn lớn, đã trở về thôn làng quê mẹ sống đời thầm lặng những lao động và lao động, nối nghiệp người bố đời từng là công nhân, tạm kiếm sống. Đến ngày “N” vinh hiển, Ông lại đã cùng đồ đệ và người thân đặt chân ghé viếng khắp nơi, từng xóm làng nghèo nàn hẻo lánh. Mỗi nơi, khắp chốn Ông cùng đoàn người thăm viếng từng nhà. Hỏi han từng người. Khuyến khích họ thực thi ý định của Cha, là tái lập cuộc sống có vui mừng thực sự. Biết yêu thương, giùm giúp hết mọi người.

Bạn bè người thân trong cùng nhóm với Người, từ khi ấy, cũng đã đi khắp đó đây phổ biến sứ điệp Chúa gửi gắm: Nước trời đã gần kề. Hãy trở về mà sám hối. Hãy sống cùng nhau dựng xây Vương Quốc của Chúa, ở trần gian. Ở nơi đó, người người sống theo cung cách lao động tuỳ khả năng, hưởng thụ tuỳ theo nhu cầu, rất Nước Trời. Cũng từ đó, sứ điệp Bình An của Nước Chúa, đã nhanh chóng lan toả khắp nơi nơi. Khiến mọi người đến với nhau, trong tinh thần hoà hoãn. Yêu thương. Đùm bọc.

Chính đó, là khúc gai nhọn thách thức giới cầm quyền, khiến họ cho người theo dõi. Cuối cùng, đám cầm quyền bèn sai ba quân đến, lấy cớ để điều tra, nhưng đích thực ra lệnh tống giam Người vào ngục tối. Sau đó đã cho người đến thủ tiêu, phi tang mọi bằng cớ. Để mọi người không còn biết Ngài là ai. Sao Ngài lại thế.

Nhà cầm quyền muốn triệt hạ Ngài bằng mọi phương cách gian giảo nhất. Nhưng ba quân cầm quyền chẳng làm sao ngăn chặn được làn sóng người từ khắp nơi nay nghe biết, đã bắt đầu thực hiện những điều Ngài dạy răn, cứ thế mà lan truyền học thuyết nhân từ Ngài chủ trương: lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Học thuyết ấy, nay trở thành sự thật rành rành gắn chặt tâm can của con người.

Kể từ đó, mọi năm cứ vào ngày này, hậu duệ của Ngài ở khắp nơi cứ thế họp nhau mà mừng kính sự kiện “có một không hai” trên cõi đời. Gặp ai cũng thế, người người kể cho nhau nghe chuyện Giáng Hạ của Bé em mang tên Giêsu. Để rồi, mỗi lần làm thế, họ đều hiểu tường tận ý nghĩa của sự kiện Ngôi Lời Nhập Thể, nhập cả ơn lành bình an đến với những người được Chúa đoái thương.

Đi đâu cũng vậy, con cháu Ngài vẫn lập đi lập lại lời ca vang hôm trước, mà hát:

“Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ." Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng:

"Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

bình an dưới thế cho loài người Chúa thương."

(Lc 2: 10-14)

 

“Đừng sợ! Chính Ngài là Đức Chúa. Là, Đấng Cứu Chuộc muôn người!” Đó, là ý nghĩa của lễ hội Giáng Sinh. Lễ hội, mừng Chúa xuống thế làm người sống với ta. Thương yêu ta như anh em cùng nhà. Nhà Thiên Chúa. Nhà mọi người.

 

 

Suy Niệm Chúa Nhật Lễ Thánh Gia Năm A

 

 

“Những đời phiêu bạt, thân đơn chiếc”,

lần lượt theo nhau, suốt tháng ngày.”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

 

 

Mt 2: 13-15, 15-23

Vì vẫn phiêu bạt, nên đơn chiếc. Vẫn là thân phận nhà thơ, ở đời người. Bởi đã quây quần, nên hoà hợp. Và, cũng một tính chất rất “người”, của Thánh Gia.

Với thế giới đương đại, người người vẫn nghe biết vị thế gia đình hài hoà của Đức Chúa. Vị thế, đối chọi với lối sống cá nhân/vị kỷ của người đời. Cá nhân/vị kỷ, đến mức độ trở thành lập trường sống của những người chỉ tập trung hưởng thụ theo cung cách riêng lẻ. Trong khi đó, cuộc sống của Chúa, lại khác. Khác ở chỗ: Ngài chủ trương chiều hướng với tha nhân. Chiều hướng dễ thấy nơi gia đình. Chí ít, là Thánh Gia của Chúa khiến ta mở rộng tầm mắt để theo gương.

Thời buổi hôm nay, người người nghe biết nhiều về giá trị gia đình. Với nhóm/hội nhà thờ, ta được dạy dỗ để có tinh thần cộng đoàn như Chúa đặt làm điều kiện tiên quyết cho cuộc sống. Thế nên, Thánh gia là cộng đoàn lý tưởng. Là đường hướng rất sống động cho mọi người. Ở đời.

Gia đình và cộng đoàn, là nhóm hội đoàn thể của những người biết sống hoà hoãn, vì chung cùng một lịch sử. Cùng văn hoá. Hoặc, niềm tin. Thành viên gia đình sống yên vui hài hoà, vì xuất xứ cùng một nguồn gốc. Cùng máu mủ. Và, thành viên cộng đoàn sống yêu thương giùm giúp, là quyết định của mỗi người cùng nhau lập nhóm/hội để sống tương quan mật thiết, làm con Chúa.

Thông thường, mỗi nhóm/hội gia đình gồm 5 vị: trong đó phải kể đến ông bố, bà mẹ, cô con gái còn độc thân và anh con trai đã có vợ. Tất cả sống chung một mái nhà, với sự dẫn dắt của ông bố/bà mẹ rất có uy. Có gia đình, nhiều ông bố/bà mẹ lại có cả quyền sinh, quyền sát khiến thành viên trong nhà cứ một lòng tiến tới. Về cấu trúc gia đình, mỗi người một phần hành. Ông bố chuyên lao động và giáo dục, bà mẹ chăm lo nội trợ, và dưỡng nuôi. Nhất nhất mỗi người phụ trách phần vụ mình nhận lãnh.

Tuy nhiên, bởi quyền sinh quyền sát của ông bố/bà mẹ đôi lúc đi quá trớn, nên có trường hợp một trong hai vị đi đến lạm dụng quyền bính khiến quyền hạn của thành viên bên dưới, bị lấn ép. Thời của Chúa, là thời theo chế độ phụ hệ, nên chuyện ông bố lạm dụng quyền bính trong gia đình, vẫn xảy ra rất thường. Kết quả là, cơ chế bị đổ vỡ. Thành viên vẫn đau khổ. Vẫn rẽ chia.

Diễn tả tình trạng này, có lần Chúa nói: “Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban hoà bình cho trái đất sao? Thầy bảo cho anh em biết: không phải thế, mà là rẽ chia. Bởi từ nay, năm người trong nhà sẽ chia rẽ nhau, ba chống lại hai, hai chống lại ba. Họ sẽ chia rẽ nhau: cha chống lại con trai. Con trai chống lại cha. Mẹ chống lại con gái. Con gái chống lại mẹ. Mẹ chồng chống lại nàng dâu. Nàng dâu chống lại mẹ chồng."(Lc 12: 51-53)

Rõ ràng nhiều lúc, Chúa đả phá tinh thần của gia đình hoặc cộng đoàn nào có cung cách hành xử rất tồi tệ. Ngài chỉ trích, là để đề cao/thăng tiến “Nước Trời”. Ngài không muốn chỉ đạo mọi việc theo kiểu ông thần/bà chúa chuyên ra tay tổ chức các buổi “hội diễn”, đình đám để được khen. Chúa chẳng muốn điều hành bất cứ một hội diễn/lễ hội, nào hết. Dù, buổi đó có là buổi rước kiệu linh đình, nổi sóng nói lên một hội chứng mang tính cộng đoàn, tập thể.

Chúa cũng không là ông bố/bà mẹ đầy quyền sinh quyền sát khiến con cái run sợ, như vẫn thấy ở đời thường. Ngài luôn đối xử với mọi thành viên gia đình như Người Cha Nhân Hiền muốn đàn con của Ngài luôn ới gọi mình bằng danh xưng “Lạy Cha”, mỗi khi cần.

Cộng đoàn Nước Trời có Chúa kề cận, nên lúc nào cũng thân thiện/cởi mở theo cung cách một gia đình, rất mật thiết. Cộng đoàn Chúa, luôn đón tiếp chào mừng hết mọi người. Đón tiếp, để người người đến với Vương Quốc của Ngài. Vương Quốc ấy, luôn mở rộng cửa để mọi người gia nhập. Và, khi đã gia nhập Vương Quốc Ngài rồi, người người sẽ nên dân con cùng nhà. Vì cùng nhà, nên người người vẫn cho đi và thừa hưởng quà tặng ân sủng, Chúa phú ban trong tinh thần cởi mở. Của gia đình. Lòng rộng mở của Ngài, mọi người gọi đó là Sự Công Chính. Là Tình Chúa rất đích thực. Là, “Ý định của Cha”. Và là, biển-chỉ-đường dẫn đưa dân con về với Ngài. Vào vòng tay ôm chào đón mỗi khi ta chạy đến.

Về bậc cha mẹ và anh em trong nhà, có lần chính Chúa đã minh định: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? " Rồi, Ngài giơ tay chỉ các môn đệ và nói: "Đây là mẹ tôi. Là anh em tôi. Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi." (Mt 12: 46-47)

Thế nên, những ai sống thực cảnh tình của Nước Trời ở trần gian, sẽ thấy cơ cấu gia đình/cộng đoàn không thể là chuyện tuyệt đối. Rất đương nhiên. Bởi lẽ, tất cả mọi hữu thể được hiện hữu đều nhờ con người biết chung sức bồi đắp, nên mới đạt. Bởi thế, cuộc sống theo cung cách gia đình/cộng đoàn luôn thăng tiến cả nữ giới lẫn nam nhân, vốn có sự tự do của dân con nhà Đức Chúa. Sống tập thể như thế, sẽ không áp dụng định luật tuyệt đối như cung cách của nô lệ đối với chủ nhân ông. Như con trẻ đối với lời dạy của bậc thày. Cũng không theo kiểu “vợ tuỳ thuộc vào chồng mình” như các thánh khi xưa, thường khuyến khích. Đó là động thái đặc biệt của dân thường miền Địa Trung Hải vốn được đưa vào Kinh Sách, ngay từ thế kỷ đầu.

Trong khi đó, Đức Giêsu lại cương quyết phá bỏ mọi tương quan mang tính thày/tớ, chủ/nô. Ngài nhất mực khuyên dân con mọi người hãy vui mà phục vụ. Phục vụ lẫn nhau. Phục vụ và sống như trẻ nhỏ. Tức, sống trải nghiệm cảnh huống Nước Trời ở trần gian. Thực tế cho thấy, đồ đệ phụ nữ của Chúa vẫn trung thành nhiều hơn nam nhân.

Và, kinh nghiệm sống cho thấy: phần đông người theo Chúa, lại hay xuất phát từ gia đình neo đơn hoặc gặp cảnh “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”. Nên, sống theo giá trị Chúa gọi mời, là thử thách đối với giá trị của gia đình/cộng đoàn. Đồng thời, ta cũng không thể gọi gia đình của ai đó là gia đình thực nếu họ không có truyền thống coi trọng lối sống cởi mở mà Chúa dạy.

Thành thử, vào Tiệc Thánh mừng Thánh Gia hôm nay, ta nhất định sẽ quây quần sống hài hoà như gia đình. Tức là, vẫn cứ hiên ngang mà sống, dù cho các hệ lụy âu sầu, vẫn theo sau.

Cuối cùng, có thể nói: nếu khi xưa Chúa không sống cảnh tình giáp mặt thực sự với đời thường, hẳn là Ngài đã không sống hài hoà với người người. Hẳn, Ngài lại đã không chấp nhận cái chết ô nhục để cứu độ dân con thành viên gia đình lành thánh. Hẳn, Ngài đã không quanh quẩn ở đâu đó, sống rất hiền. Lúc, thì ở Galilê, chốn địa đầu. Khi, thì về chốn quê miền, trên đồi vắng. Những nơi, những chỗ rất nghèo, chẳng có gì để tựa đầu. Chẳng có gì là hấp dẫn. Rất vui chơi.

Quả là, Ngài đã và đang giáp mặt với mọi tình huống cuộc đời như gia đình/cộng đoàn lành thánh, ở trần gian. Quả là, từ gia đình lành và thánh ấy, Ngài đã trỗi dậy. Trỗi và dậy, khỏi cái chết rất tức tưởi. Khổ nhục. Quả là, Ngài đã chết cho chính Mình. Chết, vì người đời vẫn cứ theo kiểu cách sống cá nhân. Vị kỷ. Nhưng thật sự, Ngài đã trỗi dậy. Cứ, trỗi và dậy mãi, để nhờ đó thành viên dân con của Ngài cũng sẽ vùng dậy mà sống tinh thần của Gia đình lành thánh. Rất Thánh Gia.

 

Suy Niệm Chúa Nhật Lễ Hiển Linh Năm A

 

“Những vần thơ anh huyền ảo quá,”

“và thiêng liêng quá, và cao siêu.”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

 

Mt 2: 1-12

 

Là thơ thôi, sao lại bảo đó là huyền ảo, với linh thiêng? Linh thiêng, ảo huyền chính là hiện trạng đích thực Chúa hiển thi ngày Hiển Linh.

“Hiển Linh” là cụm từ mang ý nghĩa mạc khải để tỏ bày việc Chúa hiện nguyên hình cho dân con mọi người, rày kính phục. “Hiển Linh” hôm nay gồm ba ngày liên tục xảy đến vào ba Chủ nhật. Chủ nhật hôm nay, Chúa tỏ hiện ngang qua trình thuật kể về Đạo sĩ mang quà tặng đến dâng kính Chúa Hài Đồng. Chủ nhật tới, có truyện kể Chúa nhận ơn tẩy rửa từ người anh họ, là thánh Gioan Tiền Hô dám cử hành. Và sau đến, thánh sử kể tiếp việc Chúa hiện tỏ cho dân con mọi người ở Galilê, chốn quê miền đồng nội rất mến yêu.

Phần đông ta nghe truyện kể về ba nhà Đạo sĩ tìm viếng Chúa, đến quen tai. Ta cũng từng thấy ảnh tượng cả ba vị nơi máng cỏ, ở nhà thờ. Cũng nghe nhiều tuồng tích truyện kể khá ly kỳ về ba nhân vật được gọi là “Đạo sĩ” hoặc “Các Vua quan” rất phương Đông. Ly kỳ đến độ ta biết được cả tên tuổi cũng như vị thế của mỗi vị. Dù, Tin Mừng thánh Mát-thêu nói đến các vị chỉ một lần duy nhất, mỗi thế thôi.

Sau này, chẳng có thánh sử nào nhắc tên các vị ấy ở trình thuật hoặc thánh truyền lịch sử cùng thời gian cả. Cụm tụ “magi” hoặc “nhà ảo thuật” mà ngày nay người người vẫn quan niệm, thật ra chỉ diễn tả các bậc thức giả thuộc giai cấp tế tự, xuất phát từ đâu đó, xứ miền rất Ba Tư. Các vị, là những người có năng khiếu chuyên biệt, biết cả đường đi nước bước của trăng sao/tinh tú, rất chiêm tinh. Với thánh sử Mát-thêu, đó không là việc chính yếu thánh nhân muốn ghi lại, ở Tin Mừng.

Điểm chính mà thánh nhân muốn nói đến, là việc “các ngài đem quà đến tặng dâng Hài Nhi Giêsu vừa sinh ra”. Quà tặng được kể, gồm: vàng, trầm hương và mộc dược. Vàng, là món đồ quý giá/đắt tiền, ai cũng biết. Trầm hương, là thứ nhang trầm tinh khiết vẫn được người phương Đông dùng ở đền thánh vào các buổi lễ có nghi tiết phụng thờ. Mộc dược đỏ, là chất dẻo rất thơm, thường được người xưa chiết lọc để dùng vào kỹ nghệ dầu thơm. Tất cả, đều là quà dâng lên Đức vua, rất hiếm hoi, cao quý.

Các đạo sĩ là những vị ngoài luồng, không phải là Do Thái. Vì thế, họ đại diện cho chúng ta, tức dân con muôn nước ở cõi trần. Mỗi lần dân con ngoài luồng dâng phẩm vật lên Vua Cha của ta, món quà cao quý, là có hiển thị dành riêng cho chính mình. Hiển thị đây, là khả năng khám phá ra Chúa. Khám phá ý nghĩa cuộc đời là việc dâng tiến Cha những món quà cao quý nhất của mỗi người. Mỗi quốc gia. Dân tộc.

Điểm chính trình thuật hôm nay cốt cho thấy: Chúa hiển thị với các nhà đạo sĩ thuộc dân “ngoài luồng”, là Ngài hiển thị với thế giới mọi thời, mỗi lần họ dâng quà quý giá, lên Đức Chúa. Và, tặng quà cho nhau. Xem thế thì “tặng quà” là hành xử chứng tỏ một Hiển thị, mà nhà Đạo mình có thói quen gọi đó là Hiển Linh. Tức, một Hiển thị rất linh thiêng. Linh đạo. Đáng tôn kính.

Nếu thánh sử sống vào thời buổi hôm nay, có lẽ thánh sẽ viết trình thuật về quà tặng dâng rất hiển thị/Hiển Linh từng xảy đến ở thành phố lớn như Luân Đôn, Nữu Uớc rất bôn ba, cận kề ngày Hội lễ rất thánh, là Lễ Hội Giáng Sinh ở hầm tầu hôm ấy. Hầm tầu điện ngầm hôm ấy thấy có 2 quả bóng bay rất bề thế. Một xanh, một đỏ bay lơ lửng ngay trên đầu của đám đông, lố nhố đi lại ra chiều bận rộn. Bóng bay ấy là quà tặng theo dạng đồ chơi từ hai bé em chạc mười tuổi xuất từ một gia đình người da mầu, ăn vận rất bảnh bao. Bong bóng em cầm không thuộc loại cũ kỹ. Mà là, bong bóng Giáng Sinh, gắn trên que gỗ có núm vàng ở trên đầu.

Kế đến, chợt xuất hiện cô bé tóc trắng tuổi chừng mới lên bẩy tung tăng bước lên tàu điện ngầm, tay bám chặt vào lớp áo da của ông bố. Cô bé khiếp sợ chuyện gì đó, vẫn cứ la cứ hét thật to như để mọi người chú ý đến. Hoá ra, cô bé là trẻ bị chứng bệnh tâm thần phân liệt. Ai cũng đoán thế, nhưng chẳng biết làm sao để giúp. Mọi người cứ giả bộ như cô bé không có ở đó. Duy có cậu bé đang cầm bong bóng bay mầu rất đỏ. Cậu thả quả bong bóng đỏ cứ là lăn nhẹ trên đầu mọi người trong toa tàu, để rồi cuối cùng cậu bé túm lấy bóng đứng trước mặt cô bé và nói: Chào cô bé. Bong bóng này là của em. Chúc Giáng Sinh vui vẻ nhé. Thôi ta tạm biệt.”

Với những người có mặt chứng kiến cảnh tượng hôm ấy, thì cậu bé này xuất thân từ các nhà đạo sĩ buổi hôm trước. Bởi mỗi người trong đời, đều được hiển thị, Hiển Linh, giống như thế. Một hiển thị, mà rõ ràng mọi người vẫn nghe âm thanh văng vẳng từ đâu đó, chốn miền linh thiêng trong trắng có những lời như: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy."(Mt 25: 40)

Phản ứng của quần chúng hôm ấy như lên cơn điện giựt. Tất cả đều nhận ra điều gì đó. Điều đã chuyển đổi từ đám người âm thầm bực dọc vì cuộc sống, sang đến cộng đồng của người chòm xóm, rất thân thương. Từ một dáng điệu rất nhỏ của một bé em da mầu, vậy mà cũng làm chao đảo cả một đám người.

Quả có thế. Cử chỉ của cậu bé có bong bóng đỏ thật ra cũng chỉ nhỏ nhoi, tầm thường. Nhưng, lại rất cao và rất quý. Cao quý, là bởi em dám cho đi phẩm vật rất đáng giá mà em sở hữu. Cho như thế, có thể là em sẽ bị rầy la từ cha mẹ, nếu chưa sẵn sàng để chấp nhận một cử chỉ đầy ý nghĩa như vậy. Qua cử chỉ “cho không” này, em đã cho Chúa một món quà rất ý nghĩa. Em đã cho mọi người một ý nghĩa cao trọng của một Hiển Linh. Rất hiển thị. Cao quý. Ít người thấy.

Cho đi, để muôn vật được bừng sáng, như trích đoạn của sách Tiên tri Ysaya lại đã viết: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi.(Is 60: 1)

Và hệt như thế, ở bài đọc 2, thánh Phaolô cũng xác nhận một quà tặng mà dân con ngoài luồng được nhận ân huệ từ Chúa: “Anh em đọc thì có thể thấy rõ tôi am hiểu mầu nhiệm Đức Kitô thế nào. Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Ngài đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do-thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.” (Êp 3: 5-6)

Hôm nay đây, thi sĩ văn nhân sống ở ngoài luồng, cũng có những cảm nhận về quà tặng rất thơ, nên từng viết như sau:

“Tôi đã mơ màng chuyện tóc tơ,

Bỏ dở khăn thêu, nàng lẳng lặng

đến xem chàng nối mấy vần thơ.”

(Nguyễn Bính - Bến Mơ)

 

Với văn nhân thi sĩ, thì chuyện “nối vần thơ” là nối lại tình người có quà tặng mang đến cho nhau, trong thinh lặng. Và là hình thức trao dâng mà khi xưa các đạo sĩ vẫn làm. Cả ngày nay nữa, bé em da mầu ở Luân Đôn cũng đã làm và nhắc nhở người người hãy cùng làm một cử chỉ “nối tặng cho nhau những vần thơ”. Mà, người đời chừng như vẫn ơ hờ, quên lãng bấy lâu nay.

 

 

 Suy Niệm Chúa Nhật Lễ Chúa Chịu Phép Rửa Năm A

 

 

“Ôi bát ngát trái tim hồng nhỏ bé”

“Nghe làm sao ân ái điệu rung trời?”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

 

 

Mt 3: 13-17

 

Bát ngát mầu hồng, tim mình đâu nhỏ bé. Rung trời nhà Đạo, niềm yêu nào có nghe?

Hội lễ Chúa chịu phép rửa, cũng có những cung điệu nghe đến rung trời, nhiều bát ngát. Rung trời hoặc bát ngát hay không, vẫn là động thái tuỳ thuộc dân con nhà Đạo có đón nhận trình thuật thánh sử có ghi chép hay không mà thôi. Trình thuật hôm nay, thoạt xem người đọc cứ tưởng rằng đây chỉ là “chuyện nhỏ” Hội thánh muốn chứng tỏ tầm quan yếu của bí tích thanh tẩy. Hoặc, vai trò lớn của thánh Gioan Tiền Hô, thôi. Thật ra thì, trình thuật chỉ muốn diễn đạt về thuở đầu đời của Đức Chúa khi Ngài công khai đến với đời. Ở với người.

Sự kiện lớn, thấy rõ ở đoạn: vừa từ dưới nước lên, Đức Giêsu đã có trải nghiệm mới. Trải nghiệm này, chứng tỏ cho Ngài thấy những điều rất thực tế. Ngài là Ai? Ngài sẽ phải thực hiện những gì trên quãng đường, ở trần thế. Và, để Ngài thấy Đức Chúa thực ra là thế nào. Vì thế, trải nghiệm của Ngài khi lĩnh nhận thanh tẩy, còn gọi là “Hiển Linh” nữa. Hiển linh mới, tỏ cho Chúa biết thân phận sắp đến của chính Ngài.

Mạc khải mới với Chúa, trước tiên là thực tại. Thực tại đây, là ý niệm mà người người từng sử dụng, trong cuộc sống. Có người còn bảo: mình không ưa đi thẳng vào thực tại rối rắm. Bởi, thực tại ta sống không phải bao giờ cũng hay, cũng đẹp. Nó có mặt sần sùi của nó. Có khi, còn gồm cả hỗn độn, tham ô, khổ đau, tức rất nhiều chuyện tương tự hoả ngục đỏ, hơn là thiên đuờng.

Sở dĩ thực tại/thực tế cuộc đời luôn tồn tại với mọi người, là bởi nó luôn “kỳ thị” một số người. Thực tại, không để cho họ có được cuộc sống đích thực. Nhưng, lại nhận chìm họ dưới chôn miền thẳm sâu. Âu sầu. Trở thành thân phận người nghèo hèn. Quyết không ban cho họ một phẩm cách riêng tây. Sang trọng. Để, mọi người còn biết mà tôn trọng.

Mạc khải dành cho Đức Giêsu thực sự là để Ngài biết chính Ngài-khi bước vào cuộc sống của người đời rất chín chắn, rất trưởng thành- Ngài phải đính kết vào với thực tại. Có khi còn ngụp lặn, chết ở trong đó. Thực tại Ngài phải sống, lớn hơn cả thực tại người đang sống. Ngài phải hoán cải/đổi thay nó. Đó, là sứ vụ Ngài nhận được, không phải từ tay người anh họ, là Gioan Tiền Hô, mà từ Cha Ngài.

Thực tại ấy, nay được biểu trưng bằng nghi thức thanh tẩy tại giòng sông Gio-đan. “Nước” đây, biểu trưng cho thực tại có sắc mầu nhào trộn của riêng nó. “Nước” đây, biểu trưng cho chốn miền qua đó nhiều vị vẫn chưa nhận ra; hoặc vẫn còn kỳ thị. Rõ ràng, trình thuật kể việc Ngài bước xuống giòng “nước”. Tức, Ngài không bị vốc lên đầu chỉ một ít nước, như thấy ở nghi thức phụng vụ.

Nhưng, Ngài đã đích thực “dầm mình” ở dưới nước. Và trong “nước”. Và, “nước” đã thực sự ngập trên đầu Ngài. Điều này cho thấy, Ngài đã sống thực những gì người đời đã và đang sống. Đã cảm nhận, những gì người người cảm nhận. Trên thực tế, Ngài đã sờ chạm, giáp mặt với thế giới như con người. Và, Ngài cao cả hơn thế lực thù nghịch hoặc kỳ thị, nên Ngài đã đổi thay thế giới.

“Lên khỏi nước”, Ngài đã thực sự vực dậy và đem mọi người vào tư thế “đi lên”. Cùng “đi lên” với Ngài. Chữa cho họ lành lặn, Ngài biến đổi tình cảnh họ đang sống. Cùng Ngài, tất cả đã sống cuộc “vượt qua” thần thánh, đi vào sự sống mới. Sự sống đã đổi mới để hiệp thông tất cả mọi người trong Nước Trời. Tất cả, sẽ sống có phẩm cách. Sống tôn trọng nhau. Không nghi kỵ. Cũng chẳng kỳ thị nhau nữa.

“Lên khỏi nước”, Ngài đã hoàn toàn đổi khác. Ngài không còn nhìn vào cơ chế và cơ sở “hành nghề” của các vị ở trong ngành nghề cao quý như tư tế. Nhưng, Ngài thực sự nhìn vào chính con người. Và, Ngài quả quyết: ý định mới của Cha, là: mọi người phải sống cuộc sống tôn kính. Luôn cởi mở. Và, trọng tự do. Ngài còn bảo: khi con người sống như thế, họ sẽ biết được Thiên Chúa là ai. Con người thế nào. Tại sao mọi người phải sống với đất trời. Sống như thế, mọi người sẽ có thể làm được như Chúa. Cải hoá được lòng người. Mọi người.

Khi cùng Chúa lĩnh nhận bí tích thanh tẩy, ta được phép san sẻ kinh nghiệm của Ngài. Kinh nghiệm, không chỉ một khoảnh khắc lúc ở dưới “nước”. Kinh nghiệm, là quãng ngày dài học hỏi cách sống như Chúa. Sống đời sống Kitô-hoá trong Đức Kitô. Bởi, khi đã được sinh hạ và thanh tẩy, ta đã thấy được điều ấy.

Kinh nghiệm, là nghiệm rằng: đôi lúc ở đời, ta gặp nhiều người cũng thấy và biết được điều ấy. Thấy và biết, như Đức Kitô từng thấy, từng biết. Nhưng, thị kiến của họ, vẫn là thị kiến riêng tây. Cần sẻ san. Sẻ san, với mọi người. Dù đôi lúc, nhiều người chưa từng biết nối kết với gốc nguồn của sự khôn ngoan mà họ xuất phát. Gốc và nguồn có thanh tẩy.

Trong sinh hoạt với đời, đôi khi ta cũng gặp những người từng sống có tẩy rửa. Sống như người đã chịu thanh tẩy như Chúa và với Chúa, suốt đời. Nhưng, lại không nhận ra sự thực cần phải có. Để có thể sống với Chúa, như Chúa ở thời buổi, rất hôm nay. Nhiều người vẫn cứ tưởng, cử hành mừng lễ Chúa chịu phép rửa chỉ là nghi thức phụng vụ. Như, nghi thức đem con trẻ bé bỏng đi khắp nơi mà trình diện cùng chòm xóm, xứ đạo. Ngõ hầu gột bỏ tì tích căn nguyên của những lỗi phạm có từ thời tiên tổ. Thậm chí, có người còn nghĩ: bí tích thanh tẩy chỉ như chuyển ban ân huệ bình an Chúa gửi đến cho con trẻ, mà thôi.

Thật sự, trình thuật kể việc Chúa chấp nhận chịu thanh tẩy từ người phàm, là để mọi người có thể đến với nhau. Truyền cho nhau những kinh nghiệm từng trải về cuộc đời. Để rồi, sẽ nhận ra rằng: tất cả mọi người đều phải trải nghiệm một cuộc sống luôn đi đôi với thực tại. Cuộc sống có thực tại, đà đổi mới. Để rồi, nó được chuyển đổi thành thực tại sống động có Chúa cùng sống với ta. Cho ta. Có như thế, mọi người mới là Hội thánh. Có như thế, ta mới là nhân loại thật sự được đổi mới. Rất lành và rất thánh.

Nhưng làm sao được như thế, đó mới là vấn đề. Và, thánh Luca khi kể về sự kiện “toàn dân chịu thanh tẩy”, “Đức Giêsu cùng chịu thanh tẩy và đang cầu nguyện, thì trời mở ra và Thánh Thần lấy hình dạng thể xác như chim câu đáp xuống trên Ngài” đã quả quyết: chính Thánh Thần Chúa đã làm việc ấy. Chính Thánh Thần ở với Đức Giêsu, để Ngài thực hiện điều Chúa Cha muốn. Và, sự kiện thanh tẩy là việc của Ba Ngôi Thiên Chúa.

Và, Thần Khí Chúa sẽ đến chỉ dạy cho ta biết cung cách giống hệt thế, để ta được làm và làm được công việc chính Đức Kitô làm. Bởi, từ khi Đức Chúa và ta cùng chịu thanh tẩy, là ta đã bắt đầu làm được như Ngài. Bắt đầu lên đường thực hiện ý định của Cha. Tức, thực hiện công việc tẩy rửa và rao truyền Nước Trời cho những ai muốn theo Ngài. Muốn ở cùng và ở với Thần Khí Chúa. Nơi Đức Kitô.

Cũng trong tầm nhìn như thế, bài đọc 2 trích dẫn lời thánh Luca, ghi ở sách Công vụ Tông đồ, rằng: “Người đã gửi đến cho con cái nhà Ísrael lời loan báo Tin Mừng bình an, nhờ Đức Giêsu Kitô, là Chúa của mọi người. Quý vị biết rõ biến cố đã xảy ra trong toàn cõi Giuđê, bắt đầu từ miền Galilê, sau phép rửa mà ông Gioan rao giảng.” (Cv 10: 36-37)

Cùng một tình huống để hiểu được như thế, nhà thơ hôm nay lại cũng viết:

 

“Nói đi em, lời tự tình thánh thót,

Hẹn ngàn năm trong một phút êm đềm.”

(Đinh Hùng – Ân Tình Dạ Khúc)

 

Lời tình tự thánh thót, tức ân tình Chúa ban. Dạ khúc muôn thuở, phút êm đềm cũng một đời. Một đời lĩnh nhận bài sai của Đức Chúa: hãy ra đi mà thanh tẩy và truyền đạt Lời của Chúa, rất Tin Mừng. Cho mọi người. Ở trần gian. Thế đó là cuộc sống. Thế đó là bình an, cho mọi người.

 

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 2 Thường niên Năm A

 

“Tiếng hỏi tiếng chào vang lối xóm,”

“Pháo từng chiếc một, đốt liền tay.”

(dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)

 

 

Ga 1: 29-34

Có chào hỏi, chắc cũng chẳng đến độ vang lối xóm. Có đốt pháo, chắc cũng chẳng đốt liền tay, đến từng tràng. Lời chào hay tiếng pháo, có vang vọng dân gian chốn người về, cũng chỉ để nghe thánh Gioan giảng. Giảng về Chúa, là giảng về tình huống của Hội thánh thuở ban đầu.

Thuở đầu đời Giáo Hội, các thánh sử ghi nhiều điều lúc thánh Gioan Tiền Hô quả quyết: “Sẽ đến sau, một người đã vượt trước tôi, vì Ngài đã có trước tôi.” (Ga 1: 30) Vượt trước và có trước, bởi Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa. Nơi Ngài, Thần Khí Chúa rất tràn đầy. Và, chính Ngài là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xoá tội trần gian.” (Ga 1: 19). Chính Ngài đem bình an đến với mọi người.

“Trần gian” đây, không có nghĩa là vũ trụ bao la. Là, toàn thể nhân loại. Trần gian đây, chỉ là: “thế gian này”. Thế gian, đối chọi với “thế giới đang đến”, hoặc “thế giới lẽ đáng ra phải thế!”. Tức, một thế giới dẫy đầy những cảnh chính trị và xã hội, nơi ta sống. Một thế giới, chuyên dụ dỗ ta về sống kiểu phàm tục. Nhiều lỗi phạm.

“Trần gian” thường lại có nghĩa đoàn kết/tập họp những con người chăm lo chống trả lối sống quái gở của thế giới. Một thế giới chối bỏ sự hiện hữu của Đức Chúa, Đấng có thực. Thế nên, ta vẫn thấy động thái vô luật, thiếu cẩn trọng vẫn nằm đó. Ta còn thấy cả động thái tập trung vào chính mình, ở trong đó. Vẫn gần gũi với người đời, còn trong đó.

Thay vì gọi “xoá tội trần gian”, đề nghị bà con dùng cụm từ “lý lẽ sự dữ”. Lý lẽ đây, là đường lối suy tư hành động, luôn tiếp diễn. Cứ hết điều này lại đến chuyện khác. Như đứa trẻ hay nói dối. Dù, em biết mình làm điều ấy là không phải. Không nên. Nhưng em không nhận lỗi, lại cứ đổ cho người khác. Làm như thế, tức: em đã nói dối cả với chính mình. Làm như thế, em lại sáng chế tìm ra kiểu nói dối khác, cốt để che đậy cho lời nói dối trước đó. Em thật tình chẳng muốn cha mẹ biết điều này.

Với người lớn, việc này còn tệ hơn. Người lớn nói dối sẽ làm cho chính mình ra mù quáng. Nhượng bộ chính mình được một lần, sẽ lại dẫn đến hành động khác, còn tệ hơn. Quyền lực của “lý lẽ sự xấu” trong chuyện nói dối còn lớn hơn cả chính cá nhân mình. Lý lẽ của sự xấu, là lý lẽ chuyên che đậy. Kinh thánh mô tả việc này bằng từ ngữ “đầu mục của quỷ” (Mt 9: 34). Bằng tên gọi “Satan”, bên tiếng Do thái cốt để chỉ một nghịch ngạo (Mt 4: 10). Còn, “Ma quỉ” bên tiếng Hy Lạp, lại chỉ về sức mạnh cốt để rẽ chia. Phân cách.

Lý lẽ sự xấu của thế gian, còn gọi là thế giới, luôn mang tính huỷ diệt. Hủy và diệt toàn thể nhân loại. Thành thử, cộng đoàn Hội thánh có bổn phận phải đề cao cảnh giác trước những thế lực thù địch ấy. Và làm như thế, sẽ tự thay thế bằng những lý lẽ giúp mình sống thực. Sống, điều Chúa khuyên bảo.

Lý lẽ sống động để thay thế cho “lý lẽ sự xấu”, là lý lẽ của “Tình thương”. Là, động thái đối xử tốt với nhau. Động thái, không chỉ mang tính dung nhượng. Dù, khẳng định rằng mình có khác biệt. Nhưng, nhất định không làm đổ vỡ đường ranh giữa ta và người. Vì, một đổ vỡ như thế dễ đưa đến việc lạm dụng người khác. Muốn người khác làm đúng theo ý mình. Nếu không, mình sẽ không từ nan một động thái nào hết, kể cả bức ép họ để họ không còn khác biệt với ta nữa.

Lý lẽ của tình thương, là ra đi mà gặp gỡ. Gặp gỡ tha nhân với tư cách là tha nhân. Tức: vẫn giữ được sự khác biệt giữa ta và tha nhân. Ra đi, khuyến khích tha nhân sống đúng đường lối mà họ từng quyết định. Sống, theo cung cách mà họ vẫn muốn. Chứ không phải sống giống như ta. Mà là, với ta. Với, tức là: sống chung cùng ta, nhưng không che đậy/khoả lấp những khác biệt giữa ta và họ.

Thật ra, điều đó cũng chẳng là “lý lẽ”. Mà là, Thần Khí. Là, bầu khí. Thánh Gioan Tiền Hô làm nổi bật điều này, khi thánh nhân nói về Đức Giêsu, tức bảo rằng: Thần Khí không chỉ đến mà thôi. Nhưng, sẽ lưu lại mãi nơi Ngài. Và thánh nhân còn bảo: Đức Giêsu sẽ làm cho mọi người dầm mình vào với Thần Khí ấy. Ngài trao tặng Thần Khí ấy cho mọi người để rồi mọi người trở nên sống có Thần Khí. Có, lý lẽ của Chúa. Tức, đầy tràn năng lực của Đức Chúa.

Và một khi, những người được đánh động bằng quyền năng/sức mạnh của Thiên Chúa cũng sẽ ra đi biến đổi thế giới với thế gian để họ trở thành nơi chốn bình an, hạnh phúc đối với người bình thường. Và khi thánh Gioan Tiền Hô nói: Đức Giêsu là Đấng xoá tội trần gian, tức: xoá đi cái lý lẽ của dối gian, khoả lấp. Để rồi, Ngài ban Thần Khí, tức lý lẽ của Tình Thương và sự khẳng định về một khác biệt với người khác.

Chính vì thế, thánh Gioan mới gọi Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa”. Điều này khiến mọi người nhớ đến Chiên Vượt Qua. Đến, chiên con thầm lặng đi vào lò, làm của lễ. Và, điều này cũng làm ta nhớ lại chiên con ngày Cánh Chung. Ngày, mà mọi người được nhận vinh quang và danh dự, từ Đức Chúa.

Ảnh hình về “chiên con”, còn là ảnh hình về sự tử tế. Thứ tử tế cần có để sống đúng “lý lẽ của Tình Thương”. Chính đó, mới là Đạo Chúa. Chính đó, là ý nghĩa của thanh tẩy. Thanh tẩy được định ra là để biến đổi chúng ta thành những con người như thế. Thanh tẩy, để đánh đổ tầm nhìn về thế giới. Với thế gian. Đánh đổ, hầu biến đổi cả chúng ta lẫn thế giới của ta, nữa. Lẽ ra là như thế.

Hiện nay ta đang sống như thể đang ở trên đường giây giằng co/sai sót giữa hai dĩa kiến tạo khác nhau: một là lý lẽ của dốt trá, khoả lấp. Và dĩa kia, là lý lẽ của tình thương và sự thật. Dân chúng trên toàn quốc và toàn thế giới không biết làm cách nào để nhảy. Không phải là họ không có tình thương. Nhưng, vì họ bị thúc bách phải làm điều gian dối. Phải khoả lấp che đậy cả bản năng yêu thương của chính họ. Có lẽ tuyệt đại quần chúng vẫn cứ thinh lặng. Vẫn luồn lọt để tránh thoát. Vẫn muốn trở thành điều mình cần trở thành. Tức, sống tử tế vẫn còn đó ở trong ta. Nên, ta vẫn cần đến Đức Chúa và những người giống như Ngài, để rồi sẽ chuyển đổi được thế giới. Thế gian.

Mỗi lần đón nhận Mình Chúa, nơi Tiệc Thánh, là ta đã nguyện cầu việc ấy được diễn ra. Chiên Thiên Chúa, Đấng cất đi “lý lẽ sự xấu” để ta sống tử tế với người khác. Chiên Thiên Chúa, Đấng cất đi “lý lẽ của dối trá”, để ta sống trung thực với mọi người. Chiên Thiên Chúa, Đấng cất đi lý lẽ của che đậy, khoả lấp, nhượng bộ, để ta sống hiền hoà với chính mình. Với mọi người.

Lạy Chúa, con nào đáng được thế. Nhưng, xin Ngài hãy phán một lời tặng ban ân huệ, tức khắc hồn con sẽ lành lặn. Chúng con ngợi khen, chúc tụng tạ ơn Chúa suốt cuộc đời.

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 3 thường niên năm A  

 

“Hãy tự huỷ đêm nay vào dĩ vãng,

“Xuất thần cho tận nhập với hư vô.”

(dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)

 

 

Mt 4: 12-23

Hãy tự hủy, nhà thơ nay đòi đi vào dĩ vãng. Đã xuất thần, nhà Đạo rày “tận nhập với hư vô”. Hư vô hay dĩ vãng, người người vẫn cứ suy và cứ nghĩ về những gì thánh sử đưa ra, mà quả quyết. Quyết, đón nhận điều Chúa dạy, suốt nhiều năm.

Điều Chúa dạy, thánh Mát-thêu đã ghi lại để ta suy và nghĩ. Trước nhất, là nghĩ và suy về sự kiện Chúa rời bỏ thôn làng Nadarét để về với cộng đoàn ngôn sứ, trong đó có Gioan Tiền Hô. Và, trình thuật hôm nay ghi lại: thánh Gioan nói cho mọi người biết Đức Giêsu là Đấng tràn đầy Thần Khí. Ngài, là Ngôn sứ Tối Cao, được liệt cùng hàng với Êlya và các ngôn sứ thời Cựu Ước.

Là ngôn sứ, Chúa quả quyết về thực trạng của thế giới đã mãn thời. Để rồi, khởi đầu một thể trạng mới có đổi thay. Thể trạng ấy, là Vương Quốc Nước Trời Ngài tạo dựng. Và, Ngài đến kêu mời dân con nhà Đạo hãy đi vào với thế giới ấy. Ai đồng thuận, Ngài ra tay giúp đỡ để họ thực hiện. Ngài còn mời gọi mọi người đổi thay thái độ phải có, với cuộc sống. Bởi, Nước Trời sẽ kịp đến rất nhanh. Nếu không thay đổi, e rằng họ luột mất cơ hội ngàn năm một thuở ấy.

Vào thời đó, đa phần người Do thái là dân con bình thường ở huyện, bởi họ không tham gia nhóm hội nào đặc biệt để có địa vị trong xã hội. Họ cũng không tham gia nhóm hội kiểu Essênô hoặc Pharisêu. Là dân con bình thường, họ chỉ tin vào những gì là căn bản. Tin, một Chúa là Đấng Có. Và, Chúa tuyển chọn dân con Ngài theo cung cách đặc biệt. Tin, vào Đức Chúa luôn ban cho dân con của Ngài bộ luật Tôra làm Đường Lối để mọi người sống. Và, cũng tin rằng, người Do thái hãy phụng thờ Ngài ngay tại đền thờ ở Giêrusalem.

Nay, chính Chúa diễn giải lại luật Tôra. Ngài dạy dân con mọi người cách sống như Ngài muốn. Sống giản đơn như đời thường. Cung cách sống, là qui định cơ bản để mọi người sống cho tử tế. Sống đời tử tế mà dân nghèo thị thành khả dĩ theo được. Ngài mạc khải cho dân con theo Ngài đường lối sống tốt đẹp, như những vần thơ vui Ngài sáng tác, mỗi ngày. Sáng tác thơ, để người người dùng đó mà ngợi khen, chúc tụng Thiên Chúa. Để cho họ, dù ở nơi xa xôi không đến được Đền thờ, vẫn có thể sống như Ngài khuyên bảo.

Ngài còn dạy dân con mọi người và khuyến khích họ sống thành nhóm hội cộng đoàn, tụ tập chung quanh Ngài. Quây quần thành vòng tròn lớn đến độ có thể đếm được đến ba vòng cùng tâm điểm trong cùng nhóm. Người ở xa cũng nghe biết, nên đã tin vào Lời Ngài dạy, để được sống. Sống tại nhà. Sống ở phương xa. Đâu đâu họ cũng vẫn được Ngài chăn dắt. Gần Ngài hơn cả, là nhóm đồ đệ thân yêu từng bỏ nhà cửa chốn riêng tư, mà theo Ngài. Ai theo Ngài, cũng gặp nhiều nguy nan từ giới có thẩm quyền vì không ưa Ngài, nên vẫn lùng tìm đồ đệ Ngài, mà bức bách. Đồ đệ Ngài tập hợp chẵn đủ những 12 vị.

12, là con số tượng trưng toàn bộ chi tộc Israel, lúc khởi đầu. Dần về sau, trong số này chỉ còn mỗi chi tộc Giuđa và Benjamin, mà thôi. Thực tế cho thấy, Chúa gầy dựng đủ 12 môn đồ, là để tỏ rõ một hành xử mang cung cách của ngôn sứ. Nghĩa là, Israel phải hoàn toàn đổi mới để sống cuộc sống Nước Trời đang dần đến. Bởi lẽ, Nước Trời là mục tiêu Ngài nhằm thực hiện bằng được. Sử sách nay còn ghi tên tuổi đầy đủ 12 vị tông đồ, như ta biết.

Cũng từ nhóm Mười Hai, Hội thánh Chúa được thiết lập theo cùng một cách thức, nên đã tồn tại mãi đến bây giờ. Nói cách khác, chính Chúa đã định trước cơ cấu của Hội thánh để trở thành một thánh hội như ngày hôm nay. Và Ngài vẫn muốn Hội thánh của Ngài sống theo đường lối Ngài qui định. Nghĩa là, Hội thánh phải trở thành chính đường lối mà lịch sử thánh đà ghi lại. Vì thế nên, Hội thánh cũng có những giây phút thăng trầm như lịch sử ở đời thường.

Thăng trầm lịch sử thánh, bắt đầu từ thời thánh Gioan Tiền Hô qui tụ rất đông người dấn bước theo chân thánh nhân. Bước thăng trầm của Hội thánh, còn được thánh Gioan Tiền Hô nhắc đến bằng lời kêu gọi mọi người hãy sống khiêm nhu để chứng tỏ mình là đồ đệ Chúa. Ngay vào lúc nổi tiếng nhất thời đó, thánh nhân cũng đề cập đến tính khiêm nhu của chính mình bằng tuyên bố để đời: “Đến sau tôi, là Đấng quyền thế hơn tôi. Và, tôi không đáng xách dép cho Ngài.” (Mt 3: 11)

Với thánh nhân, Đức Giêsu là Đấng mọi người tìm đến, để đi theo (Mt 4: 23). Ngài đến để cứu họ. Ngài được Cha chọn để thực hiện công trình cứu độ Cha trao phó. Nơi Ngài, Thần Khí Chúa không chỉ mỗi đến mà thôi, nhưng sẽ ở lại mãi nơi Ngài.

Chính Ngài là Đấng đã trầm mình mọi người trong Thần Khí Chúa. Chính Ngài là Đấng đã tặng ban Thần Khí Chúa đến với họ. Để, họ trở thành con cái đích thực của Chúa. Để, họ được tràn đầy năng lượng của Ngài. Trở thành, những người con được tiếp ứng bằng thứ điện quyền năng do Chúa ban, ngõ hầu chính họ biến đổi được thế giới thành chốn tốt đẹp. Cho mọi người. Nhờ đó, họ trở nên thánh hội của Chúa, ngay từ đầu.

Trình thuật hôm nay, thánh Mát-thêu kể cho mọi người biết Đức Giêsu là Đấng chữa lành mọi người. Ngài đến để rao báo với mọi người là Nước Trời đã gần kề. Ngài đến, còn để chữa lành đủ mọi hình thái của bệnh tật. Và, mọi người đến với Ngài trước nhất để được chữa. Càng gần Ngài, người người càng thấy mình được Ngài chữa lành nhiều hơn. Được chữa lành rồi, người người sẽ sẵn sàng mà sống cùng và sống với con cái Ngài, ở Nước Trời.

Với thánh Mát-thêu, Hội thánh là nơi mọi người tìm đến hầu được an bình, lành lặn. Được Ngài chữa chạy đủ mọi tật bệnh, dù rất khó. Hội thánh, chính là Nước Trời luôn mở rộng vòng tay đón nhận dân con ở khắp nơi. Bất kể họ thuộc nguồn gốc, văn hoá. Sắc tộc. Phái tính. Hoặc, tuổi tác nào.

Là Nước Trời ở trần gian, Hội thánh là nơi chốn đích thực mọi người lui tới. Lui tới, không chỉ để được chữa lành thôi, mà còn để tiếp tục công trình cứu độ Chúa giao phó. Công trình đó, Chúa tặng ban cho tất cả mọi người. Công trình đó, Chúa ủy thác để mọi người cứ thế mà thực hiện. Thực hiện, bằng tình thương Ngài loan truyền. Thực hiện, nhờ Thần Khí Chúa ở cùng và ở với mỗi người.

Thực hiện tình thương ở Nước Trời không là ân huệ Chúa ban cho, mà là bổn phận khiến ta trải rộng đến với mọi người, trong cũng như ngoài Hội thánh. Trải rộng, như tâm tình mà nhà thơ từng nói đến:

 

“Một chút kỳ hương ta gửi đó

Hồn ta đã ta vào hơi gió

Tháng sáu mười hai rồi, em nhớ hay quên.”

(Vũ Hoàng Chương – Bài Ca Hoài Tố)

 

Kỳ hương nhà thơ gửi, là hương kỳ của tình thương ta vẫn có. Kỳ hương ấy, là thương yêu mọi người cần có. Cần trao cho hết dân gian, ở mọi thời. Nơi Nước trời.

 

 

Suy niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Tư Thường niên năm A

 

 

“Chúng con ngoại đạo hay ngoan đạo,

“vẫn biết và tin có “Chúa lòng!”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

 

 

Mt 5: 1-12

Từ muôn thuở, nào mấy nhà thơ nay còn nhớ. Nhớ hay chăng, “Chúa lòng” vẫn có đó để mọi người cầu mong. Cầu và mong, nay nhà Đạo lại bảo: “Chúa lòng” của mọi người, là đề tài mà thánh sử lâu nay vẫn quả quyết từ trình thuật đầu đến Tin Mừng cuối, ở Thánh Kinh. Nơi Kinh Sách, các thánh vẫn cứ trình và cứ thuật, để người người biết được mà yêu thương phụng thờ Chúa, rất nguyện cầu.

Mở đầu Tin Mừng, thánh Mát-thêu đã trình và thuật về “Chúa lòng” rất chung tình, bằng nhiều chương đoạn. Chí ít, là bằng 5 bài mở đầu về cộng đoàn sống Đạo, trong đó trước nhất gồm các giá trị đạo đức của dân con Chúa. Thứ đến, là sứ vụ công khai của cộng đoàn. Tiếp theo sau, là: chiều sâu chiêm niệm của dân con nhà Đạo. Là, tương quan kiểu mẫu nơi tín hữu. Và, chiều kích thủy chung nơi niềm tin yêu.

Tựa hồ một thứ giáo lý bỏ túi cho đời sống, 5 bài mở đầu không chỉ dành cho cộng đoàn Mát-thêu thôi, mà cho bất cứ cộng đoàn nào khác. Đó là sứ điệp mà phụng vụ muốn gửi đến hết muôn người.

Sứ điệp đầu, là “Hiến chương” mới mà ta gọi là “Bài Giảng Trên Núi”. Tức, Lời Chúa nói về giá trị mới cho đạo đức của cộng đoàn. Môsê xưa cũng đem đến cho dân con Do Thái bộ luật để đời, từ núi thánh. Viết về Đức Giêsu là Môsê Mới, thánh Mát-thêu ghi lại việc Chúa ban cho dân Ngài một Bộ Luật rất mới. Bộ sưu tập chuyên về giá trị đạo đức như lời giảng giải về đời người, từ núi thánh ở Galilê.

Thật ra, Chúa không chọn nơi cao nguyên bằng phẳng hay chót vót non cao để có một bài chia sẻ vào buổi trưa hè nóng bức. Nhưng Ngài vẫn đưa ra, lúc chỗ này, khi nơi khác, những đoản khúc yêu thương chú trọng đến khôn ngoan cần có, để ta sống. Thánh Mát-thêu vốn nắm bắt được ý tưởng nòng cốt của Chúa suốt chặng dài cuộc đời Ngài, đã đâu kết với nhau thành bài giảng giải hiến chương thương yêu của Chúa, để mọi người thấm nhuần đường lối Chúa muốn, mà thực hiện.

Hiến Chương Chúa ban hành, có phần mở gồm những tuyên ngôn về giá trị đạo đức dành cho con người. Mỗi điều khoản đều bắt đầu bằng cụm từ “Phúc thay”, những 9 lần nhắc đi nhắc lại thứ hạnh phúc dành cho mọi thành phần khác biệt của cộng đoàn Chúa tuyển chọn. Đây không chỉ là giòng chảy tu đức, thôi. Nhưng, còn là thách đố gửi đến xã hội loài người để ta suy tư, ứng xử. Các điều khoản của “Hiến Chương” gồm nhiều nghịch lý nghe rất lạ. Tức, các điều khoản của một hạnh phúc ít thấy có. Thứ phúc hạnh mà phần đông người trong xã hội coi như bất hạnh, hoặc mối hoạ vẫn hiện đến với cuộc đời.

“Phúc thay cho kẻ có tinh thần khó nghèo”. Tức, những người vẫn lang thang đầu đường xó chợ. Các trẻ bán vé số. Các cụ già khất thực. Họ là nạn nhân của bất công xã hội. Là, những người cứ ngày một héo hon. Mòn mỏi. Tàn tạ. Những người vẫn cứ sống nghèo và khổ mãi rồi vô tình trở thành bàn đạp cho người giàu dựa vào đó mà vươn cao. Dựa vào đó, mà ngồi trên đầu trên cổ họ.

“Phúc thay cho kẻ ưu phiền”, tức những người cùng một cảnh ngộ. Từng cảm nghiệm sâu sắc thế nào là tình huống khổ đau. Sầu buồn. Mất mát.

“Phúc cho kẻ đói khát công lý”, vì họ là những người thèm khát sự công minh, chính trực. Là những người không cần đến sự thương hại của bất cứ ai. Họ chẳng cần đến lòng xót thương của bất cứ người nào, mà chỉ muốn đòi lại sự công bằng Chúa ban như thứ quyền dành cho họ, do “Chúa lòng” cởi mở và tử tế vẫn muốn ban. Vì, Ngài là Đấng công minh chính trực, nên con cái Ngài phải được đối xử tửtế như người chính trực, công minh rất đúng nghĩa.

Phúc cho những kẻ sống như thế. Dù, một số người trong họ là những kẻ bần cùng, hẩm hiu. Bẩn thỉu. Không được xã hội công nhận hoặc tôn trọng. Nhưng, họ là những người dựng xây xã hội bình an theo cung cách riêng tây của họ. Họ là những người từng gánh chịu sự mỉa mai và thương tổn do kẻ sung sướng, bóc lột họ gây nên.

Họ là ai, mà sao thời nào cũng thấy xuất hiện?

Phúc âm gọi họ là những người được đến thẳng với Chúa. Là những người, mà Chúa không thấy khó khăn mỗi khi Ngài muốn đến với họ. Giữa họ và Chúa, vẫn có tương quan mật thiết, rất dễ chịu. Giữa Chúa và họ, không có một rào cản. Không vướng mắc. Cũng chẳng cách ly. Họ không sống theo sách vở; nhưng, lại có tương lai sáng lạn mà sách vở hằng mơ ước. Họ là người đích thực được Chúa chúc phúc. Xem thế, thì sự khó nghèo của họ vẫn cứ thẳng tuột, xuyên suốt. Xem thế, thì đó là mẫu hình của tương quan lý tưởng trong Hiến Chương Nước Trời do Chúa thiết lập..

Thời đại hôm nay lại có thêm vấn đề: làm sao cắt nghĩa ý Chúa nói trong “Bài Giảng Trên Núi” được như thế? Có người tuyên bố mình không thể là người nghèo. Cũng không thích nghèo. Và, chẳng bao giờ mong muốn cuộc đời nghèo khó của mình, nếu có, cứ tiếp diễn.

Suy tư về thái độ tự tại của nghèo hèn, ta không bàn nhiều về đòi hỏi phải sống nghèo nhưChúa dạy, để rồi sẽ biện luận/diễn giải để cứ gọi đó là “tinh thần khó nghèo”.Nhưng kỳ thực, đó hoàn toàn không hẳn là ý Chúa. Đó cũng không là mục đích mà thánh Mát-thêu nhắm đến khi thánh nhân ghi lại Lời Ngài, về Hiến Chương Nước Trời.

Có người lại bảo: ta vẫn lao động cật lực để kiếm sống, chứ không như đám người ăn bám, vẫn rất lười. Vậy thì, cứ thí cho họ đôi chút gì đó để họ có cơ mà tiến thân. Cùng lắm, cứ gửi họ đến với tế bần, là xong. Kỳ thực, đó cũng không là ý Chúa. Cũng chẳng là mục tiêu mà thánh Mát-thêu nhắm đến khi thánh nhân viết trình thuật cho ta hôm nay.

Vậy thì, thực tế là thế nào? Phải chăng có điều gì đó trong lối sống khó nghèo để người đời không tự đặt mình vào với hệ thống của xã hội? Thật tình, thì nghèo và hèn là bản chất của cuộc sống đính kèm vào với Chúa. Nghèo và hèn, là thứ “hộ chiếu” để người người đến thẳng với Chúa mà không bị vướng mắc vào vật cản nào hết. Không bị ràng buộc vào bất cứ luật lệ nào khả dĩ dễ bị ngăn chặn.

Nghèo và hèn, là chức năng được Chúa chấp nhận để ta có thể vào với Vương Quốc Nước Trời của Ngài, nhờ vào lòng độ lượng Ngài ban cho ta như một quà tặng. Là, tình thương vô biên Chúa tặng thưởng. Là, nỗi niềm ưu tiên cao quý Ngài hiện thực. Là, chức năng cao cả Ngài tặng ban cho dân được tuyển.

Người nghèo, là mục tiêu Ngài nhắm tới để Ngài tạo dựng đất trời. Nghèo, là cứu cánh Thiên Chúa là Cha đã gửi Con Một Ngài đến với ta để cứu độ và ban cho ta sự sống. Chính họ mới là mục tiêu của công trình cứu độ. Nói cách khác, vốn dĩ rất nghèo, nên họ đích thị là con cái Chúa. Đích thị được Chúa nhập thể để trở nên giống như họ. Trở nên chính họ. Hội thánh, sẽ không là hội của các thánh, nếu như Thánh Hội của ta chưa nghèo đủ như họ. Chưa là Kitô-khác cũng rất nghèo.

Giá trị đạo đức của cộng đoàn dân Chúa chỉ thành sự nếu ta biết nhận ra mình là con dânđích thực được Chúa đoài hoài tìm đến. Cộng đoàn Mát-thêu chẳng khi nào làm giảm suy tính chất khó nghèo của Giáo Hội tiên khởi khi các thánh đứng ra quyên góp tiền của trong cộng đoàn mình hầu đem tặng cho những vị còn thiếu thốn/có nhu cầu nhiều hơn.

Cộng đoàn Mát-thêu làm thế, vì các thánh vẫn coi trọng tính chất nghèo hèn của “người nghèo” như kho tàng sống động rất giá trị. Nói cách khác, cộng đoàn Mát-thêu chính là Hội thánh của người nghèo, theo nghĩa tiêu biểu nhất, vì biết sống khó nghèo. Sống, cho người nghèo.

Với Hội thánh, người nghèo không bao giờ sợ mình bị loại trừ, vì tính nghèo của mình. Với cộng đoàn, người nghèo không là mối đe doạ để mọi người phải tránh né. Hắt hủi. Bởi, chính họ mới là thành phần quan trọng của Hội thánh. Chính họ, là nhóm người dám xác minh rằng: chính mình có chức năng và khả năng để biến đổi thế giới. Chính người nghèo như họ, mới là những người đáng sống trong xã hội.

Nếu vậy,ắt có người sẽ hỏi: người nghèo là ai mà ghê gớm thế?

Kinh thánh nói: họ là các khách lạ người dưng. Các bà goá. Các trẻ mồ côi. Với xã hội hiệnđại, họ là đám người thoát thân tìm nơi lẩn náu, mà ta vẫn quen gọi họ là dân tị nạn chính trị. Kinh tế. Hoặc, bằng bất cứ tên gọi nào khác. Là, nạn nhân của các gia đình vỡ đổ. Là, giới “bụi đời” sống vất vưởng nơi hang cùng ngõ hẻm. Những kẻ sống vô gia cư, chết vô địa táng, luôn bị xã hội coi thường. Những kẻ thua sút người khác cách này cách khác. Những kẻ bị phân biệt/cách ly bởi những người tự gọi là đạo đức. Là, những kẻ ta gặp ở đâu đó, nơi phố chợ. Những bà mẹ tay xách nách mang một lũ nhóc, rất lôi thôi. Hôi hám. Đáng coi thường.

Hội thánh bảo: nếu ta biết dừng chân đứng lại mà quan sát rồi xét lại bản thân mình, ắt rằng ta phải bắt đầu lại cuộc sống rất khác. Cuộc sống có giá trị đạo đức. Rất phục hồi. Hãy xét lại bản thân, rồi hãy đọc tiếp Tin Mừng thánh Mát-thêu, vào những tuần kế tiếp. Có xét lại bản thân như thế, ta mới tư duy cho phải lẽ. Có ý nghĩa. Lớp lang. Bởi, ý nghĩa của Tin Mừng sẽ chỉ bắt đầu ở đây. Bây giờ, mà thôi.

Có nhưthế, người đọc và suy niệm Tin Mừng thánh Mát-thêu mới thấm đậm ý nghĩa thi vị của nhà thơ khi ông viết:

 

“Chuông ngọ từng hồi, chuông ngọ đổ,

Từng hồi chuông ngọ đổ chơi vơi.

Con nghe chuông ngọ đổ, rồi con khóc.

Cứu rỗi linh hồn con, Chúa ơi!

(Nguyễn Bính – Chuông ngọ)

 

 

 Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 5 Thường Niên Năm A

 

“Hà Nội mùa này vắng những cơn mưa,”

cái rét đầu đông, giật mình bật khóc.

Hoa sữa thôi rơi, mỗi chiều tan học,

Cổ Ngư xưa, lặng lẽ dấu chân buồn.

(dẫn từ thơ Bùi Thanh Tuấn)

 

 

Mt 5: 13-16

Hà Nội vắng mưa, Cổ Ngư buồn. Phải chăng buồn này, buồn thế kỷ? Nhà Đạo vắng Chúa, chắc mất vui. Vui/buồn nhà Đạo, nay vẫn do người mình một lòng theo Chúa, sống bình yên.

Bình yên nhà Đạo, được thánh Mát-thêu ghi rõ ảnh hình về cộng đoàn tín hữu, ở đoạn cuối “Bài giảng trên núi”. Ảnh hình, về “Muối cho đời” và “đèn thắp sáng thế gian”, ý của thánh sử muốn nói về Hội thánh Chúa sống ở chốn gian trần.

Muối là chất được sử dụng trong hầu hết các buổi ăn kiêng. Muốn cho thực phẩm giữ được lâu ngày, thêm mùi vị, người xưa vẫn dùng muối giúp cho cây mau phát triển. Dân du mục lại dùng muối như biểu tượng của tình huynh đệ. Của, thủy chung. Tiết hạnh. Nên, khi họ nói: “giao ước muối” là nói đến tình đệ huynh. Muối đem vào cuộc sống hàng ngày một chút thi vị, rất linh thiêng.

Bởi thế nên, khi Chúa bảo: “Các con là muối cho đời” là Ngài có ý khuyên: hãy làm cho thế giới nên khác biệt. Khác theo nghĩa tích cực. Khác, không như Cựu Ước, có câu truyện vợ ông Lót vì ngoái cổ tiếc nuối dĩ vãng, nên thành cột muối. Nếu vậy, ta nên làm gì? Làm muối cho đời, hướng về phía trước với mọi người, hay cứ ngoái cổ về sau để thành cột muối như vợ ông Lót? Cái đó còn tuỳ mỗi người. Tuỳ góc độ, từ đó ta tiếp cận cuộc đời.

Rõ ràng, mọi người không thể giấu đèn dưới gầm giường, nhưng đặt nó trên giá đèn, để mọi người thấy ánh sáng. Thứ ánh sáng không hạn chế. Không kỳ thị một ai. Người xưa có thói quen xây thành phố/đô thị trên đồi, hoặc ở đỉnh núi để mọi người nhìn thấy mà đến. Thành Giêrusalem là ví dụ điển hình. Là cộng đoàn tín hữu Đức Kitô, mọi người vẫn là và phải là kẻ thắp lên ánh sáng. Là, người tạo cho thế giới quanh ta nên khác biệt.

Điều đó có nghĩa gì? Là, cần rao giảng cho mỗi người phải sống nền văn hoá mới, cần rao giảng cho mỗi người. Nhưng, rao giảng cách nào? Trong tư thế nào?

Ngày nay, sống giai đoạn mới của lịch sử Đạo Chúa, ta cần nói lên điều đó. Nói rằng, ta đã sống đích thực tinh thần của Công Đồng Vatican II. Sống cuộc đời đổi mới vẫn tiếp diễn. Quyết canh tân cuộc đời người Công Giáo. Đổi mới thế giới, ở vào thời kỳ “hậu- hiện đại”, chứ không theo chiều hướng tệ bạc, ngày càng mất đi giá trị đạo đức.

Thế giới với thế gian, nay dường như đã chào thua, để mặc con tạo xoay vần. Chẳng còn hy vọng vào cuộc sống đích thực Chúa vẫn khuyên dạy. Đức đương kim Giáo Hoàng gọi đó là “văn hoá của sự chết”. Thế giới nay mất đi niềm tự tin quí hiếm. Bởi thế nên, Hội thánh lại khuyên nhủ con dân mọi người hãy khám phá chính mình như con người có tư cách và niềm tự tin, khiến mọi người thấy được rằng mình xứng đáng là dân con Đức Chúa, có khả năng tân tạo thế giới. Khả năng, tạo khác biệt.

Văn hoá phàm trần, thành thị nay đặt hết hy vọng vào tiến trình vật chất và phát triển kỹ thuật. Nhưng, văn hoá phàm trần ngày càng thấy mình trống rỗng. Vắng lạnh. Vô nghĩa. Ngày nay, dù không còn chủ trương “chống Đạo” nữa. Nhưng, chủ thuyết “vô thần mới” lại vẫn tìm cách bắt bẻ tôn giáo. Bắt bẻ, cả Công giáo, Tin Lành, lẫn Chính Thống, Do Thái giáo. Tìm mọi cách, để chối bỏ tính siêu việt của Đạo. Chẳng còn muốn nghe ai phân bua, diễn giải nữa.

Hội thánh, nay nói gì với thế giới phàm trần?

Cách đây 50 năm, Hội thánh tỏ ra vẫn có niềm tin thật vững chắc. Giáo dân, ai cũng có điểm son nào đó làm di sản. Nay, thì không. Giáo dân, nay chọn sự toàn vẹn của đời tín hữu. Chọn lối sống của đồ đệ Đức Kitô. Chọn, thực hiện công trình của người thừa sai do Hội thánh uỷ thác. Mục vụ hôm nay không còn là động thái muốn làm thì làm. Hết muốn thì thôi. Mục vụ, nay là chuyện sống còn của Hội thánh. Giáo dân hôm nay đã biết đi vào trọng điểm của niềm tin. Biết thực hiện mục tiêu mà Hội thánh đề ra, cho mọi người.

Hội thánh muốn mọi người đem Tin Mừng đến với mọi nơi, như thời tiên khởi. Đem Lời Chúa đến với người thị thành đang sống kiếp tục trần, Lời Chúa sẽ xuyên suốt như thực tại mới mẻ. Lời Ngài đòi hỏi xã hội và cả Hội thánh Chúa phải đổi thay. Đổi và thay, để không còn đắm chìm trong quá khứ và hiện tại đầy chuyện tiêu cực. Xem thế, thì Hội thánh phải có chỗ đứng mới trong thế giới đã đổi mới. Cách nào ư? Dưới đây là một vài phương cách để thực hiện:

Văn hoá của thế giới phàm trần đang trải nghiệm nhiều vấn đề xuất tự bên trong. Trải nghiệm một hiện diện của nhiều nhóm tôn giáo đôi khi kình chống, khích bác nhau. Một đất nước như Úc Châu nay khó mà gọi được là quốc gia theo tinh thần của Đạo Chúa, như trước nữa. Bởi, tín hữu Đạo Chúa nay đang chung sống với nhiều tôn giáo khác, dù ít người.

Bởi thế nên, dân con Đạo Chúa cần tìm nơi Tin Mừng điều gì đó mới mẻ và thích hợp với mọi người. Bởi, ngày nay mọi người đều không còn chịu ảnh hưởng của văn minh Kitô giáo nữa. Ngày nay, thế giới phàm trần lại cần khám phá ra rằng Đức Kitô là Đấng cứu độ mọi người. Bất kể họ là sắc dân nào. Thuộc tôn giáo nào. Thờ phượng Đấng nào đi nữa. Ngày nay, phải quan niệm Lòng thương xótcủa Chúa đã và còn thể hiện trong lịch sử và cuộc sống của mọi nhóm hội/đoàn thể, mọi cộng đoàn tôn giáo/sắc tộc. Nói thế, không có nghĩa bảo rằng: mọi tôn giáo đều ngang bằng nhau. Nhưng, nói thế để hiểu rằng mọi tôn giáo đều phải được tôn trọng ngang nhau. Bằng nhau.

Nếu vậy, tín hữu Đạo Chúa nên ứng xử như thế nào với tình thế mới này?

Niềm xác tín lâu nay trả lời, rằng: mọi người có cơ hội đồng đều. Được kính trọng như người có phẩm cách. Và, là người có những quyền căn bản. Ngang đồng. Xác tín này bắt nguồn từ Đạo Chúa. Và, xác tín này đặt tin tưởng theo cung cách mọi người/mọi vật được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Mọi người đều giống Chúa. Đây, là ý tưởng mang tính Kitô giáo. Động thái này đang có mặt qua cung cách đặc biệt của nền văn minh Âu Tây. Ta nhận ra điều đó từ Kinh thánh. Chí ít, là từ Tin Mừng. Bằng chứng, là: văn minh Âu Tây xưa nay vẫn không có chỗ cho hệ thống giai cấp như văn minh Ấn.

Ngày nay, nhiều dấu hiệu cho thấy: tín hữu Đức Kitô vẫn nhận được những thông điệp như thế ngang qua văn hoá hiện thời. Ai cũng có thể liệt kê danh sách các động thái quyết chứng minh rằng: mọi người vẫn hành xử như các Kitô hữu. Cả, người không theo Đạo. Cả người tự cho mình là vô thần cũng nhận ra được điều ấy. Các ví dụ rất dễ kể ra, như: lòng cảm thông/thương xót người nghèo túng. Sự tôn trọng bản vị con người. Niềm ước ao được kết đoàn. Lòng quyết tâm đòi công minh chính trực. Ước vọng được thấy tình thương yêu mọi người trở thành hiện thực. Tất cả để khẳng định rằng: mọi giòng giống/sắc tộc, văn hoá đều có phẩm cách như nhau.

Khi ta duy trì các giá trị của nền văn hoá theo cách ấy, ta càng trở nên muối cho đời. Càng trở thành ánh sáng đặt trên bục cao, để mọi người được nhìn thấy. Càng trở nên thành thánh xây trên núi. Vấn đề còn lại, là: hãy tiếp tục sống như thế. Sống, nhưng không phải là sống văn hoá của sự chết. Mà là văn hoá sinh động. Của mọi thời.

Đó, là ý nghĩa mà thánh sử Mát-thêu ghi lại trong bài trình thuật, rất hôm nay. Một văn hoá, mà nhà thơ trên vẫn diễn tả bằng ngôn từ rất thi tứ. Rất Hà Nội, như sau:

“Hà Nội trời buồn nhớ mắt người yêu.

Nhớ góc phố nhớ hàng me kỷ niệm.

Nhớ buổi chia tay mắt đầy hoa tím.

Ngõ hoa giờ hút dấu gót hài xưa.”

(Bùi Thanh Tuấn – Chia tay Người Hà Nội)

 

Chia gì thì chia, cũng đừng buồn. Bởi, niềm vui chính là văn hoá của sự sống. Văn hoá, của tình thương, Chúa vẫn dạy. Của, Tin Mừng Đức Kitô. Là, niềm vui muôn thuở, mọi văn hoá.

 

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 6 Mùa Thường Niên Năm A  

 

“Tôi e những hạt linh hồn ấy”

rơi xuống thành hoa giữa tự nhiên.”

(dẫn từ thơ H.P. Ngọc Tường)

 

 

Mt5: 17-37

“Hạt linh hồn” rơi xuống chắc gì đã thành hoa? Giữa chốn tự nhiên, lụa là huyền ảo, luật Torah.

Với sách Đệ Nhị Luật, “hạt linh hồn” Torah “chính là sự sống” (ĐNL 32: 47). Sống, Lời mặc khải Chúa gửi đến với dân con Do thái, người của Chúa. “Hạt linh hồn” Luật, đượm nhiều ý nghĩa của một lời hứa gửi đến những ai biết giữ luật, dù họ và ta chưa từng thấy ai giữ được cách hoàn hảo, cả.

Điều thường thấy hơn cả, là: những người sốt sắng giữ Luật lại có cuộc sống rất bất toàn. Thế nên, nhằm để giúp dân con hoàn thành cuộc sống có luật có lệ, giống như truyền thống của người Do Thái xưa, Luật Torah được bổ sung thêm hai mô hình, là: “halakah”“haggadah”.

Haggadah, là bộ sưu tập gồm những truyện huyền ảo dùng làm cơ sở cho nền “thần học” thời ấy. Và, là lời kinh tung hô chúc tụng Chúa. Nhất nhất, mỗi truyện mỗi tóm gọn nét diễm kiều của Luật, nhưng lại không chứng tỏ được cách sống hợp với luật theo tình cảnh của mỗi người.

Halakah, là lời bình về Torah theo đúng nghĩa đen. Theo tiếng Do Thái, thì cụm từ “Halakah” có nghĩa là: “ra đi”. Là, “lên đường”, ta dấn bước. Là, con lộ tẻ trên đó người người dấn bước ra đi, để thực hiện lề luật người xưa lập. Đi, như kẻ từng thấm nhuần nền đạo đức, rất Torah.

Hôm nay, ta thử tìm hiểu xem cụm từ Halakah có ý nghĩa gì với tình cảnh của nhà Đạo.

Sau ngày trở về từ chốn lưu đày xứ Babylon, Halakah lâu nay phát triển, cũng khá mạnh. Chính Ezra và Nêhêmia, là những vị dẫn đầu truyền thống ấy cho đến thời của Mishnah. Tiếp đó, truyền thống này được triển khai nhờ có sự dẫn dắt của các thượng tế, kể từ ngày Giêrusalem bị phá huỷ vào thập niên 70. Từ dạo đó, các nhóm hội nhà Đạo đều thực hành chính Halakah của mình, như: nhóm Pharisêu, Ét-xê-nô, Qumran, nhóm Nhiệt Thành, vv…

Phần lớn luận cứ do các nhóm này đưa ra để tranh luận về luật Đạo, lại là “Giới luật Yêu Thương”, tiếng Do thái gọi là hesed, tức: tình thương gia đình. Nếu vậy thì, giới lệnh nào là luật quan trọng nhất, của Torah?

Câu hỏi này, không là vấn nạn căn bản đối với nhóm hội/đoàn thể, của người xưa. Bởi, các thượng tế khi xưa vẫn đều hỏi nhau như thế. Hỏi, là hỏi rất nhiều lần những gì được ghi ở 613 điều khoản khác nhau trong bộ luật Torah. Các vị này có thói quen bốc thăm xem luật nào thích hợp với nhóm mình hơn và điều khoản nào, là giới lệnh quan trọng nhất. Hillel, một học giả Do thái đã trả lời cho câu hỏi trên, tựa như thánh Mát-thêu ghi ở trình thuật hôm nay. Thánh nhân dùng đó như những Lời xuất phát từ miệng Đức Giêsu Kitô. Thật ra, ta không có chứng cứ cụ thể nào để quyết được rằng: thánh Mát-thêu có biết rõ chuyện ấy hay không mà sao thánh nhân vẫn coi đó như Lời của chính Chúa.

Với các nhóm/hội Do thái nói trên, nhóm nào cũng nhận ra hai khuynh hướng được đề cập rất rõ: một, là khuynh hướng cứng ngắc, đặt nặng lên nghĩa đen của Luật. Còn chiều hướng kia, uyển chuyển hơn, chỉ chủ trương giải thích lập trường để Luật Torah mang chất “người” hơn. Nhân bản hơn.

Các vị theo khuynh hướng triệt để, vẫn đưa ra những đòi hỏi buộc mọi người phải tuân giữ Luật Torah, từng chữ một. Họ thôi thúc mọi người sống cách biệt khỏi thế giới phàm tục. Tức, thế giới của xã hội La Mã và dân ngoài luồng, sau thập niên 70. Họ cổ suý lối hành đạo theo cung cách sốt sắng, thánh thiện. Nói cách khác, họ ưa thích lối khắc kỷ, khổ hạnh hơn.

Ngược lại, các nhà chú giải Torah từng theo cung cách rất nhẹ nhàng/uyển chuyển, lại ưa thích đường lối nhân bản mà Luật nhắm đến. Tức, chỉ nhắm vào nhu cầu Tình Thương. Vào, những đòi hỏi giúp giùm, đùm bọc người khó nghèo hèn, tật bệnh tật hoặc có nhu cầu phúc lợi khẩn thiết nhất.

Các vị thường chọn những điều luật dễ dàng cho phép khi áp dụng Torah. Tức, đi xa hơn mọi ranh giới của luật lệ. Xa hơn, những gì chỉ được viết và hiểu theo nghĩa đen. Các vị theo Halakah muốn rằng người thi hành Luật nhuần nhuyễn tinh thần luật, hầu biến các điều khoản ấy thành quyết định cho riêng mình. Tức, sống thực thụ ý nghĩa và tầm mức thương yêu của luật, với cộng đoàn. Nói khác đi, các vị muốn người giữ luật được sống thư giãn/thoải mái với lối chú giải đầy rắc rối. Hạn chế.

Xem như thế, đền thờ Do thái là nơi tốt nhất để mọi người có thể đến mà bàn luận về những điều về Luật Tình thương, như thế. Và cũng thế, từ thế kỷ thứ đầu đời, nhất là sau khi đền thánh bị phá huỷ, nhiều người Do thái giỏi dang/thông minh đã đứng ra đảm nhiệm công việc này. Thời gian trôi mau, nhưng vẫn không thấy có thêm ngôn sứ nào xuất hiện, từ ngày ấy. Và, cũng từ ngày có các vị chú giải luật theo khuynh hướng Halakah tạo nên luồng gió mới có kinh nghiệm từng trải về sức lôi cuốn đưa dẫn mọi người đến với luật yêu thương. Và, con số các vị áp dụng luật theo cách gò bó/khó khăn cũng ít dần.

Trong khi đó, các vị chú giải theo cách thoải mái/uyển chuyển đã thu hút được rất nhiều người nghe. Cáv vị này tạo được trào lưu đích thực về sự thông thoáng, khi giữ Luật. Tạo được lòng xót thương nhân bản, cho mọi người. Các vị cũng được coi là những người chuyển luật tình thương Torah, với mọi người.

Ví dụ điển hình về địa hạt thực dụng và đúng đắn của Halakah, là: việc thực hành các trường hợp ly dị và tầm quan trọng của ngày Sabát. Xem thế thì, ngay cả khi không thấy Luật Torah đề cập đến chuyện ly dị, theo nguyên tắc và trường hợp cho dân con Do thái được phép lao động chân tay, ngày Sabát, cũng đã thấy có nhiều uyển chuyển, giữ luật theo tinh thần, chứ không đặt nặng từng chữ, vẫn đực tiếp tục thực hành. Và tên tuổi các nhà làm luật gò bó, phải kể đến Shammai là người rất nhiệm ngặt về luật. Trong khi đó, Hillel là nhân vật chủ trương Halakah thông thoáng, uyển chuyển hơn.

Trong tầm nhìn như thế, có thể nói là: các nhà chú giải luật có tính phóng khoáng của Halakah đúng là anh em ruột của thánh sử Mát-thêu, và Đức Giêsu. Bởi, khi đọc Tin Mừng của thánh nhân, ta đọc ra giòng chảy của một thức giả Do thái từng biết nhiều/hiểu nhiều về thói quen, cung cách và luật lệ Do thái. Thánh Mát-thêu hiểu rõ Đức Giêsu là người Do thái. Và như thế, thánh nhân chính là vị thánh đã quảng bá rất thành công đường hướng luật đích thực, của Đức Chúa.

Thật sự, thánh Mát-thêu đã thánh nhân trong việc định vị Đức Giêsu như Nhà Làm Luật rất thông thoáng, theo kiểu Halakah. Thánh nhân còn là sử gia chuyên viết về luật Halakah của Đức Chúa. Đấng đưa ra luật Tình Thương, viết bằng khẩu lệnh. Lời Khuyên rất am tường, uyển chuyển. Ngài không bức bách. Không ép buộc. Và, giòng chảy thánh Mát-thêu thực hiện, chính là Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, ta vẫn nghe. Xem như thế, ta có thể gọi đó là Halakah đấng thánh, cũng rất được.

Halakah do thánh Mát-thêu ghi, bắt đầu bằng “Bài Giảng Trên Núi”, một hiến chương hay còn gọi là luật thực thụ do Chúa tạo nên. Là, định luật theo ánh sáng và tinh thần này. Và, bận tâm của thánh Mát-thêu là cốt để thiết lập những gì mới mẻ, nơi lời giảng dạy của Đức Chúa hầu ăn khớp với lịch sử của người Do thái. Sự mới mẻ này, vượt quá và vượt trên những gì đã được viết trong Torah. Điều mới ấy, còn thấy rõ trong các trình thuật do thánh Mát-thêu ghi, suốt hành trình viết sử của ngài.

Tóm lại, có thể nói:Halakah theo kiểu của thánh Mát-thêu, từng là và luôn là Luật Tình Thương của Đức Chúa. Là, câu trả lời thoả đáng cho câu hỏi: đâu là giới lệnh cao quý nhất, của Luật Torah? Cuối cùng, thì Torah chỉ là và phải là Luật Tình Thương, thôi. Chính vì thế, ta có thể nói: thánh Mát-thêu là người Do thái, rất đích thực. Là, thánh sử rất thực thụ, chuyên chép lại đường lối rất chính xác của Đức Giêsu. Của, Hội thánh rất tiên khởi.

Diễn tả các chi tiết trên theo tâm tình của nhà thơ, ta có thể kể thêm như sau:

 

“Nghe nói người Tiên vẫn hiện hình,

Bước ra từ những cõi u linh.

Em như cô Tấm trong hoa thị,

Về đứng nhìn tôi, trên nước xanh.”

(H.P. Ngọc Tường – Hoa Thuỷ Tiên)

 

Đành rằng, Thủy Tiên không là Torah, Luật Do Thái. Cũng chẳng là nhân sinh quan sống động của Halakah. Nhưng, Thuỷ Tiên ấy, người Tiên nọ vẫn cứ “hiện hình từ cõi u linh”, để nói rằng: Luật gì thì luật, vẫn không thể qua được Luật Tình Thương, của Đức Chúa. Rất mặn nồng.

 

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 7 Mùa Thường Niên Năm A

 

“Nếu địa đàng, chẳng còn gì để nhớ”

“Hạt bụi rớt xuống đời, xin lẫn vào nhau…”

(dẫn từ thơ Bùi Thanh Tuấn)

 

 

Mt 5: 38-48

Địa đàng cuộc sống, là chốn miền để gợi nhớ. Hạt bụi tình người, là chất liệu để yêu thương. Thương yêu, điều Chúa nhắc nhở, ở Tin Mừng, vẫn được thánh sử ghi chú, vẫn lâu nay.

Nhiều người, rất lấy làm lạ khi được bảo: Tin Mừng thánh sử viết, là bản văn viết không vào thời Chúa hoạt động, hoặc ngay sau ngày Chúa sống lại, nhưng được viết vào nhiều thập niên sau, như: “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” chẳng hạn, đã chỉ được ghi chép vào giữa thập niên ’80, ở thế kỷ đầu. Và, người ghi chép “Tin Mừng” này không phải là Mát-thêu-thu-thuế thời Chúa sống. Cũng không là một trong số mười hai tông đồ, gần gũi Chúa. Ông là học giả Do thái hiểu biết nhiều tiếng Hy Lạp, xuất thân sinh sống tại một quận ở ngoại ô Giêrusalem, mà người thời ấy có thói quen gọi là “thày dạy”, hoặc đấng bậc “tư tế”.

Tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu”, là vị thức giả từng hồi hướng về với Đạo Chúa, ngang qua các thừa sai của Chúa.Thánh sử Mát-thêu học được nhiều điều, qua hành động và cuộc sống từ các Đạo hữu theo chân Chúa. Đặc biệt, là các vị có liên hệ mật thiết với thánh Phêrô tông đồ, thời tiên khởi. Khi ghi chép Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, tác giả đã ở vào độ tuổi cao niên khá cứng, nhưng ông lại là người có tầm nhìn thông thoáng, thi vị. Ông đề cập nhiều đến những con người và người con có tâm tư chân phương. Bình dị. Nhưng có tư cách.

Sử gia Mát-thêu, là cây viết rất sáng giá. Thánh nhân, tuy chung đụng nhiều với người Do thái, nhưng dùng tiếng Hy Lạp để ghi chép Tin Mừng. Và, qua văn phong văn thể cùng lập trường chuyên chính rất Kitô, nên các nhà chú giải cho rằng tác giả là một trong các Kitô-hữu đầu tiên, ở thời ấy.

Tin Mừng do tác giả viết, lại gồm lời lẽ ân cần, gửi đến các đấng bậc khôn ngoan/thông thái ở Israel. Nên, nhờ đó ta học được rất nhiều điều qua các dạng thức, như: lời sấm, dụ ngôn, phương châm, hoặc tư vấn, nhất nhất đều nhấn mạnh đến điều Chúa giảng rao cho mọi người. Bởi thế nên, người đọc nhận ra những 73 lần tác giả lập đi lập lại cụm từ “tông đồ”, ở “Tin Mừng” này. Và vì thế, người đọc cũng nên hiểu cụm từ “tông đồ” theo nghĩa các “đấng bậc khôn ngoan/uyên bác” chuyên học hỏi những điều hay lẽ phải, do từ Chúa phán ra. Và cũng vậy, người đọc đừng nên hiểu rằng tác giả “Tin Mừng” là nhà thức giả thuộc tầm cỡ đại học, chuyên ngồi trong phòng lạnh để viết. Hãy cứ tưởng tượng rằng: khi ghi chép “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” tác giả đã suy tư dưới ánh đèn dầu leo lét, với tâm tình nguyện cầu, có bầu khí ẩm ướt, nặc mùi khô cháy. Có lưới cá đang hơ hóng, ở đâu đó…

Nay có người hỏi: thánh sử Mát-thêu muốn chuyển tải điều gì mới mẻ, khi ghi chép Lời Chúa?

Hầu hết các cộng đoàn tin theo Chúa sống ở Giêrusalem, đều mang tính chất rất “Do thái”. Hết thảy đều thấy nơi Đức Giêsu một Môsê rất mới để các vị nghe lời. Vì, xét cho cùng, Ngài còn mới hơn cả chính tiên tri Môsê, bởi Ngài là Đấng luôn chủ trương những điều mới mẻ, nơi Lề Luật. Và, điều mới mẻ khác nữa, là: Ngài không cất bỏ đi yếu tố quan trọng sẵn có từ hậu duệ của Đavít. Và, mọi người còn nhận ra nơi Đức Giêsu, hệt như ở Môsê và Đavít, ảnh hình của Đấng Bậc Hiền Từ, rất đặc biệt. Đặc biệt, là bởi người người đều nhận thấy rằng: qua Ngài và ở nơi Ngài “Ơn Cứu Độ” đã đến, là đến với cả Dân ngoại nữa. Ngài đến, qua trung gian Israel hoặc những người Do thái, tức: những người lúc ấy vẫn ở trong tư thế cách xa và tách rời khỏi dân-được-chọn. Và, họ coi đó như ân sủng riêng tư, nhận từ Chúa. Bởi thế nên, trở thành người hết lòng tin tưởng vào Đức Giêsu, phải là người Do thái tích cực, phóng khoáng, những người chủ trương tuân giữ Luật Torah rất Đạo. Từ đó, cộng đoàn dân Chúa đã thấy mọi người tập trung nhấn mạnh đến Luật Torah. Quyết tuân giữ Lề Luật cách kiên trì, nhưng thông thoáng. Tuân và giữ, theo tinh thần tự do của người con Đức Chúa, mới đúng.

Vốn đặt nền tảng vững vàng lên truyền thống rao giảng kiểu thánh Phaolô Tông đồ, Hội thánh Chúa khi ấy đã có tầm nhìn rất khác lạ về Lề Luật. Và, Hội thánh đã coi Đức Giêsu là Đấng Bậc rất Do thái, chủ trương giữ Luật Torah thật đúng qui cách. Rất tự do, phóng khoáng, cho đúng nghĩa. Kể từ đó, Hội thánh vốn có sẵn tinh thần giảng rao của thánh Phaolô, lại đã khám phá ra rằng: tự do con cái Chúa là một hiện hữu rất đích thực, khi ta tuân thủ Lề Luật, rất Torah.

Là người Do thái sống ở miền Bắc xứ Palestin thời tiên khởi, thánh sử Mát-thêu xuất xứ từ một quá trình cuộc sống, có lập trường khá bảo thủ. Chí ít, là truyền thống giữ luật đúng qui cách, như Chúa dạy. Thánh sử cũng lo rằng nhiều truyền thống có thể sẽ mai một đi nếu không có người bận tâm lo duy trì nó. Và, thánh sử còn một mối lo ngại nữa, cứ e rằng: rồi ra sứ vụ tông đồ rao giảng kiểu Phaolô thánh nhân, có thể sẽ khiến truyền thống của người Do thái trở thành thứ yếu, mất đi tầm quan trọng. Do đó, thánh sử gia đã cảm thông với tình huống mà cộng đoàn Hội thánh ở Giêrusalem đang sống, dù cho thánh sử không thuộc về cộng đoàn này.

Cũng vì thế, tác giả quyết tâm tái cấu trúc cộng đoàn theo kiểu cộng đoàn dân Chúa ở Giuđêa, nghĩa là: không chỉ rập theo khuôn phép cũ của người Do thái, nhưng còn phổ biến lối sống của cộng đoàn Hội thánh Giêrusalem, hoặc có khuynh hướng mục vụ rao giảng theo kiểu của thánh Phaolô. Bởi thế nên, người đọc nhận ra rằng: “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” cũng mang dáng vẻ bảo thủ qua việc đòi mọi người giữ luật cho đúng qui cách. Chí ít, là cải cách niềm tin của người Do thái theo khuôn khổ “chiên lạc rời khỏi ràn nhà Israel”. Thành thử, tinh thần của thánh sử và của cộng đoàn nơi thánh nhân sinh hoạt vẫn có khả năng duy trì mối liên kết chặt chẽ với đền thờ người Do thái.

Tuy nhiên, thánh sử Mát-thêu không quên rằng: chính Đức Kitô mới là Đấng ta cần tin vào Ngài. Thánh sử diễn tả lập trường này theo lối viết giản đơn, rất thông thường, rằng: thay vì ta áp dụng nguyên tắc đền và bù như: “mắt đền mắt”, “răng đền răng”, tác giả lại khuyên người đọc Tin Mừng của ngài, hãy nên sử dụng đường lối bất-bạo-động. Và, thay vì phòng thủ hoặc trả thù, thánh sử đề nghị ta nên khoan dung, độ lượng. Thay vì lo cho riêng mình, hãy quan tâm ái ngại đến người khác. Với thánh sử Mát-thêu, đây không phải là lạc quan sáng suốt, cũng chẳng là đường lối tư riêng độc quyền của người Hy Lạp, nghĩa là đường và lối chỉ chú trọng vào cuộc sống tư riêng của người khác, thôi. Nhưng, là: hãy áp dụng luật Torah theo qui cách thương yêu, như Chúa đã khuyên dạy.

Điều cốt thiết mà thánh sử nhận ra nơi lời dạy của Chúa, là: Ngài là người giữ luật Torah, rất đúng cách. Tuy nhiên, Ngài chú trọng đến tinh thần, chứ không phải chữ viết của Luật. Nói cách khác, người đọc “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu không thể hiểu Luật Torah cho đúng cách, nếu không thi hành lời dạy của Đức Giêsu cũng như cộng đoàn nhỏ bé của Ngài, là Hội thánh thời tiên khởi. Bởi, cộng đoàn Hội thánh mới là người sống thực Luật Torah theo tinh thần Chúa đề ra. Và, thánh sử lại thêm rằng: dân con thành thánh Giêrusalem không chắc đã nhận ra được điều này. Vì thế nên, người đọc “Tin Mừng” có thể kết luận rằng: tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” quả là phóng khoáng cũng rất đúng.

Vậy, người đọc hôm nay học hỏi được điều gì qua sự việc này?

So sánh kinh nghiệm của các thừa sai tông đồ thời tiên khởi với kinh nghiệm thời Hậu-Công Đồng Vatican II, dân con Hội thánh nhận ra được điều gì? Ta có nhận ra được năng lực và tự do con cái Chúa nơi cộng đoàn Hội thánh tiên khởi theo kiểu thánh Phaolô không? Phải chăng, so sánh kinh nghiệm về cố gắng ‘tái lập’ di sản được bảo tồn, đáng yêu từ một truyền thống rất đúng đắn? Truyền thống, có là qui cách mà tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” hằng cảnh báo Hội thánh hãy trở về với tính chất Do thái, ở lai thời không?

Nếu tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” nay còn sống, hẳn thánh sử sẽ lại yêu cầu các đấng bậc vị vọng trong Hội thánh hôm nay, hãy quan tâm nhiều hơn nữa đến việc tái tục truyền thống đã có từ thời tiên khởi? Và, Hội thánh cũng nên nhìn vào Đức Giêsu hơn là các truyền thống mà các ngài muốn duy trì, bảo vệ. Hẳn rằng thánh sử Mát-thêu cũng sẽ yêu cầu mọi thành viên Hội thánh hôm nay hãy có tầm nhìn phóng khoáng và cởi mở, tốt hơn là ở lại với truyền thống xưa/cũ. Như Đức Giêsu khi xưa, vẫn đứng về phía những người duy trì Luật Torah, bằng tinh thần chứ không theo từng chữ. Và, ảnh hình Chúa chấp nhận dìm mình thanh tẩy nơi sông Giođan, sẽ là bằng chứng điển hình cho việc tuân giữ Luật Torah, rất tự do. Rất có tinh thần thương yêu. Đúng qui cách.

Thật là khó để tác tạo được một quân bình cho cơn sóng dồn và sức ép từ Lề Luật, thế mà Ngài vẫn chấp nhận dầm mình dưới giòng sông Giođan để chứng tỏ tinh thần giữ Luật đúng cách. Nhưng, tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” vẫn sẽ là vị học giả cao niên, chín chắn. Là vị thức giả hiểu rõ hơn ai hết tinh thần của người Do thái. Hiểu Đức Kitô và người nghèo, hơn ai hết. Tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” chính là người có được nhận thức mới về sự khôn ngoan, thông suốt cho mỗi người chúng ta.

Hiểu được tâm trạng của thánh sử theo cung cách của thi nhân thời nay, tưởng cũng nên ngâm nga tiếp lời thơ ý nhị ở trên, rằng:

 

“Thức dậy, một sớm mai thấy mình như hạt bụi,

Khắc khoải giấc mơ ròng rã, nửa đời người.”

(Bùi Thanh Tuấn – Nếu Địa Đàng Chẳng Còn Gì để Nhớ)

 

Khắc khoải hay không, e rằng không chỉ thế. Mà còn hơn thế nữa. Hơn, là vì Hội thánh ta hôm nay vẫn còn nghe và cứ nghe lời gọi mời của Đức Kitô: hãy sống tinh thần Luật Torah, cho đúng cách. Bởi, đó là luật của Tình Thương. Với mọi người.

 

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 8 Mùa Thường Niên Năm A

 

“Có hoa nào qua mùa không héo?”

“Có tiếng nào, giàu đẹp hơn không?”

(dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)

 



Mt 6: 24-34

Hoa có héo. Tiếng có giàu, vẫn cứ héo và giàu như loài hoa và tiếng nói rất

người phàm. Đâu như Lời Vàng mà thánh sử Mát-thêu ghi chép! Lời Vàng thánh Mát-thêu ghi, là hoa tươi, là tiếng giàu đẹp thánh nhân đưa vào trình thuật truyện kể và bài giảng lấy hứng từ Tin Mừng thánh Mác-cô. Và, đó cũng là điều mà hầu hết các nhà chú giải đều đồng ý. Tuy nhiên, vẫn có những đoạn trình thuật mang tính chất rất riêng tư như thánh Mát-thêu đề cập đến ở Lời Chúa, rất hôm nay.

Điển hình hơn cả, là: đoạn trích được thánh sử rút từ sách Ysaya, nhằm

phản ánh truyền thống sống động về sinh hoạt của Đức Giêsu và về Lời dạy rất thánh, của Ngài. Các đoạn trích tập trung nơi Tin mừng thời tiên khởi. Thời này, đã tràn lan xuất hiện các chỉ thảo có từ Sách Tanak như: thánh vịnh, Đệ Nhị Luật và Sách ngôn sứ Ysaya. Xem thế, ta có thể kết luận là: cộng đoàn Mát-thêu ngay từ đầu, đã thủ đắc các phó bản của sách Ysaya này.

Tuy là thế, thánh Mát-thêu vẫn dùng đến sách của các ngôn sứ khác, nhưng chỉ để hỗ trợ cho việc trưng dẫn sách Ysaya, trong chủ đích này. Tin Mừng thánh nhân ghi, tuy không trích dẫn từng lời nói của vị ngôn sứ, nhưng thánh nhân cũng sử dụng nhu liệu làm nền từ vị ngôn sứ này. Vì thế, có thể nói: thánh Mát-thêu nhận ra Đức Giêsu là Đấng đã thực thi những gì được ngôn sứ nói, từ thời Cựu Uớc.

Điều mà thánh nhân nhấn mạnh, là: bảo vệ niềm tin của cộng đoàn mình đặt nơi Chúa. Và từ đó, xác tín rằng chính Đức Giêsu là Đấng Mêsia, như chủ thuyết Giuđa minh định. Ngang qua sách Ysaya, thánh sử có nói về 3 chủ đề chính ngõ hầu hỗ trợ cho lập trường được nhắm đến, là: Tạo Dựng Mới. Tin Mừng Cứu Độ ở nơi Chúa. Và, Trở về từ đất miền lưu đày, ngang qua sa mạc.

Ngoài ra, thánh Mát-thêu còn chứng minh điều mà Đức Giêsu nói: Ngài là Đấng Tạo Thành Mới. Tin Mừng là Tin Vui Cứu Độ gửi đến mọi người. Nếu ai cũng biết đặt mình vào Tạo Dựng Mới, sẽ chẳng còn ai phải lưu đày ở chốn khách này, nữa. Thế nên, thánh nhân coi Tin Mừng do mình viết, là một Khởi Nguyên mới. Là, công việc mới mẻ để mọi người hiểu rằng: Chúa đã và đang thực hiện vai trò Luật gia Torah rất đích thực. Và, những gì khi xưa sách Ysaya xưa đã đề cập, nay thành hiện thực nơi Ngài. Và, sự thực ấy, nay trải dài ở Tin Mừng của thánh nhân, ít là ở 10 bản văn.

Bản văn đầu, về Gia Phả, thánh Mát-thêu muốn minh định: lời ngôn sứ loan: “Nhà Đavít có Vị nối dõi tông đường nay đã thể hiện nơi Đức Kitô”. Loan báo, là loan và báo khác hẳn gia phả giòng tộc vua quan khác ở Đamát, Samari và Assyri (Is 7: 10, 9: 11). Vì thế, thánh nhân kể rõ từng chi tiết trong gia phả của Chúa. Và, việc Đức Mẹ đưa Hài Nhi Giêsu qua Ai Cập là để xác chứng rằng lời Chúa hứa giúp dân Do thái thoát khỏi ách nô lệ để trở về, nay đã thành chuyện có thực.

Bản văn thứ hai chứng minh thêm một điều, là: ngôn sứ Ysaya hứa giải cứu dân Do thái thoát ách nô lệ ngoại bang để trở về, nay hiện thực hiện ngay nơi hoang vắng có Chúa nguyện cầu. Đây, còn là chốn miền để Chúa gặp gỡ Cha Ngài. Ở Tin Mừng, thánh Mát-thêu nói nhiều về chốn hoang sơ/sa mạc ở Giuđêa, nơi đó thánh Gioan Tiền Hô từng rao báo những điều đã ghi ở sách Ysaya ở chương 40.

Với Ysaya, dân Do thái trở về, là về từ nơi chốn lưu lạc bên Ai cập, ngang qua chốn hoang vu sa mạc. Và trở về mà hoàn tất ơn cứu độ nhờ Đức Chúa dẫn dắt như vị Chủ chăn. Tổ phụ Môsê, vị chủ chăn từng giúp dân Do thái vượt biên/vượt biển thành công được, cũng nhờ có sự trợ giúp của Thần Khí Chúa. Với Tin Mừng, thánh Mát-thêu kể về việc Chúa chấp nhận dìm mình dưới nước sông Giođan, để rồi dẫn dắt dân con Ngài vào chốn hoang vu, nhờ đó Thần Khí Chúa biến Ngài thành Con Thiên Chúa Hằng Sống. Ở Tin Mừng, Đức Giêsu là Môsê Mới cũng sử dụng lời lẽ từ sách Đệ Nhị Luật để đuổi xua tên cám dỗ sừng sỏ dám thách đố Ngài. Và, Ngài nói đến “chốn núi cao”, như Cựu Ước từng nói.

Bản văn thứ ba, đem đến cho người đọc nguồn ánh sáng chiếu rọi trên dân con Chúa. Họ đón nhận ánh sáng ấy nếu biết ứng dụng Luật Torah theo tinh thần Chúa sáng soi (Is 9: 4). Động lực ‘ánh sáng’ đưa mọi người đến ý nghĩ về “cặp mắt xấu” (tức lòng tham vô đáy) và năng lượng tạo lửa ngọn hực cháy. Tạo nên đá tảng cho an bình nội tâm, càng thêm vững.

Bản văn thứ tư gợi ý nói về Người Tớ Khổ Đau. Tức, tập trung vào nỗi khốn khổ, đớn đau của con người. Từ đó, thánh nhân diễn rộng thành truyền thống coi Chúa là Vị Thày Chữa Lành mọi sự. Các chương 8 và 9 gồm 10 trình thuật nói về việc Chúa chữa lành. Tất cả chia thành hai nhóm, mỗi nhóm gồm 5 trình thuật truyện kể. Mỗi nhóm, nói đến người bị ruồng bỏ. Đến, trẻ nhỏ. Kẻ goá bụa, và cả những người được chữa đến hai lần. Tất cả, nói lên lý lịch của Chúa là Đấng Mêsia, rất đích thực. Rõ nhất, là vai trò Chủ Chăn của Chúa (như vua Đavít), rút từ sách Isaya chương 53. Và từ đó, Chúa nói đến chiên lạc nhà Israel. Rồi, Ngài diễn rộng bằng bài thuyết giảng về sứ vụ rao báo, ngõ hầu giúp tông đồ Ngài trở nên sứ giả chuyên phổ biến Tin Vui An Bình, ngang qua trình thuật kể về nỗi khổ đau của Tôi Tớ Đau Khổ.

Bản thứ năm trích nhiều từ đoạn 42, qua đó người đọc thấy được lý lịch của Chúa như Con Người. Và, như Người Con của Giavê Thiên Chúa, Đấng sẽ đến lại vào ngày Quang Lâm. Đức Chúa của ngày Sabát, là Con vua Đavít, vẫn cao sang hơn đền thánh. Hơn Yôna, Salômôn khôn ngoan/quyền quý mà mọi người quý trọng. Với thánh Mát-thêu, cung cách của Người Tớ Khổ Đau nói ở Cựu Ước được đánh giá cao qua công việc Ngài làm. Việc này, còn được diễn bày rất nhiều, về sau. Nhưng trước mắt, thành công đạt được là nhờ Thần Khí Chúa dẫn dắt. Và thánh Mát-thêu định danh Thần Khí Chúa như Nguồn Mạch chữa lành và trừ tà.

Bản văn thứ sáu, là trình thuật về lời mời gọi Ysaya trở thành ngôn sứ. Lời mời, ăn khớp với việc Chúa quan phòng dẫn dắt dân con Ngài ngang qua lưu đầy, khốn khổ. Thời đó, các nhiệm tích được chuyển tải theo cung cách kín ẩn cho đến khi dân con kết cuộc mọi lưu lạc, trở về thành “hạt giống thánh”. Hạt giống đâm chồi nảy lộc ngay trên đất của mình. “Hạt Giống Thánh Thiêng” đây, là Đấng Mêsia thuộc giòng họ rất Đavít.

Bản văn thứ bảy, rút từ chương 29 được thánh Mát-thêu coi như cảnh tình của dân con mọi người có nghe biết, mà chưa hiểu. Và, thánh nhân diễn rộng điểm này ở chương 6. Ở Isaya 29, toàn bộ thị kiến của ngôn sứ là sách quí dành cho cả người không biết đọc, lẫn người học rộng. Bởi, Chúa giấu kín mọi nhiệm tích khỏi người khôn ngoan. Ngài khiến kẻ điếc được nghe, kẻ mù được thấy, để họ hiểu rõ những gì mình nghe và biết, điều quan trọng hơn là lập đi lập lại giới luật do Pharisêu và Xa-đốc quảng bá. Chính vì thế, thánh Mát-thêu đưa ra các khích bác về Lời của Chúa, cho người thời đại, cả đến hôm nay.

Truyền thống Giáo Hội liên kết các khích bác ấy với trình thuật Chúa làm dấu lạ qua nhân rộng 5 chiếc bánh và hai con cá, cho cả ngàn người no đầy. Đây là chi tiết rất ăn khớp với truyện kể ở Isaya 29, câu 8 khi tác giả sách ngôn sứ kể về người đói bụng chìm trong giấc mơ tuy ăn nhiều nhưng không mãn nguyện. Và, qua trình thuật phép lạ về bánh và cá, thánh Mát-thêu muốn đề cập đến việc Chúa chữa lành cho cả người điếc lẫn người mù, khiến họ thoả mãn, thích thú.

Bản văn thứ 8 là chương 68-69, tóm lược từ đoạn Zakaria 9, được thánh Mát-thêu sử dụng cốt ý nói đến việc Chúa về với Giêrusalem. Chủ đề này, là để đền bù đáp ứng lòng thù hận; lấy xót thương, tử tế, sẻ san nỗi thống khổ mà đoàn dân quay trở về từ đất miền lưu lạc, nay cảm nghiệm. Đavít xưa tuy toàn thắng nhưng vẫn khiêm hạ. Ông quyết ngồi trên lưng lừa, chứ không dùng ngựa, bởi ngựa bị cấm không được trở về với Giêrusalem. Nhất nhất mọi điều nói lên lòng xót thương/khiêm hạ của Đấng chủ chăn cộng đoàn.

Bản văn thứ 9 là từ Ysaya 56 đặt nặng nhu cầu bảo vệ công lý/chính trực cho kẻ thấp cổ bé họng, những người bị bỏ rơi, cô quạnh. Ngài có nói: đền thờ là nơi nguyện cầu, dành cho hết mọi người. Đối nghịch tính đồi bại, nguy hại của thể chế rất thành văn, của tôn giáo. Điều này đuợc nhắc đến ở Gêrêmia 7, là sách nói đến sào huyệt của dân cướp cạn. Bởi, ở nơi đó, họ thực hiện những bất công, cùng tệ nạn sùng bái ngẫu thần và cả chuyện hy sinh giết trẻ nhỏ để tế lễ. Các sự kiện cuối đời hoạt động của Chúa, soi rọi quanh chủ đề cánh chung, ngày Chúa đến lại, trong vinh quang. Mai ngày.

Và, bản văn 10 từ Isaya 53: 4-6, cho chí Is 52: 13 và 53: 12, được thánh Mát-thêu sử dụng để tóm kết đoạn sách Gerêmia 13: 7. Thánh Mát-thêu dùng chương này, cốt để nói lên cố gắng của Chúa Chiên Lành là Đức Giêsu trước âm mưu ám hại Ngài. Chúa vẫn âm thầm, câm nín như chiên con đi vào lò sát sinh. Chủ đề, thấy rõ ở sách ngôn sứ Gêrêmia, qua đó vị chủ chăn bị đánh, chiên con chạy tán loạn. Ở Tin Mừng Mát-thêu, thánh nhân thêm vào đoạn nói ở sách Ysaya, qua đó cho biết Đức Giêsu sẽ trỗi dậy từ cõi chết. Và, Ngài về lại Galilê là để gặp gỡ hết mọi người, cả tông đồ cũng như dân con, hằng mong đời.

Nói cho cùng, hai sách Đệ Nhị Luật và Ysaya gộp lại thành tấn thảm kịch diễn lại sự giải thoát dân Israel, qua Cyrus và dân con người Ba Tư. Nhưng thánh Mát-thêu dùng sách, để trình bày về Đức Giêsu là Đavít Mới. Là, Đức Vua. Là, Thi nhân Đavít Mới quyết đem mọi điều tích cực đến với mọi người. Chứ Ngài không chỉ dành ân huệ cao quí ấy cho mỗi dân Do thái. Đavít không chỉ là vua quan/lãnh chúa, mà còn là “nhà thơ” từng chứng kiến mọi đổi thay nơi dân mình, qua các thánh vịnh do ông sáng tác. Ở đó, có sự nối kết giữa Đavít toàn thắng về binh bị với Đavít chuyên gia âm nhạc và thơ. Tất cả, đều là ý của vị ngôn sứ.

Đức Giêsu, đích thực là hậu duệ của “thi sĩ” Đavít. Ở nơi hoang vu, Ngài học hát những bài ca của Môsê. Là Môsê Mới, Ngài chữa lành hết mọi người bằng thi ca/âm nhạc, biến Giêrusalem là chốn Ngài lấy lại, thành Vương Quốc Nước Trời. Nước Trời, không theo nghĩa của trần gian mà là sự công chính. Vương quốc của Ngài biến thành bài ca/giọng hát, cho muôn người. Trên thập tự, “vương quốc” bình thường đã qua đi. Nhưng, nhờ sống lại, “Nước Trời” ấy trổi lên thành thi ca/âm nhạc vượt quá văn xuôi, rất tầm thường. Từ đó, thánh Mát-thêu đã lấy lại chất thơ rất Ysaya. Bởi, Đức Giêsu đã cấu trúc Giuđêa lại, qua cung cách rất thơ của ngôn sứ Ysaya.

Xem thế, thì Đức Giêsu là hậu duệ của nền thơ Đavít. Thứ thi ca đã kinh qua hoang vắng, và qua cả cốt cách Môsê, rất đổi mới. Ngài là Đấng chiếu sáng muôn dân bằng thơ. Chữa lành mọi người bằng nhạc, chứ không thuần mỗi chính trị, hoặc, binh bị. Cho mọi người. Cả những người đang có, lẫn các kẻ còn thiếu thốn. Nơi Ngài, Nhà Thơ Tối Cao, Thiên Chúa đã đến để lấy lại Giêrusalem vì mục đích cao cả hơn chính trị.

Công lý, hoà bình và ơn cứu độ sẽ theo đó mà về với mọi người, chứ không chỉ với một dân tộc. Dù dân tộc ấy đã được chọn. Trên thập tự, vương quốc của Ngài đã qua đi. Nhưng qua sự sống lại, hồn thơ đã trỗi dậy. Hồn thơ ấy, là sự giải thoát. Là Đức Giêsu, Đấng chữa lành/giải thoát hết mọi dân tộc. Mọi người. Ở đây đó.


 Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 9 Mùa Thường Niên Năm A

 

“Rồi buổi u sầu, em với tôi”

“Nhìn nhau cũng đủ lãng quên đời…”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

 

Mt 7: 21-27

U sầu, mà lại nhìn nhau phải chăng là để lãng quên đời? Quên đời mình, thì dù có nhìn trời và nhìn nhau cũng không thể thấy là người người để quên mất ánh mắt tươi, làn môi cười hoặc chính đường lối sống rất mới của Chúa qua Tin Mừng do thánh Mátthêu gửi đến, hết mọi người! Thánh nhân gửi, là gửi lời tâm phúc cũ/mới đáng ta suy tư/nguyện cầu, để rồi sẽ sống theo Lời Chúa nhủ khuyên.

Một trong các đường hướng thánh Mátthêu thực hiện được khi ghi chép Lời Chúa, là nhấn mạnh đến diễn tiến rất liên hồi về các sự kiện liên quan đến hoạt động của Chúa, với dân con. Về, những gì xảy đến trong quá trình lịch sử. Cả những diễn tiến bao gồm những điều mới mẻ về Chúa, ngõ hầu đánh động người đọc. Sự liên tục của quá trình thời cổ sử và sự cải tổ cho thêm mới, đều là thành tựu khó mà tạo được cân bằng. Cái hay của thánh Mátthêu, là thánh nhân đã tin vào những yếu tố mới mẻ nơi Chúa khi viết về diễn tiến lịch sử, tức những đích thực như đã xảy ra, vẫn rất mới.

Ai có kinh nghiệm biết rõ về Công Đồng Vatican II, hẳn sẽ nhận ra được yếu tố này. Vấn đề, là hỏi rằng: Công đồng Vatican II thực chất có gì mới lạ, với Hội thánh? Đó phải chăng chỉ là một trong các Công nghị diễn tiến như bánh xe lịch sử, chẳng gì mới?

Nhìn vào các sự kiện xảy đến trong đời, tựa hồ chuyện hằng ngày ta vẫn thấy, thì sẽ có lúc ta nhận ra rằng: sự kiện lịch sử là một trong các hiện tượng thường kéo theo sau nhiều hệ luỵ, tuy rất chậm. Hệ luỵ, là những hệ quả khiến ta tuỳ thuộc vào diễn biến lịch sử. Hệ luỵ, qua nhiều cách giải thích các sự việc xảy ra, rất từ từ, chầm chậm. Có thứ, kéo dài cả thập niên. Có thứ, phải mất hằng thế kỷ, mới hiểu được.

Sau thời gian dài như thế, con người mới nhận ra lý do tại sao mình phải trải qua nhiều sự kiện/hiện tượng đến như thế. Tức, muốn hiểu được những gì đã và đang xảy đến, ta phải trải qua các những điều mà có người gọi đó là: “những đối chọi về một giải thích”. Tức, hễ ai quan tâm đến sự kiện này/hiện tượng nọ, đều phải đưa ra lời giải thích đôi lúc trái nghịch nhau. Lời giải thích ấy, đôi khi rất kéo dài. Kéo đến độ sau nhiều bàn luận dài và lâu, người trong cuộc mới chấp nhận sự kiện/hiện tượng đối nghịch ấy và đưa vào với nhóm hội/đoàn thể mình, hầu thực hiện trong đời sống.

Nói cách giản đơn hơn, thì ngày nay có hai khuynh hướng gồm những người đề cao điều mới mẻ về Công Đồng Vatican II, hẳn vẫn coi đó như luồng gió mới, đem niềm tươi mát cho Hội thánh. Với họ, ta phải ngồi nghe suốt hàng giờ, để chờ họ nói về tình hình Hội thánh “trước”/”sau” Công Đồng, theo nghĩa lịch sử tiếp diễn. Kéo dài. Rồi từ đó, mới nhận ra được sự mới mẻ xuất hiện sau khi Công Đồng tụ tập bàn luận.

Khuynh hướng kia, chỉ để ý đến tính cánh liên hồi của Công Đồng, tức những gì gắn liền với quá trình mang đặc tính “Công giáo” của Hội thánh, mà thôi. Các vị ấy vẫn muốn đưa đề tài quan trọng nào vốn được Công Đồng đề cập đến trong quá trình dài đằng đẵng. Theo cách đó, các vị này càng ít nhận ra điều mới mẻ ở Công Đồng cho bằng các đấng bậc vị vọng, thuộc nhóm 1. Các đấng bậc này nhận ra được nơi Công Đồng, tính cách liên tục vẫn diễn tiến như trong lịch sử. Vì thế, các vị ấy mới có ý định sửa đổi mọi cố gắng của các nhóm muốn biến Hội thánh thành một thánh hội, hoàn toàn mới mẻ.

Thật ra thì, cả hai nhóm lập trường nói trên vẫn cần có thời gian để định ra được giá trị cho việc sửa đổi trong tương lai, mai ngày. Một số vị chỉ muốn cắt ngắn thời gian cần có, càng ngắn càng tốt. Trong khi đó, một số đấng bậc khác trong Hội thánh xem ra còn muốn cải tổ cả công cuộc đổi mới của Công Đồng nữa. Cuối cùng thì, kết quả đạt được lại tạo sự xa cách đối với các vị có yêu cầu đổi mới. Xa và cách, cả với giới trẻ từng xuất thân và lớn lên trong hoàn cảnh khác biệt.

Nhân kỷ niệm 40 năm nhìn lại những thành tựu của Công Đồng Vatican II, Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô XVI có nói:: “Vatican II, là Công Đồng chủ trương đường lối mà con người sống trong thế giới, cần thực tiễn. Và nền thần học của Công Đồng, là học về đường lối Chúa sống trong thực tại trần thế mà ta không thể biết rõ cho đến ngày ta về với Ngài, chốn Nước Trời. Nhiều thủ lãnh Giáo hội bị bắt gặp đang còn ngủ quên, ở đâu đó. Và, Công Đồng đã chứng tỏ thành tựu tích cực đối với cuộc sống nhân trần. Với thế giới tự tại. Với việc cho đi những gì là chiến thắng trong vinh quang kiểu trần tục. Với đường lối đa dạng hơn là khuôn thước ngõ hầu thực hiện rất nhiều điều. Từ Công Đồng này đã thấy xuất hiện các áp lực của thế giới thực tại ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn ngõ hầu thúc đẩy Hội thánh theo con đường mà Công Đồng từng vạch mở, để rồi Hội thánh có nhiệm vụ phải đi xa hơn thế nữa.”

Có đúng thế không? Có đúng là tất cả đã thành tựu theo chiều hướng ấy không?

Đó là điều mà sự kiện/hiện tượng về sự “liên tục và dứt đoạn” cứ diễn tiến. Có người chỉ muốn trở về với Giáo hội thời cổ sử kiểu Constantin và của Đức Giáo Tông Piô IX đề ra. Có vị lại cứ muốn Hội thánh biết tổ chức và có được ý niệm về sự kiện/hiện tượng, rất khác hẳn. Muốn, là muốn Hội thánh phải là thánh hội của Tân Ước và của Công Đồng Chung Vatican II.

Từ đó, sẽ có câu hỏi, rằng: nếu vậy, thánh Mátthêu muốn nói với ta điều gì khi ngài ghi chép?

Thật ra, thì thánh Mátthêu đã khám phá ra được một đổi mới tận gốc rễ, nơi Đức Giêsu. Thánh nhân còn khám phá được sự liên tục triệt để nơi đường lối Chúa sống rất trung thực như người Do thái. Và, thánh Mátthêu ghi chép Tin Mừng là để mong cho dân con Hội thánh Chúa sống đời đổi mới như chính Chúa sống. Đồng thời, Ngài vẫn sống theo cung cách rất đúng Luật của người Do thái rất cổ lỗ. Thánh sử tìm cách nhấn mạnh những gì rất mới và cũng như rất “nệ cổ” nơi lối sống người Do thái, qua Đức Giêsu Kitô. Ngài là Đấng có một không hai, qua cung cách sống của người Do thái. Và, tính cách độc đáo ấy giúp Ngài sống một cuộc sống vừa trải dài với truyền thống, vừa “cập-nhật-hoá” cuộc sống của Ngài, theo cung cách độc nhất vô nhị ấy.

Nhìn từ góc độ nào đó, có thể nói: thánh Mátthêu đã kéo ngược giòng lịch sử, để về với sự mới mẻ mà thánh Phaolô và Tin Mừng thánh Mác-cô từng tập trung nhấn mạnh. Thánh nhân vẫn xác tín rằng cộng đoàn Phaolô và Tin Mừng thánh Máccô nhấn mạnh quá nhiều vào tính cách mới mẻ này. Dù các ngài vẫn tin vào sự mới mẻ ở sự sống của Đức Chúa. Thánh nhân từng viết: “Nhưng Ngài lại đích là một người Do thái!”, “Ngài thi hành và sống Luật Torah Do thái theo mức độ mà không người Do thái nào có thể làm được…

Nói cách khác, Luật Torah của Do thái chính là cuộc sống rất đích thực mà Chúa sống. Nói thế, có nghĩa: Do thái giáo đã thay đổi cả và thời về sau. Bởi, chính Chúa đã sống như thế, theo cung cách rất riêng của Ngài. Và, thánh Mátthêu thấy được điều này, nơi Đức Chúa. Và, chính thánh nhân cũng thấy được ngày mai vĩnh cửu của Đạo, nơi người Do thái mình.

Hôm nay, Mùa Chay đang dần dần gần đến. Đây là mùa lễ giúp mọi người bỏ qua một bên, các ý hướng cũng như tâm tưởng, của thánh Mátthêu. Để qua một bên, là bởi: với phụng vụ năm A, là năm ta sẽ còn nghe đọc nhiều đoạn Tin Mừng do thánh Mátthêu viết. Đó, sẽ là một phần trong các ý tưởng chủ lực về kỷ luật của Hội thánh khi cử hành phụng vụ Mùa Chay. Là, quyết tâm tìm ra tương lai mai ngày cho riêng mình. Để rồi, trên hành trình thực hiện cuộc sống có đổi mới như Chúa dạy. Sống trong vòng tay dẫn dắt của Hội thánh khi rong ruổi những kiếm tìm. Bởi, trong hành trình tìm kiếm Chúa, lập trường và đường lối đổi mới do thánh sử Mát-thêu đưa ra, sẽ giúp cho ta rất nhiều điều.

Trong nhận thức tầm quan trọng của lối sống được Chúa chỉ dạy, ta hãy cùng nhà thơ trên, ngâm nga thêm lời ca vang, rằng:

 

“Rồi buổi u sầu, em với tôi,

Nhìn nhau cũng đủ lãng quên đời.

Vai kề một mái, thơ phong nguyệt,

Hạnh phúc xa xa, mỉm miệng cười.”

(Đinh Hùng – Bài Ca Hạnh Ngộ)

 

“Vai kề một mái” rất nên thơ. Hết “u sầu”. Cho dẫu đời mình từng lãng quên đường Lối Chúa dạy, thì “Hạnh phúc vẫn mỉm cười, rất xa xa.” Hạnh phúc, là những phúc hạnh Chúa hứa với mọi người từng dấn bước theo chân Ngài. Hạnh phúc, là những phúc hạnh ta đạt được khi thực hiện cả đường lối do Công Đồng qui định. Hạnh phúc cũ/mới sẽ kéo dài mãi, đến sau này.

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Nhất Mùa Chay Năm A

 

“Anh trở lại con đường lên núi biếc,

thương mây bay từ đó vẫn cô đơn.

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

 



Mt 4: 1-11

Đường lên núi biếc, dù mây bay từ đó vẫn cô đơn. Cô đơn, với nỗi niềm Chúa cảm nghiệm cảnh tình người phàm khi Ngài vật vã với băn khoăn, rất thử thách.

Trình thuật tuần đầu Mùa Chay hôm nay, kể cho ta nghe tâm tình của Chúa khi Ngài bị thử thách/cám dỗ, đến như thế. Thử thách/cám dỗ, là những thử và thách suốt 40 ngày đêm nơi hoang vu, sa mạc. 40 ngày đêm, nói lên chuỗi ngày dài một đời, Chúa từng trải nhiều thử thách/cám dỗ mãi đến ngày Ngài kết tận hành trình nơi đồi cao chốn vắng, rất Calvary.

Chốn vắng Calvary xưa, có thử thách/cám dỗ đưa Chúa vào với mê say để Ngài không thực hiện được ý định Cha đưa ra. Mê say, còn là thử thách/cám dỗ đặt ra với Chúa, rất nhiều lần.

Thử thách/cám dỗ đặt ra, qua cung cách Cha muốn Ngài thực hiện vai trò của Đấng Mêsia có quyền uy trên cả hoàng đế La Mã, như thánh Mátthêu từng ghi. Thử thách/cám dỗ là thách đố khả năng giải quyết khó khăn do đế quốc La Mã đem lại. Thử thách/cám dỗ, còn là thách thức chức năng Chúa nhận từ Cha, hầu giúp con dân loài người sống yên hàn, lành lặn. Thử thách/cám dỗ, còn là thách đố và thử xem Chúa có nhắm mắt làm ngơ nỗi đau của mọi người, để rồi sẽ trao cho Cha giải quyết mọi việc.

Thử thách/cám dỗ cướp tay trên quyền uy của đế quốc, để rồi Ngài cũng sẽ hành xử hệt như thế. Thử thách/cám dỗ đặt ra với Đức Giêsu, là thách Ngài giành lại quyền uy của hoàng đế La Mã, rồi cũng sẽ ăn trên ngồi chốc, bức bách dân con lớp người ở dưới. Bởi, một khi đã có quyền hành là có quyền để hành người khác, hệt như vậy. Bởi thế nên, Đức Giêsu chối bỏ mọi lợi lộc dành cho kẻ có quyền. Ngài chối bỏ quyền đối xử với mọi người theo cung cách ấy. Ngài đả kích không chỉ giới cầm quyền La Mã thôi, nhưng Ngài còn chỉ trích chính những uy và quyền ấy nữa. Ngài chọn đường lối không quyền lực, nhưng vẫn sống. Sống với người không quyền, trong “Vương Quốc” của Ngài.

Thử thách/cám dỗ thứ hai, là thách đố khả năng giải quyết tình trạng nghèo đói trên thế giới. Thời của Chúa, có đến 95% người dân Galilê ở dưới mức tối thiểu, để sống còn. Dân lành thời đó, không đủ cơm bánh và cá, mà qua ngày. Họ cứ lần lượt rơi vào vòng lao lý, tật bệnh hoặc chết yểu. Một số trường hợp, do Hêrôđê tạo ra. Ông lập chương trình xây cất nhiều toà nhà đồ sộ. Lại đánh thuế cao khiến dân đen chịu không nổi đến độ không còn gì để ăn. Để sống nữa.

Thử thách/cám dỗ cuối cùng đến với Đức Giêsu, là thách đố để xem Ngài có khả năng kích động dân đen, khiến họ căm phẫn quyết chống lại quyền uy của vua quan/lãnh chúa, thời ấy không? Thử thách/cám dỗ, là dỗ dành Chúa đòi lại cơm áo gạo tiền cho dân lành hèn hạ thấp cổ bé họng, ở bên dưới. Thử thách/cám dỗ đưa ra với Chúa, là xem Chúa có hành xử như vua quan mọi thời. Hoặc, Ngài sẽ còn đối xử tệ bạc hơn cả vua quan thời đó, khi có quyền. Nhưng, Đức Giêsu đã chối từ quan niệm coi mình như Đấng ban phát mọi thứ, hầu thoả mãn đòi hỏi của mọi người. Ngài chọn đường lối khác hẳn mọi vua quan/lãnh chúa, ngõ hầu trở nên Đấng Mêsia do Cha định đoạt. Ngài không chấp nhận đường lối của vua quan ở trần gian chỉ biết hưởng thụ, cho thoả thích.

Với Tin Mừng thánh Mátthêu, thử thách/cám dỗ lớn nhất đưa ra với Chúa, là chỉ lo chuyện lành thánh, cốt khuynh loát những điều do Cha định đoạt, mà chỉ theo ý mình. Khuynh loát, để Cha phải can thiệp mà giải quyết các khó khăn chốn gian trần. Và, buộc Cha Ngài phải làm thế, ngay tức thì. Thử thách/cám dỗ này nguy hiểm hơn thứ gì hết, vì đụng chạm đến đền đài thánh thiêng, lẫn nguyện đường, và cả cuộc sống ngoan hiền, ngõ hầu dẫn dụ Cha sửa đổi mọi chuyện để thuận theo ý Con, chứ không theo ý Cha.

Người đời thời của Chúa, vẫn muốn tuân theo đường lối giản đơn, rặt như thế. Họ là những người ở Qumran. Những kẻ từng dấn bước theo chân Gioan Tẩy Giả, cả vào lúc khó khăn, đầy bức bách. Và, thử thách/cám dỗ đây, là muốn chế ngự quyền uy thánh thiêng của Chúa. Là, kiểm soát lòng thương xót của Ngài. Thử thách/cám dỗ đây, là nghĩ rằng lòng đạo của mình còn lớn lao/cao cả hơn lòng xót thương của Cha. Và, Đức Giêsu nhận ra rằng: nếu thế thì Chúa Cha không là Thiên Chúa đích thực là Cha của Ngài. Ngài thực sự đã chọn đồng hành với Cha Ngài. Và kết cục, Ngài chọn thuận theo ý Cha, chứ không theo ý riêng của chính Ngài. Và, chọn lựa này mới thật là chọn lựa khác biệt.

Nếu Đức Giêsu không chọn quyền hành để đánh bạt đối thủ là đế quốc La Mã rất sừng xỏ, không chọn ban phát mọi sự hợp nhu cầu/đòi hỏi của mọi người, cũng chẳng cướp tay trên quyền uy có từ Cha, thì thử thách/cám dỗ đưa ra cho Ngài, là thách thức gì? Thử thách/cám dỗ ấy là sống đích thực đời người phàm. Đời, của những người con không có quyền cũng chẳng có uy. Những kẻ luôn thiếu thốn đủ mọi thứ. Chọn lựa của Ngài, là cùng chung số phận với những người nghèo hèn ấy. Ngài chọn lựa sống như họ, để rồi Ngài đi vào tương quan đích thực với dân đen, hèn kém, chẳng trông đợi vào ai.

Điều này, thoạt nghe chẳng có gì mới mẻ, hoặc hấp dẫn. Nhưng, mục tiêu Đức Giêsu nhắm đến là như thế. Là, thâu thập dân con mọi người vào với tình thương của Cha. Là, sẽ không một ai bị gạt ra ngoài nhóm hội/cộng đoàn thân thương để chung sống. Nhóm ấy, cộng đoàn ấy vẫn có Chúa, có Cha vào mọi lúc. Bởi, chính Cha đang ở ngay trong nhóm. Bởi, chính cộng đoàn là nhóm hội của Cha, đã có được tình thương yêu, hy vọng. Hy vọng, mọi người sẽ sống chung và sống cùng. Cùng sống. Cùng lướt vượt mọi khó khăn, rất đồng đều. Đó chính là đường lối Chúa chọn sống.

Ngài lướt vượt mọi thử thách/cám dỗ Ngài theo đường khác. Cám dỗ ấy, Ngài thấy rất rõ, suốt đường đời Ngài từng trải. Và, nay Ngài trở về với những gì là căn bản của chính con người. Trở về với con người đích thực, trước/sau mọi thử thách/cám dỗ. Ngài trở về, cả vào lúc những người khó nghèo/bần hàn kia đã quay lưng chống lại Ngài. Vì thế, đế quốc mới giết hại Ngài. Vì thế, Chúa Cha mới không kịp nghe tiếng Ngài kêu cầu, nơi vườn cây Dầu.

Và đây chính là thông điệp gửi đến với Hội thánh, hôm nay. Thông thường, Hội thánh vẫn muốn thi đua với thế gian, ngoài đời. Vẫn muốn đấu tranh tạo phần thắng, hầu lấy lại quyền uy chính trị, từng luột mất. Lấy lại quyền, để tạo uy hùng dũng mãnh, trên chúng dân. Thông thường, Hội thánh vẫn muốn thi đua với các tổ chức bác ái, quyết lấy lại uy tín bằng việc ban phát các phẩm vật cho dân đen nghèo hèn. Thông thường, Hội thánh từng tìm cách tỏ ra mình những muốn sống đời lành thánh để kéo Chúa về cùng phe, để Ngài sẽ đi theo con đường mình đang thực hiện. Quả là, Hội thánh nay cũng gặp thử thách/cám dỗ như Đức Giêsu, ở thời hôm trước.

Bản thân ta cũng thế. Ta vẫn muốn trở thành nhân vật quan trọng có khả năng giải quyết mọi vấn đề; để rồi, sẽ lôi kéo Chúa vào phe mình, mỗi khi cần. Thông thường, ta cũng muốn chối bỏ những thử thách/cám dỗ, rất tương tự. Bởi thế nên, hãy đề cao cảnh giác cả vào khi ta đã khá giả và trở nên mạnh mẽ, cũng nên biết mình chỉ là kẻ hèn mọn, vẫn phải sống với những khó khăn không dứt bỏ. Bằng không, nhiều lúc ta vẫn cứ nghĩ mình là kẻ sở hữu cả Đức Chúa. Chăm lo cho Chúa, rất nhiều điều. Vì nghĩ thế, nên ta cứ cho rằng mình đang theo Đức Giêsu và chính mình đang là Chúa, nữa không chừng?

Thật sự, hãy nhớ rằng mọi người cũng như ta, chỉ là những kẻ vô danh tiểu tốt trong đám đông quần chúng. Cũng chỉ là phận hèn loài người được Chúa đoái thương. Được Chúa ban phát đôi điều để có thể sống sót, sống còn với mọi người. Có thể những gì Chúa ban cho ta, không là bánh/là cá, như người Do thái khi xưa từng học biết. Nhưng, ta học biết để Chúa trở thành chính Chúa. Và, qua học hỏi, ta khám phá ra rằng ta được Chúa đi bước trước, là để Ngài vẫn thương ta. Vẫn muốn ta về với Ngài

Hãy cảm tạ Cha đã để Đức Giêsu lướt thắng mọi thử thách/cám dỗ, được như thế. Hãy nguyện cầu, để Hội thánh của ta cũng được thế. Hãy chúc nhau có được cơ may lướt thắng được chính con người mình. Lướt thắng mọi thử thách/cám dỗ vẫn xảy đến với mình, vào mọi lúc. Có thế, ta mới an tâm bước vào Mùa Chay thánh. Có thế, ta mới thấy vui được Chúa dẫn đưa ta ra khỏi mọi thử thách/cám dỗ, rất trần gian.

Trong hân hoan dấn bước như thế, ta hãy cùng dân con ở đời ngâm nga đôi lời thơ ý nhị, rằng:

 

“Anh trở lại, con đường lên núi biếc,

Thương mây bay, từ đó vẫn cô đơn.

Những bông hoa, còn có nửa linh hồn,

Những lá cỏ, nghiêng vai tìm mộng ảo.”

(Đinh Hùng – Cánh Chim Dĩ Vãng)

 

Rất chí lý. Bông hoa kia, có khi chỉ còn nửa linh hồn vẫn cứ “nghiêng vai tìm mộng ảo”, thì tôi và anh sẽ chẳng tìm lối đi không thử thách. Để, sẽ thấy Chúa, thấy Cha ở phía trước đang giơ tay đón chờ. Chờ tôi, chờ anh bấy lâu nay. Ở mọi thời.



 Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Chay Năm A

 

 

“Người cất bước, cả non sông một dải,

Vươn mình theo, dãy Hoành Sơn mê mải.”

(dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)


Mt 17: 1-9

Hoành sơn xưa, có là núi vắng Chúa đặt chân? Non sông nay, có là miền đất thánh-nhân về? Thánh nhân về, là về với nhân gian một cõi, có lòng mình/lòng người, đầy tình tự. Nhân gian nay đà thấy Chúa biến hình đổi dạng thành Đấng thánh, rất Mêsia như trình thuật thánh Mátthêu vẫn còn ghi.

Trình thuật nay kể về một biến hình đổi dạng nơi Đức Giêsu, mà các thánh xưa nay chưa từng thấy. Các thánh, gồm có Phêrô, Giacôbê và Gioan, tức các đấng bậc gần gũi cất bước lên chốn non cao thấy Chúa biến hình thành Đấng Thánh, rất phi thường. Các thánh nghe giọng thần thiêng tỏ bày sứ điệp chưa từng biết. Giọng hôm ấy, xác định Đức Giêsu là Con Một của Chúa Cha hiền hoà, đáng kính.

 Biến hình đổi dạng nơi Đức Giêsu, là sự kiện xảy đến với nhiều tình tiết, rất đặc biệt. Cũng tương tự như ngày Chúa sống lại. Hoặc rõ hơn, như biến cố Chúa về trời. Vượt quá chuyện thường ngày. Rất khó hiểu. Chúa thay hình đổi dạng, tựa hồ như Môsê xưa đã biến hình, trên đỉnh núi Sinai, khi giáp mặt trực diện với Giavê. Gặp Giavê, mặt mày Môsê sáng như ánh mặt trời. Long bào của ông, trắng toát như ánh dương. Rất đặc biệt.

Thánh Mátthêu kể rằng: các thánh tông đồ lúc ấy rất ngạc nhiên, hãi sợ và bắt đầu nói lung tung về chuyện dựng xây căn nhà ở chóp núi. Đó là chuyện bình thường ở huyện người người vẫn làm thế, khi mất cảnh giác.

Biến hình là chuyện xem ra không bình thường xảy đến với chúng ta. Chí ít, là khi ta sống trong thế giới đầy những biến đổi hình dạng, về mọi thứ. Như sâu nhộng trở thành bươm bướm mà ta gọi là sự biến thái vẫn xảy đến trong đời của loài thú. Hệt như em bé biến dạng đổi hình, khi mới sinh. Đó là điều mà thánh Âu Tinh gọi bí nhiệm sản sinh. Là, mầu nhiệm lớn hơn cả phục sinh: đến với thế giới qua cốt cách con người, vẫn là chuyện cao cả hơn là trở về với hình thù mình, sau khi chết. Mỗi ngày và mọi ngày, vẫn xảy đến với ta qua đủ loại thay hình đổi dạng, hệt như thế. Cả bên trong. Trong sự sống riêng tây của mỗi người. Vấn đề tuy đơn giản, nhưng sâu sắc. Thay đổi bản vị, vẫn xảy đến, qua nhận thức. Qua tình yêu.

Và đây là quan điểm rất xác thực của tác giả Mátthêu. Quan điểm của thánh nhân không nằm ở mặt ngoài, hoặc chỉ thay đổi mỗi xác phàm. Thay đổi về thân xác, là lối nói để diễn tả thay đổi về bản vị. Rất nhiều lần, Đức Giêsu có những khoảnh khắc nhận thức bên trong. Khoảnh khắc về tình thương yêu, rất thấu đáo. Khoảnh khắc, qua đó Ngài ồ ạt tăng trưởng bản thân để trở thành con người đầy bản vị. Và, đặc ân đến với các tông đồ vào lúc ấy, là được phép hiện diện và thấy được chuyện xảy đến, rất hiếm quý.

Đức Giêsu vẫn theo lộ trình bình thường, để có được kinh nghiệm rất thường tình của con người. Ngài học hỏi mọi thứ qua thử thách và sai sót. Mỗi ngày, Ngài khám phá ra nhiều điều mới mẻ về chính Ngài và về loài người. Cả những điều mới mẻ về Cha, mà chính Ngài đã trải nghiệm. Đức Giêsu là người từng trải nghiệm sâu sắc/bén nhạy về những thứ ấy. Ngài có những khoảnh khắc thương yêu rất mặn nồng. Cũng ưu tư lo lắng, hãi sợ. Cũng trải nghiệm nhiều phút giây vui vầy, tuyệt diệu.

Và, mỗi lần có sự việc mới mẻ xảy đến, Ngài thay đổi tự bên trong. Và cứ thế, Ngài bắt đầu trở nên giống hình thù mà Ngài vẫn có ở trong Ngài. Ngài không là thiên thần. Cũng đạt chốn Thiên quốc. Ngài giống như ngôn sứ Cựu Ước, có tầm nhìn sâu sắc trong cuộc sống –tầm nhìn thấu đáo do Cha ban. Nhưng Ngài không chỉ là thế, như một ngôn sứ không hơn không kém. Mà, còn trinh trong cả ở nội tâm. Ngài không có triệu chứng tâm can đau yếu. Nhưng, Ngài hoàn toàn hội nhập vào với thực tại. Mỗi khi có cảm nghiệm gì lớn lao, toàn bộ con người Ngài phản ánh niềm vui chan hoà cho tất cả.

Kinh nghiệm đỉnh núi, là kinh nghiệm gì? Là, cảm nghiệm rằng Ngài được Cha hoàn toàn chấp nhận và yêu thương làm Con Cha. Và, Cha không thể chờ đợi lâu hơn nữa để tỏ bày cho Ngài biết là Ngài được Cha chấp nhận thương yêu biết dường nào. Ngài không là kẻ xa lạ với Cha. Và, Cha cũng không xa lạ gì Ngài. Ngài không là người bạn của Cha chỉ trong chốc lát. Và, Cha cũng chẳng là bạn hiền của Ngài chỉ một phút chốc rồi thôi. Những miên trường. Mãi mãi

Cảm nghiệm Ngài cho thấy tương quan giữa Ngài và Cha. Giữa Cha và Ngài. Không là tương quan chỉ phút chốc. Hoặc, lúc trầm lúc bổng. Lúc tắt lúc bật trở lại. Ngài thực sự biết rõ Cha và quyết trở thành Thiên Chúa, giống như Cha. Và, Cha cũng biết rõ Ngài. Cha vẫn muốn Ngài thành Thiên Chúa theo cung cách rất Giêsu Kitô. Tựa hồ một biến đổi còn diễn tiến. Và lúc này là lúc thấy rõ diễn tiến hai chiều. Diển tiến cho thấy Đức Giêsu trở nên thần thiêng như Thiên Chúa. Và Thiên Chúa đang trở thành người phàm, như Đức Giêsu. Ta có thể gọi đó là biến hình hoặc nhập thể, cũng chẳng sai.

Tất cả sự việc này, tháp nhập vào với giọng nói vang vọng từ trên cao khẳng định với các tông đồ về điều rất chính yếu: “Này là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người.” (Mt 17: 5)

Ngay khi ấy, các thánh tông đồ vẫn chưa nhận ra ý nghĩa của giọng nói, ngay tức khắc. Chỉ về sau, các thánh nhân mới nhận ra được ý nghĩa thâm sâu về những gì xảy đến với chính mình. Và, Chúa cũng đã căn dặn các thánh đừng cho ai biết chuyện ấy, ít nhất chỉ phổ biến sau ngày sống lại, mà thôi. Mãi sau, các thánh mới nhận ra ý nghĩa đúng như thế. Cũng phải mất một thời gian chay tịnh rất dài ngày, người người mới nhớ về những chuyện như thế. Và, cũng đã am hiểu.

Và khi các thánh tông đồ tin tưởng vào Đức Giêsu và Cha Ngài, thì lúc ấy các thánh mới có cảm nghiệm đích thực về những gì xảy đến. Cảm nghiệm rằng, Đức Giêsu và Chúa Cha đã đến nơi chốn hoang vu thần thiêng là để chấp nhận thương yêu các thánh tông đồ cách trọn vẹn. Và các thánh cũng hài lòng được gần gũi Chúa. Kể từ đó, các thánh mới thông hiểu sự việc hầu thương yêu Đức Giêsu và Chúa Cha, theo cung cách khác hẳn. Khác trước rất nhiều. Cũng từ đó, các thánh bắt đầu thấy được chính mình. Biết được đời mình nay đã thay hình đổi dạng như thành quả có được từ một Biến hình của Đức Chúa, rất dễ thấy.

Cuối cùng, các thánh khám phá ra rằng các ngài cũng có thể thực hiện được chuyện biến dạng đổi hình, cho nhau. Thực hiện được, mỗi khi các thánh chấp nhận yêu thương bất cứ người nào trong cộng đoàn mình chung sống. Và, đây là động lực thúc đẩy một khởi đầu, thêm một lần. Rồi từ đó, tương quan giữa các thánh cũng đã thay hình đổi dạng, rất “biến hình”. Các thánh, nay trở thành người anh/người chị trong cộng đoàn Hội thánh, đã biến hình đổi dạng từ trong ra, và từ ngoài vào, rất liên hồi.

Chính vì thế, hôm nay, ngày Chúa “biến hình” chỉ một thoáng mong manh, để người người nhìn thấy trước sự kiện phục sinh rất yên tâm, thư giãn. Thư giãn, để không còn sợ rằng Mùa Chay sẽ nặng nề, khó chịu với bất cứ ai. Bởi, biến hình hôm nay là thông điệp. Và cũng là sứ mạng. Thông điệp bày tỏ rằng: chính vì Đức Giêsu, mà người người sẽ còn thay hình đổi dạng, nhiều hơn nữa. Sứ mạng, là sứ mạng để chứng tỏ, rằng: nếu tin vào Đức Giêsu, ta sẽ có khả năng giúp mọi người biến hình đổi dạng, như Đức Chúa. Chỉ cần ta thực tình chấp nhận nhau, yêu thương nhau. Chấp nhận vui hưởng sự hiện diện bên nhau. Có nhau, để yêu thương giùm giúp hết mọi người, cũng đã đạt.

Vậy thì, Mùa Chay hôm nay có nghĩa gì, đối với ta? Chay kiêng một mùa, là quyết trao cho nhau và cho mọi người khẳng định cần biến hình đổi dạng. Biến và đổi, rồi tạo cho mình một loại hình, tựa như thế. Loại hình thực tình chấp nhận nhau. Thực tình yêu thương đùm bọc lẫn nhau. Thực tình vui hưởng sự hiện diện/gần gũi, ở bên nhau.

Trong khí thế bừng bừng tình yêu thương có từ Đức Chúa đã biến đổi hình, ta hân hoan ngâm nốt lời thơ trên mà hát:

“Chạy dọc lên, thông cảm ý ngang tàng,

Cùng chồm dậy, đáp lời hô vĩ đại!”

(Vũ Hoàng Chương – Bài Ca Bình Bắc)

 

Lời hô vĩ đại bữa ấy cũng như hôm nay, không hẳn là “Bài Ca (để) Bình Bắc” hoặc bình Nam, cho bằng lời hô vang hãy biến hình và đổi dạng, như Đức Chúa từng làm. Vẫn rất cần. Cũng rất nên.



 Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Ba Mùa Chay Năm A

 

 

Nước chảy mây tan, tình bất diệt,

Tình theo bước khách bốn phương trời.

(dẫn từ thơ Hồ Dzếnh)

 

 

Ga 4: 5-15

Bốn phương trời, tình theo bước khách, phải chăng là bước chân âm thầm của Đấng Nhân Hiền hằng đưa dẫn mọi người về lại với Cha như trình thuật thánh sử, đà ghi chép?

Trình thuật thánh Gioan hôm nay ghi, là ghi về một đối thoại hãn hữu giữa Đức Giêsu và nữ phụ xứ Samari. Đây là biến cố ít khi thấy nơi người Do Thái, mọi thời đại. Do thái xưa, vẫn coi nữ phụ xứ Samari là kẻ vô dụng, về nhiều thứ. Phụ nữ muốn múc nước về dùng, đều phải ra giếng. Thông thường, muốn ra giếng Gia-cóp, phụ nữ phải đi thành đoàn. Trình thuật hôm nay, kể về nữ phụ hôm ấy, không chỉ một thân một mình đến múc nước giếng mà thôi, nhưng còn dám tiếp chuyện với Đấng lạ mặt, một nam nhân Do thái. Đó, là điều tối kỵ. Đó, chính là vấn đề.

Vấn đề nặng nề hơn, khi người tiếp chuyện với nữ phụ ngoài luồng giữa “thanh thiên bạch nhật”, lại là Đấng Nhân Hiền từng hành xử nghiêm minh, nhất mực. Thật hiếm khi thấy Đức Giêsu đối thoại cả với nữ phụ về nhiều vấn đề, ngay cạnh giếng Gia-cóp, tức chốn thánh thiêng truyền thống, rất gắt gao.

Cũng vì tính cách gắt gao/nghiêm túc ấy, nên cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và nữ phụ Samari đầy những chuyện ngoại lệ. Vì ngoại lệ, nên nữ phụ Samari cứ phân tâm nói chuyện khác, khiến Chúa cứ phải gạt sang một bên những chuyện không cần thiết. Vì, Ngài có một số điều quan trọng muốn nói và tặng ban để chị lưu tâm. Cuối cùng, Ngài đành chấp nhận ở vào cảnh huống có ngoại lệ.

Trình thuật hôm nay đưa ra một số điều ngoại lệ không mang ý nghĩa gì, như câu:“còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt”, “đồng lúa chín vàng chờ ngày gặt hái”, “kẻ này gieo, người kia gặt", càng làm cho cuộc đối thoại giữa Chúa và người nữ phụ trở nên “ngoại lệ” hơn. Câu chuyện ngoại lệ còn thấy ở nhiều điểm khác, rất tinh tế.

Trước hết, là giới tính. Ngày nay, nam nhân được phép nói chuyện thẳng thắn, công khai với phụ nữ ở chốn đông người, đâu thành vấn đề. Khi xưa, thì không dễ. Và, đối thoại với nữ phụ Samari, Đức Giêsu như ngầm bảo: ta hiện diện nơi đây, cũng là chuyện bình thường, rất mọi ngày?

Và, một ngoại lệ khác, về sắc tộc. Cũng không hẳn là chuyện kỳ thị, nhưng hỏi rằng: người Do thái xưa có được nói chuyện dễ dàng với người Samari “ngoài luồng” không? Hoặc, vì luật cấm, nên đôi bên cứ phải tránh né nhau? Đối thoại với nữ phụ Samari, Đức Giêsu như ngầm chứng tỏ một luận cứ: nói chuyện với nữ phụ, không là vấn đề! Chúng ta đều là con người!

Rồi, ngoại lệ khác, về giáo dục. Chắc hẳn có người hỏi: các thày tư tế có được nói chuyện với người ít học không? Cuộc đối thoại với nữ phụ Samari, ra như Chúa muốn ngầm tỏ bày một nhận xét, là: xem ra chị cũng là người thông minh, dù chưa từng đến trường lớp để được học!

Ngoại lệ kế tiếp, là về lịch sử. Ngày nay, ta có nên suy tư về hiện tại và về con người ở đây, ngay thời này không? Hỏi là hỏi thế, chứ dường như Sách thánh chỉ kể về quá khứ với chuyện lão phu hay lão phụ đáng kính, mà thôi. Đối thoại được kể lại hôm nay, chừng như Đức Giêsu muốn ngầm nhắn với người đọc, rằng: bản thân TA cũng đâu muốn đem Kinh với Sách ra mà bàn. Thật sự, điều TA muốn đề cập chỉ là về chị, thôi.

Và, thêm một ngoại lệ nữa, về chốn phụng thờ. Có câu hỏi, rằng: thờ phượng Chúa nơi nào là thích hợp hơn cả? Với người Do thái, câu trả lời sẽ là: đền Giêrusalem. Với người Samaritanô, đương nhiên là núi thánh Gerizim, gần Sechem. Đối thoại với nữ phụ ngoài Đạo, dường như Đức Giêsu muốn ngầm bảo rằng: một ngày kia, TA đâu cần đền thờ nào nữa. Tất cả chỉ cần yêu kính Chúa, thế là đủ.

Cuối cùng, là ngoại lệ thật rõ nét về bí nhiệm của cuộc sống trong quá khứ mà người người cứ tưởng rằng chẳng ai biết đến, dù là Chúa. Bí nhiệm cuộc sống riêng tư, như nữ phụ Samari được biết có đến năm bảy đời chồng. Và thêm nữa, ta có nên cho đó chuyện quan trọng bậc nhất, trong cuộc sống không? Đối thoại với nữ phụ Samari, Đức Giêsu như muốn nói: Tốt. TA biết tất cả mọi sự về con. Bởi thế nên, cũng đừng lo lắng gì về Ta, hết.

Đức Giêsu thật kiên nhẫn. Dù, nghe đủ thứ chuyện, nhưng Ngài lại không mấy quan tâm thích thú. Ngài chỉ muốn đem đến cho nữ phụ Samari, cũng như mọi người, thông điệp thật sự quí giá, đó là: sự sống là quà tặng. Và, khi nhận được quà, mọi người cũng nên cảm kích biết ơn, thế mới phải.

“Nếu chị nhận ra đó là quà tặng Chúa ban”, “Nếu chị biết rằng Chúa đang ban ơn cho chị”… chính là khẳng định rất chắc nịch. Khẳng định rằng: Tất cả là quà tặng, từ Chúa. Quà Ngài ban, vẫn đổ tràn xuống với mọi người. Quà ấy, là tình thương yêu trìu mến xuất từ Thiên Chúa. Tất cả những gì mà mọi người cho là mình sở hữu, tất cả những gì mình làm hoặc suy nghĩ, nhất nhất đều là quà tặng.

Chính đó là điều mà mọi người lâu nay vẫn tuyên tín. Vẫn tin vào một Thiên Chúa, Đấng tạo thành vạn vật. Đấng ban cho ta hết mọi thứ, như quà tặng không, biếu không. Và hiểu rằng, ý nghĩa quà tặng sự sống Chúa trao ban, làm cho cuộc sống của ta nên đáng sống. Nhưng oái oăm thay, đôi lúc ta cứ muốn độc lập hẳn với Chúa. Cứ suy nghĩ và hành động như thể mọi sự là của ta, do ta kiếm ra. Chứ chẳng phải của ai cho, hết.

Bởi thế nên, lắm lúc ta cứ hành xử như mình là chủ-nhân-ông đích thật mọi sự vật. Chủ, mọi sự vật cũng như tài sản mình đang nắm giữ. Rồi từ đó, lại có cảm giác cứ trách móc cho rằng Thiên Chúa không tạo dựng nên mọi sự cho ta sử dụng, ngay từ đầu. Sau các cơn địa chấn với sóng thần gây kinh hoàng ở đây đó, nhiều người xem ra mới mở mắt, biết rằng: những gì mình lâu nay sở hữu, thật sự không phải là của mình, do mình kiếm ra. Mà là, do Chúa tặng để mình tạm thời sử dụng, thôi. Sử dụng, theo cung cách rất độ lượng ngõ hầu mình có thể giùm giúp người khác, đang cần thiết hơn.

Quà tặng lớn nhất trong đời mọi người, chính là sự sống. Tựa hồ như giòng chảy ở trên sông. Như mạch suối ngầm trồi lên từ lòng đất. Như Chúa từng quả quyết: “Nước Ta ban, sẽ nên mạch suối trong đó có nước vọt, đem lại sự sống đời đời." (Ga 4: 14)

Bởi thế nên, hãy dừng lại! Đừng hành xử như người ai oán, sầu thảm, chẳng biết ơn. Hãy ngưng trách móc người đời không còn nhớ đến mình. Không nhớ, để giúp tôi sung sướng, hạnh phúc. Trái lại, hãy trở thành động lực sinh động, trong thiên nhiên. Giống thiên nhiên. Và, hãy làm chút gì đó cho cuộc sống. Như, rao truyền niềm vui cho mọi người. Ở mọi nơi. Chứ không chỉ tập trung vào chính mình. Hoặc, chỉ gia đình mình, mà thôi.

Sống, và cảm nhận rằng sự sống là quà tặng, tức: sống biết ơn. Sống như thế, không cần đến đền thờ, nguyện đường hay chùa chiền cho nhiều mà làm gì. Điều chính yếu, là biết nói lời cảm tạ, với mọi người. Ngừng suy nghĩ, nhưng đừng ngưng cảm tạ. Trái lại, hãy cùng nhau cảm nhận. Cùng biết ơn nhau. Đó, là điều cần suy tư, chiêm niệm. Đừng nên coi mọi chuyện như của cho-không/biếu-không, hoặc từ trời rơi xuống. Nhưng, cứ nhận quà tặng/ân huệ với lòng cảm kích, biết ơn. Và, tự hỏi: đã lâu chưa ngày mình nói lời “cảm tạ” người nào đó? Lâu rồi chứ, giây phút mà ai đó vẫn cảm ơn mình mãi.

Đã lâu chưa, ngày mình thưa: “Tạ ơn Chúa’, bên ngoài thánh lễ? Và khi nói “Tạ ơn Chúa” như thế, thực sự thì điều đó có nghĩa gì? Bởi, Lời Chúa hôm nay ghi rõ: “Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha trong Thần khí và sự thật, vì Cha chỉ tìm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần khí, và kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần khí và sự thật." (Ga 4: 23-24)

Đức Giêsu ra như vẫn ngầm nói với nữ phụ Samari và mọi người, rằng: Ta ở đây, nơi này, là để loan tin vui về sự cảm kích biết ơn. Biết ơn, vì đã nhận được quà tặng sự sống gửi đến cho mỗi người. Nếu mọi người đồng ý, thì vai trò của mọi người hôm nay, là thực hiện điều đó, và chứng tỏ cho mọi người thấy, rằng: ta đây cũng có thể làm được nhiều điều khác biệt. Tựa như nữ phụ Samari xưa, biết nhận lĩnh vai trò Chúa uỷ thác, sẽ hành xử theo cung cách riêng:“Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với mọi người…” rằng: vẫn có cung cách khác, để sống. Là, sống cảm kích, biết ơn.

Hội thánh chọn trình thuật này, giữa Mùa Chay, là để con dân mình biết mà đón mừng Phục Sinh. Bởi, Phục Sinh là quà tặng Chúa sống lại gửi đến cho ta. Để rồi, lời Chúa mời mọi người nói lời cảm kích biết ơn về quà tặng sống lại mà cái chết không tài nào lấy đi được, khỏi tay ta.

Sở dĩ, Hội thánh chọn Tin Mừng này là để: vào với Phục Sinh, ta sẽ cảm kích biết ơn nhiều hơn, vì đã lĩnh nhận ơn thanh tẩy. Bởi, chính đó là nước. Là, quà tặng sự sống. Sự sống mới trong Đức Kitô, để rồi ta sẽ không bao giờ quên sót thái độ cảm kích biết ơn. Và, đó cũng là lý do khiến ta có mặt ở Tiệc Thánh. Tiệc, là cung cách để ta nói lời cảm tạ đưa ra với Chúa. Với mọi người. Về tất cả mọi sự gửi đến cho ta.

Trong tinh thần cảm kích biết ơn quà tặng Chúa ban, cũng nên về với lời thơ trên mà ngâm tiếp:

 

“Mây nước vô tình, lãnh đạm trôi,

Tình không giống nước, tình không xuôi;

bao lần lá thắm xuôi theo nước,

nước chảy, tình duyên ở với người.”

(Hồ Dzếnh – Nước Chảy Chân Cầu)

 

Nước, là giòng chảy sự sống. Vô tình là bản tính của nước, nhưng tình không giống nước, vì tình vẫn ở với nước. Với đời. Để cùng đời cảm tạ Đấng Tạo Thành nước. Tạo ra đời. Rất khôn nguôi.


 Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Tư Mùa Chay Năm A

 

 

“Bước đã mỏi, mà trông càng dễ mỏi,”

Ta dừng chân nhắm mắt, một đêm nay.”

(dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)

 



Ga 9: 6-9, 13-17, 34-38

Với nhà thơ, dừng chân nhắm mắt mỗi đêm nay, vì bước chân dài/vắn, người đã mệt. Với người thường, chân dừng mắt nhắm cả một đời, là bởi thân phận hiu hẩm, chẳng mở ra. Trình thuật thánh Gioan nay cho thấy thân phận hẩm hiu của người mù từ bẩm sinh được Chúa giúp đỡ, đã mở ra cả hai con mắt thể xác, lẫn tinh thần. Chẳng thế mà, anh lại cứ reo vui suốt đời để ngợi khen Chúa.

Trình thuật kể, là kể về nam-nhân Do thái nọ rất mù lòa, do mầm sống bị thoái hoá khiến anh chưa một lần nhìn thấy ánh sáng, từ dạo ấy. Cứ sự thường, người sáng mắt có xác thân thơm tho/lành lặn lại vẫn không ưa gần gũi người có khuyết tật, bệnh hoạn. Chính vì thế, họ đến với Chúa bằng những câu hỏi khá cắc cớ: mù lòa/tật bệnh có do tội của ai đó, không?

Nếu bảo, mù loà/ tật bệnh về thể xác là do tội và lỗi của ta mà ra, thì chắc hẳn các người bệnh trên thế gian này phải chịu thế, cả khi chưa lọt lòng mẹ? Phải chăng, nguyên nhân đích thực gây mù lòa, là do bậc cha mẹ phạm lỗi nặng? Hoặc khi sinh, người thân thuộc đã mắc phải tật/bệnh nghiệt ngã như thế? Người xưa coi tật bệnh thể xác là kết cuộc của những suy đồi về luân lý, đạo đức. Chí ít, là lỗi của ai đó đã đem lại kết quả tệ hại, cho người tật bệnh. Đời nay, chẳng ai dám quyết đoán rằng: mù lòa là hệ quả của lối phạm luật đạo đức, chức năng. Kỳ thực, đó cũng chỉ là trạng huống rất khiếm khuyết nơi cơ năng con người.

Đặc biệt, ngày nay con người không còn lẫn lộn giữa khiếm thị với chứng bệnh hiểm nghèo nào khác, như: SIĐA miễn nhiễm, huyết áp thấp/cao, hoa liễu/nghiện ngập quậy phá tưng bừng trời đất, nữa. Nhất nhất người người đều tin rằng: nguyên nhân dẫn đến mù loà chẳng phải vì cha mẹ bệnh nhân khi xưa từng mắc tội. Bởi nếu không, thì khác gì quan niệm thiếu hiểu biết của người xưa về y khoa hiện đại.

Về mù loà, ta chỉ nên coi đó như một hạn chế/khiếm khuyết nơi con người, mà thôi. Nói cho cùng, là người, ai mà chẳng thấy mình còn hạn chế, về nhiều thứ. Hạn chế trước tiên, là có khiếm khuyết về mầm sống, cũng rất gien. Nghiên cứu kỹ, người người nay thấy DNA của mình chỉ là hợp chất không ‘toàn hảo’.

Bởi thế nên, khi bước vào giai đoạn mới lớn, ai cũng thấy mình có ít nhiều hạn chế mà mình không thể điều khiển được cuộc sống của chính mình, theo đúng cách. Do đó, có suy thoái. Do đó, khó thoát khỏi tật/bệnh. Có khi lại còn bị vi trùng tung hoành đào khoét suốt thân xác mình, kết cuộc dẫn đến tật/bệnh, đến cõi chết. Đời người là thế. Có than có vãn cũng chẳng giúp ích được gì. Thành thử, người người đi đến động thái chỉ sống qua ngày, đợi chờ. Đợi và chờ thứ gì tốt đẹp hơn, sẽ tới. Bao nhiêu nghị lực xưa kia vẫn có, nay cứ thế mất dần. Vì thế, có người để nhiều thì giờ ra mà chăm chút dáng vẻ bề ngoài cho tốt đẹp, kẻo người khác phát giác ra sẽ chẳng còn ưa mình, nữa. Có người lại gặp rắc rối về dục tính. Gặp khó khăn trong tương quan với mọi người. Khó, mà làm hoà với mọi người.

Và từ đó, nhiều người mắc phải tật/bệnh cứ tự hỏi: mình đã làm gì nên tội? Phải chăng, đó là thừa kế các tệ hại từ gia đình giòng họ? Và, lại kéo Chúa vào chuyện riêng tư của mình bằng một lý luận rất viển vông: chắc Chúa giáng phạt mình đây. Cuối cùng, lại sẽ trở thành kẻ bối rối, về Đạo. Và cứ thế, hết bối rối chuyện này đến chuyện khác, như thế.

Sách Sáng Thế Ký, ghi lại câu truyện hình thành vũ trụ mọi loài, có Giavê Thiên Chúa thở hơi sống vào bùn đất đỏ, thành con người. Tiếng Do thái gọi bùn này là Adamah. Thế nên, Thiên Chúa gọi người đàn ông A-Dong là “Bụi đỏ”. Về bụi, hẳn nhiều người lại cứ liên tưởng đến bụi đất nằm ở nơi con người, do thừa kế mầm sống? Vì đó là bụi là đất, nên chẳng ai muốn giữ gìn nó hết. Cứ gạt, và cứ phủi mọi bụi đất. Có khi còn phủi sang người khác, để họ lãnh. Với Giáo hội, ta có thói quen suy tưởng rằng: nhờ Chúa chết trên thập tự, con người mới được cứu rỗi. Thế nên, dù ta có là người tệ bạc, nhưng Chúa không chấp nê. Ngài vẫn thứ tha. Thế nên, hãy yên tâm sống xứng hợp với ơn cứu độ của Chúa.

Lối suy nghĩ này tuy mang dáng vẻ bi quan, hài hước mà ta vẫn cứ phải chấp nhận nó và đưa vào thực tại cuộc sống hay sao? Không. Không hẳn thế. Giả như ta có thể thay đổi câu truyện trên bằng nhiều giả thuyết, bảo rằng: chính Chúa đã quyết định để rớt lại vài ba hạn chế/bất toàn nơi con người, có thế loài người mới tăng trưởng chính mình được. Và, cũng vì có hạn chế, nên người người vẫn từ từ thực hiện việc cải biến chính mình cho hoàn thiện hơn.

Nay, vì hạn chế còn rớt lại nơi con người mình, hãy giáp mặt với sự thật là mình đang đi dần vào cõi chết. Giáp mặt với sự thật ấy, để rồi sẽ nỗ lực cất đi mọi oán giận bạo lực khỏi cái chết của chính mình. Cố gắng biến sự chết trở thành thân cận, mật thiết để chính mình sẽ về với Đức Chúa hiền từ, tử tế vẫn đợi chờ mỗi người và mọi người. Đành rằng, ta vẫn còn nhiều khiếm khuyết, như tật/bệnh, người người hãy làm mọi sự để nhận được sự tiếp tay giúp mình và giúp mọi người thấy được rằng: vẫn còn đó rất nhiều điều tươi vui/hạnh phúc trong cuộc sống, hơn là ngồi đó khoác vào mình cặp kính đen đầy bi đát. Và, khi biết mình là kẻ bất toàn rồi, tự khắc mỗi người sẽ cảm thấy thoải mái chấp nhận bất toàn xảy đến với mình, hơn.

Về lỗi phạm, một khi mình đã vướng mắc, hãy kể cho Chúa nghe sự việc phạm lỗi cách trung thực, tự khắc Ngài sẽ cảm thông, hiểu rõ chính con người mình hơn. Thực ra, thì hành vi phạm lỗi dù rất tội, nhưng nào đã sờ chạm đạt tới Chúa. Tất cả mọi vướng mắc hoặc lỗi phạm chỉ để cho thấy con người vẫn phải đối đầu với hạn chế, mà tăng trưởng. Những lỗi phạm như các hành xử trong giận dữ, hoặc thiếu bác ái vẫn mang ý nghĩa của một hạn chế mà con người phải ngang qua. Có gặp trục trặc/rắc rối trong đời, mình mới có kinh nghiệm để trưởng thành mà gặp Chúa. 

Thế nên, hãy quyết tâm sống thư giãn/thoải mái không trách móc bất cứ một ai để tự mình dựng xây, tăng trưởng. Cũng đừng tự trách mình hoặc gia đình mình. Đừng trách Chúa. Và, cũng chẳng nên than phiền trách móc nhà cầm quyền đã không quan tâm giúp đỡ chính mình. Bởi, Chúa đâu dựng nên con người để họ đi tìm ra ai đó mà trách móc. Hãy đọc trình thuật Chúa tạo dựng trời đất, một cách tích cực. Đọc, để hiểu rằng: Giavê Thiên Chúa dựng nên con người là để họ ra đi làm điều gì đó có tính sáng tạo và tích cực. Thế nên, hãy cứ can đảm mà ra đi, dù có phát giác ra rằng mình vẫn còn nhiều hạn chế. Bởi, một ngày nào đó, tất cả đều sẽ khám phá ra được nhiều điều tốt đẹp hơn. Và khi đó, ta sẽ không còn mù lòa, nhưng rất sáng.

Giống như người mù từ thuở mới sinh ở trình thuật, ta sẽ được Chúa cho mở mắt thấy sáng và nói:“Điều tôi biết, là khi xưa tôi đã mù, và nay tôi được thấy.”(Ga 9: 25) Rồi, một ngày kia, ta cũng sẽ gặp người mù từ thuở bình sinh ở đâu đó, chốn Nước Trời. Và rồi, ta cũng sẽ cùng nhau hẹn ngày tái ngộ, để nói được câu: “Trước đây, tôi không thấy gì nhiều, nhưng mắt tôi nay sẽ thấy nhiều điều tốt đẹp hơn.”

Nói cho cùng, mắt có sáng hay không, vẫn còn đó con đường đằng đẵng dài cả cuộc đời, để mọi người có cơ hội mà nhận xét. Có nhận và xét thêm điều gì đi nữa, hãy cứ như người mù ở trình thuật, hân hoan mà hát mừng sự kiện sáng mắt Chúa phú ban, để rồi ta ngâm nốt câu thơ còn dang dở:

 

“Kìa một cõi trăm hình, muôn vạn tiếng

đương dần phai dần hiện tắt rồi vang

Ta cố gọi những giác quan lười biếng

để ghi cho hậu thế, phút mơ màng.”

(Vũ Hoàng Chương – Chết Nửa Vời)

 

Phút mơ màng, là chặng đường dành để cho ta khôn lớn. Lớn mạnh. Lớn rất vững với niềm tin yêu Đức Chúa, như trình thuật thánh Gioan hôm nay, rày nhắm đích.



 Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Năm Mùa Chay Năm A

 

Đẹp lắm! Trên đời những vấn vương,

Chao ôi! Thiên lí một con đường.”

(dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)

 



Ga 11: 3-45

Bởi vấn vương, nên đời người vẫn là con đường của thiên lý. Của, những vấn vương. Thương tình bầu bạn rải khắp nhân gian, như trình thuật nay còn nói.

Trình thuật, nay thánh Gioan lại nói đến tình bạn, Chúa vấn vương nhiều tình thương. Lòng Chúa xót thương, vấn vương tình người bạn vừa mới còn đó nay khuất bóng đi vào chốn ngủ vùi, khiến Ngài phải ra tay chữa chạy. Nhưng thiên lý đời người vẫn phải đương đầu với nỗi chết, theo cung cách khác biệt. Khác biệt ở chỗ: người có kinh nghiệm về chết chóc lại đã đặt cuộc đời mình vào niềm tin vô bờ bến. Nhờ có tin, con người mới thấy được chân lý của sự sống đang đi dần vào chốn ngủ vùi rất miên viễn. Nhờ niềm tin, người người mới hiểu được nhiệm tích vượt qua là để sống lại. Sống, bằng một hành trình băng qua thế giới khác. Hành trình đó, là cởi bỏ những lớp vỏ bọc bên ngoài để rồi người người dám đón nhận nỗi chết đang trờ tới.

Không kể về yếu tố siêu nhiên, đạo giáo, người người sẽ nhận ra nỗi chết chính là con đường thiên lý rất tự nhiên buộc Lazarô khi xưa và nay là mọi người phải đi qua. Tựa như hạt cải có rơi xuống đất và chết mục, nó mới đạt được hành trình tiến triển để vươn thành cây cải cao lớn. Cứ sự thường, con người vẫn có khuynh hướng chối bỏ khiá cạnh bình thường/tự nhiên con đường thiên lý vốn dẫn tới nỗi chết dần mòn, ở con người.

Thiên Chúa ban cho mỗi người quà tặng quý giá là chính sự sống, để ta tôn trọng. Khi tặng ban, Ngài cũng kèm theo đó một hệ thống biến cải để hoàn thiện sự sống của mỗi người bằng việc chết dần mòn như một tiến trình tăng trưởng cần có, ở mọi loài. Quà Chúa ban, Ngài không chỉ ban tặng cho cá nhân riêng một ai để rồi mỗi người cứ khư khư giữ nó suốt đời mình. Quà Ngài ban, là ban tặng cả và trời đất vũ trụ, theo qui cách rất tự nhiên, thực tiễn. Quà Ngài ban, đã hiện tỏ cả vào lúc trước khi ta lọt lòng mẹ. Và, nơi quà tặng bình thường/tự nhiên ấy, luôn có qui luật của sự chết dần mòn ngõ hầu sẽ còn diễn tiến suốt đường thiên lý, của cuộc đời.

Là hữu thể sống, con người không mặc lấy cho mình qui trình khép kín, tự thấy mình đầy đủ, nhưng vẫn là qui trình mở để sống với hệ thống mở rộng khác còn lớn nhiều, là thiên nhiên. Chính vì thế mỗi cá nhân riêng lẻ tự thấy không thể tập trung mọi sự, kể cả sự sống, cho riêng mình. Tức, có sống là phải có chết. Ít ra, là chết dần mòn. Bởi, mỗi cá nhân là thành phần của cộng đồng vũ trụ, trong đó sự chết là chuyện bình thường, rất tự nhiên. Cá nhân con người không thể chối từ tính bình thường/tự nhiên của sự chết. Chí ít, là chết dần mòn.

Ở tuần thánh, tín hữu Đức Kitô thường suy tư cùng một kiểu như thế khi nghĩ về cái chết của Đức Giêsu. Đó là thói quen cho rằng: chắc vì sự cố nào đó xảy đến khiến Chúa mới bị bắt và bị bách hại cho đến chết, đến dần mòn. Có người còn nghĩ: Chúa chết là do bọn xấu tra tay làm chuyện tày trời để Ngài phải tức tưởi đi vào chốn ngủ vùi. Và, họ coi cái chết của Chúa là do lỗi tội của con người mà ra. Thực tình, ít ai hiểu được tính bình thường/tự nhiên của con đường “thiên lý” những chết dần Chúa chấp nhận. Ngài chấp nhận, để thực hiện ý Cha khi Cha muốn tạo dựng sự sống cho muôn loài.

Chúa chấp nhận liệt mình vào với những người bé nhỏ, rất dễ chết. Thực sự, Chúa chấp nhận đường thiên-lý-những-chết-dần chẳng vì bọn xấu dám ra tay trừ khử Ngài, cho bằng Ngài không muốn thay mặt loài người sửa đổi luật bình thường/tự nhiên mà Cha Ngài tạo ra. Ngài chết dần, là vì yêu thương con người. Ngài muốn trở thành giống hệt người phàm. Nhất quyết không rút lui khi thấy có khó khăn, bực bõ. Chết chóc. Và, bằng vào việc chấp nhận đường-thiên-lý-rất-chết-dần như con người, Ngài mới tỏ cho mọi người thấy Ngài yêu thương họ biết chừng nào.

Ốm đau tật bệnh, cũng như thế. Bệnh là khủng hoảng cá nhân. Tật, là ngõ bí khó tránh thoát. Khi mắc phải tật/bệnh, ta không còn thấy mình là mình nữa, nhưng đã mất đi cái ‘mình’ ấy và cứ hy vọng sẽ đạt trở lại tính chất ‘riêng tây’ của cái “mình” ấy. Có thể đạt được hoặc không thì vẫn là chuyện bình thường, tự nhiên.

Người mắc phải tật/bệnh sẽ cảm thấy may mắn nếu có ai ở cạnh, không nói ra, những vẫn gửi cho mình thông điệp nào đó để nói rằng: sự việc xảy ra như thế là chuyện bình thường, dễ hiểu. Kinh nghiệm thương đau là cái gì có thật, ai cũng biết. Chẳng riêng gì chỉ mình thôi. Đến khi bạn bè hỏi han/thăm viếng mới vỡ lẽ ra rằng thông điệp của đường thiên-lý-rất-chết-dần được đón nhận rất thông suốt. Cũng chẳng có gì phải sợ. Chẳng sợ đau đớn, cô đơn, cho đến chết.

Điều người bệnh cần, không phải ai cũng có thể tâm tình, dù riêng tư. Cũng chẳng do người chạy chữa đưa ra lý lẽ để “giải thích” về căn bệnh. Nhưng, chỉ cần người khẳng định: đó là tiến trình rất bình thường/tự nhiên của trời đất. Đã là người, ai ai cũng đều phải ngang qua con đường thiên-lý-chết-dần ấy. Bởi, bạn bè là lẽ sống trong con đường ấy. Không cần bạn chữa chạy về tinh thần. Cũng chẳng cần bạn tặng quà, để vui hơn. Chẳng cần đến phép lạ, mà chỉ cần thuận theo chiều quay của qui luật bình thường/tự nhiên của sự sống.

Nhà thương, thường là nơi người người tìm đến giải pháp kỹ thuật cho mọi trường hợp tật bệnh. Nơi đó còn là cơ ngơi để giúp những người đang còn yếu hiểu được qui luật như thế. Nhuốm bệnh, là tình trạng không thể sống sót mà không có người giúp đỡ. Là, chết dần chết mòn suốt đoạn đường thiên lý, rất trớ trêu. Nhà thương, còn là nơi có người thương yêu chăm nom săn sóc cho người đau yếu thấy dễ chịu. Chăm nom săn sóc từ cái ăn thức uống, rất vệ sinh. Là nơi, để người đau yếu kềm chế cơn đau. Nơi, để người còn khoẻ chăm sóc liên tục, rất đặc biệt. Nơi, bảo đảm kỹ thuật nay an toàn.

Với tật bệnh, tuy vẫn cần giải pháp kỹ thuật để chữa chạy. Nhưng với con đường thiên-lý-rất-chết-dần, thì vô phương. Và, khi ấy quyết định có nên đưa người đau yếu vào nhà (để) thương hoặc viện (để) dưỡng lão hay không, lại là quyết định của người khoẻ, chứ không phải người đau yếu, tật bệnh. Người đau và yếu khi ấy đã mất đi khả năng kềm chế các quyết định như thế. Và, bên dưới sự việc, thì chính thiên nhiên là kẻ trợ đắc tiến trình bình thường/tự nhiên, “thiên lý” ấy.

Người đau yếu đang rơi vào tiến trình rất “thiên-lý-chết-dần” tại nhà, hoặc ở nhà thương, là người đang thực hiện một sự việc bình thường/tự nhiên rất chết dần. Họ muốn được đối xử như sự việc bình thường. Và, họ vẫn muốn làm thành phần trái đất và không muốn để mất tiêu chuẩn hoặc bị đào thải khỏi chốn miền đầy yêu thương ấy. Họ không chối bỏ sự thật. Cũng chẳng muốn bạn bè quên đi sự việc là họ đang trên đường thiên-lý-rất-chết-dần. Và không muốn ai làm ầm ỹ. Nói tóm, họ là người bình thường muốn được bình tĩnh khi cái chết chợt đến, như chuyện bình thường/tự nhiên, trong đời.

Ta đang đi vào tuần thánh là tuần để suy tư về sự chết dần của Đức Chúa-làm-người. Phúc Âm trình bày việc Chúa đi vào cái chết là về lại cùng Cha. Ngài về lại, sau khi hoàn tất sứ vụ của Ngài ở nơi này. Nơi, con đường thiên-lý-có sự chết, trên trái đất. Và, ý tưởng của thánh Gioan hôm nay nói về tính bình thường/tự nhiên của sự chết Chúa chấp nhận. Điều đó áp dụng cho ta, cho người thân của ta nữa.

Tác giả Sarah Coakley có lần từng viết: “Đã có e ngại thời hiện đại lôi cuốn nhiều người hiểu rằng: chết dần mòn, sự tắt lịm của ‘lịch trình tiến hoá’ chính là điều tệ hại nhất xảy đến với mọi người, và mọi sự. Nếu là tôi, tôi sẽ biện luận rằng… cơn hấp hối sâu xa nhất của Đức Chúa là sự mất mát phí phạm thấy rõ trong tạo dựng của Thiên Chúa sẽ được đo lường bằng lời loan báo của Chúa Thánh Linh về một hy vọng sống lại.” (x. Harvard Divinity Bulletin, 2002)

Xem như thế, có chết “bất đắc kỳ tử” hoặc chết dần mòn, thì sự chết vẫn là để loan báo sự sống lại rất tự nhiên như qui luật bình thường của sự sống.

Với tư thế hướng về sự sống lại ngay khi chết, ta cũng nên về với lời thơ trên mà ngẫm nghĩ:

 

“Đẹp lắm! Trên đời những vấn vương,

Chao ơi! Thiên lí một con đường

Đi trong trời đất từ duyên ấy

Sớm tối không rời một chữ thương.”

(Lưu Trọng Lư – Đi Giữa Vườn Nhân)

 

Cũng một chữ “thương” ấy, giải quyết hết mọi chuyện rất bình thường. Chuyện sống, chuyện chết và sống lại của Đức Chúa và con người trong trời đất thân thương. Bình thường. Tự nhiên.




 Suy Niệm Chúa Nhật Lễ Lá Năm A

 

 

“Mây vẫn chưa về gom bớt nắng,

 Trần ai đông lắm kẻ si tình.”

(dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

 

Mt 27: 11-54

Kẻ si tình, còn đông lắm ở đâu đó, vẫn chưa về gom bớt nắng thành mây. Mây oan khiên. Mây hận thù. Như, tâm tình diễn lộ ở trình thuật rất thương khó, luôn có Chúa.

Trình thuật nay, tuy mang tựa đề Bài Thương Khó của Đức Giêsu, nhưng vẫn không là chuyện khó thương với con người. Chí ít, là thương tình Chúa chấp nhận một khổ nạn. Thương tình người sầu não suốt canh thâu. Khổ nạn Chúa lĩnh nhận cả một đời, nhờ Ngài mặc lấy thân phận con người, ở trên đời. Khổ nạn một đời, không chỉ kéo dài mỗi 33 năm, tựa giây phút rất chóng qua.

Khổ nạn Chúa chịu, khởi sự từ thôn làng nhỏ bé rất heo hút vùng Galilê, đi qua Capharnaum chốn địa bàn làm nền và trải rộng khắp quê nghèo hẻo lánh, để rồi Ngài lại về Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, chóp đỉnh một đại cuộc hùng tráng, rất Kitô.

Trình thuật Vượt Qua, ta quen gọi là Lễ Lá, đưa dẫn người nghe đi vào truyện kể rất thương tâm và kết cục bằng nỗi chết nhục trên thập tự. Là trình thuật, nên bao giờ cũng có trình và có thuật về những sự kiện lớn xảy đến với Chúa. Sự kiện lớn, là trình thuật cứu độ Chúa vượt qua nỗi chết rất hoàn tất để rồi Ngài sẽ trở về với Sống Lại vinh quang, rộn rã. Rất Mêsia.

Vượt Qua, là lễ hội đình đám có tới 400,000 người đến từ miền Đông đất nước, vượt qua thung lũng khô cằn, tay họ cầm cành lá vừa đi vừa múa hát để còn nhớ lại biến cố gian khổ ở sa mạc. Vượt, để rồi sẽ qua một khổ nhục cũng rất “người”, hầu khắc phục và đến với vinh quang toàn thắng bằng lễ hội, rất Giêrusalem. Lễ hội Vượt Qua kéo dài những hai tuần lễ với các nghi thức uy nghiêm, khởi sắc mà đón chào Đức Chúa quang lâm, hiển thánh.

Tham dự Vượt Qua, người người đều hiểu Đức Giêsu đem đến cho họ Vương Quốc Nước Trời, có muôn người. Vương Quốc của Ngài, khác mọi vương quốc ở trần gian, hơn cả vương triều Hêrôđê, Xêda hay tất cả vua quan/lãnh chúa, rất độc đoán. Vương Quốc Ngài đem đến, là lời hứa đưa họ thoát khỏi xiềng xích nô lệ, khó nghèo, tật bệnh, tức trái nghịch với mọi vương quốc chốn gian trần.

Vương Quốc Nước Trời, là “Lời” quyền phép, có sức thuyết phục người La Mã phải lắng tai nghe. Họ vốn nghĩ, chỉ có vương quốc của họ với 25 đạo quân hùng dũng mới là vương quốc thực thụ. Để rồi, khi nghe Chúa nói về Vương Quốc Nước trời, mọi người mới vỡ lẽ ra là quyền bính ở dưới thế, chỉ là phó bản của hệ thống tham tàn, độc ác, nhiều chết chóc. Đại diện cho hệ thống này, xuất phát từ trời Tây rất lẫy lừng, theo sau là đám công hầu khanh tướng rất kênh kiệu, ngạo mạn. Tên của họ là những Cai-Pha, Philatô hoặc gì gì đi nữa được nhấc nâng để bách hại đám dân hiền phải đóng thuế cho ngoại bang, rất La Mã.

Hệ thống vương quyền tạm bợ chỉ muốn tìm chứng cứ để thuyết phục kẻ nắm quyền mà ra lệnh hành quyết Đấng Nhân Hiền dám chỉ trích tính xấu của chế độ. Và, chỉ cần một vài tố giác của chúng dân hoặc của tư tế đoàn nhũng lạm cũng đủ để vị thống đốc tàn ác như Philatô sử dụng nó mà kết án Chúa. Kết án rồi, còn giao cho lý hình hành quyết Ngài bằng giải pháp êm thắm như y vẫn từng làm, là: bỏ đói phạm nhân trên thập tự bằng gỗ giá, ở Gôlgôta.

Treo phạm nhân trên thập tự, là trò chơi do những người phò Philatô lâu này từng nghĩ ra, là để hạ nhục và cảnh cáo những ai muốn nhân cơ hội mà chống đối, hoặc bất đồng. Đó là khổ nhục kế rất dễ nể mà ngành kịch nghệ La/Hy chưa kịp nghĩ đến.

Treo phạm nhân trên thập tự, là trò đời để làm nhục phạm nhân ngay từ đầu, như luật Torah Do thái từng ghi chép. Là, phương cách bách hại/hành hình rất hữu hiệu được kể trong sách Đệ Nhị Luật. Và, là qui cách mà toàn dân cùng dư luận quần chúng vẫn chấp nhận, từ thời đó.

Trường hợp của phạm nhân Giêsu, kẻ chủ mưu cuộc bách hại rất công khai còn sử dụng để hành hạ Ngài đến mức độ siêu đẳng, bằng cách đưa đem Ngài ra khỏi môi trường thánh thiêng, quen thuộc ở trong thành. Treo thân xác Ngài ở ngoài thành rồi đóng đinh, rồi còn nhục mạ danh tánh Ngài ở trên đó bằng các tiếng Latinh, Hy Lạp và Do thái, là cách nhục mạ và xoá tên Ngài khỏi sổ bộ đời. Tức, một hình thức trừ khử rất khốn khổ mọi hậu hoạ, để mọi người không ai còn biết đến nữa. Làm như thế chính Ngài lại đã tự giải thoát theo cách mà kẻ chủ mưu bách không nghĩ ra.

Chính vì thế, hôm nay, dân con/đồ đệ Ngài đã có lý để nguyện cầu mà nói lên sự thật còn tiềm ẩn qua tuyên tín: “Tôi tin Đức Kitô chịu nạn chịu chết trên thánh giá.” tức bảo là: tôi tin vào Đấng đã bị người đời hạ nhục và làm khổ. Nhưng Ngài hoàn toàn tự do, không còn bị quần chúng hoặc đám người “tự tung tự tác”, “xưng hùng xưng bá” của thể chế chính trị nào đó vẫn muốn hạ nhục Ngài. Nói lời tuyên tín rất chắc nịch, cũng là nói lên sự tin tưởng vào Đấng tìm ra được sự tự do giải thoát chính Ngài khỏi mọi hệ lụy của đời người. Tìm ra tự do, để lại trở thành chính con người Ngài. Nói lời tuyên tín rất chân thật, là tuyên bố với tất cả sự xác tín mà rằng: chính tôi đây vẫn muốn sẻ san nỗi khổ nhục Ngài từng chịu. San và sẻ sự tự do qua kinh nghiệm đầy tràn về khổ hình nhục nhã trên thập giá. Và, đó chính là niềm tin của chúng ta nơi Đức Giêsu Kitô.

Cũng vì thế, thánh Phaolô mới nói với dân con đạo hữu ở Galát, rằng: “Tôi sống đấy, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện tôi sống kiếp phàm nhân (khổ nhục) Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng sống vì tôi.” (Gal 2: 20).

Với giáo đoàn ở Corintô, thánh nhân còn nói:“Chúng tôi luôn mang nơi thân mình sự khổ nhục của Đức Giêsu, để sự sống của Ngài được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi. Thật vậy, tuy sống, chúng tôi hằng bị cái chết đe doạ vì Đức Giêsu, để sự sống của Ngài cũng được biểu lộ nơi thân xác phải chết của chúng tôi.” (2Cr 4: 10-11)

Nói thế, thánh nhân có ý bảo: chúng ta đều bị khổ hình hạ nhục vì dư luận quần chúng, như Đức Kitô từng trải nghiệm. Đã bị hành hạ rất khổ nhục, rồi còn bị coi là đồ vô dụng. Nhưng, ta có tự do như Đức Chúa của ta từng có. Ta tự do như Ngài , và với Ngài, để được Ngài kết hợp ta vào với Cha Ngài là Đấng rất tự do. Đấng Chúa tể của tự do, mọi người biết đến. Điều thánh Phaolô muốn nói, là: ta được san sẻ cùng một khổ hình nhục nhã của Đức Kitô để sự tự do của Ngài mới đích thực ở với ta, và trong ta. Ta sẽ không còn sống theo kiểu quần chúng a dua nhưng sẽ sống theo đường lối Chúa đã sống.

Có thể là ngôn từ ta sử dụng không nói hết được sự thật, nhưng ta cũng hiểu được những sự rất thật ấy. Sự rất thật, là: trong cuộc sống của mỗi người và mọi người, thường vẫn có những khổ giá, nhục hình và đóng đinh. Cuộc sống bị dư luận quần chúng là cho khô cằn, theo kiểu cách rất cằn khô của họ. Tất cả những thứ đó đều gọi là nỗi khổ nhục. Và, ngay trong khổ nhục, mọi người chúng ta đã tìm ra được tự do. Tự do, ta có là do khổ nhục của thập giá. Có được tự do ấy rồi, ta sẽ thong thả lĩnh hội ơn Sống lại, như Đức Kitô đã sống lại từ nỗi chết. Bởi lẽ, chấp nhận thanh tẩy là ta tự dìm mình trong khổ nhục của Đức Kitô. Và từ đó, cùng trỗi dậy và sống lại với Ngài, trong tự do.

Theo chân Chúa để “vượt qua” nỗi khổ nhục Ngài chịu trên thập giá, ta cũng mặc vào người mình niềm hy vọng bao la. Hy vọng, là thu tất cả dân con/đồ đệ của Ngài vào một mối. Mối ấy là hy vọng và tin chắc rằng mình cũng sẽ sống lại, cùng với Chúa. Bởi, mọi khổ nhục của khổ giá cuộc đời đều sẽ kết cuộc bằng sự sống lại rất vinh hiển, Chúa đã hứa.

Trong hy vọng sống lại với Chúa, ta hân hoan ngâm tiếp câu thơ trích dẫn ở trên, rằng:

 

“Chiều em vui quá, thuở vàng son

Ta bỗng lang thang khắp ngả đường

Ta đi cho hết thời oanh liệt

cho thấu một trời đau đớn riêng!”

(Nguyễn Tất Nhiên – Thục Nữ)

 

Trời đau đớn, nay đã hết. Thay vào đó, là “thuở vàng son vui quá”, đã sống lại bằng tình thân Chúa hướng dẫn suốt cuộc đời, để người người được vui ngày Chúa “gom mây về cho bớt nắng”. Nắng khổ nhục. Nắng Đau thương. Cả một đời.

 

Suy Niệm Chúa Nhật Phục Sinh Năm A

 

“Khi tỉnh lại, trông thấy trời sáng lạn,

“con đường đi bừng nở ánh muôn hồng.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

 

 

Ga 20: 1-9

Chợt lúc tỉnh, nhà thờ thấy đất trời đã sáng lạn. Khi vụt sống, nhà Đạo lại thấy đời mình mãi cứ vui. Đất trời đời mình vẫn rất vui vì người người cùng Chúa nay sống lại. Và từ nay, mọi con đường ở phía trước đều bừng sáng ánh muôn hồng.

Trình thuật thánh Gioan hôm nay cũng diễn tả ý tưởng về ánh muôn hồng bừng nở ở con dân nhà Đạo, khắp muôn người. Sự việc Chúa bừng nở Phục Sinh, đã làm ánh hồng toả sáng cõi dân gian vũ trụ, rày thấy rõ.

Dân gian vũ trụ vừa cùng Chúa trải nghiệm cuộc khổ nạn đã theo Ngài đi vào mộ phần, trong lịm tắt, để Vượt Qua. Ngài vượt từ trạng thái sống ở đời tạm qua cuộc sống vĩnh cửu rất khác biệt. Vượt qua, là Ngài vượt trở ngại của cuộc sống phàm trần đầy chết chóc để về với Cha, nhờ Phục sinh, quang vinh theo đúng kế hoạch Cha giao phó.

Nhờ trỗi dậy từ cõi chết, Đức Giêsu đã thực sự trở thành Con Thiên Chúa, rất tràn đầy. Từ đầu, Ngài sinh bởi Thiên Chúa là Cha, nhờ Thánh Thần. Và, suốt cuộc đời trần thế, Ngài chấp nhận thân phận của Người Con, để rồi ngày qua ngày, sống tiến trình Phục Sinh quang vinh ấy, trong hiện thực. Tiến trình, bao gồm việc chuyển đổi và thăng hoa nỗi chết để sống lại. Nói cách khác, Ngài nhận thức Mình là Con Thiên Chúa, luôn sống lại và tăng trưởng Phục Sinh thăng hoa mọi người.

Ơn cứu độ đến không phải bằng hành động do Ngài định sẵn, nhưng ở Bản vị Ngài quan hệ với Cha. Ngài không kết hợp với tội lỗi mà chỉ phối kết với người phàm dễ phạm tội. Điều này xảy ra không do lý luận nào từ bộ não của phàm nhân đầy tội lỗi. Nhờ vào bản chất Con Thiên Chúa và do Cha đặt để, Ngài giáng hạ với trần thế và để cho Cha Ngài tạo dựng thế trần trong cung cách bí nhiệm của những sinh hạ tục phàm, giống như thế.

Tựa như tiến trình sinh hạ nơi con người, Phục sinh là con đường trải nghiệm việc hạ sinh rời bỏ cung lòng người mẹ, để trở thành một bản thể khác, rất tuyệt đối. Tiến trình này thành tựu, như một thể thức nguyện cầu rất mới mẻ. Tiến trình, có được là nhờ Thánh Thần Chúa phú ban, để rồi khi Phục Sinh quang vinh, Đức Giêsu ở vào vị trí hoàn tất lịch sử. Và, Ngài trở thành Đấng lại đến vào mỗi khoảnh khắc của lịch sử còn diễn tiến. Trên thực tế, Tiệc Thánh Thể là nhiệm tích cho thấy Ngài hiện diện như Bản Thể hiện hữu ở mọi nơi, vào mọi thời.

Hiểu Phục Sinh theo cách này, người đọc Tin Mừng Sống Lại sẽ nhận ra Thánh Thần Chúa là Quyền Uy Sức Mạnh thánh thiêng đã và đang thực hiện việc sản sinh nơi mọi loài, vào mọi thời. Và Thánh Thần Chúa đầy Quyền Uy Sức mạnh nay trao ban cho ta cũng một uy quyền sinh sản hệt như thế vào lúc này, ngày Phục Sinh.

Muốn hiểu Phục Sinh một cách trung thực, đừng nên hiểu đó như buổi cử hành Phụng vụ do Hội thánh thực hiện trong ít tiếng đồng hồ chỉ mỗi thế. Để rồi, người nông nổi sẽ lại trở về với cuộc sống bình thường, chẳng biến thái. Không đổi thay.

Tìm hiểu Phục Sinh, không thể và không nên hiểu như người vừa chầm chậm trỗi dậy về với thế giới đời người, sau một giải phẫu đầy kịch tính. Cũng chẳng nên hiểu Phục Sinh như phản ứng của người thưởng lãm bi hài kịch nhiều tập ở truyền hình, đã thấy nhân vật chính nay bị giết, tức hết chuyện. Bởi, tình trạng hậu-Phục Sinh nơi mọi người, ở khắp chốn, không là chuyện bình thường giống hệt khi trước, tức: đã Phục Sinh rồi, mà chẳng đổi thay tâm can, lòng Đạo. Hoặc chẳng có quyết tâm.

Cả 4 tác giả Tin Mừng không kể lại chuyện Chúa Phục Sinh như kết hậu của bi hài kịch đầy tình tiết rất ủy mị. Nhưng, các thánh vẫn viết và kể về một khởi đầu có “ánh muôn hồng, trời sáng lạn”.

Kể Phục Sinh, các thánh sử kể ra 3 chi tiết rất lớp lang, quan trọng ở Giao Ước, tức: đất miền Galilê, đá tảng lấp mộ và niềm tin khởi đầu.

Galilê đây, không là địa danh mang tính chất thể lý, mà là chốn miền đầy những tinh thần tượng trưng cho việc Thiên-Chúa-là-Cha đang chờ đón Chúa Con về lại với Ngài. Về lại Galilê, là về chốn miền của người nghèo đang có nhu cầu thực tế mà cuộc sống thực tiễn chưa hề khoả lấp. Người người về Galilê, không để ngóng chờ thị kiến gặp gỡ Chúa mà hội luận về sự kiện sống lại. Nhưng, là đi vào hành động giống như Chúa từng thực hiện, tức: gột bỏ mọi chết chóc, trầm cảm và sầu buồn, để rồi đem đến cho dân gian người người niềm vui chữa lành và hy vọng. Làm như thế, người người sẽ cảm nhận uy quyền Phục Sinh rất sống động ơ nơi mình, hệt như thánh Phaolô từng nói:“Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh.” (Phl 3: 10)

Đá lấp mồ mô tả ở trình thuật, là trở ngại vẫn cản ngăn ta làm những việc cần làm để sống đích thực điều Chúa dạy. Đá lấp mồ, có thể là bạn bè/người thân. Là: niềm cô đơn, bệnh tật. Là, thế giới đang cản ngăn người người thực hiện một Phục Sinh trong đời mình. Đá lấp mồ, là trở ngại khiến các nữ phụ thăm viếng xác của Thầy mình, phải lăn qua một bên để vào đó mồ bôi xức dầu thơm tẩm xác người thân, cho phải phép. Các chị đến thăm xác Chúa, thấy đá lấp mồ bị lăn, nên đã nghĩ có người uy lực lắm mới làm nổi việc như thế.

Đá lấp mồ, còn là chính nỗi chết từng ngăn chặn mọi người muốn sống tiếp. Lăn đá tảng qua một bên, việc này hàm ngụ ý nghĩa chối bỏ cái chết của người thân thuộc. Hàm ngụ một phiền toái, đem nỗi chết đến với cuộc sống của mọi người. Đá lấp mồ, có thể là kinh nghiệm ta từng trải qua, khiến mình cứ phải sống với ưu tư/lẫn lộn trong quá khứ. Với kế hoạch sống lại Cha đưa ra, không thể có “đá lấp mồ” nào khả dĩ gây trở ngại khiến Ngài không thực hiện được ý định của Chúa Cha.

Đá lấp mồ nay bị lăn đi, cũng hàm ngụ một hãi sợ khác, nơi người sống. Hãi sợ về cuộc sống khác thường ở chốn nào đó rất khác biệt. Khác, với cuộc sống hiện tại, ở thế trần. Cuộc sống khác thường ấy không còn nỗi chết nào khác ám ảnh nữa. Cuộc sống mới ấy, sẽ không phải trải nghiệm bất cứ một hạn chế nào. Cuộc sống ấy, không do bản mình tạo nên. Sống như một quà tặng, khiến người người an vui, không sợ chết. Cuộc sống mới, đã khởi đầu niềm tin rất sáng. Chính đó là sống Phục Sinh của Đức Chúa.

Tin Mừng thánh Gioan đặt nặng vào niềm tin mới khởi đầu, nhiều bừng sáng. Tin Mừng thánh nhân viết có nhắc đến đồ đệ khác, cũng bước vào mộ phần, rồi nhận định: “Ông thấy mọi sự việc xảy đến. Và, ông tin.(Ga 20: 8-9). Đồ đệ ấy, chính là bản thân người viết đã đạt trọn niềm tin vào Chúa lúc đến thăm và Ngài ban cho các ông chính Thần Khí của Ngài, là Đấng giúp các thánh tin vào sự Sống mới.

Bởi thế nên, người người có đi về Galilê mà vực dậy những người đang chết, cũng đừng nói về cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng, cứ tin vào cuộc sống mới. Là, sống chính cuộc đời mình. Sống, biết sẻ san sự sống. Và, để cho quyền năng rất sống lại cứ tràn xuống niềm tin ta đang có, mà vực dậy một ai đó. Để rồi, bằng bằng động thái thân thương/giùm giúp sẽ đưa họ bước vào cuộc sống rất phục sinh, quang vinh.

Truyền thống cổ theo khuynh hướng của thánh Gioan quan niệm rằng: có thể Đức Giêsu chưa hoàn tất sự sống lại của Ngài cho đến khi ta vực dậy một ai đó, khỏi nỗi chết. Cái chết trong lỗi phạm. Phải chăng đó cũng là ý nghĩa Tiệc Thánh ta cử hành, mỗi Chúa Nhật? Phải chăng sự kiện Chúa sống lại sẽ rõ nét hơn ở gia đình/cộng đoàn này hơn là nhóm hội/đoàn thể khác?

Truyền thống của đồ đệ thánh Gioan có thói quen gọi thời điểm Phụng vụ mùa này, tức thời gian từ Chúa Nhật Phục Sinh cho đến Lễ Hiện Xuống, là mùa Hiện xuống của Tinh thần rất mới mẻ ấy. Nói cho cùng, Chay kiêng Tuần thánh là mùa Vượt qua, để ta vượt và qua giai đoạn sự sống hiện tại đến sự sống mới. Hiện Xuống, mới là Phục sinh hiệu năng, rất sở đắc. Và, nay cũng là lúc để ta nguyện cầu cho tinh thần ấy thành hiện thực nơi ta. Nơi, mỗi người. Ở thời điểm Phục Sinh năm nay.

Trong nguyện cầu như thế, ta lại reo vang lời ca của thi sĩ trích ở trên, mà ngâm rằng:

“Khi tỉnh lại, trông thấy trời sáng lạn,

con đường đi bừng nở ánh muôn hồng.

Em tuyệt trần đã mở lối thiên cung,

tôi sửng sốt hái nụ tình phong nhụy.”

(Đinh Hùng – Giáp Mặt Phù Dung)

 

Phục sinh, vẫn là mùa để người người “sửng sốt hái nụ tình”, niềm vui sáng lạn. Hái nụ tình, ai cũng sẽ hái để mọi người đích thực sống đổi mới, cả tinh thần lẫn xác thân. Rất tuyệt vời một Phục Sinh.

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Hai Phục Sinh Năm A

 

“Trỗi dậy nôm na vài điệu cũ,”

“Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn.”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)



Ga 20: 19-31

Trỗi dậy, nhà thơ khi xưa còn chưa trỗi. Chỉ mỗi nôm na điệu cũ, vẫn chưa tàn. Tín thác, nhà Đạo hôm nay rày xác tín. Cũng một tâm sự vẫn chưa an. Chưa an, giống như tâm sự của thánh Tôma tông đồ với lòng dạ chưa vững, dù Chúa có thăm viếng đồ đệ, với chúng dân.

Trình thuật hôm nay, thánh Gioan cũng trình và cũng thuật sự kiện Chúa về với đồ đệ để trấn an dân con của Ngài còn hãi sợ, và do dự. Sợ là sợ người Do thái tiếp tục lùng tìm đồ đệ của Ngài, mà hãm hại. Do dự, là bởi các ngài chưa hoàn toàn tin vào Thày mình dám trở về với anh em.

Niềm tin của thánh Tôma sở dĩ kém cỏi, là bởi thánh nhân chưa một lần đích thân gặp lại Thày mình, kể từ ngày Thầy trỗi dậy, vào Phục Sinh.

Với Hội thánh, tâm trạng thánh Tôma biểu trưng cho động thái của cộng đoàn cho rằng Chúa vẫn đang sống với họ theo cung cách nào đó, rất đặc biệt. Đặc biệt, là: họ thấy Chúa vẫn hiện diện trong quan hệ mật thiết với các ngài. Quan hệ, có nhận thức. Có tính cách mật thiết và thân cận khiến họ chẳng muốn thổ lộ cho ai biết. Bởi, có để lộ quan hệ này theo cung cách nào đi nữa, họ cũng chẳng có người để cảm thông. Có khi còn bị bài bác, bách hại nữa là đàng khác.

Vì thế, cộng đoàn nay càng đi vào quan hệ riêng tư với Chúa, càng thấy mình có khả năng duy trì sự tư riêng kín đáo ấy hơn là bày tỏ công khai như mọi người. Cũng từ đó, quan hệ giữa các thánh với Chúa Sống lại trở nên thiêng liêng và quan yếu khiến họ sống chức năng cộng đoàn mình.

Cộng đoàn này, ước ao Hội thánh khắp nơi chú ý đến giáo huấn mở rộng, bao gồm cả các tín hữu thuộc đủ mọi thành phần, ngay từ đầu. Và, thánh Tôma đã đại diện cho cộng đoàn đặc biệt luôn bận tâm tìm mọi cách để được chấp nhận làm thành phần của Hội thánh chính mạch, thời tiên khởi. Và việc thẩm nhập như thế, quả thật không dễ.

Tâm trạng chung của hầu hết các tín hữu Đức Kitô bình thường rất thực tế. Điều mà cộng đoàn tiên khởi tin tưởng, đã được cắm sâu trong giòng đời lịch sử, rất thiết thực. Lịch sử ấy, ghi lại việc dân con bình thường ở Hội thánh thấy Đức Giêsu vẫn quan hệ cởi mở với chúng dân. Nhờ đó, mà cuộc sống công khai của Ngài được mọi người nhận biết rất rõ. Nhận và biết, rằng cung cách sống Chúa thể hiện cụ thể trong đời công khai của Ngài là đứng về phía người nghèo không sợ sệt. Dù, có bị công quyền thách thức và đe doạ, vẫn không sợ. Chính vì thế, Ngài đã bị loại trừ khỏi mọi thế sự bằng cái chết rất nhục nhã, trên thập giá.

Trình thuật thánh Gioan viết về thánh Tôma còn để nói lên việc Chúa Phục Sinh là sự tiếp nối những gì Ngài đã thực hiện trong quãng đời lịch sử do Cha điều động. Tiếp nối cung cách sống khả dĩ khiến con người cần phải có. Trình thuật mở ra cho mọi người thấy nhãn quan rất khác biệt về tương lai của niềm tin nơi Hội thánh. Đó là điểm khác biệt giữa Tin Mừng theo thánh Gioan và Tin Mừng nhất lãm.

Tin Mừng nhất lãm không chú trọng nhiều về “truyền thống Tôma”, tức những khía cạnh nội tâm thâm trầm trong quan hệ với Chúa như Tin Mừng thánh Gioan chủ trương. Nói cách khác, khi lồng vào nội dung của Tin Mừng mình, thánh sử Gioan chấp nhận “con đường chật hẹp”; tức: chọn lựa lập trường trung lập giữa nhóm phái “Ngộ Đạo” và “Chính thống” trong Đạo giáo thời tiên khởi.

Vào thời ấy, đã thấy xuất hiện nhiều nhóm/phái rất khác biệc trong cung cách và lập trường tuyên tín, tuy vẫn tin vào Đức Chúa Phục Sinh. Phải mất một thời gian dài, mãi đến thế kỷ thứ 2 và 3, Antiôkia và Rôma mới đi đến hợp nhất đúc kết thành một hình thái duy nhất của Đạo Chúa. Và từ đó, đã tồn tại qua nhiều thế kỷ. Cũng vì lý do đó, nhiều lúc nhìn về dĩ vãng, ta có khuynh hướng gọi những đường lối khác biệt là “rối đạo”, tức mũ chụp của kẻ chiến thắng tặng cho người chiến bại, trong tranh chấp.

Khi thánh Gioan viết Tin Mừng thứ tư, theo “nguồn mạch Chính thống” mà lúc ấy chưa nổi hẳn, nên thánh nhân được xem như xuất từ nhóm/phái tin vào những trải nghiệm về linh đạo nội tâm hơn các nhóm khác. Và lúc đó, thánh nhân đã ở vào tình huống công nhận và bao gộp một số nhóm phái giống như mình vào giòng chảy niềm tin sâu rộng và phổ cập.

Thánh Gioan chống đối lối suy tưởng của nhóm đích thực “Ngộ Đạo”, là bởi thánh nhân nghĩ rằng các vị ấy đã sai sót về Kinh thánh của người Do thái. Dù thế, thánh nhân vẫn mở rộng cửa cho các vị không thuộc nhóm “Ngộ Đạo” nhưng lại trải nghiệm niềm tin của mình không theo cung cách của truyền thống công khai và những chuyện hoàn toàn mang tính phàm trần, rất trái đất. Và đó là lý do khiến thánh nhân sử dụng truyện thánh Tôma kém lòng tin nhưng lại trải nghiệm riêng tư mật thiết mà nhóm của thánh Tôma là đại diện.

Chính vì thế, ta mới có tài liệu gọi là “Tin Mừng theo thánh Tôma”, hoặc Tin Mừng thứ năm, tuy không được Giáo Hội đưa vào Sách Tân Ước, để ta tin. Việc này xảy đến vào thế kỷ thứ hai, tức: vào thời thánh Gioan còn sống, có lẽ từ miền Đông nước Syria. Tài liệu Tin Mừng này, hoàn toàn không mang tính “rối đạo”, sai sót, cũng chẳng thuộc nhóm “Ngộ Đạo”, nhưng vẫn không thuộc nhóm chính mạch truyền thống theo nghĩa nhất lãm, hoặc nổi lên vào thời sau này của Đạo Chúa.

Dân con Đạo Chúa hôm nay có nhiều phương án khác nhau về niềm tin. Chí ít, là tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Một số vị vẫn còn “ngoài luồng”. Một số thì niềm tin vào Phục sinh đã ngự trị ngay trong tâm can của họ. Dù trong hay ngoài, có lẽ vẫn nên đọc lại truyện thánh Gioan kể về thánh Tôma đến với niềm tin như thế nào. Có đọc lại như thế, ta mới mở rộng vòng tay để cho người anh người chị ở khắp nơi, cả nơi ta đang ở, mới có đất trống để thực sự tin vào sự sống lại. Của Đức Giêsu. Và, của mọi người.

Dù gì đi nữa, ta không thể nào có được niềm tin vững chãi vào sự Sống Lại của Đức Giêsu, nếu không có ánh sáng của Thánh Thần Chúa soi dọi mọi người. Nói cách khác, ta chỉ tin và công nhận Chúa đã Sống Lại theo cung cách nào đó, đều nhờ có Thánh Thần Chúa dẫn dắt, mà thôi.

Xem thế thì, việc Đức Giêsu hiện đến xác định một Sống Lại thật với thánh Tôma hay các môn đồ ở chốn kín cổng cao tường, vẫn là Lễ Hiện Xuống mới rất đích thực, cho mọi người. Nói cho cùng, tin Chúa Sống Lại tức đã tin vào Quyền Uy Sức Mạnh của Thánh Thần Chúa, vào mọi lúc.

Trong tâm tình ấy, ta ngâm lại lời của người từng đấu tranh nhiều cho niềm tin riêng mình, như sau:


“Non sông bốn mặt mơ màng,

Thức, chỉ mình ta dạ chẳng an.

Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối,

Gió thu lọt cửa cọ mài chăn.


Khóc giùm thân thế hoa rơi lệ,

buồn giúp công danh dế dạo đàn.

Trỗi dậy nôm na vài điệu cũ,

Năm canh tâm sự vẫn chưa tàn.

(Hàn Mặc Tử - Đêm Không Ngủ)

 

Chúa sống lại, hẳn người người cũng mất nhiều đêm, rất không ngủ. Thức hay ngủ, để nghĩ suy, bằng tâm tình trọn niềm tin nơi Chúa. Chí ít, là niềm tin Chúa Sống lại.

Là, thách thức khiến “dạ chẳng an”. Là, thách thức vẫn chưa tàn, cuộc tình ta vẫn có với Chúa, ở chốn riêng tư hay ngoài mặt. Là tâm tình ta có được, nhờ Thánh Linh giúp trỗi dậy. Hôm nay. Mai ngày. Và, mãi mãi cõi miên trường.

 


 Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Ba Phục Sinh Năm A

 

 

“Có lần tôi thấy một người đi,”

“chẳng biết về đâu nghĩ ngợi gì.

Chân bước hững hờ theo bóng lẻ,

một mình làm cả cuộc phân ly.”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

 

 

Lc 24: 35-38

Thấy người đi hôm ấy, nhà thơ cứ ngỡ mình làm cuộc “phân ly”. Biết Chúa đã sống lại, nhà Đạo lại ngờ rằng: đó không phải. Vì nghĩ không phải, nên mới hững hờ. Thờ ơ. Tranh cãi.

Trình thuật thánh Luca, nay đưa ra luận cứ về điều mà nhiều thành viên Hội thánh xem ra vẫn cãi tranh, giành giựt mọi thắng lợi để thuyết phục người người chấp nhận lý lẽ mình đưa ra.

Về sống lại, nhiều sự kiện xảy đến với Chúa, không theo hướng quen thuộc, nên nếu người người sử dụng ngôn ngữ bình thường để suy nghĩ, sẽ thấy cũng khó mà tin. Khó, nhưng đó là việc có thật, từng xảy đến. Chúa sống lại, tuy gây dao động, nhưng đã tạo cho mọi người xác tín rằng niềm tin chính là quà tặng Chúa ban để mọi người có dịp suy nghĩ. Suy và nghĩ, những gì xảy đến với Chúa, rất hợp tình. Hợp lý. Chẳng nghi nan.

Xét bề ngoài, ta thấy nhiều việc xảy đến với Chúa xem ra khá mâu thuẫn. Nên trên thực tế, không phải ai ai cũng đều công nhận Chúa đã sống lại làm người thường. Nhưng, nếu Ngài lại bằng cách mặc lấy xác phàm làm người thường, thì sau đó, chắc Ngài sẽ phải chết thêm lần nữa. Sự thật, không phải thế. Trình thuật hôm nay, thánh Luca mô tả việc Chúa đến đồng hành với môn đệ bằng hình hài ta thấy và sờ chạm được bằng chân tay, nhưng không thể tưởng tượng được là: Ngài sẽ phải chết, thêm lần nữa. Thật ra, không thể có chuyện như thế. Điều, thánh Luca kể ở Tin Mừng, là để nói lên ý nghĩa nào đó mà nhiều vị gọi là truyện “Đường Emmaus, hành trình với môn đệ”.

Về thể lý, một khi đã chết rồi, thì những gì là xác thân hoặc vật thể vũ trụ, đều rữa nát, vỡ tan. Không ai có thể trở lại sống với xác thân có xương thịt vẹn toàn như khi trước. Chẳng người nào lại có thể duy trì cùng một xác thân, suốt miên trường. Khi đã chết rồi, mà lại tái sinh với nguyên vẹn hình hài như khi trước, thì đó chỉ có thể là vòng chuyển luân, luẩn quẩn hết kiếp này đến kiếp khác, khoanh tròn quanh thành vòng quay sống-chết/chết-sống, không lối thoát.

Truyện hai môn đệ hướng về thành đô Giêrusalem được thánh Luca ghi chép, còn để nói lên rằng: Đức Giêsu được đồ đệ nhận ra Ngài đích thực là Đức Chúa Ngôi Hai, vẫn tồn tại với mọi người. Ngài chẳng là quỉ ma hiện hồn theo qui cách của người thật. Nhưng, Ngài hiển hiện qua hình hài sao đó, rất sống động (Mc 16: 12). Ở đây nữa, khi viết Tin Mừng Phục Sinh, thánh Luca tập trung nhấn mạnh vào điểm, bảo rằng: Chúa tỏ cho mọi người thấy hình hài của Ngài theo qui cách rất khác, nên khi gặp lại Ngài, đồ đệ thấy mình sợ hãi, đến khiếp kinh (Lc 24: 37). Vì kinh khiếp, nên đồ đệ mới nói năng những điều chẳng có nghĩa. Theo nhà chú giải Kinh thánh Herbert McCabe, thì: khi đồ đệ gặp Thầy Chí Ái, các thánh cứ tưởng Thầy là Vị đồng hành chẳng hề quen biết. Kịp đến khi Thầy nhắc lại toàn bộ chi tiết về lịch trình cứu độ, các thánh mới vỡ lẽ ra đó là Thầy.

Xem thế thì, Phục Sinh là điều mà người phàm xác thịt chúng ta chẳng thể nghiệm ra bằng lý lẽ của đời thường, để kiểm chứng. Bởi, dù biết Chúa sống lại thật, các thánh vẫn không coi đó như một chứng cứ hiển nhiên, tựa khi Ngài còn sống. Nhận biết hình hài Chúa rất nhãn tiền, điều đó có nghĩa: các thánh đã có động thái tin-yêu rất khác thường, trong cuộc sống. Và, đây là thực tại chỉ xảy đến với những người cũng trỗi dậy như Chúa và với Chúa bằng niềm xác tín yêu thương của người vẫn tin. Tin, theo qui cách và ý nghĩa khác. Khác ra sao, đó là vấn đề. Là, sự thực. Thực ra sao? Cũng nên suy xét.

Trở về với lập trường chú giải của các tổ phụ thuộc Giáo hội Đông phương thời tiên khởi, như: Thượng phụ Origen, Grêgôriô thành Nyssa… khi gọi sự việc gì là ‘cảm nhận linh thiêng’, các ngài có ý nói về cảm xúc thiêng liêng, sốt sắng. Điều mà các đấng bậc trên nói đến, có ý bảo rằng: tất cả chúng ta đều mang trong người cung cách yêu thương có nhận thức sự vật mà não-bộ-thần-kinh-thuộc-mé-trái không thể lĩnh nhận.

Nhờ yêu thương như thế, con người ‘định hình’ sự vật thành những ảnh hình như do chính mình tạo ra. Làm như thế, là để tác tạo thực thể như mọi người vẫn làm cho chính mình, nơi phần sâu thẳm của con người. Làm như thế, là để nhận thức rằng: thực thể ấy có thật. Vượt quá phạm vi và qui cách của ảnh hình. Nói theo ngôn từ triết học, thì các triết gia gọi đó là “tiềm thức”. Coi đó là giòng chảy sống, rất diệu kỳ. Là, sờ chạm thế giới nguyên uỷ không hư nát, mà thường ra, ta không sống ở trong đó.

Nhận thức sự vật như thế, giống hệt cảm giác thấy được ‘lửa ngọn’ rực cháy trong người mình. Lửa rực cháy, khiến mình sống yêu thương, hạ mình. Thúc bách mình sống bừng sáng luôn tiến về phía trước. Có tiến như thế, mới cảm nhận được ‘lửa ngọn bùng bừng’ đang trào dâng với mức độ rất mới mẻ. Khác thường. Có kinh nghiệm từng trải rồi, người người sẽ nhận ra cuộc sống lại thực sự đang dâng trào nơi con người mình.

Đó là cung cách mà dân con đồ đệ dám sử dụng thơ văn như chưa từng làm, và cũng chẳng ai nghĩ tới để diễn tả tình huống Chúa Phục Sinh hiện hình với dân con của Ngài, thật như thế. Có thể nói, các thánh đã sờ chạm Chúa. Cảm nhận được nhịp đập nơi tim mạch cùng vết thương đầy máu của Ngài. Thấy được Thầy mình bẻ bánh rồi cầm lên ăn. Các thánh không thể quên được vị ngọt nơi bánh thánh Thầy trao tặng. Tự thân, các thánh đều biết rõ chính Thầy là Đấng đã bẻ bánh phân phát cho người nghèo hèn, rất đói kém. Tương lai mai ngày, rồi ra các ngài cũng sẽ tạo nên thơ/văn như thế để kể về Thầy đến với mình, nơi nào đó. Thầy đến để bẻ bánh, ban phát tình thương yêu nồng thắm, cho chúng nhân.

Thực tế là như thế. Nhưng ngày nay, điều đáng buồn là rất nhiều tín hữu Đức Kitô cứ khăng khăng tin rằng thân xác Chúa trỗi dậy với cuộc sống theo hình thức rất thể lý. Rất nghĩa đen. Và, họ coi đó như thực tại duy nhất, không bàn cãi nữa. Buồn hơn nữa, lẽ đáng ra, ta phải hiểu Phục Sinh nhiều hơn thế. Nếu hiểu Phục Sinh chỉ là Chúa hiện diện với hình hài xác thể như khi trước thôi, tức là ta tự mình để luột mất ý nghĩa chính đáng, của nhiệm tích có thực. Buồn biết bao, khi nhiều người/nhiều vị vẫn lên án các đấng bậc nào khác nhận thức Chúa sống lại theo kiểu cách thơ văn mà thánh Luca viết theo dạng dụ ngôn, hay sao đó. Buồn nhiều cả, là: các vị không nghe và không thấy giòng chảy thi ca/âm nhạc vẫn tiềm tàng ẩn mình ở trong đó. Thực tại Sống Lại rất thật. Thật, một cách đích thực.

Quả thật, Chúa sống lại THỰC. Ngài khiến ta THỰC THỤ sống lại với tình

Thương như bao giờ sống vậy.

Trong tâm tình đó, tưởng cũng nên ngâm nga tiếp nguồn thơ/văn của thi sĩ trên, còn viết tiếp:

 

“Có lần tôi thấy một bà già

Đưa tiễn con đi, trấn ải xa

Tàu chạy lâu rồi, bà vẫn đứng

Lưng còng đổ bóng, xuống sân ga.”

(Nguyễn Bính – Những Bóng Người Trên Sân Ga)

 

“Thấy một bà già” hay thấy nhiều bà mẹ còn đó bóng hình đổ trên sân ga cuộc đời, là thực tại. Thấy lưng bà còng. Thấy bóng hình chờ con của bà “sống lại” rồi chợt đến để sẻ bánh/chia cơm, mà sống thực. Thực tình sống cõi đời đầy yêu thương, như Chúa dạy. Suốt miên trường. Đó cũng là ý nghĩa và tác động của thơ văn, trong đời.



 Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Tư Phục Sinh Năm A

 

“Trước ngôi cao, con nguyện cầu tha thiết”

Nỗi u hoài, Người có biết Chúa ơi,

siêng đọc kinh đi lễ… bởi một người,

Con trót dại đem hết lòng yêu mến.”

(Dẫn từ thơ Hoài Châu)

 

 

Ga 10: 1-10

Siêng đọc kinh đi lễ, sao lại bảo: chỉ bởi một người? Đem hết lòng yêu mến, sao gọi đó là trót dại? Của người con?

Trình thuật thánh Gioan, nay nói về Chúa Chiên Lành, Đấng hết lòng yêu mến, không chỉ mỗi chiên con đang đi lạc, mà cả bầy. Bởi, đó là tình thương yêu tha thiết của Chủ Chăn Tối Cao, Đấng biết rõ chiên con trong ràn, Ngài nuôi dưỡng.

Là chiên con cùng ràn, Hội thánh tuy xuất cùng một nguồn gốc, nhưng lại mang tính đa năng đa dạng buổi đầu đời của thời tiên khởi. Vì đa dạng, nên các nhóm hội/đơn thể của Hội thánh không tránh khỏi tính ganh đua, tị nạnh, rất quyết liệt. Về với lịch sử, Đạo Chúa mang nhiều hình thái khá khác biệt. Và, Chúa Chiên Hiền Từ cũng nhân lành để bao gộp tất cả mọi chiên con vào chung một ràn, có tình yêu Ngài chăm sóc.

Một trong các cuộc chiến do người Do thái nổi lên chống lại cường quyền La Mã, đã kéo dài chiến tranh suốt từ năm 66 đến 70 sau công nguyên, phá hủy thành thánh Giêrusalem và Đền Thờ của Chúa. Cho nên các Kitô hữu sống ở thành thánh, cũng thưa dần. Đến một lúc, bị biến mất chỉđể lại Galilê và Syria, dấu vết của tình tiết đấu tranh. Của, tranh giành vai vế, lẫn địa vị. Chỉ mỗi cộng đoàn Phaolô của kiều dân Do thái là còn sống sót. Và, ràn chiên Hội thánh hôm nay là hậu duệ của cộng đoàn này.

Chẳng mấy chốc, sau đó đã xảy đến với cộng đoàn một vấn đề rất mới, là: các thánh nay ngóng chờ Chúa sẽ lại quang lâm lần nữa, rất bất ngờ. Dù, việc này không xảy đến ngay tức khắc, nhưng các thánh cũng đã duy trì được căn tính của cộng đoàn, nhờ tái tạo nguồn nảy sinh tinh thần đoàn kết từ việc đọc Sách thánh viết bằng tiếng Do thái, và theo các giới lệnh, truyện kể có liên quan đến các anh hùng dân tộc. Và, nhờ cộng đoàn Phaolô vẫn nhớ đọc thư từ/bài viết do thánh nhân gửi các cộng đoàn, ở khắp nơi. Và, nảy sinh nhiều nhóm hội, trong đó, có nhiều vị thiên về nhóm theo Do thái. Có nhóm vẫn phụ trợ thánh Phaolô, rất mực. Nên, tính đa dạng càng phát triển mạnh nơi cộng đoàn tin Chúa Chiên Lành, là Đức Giêsu.

Suốt thế kỷ thứ II, kẻ tin vào Đức Kitô gần như biến dạng khỏi xã hội. Mãi cho đến đầu thế kỷ thứ ba, mới thấy một số tín đồ sở hữu đất đai, xây dựng các hang toại đạo để ẩn lánh, và cuối cùng dựng xây nhà thờ/đền thánh thiết lập chốn thánh thiêng cho cộng đoàn thờ tự. Xem như thế, ràn chiên Hội thánh mang tính cách hiệp nhất đích thực và chính tông của Đức Giêsu, đến rất chậm và khá trễ, lúc ấy lại thấy các giải thích về nhà Đạo, cũng đã khác.

Đến giữa thế kỷ thứ ba và đầu thế kỷ thứ tư, cũng lại thấy một vài cuộc bách hại quyết loại trừ các Kitô hữu khỏi hiện trường tín thác. Cho đến năm 313, khi hoàng đế Constantin ra tay nhân nhượng người tín hữu ở phương Đông lẫn phương Tây, cho phép mọi người được tự do lựa chọn tôn giáo nào mình tin tưởng. Từ đó, Kitô giáo đã trở thành một thực thể xã hội đối với quần chúng. Tuy nhiên, đó chỉ là một trong các cung cách dẫn giải niềm tin vào Đức Kitô được Constantin chấp nhận. Mọi qui cách khác đều đi vào chốn “thầm lặng”, rất bí mật. Và vì thế, phần đông đã mất dạng.

Thời kỳ hậu-Constantin, chỉ một đạo giáo mang tính nguyên thuỷ, rất chính cống. Và chỉ mỗi phái nhóm chính tông chính cống này khả dĩ triển khai lời dạy của công nhiên rằng Đức Giêsu Kitô vừa là Chúa, vừa là người. Và, Thiên Chúa rất Ba Ngôi cũng từ lúc đó, được quan niệm. Vào cuối thế kỷ thứ hai, duy chỉ mỗi Đạo nguyên thủy-chính tông mới tồn tại. Số còn lại, đều trở thành “lịch sử”, lùi vào quá khứ.

Người Công giáo, nay biết rất ít hoặc chẳng có ý niệm gì về quá trình lịch sử của Đạo mình. Có vị chỉ có ý tưởng khá mơ hồ về lịch sử, lại đã cho rằng: công cuộc Phục Hưng thời Trung cổ đã khiến Hội thánh thêm rạn nứt. Và, rồi nghĩ rằng: ta thừa hưởng được “lề phải” rất đúng đắn từ các tranh luận về ràn chiên, một Chúa Chiên. Còn mọi giáo phái khác, đều có sai sót. Và, họ cũng cho rằng, Chúa Chiên Lành, là Chủ Chăn, chỉ nhân hậu với đạo giáo rất chính tông là Công giáo mình, mà thôi. Điều này, tưởng cũng nên nghĩ lại.

Quả là, có khá nhiều khác biệt giữa các nhóm/phái giáo hội, ở khắp nơi. Có người tin tưởng là: những khác biệt này có thể được hoá giải. Và, mọi người đều ước ao, nguyện cầu cho tình hợp nhất, và ai cũng đợi chờ ngày ấy mau mau đến. Tuy nhiên, lại vẫn biết rằng mình chẳng biết cách nào để chiên con tản khỏi ràn, về với nhau. Trong khi đó, lại có người cứ coi quá khứ của Đạo mình như mớ bòng bong, luôn rối rắm nhiều phía, rất khó khăn. Điều này ảnh hưởng lên tâm tưởng của nhiều người vốn sẵn có trong đầu về Đức Giêsu. Ảnh hưởng lên cả những ý tưởng mình vẫn xác tín về Đức Chúa.

Trình thuật hôm nay, cố ý nhấn mạnh rằng: Đức Giêsu là Chúa Chiên Lành, Chủ Chăn của chiên con thuộc mọi ràn. Tất cả các chiên con/chiên mẹ đều tin tưởng vào Ngài. Và, Ngài tin vào mỗi người, cũng như mọi người, bất kể người ấy thuộc phái/nhóm nào từ đàn chiên. Vì thế nên, nếu ta yêu thương/tự hào vào truyền thống của ta, thì đó là chuyện đương nhiên thôi. Nhưng, cũng nên nhận thức rằng: mọi việc đều có quá trình tạo từ truyền thống rất đa dạng, của ràn chiên.

Ngày nay, có điều gì đó đang diễn tiến đến với ta. Người người chừng như đang thay đổi tầm nhìn về “Đại kết”. Nói đến “đại kết”, ta thường tưởng tượng rằng: một ngày nào đó, các nhóm/phái “đã sai sót”, sẽ lại hồi hướng trở về với chiên ràn của chúng ta, tức ràn chiên duy nhất, rất đúng đắn. Và rồi, ta cứ thế giữ cao nhuệ khí và lập trường, rất đích thật. Đúng ra, ta nên biết là mọi sự không hẳn như thế. Và nhờ đó, ta học được tính khiêm hạ cần thiết, và biết Đạo mình cũng thu hẹp lại, nhỏ hơn trước. Và như thế, ta mới có cùng tầm nhìn và đánh giá mức độ quan trọng hoặc không quan yếu như phần đông các phái/nhóm “đối lập”, với ta.

Từ đó, ta nhận ra rằng: không chỉ trong quá khứ của riêng mình, mà cả cuộc sống hiện giờ, ta đã trở nên “một” trong mọi người. Ta bắt đầu hiểu ra rằng, ưu tiên cao nhất không phải là tranh giành để có mặt với “nhóm/phái” đạo giáo rất đúng đắn, chính tông. Mà là, sở hữu chỉ một Chúa Chiên Là, mà thôi. Để rồi kết quả, là: ta sẽ quan niệm lại vai trò được gọi làm Kitô hữu của chính ta, hôm nay.

Từ nay, ta nhận ra mình chỉ là nhóm Đạo thuộc thiểu số, rất bé nhỏ, có cuộc sống nội tâm quí báu, đã gây ảnh hưởng lên “thế giới mới” đang có quan niệm rất khác về Đạo của Chúa. Còn về những động thái rất tục phàm, đang vây quanh, thì ta cũng biết rằng Đạo mình không là câu giải đáp độc nhất cho lời nguyện cầu của mọi người. Mà, ta chỉ muốn cầu nguyện để mọi người tìm ra câu giải đáp thích đáng cho lời cầu trung thực của họ.

Thành ra, có thể là tương lai mai ngày của thánh hội ràn chiên sẽ không như ta tưởng, hoặc mong muốn. Có thể, ta cũng chẳng có được thời vàng son qua đó đường lối và cung cách hành xử mà Đạo Công giáo ta chủ trương, không khác là mấy lối sối sống thực thụ thời hậu Công đồng Triđentinô. Cũng có thể, là: ta sẽ học được qui cách khác hẳn mà trở thành chiên con hiền từ, cho dù ta không thuộc cùng một ràn với chiên ấy, như vẫn thấy. Và tin rất vui hôm nay, là: Vị Chủ Chăn vẫn không khác. Vẫn cứ là Chúa Chiên rất Lành, y như trước.

Và, nếu mỗi người chúng ta cứ để chiên con bám trụ bằng bốn chân, mà tìm cách sống biệt lập chẳng cần ai, thì sẽ thấy khó mà chăm sóc. Nhưng nếu ẵm bế chiên con bé nhỏ vào lòng cho êm ấm, ta sẽ thấy chiên trở lại yên ổn, rất an bình. Và, từ đó có được nhiều lông chiên, mà xén cạo. Chúa Chiên Lành Hiền Từ, cũng biết cách ẵm bế chiên con nào vẫn muốn chạy quanh đòi biệt lập. Biệt và lập, đến mức coi mình duy nhất chính tông, nguyên thuỷ, và ngoan hiền.

Trong tinh thần tự khiêm hạ, cũng nên ngâm tiếp lời thơ của nghệ sĩ còn để dở, mà rằng:

 

“Từ phương xa, Chúa ơi con tìm đến,

Rất đơn sơ, chỉ ước nguyện gặp Nàng.

Nhìn nụ cười, nhìn ánh mắt mênh mang,

mà yêu thương thêm muôn ngàn tha thiết.”

(Hoài Châu – Nguyện Cầu)

 

Bằng nguyện cầu, nhà thơ những muốn gặp nàng tiên của mình, để trao ban niềm yêu tha thiết. Nhưng, “nàng tiên” hôm nay, “chiên con” hiền lành, của đất trời ngoan hiền, đã ly biệt vì nhiều lẽ. Ly và biệt, vì đàn chiên nhỏ chỉ muốn sống biệt lập, rất cách ngăn. Ly và biệt, bởi chiên ràn vẫn mang nơi mình tinh thần khuynh loát, coi thường mọi chiên khác, nên khó tụ. Nhà thơ hay nhà Đạo, nay cũng nên xem lại mà qui tụ ràn mình về với Chúa Chiên rất Nhân Hiền, mà đại kết. Sẽ rất đẹp một kết cục, với mọi ràn chiên của Đức Kitô, luôn kêu gọi mọi người, ra như thế.

Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Năm Phục Sinh Năm A

 

“Lạy Chúa tôi, vầng trăng cao giá lắm,”

“xin ban ơn, bằng cách sáng thêm lên!”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

 



Ga 14: 1-12

Trăng cao giá, vẫn rất cần sáng thêm lên. Sáng thêm lên, để người người được soi tỏ mà hiểu rõ nỗi niềm huyền nhiệm Đức Chúa là Sự Sáng đích thực, rất hơn trăng.

Trình thuật hôm nay, thánh Gioan viết lên vần thơ/văn nói về “Vầng Trăng Giêsu, Đức-Chúa-của-Sự-Sáng Phục Sinh sáng láng, hơn sao trời. Sở dĩ thánh Gioan viết Tin Mừng theo cung cách rất khác biệt, vì thấy Tin Mừng Nhất Lãm đã diễn tả nhưng chưa làm nổi bật đủ đặc tính thánh thiêng rất Thiên Chúa của Đức Giêsu. Nói cách khác, theo thánh Gioan, Tin Mừng Nhầt Lãm ta đọc vẫn chưa hiện rõ đặc trưng cao giá sáng láng rất Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Với Tin Mừng thánh Gioan viết, Đức Giêsu là Đức Chúa rất “sáng thêm lên”, là bởi: nơi Ngài, vẫn đầy tràn Thánh Thần Chúa với sức sống Phục Sinh.

Qua Phục Sinh, Chúa trở về với Cha, để rồi Ngài sẽ gửi Thánh Thần Ngài đến thực hiện những gì Ngài vẫn làm cho ta, xưa nay. Thánh Thần Chúa, bên tiếng Hy Lạp gọi là “Paraclete”, Đấng Ủi An. Là, Ngôi Ba uy hùng dũng mạnh, luôn cận kề để thánh hoá, khích lệ và tạo nguồn hứng khởi cho mọi người. Paraclete, là Đấng Phù Trợ Ủi An -tác động như vị luật sư biện hộ cho ta ở trước toà- là Đấng luôn gần gũi ở cạnh bên hầu sáng soi mọi bị cáo. Ngài là vị Cố Vấn luôn trợ giúp trấn an những ai đau buồn sầu khổ, hoặc bối rối vì mất đi bạn bè/người thân, cần nhủ khuyên.

Thật ra, mọi Kitô-hữu ít nhiều đều đã trải nghiệm có Đức Kitô là Đức Chúa Hộ Phù rất Ủi An nơi Tiệc Thánh. Khi cử hành Tiệc Thánh, tất cả đều đã cảm nghiệm rằng Ngài đang thực sự ở với chính mình. Nhờ sự hiện diện hiệp thông của Ngài, người người được Thánh Thần Chúa sáng soi, ban ơn. Thật ra, khi lĩnh nhận Mình Máu Chúa vào lòng, mọi Kitô-hữu đều cảm nhận là chính Thánh Thần Ngài đến với họ.

Hãy liên tưởng trường hợp của chú bé lớp 1 nọ, tung tăng chạy về nhà những tưởng rằng ngày đầu đi học về, thế nào mẹ hiền cũng hân hoan đón tận cửa. Nào ngờ, vào nhà chào hỏi mãi, chẳng thấy mẹ ở đâu. Chẳng ai lên tiếng trả lời bé. Chẳng ai hiện có mặt ở nhà, để bé khoe nhiều điều. Rõ ràng, bé nhận ra là nhà mình nay vắng bóng, hết mọi người. Nhà của bé trống trải cách lạ thường. Trống đến độ, lẽ ra bé chẳng nên về nhà, cứ ở lại trường chắc vui hơn. Hãy tưởng tượng một trường hợp khác, bé ở trường về đã thấy mẹ ở nhà, nhưng mẹ hiền chỉ hỏi han đôi câu cho xong chuyện rồi còn làm việc khác. Đấy, cũng là trường hợp nhà của bé có mẹ hiền luôn hiện diện, nhưng chưa tạo được hiệp thông. Cảm kích.

Hãy tưởng tượng thêm tình huống khác, qua đó cho thấy bé em học ở trường về đã thấy mẹ đang chờ đón chạy ra đưa bé vào nhà. Và, mẹ hiền đã buông bỏ mọi thứ để ngồi xuống, ở với bé. Nghe bé kể chuyện trường, chuyện của bạn, khen bé ngoan hiền, học giỏi. Rồi lấy nước cho bé uống và cười vui với bé, rất khôn nguôi. Đó mới là hiện diện thật sự. Cứ thế, mẹ và con trao đổi với nhau về nhiều thứ. Về, những chuyện khiến cả hai thích thú, thấy rằng đời mình đã có hiệp thông. Trao đổi. Một hiệp thông linh thánh. Từ đó, ngày nào bé cũng thấy vui. Thấy đẹp trời. Đời bé quả là có ý nghĩa. Thế đó, là ân huệ từ Đức Chúa rất Ủi An đến với bé. Mẹ hiền của bé bỗng nhiên trở nên ân huệ của Thần Khí.

Là, dân con đi Đạo, tín hữu Đức Kitô cũng trải nghiệm tình thân thương đón nhận Thánh Thần Chúa Đấng Ủi An, giống như thế. Chí ít, cũng đã cảm nhận mình được Chúa ban Thần Khí của Ngài từ Đức Giêsu, khi lĩnh nhận Mình và Máu Chúa, qua hiệp thông. Lĩnh và nhận, như hiểu biết theo cung cách tự nhiên đầy năng-tính về những gì xảy ra giữa mình và Chúa. Những gì khiến mình thấy cuộc sống thật đáng sống.

Lĩnh nhận Thánh Thần Chúa Đấng Ủi An, còn có nghĩa như một thực thể đầy khích lệ. Như danh hoạ Van Gogh có lần đã diễn tả về một hiệp thông an ủi trên bản vẽ có bé em chập chững tập biết đi. Đi chưa vững, nên bé cứ lần chần, do dự. Chẳng dám bước mạnh, làm liều. Bước được vài bước, đã thấy cha mình ở không xa, đang mở rộng đôi tay chào đón bé vào lòng. Ảnh hình về tình thân thương của người cha trong tranh vẽ của Van Gogh khác gì tâm tình đầy Ủi An do Thánh Thần Chúa vẫn đón chào đàn con của Chúa.

Lm Gerard Manly Hopkins, một nhà thơ Dòng Tên người Anh, có lần cũng chia sẻ giải thích về Đấng Ủi An rất Paraclete trong thánh lễ. Ông san sẻ bằng ngôn từ thể thao rất “bóng chày cricket kiểu Anh, như sau:

 

“Thông thường nhiều người vẫn dịch cụm từ “Paraclete” thành Đấng Dỗ dành, ủi an, nhưng Paraclete đượm ý nghĩa còn hơn cả dỗ dành an ủi nữa. Cụm từ này xuất từ tiếng Hy Lạp. Bên tiếng Anh, chẳng có có ngữ từ nào thích hợp để dịch như thế. Cả bên tiếng La tinh cũng vậy, không từ ngữ nào mang một ý nghĩa tương tự. Dịch là Đấng Dỗ dành/nhủ khuyên, vẫn chưa đủ. “Paraclete” thật ra còn là người dỗ dành, mừng chúc, rất khích lệ. Ngài là Đấng chuyên thuyết phục, cổ võ, khuấy động và cũng thúc giục, gọi mời hết mọi người. Ngài còn như cú thúc mạnh vào hông ta để ra lệnh cho ta vượt về phía trước. Là, tiếng vỗ ra hiệu cho diễn giả bắt đầu hoặc kết thúc. Là, tiếng loa kèn xuất quân trổi giọng với quân binh. “Paraclete”, là tâm tình gửi đến với tâm linh quyết gọi mời người người đến. Là, động thái của Đấng nhủ khuyên ta nên sống tử tế. Là, nhận thức xảy đến với tâm tư của chính tôi, như một sẻ chia, đạt tới đích, hệt như vận động viên cầm cây chày gỗ trong môn “cricket” trước các thanh chắn ngăn bóng trúng đích điểm khiến người cầm chày/gậy đã bắt đầu chạy hai đầu để ghi số lần chạy, trong khi đó mấy người khác cứ đứng đực ra đó hòng đối phó bằng dáng vẻ nghi ngờ, vẫn kêu lên: Ráng lên, Ráng lên! Paraclete vẫn là như thế. Là, như ai đó vẫn chúc mừng tinh thần thể tháo có ra dấu, có kêu lên, người người trong trận đấu đều phấn chấn làm mọi chuyện quyết đạt tới đích, vẫn vừa chạy vừa la lớn: Ráng lên, Ráng lên, chạy phía này!”

 

Khi đón nhận Mình Máu Chúa, ta như người cầm chày/gậy cùng nhắm bóng với Đức Giêsu. Ngài ban cho ta Thần Khí rất đích thực để làm được việc cần làm và còn hơn nữa. Ngài làm sống lên nơi ta, bằng năng lực của chính Ngài.

Trước mắt, Phụng vụ Hội thánh sẽ mừng kính Chúa Thăng thiên về với Cha, vào tuần tới. Về với Cha, nhưng Ngài vẫn để lại nơi ta Thánh Thần của Ngài, làm Đấng Ủi An vỗ về, ở với ta.

Cũng nên nhớ, là Thánh Thần Chúa không thể đơn phương làm một mình. Ngài sẽ khích lệ ta làm như thế trong quan hệ với mỗi người. Ta đươc giao trọng trách phụ giúp Thánh Thần Ngài bằng cách trở nên một thứ Paraclete với mỗi người.

Đôi lúc, ta cũng nên tự hỏi, là: đời mình, đã có ai được kể là kẻ ủi an, vỗ về và tăng năng lượng cho mình, không? Trong cuộc đời, hỏi rằng: chính mình có từng ủi an vỗ về và tăng năng lượng cho ai khác? Bởi, đây mới là cuộc sống đích thực của tín hữu Đức Kitô. Đây, mới đích thực là hiện thực giới răng mới của Đức Chúa: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu anh em.”

Tìm cách vỗ về và ủi an nhau. Trao cho nhau Thần Khí Chúa và năng lượng của Đức Kitô, việc đó mới quan trọng. Dù, mình đang chơi bóng chày cricket với bất cứ ai, cũng đừng nên nói với họ tiếng “Không”, “Hãy ngưng lại”, hoặc “Chờ đấy!” Nhưng hãy bảo: “Ráng lên, Ráng lên! Cứ thế mà chạy vụt về phía trước, sẽ vui luôn.”

Trong tinh thần cổ võ lẫn nhau, cũng nên ngâm tiếp câu thơ còn bỏ dở của thi sĩ họ Hàn, rằng:

 

“Lạy Chúa tôi, vầng trăng cao giá lắm,

Xin ban ơn, bằng cách sáng thêm lên.

Ánh thêm lên, cho không gian rất đẫm,

Linh hồn thơ mát rợn với hương nguyền.”

(Hàn Mặc Tử - Vầng Trăng)

 

Vầng trăng kia. Ánh sao nọ. Vẫn cứ sáng thêm lên. Sáng, bằng năng lượng Thánh Thần Chúa Phục Sinh vẫn cứ an ủi. Vỗ về. Để, người người được Chúa khuyến khích, sẽ còn sáng mãi, suốt đời mình. Ở muôn nơi.




 Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật Thứ Sáu Phục Sinh Năm A

 

 

“Trông thấy ta, cả cõi đời kinh hãi”

“Dòng sông con, nép cạnh núi biên thuỳ”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

 

 

Ga 14: 15-21

Trông thấy ai, mà kinh hãi cả cõi đời? Đời cô đơn, thi sĩ nép cạnh núi biên thùy, tựa dòng sông. Vốn hy vọng, nhà Đạo chẳng kinh hãi với âu lo. Bởi, Thầy Chí Thánh đã uỷ lạo, tạo niềm tin, nơi mọi người.

Niềm tin, thánh Gioan diễn tả ở trình thuật hôm nay, là tình tự thân yêu Chúa dặn dò, trước ngày Ngài về với Cha. Tình tự Ngài để lại, là chúc thư cuối về sự sống còn của dân con đạo Chúa. Chúc thư tuy hơi lạ, nhưng là lời khuyên dân con tuân giữ mọi qui định Ngài từng phán quyết. Phán và quyết, một giới lệnh rất mới, nếu áp dụng triệt để, người người sẽ sống rất hạn phúc. Chúc thư Thầy để lại, còn là lời nhắn nhủ giản đơn Thầy cương quyết: “ Hãy yêu thương nhau”.

Hãy yêu thương nhau, là câu nói người người đều nghe biết. Nhưng thường thì, không phải tất cả mọi người đều hiểu rõ ý nghĩa Lời Ngài muốn căn dặn. Bởi, ý nghĩa ấy không chỉ bao gồm mỗi một việc, là: hãy đối xử tử tế với mọi người. Nhưng còn hơn thế nữa. Hơn, là bởi: có như thế người người mới thủ đắc nhiều điều lợi của xã hội.

Hãy yêu thương nhau, không chỉ thực hiện với nhóm/phái của mình, thôi. Bởi nhóm/phái, đoàn thể vẫn chỉ khép kín trong vòng khoanh bé nhỏ, của chính mình. Tuyệt nhiên không để lọt ra ngoài. Người ngoài cuộc luôn bị coi là người xa lạ. Muốn gia nhập nhóm/phái, tuyệt đối phải đăng ký/ghi danh, mới được vào. Vào được rồi, kể như mình đã nắm chắc là người đồng đội sẽ yêu thương giùm giúp rất tích cực. Kẻ ở ngoài, vẫn bị coi là người ngoại cuộc chuyên gây phiền toái.

Khi Chúa bảo: Hãy yêu thương nhau, là Ngài có ý khuyên: “hãy yêu thương hết mọi người. Không chỉ mỗi người cùng phe, cùng nhóm với mình, thôi. Mà, cả người những ở ngoài, như: đám Pharisêu, Ký sự, đám người La Mã, lẫn cả thượng tế, đám đông quần chúng, bất cứ ai. Yêu hết mọi người, là yêu toàn thể chúng sinh, nhân loại. Bởi thế nên, khi Ngài sai phái các thánh ra đi là để các thánh đi đến với mọi người, bằng sứ vụ mới. Sứ vụ, biến mọi người không còn là người dưng khách lạ, hoặc ngoại cuộc nữa.

Điều đó còn có nghĩa: Hội thánh, cho đến nay, vẫn chưa thực hiện đúng mức sứ vụ Chúa ban hành. Đôi khi chính mình còn đi ngược lời dạy cùng bảo ban của Chúa, nữa. Đi ngược, là bởi quá gắn chặt với tinh thần phe/nhóm của giáo hội riêng mình. Ví dụ cụ thể thấy rõ nơi Giáo Hội Công giáo Úc lâu nay vẫn thủ thế, suốt ba bốn thập niên qua. Vì thủ thế, nên Giáo hội ở đây chưa thực hiện đủ lời Chúa dạy bảo khi phải đối xử tử tế với những người mới tới từ các nơi. Chí ít, là những người ngoài Đạo. Vì thế nên, lời Chúa hôm nay đích thị gửi đến Hội thánh Công giáo nơi đây phải ra đi thực hiện lời khuyên “yêu thương hết mọi người”. Cả những người dưng khác Đạo, vừa mới tới.

Lễ Chúa Thăng Thiên ở Úc, thường được tổ chức rất trùng hợp với ngày “Nhớ Ơn Mẹ”. Tức, một ngày có lời khuyên, rất tương tự. Lời khuyên rất lành và rất thánh: “Hãy yêu thương” Mẹ thánh Giáo hội và cung kính Đức Maria, Mẹ Hiền của Thiên Chúa. Mẹ rất Hiền, vì Mẹ là mẹ đích thực, vẫn nối kết/duy trì mọi thành viên trong gia đình. Thôi thúc mọi người hãy đến với nhau trong yêu thương. Mẹ, là trung tâm của gia đình. Là, người luôn đem đến với gia đình, bầu khí yêu thương, liên kết. Yêu thương, để mọi người sẽ đến với nhau mà giùm giúp, đỡ đần. Trong mọi lúc.

Mẹ là Mẹ Thánh rất hiền, vì là Từ Mẫu của Chúa, Mẹ còn làm nhiều điều hơn thế. Mẹ hiền ở nhà cũng làm thế. Bà đem tình người mẹ trong gia đình đến với người ngoài cuộc, tức: những người cần tình thương hơn ai hết. Thấy ai cần tình thương, mẹ hiền ở nhà chẳng bao giờ bỏ qua, hoặc nề hà điều chi. Mẹ hiền ở đời, vẫn từ tâm với mọi người. Không chỉ người trong nhà mình, mà thôi.

Trái lại, mẹ hiền vẫn từ tốn, nhẫn nại và bươn chải không chỉ lo cho gia đình mình thôi, mà mẹ còn đến với người chòm xóm. Kẻ khốn khó, ốm đau ở đâu đó, tức những người cần tình thương. Nhiều khi, chỉ một ngụm trà ấm nóng. Có lúc, chỉ một đường chổi nhẹ để dọn dẹp tiếp đón người dưng khách lạ, cần đón tiếp. Rất thường tình, mẹ cũng đóng góp vài đồng giúp đỡ kẻ túng bấn. Những người nghèo khổ. Có khi, chỉ cần để mắt ngó chừng đàn trẻ xa quê, vắng bóng mẹ mình. Có thể nói, mẹ hiền ở nhà là người thực thi lời Chúa, rất yêu thương. Bởi, mẹ là người không chỉ biết thương yêu mỗi con mình thôi, mà cả người dưng khách lạ nữa.

Trên thực tế, phụ nữ là những người luôn quên mình đi, để có thể yêu thương giúp đỡ hết mọi người, bất kể ai.Các bà, là những người thường xuyên có mặt ở nhà thờ, vào mọi lễ. Các bà còn yêu thương hội thánh đến độ không ngại phê bình tính bè phái, rẽ chia của hội thánh mình, ở địa phương. Các bà vẫn muốn Hội thánh ra đi mà tỏ bày tình thương yêu với những ai cần đến Chúa. Đến, tình thương của Ngài. Các bà vẫn chứng tỏ cho hội thánh mình biết cách tuân phục lời Chúa dạy, hôm nay. Chứng tỏ, bằng gương thương yêu giúp đỡ. Tỏ bày, bằng cung cách nhẹ nhàng/thuỳ mị nhưng đạt hiệu quả hơn nam giới.

Trong lễ hôn phối, có lời cầu Chúa chúc phúc cho đôi tân hôn bằng những lời lẽ thiết thực dành cho các bà mẹ tương lại, rất ý nghĩa: “Lạy Cha là Thiên Chúa, Đấng gìn giữ anh/chị trong tình thương yêu tỏ bày cùng nhau để bình an của Đức Kitô sẽ ở mãi với anh/chị hiện diện ngay tại nơi ăn chốn ở của anh/chị. Xin cho con cái của anh/chị chúc phúc anh chị. Cho bạn bè ủi an anh/chị và mọi người sống yên vui hiền hoà với anh/chị. Xin Chúa cho cho anh chị luôn trở thành chứng nhân cho tình yêu của Ngài đến với thế gian, để những người buồn phiền nhận ra được anh/chị là những người bạn rất ngoan hiền, đại độ. Và tất cả sẽ đón chào anh/chị vào với niềm vui của Nước Trời.”

Tham dự Tiệc Lòng Mến hôm nay, cầu mong sao giới lệnh của Chúa sẽ là niềm chúc phúc gửi đến mọi người trong nhà, và hội thánh. Cầu và mong, cho toàn thể dân con Hội thánh biết noi gương các Bà Mẹ được vinh danh trong ngày “Nhớ Ơn Mẹ” năm nay, sẽ thực hiện chúc thư yêu thương với mỗi người. Và, mọi người. Trong/ngoài Hội thánh.

Trong tâm tình ấy, tưởng cũng nên ngâm tiếp lời thơ vương vấn một nhắc nhở:

“Ôi ngơ ngác, một lũ người vong bản,

Mất tinh thần, từ những thuở xa xôi!

Ta về đây, lạ hết các ngươi rồi,

Lạ tình cảm, lạ đời chung cách sống.”

(Đinh Hùng – Bài Ca Man Rợ)

 

Gọi đó là “Bài Ca Man Rợ”, phải chăng nhà thơ muốn ám chỉ cung cách của người từng nghe biết lời khuyên yêu thương, nhưng vẫn dửng dưng như kẻ mất gốc, rất vong bản? Mất, cả bản gốc yêu thương của người con. Mất, cả tình mặn nồng, chung sống nơi nhà của Chúa. Của chính mình.

 

 

 Suy Niệm Chúa Nhật Lễ Thăng Thiên Năm A

 

 

“Tất cả mùa xuân rộn rã đi”

“xa xôi người có nhớ thương gì?”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

 

 

Mt 28: 16-20

Thương hay nhớ, thì xuân kia cũng rộn rã, đã ra đi. Ra đi, nào có gì để thương nhớ? Nhớ và thương, Chúa Xuân vẫn liên tưởng đến đàn con còn ở lại, khi Ngài chuẩn bị để ra đi. Có chuẩn bị, nên Ngài vẫn dặn dò dân con đồ đệ hãy thương và nhớ Lời Ngài dặn, rồi sẽ vui tươi.

Trình thuật thánh Mátthêu nay ghi lại việc Chúa sửa soạn ra đi về cõi miên trường. Từ biệt dân con mọi người Ngài để lại một lời dặn rất tha thiết. Tha thiết dặn dò, bằng giới lệnh mới, với thương yêu. Nuông chiều. Nhiều thuyết phục. Ngài ra đi về cõi miên trường nơi có Chúa Cha, có cả Thần Khí vinh quang như lời Hội thánh, vẫn tuyên xưng.

Ngay chương đầu sách Công Vụ, Thánh Luca đã viết: Đức Giêsu được nâng nhấc lên chốn mây trời ngập tình Chúa. Về với Chúa Cha, Đức Giêsu biến khỏi tầm nhìn của các thánh ngày hôm ấy. Đó là sự thực, rất thật. Không có gì phải thắc mắc. Thế nhưng, ở chương cuối Tin Mừng cùng tác giả, thánh nhân lại bảo: Chúa về trời chiều Chủ nhật, Chúa Phục Sinh. Nơi thôn làng bé nhỏ, rất Bêtania. Nếu để qua một bên đặc thù không gian và thời gian thiếu tính chất sử học, thì người đọc sẽ hiểu tường tận hơn ý nghĩa của sự kiện “Thầy về với Cha”. Hiểu rất rõ: ý nghĩa, giá trị và những thách đố liên quan đến niềm tin, ngay sau giòng chảy của trình thuật.

Về không gian nơi chốn, người xưa thường hay liên tưởng đến 3 yếu tố: “lên”, là lên cao tít chốn thiên triều. “Xuống”, là đạt xuống tận cùng của ngục thất, chốn luyện hình. Và, “giữa chừng”, là ở giữa nơi đây, chốn địa cầu này, rất trái đất. Xem thế thì, Đức Chúa được nâng nhấc “lên” chốn cao sang tít mù ấy, là vì Ngài mới vừa “xuống” tận đáy chốn ngục hình, hôm Thứ Bẩy Tuần Thánh. Nên, hôm nay, người người lại không nghĩ như thế, khi xét suy về chốn vũ trụ bao la. Rất lạ.

Về thời gian diễn tiến sự kiện “Chúa thăng thiên/về Trời”, có người cũng thắc mắc tự hỏi: hôm ấy, Thứ Năm hay Thứ Bẩy? Hỏi thế, tức hiểu sự kiện Chúa về trời, chỉ theo chữ. Hỏi thế, tức thắc mắc không biết việc Chúa về trời có rơi vào 40 ngày sau Phục Sinh, không? Hay rớt đúng ngày Chúa Sống Lại? Hỏi và thắc mắc như thế, tức: là hiểu Lời Chúa rất từng chữ. Chỉ theo nghĩa đen thôi.

Cũng nên biết, thời Chúa sống, con số “40” mang ý nghĩa của thời gian tương đối khá dài ngày. Tựa hồ số “3” xưa nay được sử dụng để nói về thời gian tương đối cũng rất ngắn. So với hôm nay, nếu diễn đạt sự kiện lịch sử rày xảy đến, ta sẽ không suy nghĩ theo kiểu như thế.

Về những ảnh hình mô tả vị thế của Đức Chúa, người người sẽ còn thắc mắc hỏi thêm: có thực là Đức Chúa về trời, Ngài sẽ trị vì ngồi bên phải Chúa Cha, không? Một lần nữa, hỏi thế tức hiểu trình thuật, rất từng chữ. Chỉ theo nghĩa đen. Bởi, nếu thực tế hiểu đúng theo nghĩa này, thì người người sẽ kết luận: hẳn Chúa Cha sẽ luôn phải sử dụng tay trái nên chắc cũng mỏi lắm?! Bởi, Ngài cứ phải trao ban cho Con Một Ngài mọi bài sai, bằng tay trái, mất thôi!

Diễn tả sự việc bằng ảnh hình, tưởng cũng không nên diễn và tả Chúa về Trời theo cung cách của tàu vũ trụ rời bệ phóng tiến vào cõi không gian, xen đan với tinh tú. Ngài phải là “Đấng Siêu Nhân” chiến thắng thần chết, bằng Phục Sinh, nên Ngài đang ở trên một hành tinh nào đó, trên không gian, mà phải hiểu thăng thiên về trời đây, mang tính thiêng liêng, linh đạo. Sâu sắc.

Thăng Thiên về trời, có nghĩa là: Đức Chúa Phục Sinh nay rũ bỏ mọi ràng buộc về không gian, thời gian, về cả những cảnh huống rất thế trần. Để rồi, Ngài sẽ có mặt ở mọi nơi. Vào mọi lúc. Cả vào lúc khởi đầu một sự việc, giản đơn. Thăng thiên về trời, còn có nghĩa là: Ngài đang ở trong ta, và quanh ta. Ở, bất cứ nơi nào ta đi đến, Ngài cũng đến. Vào mọi lúc, Ngài luôn có mặt ở với ta. Cả khi xảy ra bất cứ việc gì, tốt hoặc xấu.

Vì thế, ta sẽ trải nghiệm được hiện hữu của Ngài ở bất cứ đâu. Bằng bất cứ đường lối/cung cách nào. Và đây là điều khác lạ nữa là: ở nơi Ngài trụ trì, sẽ chẳng có lãnh đạo toàn trị, như mặt đất. Cũng không còn giáo chủ, hồng y hoặc đấng nào chủ quản cả. Cũng chẳng còn mạng vi tính, để tính toán. Ngài sống trọn vẹn và trung thực đến độ ngay sự chết cũng không thể cướp đi được sự sống, khỏi nơi Ngài. Sự sống ấy, nay Ngài lại sẽ ban cho mọi người, rất tràn đầy và trọn vẹn.

Thăng thiên về trời, còn có nghĩa là: Chúa luôn chúc lành cho toàn thế giới nhân trần. Nơi đó có sự hiện hữu của hết mọi người, rất sống động. Đức Chúa không chỉ chúc lành cho Hội thánh của Ngài mà thôi. Và, cũng không một ai ràng buộc được Ngài vào với chỉ một Hội thánh, mà thôi. Và, Ngài cũng hiện diện không chỉ trong khuôn khổ nhỏ hẹp, của Nhà Tạm. Nhưng, ở khắp nơi. Cả trong ta. Cả, từng tế bào xuyên suốt của hiện hữu. Ngài không nề hà mọi tính chất nhỏ bé li ti để giáng hạ. Thăng thiên về trời, Ngài đến trở lại với ta mà hoá giải mọi khó khăn, bức bách. Để, đem về cho Cha mọi tình huống của ta, qua nguyện cầu, chúc tụng. Và, Ngài khai phóng Nước Trời để rồi sẽ đoái nhìn vào từng chi tiết nhỏ ở tình cảnh ta đang sống, với lòng yêu thương mến chuộng, và chúc phúc.

Nhờ việc Ngài làm, mỗi người và mọi người rồi sẽ nói: bản thân mình cũng cần thăng thiên về trời cùng Ngài để thăng tiến chính mình. Mình cần được nâng nhắc, hầu rũ bỏ những khốn cùng/tồi tệ với cảm giác xuống cấp. Thật thấp. Dù, ta có xuống tận đáy cùng của mọi ngục thất, rồi cũng lại được hướng thượng ngước cao hơn, ra khỏi tính chất hẹp hòi, nhỏ nhen mà thăng hoa. Hướng thượng. Hướng rất thượng, để rồi sẽ hiểu rằng: nỗi chết và những hạn chế của không gian và thời gian. Của, tình trạng kinh bang tế thế ở đời thường, sẽ không làm mọi người rời xa Đức Chúa, dù Ngài đã thăng thiên.

Thế đó, là ơn gọi của mỗi người, vào buổi Chúa thăng thiên về trời. Thế đó, là sự việc diễn ra ở núi thánh. Nơi, mà chính thánh sử từng ghi chép về hiến chương Nước Trời, về giới lệnh hãy cất bước ra đi mà thay hình đổi dạng, trọn thế giới. Nơi, có các thánh “cứ đứng đó nhìn trời”, buồn rã rượi.

Quả là, Đức Giêsu rất có lý khi Ngài tỏ bày: “Chỉ một thời gian nữa, anh em sẽ không còn thấy Thầy. Và một thời khắc nữa, anh em sẽ lại thấy Thầy.” Xem như thế, có lẽ cũng phải mất một thời gian nữa, ta mới “nghiệm” ra được những gì mà sự kiện Chúa thăng thiên về trời, tỏ bày cho ta hiểu. Cũng nên nghiệm ra được sự thật này, để mà sống. Để được thế, hãy cứ sử dụng thời gian dành để cho ta, như mong muốn. Chắc chắn Chúa sẽ chúc lành cho thời khắc mà ta chưa đạt được. Nhưng, Chúa vẫn sẽ ở trong ta, khi ta hiện thực vai trò đem Chúa đến với mọi người

Bằng vào bài sai Chúa ủy thác, nay là lúc ta hiên ngang dấn bước thực hiện bài sai ấy. Thực hiện điều mà Chân phước Gioan Phaolô II từng đặt tựa đề cho sách của ngài viết:“Hãy trỗi dậy mà ra đi!”, ngõ hầu khuyến khích con dân Hội thánh đang hiện thực, Lời Chúa dạy.

Cùng phấn kích với Hội thánh, cũng nên ngâm tiếp lời thơ còn bỏ dở, mà hát rằng:

“Tất cả mùa xuân rộn rã đi!

Xa xôi người có nhớ thương gì?

Sông xưa chảy mãi làm đôi ngả,

Ta biết xuân nhau, có một thì.”

(Nguyễn Bính – Cuối Tháng Ba)

 

Cùng với Xuân mùa, rộn rã đi. Người đi vội, kịp đến chùa/đền. Còn ta đây, vẫn nhớ người đôi ngả. Rộn rã biết “xuân nhau có một thì”. Thì, của nhớ và thương. Thân tình. Quyết thực hiện điều Thầy dặn rõ, mới hôm nào.

Suy Niệm Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống Năm A

“Cánh cửa ngang qua thế giới buồn”

“tống biệt hồng, sang tống biệt đen.

Em mang điệp khúc về đâu đó,

Ta tưởng chừng như giã biệt em.”

(dẫn từ thơ Nguyên Sa)

 

 

Ga 20: 19-23

Thế giới buồn, có phải vì tống biệt hồng/tống biệt đen, người em nơi cánh cửa? Điệp khúc vui, phải chăng em mang về từ đâu đó như giã biệt, từ Đức Chúa? Ngài giã biệt, nhưng thay vào đó, Ngài đã gửi Thần Khí Thánh đến với ta.

Trình thuật thánh Gioan, nay ghi lại cùng một tình tự có giã biệt, thân thương Ngài gửi đến với dân gian, thế giới buồn. Sau ngày Chúa chịu nạn trên thập giá, Ngài trỗi dậy từ cõi chết và thăng tiến về Trời, khiến đồ đệ dân con cứ phân vân không biết sự việc gì rồi sẽ xảy đến, ngay sau đó? Một số vị, quay về với nghề cũ, những thả lưới với buông câu. Có vị, nhớ mình từng gửi Chúa những câu hỏi, rất tương tự. Hỏi thì hỏi, nhưng vẫn chờ câu giải đáp khả dĩ xứng hợp với ưu tư của chính mình.

Thay vào đó, Thày bảo: về với thế-giới-mới, Thầy sẽ gửi Thần Khí đến mọi người, vào thời sau. Và lời Ngài, nay đã thành hiện thực. Rất hiện tại. Tương tự một tình huống trong đó có người thổ lộ: mình lo không biết có đạt chốn thiên đường được không đây? Nghe vậy, Thầy bèn trấn an dân con mình: đừng lo toan/thắc mắc. Bởi, thiên đường tự khắc đến với mình, cũng chóng thôi. Lời Thầy còn nhắn nhủ: đạt chốn thiên-đường thì ai cũng đạt! Ngài lại thêm: Thiên đường mà người người lo không đạt, chưa hẳn là kết cục của thế giới. Bởi, thế giới nay còn những chuyện lớn lao, quan trọng hơn.

Thiên đường mà người đời những mong tưởng, nay xuất hiện ở đây. Nơi này. Rất sớm. Điều quan trọng, là: dân con mọi người phải sẵn sàng kiên trì sống. Tức, chấp nhận qui cách sống đúng sứ mệnh Ngài trao ban. Dù biết Thiên đường là nơi đây. Chốn này. Thế mà, đồ đệ Chúa vẫn không hiểu điều Thầy tỏ lộ. Và, cả ta nữa, chừng như vẫn không hiểu hết điều Chúa tỏ bày cho ta. Cho mọi người.

Nên, Ngài phải nói thêm: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thần Khí, khi Người ngự xuống trên anh em.” (Cv 1: 8) Chính Thần Khí Chúa sẽ giúp mọi người trở nên giống Thầy, khi đạt thế-giới-mới. Lễ Ngũ Tuần. Thần Khí đến, người người sẽ dùng ảnh hình để nói lên những gì mình cảm nhận, từ Ngài.

Cảm nhận Thần Khí là đón nhận Luồng Gió Mới cực mạnh, nay thổi đến. Như, Lửa Ngọn dũng mãnh tạo sự sống. Như gà mẹ khống chế trạng huống hỗn độn quanh ổ, rồi mới đẻ. Tức, tạo môi trường thích hợp để sinh hạ sự sống mới. Thần Khi đến, là như: sói dữ ở bên chiên lành. Như, nguồn sống tạo yên hàn không bạo lực. Thần Khí đến, bảo đảm cho an bình, thịnh vượng. Cho, niềm thuỷ chung qua nhẫn cưới, ngày hứa hôn. Ngài là Thần Khí, Đấng giúp ta đi vào thế-giới-mới, rất sẵn sàng.

Xuất Hành về với Đất Hứa, dân con Do thái đều đã nhận được lời hứa hẹn đạt thế-giới-mới. Chốn thiên đường. Chốn Đất Lành miền Canaan, như vẫn gọi. Nhưng trước đó, họ cảm nghiệm một hành trình xuyên suốt, có cột mây che nắng ban ngày. Có, cột lửa soi sáng ban đêm. Và, họ cảm nhận kinh nghiệm có Chúa ở cùng. Chung sức sống.

Trong hành trình di rời thế giới cũ về với Thế-giới-mới, Chúa hứa ban không chỉ mỗi đất lành miền Canaan, nhưng toàn thế giới, vũ trụ. Vũ trụ ta, là thiên đường. Có trời đất giao hoà, đầy Thần Khí. Có, Năng Lượng Chúa cao cả, nạp cho ta. Cao cả, nhưng Ngài không là con đường rất chung chung, không thể đến. Ngài cho ta nếm trước hương vị của thiên-đường-thế-giới-mới, không phải mây trời. Cột lửa. Mà, Thần Khí. Chính Thần Khí ấp ủ thế-giới-mới, để nuôi ta. Đó, là sáng-thế nguyên-thủy. Là, Thần Khí đến với mọi người. Rất hôm nay.

Thần khí đến với ta. Với từng người. Ngài đến, theo cung cách thế-giới-mới-rất-thiên-đường, hình thể nhỏ. Của vũ trụ. Xem thế, tất cả chúng ta là dân con đã được dựng. Dân con của Thần Khí. Xem thế, thì: Thiên-đường-tràn-đầy-Thần-Khí đã đến với ta. Ở với ta. Ngài đi vào cuộc sống của chính ta. Và mọi sự nơi ta nữa.

Có thể, có người bảo: đó kìa, những người “sống vô gia cư chết vô địa táng”, đâu như thế. Hoặc tôi đây, cũng chẳng giống vậy. Có thể, có nhiều chuyện vô lý và bi thảm, vẫn xảy đến trên con đường, mình đang sống. Cả nơi khu vực phía sau nhà, nhiều chuyện xảy đến cũng khiến ta khó mà tin. Thánh Phaolô là vị thánh từng trải nhiều về chuyện này, khi thánh nhân bảo: ta là “đền thờ của Thần Khí”, ngay khi thánh nhân còn đanjg rao giảng ở Côrinthô, kinh đô đồi truỵ của Hy Lạp. Là, vùng cấm địa của Achaia có đền Aphrodite, đền thờ nữ-thần nhục-dục, đầy thác loạn. Nhưng, thánh nhân vẫn nhận biết điều ấy, cũng rất thật.

Suy niệm sự kiện Chúa Về Trời, ta nghĩ ngay đến “thiên-đường”, không theo nghĩa bầu trời, nhưng theo nghĩa thế-giới-mới, Chúa tạo dựng. Và, Đức Chúa cũng từ thế giới này, đến với ta. Ngài tập họp mọi người vào với thế-giới ấy. Ngài gửi Thần Khí đến với ta như dấu ấn mới, rất an bình. Tuyệt mỹ.

Nhưng, làm sao biết được điều ấy sẽ xảy đến? Lấy gì làm bằng để thấy được là: Thần Khí sống với ta? Và, đâu là bằng chứng Ngài ban trước thiên-đường-thế-giới-mới ấy? Xin thưa: bằng chứng, nằm ở cuộc sống rất đẹp, của mọi người. Ở, mối ưu tư/quan ngại về công lý và an bình, khi vẫn còn nhiều người đang bị chèn ép. Áp bức. Ngay chính ta, cũng đã trải nghiệm nhiều nét đẹp của sự sống. Nhưng nhiều lúc, ta và Hội thánh lại quên mất cung cách phải có, để giáp mặt với sự-sống-rất-đẹp. Để rồi, đôi lúc biến nó thành vật vô giá trị. Và, lẩn tránh tất cả những gì là Chân-Thiện-Mỹ, ở đời. Thay vào đó, ta chỉ thích mỗi cung cách hành đạo cứng ngắc. Vụ hình thức. Rất ngán ngẫm.

Thực tế ở đời, nhiều vị vẫn còn đang làm công việc tuyệt vời, trong đời. Ví dụ ư? Đấy kìa, những vị đang làm rất nhiều điều kỳ diệu, mà ít ai chịu làm. Đích thị là, Thần Khí đang làm những điều kỳ diệu rất “thiên-đường”, nơi người ấy. Chắc chắn rằng, Thần Khí Tuyệt Mỹ cùng hiện diện, ở nơi họ.

Ưu tư/quan ngại về công lý và bình an, còn thấy nơi nhiều người. Đó cũng là mối quan tâm lo lắng cho số phận của người nghèo. Để rồi, hẹn sẽ tìm cách thực hiện cho bằng được sự bình an, rất công lý. Ví dụ ư? Đừng nên tìm ví dụ nơi thể chế chính trị. Xã hội. Của loài người. Bởi lẽ, không chỉ mỗi các nhà từ thiện mới có khả năng thực hiện được công việc tuyệt mỹ/tuyệt diệu ấy. Phải nói rằng, chính Thần Khí đang thực hiện công lý và bình an nơi con người. Và, môi trường. Khi đó, Thần Khí Công Lý và An Bình, sẽ còn hiện diện mãi, nơi họ. Với họ.

Chắc chắn, Công Lý và Sự Tuyệt Mỹ/Tuyệt Diệu đang kết-thân-làm-một để bừng nở như bông hoa mới chớm ở thế-giới-mới. Với ta. Đó, là khởi đầu của sự kiện đất-trời-hoà-hợp do Thần Khí ban cho ta. Đang diễn ra.

Lâu nay, nhà Đạo mình nói nhiều đến Thần Khí Chúa ở cùng Hội thánh. Nay, có lẽ nên thêm: Thần Khí Chúa đang ở với và ở cùng ta. Và, thế giới. Cầu mong sao, Ngài ở với và ở trong Hội thánh ta nữa. Bởi, Hội thánh là chốn thánh thiếng từ đó ta thấy được mọi sự đang diễn tiến, đến với ta. Cùng lúc.

Với tinh thần lạc quan sẵn có, ta sẽ ngâm vang lời thơ buồn, nhưng hy vọng của nghệ sĩ:

“Chết một ngàn năm chắc phải sầu,

Nhưng này thương nhớ lúc xa nhau.

Mịt mù nhân thế trôi biền biệt,

Giữa vị sầu nghe có vị đau.”

(Nguyên Sa – A Tỳ)

 

Bằng vào lời thơ, thi nhân thấy “có vị đau”, giữa vị sầu. Về với thiên-đường, người người đều cảm nhận Thần Khí, rất mỹ quan. Mỹ quan thiên đường Ngài trao ban, sẽ cùng với mọi người sống cuộc đời đẹp. Rất đáng sống. Với mọi người.

Suy Niệm Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngội Năm A

 

“Gió lùa ánh sáng vô trong bãi”

Trăng ngậm đầy sông, chảy láng lai.

Buồm trắng phất-phơ như cuống lá,

Lòng tôi bát ngát rộng bằng hai.”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

 

 

Ga 3: 16-18

Lòng nhà thơ, mới chỉ ngát rộng bằng những hai thôi, mà đã có gió lùa ánh sáng, vô trong bãi. Có trăng ngậm đầy sông, chảy láng lai. Có buồm trắng phất phơ như cuống lá. Tình nhà Đạo, cũng rộng ngát cả triệu lần, là vì Thần Khí sáng soi để dân con cảm nghiệm được nhiệm tích Ba Ngôi rất thánh của Đức Chúa.

Hội lễ hôm nay, dân con nhà Đạo hân hoan mừng Chúa Ba Ngôi, rất long trọng. Toàn thế giới, hiện có tới ba tôn giáo cùng thờ một Đức Chúa, là: đạo Do thái, Đạo Chúa Kitô và đạo Hồi. Cả ba đạo này đều thờ chỉ một Chúa. Nhưng, chỉ Đạo Chúa Kitô tin xác tín rằng Ngài có Ba Ngôi. Bằng vào xác tín này, mọi nghi thức phụng vụ của Hội thánh đều có lời tuyên xưng nguyện cầu lên Ba Ngôi: Đức Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Cả Ba Đấng đều cùng một Chúa, và thực tế: phụng vụ Hội thánh được thiết lập là dựa lên niềm tin vào Chúa Ba Ngôi, như: lễ Giáng Sinh, phụng vụ nhấn mạnh đến công cuộc tạo dựng. Lễ Phục Sinh, lại đề cập về ơn cứu độ. Và, lễ Ngũ Tuần, phụng vụ tập trung vào chủ đề thánh hoá con dân. Lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, phụng vụ tóm kết ý nghĩa thần học trọn cả năm.

Nhưng, vấn đề là: Hội thánh tóm kết như thế để làm gì? Phải chăng chỉ mỗi Chúa Cha, mới đích thực là Thiên Chúa? Còn, Đức Giêsu, Đấng xuống thế cứu chuộc loài người, có là Thiên Chúa, không? Ý niệm về Chúa Thánh Thần đã diễn tả đủ đặc trưng của Thiên Chúa, chưa? Và, có phải cả Ba Đấng tuy là ba “Ngôi Vị” nhưng chỉ một Thiên Chúa thôi, không? Tại sao các đấng bậc lại cứ hay sử dụng các hình ảnh phàm trần đầy tưởng tượng như ảnh tượng: Cụ Già tóc bạc phải là Chúa Cha, Đấng thanh niên trẻ khoẻ bị chết treo trên thập giá, là Chúa Con? Và, hình tượng chim câu bay lượn trên không là Chúa Thánh Thần. Diễn tả như thế, có xứng hợp với niềm tin ta vẫn có, chăng?

Năm 325, bằng vào Công Đồng Nicea – Iznik họp ở Thổ Nhĩ Kỳ, Hội thánh đã chính thức tuyên xưng để con dân mình tin Đức Giêsu Kitô đích thực là Thiên Chúa. Và năm 381, Công Đồng nhóm họp tại Constantinople –tức Istanbul bây giờ- đã chính thức tuyên xưng niềm tin vào tính Thiên Chúa của Thánh Thần Ngài. Đó cũng là lúc mà tín điều Chúa Ba Ngôi đã thật sự thành hiện thực. Nói cách khác, ở các thế kỷ đầu đời của Giáo hội, tín điều Chúa Ba Ngôi mới được công bố cách rõ ràng và minh nhiên. Tức, để làm việc này, Hội thánh vẫn cần thời gian để ta suy tư về thiên tính của Đức Giêsu và xác chứng việc Ngài đã làm, đến bây giờ.

Phải đến thế kỷ thứ 9, Hội thánh mới có quyết định yêu cầu dân con Đạo mình mừng kính Chúa Ba Ngôi. Và mãi đến thế kỷ thứ 14, thì việc mừng kính lễ này mới công khai trải rộng khắp hoàn cầu. Muốn hiểu tại sao lại thế, có lẽ cũng nên phân định xem khái niệm về “Ngôi thứ” có nghĩa gì? “Ngôi thứ” ở đây, không là bản thể tách rời, biệt lập chỉ chuyên thực thi mỗi vai trò của mình, thôi. Nếu chỉ có khái niệm về ngôi thứ mà thôi, ta chẳng thể nào nói rõ hơn về Ba Ngôi của Thiên Chúa, mà chỉ nói về 3 vị thần, tuyệt nhiên không Thiên Chúa, rất Ba Ngôi. “Ngôi thứ” mà Hội thánh muốn minh xác, chính là bản thể có quan hệ hiệp thông với các Ngôi kia. Và, đây đích thực là khái niệm lớp lang/qui củ về “ngôi thứ”, cho nên ta phải khởi sự kiến tạo ý nghĩa cho khái niệm ấy.

Xem như thế, Ba Ngôi gồm các ngôi thứ có quan hệ mật thiết với nhau bằng hiệp thông chính đáng. Vì có Ngôi thứ có quan hệ với nhau, nên Ba Ngôi cùng hiện hữu. Không tách rời nhau bao giờ. Tức, Ba Ngôi luôn hiện diện trong tương quan không thể xa cách. Và, sự hiện hữu của Ba Ngôi là hiện hữu của “vũ điệu” tươi vui cùng với các Ngôi kia, luôn luôn hiện diện trong nhau mà không tách rời, biệt lập. Và như thế, nơi Thiên Chúa luôn có sự hiệp thông miên trường giữa các Ngôi. Hiệp thông, là có quan hệ toàn hảo. Trọn vẹn.

Là con người, nhiều lúc ta vẫn muốn sử dụng hình tượng để dễ hiểu. Một trong các hình tượng có lẽ tượng hình hơn cả, là so sánh với hôn nhân, hoặc gia đình. Thế nhưng, so sánh và diễn tả như thế vẫn có khó khăn và nguy hiểm là người người hay liên tưởng đến hệ thống chính trị, xã hội, nên đương nhiên là các hệ thống như thế không tránh khỏi một số tình huống có những chuyện gia đình, nội bộ mà ta sống không thể nào xứng hợp với sự thể về Chúa Ba Ngôi luôn hiệp thông mật thiết. Tốt đẹp. Vĩnh cửu.

Đôi lúc các giải thích và so sánh có khi còn phản tác dụng nữa, là khác. Phản tác dụng, tức nghịch chống lại ý nghĩa mà chính người giải thích muốn nói về nhiệm tích Ba Ngôi Chúa là chỉ một Chúa những Ba Ngôi, nhưng không nói được bằng lời và lẽ được. Đằng khác, diễn tả bằng hình tượng không cho thấy mối quan hệ rất hỗ tương. Miên trường. Cũng chẳng tỏ cho thấy sự hiệp thông đích đáng giữa các Ngôi của Thiên Chúa. Có khi còn dẫn đến động thái độc thoại và/hoặc không chế, cãi tranh, tủi hổ.

Niềm tin vào Chúa Ba Ngôi là như ánh sáng chói chang soi rọi bóng tối đang bao trùm thế giới. Và chính đầu óc của thế giới còn tối tăm nên không thể giúp người người lặn ngụp trong đó có thể hiểu được bản chất rất Ba Ngôi được. Chính vì lý do này, ta chỉ có thể nhìn vào bên trong nội tâm của bản thể mình mới hy vọng có được một vài tia soi sáng về bản tính rất Ba Ngôi. Bởi, khi ta suy nghĩ và thương yêu, thì những gì đang xảy ra bên trong con người của ta mới phản ánh và phản ảnh điều xảy đến với Ba Ngôi Đức Chúa.

Ngôi Hai là Chúa Con được gọi là Ngôi Lời của Chúa, tức Tư Tưởng Chúa. Còn, Ngôi Ba ở Ba Ngôi là Thánh Thần được gọi là Tình Yêu Chúa hoặc chính Hơi Thở của Ngài. Bên trong mỗi người chúng ta, tư tưởng sâu lắng hoặc xác tín đậm sâu nhất là điều rất gần cận để bảo cho biết ta là ai, và chính điều ấy làm ta trở nên chính ta. Tức, cho biết ta là ai. Ta không thể là chính mình nếu không có nó. Lời đậm sâu bên trong Đức Chúa vẫn có với Chúa, trong Chúa. Và, là chính Chúa. Thiên Chúa sẽ không là Chúa, nếu không có Lời.

Bên trong của ta, tình thương yêu đậm sâu nhất giải nghĩa chính tư cách của ta. Cho ta bản chất của chính mình. Và như thế, đó là đặc thù “bản vị” của ta. Ta không thể là mình được, nếu không mang đặc thù ấy. Cũng như vậy, Tình yêu đâm sâu bên trong của Đức Chúa đích thực là Thánh Thần là Chúa trở thành bản chất của Đức Chúa rất thương yêu. Thiên Chúa sẽ chẳng là Chúa nếu không có Thánh Thần Tình Yêu ấy.

Ở nơi Thiên Chúa, có bao nhiêu Ngôi thứ? Thường thì, ta bảo là có tất cả là “3”. Nhưng, theo thiển nghĩ, con số ấy sẽ nhiều hơn “3”. Thiên Chúa đã gửi Lời Ngài và Thánh Thần Tình Yêu của Ngài đến với ta. Sống trong ta. Để ta sống và hiện hữu, ở nơi Chúa. Và, cả ta nữa, vẫn cùng sống với Chúa Cha, Chúa Con và Thánh Thần Chúa, là Ba Ngôi thứ. Ba Ngôi không chỉ là các Ngôi rất thánh, ở trong Chúa. Mà, Ba Ngôi ở trong ta và ta ở trong cả Ba Ngôi nữa. Ta lại đã trở thành các “Ngôi thứ” bằng vào việc sống ở trong Ngài. Ta sống với các Ngôi thứ thánh thiêng, trong Chúa.

Đặc biệt trong hiệp thông rất thánh thiêng, nguyện cầu tư riêng của chính mình, mà ta được mời gọi để trải nghiệm nhiệm tích này. Bởi thế nên, Lễ rất thánh hôm nay cũng là hội lễ của hiệp thông rất thánh, nơi ta. Và cũng là tất cả thời khắc ta nguyện cầu, rất tư riêng. Sự hiện diện thường xuyên còn gọi là “cắm lều” của Chúa Ba Ngôi ở trong ta, còn có ý nghĩa là ta hạnh phúc. Phúc đây, là phúc và hạnh mà Ba Ngôi rất thánh thiêng đang vui hưởng.

Tác giả Meister Eckhart từng viết lên cảm nhận đặc biệt, nói rằng: “Khi Thiên Chúa cười vào linh hồn và linh hồn cười lại vào với Thiên Chúa, các Ngôi ở nơi Chúa đã được hạ sinh. Nói theo cách cường điệu, thì khi Chúa Cha cười với Chúa Con và Chúa Con cười lại với Chúa Cha, thì nụ cười đã tạo vui thích. Vui thích tạo hỷ hoan. Hoan hỷ tạo Thương Yêu. Yêu Thương tạo Ngôi thứ Ba Ngôi Chúa, có Thánh Thần Chúa vẫn là Một.”

Qua thông hiểu những điều vừa suy tưởng, cũng nên ngâm thêm lời thơ còn dang dở, rằng:

 

“Chao ôi! Ghê quá trong tư tưởng,

Một vũng cô liêu cũ vạn đời!

Chao ôi ghê quá! Chao ôi ghê quá!

Cảm thấy hồn tôi, ớn lạnh rồi!”

(Hàn Mặc Tử - Cô Liêu)

 

Nhà thơ đời, kêu như thế. Vẫn kêu thế. Kêu “gớm ghê” vì đời mình cô liêu. Trăm chiều. Rất “ghê quá”. Thi sĩ Đạo, suy tưởng nhiều nên đâu thấy gì là “ghê quá”. Chỉ biết hiệp thông rồi sẽ thương yêu. Yêu chiều. Rất trăm bề. Như Tình Chúa Ba Ngôi rất yêu dân con Chúa như tình yêu của Chúa Ba Ngôi ta vẫn tin và vẫn yêu, nhiều thời buổi. Của đời người. Cũng rất người.

Suy Niệm Chúa Nhật Lễ Mình Máu Chúa Năm A

 

“Linh hồn em vội vã, vẽ chân dung”

“bay vội vã, vào trong hồn mở cửa.”

(dẫn từ thơ Nguyên Sa)

 

 

Ga 6: 51-58

Vội hay không, thì anh và em nào vẽ được những chân dung. Của hồn mình. Chí ít, là khi vẽ xong, em cũng vội bay vào trong hồn mở cửa. Phải chăng, đó là tâm trạng của người đời? Còn nhà Đạo, nay vẽ gì khi mừng kính Mình Máu Chúa, rất Kitô?

Trình thuật hôm nay thánh Gioan cũng có ghi nhưng không vẽ. Thánh nhân ghi, là ghi về Thánh Thể, để kể về cuộc đời Chúa. Có tình yêu. Sự sống. Rất văn chương.

Cứ sự thường, người người bảo: ở văn chương thi tứ, bốn thể loại thấy rất rõ để diễn tả đời người và người đời, là: kịch tính, mỉa mai, hài hước, lãng mạn. Tình tiết này, ăn khớp với bốn mùa: thu, đông, xuân, hạ, rất nghe quen. Xét về kịch tính của cuộc đời, người người sẽ thấy thời khắc/tháng năm luôn thăng trầm, khó lẩn tránh. Chỉ có tình yêu, mới kiên định được nổi khó khăn, cần hy sinh. Tính mai mỉa ở người đời, ai cũng thấy mặt ngoài có vẻ dễ chịu, nhưng bản chất thật khó chịu. Trường hợp này, tình yêu là những ngày dài đầy khổ đau. Nhưng, với các vị tử đạo dù bị bức bách, vẫn không chịu đầu hàng.

Tính hài hước của cuộc đời, người người kỳ vọng sẽ thấy ngạc nhiên xảy đến, dù rất khó. Nhưng khi đó, tình yêu sẽ là những tháng ngày hoà lẫn giữa thích thú và chán buồn. Chỉ mong có được kết hậu, để vui hơn. Tính lãng mạn của cuộc đời, người người sẽ quên mất thực tại, chỉ giữ lại những mộng mơ, vào ngày cuối. Và khi ấy, tình yêu là thế giới tư riêng, không như ý. Xem như thế, đời người vẫn trải nghiệm những phấn đấu, xúc cảm, rồi buồn bã, và thức tỉnh.

Xét văn chương, ta thường bảo mọi chuyện đời đều chất chứa tính “cổ điển”. Và, một trong các đặc trưng của “cổ điển”, là sự chan hoà giữa kịch tính, mỉa mai, hài hước và lãng mạn. Từ đó, người người sẽ hiểu: đời mình là sự hoà tan rất nhiều thứ, cũng giống như tình yêu vốn đượm nhiều sắc thái nên vẫn khiến người từng trải rày sẽ bảo: đời là thế. Nào có khác tình yêu đâu! Đến đây, ta sẽ bảo: chuyện tình đời gia đình mình cũng mang tính cách cổ điển, hệt như thế.

Phúc âm ta đọc từ mùa Phục Sinh cho đến Lễ Ngũ Tuần, cũng đều mang tính cách “cổ điển”, như cuộc đời. Tức, cũng hoà trộn một cách nhuần nhuyễn giữa kịch tính, mỉa mai, hài hước và lãng mạn. Chương 11-12 Tin Mừng thánh Gioan là một ví dụ cụ thể về kịch tính, từ cái chết của Ladarô, đến các phản ứng Đức Kitô cho đến sự việc Ngài lên đường đi Giêrusalem, cũng thế. Chương 5-10, là thể loại trào phúng, rất mai mỉa. Trong đó, thánh sử ghi rõ Chúa là Vị Thẩm Phán rất đích thực. Ngài là Bánh Hằng Sống. Là Nước. Là, Ánh Sáng. Là, Đấng Chữa Lành và là Vị Mục Tử Chân Chính, rất đích thực. Chương 2, hiện rõ văn phong lãng mạn. Trữ tình. Có, thánh Gioan Tẩy Giả nói đến niềm vui của lang quân. Có truyện Đức Giêsu đối thoại với nữ phụ người Samari. Nói tóm lại, với Tin Mừng thánh Gioan, cuộc đời Chúa là sự chan hoà giữa bản chất đích thực của tình yêu và sự sống.

Cách đây ít năm, ở Úc, có trình chiếu bộ phim mang tên “Người vẫn cứ đi”. Phim, do tác giả người Nhật từng viết “Chẳng ai biết rõ” nay xây dựng trên kịch bản làm nền cho phim, để bàn về quan hệ của các thành viên trong gia đình. Trước nhất, là nhân vật chính thủ vai mẹ già rất truyền thống sống trong nhà. Cụ Bà luôn chuẩn bị của ăn thức uống, phụ giúp con gái ruột của mình, tức nhân vật thứ hai trong cốt truyện. Ở đoạn khác trong phim, lại có thêm nhân vật thứ ba, là gia chủ đang năn nỉ vợ (tức nhân vật thứ tư) nên về xin lỗi mẹ già, để rồi cùng hẹn sẽ đến thăm cụ dù chỉ trong thoáng chốc. Trên đường về, ông mải bận tâm lo lắng về chuyện họp mặt gia đình để bắt vợ mình phải đeo mang quà cáp, đồ đạc cũng rất nặng. Và rồi, cả hai cũng gặp mẹ. Hôm đó, có mặt cả người cha (tức nhân vật thứ 5), một bác sĩ về hưu, tai hơi lãng.

Nhân vật thứ sáu là người chị cả, cũng đã đến. Đi theo sau, là ông anh rể vui tính (nhân vật thứ 7) cùng với hai con. Thoạt xem phim, khán giả thấy đó như cuộc liên hoan đoàn tụ, của gia đình. Nhưng vẫn thiếu một thành viên nữa, tức nhân vật số 8, là người anh lớn đã tử nạn, cách đó đến 15 năm. Và, mẹ già hôm ấy lại vẫn muốn mời một người trong làng mà cụ cho là thủ phạm lỡ gây ra cái chết của con cụ (nhân vật số 9). Cụ nghĩ thế, nên anh ấy cũng chẳng thể nào quên được chuyện đau buồn từng xảy ra. Và cuối cùng, người con út còn nhỏ tuổi cũng đã đến. Tổng cộng, là 10 người. Mỗi người mỗi vẻ, làm nên tính chất rất đặc thù của đời người.

Chuyện đời người nói ở đây, cũng “bình thường”. Nhưng, khá phức tạp và tế nhị. Tế nhị nhất, là đoạn nói về năm tháng vẫn trôi qua, không ngần ngại. Do dự. Có im lặng là vàng. Có một chút đắng cay. Một chút hy vọng sẽ không bị kềm toả, bởi vật chất. Có cảm xúc rất bất chợt. Có người vắng mặt. Cũng có tình yêu tuy biểu lộ không nhiều. Có, niềm vui chung tuy gượng ép. Nhưng, tất cả đều đã chói sáng bằng lớp vỏ bọc ngoài. Và, sáng hơn cả vỏ bọc nữa. Đó chính để tỏ lòng hiếu đễ với bậc tổ tiên. Cao niên.

Bối cảnh của phim trông tựa như khu vườn còn khép kín. Có, cửa đóng then cài. Có, cuộc sống nghịch thường. Có, đủ mọi tình tự lẫn đặc thù tưởng chừng như giả vờ làm thân cho đẹp lòng người mẹ rất cao niên. Nhưng bên dưới lớp vỏ bọc lịch sự/lễ phép ở bên ngoài, vẫn là những tâm tính chua cay. Hận thù. Khuất tất.

Nhân vật chính, là cụ bà cao niên ra như vẫn hằn in tâm trạng độc đoán. Cứng ngắc. Bởi, thực tế cuộc đời, là người ai mà chẳng độc đoán. Khó tính khó nết. Cái tính rất khó của cụ bà trong phim, là sự độc đoán/khó chịu ngày một gia tăng. Và, vẫn cứ bộc phát vào ngày con cháu tụ họp hằng năm, Để đến nỗi, người con út vốn tính thẳng thắn, bộc trực vẫn không chịu tham dự.

Tất cả mọi nhân vật trong phim đều như đang đối đầu với một chuyện. Đó là, sự thiếu vắng. Như hồn ma cứ ám ảnh người nhà. Tức, mọi người vẫn cứ phải sống mà không được phép lựa chọn hoặc trắng hoặc đen, chỉ một mầu. Hoặc ngọt ngào hoặc cay đắng, một cuộc đời.

Tuy nhiên, tựa đề của phim truyện vẫn còn ghi dấu “Người vẫn cứ đi”. Đi mãi không ngừng. Phải chăng là đi về với hòa giải. Hoà hợp. Chừng như có thứ gì đó không thể lẩn tránh. Thứ gì đó, rất bi ai.

Hôm nay, Hội thánh mừng kính Lễ Mình Máu Chúa Kitô, rất Thánh Thể. Lễ hội này, các gia đình đều đến nhà thờ để tham dự, và rước Mình Thánh Chúa. Cuộc sống hài hoà của các thành viên Hội thánh hoà lẫn với sự sống tràn đầy của Đức Kitô. Cuộc sống Ngài nuôi dưỡng thành viên, như gia đình. Có thăng, có trầm. Có hy vọng, có hạn chế. Nhưng Ngài vẫn trao ban quà tặng như mọi người trông ngóng trong quá khứ. Và, tương lai. Có, thứ gì đó đánh động mọi người, từ bên ngoài. Chính đó là ơn huệ. Để, ta cảm tạ.

Đón rước Mình Thánh Chúa vào buổi Tiệc Thánh Thể cũng là một chữa lành. Trên thế gian, không phải gia đình nào cũng rách nát như phim truyện. Nhưng, mỗi người vẫn duy trì những bí ẩn của đời mình, không thể hàn gắn. Không thể chữa lành. Thế nên, hôm nay, mọi thành viên Hội thánh cùng với gia đình khác mình không quen cũng đến dự Tiệc Thánh để được chữa lành, từ Thánh Thể. Thánh Thể, chuyển biến tất cả thành người phàm có quan hệ mật thiết, với nhau. Có, hạnh phúc từ những phúc hạnh mà chính mình không tạo được cho mình. Hoặc, cho người nhà mình.

Tất cả đều trở về nhà mình và “vẫn cứ đi”, nhưng không biết. Biết rằng, chính mình là thành phần của Thân Mình rất Thánh, Đức Kitô.

Trong hân hoan cảm nhận, cũng nên về với lời thơ còn để ngỏ, ở bên trên, mà ngâm rằng:

“Gặp một bữa, anh đã mừng một bữa.

Gặp hai hôm, thành nhị hỷ của tâm hồn.

Thơ học trò, anh chất lại thành non,

và đôi mắt ngất ngây thành chất rượu.”

(Nguyên Sa – Áo Lụa Hà Đông)

 

Chất rượu nơi “đôi mắt ngất ngây”, vẫn là thần linh của Thân Mình rất Thánh, nay mừng Chúa. Vẫn mong rằng, chất rượu ấy sẽ luôn thành “nhị hỷ” của tâm hồn người anh, người chị trong Hội thánh. Hôm nay. Và mãi mãi.

 

Suy Niệm Chúa Nhật Thứ 14 Thường Niên Năm A

“Sông Ngân đã im lìm không tiếng sóng,”

“mà lòng anh rào rạt mãi không thôi.”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

 

 

Mt 11: 25-30

Tiếng sóng đây, nào thấy phát từ sông Ngân, vẫn im lìm! Lòng anh đó, rạt rào mãi không thôi, cũng là nhờ tình Chúa đến với ta, như làn sóng!

Trình thuật thánh Mát-thêu nay cũng rạt rào, như sóng vỡ ào. Vỡ ào ào, không chỉ là “tiếng sóng” của mỗi Sông Ngân. Mà, còn là giòng chảy Tân Ước có thánh Mátthêu diễn đạt lịch sử, trọng tâm đặt nặng vào cuộc đời Chúa làm người, mang thân phận con người, rất Do thái.

Là đệ nhất thánh sử viết Tin Mừng rất lớp lang, thánh Mátthêu đã đánh bật điều mình tập trung viết ở 5 bài giảng thuyết -hay chương đoạn- về đời sống cộng đoàn rất Kitô, trong đó có: 1. Giá trị đạo đức. 2. Sứ vụ công khai. 3. Chiều sâu chiêm niệm. 4. Hiến chương tương quan. 5. Nguyện vọng tối hậu.

Chương/đoạn đây, tựa hồ giáo lý bỏ túi về đời sống người tín hữu, không chỉ dành cho mỗi cộng đoàn Mátthêu thôi, mà cho bất cứ cộng đoàn nào khác, vào mọi lúc. Thánh Mátthêu viết, là để tín hữu theo chân Đức Giêsu biết rằng Chúa cũng là người Do thái, rất chính gốc.

Các tuần sắp tới, Hội thánh sẽ chọn những bài lấy từ “Bài Giảng huấn” thứ 3, qua đó tác giả dùng phong cách viết sử của người Do thái, hầu chứng tỏ cho thấy cung cách sống đời nguyện cầu, rất chiêm niệm. Đó là lối sống Chúa từng trải. Là, cách thức nguyện cầu rất sống động. Có lời thơ trữ tình. Có ý nhạc lãng mạn. Có truyển kể dụ ngôn, bài “vãn” rất bi ai. Vãn than, niềm riêng của dân con nay được chọn.

Khác mọi người, khi viết Tin Mừng, thánh sử Mátthêu chú tâm nhiều đến cung cách rất âm nhạc. Cụ thể là, thánh nhân thích nói đến sậy, đến sáo. Đến ống tiêu. Điệu nhảy. Bài hát buồn. Đến cả ca khúc, bản nhạc, nhạc cụ có hơi thở thổi vào, tạo âm thanh. Nói tóm lại, cũng là thể loại na ná giống James Galway! Nghĩa là, vẫn cứ kể cho ta nghe hai loại nhạc, rất đối chọi. Loại thứ nhất, là âm nhạc có thể loại những than cùng thở. Rất buồn nản. Kế đến, là âm nhạc lê thê. Tê tái. Nức nở nhưng vẫn vui sống. Thánh nhân dùng nhạc làm biểu tượng, để ta suy và nghĩ về cuộc sống của riêng ta. Và đời Chúa.

Thông thường thì, nơi Tin Mừng theo thánh Mátthêu, vẫn có cái gì đó tựa như lời thở than ở hậu trường cuộc sống, của mỗi người. Để từ đó, thánh nhân nhấn mạnh thêm rằng: ở nơi Chúa và nơi ta, luôn có những thời khắc lê thê. Rất kể lể. Thời khắc, khúc đoạn cuộc đời, ta trải nghiệm nhiều về sự ra đi tìm đến với nhau. Tìm, sự tử tế. Tìm, chữa lành. Tìm, cách hành xử bén nhạy làm nền, để Chúa đỡ nâng. Hỗ trợ. Hết mọi người.

Rải rác đó đây, là những vãn than ở chương 11 và 12, qua đó thánh sử còn tặng thêm cho ta 4 lời kể về Đức Chúa, như sau:

Lời kể thứ nhất, Chúa nói: "Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe biết Tin Mừng.” (Mt 11: 4-5) Lời kể đây, là lời mừng sự sống, chốn Galilê, của người Do thái. Lời kể này, là lời về tình thương yêu kẻ nghèo hèn, túng thiếu. Những người luôn cần đến người khác biết đến mà giúp đỡ.

Lời kể thứ hai, Chúa thưa: “Con ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11: 25-27) Thốt lời này, Chúa mừng cho cuộc sống dồn dập, cứ đập mạnh vào “làn da trống” cốt đề cao kẻ tầm thường, không vai vế. Cũng chẳng có ai đoái hoài, ỏ ê. Chẳng được ai biết đến, hoặc quan tâm. Cuộc đời họ, như cơn gió thoảng. Rất thoáng chốc. Chỉ sống qua loa, chầm chậm cả vào khi bị cấp trên thúc bách làm cực đến chết, vẫn cứ vui sống tử tế, với mọi người. Sống âm thầm. Nhưng rất vui. Vì có Chúa. Có mọi người cùng vui. Dù đời sống rất cực, họ cũng chẳng cần gì thêm.

Lời kể thứ ba, Chúa lại bảo: “Cây lau bị giập, Người không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, chẳng nỡ tắt đi, cho đến khi Người đưa công lý đến toàn thắng, và muôn dân đặt niềm hy vọng nơi danh Người.” Xem như thế, Chúa rất cảm thông, quan tâm đến người nào biết dùng khả năng rất hạn chế, dễ dập bể, để dựng xây đời mình cho tử tế. Dù thực tế, là chuỗi ngày dài sống rất qua ngày. Lời kể đây, đích thực là kể lể mang tính cách Do thái. Hệt như các trích đoạn từ sách tiên tri Ysaya, cũng lê thê, kể lể. Khá lễ mễ.

Lời kể thứ 4, Chúa còn phán: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha Tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy mới là anh chị em tôi. Là mẹ tôi." (Mt 12: 50) Là, anh chị em và là mẹ Tôi, không chỉ mang ý nghĩa một gần gũi huyết tộc, thôi. Nhưng, còn được quan tâm đưa vào cuộc sống gia đình rất hạnh phúc. Bởi, Chúa Cha chỉ gần cận những người hèn kém, bé nhỏ. Đơn độc. Bởi gần cận, nên Chúa chấp nhận sống giữa phiền toái, bức bách của cuộc sống, vẫn kéo dài cả đời người.

Quả là thế. Tiếng trống vang, vẫn còn thấy nơi hậu trường cuộc đời. Tiếng trống dồn, lại là âm vang cuộc sống của người cùng khổ, đang lẩn khuất ở đâu đó, thúc bách ta đến với họ, để cùng vui. Vui mà sống, cả vào lúc có nhạc buồn nhè nhẹ, ai oán. Trầm lắng. Vui mà sống, cả vào khi có người phê phán lối sống Đạo của riêng ta. Vui mà sống, vì chính Chúa đã dùng thánh Mátthêu để viết lên Tin Mừng theo cung cách của người Do thái mà nói: đời người cũng rất vui và đáng sống. Vui mà sống, vì tất cả mọi bi ai sầu buồn chỉ nằm ở phía sau hậu trường. Chỉ xảy ra trong thoáng chốc. Còn, niềm vui lại luôn ở phiá trước, không bao giờ biến mất.

Trong tiểu thuyết có tựa đề ”Bài hát buồn về nỗi sầu thiên thu”, tác giả Wang Anyi có viết một câu như thế này: “Không biết cơ man nào mà kể về các thế giới nhỏ bé chẳng hề thay đổi, lại được dùng làm bản lề cho những đổi thay diễn ra ở thế giới bên ngoài.” Tác giả đây muốn nói về những “mẩu vụn suy tư xuất từ cuộc đàm thoại nghiêm túc, hệt như lớp lá ngoài quăn tít của mớ cải bẹ xanh hoặc như hạt cát nhỏ trong bị gạo.” Đó, là nỗi buồn của cuộc sống. Đúng vào lúc hạt mưa lác đác rơi nơi cửa sổ viết thành chữ “tình buồn” trên mặt kính. Tình buồn ấy, vẫn gặm nhấm mọi đức tính kiên nhẫn/chịu đựng, để còn bước qua một ngày mới. Một ngày lại có thêm những vãn than, về cuộc đời.

Cùng một lúc, lại thấy có cốt tuỷ độc nhất vô nhị chẳng đổi thay. Không chịu ảnh hưởng bởi lịch sử. Hệt như kinh nghiệm về niềm riêng của ai đó. Có ca từ và lời kể đầy rẫy những trữ tình của sự sống. Thứ trữ tình còn lớn hơn cả lời kể của chính ta.

Ở chương 13, thánh Mátthêu lại đã đưa ra lời ca vang vọng vào với giòng chảy âm nhạc của chính trình thuật Tin Mừng, do mình viết. Lời ca ấy, thánh sử gọi là truyện dụ ngôn, rất kể lể. Và, cả hai -âm nhạc cùng lời kể dụ ngôn- vẫn ăn khớp đi đôi với nhau, thành trình thuật. Thành một Tin Mừng mang tính chất rất Mátthêu. Tính chất ấy, ta còn thấy ở phụng vụ Lời Chúa, vào những tuần kế tiếp.

Trong khi chờ đợi, hãy ngâm lên lời thơ tình kể lể rất lãng mạn của thi nhân vẫn còn ai oán:

 

“Anh đã gặp hồn em đương chới với,

Bến Mê Hà trên giải nước mênh mang.

Anh đã đón tình em bay phất phới,

Như hương trăng đằm thắm cõi không gian.”

(Hàn Mặc Tử - Sáng láng)

 

Thơ sáng láng, chuyên chở linh hồn đương chới với, vẫn là lời kể lể, cũng vãn than, ai oán như lời thơ của người Do thái, rất Mátthêu. Lời thơ ấy, nói về cuộc đời của Đức Chúa rất trữ tình, với người đời.

Suy Niệm Chúa Nhật Thứ 15 Thuờng niên Năm A

 

“Làm sao tình vĩnh cửu, không tan?”

“yêu trọn đời này và kiếp tới.”

(dẫn từ thơ Niệm Nhiên)

 

 

Mt 13: 1-9

Không vỡ tan, nên tình người vẫn vĩnh cửu. Yêu trọn kiếp, nên đời người còn lưu mãi. Yêu thương vĩnh cửu, là ý nghĩa của dụ ngôn truyện kể ở trình thuật, rất hôm nay.

Trình thuật thánh Mátthêu viết hôm nay, lại vẫn mang dáng dấp của dụ ngôn truyện kể, để nghĩ suy. Suy, là suy những gì gói ghém trong truyện. Nghĩ, là nghĩ làm sao về những gì dụ ngôn nói.

Dụ ngôn hôm nay, là một trong nhiều phong cách để kể về đời sống Đức Kitô, theo kiểu khác. Bằng vào cung cách thuật truyện lạ như thế, thánh Mátthêu còn kể ra một loạt các dụ ngôn, có ngôn từ và hình ảnh để người đọc nắm bắt được bí kíp của cuộc sống.

Trước đó, thánh Máccô cũng đã sử dụng đường lối này để thuật truyện. Bằng vào cách này, thánh Máccô viết: Đức Giêsu nói nhiều đến điều rất khó lòng, để bày tỏ. Chẳng hạn như khi nói: Ngài sẽ không đi nơi đâu ra khỏi nỗi chết. Nỗi chết trên thập tự. Và, Ngài cũng không có chổ để gối đầu. Hãy đến ở lại với Ngài, rồi người người sẽ toả đi muôn nơi. Cả khi bị vùi dập và giết chết, Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi một ai. Ngài vẫn giúp. Hãy tự mình tạo trống rỗng đến mức độ không để lại gì ở nơi mình. Nghe như thế, ít người hiểu được điều Ngài nói, nên mới chống đối giận dữ.

Bằng vào lối viết như thế, thánh Máccô cho thấy Chúa muốn đả kích thái độ của người Do thái đối với cuộc sống. Đả phá mọi ảo tưởng, mộng mơ và những tham vọng vẫn có, nơi họ. Ngài muốn đem họ về với thực tế, dưới đất. Với thánh Máccô, bí kíp để mọi người sống là giáp mặt nhìn thẳng vào khó khăn. Rất cứng cỏi. Bởi, cuộc sống con người đâu có nghĩa luôn thuận lợi, dễ dãi. Và, thoải mái!

Kể về dụ ngôn người gieo giống, thánh Máccô nhắm đến những người sống chệch đường lối Chúa đưa ra. Tức, chỉ phớt qua nơi mặt ngoài, chứ không đặt thẳng trọng tâm đích thực của vấn đề. Họ là những người chỉ muốn thoát khỏi chủ đề chính. Chỉ thích những chuyện khác, bên lề thôi.

Kể về hạt giống rơi bên vệ đường, bị chim chóc bay đến lấy đi, là ý nói đến những người lơ là, không hiểu biết. Kể về những hạt rơi vào nền đất đá, quá nông, không bám sâu vào lòng đất. Nên, đã bị nắng trời thiêu rụi, là ý nói về những người chỉ chú trọng mặt ngoài, không quyền uy sức mạnh để có thể ở lại. Thánh nhân còn nói về những hạt rơi vào bụi gai, dễ chết ngạt. Tức, về những người quá ưu tư về thế giới. Về những cám dỗ ở đời, không để ý gì đến cung cách Chúa dạy, để mà sống. Những gì thánh Máccô đề cập đến hạt giống, là nói về cung cách sống đạo, cho đúng cách.

Dụ ngôn thánh Mátthêu kể, được viết vào thời gian sau thánh Máccô, rất nhiều. Khi kể về cùng một truyện, thánh Mátthêu cũng hiểu những điều mà tiền nhiệm mình từng nói. Hiểu rõ dụng đích của dụ ngôn, theo cách rất khác thường. Và, thánh nhân diễn tả theo phong cách cũng khác. Khác, ở cách nói về cuộc đời. Về tình tiết lẫn ảnh hình, của câu truyện. Dưới ngòi viết của thánh Mátthêu, cuộc đời con người có những cốt cách rất đẹp. Đẹp đến độ ta không thể dùng ngôn ngữ ngày thường để diễn tả. Mà, phải khôn ngoan nắm bắt. Và, thực hiện. Chừng như thánh Mátthêu còn đưa âm nhạc vào trong đó, cùng với ngôn ngữ truyện kể, có hình ảnh. Không dùng lời lẽ thuyết phục người nghe, mà đưa ra luận cứ về luân lý. Nhưng dùng tất cả những thứ nêu trên cốt cho mọi người thấy sự việc tuy tầm thường và bé nhỏ trong cuộc sống vẫn đều có bí kíp, rất tốt đẹp.

Dụ ngôn hôm nay, thánh Mátthêu kể về các loại đất ở nông trại. Và tín thư mà thánh nhân đưa ra, là: hãy sử dụng tất cả để kiến tạo thế giới. Rồi thì, hạt giống tốt lành của Chúa sẽ đổ tràn lên tất cả. Rồi cứ thế, thánh sử viết thêm về cỏ lùng mọc chung quanh lúa tốt, để rồi thánh nhân còn đưa thêm một sứ điệp, là: hãy kiên nhẫn với cỏ lùng. Nhổ nó đi, sẽ gây hoạ cho lúa tốt. Cho mùa gặt. Thánh nhân viết thêm: những gì tuy nhỏ như hạt cải, vẫn có tầm quan trọng của nó, nếu ta biết dùng nó.

Với thánh Mátthêu, ta không tài nào phát hiện được ngọc trai trong vỏ sò, nếu đa vứt bỏ cả vỏ trai lẫn ruột ngọc. Hệt như thế, ta không thể loại bỏ lưới cào, khi bắt cá. Tất cả vật dụng đều hữu ích cho con người. Cả những đồ xưa cũ đáng vứt bỏ. Vẫn có ích. Nếu biết sử dụng truyện kể do thánh Mátthêu ghi, rồi ra người người cũng sẽ nhận thấy tấm lòng bao la, tử tế mà cuộc đời đem lại, cho mỗi người. Với thánh nhân, cuộc đời người vẫn như những điểm sáng rút ra từ dụ ngôn truyện kể theo phong cách người Do thái viết.

Thánh Mátthêu thu thập nhiều điều từ Tin Mừng theo thánh Máccô, và đã biến chúng thành truyện kể, theo phong cách tư riêng của mình đối với những “con người bé nhỏ” như ngôn từ mà thánh nhân vẫn đề cập. Bởi, dù bé nhỏ mọn hèn không bằng ai, những người như thế vẫn nắm bắt được thông điệp thập giá, sự chết và việc Chúa ra đi về nơi vĩnh cửu mà mọi người không hề hay biết. Thánh nhân biết rõ Chúa làm thế để mặc khải cho người bé nhỏ mọn hèn, nên không đả động gì về các nhu cầu triệt để, mà mọi người cần đến. Và, thánh nhân nhìn Phục sinh như một chúc lành Chúa ban cho đường lối thông thường ta vẫn sống. Thánh nhân còn cho ta biết cách mà nhìn và hiểu thấu đáo sự việc để rồi sẽ cảm kích biết ơn Chúa .

Nói cho đúng, các truyện dụ ngôn do thánh Mátthêu ghi thực sự là những truyện kể, đều rất đẹp. Đều mở cho ta thấy bí kíp của cuộc sống bình thường luôn có Chúa cùng sống, rất đẹp.

Thánh Mátthêu tự thôi thúc mình tiến xa hơn, hầu quả quyết rằng: quà tặng Chúa ban cũng dồi dào như thế. Ngài nhấn mạnh đến đất lành trong dụ ngôn người gieo vãi. Đất lành, cho vụ mùa đạt gấp 30, 60 lần. Có khi còn gấp trăm lần mà mọi người hằng trông mong, hy vọng.

Về vụ mùa, thánh nhân không đả động gì đến lúa giống hoặc đất ruộng, cho bằng chỉ nói về đức hạnh đang nảy nở trong con người. Chí ít, là khi ta cảm kích biết ơn được am hiểu thấu đáo những gì tốt đẹp nằm sâu trong cuộc sống. Để rồi, vẫn thích nghe Lời Chúa nói và hiểu rõ những điều Ngài căn dặn. Đó là những Lời được ghi ở Tin Mừng. Đặc biệt, là: Tin Mừng theo thánh Luca. Và cả Tin Mừng do chính thánh nhân ghi lại nữa. Và, lời lẽ ở Tin Mừng còn là Lời về Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Lời, tỏ lộ cho Mẹ biết là Mẹ được chúc phúc vì đã nghe và giữ lại trong lòng. Và rồi, Mẹ thực thi Lời Ngài dạy bằng động thái thân yêu, tích cực.

Tham dự Tiệc thánh có dụ ngôn người gieo giống hôm nay, ta cũng nên yêu cầu Mẹ chỉ cho mình con đường để sống nhân từ. Độ lượng. Sống làm sao, chỉ thấy những gì tích cực, ở phía trước. Để rồi, sẽ mỉm cười chấp nhận. Thực hiện. Bao lâu mình còn làm được.

Trong tinh thần đó, hãy cứ ngâm vang lời thơ nhẹ của người nghệ sĩ còn viết thêm:

 

“Làm sao tình vĩnh cửu, không tan?

Yêu trọn đời này và kiếp tới

lời huyền thoại, chàng hứa với nàng

lửa thiêu thân xác thành tro than

tái sinh từ tro, tình vẫn nồng nàn.”

(Niệm Nhiên – Ngụ Ngôn Tình Yêu)

 

Tình yêu, với ngụ ngôn. Vẫn là tình không tan. Không thành tro bụi. Dù là huyền thoaị, hay vĩnh cửu. Vẫn nồng nàn, như tình Chúa với người đời. Suốt đời người.

 

Suy Niệm Chúa Nhật 16 Thường niên Năm A

 

“Có thể ta không yêu, để gần nhau mãi mãi.”
“Vì không thể tồn tại, điều gian dối yên lành.”

(dẫn từ thơ Hoa Sữa)

 

 

Mt 13: 24-43

Có thể vì không yêu, nên kẻ lạ mới đặt điều gian dối, yên lành. Những cỏ dại. Có thể vì nói yêu, nhưng lại không quan tâm đến điều Chúa dạy qua dụ ngôn cỏ dại, thánh nhân ghi lại hôm nay.

Trình thuật thánh Mátthêu hôm nay ghi, là ghi lại truyện kể về cỏ dại mà hầu hết dân con nhà Đạo đều nghe biết. Nhà nông mình, chỉ gieo giống tốt ở ruộng vườn. Nhưng, cỏ dại vẫn xuất hiện nơi đó tức là sao? Là vì, cỏ dại gây hại cho lúa tốt nên nhà nông mình muốn bứt đi. Ngay tức thì. Thành thử, theo sự khôn ngoan Chúa dạy, hãy cứ để đó đến mùa gặt, rồi mới tính.

Cứ theo chú giải kinh thánh, thì ruộng vườn đây là thế giới. Lúa tốt đây, là dân con Nước Trời. Cỏ dại này, là người có tâm địa xấu, sống quanh ta. Kẻ thù đó, là ác thần/sự dữ rất đáng gờm. Và, vụ mùa nói đây, là tận thế. Người gặt, là thiên sứ nhà Trời. Tựu trung, ý nghĩa của tín thư trình thuật hôm nay, cũng giản đơn, dễ hiểu. Dễ, ở điểm: dù sao, hãy nhẫn nại chịu đựng những mâu thuẫn trong đời.

Ở một dụ ngôn khác, Chúa kể về hạt cải, là để bổ nghĩa cho tín thư hôm nay: niềm tin ta có dù nhỏ bằng hạt cải, vẫn lớn mạnh. Ở nơi đó, chim trời sẽ tạo chỗ làm tổ. Bởi thế nên, người đọc Tin Mừng chớ coi thường vật thể dù nhỏ bé, vẫn có thể làm được chuyện lớn, rất đẹp. Men trong bột cũng thế, tuy rất nhỏ nhưng vẫn làm nên cơm bánh nuôi ăn rất nhiều người.

Đức nhẫn nại nói ở đây, là cung cách giúp ta chung sống với các mâu thuẫn trong đời. Nhẫn nại, không chỉ là đặc tính biết chờ đợi những gì sắp đạt tới. Mà, còn là khó khăn lớn mọi người vẫn gặp ở đời, khi mọi việc cứ lê thê, chậm trễ. Kéo dài. Hạt lúa giống cũng thế, vẫn phải đi vào lòng đất, rồi từ từ chết đi, trước khi biến thành vụ gặt, thật lý tưởng. Người mẹ trong gia đình cũng thế. Bà vẫn phải cưu mang bào thai các con những chín tháng mười ngày. Trải qua hết niềm đau này đến nỗi chán chường khác. Đôi lúc rất nghiệt ngã. Cho đến khi mẹ tròn con vuông, niềm vui của con mang lại mới khuây khoả.

Quả thật rất phải. Nhẫn nại, là tiến trình đầy khổ ải mọi người cần học hỏi. Ở mọi nơi. Từ nhà đến sở làm. Trang trại. Rất chậm. Không có được tính nhẫn nại, người người chẳng thể nào gặt hái được mọi chuyện, trong phút chốc. Không nhẫn nại, con dân của Chúa cũng không sao đạt thành quả mình trông ngóng. Bởi thế nên, khi Đức Giêsu nhìn lên cây vả không cho hoa trái Ngài khuyên đồ đệ Ngài hãy đào đất chung quanh gốc, đổ thêm phân bón vào đó, chắc chắn ba năm sau hy vọng sẽ đạt thành tích, rất đẹp.

Đây cũng thế. Không thể coi thường những ai lần đầu phạm lỗi. Vì có coi thường cả trăm lần cũng vẫn thế. Bởi, rồi ra họ cũng bắt chộp được tín thư mình đưa ra, ngõ hầu đạt kết quả mình mong muốn. Thế nên, hãy nhẫn nại mà hy vọng, dù thành quả không phải lúc nào cũng trăm phần trăm vượt thành tích. Và, mọi chuyện còn tuỳ người hợp tác. Tùy thời gian kéo dài hy vọng. Tuỳ đức nhẫn nại của mình, mà thôi.

Nơi cuộc sống con người cũng thế, cỏ dại phiền hà, bức bách vẫn xuất hiện quanh ta. Có khi, còn mọc nhanh và mọc nhiều hơn ta tưởng. Nhanh và nhiều, là bởi với người đời, cỏ dại là biểu tượng của đặc trưng vô dụng, vẫn cần đến đất thịt để sống sót. Nó làm suy giảm ý chí phấn đấu của người thường mà tiến triển. Nó là như thế. Là, tình huống đời người vẫn thiếu nhân công, nhưng dư thừa người chơi không, vô tích sự. Mặc dù thế, cũng đừng nên loại bỏ họ. Bởi, đức nhẫn nại sẽ đem đến cho ta nhiều điều lợi mà tính bộp chộp/nóng nảy, không thể cho.

Thế giới cuộc đời do Chúa tạo dựng, cũng như thế. Rất nhiều hạn chế. Sân khấu cuộc đời đầy hạn chế, là để giúp ta thực hành, phát triển. Là, chốn phát sinh ra cơ hội, để rồi, lúc này hay khi khác, vẫn chẳng khi nào bị trở ngại hoặc bị cất đi. Bởi thế nên, dù đi vào với thế giới ta có gặp đủ mọi tệ hại, thiếu thốn, Chúa luôn mời gọi ta sống đích thực cuộc đời, với thế giới. Sống, là sống ngang qua mọi cơ hội. Cả những cơ hội ta được Chúa giúp sức mà đương đầu với thử thách, qua mọi cơ hội. Chúa giúp, không có nghĩa là Ngài cất bỏ đi mọi thử thách; hoặc, ban mọi nỗi vui trong đời. Biết được như thế, cũng đừng nên xin Chúa cất bỏ đi cho ta những kinh nghiệm nào ghi đậm thử thách.

Thử thách, là cơ hội xảy đến lúc con người chỉ muốn khước từ lời mọi gọi của Chúa. Thử thách bao gồm cả những nguy cơ kích thích ta sử dụng tự do, không đúng cách. Thử thách, có khi mang dáng dấp của “trò” cá độ luôn đi kèm cuộc sống. Thử thách, cũng có thể là những điều kỳ quặc khiến ta không thể làm lơ hoặc bỏ đi. Nhưng, nó vẫn theo chân ta đến cuối cuộc đời, kịp đến khi ta trở nên mù quáng không nhận ra sự hiện diện của nó, mới thôi.

Cả khi ta đụng trận thử thách rất kỳ quặc, làm mất đi cơ hội giải quyết cách tốt đẹp, thì lúc đó Chúa sẽ làm ta tỉnh thức để rồi đưa ta trở về đường ngay nẻo chính, để tự mình xử trí. Ta được mời gọi sống đích đáng, không bị mọi tiêu cực ở đời gây phiền toái. Ta được gọi mời nói tiếng Xin Vâng với Chúa. Xin vâng, là lời đáp trả sống trong thế giới rất nhiều cơ hội để nghe biết và vui thích. Và, Chúa sẽ vui thích khi ta nói được tiếng “Xin Vâng” bất chợt ấy.

Cũng có trường hợp, Chúa đích thân can thiệp trợ giúp để mọi việc trở nên dễ chịu với ta hơn. Cũng có thể, Chúa sẽ gửi người nào đó đến với ta, giúp ta sống nhẫn nại. Kiên định. Và tích cực. Ngài luôn ở bên ta, và với ta. Ngài chấp nhận nơi ta, lời thề hứa sẽ sống bất bạo lực. Không nổi nóng. Với nhân loại. Với thế giới hiện hình đủ mặt xấu/tốt. Cũng có thể, ta phải xử sự giống như thế giới ngoài đời, để rồi chung cuộc, sẽ đạt điều Chúa muốn.

Thần học gia Yves Congar từng viết: “Thập giá là điều kiện để ta làm việc. Chính Chúa hoạt động cả ở những nơi, mà đối với ta, giống như là thập giá. Có sống điều kiện giống như thế, cuộc sống của ta mới đạt chiều sâu, và chân thật. Chỉ khi nào con người chấp nhận khổ đau về những xác tín mình tự tạo, lúc ấy mới đạt được sức mạnh và phẩm chất của sự chối bỏ. Và cũng từ lúc ấy, quyền hạn của ta mới được nghe biết và kính trọng.”

Trong bầu khí hân hoan đầy xác tín như thế, cũng nên ngâm tiếp lời thơ còn dang dở, rằng:

 

“Có thể ta đi tìm,

một điều không thể có.

Đó là lúc nhánh cỏ,

mọc đốm rễ nghi ngờ.

Nhánh liễu soi mặt hồ,

Mới hay không phẳng lặng.

Có muôn điều cay đắng,

che giấu dưới ngọt ngào.”

(Hoa Sữa – Có Thể Và Không Thể)

 

Những gì, người người có thể và không thể, vẫn là “nhánh cỏ”. Nhành liễu. Hay mặt hồ. Thực ra, tất cả đều là cơ hội của thử thách. Gian truân. Ở đời người. Có nhẫn nại chịu đựng những gian truân ấy, người người mới phát hiện được vị ngọt, nằm ở dưới.

 

Suy Niệm Chúa Nhật thứ 17 Thường Niên Năm A  

 

“Khóc là ủy mị, chết là điên”
“Gây cho hoàn cảnh thêm tươi đẹp”
“Lọc mãi cho hồn trong sáng lên”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

 

 

Mt 13: 44-52

Khóc đâu chỉ là uỷ mị. Nhưng còn là, tâm trạng nhà thơ viết về người tình, mình cay đắng. Chết đâu chỉ là khùng điên. Mà còn là, quyết tâm chết cho người tình, mình vẫn yêu. Uỷ mị hay điên khùng, phải chăng là đặc trưng của người nhà Đạo, vào lúc này?

Trình thuật thánh Mátthêu, nay kể về dụ ngôn, là để nói lên những điều từa tựa như thế. Từa tựa, về ý nghĩa và đích điểm của Nước Trời, ở trần gian. Nuớc Trời trần gian, như thánh Mátthêu từng khám phá, là: tình huống có Đức Giêsu và dân con Ngài, cùng sống. Sống giống Chúa. Và với Chúa. Như thánh nhân đây, cũng từng học hỏi sống khác thường, theo đúng nghĩa sống. Và, thánh nhân thấy mình như người quản gia, cho qua đi những gì thuộc về quá khứ, chỉ giữ lại những gì mới mẻ, vừa khám phá.

Khám phá/tìm ra, như tác giả vừa tìm thấy châu báu nơi ngọc quý, bèn bán đi mọi sự để mua lấy, dù cao giá. Châu báu đây, là những đồ xưa cổ làm nền cho mọi sự việc rất mới. Và, châu báu ở viên ngọc mà thánh nhân nói đến, chính là sự mới mẻ ở mọi sự. Rất quí. Và, càng có giá hơn, khi đó lại là khám phá mới về chính con người, của mình.

Thánh nhân đây, tuy không còn trẻ, vẫn là người Do thái rất tốt lành. Biết dấn thân theo chân Chúa đến cùng, như mọi người lành thánh, tốt đẹp. Như, đồ đệ đáng tuyên dương của Chúa, mà mọi người vẫn đợi trông.

Thánh nhân đây, đã trở thành tín hữu của Đức Chúa, nhưng vẫn không ngừng là người Do thái chính cống. Rất minh bạch. Bởi thế nên, thánh nhân nghĩ mình cũng là ngôi nhà có giá trị. Để rồi từ đó, thực hiện được cả những điều cũ/mới, vẫn đổi thay. Đổi thay và tháp ghép vào những điều đã cũ ngõ hầu để tạo sự mới mẻ cho những gì mình viết ra. Mỗi lần gặp người mới, thánh nhân đều thấy thế. Và khi gặp người khác nữa, ông cũng trở nên chính mình hơn. Tức, tìm lại được chính mình.

Phần đông trong chúng ta, mỗi khi nhìn vào cuộc sống của chính mình trong quá khứ, đều thấy có những chuyện tương tự. Trong suốt chuỗi ngày dài cuộc sống, ta cũng từng đổi thay. Đổi và thay, để trở thành người tín hữu không như cũ. Vẫn cố thay đổi trong Hội thánh. Thay đổi, thái độ sống. Thay đổi, ý nghĩa của con người mình. Có lẽ ta thay đổi nhiều hơn nhiều người trong quá trình năm trăm năm qua.

Về đổi thay, có người cho rằng như thế cũng là đủ. Và, ta đâu còn sức để đối đầu với thay đổi nữa. Có vị lại thấy mình chưa thay hoặc đổi gì nhiều cho lắm. Cần làm nhiều hơn nữa. Bởi, quá khứ của mình dầu sao cũng chưa khá. Chính vì thế, thánh Mátthêu nay yêu cầu ta ngồi lại với nhau, theo cách ít khi thấy, để suy nghĩ về một đổi thay thật rất mới. Và đó có là một đòi hỏi khá to tát, đối với ta không?

Nhìn vào Giáo hội quanh ta có thể là Hội thánh của ngày mai, hoặc rất chóng, ta cũng thực sự thấy đã có khác. Ít ra là mặt ngoài. Đây, không nói về đường lối ta phải theo. Mà, chỉ muốn nói đến dấu hiệu cho ta thấy những gì có thể sẽ diễn ra, mai ngày.

Đó là, cảnh thiếu hụt dần số lượng linh mục hoặc tu sĩ, ở nhiều nơi. Hoặc, cũng ít đi, xuất lễ vào những ngày cuối tuần. Hoặc, thường nhật. Sẽ ít đi, số giờ linh mục ngồi toà cáo giải, vì dân con của Chúa nay ít có nhu cầu. Ít đi dần, trường hợp người từ nhà gọi cha đến thực hiện phép bí tích. Càng ít dần, cảnh tượng từng cặp và từng cặp thừa tác viên đến gõ cửa mỗi nhà, mà giảng đạo. Ít có chuyện thăm kẻ liệt, ngoại trừ trường hợp khẩn cấp. Hoặc, nhà quàn tự tổ chức tang lễ không có linh mục. Hoặc, vị phó tế vĩnh viễn đứng ra lo việc rửa tội, dù họ không có chức năng.

Và theo thiển nghĩ, cũng sẽ có nhiều đổi và thay khác, như: đám cưới tổ chức ở nhà thờ được sắp xếp, cách khác hẳn. Khác, giờ giấc. Khác, phụng vụ! Việc dạy giáo lý cũng sẽ khác. Và, vấn đề là: ta làm thế nào để dung hoà và ăn ý với những đổi thay, như thế này? Lâu nay, ta vẫn quen với thánh lễ bằng tiếng Anh (hoặc một số người từng như thế); và, quen với cung cách của vị chủ tế quay mặt về phía bổn đạo. Quen, với chuyện không để các tu sĩ hoặc nữ tu đến trường công lập mà dạy học. Quen, với chuyện trường Công giáo không chỉ dạy về những chuyện có liên quan đến Đạo, mà thôi. Và rồi, ta có quen dần với đổi thay này khác không? Và, có thích thế không?

Không phải ai cũng thích. Có số người chỉ muốn tái tạo lập lại quá khứ buồn. Tức, chỉ muốn quay trở về thời xưa cũ, có lối thờ phụng cung kính, cũng rất cổ. Và rất quen. Quen cầu Chúa phú ban nhiều linh mục hơn để giùm giúp. Có số người lại chỉ cảm tạ Chúa về nhiều thứ. Có người vẫn cứ cầu Chúa ban thêm cho mình nhiều ân huệ. Đồng thời, lại cứ chối bỏ chuyện cũ xưa. Trong khi đó, nhiều người khác vẫn cứ theo kiểu xưa lối cũ mà răm rắp giữ Đạo.

Hôm nay, thánh Mátthêu muốn làm một sự khác thường, với người đọc. Thánh nhân muốn đặt sự mới mẻ lên chuyện cũ. Muốn, đem cơ hội đổi mới những chuyện cũ, đã xa vời. Thánh nhân nhận rằng mình đã tìm ra ý nghĩa mới mẻ về cuộc sống. Về Chúa. Và về con người mình. Qua, kinh nghiệm sống. Thánh nhân cũng muốn kể cho người đọc biết kinh nghiệm lòng tin của mình. Về, những gì mình chưa từng nghĩ đến. Chưa từng thực hiện mà lại không phải qua thủ tục hoặc khuôn phép nào hết. Tựu trung, điều thánh nhân muốn nói đến, là: chính ông cũng là một dụ ngôn…

Cũng nên biết, sở dĩ thánh Mátthêu nói thế là muốn người đọc như ta, cũng đều là một thứ dụ ngôn, nào khác.

Trong mấy tuần qua, thánh Mátthêu từng kể cho ta nghe rất nhiều dụ ngôn/truyện kể về cuộc sống. Thánh nhân kể, cũng là để ta lắng tai nghe âm nhạc của đời mình để thấy được sự dồi dào, sung mãn ở nơi Chúa. Thánh nhân mời gọi ta tham gia sự mới mẻ trong cuộc sống, không phải để ta khiếp sợ những mâu thuẫn sẽ thấy nơi tình huống ta đang dấn bước, đi vào đó.

Vì thế nên, thánh nhân đã định nghĩa lại để ta thấy được căn tính của mình. Làm như thế, có nghĩa: ta là lớp người tuyệt vời hơn mình tưởng. Và, mỗi câu truyện đời của ta, cũng sẽ là những câu truyện lớn rất nên kể. Phải chăng đó cũng là câu truyện dụ ngôn, của mỗi người?

Trong tâm tình đầy cảm kích như thế, cũng nên ngâm thêm lời thơ ta từng ngâm khi trước:

 

“Nàng hãy vui đi dẫu một ngày,

dẫu phần ba phút, góc tư giây.

Dẫu trong thoáng mắt nhìn như chớp,

cũng đủ cho nàng quên đắng cay.”

(Nguyễn Bính – Cầu Nguyện)

 

Hãy vui đi, dù xảy đến những đổi thay, hay rất mới, ở đời mình. Hãy cứ vui, dù trong thoáng chớp, nhìn như chớp. Vui, để biết rằng Hội thành Chúa vẫn đổi thay. Rất hằng ngày. Ở mọi nơi.

 

Suy Niệm Chúa Nhật thứ 18 Thường niên Năm A

 

“Mưa bay! Mưa bay! Ấm cúng trong này.”

“Một hôm trời bão, Em vào chơi đây.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

 

Mt 14: 13-21

Mưa bão hôm ấy, cộng đoàn dân Chúa cũng đã hay tin về cái chết của thánh Gioan Tẩy Giả. Rất nghiệt ngã. Ấm cúng nơi này, lòng người cũng đã được Chúa sưởi ấm bằng phép lạ nhân rộng bánh/ cá cho mọi người. Rất lạ thường. Lạ, như trình thuật thánh Mátthêu ghi lại, rất hôm nay.

Trình thuật hôm nay, thánh Mátthêu ghi về sự kiện rất đặc biệt trong đời Chúa. Nhưng không dễ, để diễn tả xem đó là sự kiện gì. Và không dễ, để áp dụng vào đời sống của ta hôm nay.

Sự kiện hôm ấy, có Đấng Mêsia ra ngoài trời rảo bộ đã thấy cả ngàn người Do thái đi theo Ngài. Chạnh lòng thương, Chúa đã nuôi ăn cả ngàn người chỉ với 5 tấm bánh và hai con cá. Vẫn hiểu rằng, đây là phép lạ do Chúa làm. Phép lạ duy nhất trong cả bốn sách Tin Mừng. Nhưng được nhắc đến những 6 lần: riêng thánh Máccô và Mátthêu mỗi vị ghi chú đến 2 lần; thánh Luca và thánh Gioan mỗi vị chỉ một lần. Các thánh đều coi đó như biến cố lớn trong đời hoạt động công khai, của Chúa.

Nhờ thánh Mátthêu, ta được biết Hêrôđê cũng đã tổ chức một bữa tiệc cho người giàu có và trong đó có cả người nghèo nhưng không hèn, là thánh Gioan Tẩy Giả vừa trả giá rất đắt, bằng đầu mình. Cho bữa tiệc. Trái nghịch lại buổi tiệc đầy tai tiếng ấy, là tiệc ngoài trời do Chúa khoản đãi những kẻ đói/nghèo, thôi. Người giàu khi ấy, đâu biết rằng mình đã bỏ lỡ cơ hội đến tham dự.

Thế rồi, điều thực sự xảy đến cũng đã đến, đó là yếu tố buổi tiệc Chúa dọn, lại diễn ra ở nơi hiu quạnh. Có cỏ xanh làm chiếu đất cho dân ngồi. Có thể là, tiệc Chúa dọn xảy đến vào mùa Xuân. Tức, mùa Vượt qua của người Do thái. Có thể, cũng không xa là mất chốn biển hồ Galilê, khiến Chúa phải lên đò như Ngài vẫn thường làm, hầu tránh con mắt dòm ngó của vua quan thời đó vẫn chực rình những ai qui tụ đám đông quần chúng quyết đi theo.

Đám đông quần chúng, vẫn có thói quen tụ tập quanh Ngài, ở gần hồ. Họ lắng nghe Lời Ngài diễn giải, suốt cả ngày. Và, còn được Ngài chữa lành. Ngài chạnh lòng thương và xử thế rất nhanh chóng kẻo rồi tình thế trở nên xấu xa, không kịp cho dân chúng thoát nạn. Sự thể là: dân chúng hôm ấy chẳng có gì để ăn. Làng mạc lại ở xa. Thấy vậy, đồ đệ Chúa mới xin Ngài ra tay làm động tác ngoại lệ, để giúp họ. Nhưng Ngài nói rõ: Các ngươi hãy giúp họ…” Điều cần nhấn mạnh ở đây, là cụm từ “các ngươi” được thánh sử dùng đến. Cứ sự thường, mỗi lần có khó khăn, người người đều yêu cầu Chúa giải quyết. Hoặc, họ chỉ xin, chứ không tự mình tìm cách giải quyết.

Đồ đệ thấy thế, bèn kể Chúa nghe: “Ở đây, chúng tôi cũng chẳng có gì, chỉ một vài thứ…” không đủ cho vài người. Làm sao phân phát cho quảng đại quần chúng. Nói thế, có nghĩa: đồ đệ Chúa ở vào tình cảnh rất hãn hữu cũng đành bó tay, tuyệt vọng. Chẳng làm gì được, hoặc có làm thì cũng không ra hồn. Đó, chính là vấn đề đặt ra cho dân con đồ đệ: luôn thấy mình bất tài, vô vọng thì làm sao giúp ích nhiêu người được. Đó sự thường, mọi chuyện đều giống thế.

Và, đó là lúc Chúa ra tay làm thay cho đồ đệ. Ngài truyền cho đồ đệ bảo dân chúng ngồi xuống. Rồi Ngài cầm lấy thức ăn. Ngẩng mặt lên mà chúc tụng. Bẻ bánh ra. Và truyền lệnh phân phát cho dân chúng ăn. Trong hầu hết các sách Tin Mừng, ở đề mục, người đọc vẫn chỉ thấy những cụm từ, nào là: nhân rộng, hoá bánh thành nhiều. Nhưng chỉ mỗi bản Bẩy Mươi gốc Hy Lạp, là không thấy những chữ như thế. Trái lại, chỉ gồm mỗi động từ “phân phối”. Tức san sẻ những gì mình có. Cho mọi người.

Có thể là, chính Chúa gia tăng lượng thực phẩm, như ta nghĩ. Cũng có thể, phép lạ này, không chỉ là sự lạ của người trần. Do người trần làm ra, để người phàm trần biết mà san sẻ những gì mình có. Làm được thế, của cải trên thế giới mới đủ cho mọi người, quanh ta. Thật ra, người phàm trần vẫn đói nhiều kiến thức và quyền lợi đồng đều, hơn điều mình cần có, như cơm/bánh hằng ngày.

Và, khi ta đã biết sẻ san của cải thiêng liêng, như: tình yêu, lòng kính trọng và nhận biết những người sống chung quanh, thì khi đó ta sẽ không mất đi điều gì. Bởi khi ấy, ta càng được yêu. Càng được kính trọng và nhận biết từ những người được ta san sẻ. Ta tặng họ những thứ họ cần, như tình yêu. Nói cách khác, sẻ san cơm/bánh rồi cũng sẽ cạn dần thức ăn. Bởi, ai cũng đều có phần. Còn, san sẻ tình yêu, thì khác.

Ngoại trừ ngày hôm ấy, xảy ra phép lạ vật chất, rất có thật; và chắc rằng ai trong chúng ta cũng đều tin như thế-thì điều này cũng không quan trọng bằng những điều hệ trọng ở đây, hôm nay: là chính việc sẻ san. Phân phối. Không phải việc sản sinh cơm/bánh mới rất cần, mà là sự sẻ san, cho đi.

Đó, là điều mọi người trông đợi nơi người Do thái. Nơi, dân con Đạo Chúa vẫn được coi là tốt đẹp, lành thánh. Trông đợi mọi người sẻ san những gì mình đang có, đặc biệt ở bữa tiệc, là thức ăn. Trình thuật hôm nay, không thấy ghi về nỗi ngạc nhiên trước sự “lạ” nhận thấy được nơi quần chúng, hoặc đồ đệ, về việc Chúa làm. Bởi, dưới nhãn quan của họ, đó là những việc cần phải làm. Và nên làm. Dù, họ không thấy nhiều người thường vẫn làm như thế. Những gì xảy đến là việc phải đến. Xem thế thì, sẻ san/phân phối mới là ý chính của trình thuật.

Nay lại hỏi, trình thuật truyện kể hôm nay áp dụng cho ai đây? Điều gì cần áp dụng?

Nếu chỉ nhìn một phía, hẳn ta sẽ thấy trình thuật vẫn gói trọn tín thư rất khích lệ. Tín thư đây, đề nghị mọi người hãy ra ngoài trời mà tổ chức những buổi sinh hoạt, nhưng đừng mang nhiều, cho mọi người. Cứ cầu xin thật nhiều, tự khắc Chúa sẽ làm phép lạ lớn lao, để thuận ban cho ta, hầu mãn nguyện. Phải đó là việc Chúa vẫn làm vào các buổi tụ tập, rất đông người? Ai là người khả dĩ lập lại cùng một phép lạ khi con dân Ngài hết của ăn/thức uống, mà trời thì tối. Lại xa phố xá cùng phố chợ?

Nhìn vào thế giới, nếu người người biết sẻ san những gì mình hiện có cho người khác, nhất là những người thiếu thốn hoặc chẳng có gì để sống còn, thì thực chất của vấn đề thực ra không phải chỉ là việc “nhân rộng” hoặc “hoá bánh thành nhiều”, cho mọi người. Mà là, thế giới hôm nay đã có quá nhiều thứ, cho mình dùng. Có nhiều hơn tình trạng bình thường mình vẫn có. Trong khi đó, có những thứ mình có thì lại ít hơn phải có, đó là: lòng lân tuất. Chính trực. Và, nhớ rằng: người khác cần nhiều hơn mình.

Quyết sẻ san, là: nhất quyết giảm đi những gì ta đang có. Giảm, niềm vui vì có của dư của để, và sự thoải mái cho bản thân. Như thế, mới gia tăng của cải và sự thoải mái cho người còn thiếu thốn được. Phải chăng, đó là điều Chúa muốn ta làm ngay, lúc này? Thánh Phaolô có lần nói: “Quả thật, anh em biết Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2Cr 8: 9-10)

Quả có thế. Khi ta có rất ít để có thể sống sót, thì lúc đó ta sẽ tìm cách trở nên người khác, không phải để có được sự thoải mái mình vẫn sống trước đây, nhưng còn phải hơn trước, rất nhiều. Phải chăng đó là điều Chúa dạy ta phải như thế, qua phép lạ “sẻ san”, cho đi này?

Ngày nay, ta không thể sửa đổi cái nghèo của thế giới bằng cách tổ chức những bữa ăn ngoài trời, cho nhiều người. Mà là, đổi thay cơ cấu kinh tế/chính trị của thế giới, tận thâm căn. Ngày nay, phải chăng cơm áo gạo tiền, là những gì ă sâu nơi kinh tế thế giới? Của ăn và thức uống có là khó khăn của những người bị mất việc. Những kẻ sống vô gia cư, chết vô địa táng? Vẫn cứ lang thang ngoài phố chợ?

Và cứ thế, các vấn đề khúc mắc cứ mãi đặt ra như: có là điều bức bách đối với người không điện thoại di động? Không thẻ tín dụng. Không an sinh? Những người không có, là không có gì? Phải chăng cơm áo, gạo tiền là vấn đề bức bách nhất? Tại sao người nghèo đói lại là người dễ bị SIĐA nhất?

Tại sao ta vẫn được bảo cho biết: phân nửa dân số thế giới hôm nay vẫn cứ than phiền là mình không đủ ăn? Tại sao phân nửa số người còn lại, chỉ phàn nàn về tham vọng. Dục vọng. Và, khát vọng? Có lẽ, đã đến lúc ta nên ngồi lại mà tái thẩm định hệ thống giá trị, để rồi sẽ làm được điều gì đó, cho mọi người. Chí ít, là những người còn thiếu thốn. Nghèo hèn. Khá bức bách.

Phải chăng trình thuật hôm nay chỉ kể đến bẩy thứ, như cá và bánh Chúa ban cho những người theo chân Ngài, mà nghe giảng? Không. Tám thứ mới đúng. Bởi, ở buổi Tiệc Ly, chính Chúa cũng ban cho ta Thân Mình Ngài, để ta nhận lấy mà ăn. Giả như, ta thực sự nuôi sống bằng sự hiện diện của Ngài. Bằng, hệ thống giá trị Ngài ban cho, có lẽ thế giới mình đang sống, sẽ khác. Hẳn là, khi ấy, ta mới thực sự có được bữa tiệc ngoài trời, Chúa tổ chức. Theo kiểu của Ngài. Mới đúng.

Trong tâm tình đó, cũng nên ngâm câu thơ để ngỏ của nhà thơ viết về sự “Ấm cúng”, như:

 

“Em bớt lạnh chưa?

Lòng tôi kề đó,

Một ngọn đèn đỏ,

Đôi lòng đêm xưa.

Em ngồi em nhớ,

Tôi ngồi tôi mơ:

Một đời nho nhỏ,

Một phòng xinh xinh,

Cảnh trời mưa gió,

Và hai chúng mình.”

(Đinh Hùng - Ấm Cúng)

 

Với nhà thơ, bớt lạnh chỉ mỗi hai chúng mình. Nhưng với nhà Đạo, người bớt lạnh,chỉ khi nào ta biết sẻ san nhưng cơm, cùng áo. Với gạo tiền. Đó cũng là ý nghĩa của trình thuật, rất hôm nay. Và mai ngày. Ở nơi đây.

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 19 thường niên năm A  

 

“Anh đã thấy, dáng em buồn cúi mặt,”

Anh cảm lòng, vì lệ của thương đau.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

 

 

Mt 14: 22-33

Anh cảm lòng, vì lệ của thương đau hay thấy dáng em buồn? Hẳn, đó có là tâm trạng của nhà thơ, khi xưa? Em chạnh lòng, là bởi xót thương hơn hờn giận, đấy mới là tình tự của nhà Đạo. Rất hôm nay.

Trình thuật thánh Mátthêu hôm nay, ghi về niềm tin vào Tình Chúa, có thánh Phêrô dám bước khỏi thuyền mà đi bộ, trên sông nước. Nên chăng, gọi đó sự việc kỳ diệu, hay phép lạ? Gọi gì thì gọi, cũng nên nói rõ ở đây, về những khác biệt giữa sự việc diệu kỳ và phép lạ. Bởi diệu kỳ, là những gì ta không cắt nghĩa được, vào mọi lúc. Ta ở vào thế giới có quá nhiều điều kỳ diệu, nên chỉ cảm nghiệm chứ không giải thích được.

Nhà Đạo, gọi sự việc kỳ diệu Chúa làm là: “phép lạ”. Bởi, phép lạ cũng tạo hành xử tốt đẹp hơn chỉ cảm nhận những điều kỳ diệu ấy. Tốt đẹp, là nhờ niềm tin. Tin chắc, là Chúa hiện diện ở trong và ở trên mọi diệu kỳ. Và, ta quyết sống thực điều diệu kỳ bằng cung cách rất đặc biệt. Bởi, Chúa có làm điều huyền nhiệm diệu kỳ, cũng vì ta. Để, ta sống cảnh tình đặc biệt ấy, theo cung cách trực tiếp. Thế nên, phép lạ/kỳ diệu là sự việc mà dân con thành tín vẫn tin rằng: Chúa hoạt động vì ta, theo cung cách bất ngờ. Đặc biệt.

Phải chăng ta vẫn tin phép lạ/kỳ diệu, vào mọi lúc? Nhất định thế. Ta tin rằng, ai từng cảm nghiệm và tin Chúa vẫn đang làm điều diệu kỳ, đẹp như thế. Nhưng, vấn đề là hỏi rằng: Chúa có làm điều diệu kỳ như thế, thường xuyên chăng? Có thể là không, vì người người đều nghĩ Chúa chỉ thực hiện những điều hợp với thiên nhiên. Ngài để mọi sự trôi chảy, cách tự nhiên. Để con tim Ngài, đập theo nhịp đập của thiên nhiên trần thế, rất diệu kỳ. Và, phép lạ/kỳ diệu không là cung cách duy nhất giúp ta cảm nghiệm sống có Đức Chúa.

Trình thuật, nay kể về phép lạ/diệu kỳ, rất tự nhiên. Phép lạ, mà đồ đệ Chúa đạt được là tin có Chúa hiện diện, bên mình. Truyện kể về việc đồ đệ bắt được số cá, nhiều vô kể. Việc Chúa truyền lệnh cho gió bão phải lặng êm. Về, chuyện Ngài đi trên sông nước, như trình thuật nay diễn tả. Là, Chúa thực hiện diệu kỳ cho người ngoài cuộc. Điều này, không có gì để ngờ vực,cả về tính lịch sử, cũng thế. Trình thuật, kể nhiều về Chúa làm những việc lạ lùng hơn cả tự nhiên, là cốt cho dân con, người trong cuộc, nhận thấy rõ. Ngõ hầu, đồ đệ thấy đó mà tin vào Ngài. Truyện kể rất hay. Rất giá trị. Nhưng, ta sẽ đọc và hiểu trình thuật phép lạ/diệu kỳ như thế nào? Có coi đó như sự thật rất lạ về Chúa, không?

Vấn đề là: ta có hiểu trình thuật phép lạ, theo nghĩa đen không? Hoặc, chỉ như sự kiện cụ thể về Ngài. Hoặc, ta phải hiểu trình thuật như một biểu tượng. Rất giả tưởng? Phải chăng, việc Chúa đi trên nước, là có thật? Hay, đó chỉ là cung cách đem đến cho ta một luận cứ, sứ điệp? Hoặc, cả hai?

Về cảnh trí, sự việc xảy ra là xảy đến trên biển hồ Galilê, có đồ đệ lên thuyền để bắt cá. Thuyền không to. Nhưng, rất vững. Và kiên định. Hôm ấy, ngày đặc biệt Chúa dạy dân con đồ đệ hãy lên thuyền mà ra khơi, không có Ngài cùng đi. Ngài muốn ở một mình, để nguyện cầu suốt cả đêm. Ngài nguyện cầu, khi nhà cầm quyền những muốn ám hại, giết chết. Nguyện cầu chốn tư riêng nơi Vườn Dầu. Và đồ đệ Chúa đành miễn cưỡng tuân lệnh.

Đêm ấy, thuyền xa bờ chừng 5 cây số. Vẫn chìm trong bóng đêm, chập chùng. Bỗng nhiên, phong ba/bão táp dồn dập đến, khiến đồ đệ vốn đã mệt, lại càng mệt thêm. Các thánh nào sợ gì giông bão vì các ngài vẫn nghĩ, mỗi khi gặp điều gì chẳng lành, đã có Thầy đoái hoài, đỡ nâng. Và đêm ấy, các ngài đã thấy Thầy Chí Thánh bên mạn thuyền, trên sông nước. Ngại rằng Thầy sẽ chết ngụp vì mải đến với dân con đồ đệ. Nên, đó cũng là lúc các thánh lãnh nhận sứ điệp: “Anh em đừng sợ! Hãy can đảm mạnh dạn lên! Thầy đây vẫn phải giáp mặt với sự chết. Nhưng, Thầy sẽ sống. Bởi sau cái chết, vẫn còn đó cuộc sống miên trường. Này đây, Thầy đã có mặt. Anh em cứ an tâm”. Và, các thánh rất an tâm là: lúc nào cũng có Thầy, ở cạnh bên. Các ngài thấy Thầy chầm chậm bước vào thuyền. Sóng gió bèn lặng yên.

Thật ra, trình thuật nay muốn nói lên thông điệp quan trọng, là: Chúa vẫn phải giáp mặt với sự chết. Nhưng, Ngài lớn lao hơn cả cái chết. Kịp đến khi các thánh nhận ra là Thầy đang ở cạnh bên, nơi mạn thuyền, thì rõ ràng, là: Thầy còn cao cả hơn cả lớp sóng vỗ, rất dữ dằn.

Thông điệp nay, là thông tri để người người biết rằng: quyền uy cao cả của Đức Chúa luôn lớn hơn sự chết. Và, những gì liên quan đến uy quyền của Ngài vẫn uy nghi, cao cả hơn cả thiên nhiên, vạn vật. Hơn sự chết. Ai tin Ngài, bằng niềm tin đích thực, thì chính Ngài là sự lạ lùng/kỳ diệu, ta ắt thấy. Trình thuật Chúa đi trên nước, nhìn dưới nhãn quan này, sẽ ăn khớp với tình huống xảy đến sau ngày Chúa sống lại, vẫn rất thật.

Tuy nắm bắt được thông điệp Chúa gửi, nhiều người vẫn tự hỏi: “Có thật là Chúa đi trên nước, không?” Người Do thái xưa, tin rằng Giavê vẫn làm thế. Họ tin: chính Môsê cũng từng ra lệnh cho Biển Đỏ tách làm hai cột dọc nước rất khô, là để con dân Chúa xuất hành về Đất miền Ngài từng hứa. Có thể là, một số người trong họ vẫn nhớ truyện thần thoại anh hùng hảo hán ở Hy Lạp, có hiền nhân cũng từng đi trên nước. Có thể, tác giả xưa từng sử dụng chi tiết ấy để nói lên sự thể về Đức Chúa lớn lao hơn cả anh hùng hảo hớn, rất Hy Lạp. Hơn hẳn tổ phụ Môsê. Và, ngang bằng với Giavê Thiên Chúa. Tác giả khi xưa, vẫn viết truyện kể rất phép lạ, để nói lên điều kỳ diệu Chúa vẫn làm. Nhưng, phải chăng tác giả Tin Mừng nay muốn nói: truyện kể về sự lạ/diệu kỳ đây, thật sự từng xảy đến? Phải chăng, chính thánh sử đây muốn minh chứng rằng: việc Chúa bước đi trên sông nước, là có thật?

Thật ra, khi ghi chép lại trình thuật hôm nay, tác giả Tin Mừng chỉ muốn đưa ra một biểu tượng để cho mọi người thấy là: trên thuyền Hội thánh, vai trò của Chúa Đấng Thủ Lãnh, rất hệ trọng. Chỉ mình Ngài, là Đấng có trọng trách hướng dẫn, hết mọi người. Đồ đệ thân thương của Ngài có thể giữ vai trò lãnh đạo, nhưng không thể cáng đáng con thuyền Hội thánh, và cũng chẳng kham nổi sóng gió, nếu không có Ngài đỡ đần, phụ giúp. Chở che.

Vấn đề là: ai làm được việc quản cai Hội thánh, nếu Chúa không đỡ đần. Cả đến tông đồ cùng dân con đồ đệ lẫn đấng bậc cao tít, đầy tớ Chúa, cũng chẳng thể tạo cho mình quyền uy cao cả, nếu không có Chúa phụ giúp. Như thánh Mátthêu ghi rõ ở trình thuật.

Lời minh định rõ nhất mà trình thuật hôm nay đưa ra, là: sự lạ/diệu kỳ được thể hiện nơi đặc trưng của Chúa, để mọi người tin Ngài. Tất cả, đều tin vào sự lạ/diệu kỳ nơi bản thân Chúa, qua việc Ngài vượt trên phong ba/bão táp. Trên, cả sự sống lẫn cái chết. Và hệ quả, là: mọi hãi sợ nơi ta đã giảm bớt. Tác giả Tin Mừng, như thánh Mác-cô và Mát-thêu, cũng quan niệm như trên. Tuy nhiên, cho đến nay, Hội thánh vẫn chưa có phán quyết rõ rệt về vấn đề này.

Thêm vào đó, thánh Mátthêu ghi lại trình thuật hôm nay, là: rút tỉa từ truyện kể do thánh Máccô sáng chế. Và, thánh sử Mátthêu còn thêm vào đó đôi điều, cho hợp nghĩa. Lại nữa, ở trình thuật hôm nay, ta đều thấy thánh Phêrô bao giờ cũng là người có tính hồn nhiên, bộc trực, nên bất chợt thánh nhân bốc lên mà đi trên sông nước, đến với Thầy. Để rồi, không lượng được sức mạnh niềm tin nơi chính mình, thánh nhân đã bị ngộp. Phải nhờ Thầy giơ tay nâng đỡ, mới xong việc. Sự việc quả đã rõ: thánh Phêrô chỉ nhận ra được phép lạ/diệu kỳ là lúc bản thân mình được nâng đỡ, chữa lành. Chẳng do dự.

Thêm vào đó, sự lạ/diệu kỳ ở trình thuật còn thêm, là: thánh Phêrô nhận ra được sự thật là: Thầy luôn ở cạnh mình, để mình được Thầy cứu vớt. Rất có thể, thánh Mát-thêu ghi trình thuật này, là để nói lên luận cứ về quyền lãnh đạo Hội thánh. Thánh Phêrô không thể đi trên sông nước, không giải quyết được phong ba bão táp của Hội thánh, mà không có sự tiếp tay/đỡ đần của chính Chúa.

Thành thử ra, ta có nghe và đọc trình thuật theo chiều hướng nào đi nữa, cũng chớ nên biện luận, tranh cãi. Cách ly. Nhưng, hãy cứ mạnh dạn đương đầu mọi khó khăn/trở ngại trong cũng như bên ngoài Thánh Hội. Hãy vượt lên tất cả, mà cùng với Chúa. Vì Chúa. Như Chúa vẫn làm. Và, hãy khuyên nhủ bạn bè người thân: “Chớ hãi sợ! Mọi sự đã có Chúa tiếp tay, đỡ đần.”

Tóm lại, dù mọi người/mọi nhà đã có ao hồ ở sau vườn, cũng đừng thử thời vận mà bước đi trên sông nước. Làm thế rất nguy hiểm, vì dù vẫn tin mình làm được, cũng đừng hành xử như thế, nếu không có phép của đấng bậc ở bên trên. Của, vị lãnh đạo nhà mình, nhà Đạo.

Rút tỉa bài học từ trình thuật trên, ta cũng nên ngâm nga lời ca của thi sĩ, vốn từng viết:

 

“Và từ đây, trong khe núi bên ngàn,

Các em dạo, làm những hồn oan khổ.

Anh bơ vơ, lạc trên đường thiên cổ.

Lạnh tâm tư, mờ tỏ ánh tinh cầu

Mất Anh rồi, các Em sẽ về đâu?”

(Đinh Hùng – Cung Đàn Tưởng Niệm)

 

Quả có thế. Dù bơ vơ, lạc lõng bên đường, trên sông nước, các Em là Hội thánh vẫn không mất đi người Anh Cả. Chẳng mất được Ánh Tinh Cầu. Bởi, vẫn còn đó Nước Trời người anh em. Ở đây. Bây giờ.

 

Suy Niệm Chúa Nhật thứ 20 thường niên Năm A  

“Đàn rơi phiếm rũ, sầu mưa gió,”

“Nguyệt khuất mây mờ, lạnh khói sương”

(dẫn từ thơ Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân)

 

 

Mt 15: 21-28

Sầu mưa gió. Lạnh khói sương. Có thể, đó là cảnh tình của người đời. Đàn rơi phiếm rũ. Nguyệt khuất mây mờ. Nhưng, cũng chưa hẳn là tình tự của người trong Đạo, bấy lâu nay.

Tình tự nhà Đạo, nay thánh Mát-thêu kể về nữ phụ xứ Canaan gặp Chúa, rất cảm kích mới có lời xin. Xứ Canaan, có thủ phủ Ty-a và Si-đôn là đất miền cận duyên, bên bờ Địa Trung Hải. Hai thị trấn cách đất liền đến 80 cây số, phía Nam Phênixia. Hôm nay, thánh sử kể về các sinh hoạt khác thường của Chúa, ngoài đất nước Do thái, ở xứ Canaan.

Về sinh hoạt Chúa làm, ngoài xứ miền Do thái, thánh sử kể cũng khá nhiều. Nhưng, không nói lý do tại sao Chúa đi xa như thế. Có thể, Chúa đã mệt vì đường xa, xứ lạ. Thế mà, khi nữ phụ xa lạ lại đón Chúa vào thôn làng. Cũng có thể, luận cứ ở truyện kể còn quan yếu hơn chi tiết địa dư, khoảng cách.

Trình thuật nay là truyện kể nữ phụ “ngoài luồng” và con gái bà lâm bệnh. Đúng ra là, mẹ con bà sinh sống ở xứ miền Phênixia. Với người Trung Đông, Canaan là một trong những địa danh có tên rất xấu, gồm toàn những người lạ kỳ, về nhiều thứ ít thấy trong Thánh Kinh.

Nói gì thì nói, nữ phụ Canaan đây, thuộc lớp người ngoài Đạo, là người dưng khách lạ mà lại được Chúa đón nhận như người trong cuộc. Bởi thế nên, luận điểm đề cập nơi trình thuật hôm nay là để nhấn mạnh lối hành xử rất nhân lành hầu đón nhận người ngoài vào với cộng đoàn Hội thánh mình.

Trình thuật, nay nhấn mạnh khuynh hướng gọi họ bằng những tên rất xấu, để loại bỏ. Loại và bỏ, như người thời nay khi nói đến dân con Ả Rập/Hồi giáo, người người có thói quen chụp lên người họ bằng những mũ chụp thiếu thanh tao/lịch sự, như: dân Rệp hoặc đám Hồi giáo khủng bố. Và, trình thuật nay cũng nói đến cung cách Chúa dung nạp những người mang tai tiếng, xấu đến như thế.

Mặt khác, nữ phụ này lại có người con vướng mắc một thứ tật bệnh mà người thời ấy gọi là “quỷ tha ma bắt” khiến bà phải gào thét đến cuồng điên, cốt để Đức Chúa Nhân Hiền nghe biết đến với bà, để chữa trị cho con gái bà. Ngài có chữa kẻ ngoài luồng mắc chứng dơ bẩn hay không, đó mới là vấn đề. Và, dân thường thời bấy giờ vẫn còn thắc mắc.

Kể ra, thì nữ phụ Canaan dù ngoài Đạo, nhưng đã tin Đức Kitô, nên bà gọi Ngài là “Con Vua Đavít“. Với thánh Mát-thêu, bà là người đầu tiên trong kinh thánh, dám tuyên xưng Ngài là Chúa, bằng miệng lưỡi. Chính bà là người dùng lời khẩn cầu phụng vụ và thánh vịnh của các đấng bậc từng tuyên tín vào Đức Kitô, như lời kinh phụng vụ lâu nay vẫn nhắc: “Xin Chúa thương xót chúng tôi.”, một lời kinh bằng tiếng Hy Lạp, rất “Kyrie eleison”, trong thánh lễ. Bà còn bái gối lạy quỳ trước mặt Ngài, một động thái khẩn nài ít thấy nơi người Do thái, khi nhắc nhớ điều gì với Giavê Thiên Chúa.

Nói rõ hơn, nữ phụ ngoài Đạo đã van xin Chúa một ân huệ, rất khó thực hiện: là, xin Ngài vượt lằn ranh thói tục luôn chê bai kẻ hạ cấp/thấp hèn như mẹ/con bà, những kẻ bị đào thải khỏi mọi chọn lựa trở nên dân riêng của Giavê. Bà xin Ngài thực hiện điều mà Giavê Đức Chúa không có chọn lựa nào khác ngoài việc đưa toàn thể mọi người về với tình thương. Cả khi đồ đệ Ngài bày tỏ: “Hãy bảo bà ấy đi đi, đừng đến mà làm phiền Thày.”

Nơi trình thuật, chừng như Đức Giêsu đã thách thức lời kêu cầu của nữ phụ bằng lời từ chối. Đây là việc ít thấy ở Tin Mừng, mà các thánh vẫn ghi. Bởi lẽ, kinh nghiệm cho thấy, hễ ai kêu cầu Chúa điều gì, Ngài vẫn đáp ứng bằng đáp ứng trọn vẹn cho người ấy. Trường hợp ở đây, không giống thế. Ngài không ứng đáp lời kêu cầu của nữ nhân ngoại luồng, là bởi vì Chúa Cha gửi Ngài đến với dân con được chọn, thôi. Sứ vụ Ngài thực viện, chỉ dành cho dân con người Do thái, rất đích thực. Chính vì thế, mà người đọc mới nghe thấy những câu so sánh cũng khá lạ:“Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho lũ chó con (ở ngoài)." (Mt 15: 26). Bằng vào lời này, ta thấy người Do thái xưa vẫn coi dân “ngoài luồng”, rất thấp hèn. Thách thức ở đây, còn có nghĩa: Chúa phản ứng như người Do thái bình thường sống theo luật, không để lời nài van từ ngoài, áp lực Ngài hành xử ngoài ý định của Cha.

Nhưng, nữ phụ Canaan vẫn thưa:”Đúng thế, thưa Ngài, nhưng lũ chó con cũng được hưởng vụn bánh trên bàn chủ, rơi xuống." (Mt 15: 27) Điều mà bà goá xứ Canaan muốn nói đến, là: loài chó nuôi trong nhà, tuy chạy rong ngoài đường, nhưng cũng được hưởng ơn lành như thú đã thuần hoá. Tức, phải được hưởng công bằng cần thiết. Bên tiếng Hy Lạp, mỗi khi nói đến loài chó nuôi, là nói đến gia súc sống gần gũi với chủ, do đó ít nhiều cũng được đối xử như người nhà, gần chủ nhà. Tức, cũng có chỗ đứng/ngồi gần bàn tiệc, dù dưới gầm. Và đây là trọng điểm mà vấn đề trình thuật đặt ra.

Ngay đó, Chúa thay đổi cung cách Ngài đối thoại bằng ngợi khen niềm tin của người đàn bà. Trình thuật không nói rõ đó có là niềm tin vào Ngài, vào Chúa hay không. Nhưng, nữ phụ Canaan lại đã chứng tỏ rằng bà vẫn là bản vị hiện hữu cần được đối xử như người trong cuộc. Xem thế thì, qua việc khen ngợi niềm tin của bà goá, Chúa muốn bảo cho mọi người biết: nữ phụ “ngoài luồng” này, nay đã là người trong cuộc. Tức, đã có trọng trách khiến cho người dưng khách lạ thấy được sự công bằng cần có, khi đối xử với người trong cuộc. Trong Đạo. Tức, cần dân con trong Đạo yêu thương, đón nhận họ để họ trở nên thành viên Hội thánh, như mọi bản vị biết thương yêu. Nhân hiền.Cởi mở.

Cũng có thể, thánh Mát-thêu đã ghi lại tâm tình của Chúa muốn nói đến các chủ thể lâu nay vẫn bị coi rẻ như loài chó, cốt để thử thách niềm tin, thôi. Kịp khi nữ phụ Canaan sẵn sàng chấp nhận thân phận thấp hèn lâu nay của mình, bị đối xử tồi tệ như loài thú, nhưng vẫn muốn được yêu thương/trọng đãi như người nhà. Bởi, loài chó lâu nay vẫn được coi là gia súc rất trung thành với chủ mình. Vậy thì, loài gia súc đã thuần hoá, có thuỷ chung với người trong nhà, hay không? Nữ giới trong cuộc, có được đối xử đồng đều như nam nhân không? Có được yêu thương kính trọng không thua kém nam nhân không?

Đó là qui cách mà nữ phụ Canaan dùng đến, cốt để thuyết phục Chúa. Chính bà là người dám bộc lộ với Chúa tâm trạng của người “ngoài luồng”. Và, kêu cầu của bà, chính ra là để mọi người trong cuộc nên coi lại mà đối xử bà ngang bằng như người trong cuộc, một khi dân con của Chúa tin vào tình thương và sự lương thiện. Đây còn nói lên một đặc trưng yêu thương là không bao hàm yếu tố “lằn ranh/biên giới”, trong với ngoài!

Ngay đến ý định của Chúa Cha khi chọn lựa con dân trong hoặc ngoài luồng để cứu rỗi, giống như thế. Chúa có tự do thực hiện việc chữa lành cho bất cứ ai, kể cả những người trong hay ngoài luồng. Họ vẫn là những hữu thể, cũng tử tế, ngang bằng nhau. Và, họ cởi mở, ăn ở phải phép hệt như nhau. Lời nài van của nữ phụ, tuy không nói rõ, nhưng đã chứng minh được điều đó. Và, kết quả là: Chúa đã ban cho bà những gì bà khẩn nài. Con gái bà được chữa lành. Vậy, ý của trình thuật thánh sử muốn nhấn mạnh, là: hãy coi khách lạ người dưng, như người nhà vậy.

Điều khác nữa, là: thông thường thì, loài thú ít được nhắc đến ở Tin Mừng. Nhưng, khi đã được nhắc nhở, chúng đều có tên. Ta biết được tên loài thú vào hôm kiệu lá, lễ Vượt Qua, là: chú lừa. Và, loài thú được nói đến, khi thánh Phêrô chối bỏ Thầy mình, là gà trống. Ngoài ra, còn có: chiên lạc. Dê hiền. Đàn heo sạch vv...

Có vị giáo lý viên nọ người Pháp, vẫn quen thói đặt tên cho một số loài thú được nhắc đến ở Tin Mừng, như: chú lừa vào lễ Vượt Qua gọi là: lừa Placiđô. Gà trống hôm thánh Phêrô chối Chúa, là gà “Archibald”, vv… Còn chó nuôi trong nhà, ở trình thuật hôm nay, nên đặt tên gì đây?

Còn một điều cần kể thêm, là: ở trình thuật các thánh ghi, bất cứ ai được Chúa chữa lành, đều đã trở thành đồ đệ đắc lực, quyết theo chân Ngài, mà rao giảng. Con gái nữ phụ xứ Canaan đây, có làm những việc như thế không?

Tựu trung thì, bài học mà thánh Mát-thêu để lại nơi người đọc hôm nay, là: khi nghe ai đó gọi người Ả Rập bằng những tên rất xấu, như “dân Rệp”, hoặc “bọn Hồi giáo chuyên khủng bố”, vv… thiết tưởng người nghe/đọc Tin Mừng cũng nên liên tưởng đến chú chó vẫn nằm chực dưới gầm bần của chủ, để được hưởng ơn mưa móc của người trong nhà. Suy cho cùng, thì: loài chó nuôi trong/ngoài nhà, vẫn là gia súc được yêu thương, nể trọng. Không phải vì chúng sở hữu đặc tính trung thành với chủ. Mà, vì chúng được coi như thành viên như người nhà. Không là người dưng nước lã, nữa.

Sở dĩ Đức Giêsu là Đấng chữa lành mọi người, trong ngoài nhà Israel, vì Ngài là Đấng Nhân Hiền trong cuộc. Rất cao cả. Học được bài học quý giá rút tỉa từ trình thuật hôm nay, hẳn người nghe/đọc, sẽ quyết tâm noi gương lành của Chúa mà xử thế. Xử giống như Ngài vẫn dạy.

Với tâm tình đó, cũng nên ngâm nga lời ca mà người nghệ sĩ trích dẫn ở trên, từng bộc bạch:

“Gương hờn tủi phận, vùi son phấn,

Lược trách buồn duyên, lỡ đá vàng!

Hương sắc đắm chìm, thân mệnh bạc,

Thương lòng xót liễu, rụng đài trang!”

(Nhật Hồng Nguyễn Thanh Vân – Thương Tiếc)

 

Thương và tiếc, không chỉ “xót liễu, rụng đài trang” thôi, mà còn “trách buồn duyên, lỡ đá vàng”. Trách và thương, những ai vẫn cứ coi dân “ngoài luồng” như chú chó chạy ngoài đường, không thương tiếc. Mà quên rằng, Chúa vẫn tiếc và thương hết mọi người. Mọi loài. Vào mọi thời.

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 21 thường niên năm A

“Còn gặp nhau thì hãy cứ thương,”

tình người muôn thuở vẫn còn vương.”

(dẫn từ thơ Tôn Nữ Hỷ Khương)

 

 

Mt 16: 13-20

Nước chảy hoa trôi, chuyện ở đời. Vui ngày gặp lại, chuyện đời ta. Chuyện của đời ta hay của dân con nhà Đạo, vẫn là trình thuật mà thánh sử Mát-thêu nay đã ghi.

Trình thuật thánh Mát-thêu, nay ghi một chuyện đời có lai lịch tự sự, về Hội thánh mà người người đều đã nghe nhiều lần, rất tường tận về vai trò, chức vụ và quyền uy của thánh Phêrô, đấng đầy-tớ-Chúa trong Hội thánh.

“Anh là Phê-rô, nghĩa là Đá Tảng, và trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”, vẫn là lời vàng ghi trên cao nơi bàn thờ ở Vương Cung Thánh Đường ở La Mã. Lời vàng, nay mang ý nghĩa gì?

Dĩ nhiên, đây không là tuyên bố chính thức, một thứ “luật bất thành văn” như nhiều người nghĩ tưởng hoặc cho như thế. Đây chỉ là tên gọi riêng, thông thường được tặng gán cho thánh Phêrô, vào thời đó. Tên của thánh nhân là Shi-môn (hoặc: Si-môn, bên tiếng Do thái). Tên tục, mà Chúa vẫn gọi bằng tiếng Aram là Kêpha. Tiếng Hy Lạp, là: Petros. Tiếng Anh, là: Đá Tảng, nên ta luôn hiểu thánh nhân là như thế. Tên như thế, là hiểu theo biểu tượng và ý nghĩa “Đá tảng” mà Chúa dùng để nói về thánh nhân, thôi.

Ta lại bảo: Chúa đã làm cho thánh nhân trở thành “tảng đá”, hoặc nền tảng rất cứng như đá trên đó Ngài dựng xây cộng đoàn mới mẻ, là Hội thánh của Ngài. Ảnh hình về đá tảng có cạnh góc làm nền cho dinh thự/nhà cửa là điều được người Do thái vẫn thừa biết. Do thái, là nước được xây trên đá tảngrất nền tảng của Sion, tức: đền thánh Giêrusalem, mọi người đều biết, đặc biệt người Hồi giáo nay còn sùng kính “Đá Tảng Vòm Cung”, trên đó nữa.

Người xưa nghĩ: vũ trụ này chắc cũng được xây trên đá tảng nào đó, giống như thế. Ngày nay, khi nói về nền tài chánh, có người còn hình-tượng-hoá hệ thống kinh - tài của nhiều nước như đá tảng vững chắc. Đá tảng, còn là tên mà người Do thái dâng lên Giavê Thiên Chúa, Đấng là Nguồn Bình An. Là, Nền Tảng của mọi sự. Ý tưởng này, thấy nhiều ở Thánh vịnh lời ca trong Cựu Ước vẫn coi “đá tảng”, là nơi an toàn ta tìm đến mà trú ẩn, không sợ hãi. Cũng thế, ta quan niệm thánh Phêrô là biểu tượng của an toàn trong Hội thánh. Từ nền tảng an toàn này, nhiều Đức Giáo Tông cũng nghĩ về vai trò của mình, y như thế.

Không rõ đó có là ý tưởng của thánh Mát-thêu khi viết trình thuật này, không? Có thể, khi viết thế, thánh sử liên tưởng đến truyện về Môsê được kể ở sách Dân số (x. Ds 20: 11). Với thánh Mát-thêu, Đức Giêsu chính là Môsê Mới. Bởi thế nên, khi ông được Giavê dạy bảo: “Hãy lấy gậy mà đập vào đá tảng, nước sẽ chảy ra cho dân con uống”. Lúc đầu, Môsê còn do dự. Gõ mãi, chẳng thấy gì. Gõ lần nhì, tức thì nước từ đá tảng chảy ra. Chảy, đến độ nhiều người coi đó như “đá nhỏ lệ”, hoặc: “lệ đá xanh”. Có điều ai cũng rõ, đó là: mọi người đều cần đến nước. Nước, là sự sống phát xuất từ đá tảng từng chảy nước mắt/khóc ròng có nguồn gốc là thế. Và, khóc là động thái mang lại sự sống cho kẻ khác. Cho người khác như trẻ bé lúc chào đời, cũng giống thế.

Trình thuật, nay cho thấy: Đức Giêsu nghĩ về “đá tảng” xưa khi Ngài tỏ bày với ông Simôn, như đã nói: “Ông là đá tảng chảy nước mắt giữa dân con Thầy” (x. Mt 16: 18a). Tức, ông sẽ chảy nước mắt, khóc ròng với lòng xót thương mọi người. Và, đó là chức năng chính mà Chúa muốn thánh Phêrô thực hiện trong Hội thánh. Đó, cũng là cung cách mà thánh nhân cùng các lãnh đạo Hội thánh được ủy thác để rồi chính mình lại ban thứ “nước” sống động ấy cho mọi quan viên trong thánh Hội. Thật khó mà tưởng tượng chuyện các thánh có địa vị như Phêrô đem “nước sống động” ấy cho Hội thánh, mà lại không khóc ròng vì thánh Hội, vào mọi lúc.

Đây, còn là ý tưởng chủ lực về vai trò/quyền uy của Đức Giáo Tông và đấng bậc vị vọng trong hội thánh, ở mọi cấp. Bởi, đã là thành viên Hội thánh, thì cả các đấng bậc lẫn Đức Giáo Tông, đều phải vững như đá, đến độ: không gì có thể mua chuộc hoặc làm suy xuyển lòng dạ sắt đá của các ngài. Và, câu hỏi đặt ra, là: ai trong hàng ngũ các ngài, lại có thể chảy nước mắt cho Hội thánh? Với Hội thánh, không? Ai có thể làm cho mọi tình huống trong thánh hội bớt gay go và tạo được khả năng thực hiện những gì ta nghĩ là không thể hiện thực được?

Câu trả lời, sẽ là: nếu Đức Giáo Tông và các bậc vị vọng trong hội thánh trả lời được câu hỏi ở trên, thì chỉ khi ấy các ngài mới thấy được “nước sự sống”, rất đích thực, Chúa dành cho mọi người. Chỉ khi ấy mọi người mới hưởng được ơn huệ sống động từ đá tảng “Hội thánh” chảy ra cho mình. Mới thấy phát sinh sự sống thực có được, từ nỗi chết. Có thế, ta mới đạt một loại hình rất khác biệt về bí nhiệm “Vượt Qua”.

Bằng vào ý tưởng trên, thánh Phêrô là biểu tượng của lòng đại độ/xót thương đối với các bản vị trong Hội thánh. Với các vị đang chân thành đến với Hội thánh. Hoặc, đang quan hệ với thánh Hội. Bởi, Hội thánh thực sự không chỉ -và không là- biểu tượng của an ninh/an toàn, cho một tổ chức nào hoặc một nhóm nào đó, mà cho tất cả mọi người. Và cho tất cả mọi nhóm hội/đoàn thể. Chỉ khi ấy, thánh Phêrô-là-Vị-Đầy-Tớ-Chúa mới không bị tách biệt khỏi thánh hội.

Bởi, thánh nhân được gìn giữ khỏi mọi tai ương, bất lợi. Bởi, thánh nhân ở trên và ở ngoài mọi bi hài kịch đời người, là thánh hội. Ngài là “đá tảng” từng chảy nước mắt/khóc ròng vì dân con của mình. Thánh nhân chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện để cho thành viên của mình ở bên trong đá tảng. Ở giữa những cam go, khó khăn. Gay gắt. Ngài là đấng bậc biết cảm thông với mọi thành viện trong thánh hội, mọi hoàn cảnh. Đó là vai trò của Simôn, rất Phêrô.

Chính vì thế, nên Chúa mới nói: “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi ông.” (Mt 16: 18b). Nghe câu này, lâu nay ta cứ tưởng như hiện có hai thứ quyền lực đối chọi nhau. Tranh chấp nhau. Và, chỉ một quyền lực chính đáng là Hội thánh khả dĩ chiến thắng được quyền bính tà vạy, là “thế gian”. Nghĩ thế, tức đã chấp nhận chiến tranh. Đối chọi. Và, tranh chấp rồi.

Về ý tưởng đá tảng chảy nước mắt/khóc ròng, ở đây nữa, Hội thánh không thể “chiến thắng” quyền uy đối chọi và đối lập bằng cách đứng trụ như đá tảng mà không đầu hàng, không nhân nhượng. Hội thánh cũng không thể thắng quyền lực đối chọi bằng quyền uy dũng mãnh đơn độc của mình được. Mà, Thánh hội, phải vượt trên và vượt qua mọi giai tầng quyền uy, sức mạnh. Dù, tốt đẹp.

Hội thánh không thể chiến đấu chống quyền uy thế trần bằng cách tự tăng cho mình thêm nhiều quyền. Mọi quyền uy vững chắc như “đá tảng”, cùng thế lực ở-môi-miệng sẽ không thể thắng quyền lực “tử thần” được. Bởi nếu không, Hội thánh cũng sẽ phải sống cuộc sống rất tử thần. Rất ngục thất. Và “quyền môn âm phủ” sẽ chẳng bao giờ lướt thắng được bí nhiệm của hiện tượng “chảy nước mắt/khóc ròng” ngang qua đớn đau của ai khác. Hoặc, nỗi thống khổ của đối phương. Đó, là điều Chúa muốn nói khi Ngài hứa với thánh Phêrô, là: thánh nhân sẽ khóc ròng, bất kể chuyện gì sẽ xảy đến.

Sau đó, Chúa còn thêm: “Thầy trao cho anh chìa khoá Nước Trời” (Mt 16: 19a), tức Lời Chúa hứa đây, tức: những gì ông ràng buộc hoặc tháo gỡ ở Hội thánh, sẽ được cột hoặc tháo ở Nước Trời. Cột buộc, là đặt dưới quyền uy sức mạnh nào trói cột mình với những gì ma quái, không thoát được. Tháo gỡ/cởi bỏ, là tháo và cởi khỏi sức mạnh nào đó đang dính cứng vào vai trò của ông. Nói rõ hơn, thánh Phêrô sẽ đứng vững và không ai tháo gỡ nổi uy quyền dũng mãnh của mình dù là ma vương quỷ quái. Và, chỉ mỗi việc “chảy nước mắt/khóc ròng”, mới thật sự là “chiến thắng” lạ kỳ đối với những gì được coi như “không thể chuyển đổi” được. Chảy nước mắt/khóc ròng, còn là giải thoát, cởi bỏ để con người đến với tự do.

Đọc kỹ trình thuật, ta sẽ hiểu được tâm trạng của thánh Phêrô đến mức độ nào còn tuỳ thuộc ta có hiểu được điều Chúa nói hay không, thôi. Rõ ràng là, thánh Phêrô đang học cách “khóc ròng” cho Hội thánh. Vì thánh hội. Thế nên, ta nghĩ và thực hiện Lời Chúa thế nào cũng sẽ tuỳ vào cung cách thánh Phêrô và các vị kế tục, tức các lãnh đạo tôn giáo trong Hội thánh đang hành xử quyền uy vậy.

Thánh Phêrô đã phải mất một thời gian dài mới học được cách trở nên “đá tảng” biết khóc ròng, xót thương mọi người. Biết, vượt trên quyền uy các cấp. Để chứng minh, cuộc thương khó của Đức Giêsu là bài học quý giá đầu tiên của thánh Phêrô, rất “đá tảng”. Thánh nhân đã có lúc muốn chối bỏ sự việc đang xảy đến với chính mình. Và, thánh nhân từng tách rời khỏi Thầy mình, cho đến lúc Chúa quay lại nhìn, thánh nhân mới ra đi “chảy nước mắt”. Và, “khóc ròng”. Khi ấy, thánh nhân đã học được cung cách khóc cho hội thánh. Và, chính vào giờ phút đó, ông mới đích thực là “Đá Tảng” của Giáo hội rất thánh.

Các đấng bậc kế tục thánh nhân, trong vai trò “chảy nước mắt”/“khóc ròng” giống thánh Phêrô, hiển nhiên cũng sẽ như thế. Và, các đấng bậc vị vọng từ Giám mục chủ quản cho chí linh mục, tức những vị có vai trò lãnh đạo Hội thánh, cũng nên học cung cách ấy. Cung cách “khóc ròng” vì mọi người. Và, chỉ có thế, thì các ngài mới có thể truyền đạt tự do, cho con Chúa. Và chỉ có thế, thì: tự do con cái Chúa sẽ không chỉ là danh từ bâng quơ nhưng sẽ là tên gọi đích thực của Vương Quốc Nước Trời?

Trong tinh thần hiểu biết rất như thế, tưởng cũng nên ngâm tiếp câu thơ hát ở trên, rằng:

“Còn gặp nhau thì hãy cứ vui,

chuyện đời như nước chảy hoa trôi,

Lợi danh như bóng mây chìm nổi,

chỉ có tình thương để lại đời.”

(Tôn Nữ Hỷ Khương – Còn Gặp Nhau)

 

Nước chảy hoa trôi, là tình đời. Gặp nhau hãy vui với tình người. Tình, của những người từng chảy nước mắt/khóc ròng, giống “lệ đá xanh”, rất Phêrô. Mọi thời. Ở mọi nơi. Ngay đây.

 

Suy Niệm Chúa Nhật thứ 22 Thường niên năm A  

 

“Hôm nay cây quế trong rừng,

“bỗng nhủ cùng làn suối bạc,”

“xuân này tôi khopác áo nhung”

“mà bác vang lừng tiếng nhạc.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

 

 

Mt 16: 21-27

Có là cây quế trong rừng, cũng chỉ vang lừng tiếng nhạc với suối bạc, thôi. Nếu là cây quế trong Đạo, lại sẽ vang lừng cả tiếng thơm hay tiếng hát về vị thánh cả ở trình thuật hôm nay. Trình thuật, nay nêu rõ câu chuyện và công việc của thánh cả Phêrô để người người suy tư, bàn bạc.

Suy và bàn, tập trung vào đấng thánh có chỗ đứng quan yếu trong Giáo Hội là Phêrô thánh nhân, rất tông đồ. Thế đó, là vị thánh xuất thân từ ngành nghề có lưới có chài, và cá mắm. Đấng thánh sống ở Caphanaum xứ biển hồ, rất Galilê. Với ánh nhìn của thánh sử Luca, thì thánh Phêrô thuộc loại “chậm lụt” về văn chương, văn hoá với văn nghệ. Chậm và lụt, về khoa ăn nói, thưa gửi lẫn trần tình.

Thánh Mát-thêu nay cho thấy thánh cả Phêrô là lãnh tụ khá bình thường của nhóm hội đồ đệ theo Chúa giảng rao về Nước Trời. Nói khác đi, ngài là người giản dị. Cứng cỏi. Lại chậm hiểu.

Đức Giêsu từng nói với thánh nhân và đồ đệ đồng hành về kế hoạch do Cha đưa ra mà Chúa phải thực hiện cho bằng được ngang qua sầu buồn. Khổ đau. Và, nỗi chết trên thập tự. Trong khi đó, thánh cả nhà Đạo vẫn nghĩ Thầy mình là Đấng Mêsia Thiên Sai tựa hồ Đavít xưa, tức: ứng viên siêu phàm cho chính trường Do thái. Để rồi, rất thất vọng khi Thầy Chí Ái bộc lộ kế hoạch Chúa Cha đề ra. Tức, Ngài sẽ bị thảm sát chết nhục, vốn vượt quá sức tưởng tượng của đồ đệ bình dân, chân chất.

Và rồi, thánh cả Phêrô lại cứ nghĩ rằng Thầy mình chỉ gặp ngày xui tháng hạn, nên mới sử dụng chức năng do Thầy tặng ban cho riêng mình. Đó là lúc thánh nhân tỏ ý phiền hà, và khuyến cáo Thầy. Sai lầm của thánh nhân là ở chỗ: không nhận chân được vị trí của mình. Tức, thay vì chỉ biết theo chân Thầy như các đồ đệ khác, nhưng lại “lanh chanh” “qua mặt” làm “kỳ đà cản mũi” Chúa.

Rất nhiều lần, Tin Mừng cho thấy chân tướng đích thật của thánh cả nhà mình là đấng thánh không ổn định về quan điểm/lập trường vốn chống đối những gì mình không hiểu hoặc không muốn xảy đến. Thánh nhân từng lẫn lộn nhiều thứ, như: việc đi trên nước. Việc xây 3 lều tạm để Chúa ở, khi thấy Thầy mình biến hình. Rồi, còn chối bỏ Thầy và anh em những ba lần. Sau này, còn để thánh Phaolô phải tái lập trật tự vì thánh cả nhà mình từ chối ngồi cùng bàn với dân ngoại.

Nay, thấy Thầy mình dùng ngôn từ gắt gao và dữ dằn mà quở mắng, thánh nhân không ngờ sao mình lại dám khuyến dụ Thầy bỏ ý định nghe lời Chúa Cha mà chấp nhận thất bại dẫn đến nỗi chết trên thập tự. Thật sự, thì thánh cả Phêrô chỉ muốn Thầy chọn con đường hoạn lộ, thênh thang mở, thay vì con đường nhỏ chỉ gồm mỗi con lộ tẻ hạn hẹp, là sự chết.

Nghĩ chuyện của thánh cả Phêrô trong vai trò lãnh đạo Hội thánh khiến ta suy về cung cách hành xử của thánh hội, trong quá khứ và hôm nay, không khác gì lối xử sự rất kẻ cả, kiểu “Đá Tảng” rất Phêrô. Hội thánh lâu nay quản cai dân con mình bằng cung cách phàm trần, như: quảng cáo rầm rộ, quyên góp tối đa, nặng phần trình diễn, theo sát bài bản ngành tâm lý chiến, đặt nặng công tác tiếp cận thị trường, thay vì chấp nhận thập giá đau thương, trầm lặng.

Trên thực tế, Hội thánh ngày nay chỉ muốn thiết dựng loại hình thừa tác rất bán buôn, thay cho công việc thừa tác đặt nặng lên cung cách phục vụ. Vẫn cứ chọn kiểu “mì ăn liền” nhanh gọn kiểu hưởng thụ. Trong khi đó, vẫn đặt gánh nặng trên lưng kẻ khác, thay vì chấp nhận thương đau cho chính mình. Hội thánh những muốn phô trương một giáo hội sùng mộ chuyện hình thức, không đích thực. Những muốn sống thoải mái, ăn trên ngồi chốc, được người người kính trọng, hầu hạ mà thôi.

Nhìn vào lịch sử, thì thánh cả Phêrô đã muốn thuyết phục Thầy hành xử theo kiểu người phàm, và tưởng rằng với vai trò Thầy trao ban, mình có thể khuyến dụ Thầy mình. Khuyên dụ Thầy bỏ rơi kế hoạch do Cha trao phó. Là, đừng làm nhiều. Chỉ cần làm “dân thường” nhà Đạo, mọi việc rồi cũng xong. Và, thánh cả vẫn muốn khuyên Thầy sống thực tế, để mọi việc rồi cũng qua đi. Cũng đạt kết quả, thôi.

Nhưng, Đức Giêsu không đồng quan điểm với thánh cả Phêrô. Ngài tỏ bày cho thánh nhân bằng lời chân tình thời đại, rằng: “Nếu anh chọn quan điểm của các nhà chính trị chuyên lo cho người nghèo luôn bị áp bức, thì các người ở trên chỉ tạm thời theo anh, rồi họ sẽ dùng anh làm quân cờ để giảm hạ phẩm cách của anh và rồi sẽ vắt chanh bỏ vỏ, thôi. Nhưng, nếu anh thực tình lo cho người nghèo, anh không thể phản bội những người ấy, mà phải trung tín với họ. Giới cầm quyền ở trên có ghét bỏ hoặc xoá tên anh. Hãy để mặc Chúa lo, chỉ cần sống trung thực với chính mình và với họ, anh sẽ thành công.

Thánh Phêrô không nắm bắt được quan điểm của Chúa. Vậy, ai lĩnh hội được đây?

Đức Giêsu rất kiên trì. Ngài như đang nói với thánh Phêrô một điều tuy không lạ, nhưng vẫn quen: “Anh chưa là đá tảng, nhưng nếu trên đá đó có ai giống hệt như anh, thì cuối cùng ra Ta cũng sẽ và cũng có thể dựng xây thánh hội, do Ta muốn.”

Cuối cùng ra”, là ngôn từ mang trọn ý nghĩa này, là: khi ta học chấp nhận hậu quả do mình quyết tâm thi hành, thì như thế. Ta có thích làm thế hay không, chẳng vì thập giá là điều tốt hoặc đáng nể sợ. Nhưng, vì tình thương và sự quyết tâm luôn là những điều tốt đẹp nên làm cho kẻ mình thương yêu, muốn giúp. Thế nên, thánh cả phải xử sự theo đúng ý định của Chúa ngõ hầu mới trở thành đá tảng để mọi người dựa dẫm ngang qua con đường cam go của mình.

Có thể là, các “đá tảng” thánh hội lớn/nhỏ trong Hội thánh vẫn chưa đối xử với người hèn kém trong đời và với những người quyết tâm dấn bước theo mình, như thánh cả là vì chính mình chưa giáp mặt thực trạng thống khổ mà Chúa lĩnh chịu. Các thánh cả trong thánh hội lớn/nhỏ hôm nay đã và đang trở nên như cát vụn hơn là đá tảng cho mọi người dựa dẫm. Thứ cát vụn không thích hợp để làm nền cho bất cứ ai. Bất cứ thứ gì. Khi xưa, đấng-thánh-là-đá-tảng đã tham dự cuộc thống khổ đầy cứu độ của Chúa, đã khóc hết nước mắt cho nhân loại thế nào, thì các “đá tảng” của thánh hội lớn/nhỏ hôm nay, cũng phải làm như thế mới tiếp tay rải tràn ơn ấy đến với người ở dưới được.

Thánh cả Phêrô đã thực sự học được điều ấy, thấy rất rõ. Sách Công vụ kể rằng thánh nhân rời Giêrusalem vào niên biểu 43, tức 13 năm sau ngày Thầy mình chịu khổ hạnh trên đồi Calvary. Và, sau khi thoát khỏi ngục tù và rồi lưu lạc qua Antiôkia, thánh cả đã gặp nhiều khó khăn trong việc đảm trách các vụ việc mang tính chính trị của người theo Đạo vào thời đó. Cuối cùng ra, thánh nhân cũng về lại Rôma, mà sinh hoạt. Và, truyền thống Hội thánh công nhận rằng thánh Phêrô hiểu rõ ý định của Thầy nên đã chấp nhận tử đạo vào thập niên 60, ở La Mã. Chính ở nơi đây, các sử gia trong Hội thánh đã tìm ra địa điểm thánh cả chịu hành hình, và yên nghỉ. Khi ấy, là thời bạo chúa Nêrô hoành hành, bách hại.

Kịp đến thế kỷ thứ tư, hoàng đế Constantin mới ra lệnh xây một thánh đường trang trọng để tưởng nhớ thánh cả, ngay tại địa điểm ấy. Đó là Đền thánh Phêrô hiện tại, được xây ngay bên trên mộ phần của thánh nhân. Trong lịch sử, nhiều thánh tích của thánh cả Phêrô từng được cất giấu nơi mộ phần ngài cũng được bốc lên đặt bên trong bức tường của đền thờ. Ngay như bàn thờ kính thánh nhân cũng được đặt phía bên trên mộ phần của ngài. Và ở phía cao bên trên nóc, vẫn còn hàng chữ ghi rõ: “Này Phêrô, con là Đá tảng, trên Đá này Ta sẽ dựng xây thánh hội của Ta”.

Thánh Phêrô thực sự hiểu được ý nghĩa của lời Thầy phán bảo. Và, thánh hội vẫn đứng vững trên đá tảng của sự học hỏi, hiểu biết như thế. Thế nhưng, giống như thánh cả Phêrô, hội thánh còn phải làm nhiều việc hơn nữa mới đạt được điều mình học hỏi. Thánh hội, cần tìm ra những gì mà tình thương yêu người nghèo đòi mình phải làm. Nhất thứ, đừng bao giờ bỏ qua hoặc đặt nhẹ lập trường/quan điểm về những đòi hỏi dù gắt gao hơn thế nữa.

Trong tinh thần học hỏi này, cũng nên ngâm thêm lời thơ mang đầy tính những học và hỏi, như:

 

“Hôm nay gió bảo cùng mây:

Rời xa những miền tuyết trắng,

Tôi từ biển vắng về đây

Mừng hội Xuân này đẹp nắng.”

(Đinh Hùng – Âm Hưởng)

 

Âm hưởng, mà nhà thơ đời học được từ con người, sẽ là và vẫn là điều mà nhà Đạo cần ghi nhớ, để rồi sẽ không quên. Không quên lời dặn hãy rời xa “miền tuyết trắng” thoải mái, sướng vui. Bệ rạc, ngõ hầu sống thực ý định Cha mang đến. Bởi đó không chỉ là quyền tháo cởi, cột buộc mà là thực trạng “mừng hội Xuân này đẹp nắng”, rất Phêrô.

 

Suy Niệm Chúa Nhật thứ 23 Thường niên năm A

 

“Khuyên một lời ư?

Nhưng biết đâu, lời khuyên không chạm đến tim đau!”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

 

 

Mt 18: 15-20

Khuyên hay không khuyên, đâu là giải pháp của người đời, với vần thơ? Giải hay không giải, vẫn là quyết định của cộng đoàn đấng bậc khôn ngoan đầy kinh nghiệm, trong chung sống. Khuyên và giải, còn là ý tưởng chủ lực của trình thuật, rất hôm nay.

Trình thuật hôm nay, là của thánh Mát-thêu được Phụng vụ Hội thánh rút tiả làm nền hầu khuyên giải thành viên nào đang có vấn đề tranh chấp. Trích đoạn, lấy từ chương 18 có những lời giải khuyên hãy nên sống như Đức Chúa, Đấng từng lân la sống với cộng đoàn đồ đệ thân thương, rất quí mến.

Cộng đoàn thánh Mátthêu xưa có các thành viên người gốc Do thái sống ở Antiôkia. Trước đó, cộng đoàn vẫn sống ở vùng phụ cận thành đô Giêrusalem, chốn đào tạo thành viên chuyên nghiệp, rất đạo hạnh. Khi người La Mã tìm đến bách hại, cộng đoàn này đã phải rời thôn làng mình làm dân lưu lạc ngay trong chốn phồn hoa thị thành mang tên Antiôkia, nơi hội ngộ của nền văn hoá giao lưu Âu Á, thời xưa cũ.

Bên trong khu nhà đầy cách biệt, là chốn tách bạch khỏi người Do thái tin vào Đức Giêsu. Vì sự tách bạch này, nên thường xảy đến nhiều cãi tranh, tị nạnh giữa kẻ tin Chúa và người chẳng biết tin vào điều gì. Vào ai. Khiến đôi đàng không thể hoà hợp, chung sống. Từ đó, vì có khó khăn, nên kẻ tin vào Chúa cũng bớt đi sinh hoạt đạo hạnh như trước. Và sự thể ấy dẫn đến tình huống rắc rối với cộng đoàn.

Đó là lý do khiến có nhiều người đến với thánh sử Mát-thêu để được tư vấn về các nguyên tắc chủ chốt khả dĩ giúp họ trở thành cộng đoàn lành thánh sống trong môi trường dù đổi mới. Đây, còn là nguồn hứng khởi khiến thánh sử viết lên chương sách mang nhiều ý nghĩa để rồi tóm kết bằng hai nguyên tắc chính cho cộng đoàn lấy đó mà sống. Nguyên tắc, là: trong cộng đồng dân Chúa không thể và không nên có một ai thấy mình bị lạc lõng. Và, nguyên tắc thứ hai, là: trong cộng đoàn tình thương làm con Chúa, không thể và không nên có thành phần nào bị bỏ rơi, quên lãng. Hoặc, hư mất.

Thánh sử còn quả quyết: giả như cộng đoàn quyết tâm tuân thủ hai nguyên tắc làm nền để sống chung, thì mọi sự cũng sẽ đâu vào đó. Bằng không, chẳng có gì chứng tỏ họ là cộng đoàn Kitô-hữu, đúng ý nghĩa cả. Đó là qui định tư riêng. Qui định đòi chúng dân phải sống, không như thể chế nguội lạnh, mà là gia đình ấm cúng, rất anh em. Đó, cũng là đề nghị được thánh Mát-thêu đặt ở Tin Mừng chương 18. Rủi thay, các đấng bậc chủ quản phụ trách chọn bài đọc cho Phụng vụ Chúa nhật, lại không mấy chú tâm đến ý nghĩa trọn vẹn trong chương này từng qui định.

Ở đầu chương này, đã thấy nổi lên một tham luận, có Chúa dự. Tham luận này xoay quanh câu mà các môn đệ cứ là hỏi nhau: “Ai là người lớn nhất ở Nước Trời, đây? “(Mt 18: 1) Nếu tưởng tượng, người đọc sẽ thấy đồ đệ Chúa quây tụ thành vòng tròn ngồi ở sân làng rồi kháo láo với nhau: “Rồi, Thầy sẽ cho ta biết ai là người lớn nhất. Và, đâu là tiêu chuẩn để định ra người lớn nhất Nước Trời? Chúa chẳng nói gì. Ngài chợt thấy một bé em đang nghịch đất, Ngài bảo bé đến ở giữa vòng tròn, rồi bảo:“Nếu anh em không như trẻ bé mọn, sẽ chẳng vào Nước Trời.” (Mt 18: 3). Và, thánh Mát-thêu triển khai thêm ý nghĩa “nên như trẻ bé mọn”.

“Trẻ bé mọn” đây, nên hiểu theo nghĩa biểu tượng. Bởi thời xưa, ”trẻ bé mọn” không khi nào mang ý nghĩa của những ngây thơ, trong trắng hoặc nét đẹp không hao mòn như ở Anh thời nữ hoàng Victoria. Với thế giới Híp-ri, thì “trẻ bé mọn” là biểu tượng của những kẻ không có quyền, dù quyền hành hay quyền lợi. “Trẻ bé mọn”, là những người nghèo hèn. Là, kẻ bị quên lãng, bỏ ngoài bên xã hội.

Với cộng đoàn Kitô hữu, những người ăn trên ngồi chốc, các bậc vị vọng, đạo hạnh, quyền thế, giàu có, chẳng bao giờ là “trẻ bé mọn” bị quên lãng, hoặc hư mất hết. Như Chúa nói: “Anh em chớ nên khinh thị một ai trong đám trẻ bé mọn này…Con Người đến để cứu cái gì hư mất.”(Mt 18: 10).

Thế nên, nguyên tắc làm “nền” cho cộng đoàn Nước Trời người tín hữu Đức Kitô, là: đón mừng” “trẻ bé mọn”. Nói vắn gọn, thì như thế cũng đủ. “Mừng đón” là câu nói đầu chỉ một hành xử đúng đắn. “Đón mừng”, phải là hành xử rất ban đầu và trước tiên của cộng đoàn. Chí ít, là cộng đoàn dân con của Chúa. Mừng-đón-trẻ-bé-mọn, không là đón mừng các đấng toàn năng, toàn thiện. Mà là, mừng và đón những kẻ sẽ chẳng-bao-giờ-trở-nên-toàn-thiện, tuyệt vời. Đây, là sinh hoạt vào lúc đầu của cộng đoàn dân con Đức Kitô. Cung cách ta mừng đón “trẻ bé mọn” phải khác cung cách đón mừng, rất chung chung. Tức, ta phải mừng đón những “trẻ bé mọn” không hoàn chỉnh, khi họ lạc lõng, hư mất. Đón và mừng những con người bị đồng hoá với “trẻ bé mọn” như thế, tức là không được phép để người ấy lạc lõng, bị bỏ rơi, hư mất.

Ai trong chúng ta thực sự, và trên thực tế, từng lạc lõng? Nói nôm na, thì thế này: sống trong cõi đời nhiều bon chen/tranh chấp, ta phải định ra chỗ đứng của mình. Phải biết mình đang ở đâu. Làm sao để người khác tìm ra mình hoặc mình tìm ra người khác đang lạc lõng, hư mất? Đó là kinh nghiệm ban đầu. Đó là cung cách sống để ta luôn tìm thấy những “trẻ bé mọn” sống dưới mức hưởng được may mắn với mọi quyền lợi. Thế nên, ta cũng hiểu được tại sao lại gọi những “trẻ bé mọn” ấy là kẻ lạc lõng, hư mất. Trong khi, họ là người lẽ ra không đáng bị ta quên lãng, coi thường. Họ phải được ta mừng đón và kiếm tìm một cách tích cực, để rồi ta đưa họ vào tận trung tâm điểm của cộng đoàn. Nếu không làm thế, thì không thể và không đáng gọi là thành viên cộng đoàn Kitô-hữu, tức cộng đoàn không có ai và không một ai bị lạc lõng, hư mất.

Đối chọi lại hành xử mừng đón trẻ bé mọn, là cản trở trẻ lạc lõng, hư mất. Cản trở, được coi như một hành động bỉ ổi. Rất tai tiếng. Cản trở tức trở thành sỏi cát lọt trong giầy của trẻ bé hèn mọn vậy. Những người là sỏi cát cản trở bước đi của bọn trẻ bé, lại chính là những người mắc lỗi nặng trong chung sống. Sống rất chung, đời cộng đoàn dân con của Chúa. Người cản trở trẻ bé mọn như thế, chỉ đáng cột cổ vào đá, quăng xuống biển, một hình phạt dành cho lỗi phạm, cũng khá nặng.

Bởi thế nên, thánh Mát-thêu mới tóm tắt giới lệnh căn bản, trong 10 giới lệnh yêu thương bằng câu: “Không được nên cớ vấp phạm cho người nào trong các “trẻ bé mọn” tin vào Ta” (Mt 18: 6-8). Và cả câu 14: “Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, không hề có ý để ai trong những trẻ bé mọn này hư mất.”

Nguyên tắc thứ hai cho cộng đoàn chung sống cũng gần giống như nguyên tắc đầu. Tức, trong cộng đoàn Kitô-hữu ta chung sống, không ai được phép có hành xử với mọi thành viên khác như người hư mất, khó thứ tha. Một trong cung cách bị coi là lạc lõng, hư mất, tức là không thể tha thứ cho người ấy. Trong cộng đoàn Hội thánh, không thể có động thái giống như thế. Đó là ý tưởng mà thánh Mát-thêu còn viết nhiều ở các chương đoạn kế tiếp.

Tựu trung, ý tưởng mà thánh nhân muốn nhấn mạnh, là: hãy ra đi mà tìm kiếm những “trẻ bé mọn” đem họ về lại với cộng đoàn. Công tác này, không thể là động thái bốc thăm, may rủi, được. Nhưng, phải là mục tiêu hành động. Là, hành xử mang tính cách xuyên suốt, rất văn hoá. Là, mục tiêu phải đạt chứ không là động thái thích thì làm không thích thì thôi. Thời buổi hôm nay, còn rất nhiều “trẻ bé mọn” đang lạc lõng bằng cách này hay cách khác qua cách hành xử của ta và “trẻ bé mọn” dễ bị cuốn hút vào chốn “hư mất”, nếu ta không ngó ngàng gì đến họ. Và, vấn đề là hỏi: ta có bỏ công đi tìm những người như thế, mà đưa về “ràn chiên” Hội thánh không?

Tại thành đô Giêrusalem hôm nay, có khu tưởng niệm “những trẻ bé mọn” bị lạc lõng/hư mất trong lò thiêu sống. Bên trong khu này, là phòng tối có những đốm sao lấp lánh chiếu lên ảnh hình và tên tuổi của từng bé em bị lạc lõng, thân hư nát.Và, có cả tiếng giọng ở hậu trường gọi tên em bằng tiếng Aram tựa hồ tiếng của Cừu mẹ Rachel gọi cừu con đang bị lạc. Chính đó, là ý nghĩa của trích đoạn trình thuật mà thánh sử Mát-thêu, xưa nay muốn diễn tả.

Thánh Hội của ta hôm nay có đang cuồng điên gọi tìm “trẻ bé mọn” đang đi lạc, ở đâu không? Gọi và tìm, như ý tưởng của thánh sử Mát-thêu từng ghi chép? Có hay không, cũng nên tự hỏi: cho đến nay ta đã bao lần là hạ sỏi trong giầy của trẻ bé mọn? Ngày hôm nay, ta có cảm nghiệm sống thực hiện nguyên tắc/lý tưởng này trong thể chế có tổ chức thành cộng đoàn không? Nếu chưa, thì ta có ý định bắt đầu ngay chưa?

Là thành viên Hội thánh lớn/nhỏ, câu hỏi ấy đã trở thành vấn nạn gửi đến cho người. Cho mình.

Trong tâm tình tìm câu trả đáp cho thoả đáng, cũng nên tìm nguồn hứng khởi ở câu thơ, rằng:

“Lời khuyên không chạm đến tim đau.

Tim đau sẽ vọt ngàn tia máu.

Đọng lại muôn ngày vết hận sâu…”

(Nguyễn Bính – Cầu Nguyện)

 

Nhà thơ đời vẫn hỏi, như một lời nguyện cầu. Cầu mọi người. Nguyện ở mọi nơi. Cả những nơi có con tim không “vọt ngàn tia máu” xót thương. Tia máu yêu thương những là tìm đường mà mở rộng vòng tay đó những “trẻ bé rất mọn hèn”, còn lưu lạc ở nhiều nơi.

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 24 thường niên năm A  

 

“Anh đã thoát hồn anh, ngoài xác thịt,”

“để chập chờn, trong ánh sáng mông lung.”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

 

 

Mt 18: 21-35

Rất có thể, vì “anh đã thoát hồn mình ngoài xác thịt” nên không còn “chập chờn trong ánh sáng mông lung” của thứ tha. Của cuộc sống an hoà, như thánh sử đề cập ở trình thuật.

Điều mà thánh sử ghi ở trình thuật hôm nay, là nguyên tắc làm nền cho cuộc sống hài hòa của cộng đoàn dân Chúa. Nguyên tắc này, vẫn song hành với nguyên tắc thứ nhất ghi ở đầu chương 18: với cộng đoàn dân Chúa, chẳng ai bị bỏ quên, hoặc nên hư mất.

Thêm vào đó, ở câu 15, thánh sử cũng ghi lại lời Chúa dặn dò: “Nếu anh em ngươi trót phạm tội,..” là để người nghe biết đường mà xử sự cho đúng cách. Đây, lời dặn dò nghe hơi lạ, nhưng rất thực. Thực, là bởi: bằng vào sự khôn ngoan và kinh nghiệm bản thân, thánh Mát-thêu nhận ra rằng: chữ “nếu” ở trước câu “anh em ngươi làm điều sai trái” mà lại đặt nơi người anh/người chị cùng nhà, có nghĩa là chuyện “làm điều sai trái” ít khi thấy nơi quý vị ấy. Đằng này, Chúa chỉ bảo: khi họ làm điều gì sai trái,..”, tức có nghĩa: các vị này vẫn thường hay làm vậy. Và vì thế, hãy tha thứ cho họ. Tha, theo qui cách mặt-đối-mặt. Từng nhóm nhỏ. Hoặc, cho phép các vị về quê sáu tháng, rồi thì mọi sự cũng sẽ qua mau. Và, tha thứ là cách giản dị nhất, ta có thể thực hiện, để giải quyết mọi khúc mắc.

Hãy thử nghĩ về khung cảnh gia đình trong đó có bé em làm điều gì sai quấy, thì thoạt đầu, người lớn sẽ rối tung khi biết trẻ bé thế mà dám quậy. Nhưng chỉ ít phút sau, mọi việc đều trầm lắng và mọi người sẽ thứ tha, yêu thương bé nhiều hơn trước. Nhưng nếu tình trạng “rối tung” kéo dài lâu hơn thế, thì bé sẽ nhận ra đây là trò chơi đầy thích thú, nghĩa là: bé cứ làm sai, để cả nhà chỉ rối lên một lúc, rồi sau đó bé sẽ được yêu thương hơn. Và khi gia đình biết là bé cố tình chơi trò chơi này để mọi người chú ý đến mình, thì trò chơi ấy trở thành một vận động để gia đình được gắn bó hơn.

Ý của thánh Mát-thêu muốn nói: tha thứ không là chuyện gay go khiến mọi người phải suy tính/đắn đo, nhưng chỉ đơn giản như “trò chơi“ của con trẻ. Trò chơi trẻ, là cung cách mà tình thương gia đình dành cho mình từ lâu, cốt là để gợi sự chú ý của mọi người, thôi. Đây là nền tảng thực hiện nghi thức hoá giải, mà xưa nay hội thánh có thói quen gọi đó là xưng/giải. Tức, tha thứ mọi sơ xuất, lỗi lầm, vẫn rất tội.

Trên bình diện mục vụ, sự việc này cho thấy tha thứ là động tác giản đơn, cần làm. Chứ, chẳng có mục đích làm ầm ĩ lớn chuyện “xưng/giải” như Giáo hội lâu nay vẫn làm. Ầm ĩ/lớn chuyện, đến độ đã phải nghĩ ra ba hình thức “xưng/giải”, rất khác biệt. Ầm ĩ, đến độ quên rằng Chúa đã tha thứ cho tội phạm ngay trước khi giáo hội ta đặt ra 3 nghi thức cầu kỳ ấy.

Ở câu 21, thánh sử đặt nơi miệng thánh Phêrô thêm một đối kháng như thánh cả vẫn thường làm, vào dạo trước. Thánh Phêrô là người khá bốc đồng, thuờng hiểu sai nhiều sự việc, nên mới hỏi: “Thưa Thầy, nếu anh em có lỗi với tôi, thì tôi phải tha thứ bao nhiêu lần, phải 7 lần không?” Thời buổi này, quần thần nào mà lại hỏi lãnh đạo mình những câu như thế, khác nào thách thức chủ trương “không nhân nhượng”, của vị ấy.

Câu Chúa nói: “Này anh Phêrô. Không chỉ 7 lần, mà là 77 lần 7.” Con số 77 ở đây, mang nặng một ám chỉ đặc biệt. Đức Giêsu không cố ý qua mặt thánh Phêrô. Ngài chẳng muốn giới hạn việc thứ tha gì hết. Chẳng qua là, ở Kinh thánh, con số 70 hoặc số 7 đều mang ý nghĩa: không hạn chế. Trong các bản văn Kinh thánh, chỉ mỗi bản tiếng Do thái ở sách Khởi nguyên là nói đến số 77 khi tác giả đề cập đến lời vãn của Lamek, thôi.

Chương 4 sách Khởi Nguyên, ở truyện kể về Cain giết Abel có nói đến việc Lamek giết một trẻ bé trong đó ghi lời vãn của Lamek, như sau: “Cain được báo thù gấp bảy, còn Lamek thì gấp bảy lần bảy mươi!” (Kn 4: 24) Xem thế, thì số 77 ở Kinh thánh là cốt để nói về người nào đó giết chết trẻ em. Con số 77 là số lần để ta tha thứ cho những ai sơ xuất lỡ lầm đến là thế. Và là thế, có nghĩa: không nên giới hạn số lần tha thứ mỗi khi ta sơ xuất/lầm lỡ đến thế nào đi nữa, cũng vậy. Và tha thứ, là việc ta cần làm cho những ai đang có nhu cầu được thứ tha.

Với thánh Mát-thêu, lỗi phạm chỉ mang tính nghiêm trọng khi đó là chuyện hãm hại hoặc xúc phạm đến trẻ nhỏ. Đức Giêsu chẳng khi nào quan niệm về “không nhân nhượng” như thói quen của một số người nay chủ trương. Ngài chú trọng vào việc ta cần bảo vệ cộng đoàn, đặc biệt là con trẻ. Nhưng Ngài cũng nhấn mạnh vào việc phải tha thứ cho những ai có liên quan đến cộng đoàn hoặc dám xúc phạm đến con trẻ.

Với thánh Mát-thêu, tha thứ là việc tự động và nhanh chóng cần làm ngay. Làm, theo cung cách càng đơn giản càng tốt. Đó là sự khác biệt giữa quan niệm của thánh Mát-thêu về cộng đoàn mình chung sống với cộng đoàn khác. Dĩ nhiên, tất cả đều xây dựng trên nguyên tắc làm nền nói đến ở đầu chương 18 của Tin Mừng thánh nhan. Đây còn là nguyên tắc thực tiễn để xây dựng và lãnh đạo cộng đoàn niềm tin vẫn chung sống.

Bầy tỏ lập trường như thế rồi, thánh Mát-thêu mới kể dụ ngôn về người bày tôi ác nghiệt ở đoạn 18 câu 25 đến 35. Cũng nên gọi đây là dụ ngôn “người bày tôi không trí nhớ”. Câu truyện dụ ngôn này thật giản đơn đến độ ai cũng nhớ. Nhớ rằng, chính mình đã được chủ xưa nay vẫn tha hết nợ nần, lẫn tội phạm. Nên, tới phiên mình, cũng nên làm như thế. Nhưng thực tế, đã mấy ai nhớ đến nhu cầu tha thứ như mình từng được thứ tha.

Muốn nhớ lâu lời khuyên dặn này, cũng nên để ý đến câu cuối ở trình thuật, trong đó thánh sử ghi rõ: “Hỡi đầy tớ ác độc kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi van xin ta, nay đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?" (Mt 18: 33-34)

Bình thường, người mình vẫn có trí nhớ rất kém. Kém nhớ, là bởi: ai cũng quên rằng mình từng được tha thứ rất nhiều, nhưng lại quên. Chính vì quên, nên ta đã không tha thứ người khác.

Bởi thế nên, thánh sử Mát-thêu mới nhấn mạnh sự thể rằng tất cả chúng ta đều là con trẻ, tức những người bé mọn. Là, những kẻ lạc lõng đang cần người cảm thông, chào đón. Tất cả chúng ta đang ở vào giai đoạn cuối để đón nhận lòng thương tha thứ từ Cha, ngang qua các vị khác. Có nhớ mà tha thứ, ta mới hăng say tình nguyện thứ tha cho tất cả mọi người đang sống quanh ta. Đó, là nguyên tắc làm nền mà trình thuật hôm nay muốn gửi đến mọi người, trong cộng đoàn Hội thánh thân thương, ở mọi thời.

Trong cảm nhận ý nguyện tốt lành của thánh sử, ta lại sẽ hân hoan hát lên lời thơ còn dang dở:

 

“Anh đã gặp hồn em đang chới với,

Bến Mê Hà trên giải nước mênh mang.

Anh đã đón tình em bay phất phới,

Như hương trăng, đằm thắm cõi không gian.

Chúng ta tiến, em ơi, làm thanh khi.

Cho tan ra hoà hợp với tinh anh.

Của trời đất, của muôn vàn ý nhị,

Và tình ta sáng láng như trăng thanh.”

(Hàn Mặc Tử - Sáng Láng)

 

Tình ta, cứ thế mà sáng láng. Sáng, như muôn vàn tinh tú rất trăng thanh. Đằm thắm. Ý nhị, ở mọi thời. Thời, có anh và có em tìm đến với con trẻ bị lãng quên, cần yêu thương. Tha thứ. Bởi, thứ tha là tất cả. Thứ tha, là diễn tả tình thân thương của anh em, một nhà.

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 25 thường niên năm A  

 

 

“Cùng rủ nhau về góp một thành hai,”

“Những bưóc chân người góp đi làm đến.”

(dẫn từ thơ Nguyên Sa)

 

 

Mt 20: 1-6

Rủ nhau về góp sức, góp cả “những bước chân người đến”để cùng làm, là tình huống vẫn thấy có, ở đời thường. Tuy cùng làm, nhưng mỗi người lại hưởng lương tiền khác biệt, đó mới là tình huống bất ưng của công nhân thợ thuyền được thánh sử kể lại ở trình thuật, rất hôm nay.

Trình thuật nay kể, là kể về dụ ngôn có tình tiết/lớp lang rất đời thường, ở mọi thời. Một thời, có đám công nhân càm ràm về công bằng với công lý mà người chủ thực hiện. Người chủ ở đây, quyết hiện thực đường lối chi trả rất khác lạ của riêng ông. Vào cuối ngày, ông gọi những người đến làm việc vào giờ chót và cho họ trọn lương hướng của nguyên ngày. Đám thợ này, không phản đối đã đành và mừng khen chủ mình nhân hiền, rộng lượng. Họlẳng lặng chấp nhận. Còn, đám thợ làm nguyên ngày cũng chỉ nhận bấy nhiêu thôi. Bởi thế nên, đó mới là duyên do ta nghe có tiếng phản đối đường lối xử sự khá bất công của người chủ.

Cứ tưởng tượng tình huống trong đó có người đứng suốt ngày ở đầu đường để tìm việc. Hoặc, những người cứ lân la nơi phòng tuyển dụng hoặc cơ sở từ thiện hòng được giúp đỡ, nên nếu có ai gọi tên mình vào giờ phút chót, cũng rất cám ơn. Thế nên, mấy người này thấy mình hạnh phúc hơn bao giờ hết. Bàn cãi chi cho nhiều, ai cũng thấy là những người lâu nay để mấtđi niềm hy vọng, nay được gọi đến cho việc làm, lại được trả lương hậu hĩnh, thì quả là không hạnh phúc nào lớn hơn thế.

Hãy liên tưởng đến trường hợp khác, trong đó có người thợ suốt ngày đổ mồ hôi sôi nước mắt, sẵn sàng chấp nhận đồng lương ít ỏi để sống qua ngày. Và người đó còn phải lo cho gia đình nheo nhócđang trông chờ mình về. Thợ như thế, hay tính toán giờ giấc, giá cả cũng như loại hình lao tác mình có thể làm. Họ suy tính công việc có thể thương lượng được với chủ, để tiền mang về đủ nuôi sống nhiều miệng ăn. Họ làm việc có hợp đồng, luật lệ công minh như thường thấy ở nhiều nơi.

Nay, hãy liên tưởng đến người kiếmđồng lương có giao kèo/thoả thuận hẳn hòi, nhưng không tính đến khoản phụ trội, tưởng thưởng hoặc phụ thu hầu thêm mắm muối cho bữa cơm hằng ngày. Nhưng, những người này vẫn trông chờ những quà tặng không tên phụ vào ngân sách gia đình như:đồng lương tăng vì vật giá, lạm phát. Tiền mất giá. Không có các khoản này, người thợ sẽ không mấy hài lòng, dù tiền thưởng không hẳn là quà ngẫu nhiên, do người chủ rộng tay độ lượng.

Cũng nên liên tưởng đến giới thợ nào thấy mình chẳng bao giờ được hưởng những thứ đó, nên vẫn lảng vảng quanh phòng tuyển dụng, hoặc chốn nhà thờ. Những người này, sẽ hiểu công bằng/chính trực theo lẽ tự nhiên. Những điều, những lẽ ít thấy trong cõi đời. Thế nên, thái độcủa họ là thái độ của người thợ làm việc theo cách tiêu cực, nghĩa là: chỉ làm theo mức tối thiểu, chỉ bỏ vào đó đủ sức lao động của mình, thôi. Hoặc, những người suốt ngày cứ chống cằm lên bàn, khi thấy không có ai dò xét, để ý. Vì họ cứ nghĩ: mình dại gì mà làm cho lắm, chỉ lợi cho chủ, thôi.

Những liên tưởng ở trên, không chỉ xảy ra nơi sở làm hoặc công trường lao động, mà thôi. Nhưng nó vẫn xảy đến cả trong Hội thánh nữa. Xưa nay, nhiều người đi Đạo vẫn ao ước có được nhiều quyền, nhiều tiền và nhiều qui chế dễ thở để được hưởng thụ, nhiều hơn nữa. Với hàng giáo sĩ, thì nhiều vị phục vụ nhiều năm trong âm thầm/tăm tối, nay muốn về giáo xứ/họ đạo sung túc, hoặc đông đúc bổn đạo cho bõ công ngày tháng chôn vùi đời mình trong bóng tối. Nên, hễ thấy thế hệ trẻ mới ra trường lại có được chỗ tốt thơm, mới đem lòng căm tức và nhìn xuống đám trẻ bằng đầu mũi.

Với hàng ngũ giáo dân, có người lại chỉ muốn có chân trong hội đồng giáo xứ/mục vụ, để ưu tiên hưởng được nhiều thứ. Là thành viên ca đoàn, có người chỉ thích hát những lễ nào đông người dự. Hoặc, hát vào các giờ lễ thích hợp giờ giấc của mình thôi. Những người có kinh nghiệm mục vụ trong giáo xứ/giáo đoàn, thấy mình tài giỏi hơn người mà chẳng bao giờ được giao phó công việc tốt. Trong khi đó, những người được điều động từ nơi khác đến chưa từng có lấy kinh nghiệm lao tác/hục vụ, lại được giao phó những công việc khó,đòi nhiều kinh nghiệm, thấy cũng lạ.

Đời sống thiêng liêng, cũng thế.Nhiều vị ngỡ rằng chỉ mỗi mình là người được Chúa cho lên thiên đàng thẳng cánh. Những người như thế, những tưởng rằng chỉ mình họ, vốn nhiều năm chuyên chăm làm điều tốt, nên dễ bất bình khi thấy mình không được ưu đãi hơn người khác, nên nghĩ rằng Chúa cũng thiên vị, khi Ngài ban ơn lành cho kẻ xấu, tức cho cả những người chẳng bao giờ làm điều tốt lành hết. Thế nên, nhiều vị lại hay ganh tương/tị nạnh với kẻ biếng nhác chẳng lo chuyện đạo hạnh, mà vẫn được Hội thánh trọng dụng, bởi vì họ biết hoán cải, vào cuối đời.

Dụ ngôn hôm nay khuyên ta nên thayđổi não trạng vẫn có xưa nay. Dụ ngôn thử thách ta cởi bỏ những động thái/tưtưởng nào không cần thiết cho Nước Trời. Thử và thách, chuyển đảo mọi giá trị, do ta đặt ra.

Nơi thế giới của những người chỉ tính chuyện làm ăn và với các thánh hội chỉ những lo toan chuyện làm ăn/ăn làm, không bận tâm gì chuyện thiêng liêng/đạo đức của dân con đi Đạo, cũng như thế. Tức, cũng suy tính về những gì hoặc những việc không có Chúa dính dự, ngự trị. Trường hợpấy, Chúa chẳng khi nào lập toà hoá giải, cũng không có toà kháng án, hoặc văn phòng công lý/khiếu kiện, để mình xin.

Khi nghĩ rằng Chúa ban ơn lành cho hết mọi người, ai cũng hiểu Ngài ban theo kiểu rủi may, giống xổ số. Cứ nghĩ rằng, có thể là ân huệ mình nhận được chắc cũng ít, hoặc rất kém. Bởi, họ lại nghĩ:Chúa đã rộng tay ban phát cho nhiều người, thì còn đâu mà cho mình. Thật ra, ân huệ Chúa ban vẫn dư dật, tràn đầy. Dư và đầy, đến độ ai cũng có phần. Chẳng ai là người thua thiệt, tủi phận hết.

Ân huệ Chúa ban là điều ta có được ngoài mức tưởng tượng, đợi trông. Rất nhưng-không. Chúa không nợ nần gì ai. Và, ta cũng chẳng có công gì để đáng được nhận nhiều hơn người khác. Lâu nay ta nhận ân huệ dồi dào, vì Chúa thương yêu hết mọi người. Ngài yêu thương vô điều kiện. Không bớt xét. Thế nên, tất cả mọi người trước sau gì cũng được. Tất cả đều là ân huệ. Tất cả đều được ơn.

Đọc dụ ngôn hôm nay, nhiều người thường hiểu vườn nho mà thánh sử đề cập ở trình thuật, chỉ là nước Do thái hoặc thánh hội rất Công giáo. Người làm vườn, là kẻ được mời đến chốn thánh thiêng, các văn phòng hoặc thánh bộ. Thật ra, không phải thế. Chúa đâu cần thợ ở vườn nho. Ngài cũng không cần công nhân lao động ở mọi chốn. Điều Ngài muốn và cần, là mọi người được mời đến để Ngài tặng ban ơn lành, cách nhưng-không. Để rồi, ta nhắn nhủ mọi người hãy trao cho nhau tình thương yêu ân huệ ấy. Chí ít, những người đang cần được ta thương yêu.

Đó là sứ mệnh phục vụ. Đó, không là món hời dễ ăn. Nhưng, là tương quan hai chiều. Và ta được mời đến để phục vụ.Phục vụ, ở nơi ta đang sống hoặc ở chốn miền ta hoạt động rất lao lực. Bất kểta là ai. Bởi cuối cùng, rồi ra người được mời cũng sẽ ngạc nhiên/thích thú được ban và nhận ơn như thế.

Trong thời gian đợi chờ Chúa ban ơn, ta hãy trở về với công việc liên quan đến mỗi người, và mọi người. Chúa vẫn đểtâm chăm sóc đến ta khi ta kết thúc một ngày lao động đường dài. Ngài chẳng kỳthị ai, hoặc bất công với ai trong lao động. Ngài là Đấng Nhân Hiền Độ Lượng, luôn rộng ban ơn lành cho hết mọi người. Chắc chắn ta sẽ nhận dù không là những gì mìnhđáng hưởng vì công của mình, nhưng nhận rất nhiều. Nhiều hơn cả những điều ta dự đoán.

Trong cảm nhận tình thương ân huệ Chúa ban, cũng nên ngâm lại lời thơ còn dang dở:

 

“Chỉ những miệng cười góp lạ thành quen.

Góp những giọng hò làm trống ngũ liên.

Góp những bàn tay dựng thành đại hội,

Cánh tay chắp cánh tay cho dài thêm nửa với.”

(Nguyên Sa – Bài Hát Cửu Long)

 

Góp sức hay góp giọng, thành đại hội. Gạo quanh nồi, góp lại thành bữa cơm chung. Để sáng ngày làm sông làm biển. Thứ biển sông, mênh mông tình Chúa vẫn ban ơn cho hết mọi người. Ở đời.

 

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 26 thường niên năm A  

 

“Ở cũng bâng khuâng, đi chẳng đành,”

“đêm trời, sao cũ sáng long lanh.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

 

 

Mt 21: 28-32

Bâng khuâng đi chẳng đành, nên người đời có ra đi nhưng miệng mồm nào đã nói. Đêm trời sáng long lanh, nên đời người dù có hứa, nhưng chân mình rày chẳng buớc. Chẳng bước đi, dù miệng mình vẫn cứ nói. Nói và làm, trình thuật thánh sử viết hôm nay.

Trình thuật thánh Mát-thêu nay kể về dụ ngôn hai người con có những lời lẽ và lập trường thực hiện rất khác biệt. Cả hai hành xử kiểu đối nghịch. Người con đầu nói mình sẽ không làm điều cha muốn, nhưng cuối cùng vẫn thực hiện. Còn người kia, tuy nói làm nhưng lại không thực hiện lời mình nói. Tức, một người những nói và nói, nhưng không làm. Còn người kia, vẫn làm mà không cần nói. Dụ ngôn đây cho thấy: chính hành động nói nhiều hơn lời nói, ngoài cửa miệng.

Thời của Chúa, dụ ngôn được dùng như huấn dụ để khen ngợi những người hành động thiết thực hơn là nói. Bằng dụ ngôn này, Chúa bênh vực đám người bị khích bác, chê bai như đám đĩ điếm, dân thu thuế bệ rạc hơn giới thượng lưu, Pharisêu, ký lục chỉ nói và nói chứ chẳng làm gì để đổi thay con người mình. Thời của thánh Mát-thêu sau đó, dụ ngôn còn được dùng để đề cao người ngoại đạo hơn một số người Do thái cứ tự hào mình chuyên chăm đạo hạnh. Thế kỷ 20 lại dùng dụ ngôn hôm nay nhằm nâng đỡ đám người nghiện ngập dám làm sửa đổi chính mình hơn những người chỉ những nói và nói, khiến người khác bị khùng điên.

Áp dụng vào nhà Đạo, thấy dân con Đạo mình nhiều lúc có cả hai. Tức, nhiều khi ta những nói và nói, mà không làm. Có những lúc, ta vẫn làm mà chẳng nói, lấy một lời. Điều này làm ta nhớ về nhân vật trong phim dài nhiều tập có đầu đề “Cha Phó Xứ Đạo Dibley” luôn bắt đầu câu nói của ngài bằng những tiếng “Không! không! và không!” để rồi sau đó kết thúc bằng chữ “Có”. Có làm thực. Có hợp tác. Và đôi lúc nghĩ lại thấy mình từng nói “Có! có! Nhất định sẽ làm”, nhưng cuối cùng vẫn thành: Không! Không làm. Và cũng chẳng làm điều mình từng nói từng hứa, giống nhiều người trong ta.

Đi vào thực tế, giống truyện kể về cuối buổi lễ, các vị chủ tế có thói quen đứng ở cuối nhà thờ nói năng chào hỏi hết mọi người. Có lần, vị linh mục hỏi một giáo dân: tuần sau có đi lễ không đó? Rất nhiều người cứ trơn tru trả lời: “Dạ thưa cha, có chứ!” Thưa thì thưa “có”, nhưng các tuần sau đó lại khó mà thấy mặt vì nhiều lý do. Chính đó, là hiện trạng của người đi Đạo ở trời Tây, hôm nay. Hôm nay đây, có thể cũng có người lúc đầu tình thật không dám nói, nhưng sau đó suy đi nghĩ lại, vẫn cứ đến. Có người coi đây là chuyện linh mục không nên hỏi, vì ai nào dám thưa.

Nghiên cứu khảo sát hôm nay nhiều khi cho thấy: thế hệ trẻ hôm nay, và cả người cao niên cũng thế, lại cứ tính chuyện lời lãi mỗi khi được hỏi, ở nhà thờ hay ngoài ngõ, về bất cứ chuyện gì cần lấy ý kiến. Nói chung, nhiều người chỉ muốn dính dự vào các cuộc khảo sát với phỏng vấn khi biết mình chắc chắn có được lợi lộc, nếu trả lời. Tức là, họ chỉ muốn làm người dưng, trên trời rơi xuống. Chẳng muốn dính vào chuyện gì, dù thuộc vấn đề trong Đạo. Quần chúng hôm nay ra như lạc lõng ở đâu đó. Chẳng muốn ai ngó ngàng hỏi han mình điều gì, dù là ý kiến riêng tư. Kín đáo. Hoặc ép buộc. Khi xưa, ở phương Tây, các linh mục còn có thói quen đến từng nhà thăm viếng, hỏi han về cuộc sống của mỗi người. Ngày nay, làm thế tức vi phạm đời tư, rất nguy hiểm và dễ bị ra toà.

Nhiều năm về trước, mỗi khi có đề tài cần hỏi han góp ý hay tranh luận ở giáo xứ, còn có người chủ trương phóng khoáng. Bảo thủ. Hoặc trung lập. Ngày hôm nay, lại đã thấy những người như thế đi đâu mất. Hoặc, họ còn đó nhưng chẳng thiết tha gì chuyện bàn luận hay tranh đấu cho sự sống còn của Hội thánh. Nói chung, người đạo hạnh hôm nay không còn muốn dính dự vào chuyện chung của Hội thánh. Nhiều vị vẫn lành thánh, chuyên chăm chuyện lễ lạy, đạo hạnh. Nhưng không còn thiết tha chuyện tham gia nhóm hội đoàn thể có sinh hoạt tập thể, năng nổ tích cực. Mà chỉ muốn rút vào vỏ sò, sống riêng rẽ, cho khoẻ.

Nhiều người nhận ra rằng: thế giới nhà đạo họ đang sống nay khác trước rất nhiều. Khác nhiều thế giới của người phàm thực tế luôn trong sáng. Đầy dẫy thông tin. Đủ mọi chọn lựa. Nên, họ vẫn hết mình với mọi người. Nơi sở làm, ngừời người đều hăng say trách nhiệm. Vẫn cứ làm, vì chuyện chung. Nhưng trong Hội thánh, nhiều người đã bắt đầu ít nói. Không cà kê như trước. Dù, chuyện hội đoàn. Thế nên, khi hỏi: “Anh/chị tính sao? Có định tham dự chầu Thánh Thể thứ sáu này chứ?” Câu trả lời thường là: “Không dám đâu! Tụi này bận lắm. Chẳng kiếm đâu ra giờ, để đi chầu!” Nếu hỏi: “Anh/chị tính sao? Có định tham gia biểu tình phản đối đôi ba chuyện chính phủ làm không?” Câu trả lời, chắc cũng thế. Giống như người hành tinh vừa chợt ghé bến. Không chuyện trò, cũng không trao đổi. Chẳng bước đi về nhiều phía.

Dụ ngôn hôm nay, câu Chúa hỏi cũng tựa như thế: “Các ông nghĩ sao?” Hỏi như thế, không có nghĩa Chúa yêu cầu ta bắt chước những người chỉ biết nói chứ không làm, hoặc chỉ làm chứ không nói. Chúa không có ý khen ngợi hai lớp người nói ở trên. Ngài cũng chẳng giải thích sao Ngài lại không làm thế. Hoặc, vẫn làm như thế. Ngài chẳng nói hoặc có nói, bất cứ thứ gì. Ngài cũng không đi vào chi tiết để cho biết tại sao Ngài có lập trường như vậy. Dù, lập trường đó có là bê trễ, biếng nhác. Dù, đó có là kế hoạch, hoặc cảnh tình nào đó khó đoán. Dù, đó là chuyện đáng quên đi. Hoặc, chẳng lý gì về công kia việc nọ, cần công chúng tôn trọng. Điều Ngài hỏi chỉ là: “Các ông nghĩ sao?”

Liên tưởng chuyện này, có thể ta sẽ nghĩ mình đang đi vào loại hình nào đó của Hội thánh, vào thời buổi rất khác trong lịch sử. Một Hội thánh từng đòi rất ít ở dân con trong Đạo. Đòi và hỏi, về thời gian và thiện chí. Một Hội thánh không đòi những gì là ngoại lệ, nơi con người. Một thánh hội từng học hỏi cung cách biết tôn kính hết mọi người. Tôn và kính, chuyện riêng tư của dân con nhà Đạo. Học hỏi và trân trọng, việc phục vụ họ hơn việc sắp xếp để họ phục vụ Hội thánh, mà thôi.

Phục vụ dân con, còn có nghĩa: không dùng bạo động để dính dự cuộc sống đích thực của dân con. Phục vụ dân con, còn có nghĩa: tôn trọng phẩm cách tư riêng của mỗi người. Chính đó là nền tảng của việc yêu thương lẫn nhau. Nền và tảng, của việc trở nên cộng đoàn dân con sống thân thương như thế. Nền và tảng, để dân con sống, với lập trường hăng say đi đến mà nhận lãnh Thánh Thể Tình Yêu đích thật, ngày Chúa Nhật. Đó là những người con đang sống rất khác biệt. Sống rất đẹp, ở thế giới cuộc đời, cũng rất thực. Một đời người, luôn tham gia giùm giúp rất đắc lực.

Bởi thế nên, lời Chúa ở dụ ngôn hôm nay với câu hỏi: “Các ông nghĩ sao?” sẽ là lời nhắc nhở về động thái ta phải có trong đời, với người đời. Dù, người đó có là bạn đạo hay bạn đời, cũng như thế.

Trong cảm nhận tình Ngài thương ta qua câu hỏi ấy, cũng nên ngâm lại lời thơ trên, để còn nhớ:

 

“Tôi cũng chưa đi hết dặm đường,

Đời dài, mới đến nửa sầu thương.

Một đêm trở bước cho lòng nghĩ,

Sao biếc rơi tàn mộng phấn hương.”

(Đinh Hùng – Đêm Khuya Trờ Bước)

 

Trở bước hay cất bước, để rồi đi. Đi rồi, sẽ nhớ lời Thầy dặn. Dù đời mình ra sao đi nữa, vẫn cứ bước. Cứ ra đi rao truyền lời Thầy vẫn hỏi và vẫn răn dạy. Để rồi, mọi người tin vào Thầy. Ở đây. Bây giờ.

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 27 thường niên năm A  

 

“Chao ôi! Ghê quá! Chao ghê quá!”

“Cảm thấy hồn tôi ớn lạnh rồi.”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

 

 

Mt 21: 33-43

Hồn tôi ớn lạnh rồi, chẳng phải vì “một vũng cô liêu cũ vạn đời”. Chao ơi ghê quá! Ghê ghê quá!” phải chăng vì thợ vườn nho giết cả con của chủ vườn, thật đáng trách. Đáng chê trách, như dụ ngôn truyện kể ở trình thuật hôm nay.

Trình thuật, nay thánh sử ghi về dụ ngôn vườn nho, có người chủ gửi cả con mình đến với tá điền để hỏi chuyện. Chuyện Nước Trời. Chuyện, Chúa phú ban cho dân con Do Thái mọi ơn lành để sinh lợi. Ngài còn sai phái cả ngôn sứ đến chăm nom vườn nho để không bị ai phá. Nhưng, họ lại giết hại cả Người Con được sai phái, lẫn vườn nho Nước Trời, để rồi phải chịu hậu quả đắng cay là người La Mã đến xâm chiếm. Trên thực tế, vườn nho Nước Trời không bị phá, nhưng lại đã trao cho dân con đi Đạo, nay là tá điền mới.

Trình thuật tả sự thay đổi đến với nho vườn hiền hoà. Rồi từ đó, có so sánh dân con đi Đạo với tá điền Do thái, để xem ai thực hiện điều Ngài uỷ thác? Dân con đi Đạo hay tá điền được chọn, ai là người đáng được khuyến khích? Dân con Nước Trời có khá hơn tá điền Do thái được chọn không? Là tá điền mới, dân con đi Đạo có hứng chịu cùng một cảnh huống như tá điền được chọn không? Mọi việc sẽ ra sao, nếu như công việc Vườn Nho không còn được trao cho tá điền mới là dân con đi Đạo nữa?

Kinh thánh có nhiều đoạn ghi rõ những chuyện như thế. Những chuyện kể, để người đọc nhận ra rằng dân con đi Đạo ở Palestine cũng là người thuộc sắc tộc Do thái, đã hồi hướng trở về để lo việc Chúa. Họ là những tá điền vườn nho Do thái từng chỉ trích người cận thân và cận lân ở cộng đoàn, bằng ngôn từ khá nặng, cốt để diễn tả tình huống gay go ấy.

Lâu nay, nhiều người vẫn quan niệm là: chúng ta nhờ biết được cung cách rất khác biệt về nguồn gốc người Do thái ở “vườn nho”, nên ta có được lập trường thật đúng cách khi quan hệ với nguời Do thái trong/ngoài nước. Trong quan hệ với họ, ta luôn có trong đầu hai loại người Do thái rất khác biệt. Cả hai đều tốt lành. Tốt, cả về mặt thiêng liêng tinh thần cũng như thực tế. Và, ta còn nhận ra được rằng: quà tặng Chúa ban, ta nhận được là ngang qua người Do thái được Chúa chọn để chuyển trao. Và, khi ta cảm kích biết ơn Chúa, ta cũng cảm tạ cả người Do thái về vai trò chuyển tải này nữa.

So sánh thái độ của dân con đi Đạo với đám tá điền Do thái, là để nói về người Do thái xưa sống ở thời mà mọi thứ từ tôn giáo đến chính trị, xã hội đều đan kết nhau thành đặc trưng đặc sủng, rất Do thái. Có so sánh, mới thấy là thế giới của người xưa đi Đạo vẫn ôm đồm nhiều thứ như cung cách của xã hội ngàn năm văn hiến. Và so sánh, để thấy rằng: tôn giáo của người xưa không mang tính chất đa nguyên/đa dạng hoặc dân chủ phóng/khoáng như một số tôn giáo khác.

Tuy nhiên, cung cách giữ đạo của người xưa dính dấp nhiều vào xã hội đều mang lại khó khăn cho riêng mình. Loại hình ấy, là loại hình trọng nam khinh nữ. Loại hình chủ trương thứ luật lệ cứng ngắc, khắc nghiệt. Cả những chuyện như tiền bạc, tài chánh, chính trị, nhất nhất đều không coi trọng thể chế nào khác ngoài Israel ra.

Bởi thế nên, khi Đạo Chúa lan rộng qua khắp mọi miền đất nước ở trời Âu để rồi bén rễ sâu ở phương Tây lâu ngày, lại trở thành tôn giáo rất khác biệt. Khác, ở chỗ: người thời đó vẫn so sánh Đạo Chúa với đạo của người Do thái như soi tấm gương hai mặt của cùng một thực trạng con người. Đạo Chúa ở trời Tây khi ấy, đã trở thành thứ tôn giáo đi sâu vào lòng dân tộc, ở nhiều nước. Đi sâu và lan rộng, bằng nền tảng chính trị, kinh tế cũng như luật lệ, rất riêng biệt. Đạo Chúa ở nơi đó, không còn là thể chế bao gồm nhiều thứ, nhưng vẫn tạo được ảnh hưởng rất mạnh lên thế giới xung quanh mình. Thế giới, mang đến cho Đạo những ân huệ khả dĩ gây tác dụng ngược lên Đạo. Nói cách khác, Đạo Chúa không còn là đạo của người Do thái khi xưa và chẳng còn ôm đồm nhiều thứ, như trước nữa.

Điều lạ kỳ, là: người Do thái nay lại muốn có lại những lợi lộc rút từ thế giới trần tục, ở trời Tây. Họ không còn suy nghĩ như người Tây phương khi trước hoặc nghĩ mình buộc phải thích nghi với cung cách giữ Đạo mà người đi Đạo ở trời Tây, vẫn hay làm. Nghĩa là, họ chẳng khi nào cho mình là phó thường dân đi Đạo (như những người Công giáo hay Thệ phản thường làm thế). Hoặc, cho rằng mình chỉ là giáo dân hạng thứ, dù vẫn ở trong Đạo. Vẫn giữ Đạo. Họ nghĩ mình vẫn là người Do thái đích thật. Và Chúa vẫn thương yêu họ, như mọi người.

Nhìn vào Hội thánh 50 năm về trước, người giữ Đạo ở trời Tây cũng sống cùng kiểu như người Do thái. Cũng tin vào Đức Chúa. Cũng đi nhà thờ nhà thánh và lãnh đủ mọi bí tích. Nhưng, lại xây dựng một thế giới theo hình thức đạo giáo, kiểu Tây. Tựa như các làng mạc miền quê nước Úc, hoặc vài thị trấn ở Hoa Kỳ, cuộc sống Đạo/đời là thế. Cũng có nhà thờ riêng. Nhà thờ, là trung tâm tạo cuộc sống hăng say, năng nổ cho mọi người. Cũng có trường Đạo. Có hội từ thiện. Có người mở tiệm vẫn rập theo cung cách người có Đạo, rất lương thiện. Có nơi, còn thiết lập cả nhà thương để thương người bệnh. Có đời sống kinh kệ, đạo hạnh. Có câu lạc bộ thể thao, giải trí theo cách con nhà có Đạo, nữa. Tức, sống như người Công giáo vẫn sống. Sống giữa đời có cuộc sống tuy hai mà một.

Ngày hôm nay, cuộc sống của người đi Đạo không còn thế nữa. Người người được giáo dục theo khuôn khổ thế giới rộng lớn. Người người được đào tạo để có cuộc sống doanh thương chức nghiệp rộng lớn đến độ Hội thánh không còn chen chân ở đó nữa. Người Công giáo trở thành nhà giáo, chuyên gia hoặc doanh thương với ngành nghề khác nhau. Hội thánh chỉ có vai trò hướng dẫn để sống Đạo chứ không là người thiết lập ra thể chế. Và, người sống ở đây đã có lý lịch riêng của thế giới này, trước khi là thành viên của Hội thánh.

Có người quan niệm: hai lối sống ấy đều đáng quan ngại. Bởi, do chạy theo lối sống giống như thế Hội thánh đã để mất căn tính riêng của mình. Bởi thế nên, nhiều người mới có tinh thần nệ cổ, là vì muốn trở về với thời xưa, khá cổ lỗ. Muốn trở lại thời có đủ mọi thứ. Thời, mà thế giới nay gặp khủng hoảng nặng nề về luân lý, chuyên chú vào văn hoá của sự chết. Và thế giới nay chẳng giúp giải quyết được sự phân cách giàu/nghèo. Theo quan niệm của họ, thế giới hôm nay không còn chất xúc tác khích lệ nền luân lý đích thực được nữa. Và, Hội thánh ở trời Tây nay cũng thế. Hội thánh cứ phải nhượng bộ và xuống cấp. Hội thánh, không còn là “tôn giáo” đích thực, nhưng chỉ còn mang nhãn hiệu đẹp có được từ cuộc sống hiện đại, thôi.

Trong khi đó, phần đông người Công giáo lại nghĩ khác. Theo họ, lối sống Đạo của người ở trời Tây chẳng có gì khiến ta xấu hổ, nhưng vẫn là một thách đố, cho mọi người. Thách và đố ta tìm ra Thiên Chúa ở xã hội mình sống. Thách và đố mình học hỏi làm người của Chúa ở thế giới tục phàm này.

Điều đáng buồn, là: nhiều năm qua, phương Tây từng phát triển/nở rộ rất nhiều thứ. Và, Hội thánh mình đã tìm ra được chỗ đứng trong đó. Trong khi người Do thái lại không làm được điều gì tốt lành theo nghĩa đùm bọc về văn hoá, chính trị, kỹ nghệ và quân sự. Họ ra như chỉ thuộc hàng thứ yếu trong một thế giới quá lớn rộng. Ngày nay, người Công giáo lại vẫn nghĩ Đạo của mình tốt lành hơn đạo của người Do thái. Thật ra, thì Đạo Chúa ở trời Tây đang trên đà suy sụp. Trong khi đó, người Do thái lại tìm đuợc đất lành năm xưa. Tìm được tâm hồn mình. Và họ đang minh chứng cho thế giới thấy được chuyện này.

Chuyện này, áp dụng cả cho người Hồi giáo lẫn người Do thái, ở các nơi. Người Hồi giáo tuy cũng có nguồn gốc từ thế giới cổ xưa vốn thừa hưởng giáo huấn của vị “ngôn sứ” lấy kinh Koran làm kim chỉ nam dẫn đường. Có luật Sha’aria hướng dẫn để sống đúng tinh thần của Kinh Sách. Họ là người tự coi mình như một kết hợp giữa xã hội và tôn giáo.

Buồn một chuyện, là: người Đạo Chúa và đạo Hồi vẫn chơi trò tranh chấp khích bác nhau. Cả hai lại không chấp nhận rằng mình khác nhau; và chẳng nhận chân ra rằng chính Chúa đã làm cho ta ra khác biệt. Khác biệt, theo hướng tích cực khiến ta nhớ lại chuyện kể về một bé em Do thái dám hỏi vị thượng tế câu động trời rằng:“Làm sao các ngài chứng minh được con người là hình ảnh của Thiên Chúa nếu như mọi người có khác biệt?” Vị thượng tế nghe hỏi bèn trả lời rất khôn khéo: “Sở dĩ ta là hình ảnh của Thiên Chúa là vì ta có khác biệt, đấy bé ạ!”

Vế với dụ ngôn hôm nay, mọi người đều thấy: Thiên Chúa là chủ vườn nho rộng lớn. Và, Ngài vẫn muốn có hoa trái vườn nho tạo ra. Và Ngài còn muốn cả rượu ngon từ hoa quả chín mộng ấy nữa. Rượu ngon Ngài uống, là do thợ vườn khác biệt làm ra. Khác, cả tính tình lẫn cách trồng trọt và biến hoa trái thành rượu, từ những khác biệt đó.

Trong tâm tình nhận ra ý Chúa tìm rượu ngon từ khác biệt, cũng nên ngâm câu thơ còn để dở:

“Chao ôi! Ghê quá trong tư tưởng,

Một vũng cô liêu, cũ vạn đời!”

(Hàn Mặc Tử - Cô Liêu)

Bởi cô liêu, nên mới không nhận ra khác biệt. Bởi khác biệt, nên đôi lúc cũng tạo cô liêu. Đời sẽ thế, nếu người người cứ như thế. Như thợ vườn nho ở dụ ngôn xưa và hôm rày ta vẫn thấy. Dài dài.

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 28 thường niên năm A

“Lấy đâu xe cưới ngời hoa trắng?”

“với những mâm cau phủ lụa điều?”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

 

Mt 22: 1-14

Xe cưới ngời hoa trắng, nào thấy ai bước vào. Mâm cau phủ lụa điều, người dự nào thấy vui. Không vào dự, là nỗi niềm của dân con ngưòi Do thái đuợc kể ở trình thuật, rất hôm nay.

Trình thuật, nay thánh sử kể một loạt 4 dụ ngôn: có truyện của hai người con hành xử rất khác biệt. Có, tá điền quái ác giết cả Chủ Vườn. Nay, đến tiệc cưới được mời cũng không người đến dự. Dụ ngôn nào, cũng biểu tỏ một bài học bóng bảy về luân lý. Và, dụ ngôn cũng biểu lộ phong thái phóng khoáng của Chủ Tiệc. Bởi thế nên, ta đừng hiểu ý/lời ở truyện kể theo nghĩa rất đen. Nhất là khi Vua quan sai quân hầu quở trách đám thực khách, xong rồi còn tống họ vào chốn tối tăm khóc lóc vì “áo xống” không đúng qui cách.

Hãy nên xét kỹ dụng ý mà người kể muốn con dân hiểu rõ khi đọc truyện. Truyện dụ ngôn, còn trưng “lời mời” Chủ tiệc cho gửi đi rất sớm để người được mời kịp mà nhận lời đến dự theo đúng ‘nguyên tắc’ mà người Do thái vẫn có. Nguyên tắc đây, là thói quen lịch thiệp mà Chủ tiệc muốn khích lệ mọi người hãy nhanh chóng nhận lời mời. Nhận lời, mà xử thế hệt như thể người bệnh đến gặp bác sĩ chuyên khoa như đã hẹn.

Nhận lời mời ở đây, là hành động cần thực hiện nhất thứ là khi Chủ tiệc lại là Vua quan quyền thế chốn gian trần muốn dân con mình vui hưởng an lạc. Nhận lời mời, không chỉ cổ võ người được mời tìm chốn an vui mừng lễ. Nhưng, còn để diễn bày lệnh truyền từ Chủ tiệc. Bởi thế nên, dân con nào từ chối lời mời của vua quan Chủ yến tiệc chắc chắn là hành động có ý bạo phản. Như thế, hậu quả sẽ nghiêm trọng.

Cũng may là ở dụ ngôn, người được mời chỉ là phó thường dân hiền hoà vẫn cư xử theo qui cách của xã hội thời bấy giờ. Họ, là đám dân dã luôn thực hiện công tác xã hội theo qui cách chân phương, hiền lành. Tuy nhiên, ở trình thuật, người khuớc từ lời mời đến dự tiệc không giải thích lý do tại sao mình từ chối. Lại cũng chẳng đưa ra lời cáo lỗi nào, như khuôn phép mà người lịch sự vẫn hay làm.

Làm như thế, là bởi vì: họ vốn là những người suốt ngày “bận rộn” với đủ thứ công việc, không thể dự đến dự tiệc như lòng mong muốn. Có thể là, họ bận vui chơi. Bận trông nom con cái. Bận dọn dẹp nhà cửa. Nấu nướng; hoặc trả biên lai tiền điện/nước, cắt cỏ, bởi thế nên không coi chuyện dự tiệc là việc ưu tiên “cần làm ngay”. Thời buổi này, người người thường lấy lý do sinh kế, hoặc chăm sóc gia đình để thoái thác mọi lời mời. Cũng may, trình thuật không coi việc nhận lời ở đây chuyện “cần làm” ngay tức thì.

Tuy nhiên, Vua quan lại coi việc khước từ lời mời dự tiệc là hành xử khiếm lễ, nên đã sai quân hầu đi khắp chốn mời cho hết mọi người tốt/xấu, để thay thế. Giới thẩm quyền người Do thái xưa không cho phép những ai có vấn đề tâm thần hoặc tật bệnh đến hội đường. Cả những kẻ lôi thôi quần áo không chỉnh, cũng như đám người hôi hám, bẩn dơ được phép xuất hiện chốn liên hoan, tế tự. Bởi vào thời đó, làm gì đã có chương trình thanh lọc, rà soát, dõi theo như bây giờ!

Đọc đến đây, hẳn có người sẽ đưa ra thắc mắc về ý của người viết trình thuật là gì?

Quả là, trình thuật muốn đem đến cho người đọc một số các điểm chính mà tác giả muốn nói đến. Đó, là lược sử quá trình ơn cứu độ gửi đến với dân con mọi người. Vua quan là chính Chúa. Người được mời là dân Do thái. Sứ giả là các ngôn sứ. Người Con là Đức Giêsu. “Thành bị phá huỷ” là Đền thờ Giêrusalem bị sụp đổ -hồi năm 70 khi thánh Mát-thêu viết trình thuật này. Mọi chi tiết trong trình thuật là vấn đề tranh cãi khá nghiêm trọng trong cộng đoàn Mát-thêu vào thời đó. Lúc mọi người đều thấy bối rối không biết rằng kế hoạch cứu độ của Chúa thực sự diễn tiến như thế nào.

Đoạn cuối trình thuật tiếp tục câu truyện dụ ngôn về “áo xống” mặc ở tiệc cưới. Có vị đến dự lại chẳng ăn vận cho phải phép. Dụ ngôn không nói những người đến dự có được ban phát “áo xống” này hay không. Chủ Tiệc có cung cấp cho họ không. Chắc chắn là không! Thiên Chúa là Chủ tiệc có khi nào lại ấn định luật lệ về “áo xống” như thế?

Về với thư của thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côlôsê trong đó có đoạn ghi: “Theo tư cách là thánh được Thiên Chúa chọn và yêu mến, anh em hãy mặc lấy lòng lân mẫn, chạnh thương, đức nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ, đại lượng...” (Cô 3: 12). Mỗi lần nói đến tín hữu đã được thanh tẩy, thánh Phaolô vẫn cứ bảo: Hãy mặc lấy Đức Kitô, như thứ áo xống cần thiết. Xem như thế, đây chính là thứ “áo xống” cần mặc ở tiệc cưới.

“Áo xống”, là thái độ sống trong đời. Là, cung cách người tín hữu Đức Kitô cần có để sống đích thực là con cái Chúa. Cũng có thể, đây là ý chính mà lược sử ơn cứu độ muốn nói đến. Ơn cứu độ, là ơn sản sinh ra con người sống như thế. Dù, họ đến từ đâu. Dù, họ có thuộc về Hội thánh nào, hoặc nhóm hội/đoàn thể nào, cũng thế.

Cuối trình thuật, thánh Mátthêu còn đưa ra cho người đọc một chân lý hiển nhiên được thánh nhân nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Kẻ được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì ít.” (22: 14) Ở bản 70 Hy Lạp, đây là câu thơ hạp vận: nhiều người được gọi (kletoi), nhưng được chọn lại ít (ekletoi). Danh từ thần học của ta có cụm từ “chiết trung”. Người có tính “chiết trung” là người không phù hợp với mẫu mực đờisống ở quanh mình. Là, người mặc lấy cho mình thái độ sống từ nhiều nơi khác.

Thánh Phaolô nói với những người hồi hướng trở về với cộng đoàn Hội thánh rằng họ là những người thực sự được chọn, nên phải sống đúng thực với quà tặng “nhưng-không” đặc biệt ấy. Thánh Mátthêu viết theo cung cách khác. Thánh nhân yêu cầu người đọc thực hiện lối sống đảm bảo họ là dân được chọn và được tặng ban đường lối sống khác biệt. Thánh nhân khích lệ người đọc tỏ ra mình khác biệt, vì được gọi theo cung cách mình là người của Chúa. Thánh nhân không tìm cách khiến họ lo sợ qua con số thống kê hoặc tỷ lệ những người được cứu. Thánh nhân hoàn toàn lạc quan về chuyện này.

Vấn đề là nay ta tự hỏi: ta làm gì được với dụ ngôn và chân lý ấy. Lệnh truyền: “Hãy đi ra các ngã đường…" (Mt 22: 9) làm người đọc nhớ đến câu nói của thánh Phaolô, khi thánh nhân rời Tiểu Á qua ngõ nhỏ để đi Châu Âu. Thị trấn đầu tiên thánh nhân đặt chân tới, là thị trấn Philiphê. Philiphê, một “ngã đường” trên chính lộ được mọi người biết. Thánh Phaolô cũng được gửi đi tới đó. Thoạt khi vừa đặt chân lên nơi đó, thánh Phaolô biết ngay là dân chúng nay chán ngấy cuộc sống dưới trướng của đế quốc La Mã. Và, họ cũng muốn về với Giavê Chúa của người Do thái, nhưng lại không muốn dấn bước trở thành người như họ. Thành thử, ta gọi họ là những người ‘rất chung chung’ luôn kiếm tìm. Những người rất “chiết trung”, được ghi nhận. Và, thánh Phaolô kêu mời họ để đưa về với tiệc Lời Chúa cũng là tiệc Thánh Thể.

Vấn đề là: ngày nay đâu là giao lộ để ta đi? Ai là người rất “chiết trung” của ta?

Thiết tưởng, họ vẫn là người luôn ưa chuộng lòng hào hiệp/chính trực hơn tôn giáo lớp lang, qui củ. Họ nhận ra rằng: sự xấu tự nó cũng bén rễ sâu như lòng hào hiệp. Và, họ cũng là người thấy được rằng chính lòng hào hiệp sẽ phá đổ được sự xấu để tiến tới. Họ, còn là người nhận thức biết rằng hư vô, lố bịch và cả đến cái chết cũng không là yếu tố nói lên được lời cuối cùng cho bất cứ một ai. Là người nhận ra hương vị của hạnh phúc, nhưng họ lại đánh mất hạnh phúc làm nơi nương náu.

Những người như họ cũng biết chiêm ngưỡng/thán phục sự tốt đẹp lành thánh mà vui hưởng. Họ vẫn mong chờ mọi sự tốt đẹp đến với mình và khao khát đạt điều tốt đẹp như thế. Là, người kiếm tìm đất sống tốt đẹp mà không có sự khuynh loát, chiếm đoạt. Nơi, mà mọi người có tự do trở thành người tốt lành, biết yêu thương, giùm giúp hết mọi người.

Tuyệt diệu thay, khi ta và mọi người đều nhân danh Chúa mà ra giao lộ để kiếm tìm mọi người và mọi sự tốt lành. Kiếm và tìm, để rồi sẽ đưa những người chiết trung mà mình vừa gặp mặt, được về với cộng đoàn tình thương, rất tốt lành, chuyên chăm lo, giùm giúp. Nếu được thế, cộng đoàn dân Chúa sẽ là Tiệc Cưới tuyệt diệu. Tiệc Thánh Thể đích thực, đúng ý của Chủ Tiệc vẫn mong đợi mọi người dự.

Trong tâm tình đó, cũng đề nghị mọi người ngâm tiếp vần thơ còn để ngỏ. Ngâm rằng:

“Chiều nay…thương nhớ nhất chiều nay,

Thoáng bóng em trong cốc rượu đầy.

Tôi uống cả em và uống cả

một trời quan tái, uống cho say.”

(Nguyễn Bính – Một Trời Quan Tái)

 

Trời Quan Tái, là cõi trời mở ngỏ với mọi người. Trời Quan Tái, nay là cộng đoàn Nước Trời ở nơi đó ta vẫn sống mà uống cho say tình thương yêu tuyệt diệu, tốt lành. Rất Thánh Thể.

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 29 thường niên năm A  

 

“Ta xót thương, ta căm giận hung cuồng,”

“Ta gầm thét, rung mấy trời thế sự.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

 

 

Mt 21: 15-21

Hung cuồng giận căm, là cung cách của người thường, rất ở đời. Rung trời thế sự, cả khi con người dám vấn nạn Đấng Nhân Hiền về việc đóng thuế cho Xê-Da, như được diễn tả ở trình thuật.

Trình thuật, nay thánh Mát-thêu diễn tả về tình thế trong đó những người “hung cuồng” dám gài Chúa vào bẫy cạm của thế sự bằng vấn nạn:“Nên chăng trả thuế cho Xê-da?” Thế sự hôm ấy, đám Pharisêu ngạo mạn và nhóm giáo gian nịnh hót vua quan Hêrôđê ở Do thái, những muốn đặt Ngài vào tình huống nóng bỏng về phục vụ ngoại bang. Họ cứ nghĩ: Ngài có trả lời thế nào đi nữa cũng sẽ làm mất lòng dân. Nếu Ngài nói khác, cũng vẫn rơi vào tròng. Nói cho cùng, họ muốn đặt Ngài vào tình trạng phải đối đầu với phe thân thực dân, để rồi chịu mọi hậu quả. Thế nên, thánh Mátthêu gọi họ là “giả hình”. Nhưng kỳ thực, phải gọi họ là “đám sùng đạo gian giảo”, mới đúng.

Ngược giòng lịch sử, ta thấy đất nước Palestine của người Do thái lúc bấy giờ nằm dưới quyền kiểm soát của La Mã. Tức, những người chuyên bổ thuế nặng nề lên đầu đám dân đen hèn mọn rất thấp cổ bé họng. Vượt biên giới cũng đóng thuế. Mua bán/đổi chác bất cứ thứ gì, cũng chịu thuế. Thậm chí dân con người người còn phải đóng cả thuế đinh, tính trên đầu người nữa.

Thực tế khi ấy, Xê-Da là Tibêrius, con trai của Thượng tế Augustus được dân coi như ông Trời con, rất đáng gờm. Cả Augustus lẫn Tibêrius, vẫn coi mình thuộc giới thần linh, cần được kính nể. Các ông còn tự ban cho mình tước vị cao vời vợi như: lãnh chúa, đấng cứu độ chuộc tội cả thế gian. Và, cho mình có trọng trách quản cai cả thiên hạ. Nên, việc trước tiên của họ là phải chiến thắng về binh bị, và an bình là đoạn kết rất dĩ nhiên. Rốt cục, người thua cuộc phải chịu mất đi sự an bình, đành phủ phục dưới đất mà ngợi khen kẻ chiến thắng.

Trong giao dịch hằng ngày, người Do thái vẫn sử dụng nhiều tiền kẽm của La Mã. Thế nhưng, khi sử dụng đồng tiền ấy để trả thuế, họ lại coi đây như công việc về tôn giáo – như sùng bái hoàng đế và coi đó là lối sống theo kiểu La Mã. Có thể nói, đóng thuế là một trong các vấn đề đưa đến cuộc nổi dậy kết thúc bằng việc thành Giêrusalem bị phá huỷ năm 70. Thành thử, với người Do thái, đóng thuế là việc tựa hồ như thờ bái ngẫu thần vậy.

Trong cuộc đời công khai của Ngài, Đức Giêsu tỏ cho mọi người thấy lối sống khác kiểu của La Mã. Và, đây là lối sống tỏ bày sự chống đối đám thực dân này. Với Ngài, cuộc sống phải đặt nền tảng trên công bình chính trực với hết mọi người. Công bình và chính trực, khiến Cha Ngài và là Chúa của người Do thái luôn tôn trọng con người. Thiên Chúa là Đấng thiết lập giao ước với con người, bởi thế nên giữa họ sẽ không còn người nghèo, hoặc kẻ hèn nào hết.

Khi Đức Giêsu nói Nước của Thiên Chúa đã đến, thì người La Mã hiểu ngay điều Ngài muốn nói. Ngài nói thế, tức: vương quyền của Xê-Da đã đến hồi kết cuộc. Người La Mã nghe vậy đều coi đó như một bội phản rất trời long đất lở. Và, họ giết Ngài là vì thế. Nhưng Đức Giêsu tin là Thiên Chúa vẫn ở với người thua cuộc. Và Chúa đã bắt tay vào việc giùm giúp hỗ trợ kẻ đau khổ về sự bất công do người La Mã và các kẻ nịnh bợ họ đem lại. Thiên Chúa dọn sạch thế giới. Ngài làm bật gốc mọi bạo động và nhờ đó, đem lại cho con dân Ngài cuộc sống an bình, dễ chịu. Ngài có chương trình khác hẳn vua quan La Mã. Không nhất thiết phải chiến thắng về binh bị, mới có thể tạo được an bình. Nhưng, trước tiên phải tạo công bằng trước đã và từ đó an bình sẽ đến sau.

Về việc đóng thuế cho vua quan La Mã, đó không là trọng trách của dân con người Do thái. Mà là, vấn đề tôn giáo cũng như công bằng chính trực rất đậm sâu. Đức Giêsu đi thẳng vào trục vấn đề, bằng cách đòi xem hình vẽ trên đồng tiền quan. Tiền này, ai cũng có sẵn ở trong người, còn Ngài thì không. Bởi thế, Ngài mới hỏi họ là: hình của ai khắc trên đó, họ mới nói: quan tiền nào cũng mang hình tượng của Xê-Da. Và, Ngài bảo: “Vậy, các ông hãy đem trả cho Xê-Da, vì chính ông ta sở hữu nó”. Câu trả lời của Ngài mang ý nghĩa của động thái bước ra khỏi cung cách phụng thờ phục vụ để chỉ chấp nhận lý lẽ của thuế má, mà thôi.

Và Ngài tiếp: “Hãy trả lại cho Chúa, những gì thuộc về Ngài.” Điều này xác nhận một chân lý lâu nay vẫn sáng tỏ với mọi người, đó là: hình ảnh Thiên Chúa đã được ghi khắc nơi tâm khảm của mọi người, ngay khi họ được Giavê Thiên Chúa tạo dựng. Nhưng hôm ấy, thật sự Chúa không có ý ám chỉ về việc ấy mà Ngài chỉ muốn nói: Thiên Chúa, theo luật Torah, đã ngăn cấm loài người tạc hình tạc tượng của chính Ngài. Điều này cũng rất đúng, nhưng không phải là ý Chúa muốn biểu tỏ vào hôm đó.

Ý nghĩa của câu Chúa nói không nằm trong bản Kinh thánh 70, tức: Chúa chỉ muốn bảo: thuộc về Ngài, là đám người nghèo hèn, những kẻ bị nhóm quan quyền thân La Mã chèn ép, hạ bệ. Hãy cho họ một cơ hội để có thể tự vươn lên. Hãy trả lại cho họ sự cộng chính, bình an, vốn là quyền của họ, trước mặt Thiên Chúa, cho dù họ có bị chính người La Mã và đám giáo gian nịnh hót luôn thử thách, coi thường. Với Đức Giêsu, đây mới là tôn giáo đích thực. Ngài vẫn nói lên sự thật ấy dù có bị người La Mã bắt giam và xử tệ trên khổ giá.

Đọc trình thuật hôm nay không phải để kể cho nhau nghe về đế quốc La Mã dù hào hùng. Bởi, đế quốc nào mà chẳng chèn ép bắt bớ dân con nghèo hèn, ở bên dưới. Thật buồn thay, khi ta thấy “các nền văn minh hôm nay vẫn tự cho mình là sáng giá” đều quay về với thể chế rất chèn ép, thống trị hệt một phường như lịch sử thường minh chứng.

Tác giả Dominic Crossan dùng cụm từ “về với cảnh tượng rất thường ngày” để tả về trạng thái của người Do thái. Thánh Phaolô lại nghĩ về nền văn minh “tai tiếng” thời đế chế Augustus và bạo chúa Nêrô sẽ cứ thế tràn về, nếu không ai cản ngăn bước chân bạo tàn của đám người ấy. Hôm nay đây, đế quốc phương Tây cũng sắp hàng dài chạy theo cùng một kiểu cách như thế. Đế quốc phương Tây xưa nay gồm từ Hy Lạp, cho chí La Mã, Anh quốc ở thế kỷ 18, 19 và Hoa Kỳ ở thế kỷ thứ 20, và tương lai có thể sẽ là Vaticăng của chúng ta cũng chưa biết chừng, nếu ta không đề cao cảnh giác!

Hệ thống đế chế luôn hứa hẹn hoà bình đến với con dân (như thể loại Pax Romana khi xưa) bằng chiến thắng rất binh bị. Nghĩa là, cũng khởi đầu bằng khổ ải, rồi lại chiến tranh tàn phá, kết cục bằng những động thái dương oai đắc thắng, tức: những động thái rất chễm chệ, ăn trên ngồi chốc của kẻ đắc thắng đi từ hệ cấp dũng mãnh uy lực, thứ hoà bình của kẻ chiến thắng có sự hỗ trợ của Aenaeas Mars Ultor, rồi cả Nữ thần Rôma và thần Sung Mãn, cứ thế mà sinh sản. Qui luật họ đưa ra, được viết trên đá cẩm thạch. Văn minh họ khởi xướng gồm cả chế độ cha chú, chủ trương duy trì nô lệ. Lối sống của họ tuy mang dáng dấp rất tôn giáo, có toà án lẫn bàn thờ, nhưng vẫn cứ tôn sùng con người là hoàng đế lẫn vua quan, lãnh chúa.

Chủ trương đế chế, nay được sử dụng như cụm từ để diễn tả một thế giới vẫn kéo dài sự thống trị mãi cho đến thế kỷ 20. Hôm nay, tệ hại hơn lại có chủ nghĩa toàn trị và khủng bố. Và, có thay đổi chăng, thì cũng chỉ thay và đổi cung cách cũng như kỹ năng sử dụng bạo lực bằng kỹ thuật thật tinh xảo hơn thôi. Với khí giới giết người hàng loạt mà chưa một đế quốc nào xưa nay từng nghĩ tới.

An nhàn và bình yên đã trở thành ngôn từ khó hiểu, rất nhiều nghĩa. Đối với ta, đôi khi còn trở nên trống rỗng. Dominic Crossan gọi đó là: ”Hoà bình trở nên thứ hàng trang trí ta treo lủng lẳng ở trên cây thế giới vào mỗi năm. Ta sẽ chỉ mang nó đi, theo cung cách của lịch sử mà thôi.”

Đức Giêsu khẳng định: “Bình an đến với anh em”. Bình an, Ta gửi đến với anh em là sự an bình Chúa hứa ban. Nhưng, Ta chỉ ban bình an ấy hoặc để lại bình an ấy cho mọi người, trừ phi anh em thực thi công bình của Chúa, đối với nhau. Đặc biệt hơn, là những người lâu nay bị chèn ép, bị khống chế tồi tệ, không ngóc đầu lên nổi vì thể chế thống trị đầy áp bức của cái-gọi-là văn minh, tân tiến ở mọi thời. May thay, Đức Giêsu kịp giải thoát ta khỏi chốn bi ai, trầm thống rất bất công. Để, ta về với nhau sống hài hoà, bình an, thương mến.

Trong nhận thức về sự giải thoát của Đức Chúa, ta lại ngâm lên lời thơ tuy rất khổ:

“Trông thấy ra, cả cõi đời kinh hãi.

Giòng sông con nép cạnh núi biên thuỳ.

Đường châu thành quằn quại dưới chân đi,

Xao động hết loài cỏ hoa đồng nội.”

(Đinh Hùng – Bài Ca Man Rợ)

 

Nay hết rồi, một bài ca man rợ ấy. Dù, đã kéo dài nhiều thế kỷ. Bởi, Đức Chúa Nhân Hiền kịp kéo ta về với hoà bình và công chính, Ngài hứa ban. Nhận ra thế, ta sẽ dâng lời cảm kích biết ơn hoài. Sẽ thương hoài ngàn năm, nay là thế.

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 30 thường niên năm A  

 

“Gặp một bữa, anh đã mừng một bữa,”

“gặp hai hôm, thành nhị hỷ của tâm hồn.”

(dẫn từ thơ Nguyên Sa)

 

 

Mt 22: 34-40

Sống đời người, phải chăng anh sống chỉnhư thế. Sống đạo hạnh, anh sống hơn thế chăng? Như thế hoặc hơn thế, là lập trường sống an lành như thánh sử rày diễn tả ở trình thuật hôm nay.

Trình thuật nay thánh Mát-thêu đưa ra bối cảnh trong đó có tranh chấp giữa nhóm người tự cho mình là đệ tử thuần thành của Thiên Chúa và Biệt Phái. Nên, họ đã tìm đến Đức Giêsu để xem Ngài tranh luận với Biệt Phái “căng” đến độ nào. Và, họ nghĩ: Ngài không thể nào khôn ngoan/mồm mép bằng đám người chuyên tranh luận, nguỵ biện về nhiều thứ.

Tin mừng thánh Mác-cô khi trước cũngđưa ra bối cảnh tranh luận cũng nóng bỏng như thế. Nhưng đám kinh sư hôm ấy, chừng như có dụng ý xem ra tích cực hơn. Tin Mừng thánh Mátthêu, nói đến một người trong họ nguyên là chuyên gia luật Torah của Do thái, và có thể là tư tế, đã thách thức Chúa thử tài cãi tranh/biện luận xem Ngài tài đến cỡ nào.

Người thách thức Chúa, thừa biết rằng 613 khoản luật Torah đều có giá trị ngang bằng. Nhưng người thách thức nay lại chơi “khăm” muốn bắt nọn Đức Chúa và biết chắc Ngài sẽ rơi vào bẫy cạm của người vấn nạn đưa ra.

Điều quan trọng là ta nên suy nghĩvề lời Kinh thánh: “Hãy lắng nghe, hỡi Israel! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, là Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em. Những lời tôi truyền hôm nay, anh em phải ghi lòng tạc dạ.” (ĐNL 6: 4-6) “Đó là điều răn đầu quan trọng nhất.”(Mt 22: 39).

Điều răn đầu quan trọng nhất, ấy là:“Hãy lắng nghe” (Shema)! Đó, còn là lời nguyện cầu cơ bản mà người Do thái vẫn đọc nhiều lần trong ngày. “Hãy lắng nghe”, là nghe và chú ý hết mình. Là, trườn người về phía trước. Tựa mình lên đó mà tin tưởng vào điều mình khó lòng đạt được nếu không chú ý. Tựa hồ như ta chẳng thể nào suy tư về lề luật trừ phi ta áp dụng luật lệ ấy, ngay từ đầu.

Ta thấy gì khi lắng nghe? Thấy lời kinh của tổ phụ vẫn bảo: “Đức Chúa là Thiên Chúa Duy Nhất!” Ngài là Giavê Thiên Chúa của Do thái. Ai cũng biết. Nhưng không ai được kêu tên cực trọng của Ngài. Danh xưng mà họ thường dùng trong chỗthân quen, là “Đức Chúa” (tức Adonai). Thế nên, khi lắng nghe, ta sẽ khám phá ra Đấng Duy Nhất mà Danh Ngài không thể phát ra thành âm thành tiếng. Và, ta chỉ khám phá ra mỗi một điều:Đức Chúa của ta là Đấng Duy Nhất, chỉ “Có” một.

Nói thế, không để bảo là: chỉ Thiên Chúa là Đấng Duy Nhất, mà để nói rằng: Đức Chúa Duy Nhất mang tính độc nhất vì đặc trưng của Chúa là độc nhất vô nhị. Và, đó là bí nhiệm của thực thể. Hãy lắng nghe, vì có thể ta sẽ nhận ra điều ấy. Hãy lắng nghe và biến việc ấy thành trọng tâm cuộc sống của chính mình.

Khi làm thế, chắc chắn ta nhận ra rằng: bí nhiệm của tính chất duy nhất ấy là của ta. Đức Chúa là Thiên Chúa của ta. Tính “duy nhất” của Ngài là tương quan sống động Ngài có với ta. Là, tương quan mật thiết với ta và trong ta, cách thân thương; và tương quan này đòi có sựhỗ tương, đáp trả.

Chính vì thế, mà người người phải biết yêu thương tính Duy Nhất củaĐấng Độc Nhất Vô Nhị hằng thương yêu mình.Giới răn tiên quyết và duy nhất, có nghĩa là không làm bất cứ thứ gì ngoài chuyện thương yêu. Chỉ biết yêu thương. Chỉ biết hướng lòng mình lên cao, đểcon người mình được kéo về Đấng Độc Nhất và Duy Nhất mình từng yêu mến và mến yêu mình. Giả như Israel không làm như thế, thì Israel chẳng còn là Israel dân riêng của Chúa nữa.

Nếu người người biết yêu thương Đấng Duy Nhất từng yêu thương ta, Ngài sẽ biến đổi con người ta. Để rồi, ta lại sẽtập trung toàn bộ chính mình ta vào Đấng Duy Nhất. Có như thế, người người mới yêu thương bằng chính tâm can, linh hồn và thần trí của mình. Và từ đó, khám phá ra nơi mình sự kết hợp vẹn toàn chưa từng có. Và khi đó, ta sẽ giống như Đấng Duy Nhất mà ta thương mến. Sẽ là ảnh hình của Đức Chúa. Và ngay khi ấy, mình cũng khám phá ra chính mình ngay trong khoảnh khắc kiếm tìm ta và lắng nghe Đức Chúa của ta. Chính điều đó, và chỉ mỗi điều đó là luật Torah rất sốngđộng.

Khi Chúa nói: giới răn thứ hai của luật Torah cũng giống như giới răn thứ nhất, ý Ngài muốn nói chính là sự ngang bằng trong cân lượng và tầm mức quan trọng như điều trước nhất. Đó không phải là giới răn “thứ yếu”, mà là giới răn cũng nóng bỏng như giới răn đầu. Đó không là yêu thương toàn thể nhân loại, hoặc yêu những gì trừu tượng hoặc những gì xa vời tầm tay. Cũng chẳng là yêu người cần được yêu ở nơi xa xôi bên châu Phi, Trung Đông hoặc ở Châu Á, nơi quê nhà. Cũng chẳng là bỏ tiền cho bạc vào thùng giỏ quyên góp cho họ. Mà Lời Chúa nói, mang ý nghĩa yêu thương người đồng loại. Yêu theo nghĩa ta vừa nghe biết. Biết lắng nghe người thân cận, đồng loại. Là, khám phá ra nơi người thân cận và đồng loại, tính chất Duy Nhất của Đức Chúa,Đấng từng yêu người đồng loại của mọi người hệt như Ngài từng yêu chính con người ta.

Hướng tất cả lòng mình vào người thân cận, rất đồng loại mang tính Chúa, bằng tất cả tâm can, hồn trí lẫn xác phàm của mình. Đồng thời cũng nhớ rằng: đấy chính là người đồng loại ở cạnh bên. Nơi phố chợ, ở đầu ngõ, mà chỉ thoáng nhìn đã thấy ghê rợn, chẳng hấp dẫn. Chính đó, là những người chưa từng nghe biết, cũng chẳng nghĩ họ sẽ phải tuân giữ luật Torah. Nhưng, chính họ mới là người đầy tràn tính chất Duy Nhất. Đầy tràn tình Thương yêu của Chúa mình.

Mọi người trong ta không thể yêu người này mà lại không có người kia. Tất cả đều chung cùng với nhau. Đó chính là ý nghĩa của Giao Ước. Ý nghĩa từng tỏ cho ta thấy Đức Chúa đã trở nên Thiên Chúa của tất cả chúng ta. Tất cả đều phải trở nên một thực thể duy nhất, không biến dạng hoặc tản mát thành nhiều thứ, mà trở thành thứ duy nhất, rất kết hợp có Chúa yêu thương và sở hữu. Đó không là chọn lựa thêm thắt. Đó cũng không là chuyện thương hại, thương xót khi người đồng loại rất cận thân và cận lân đang cần điều gì đó, rất bức bách.

Đó chính là đòi hỏi của công bình chính trực của Đức Chúa Duy Nhất của chúng ta. Đòi hỏi của Đấng Duy Nhất. Của thể loại Yêu Thương, chính là Ngài. Đó còn là Giới Luật Vàng, đáng để người người chúng ta quan tâm. Hiểu biết. Và, biến yêu thương thành hiện thực. Hãy cốtuân thủ giới lệnh tuy hai mà một, tuy một mà hai ấy. Và rồi, người người sẽtrở nên Một với Đức Chúa.

Trong tâm tình nhận biết sự Duy Nhất của Chúa nơi Tình Yêu, ta sẽ lại ngâm nga lời thơ rằng:

 

“Em không nói đã nghe từng giai điệu

Em chưa nhìn mà đã rộng trời xanh.

Anh trông lên bằng đôi mắt chung tình

Với tay trắng, em vào Thơ Diễm Tuyệt.”

(Nguyên Sa – Áo Lụa Hà Đông)

 

Thơ Diễm Tuyệt, cũng vẫn là Tình Yêu Tuyệt Diễm, rất chất Thơ. Thơ chung tình, tuy chưa nhìn và chưa nói, đã “rộng (tới) trời xanh”. Thứ đất trời, “ngất ngây thành chất rượu”. Thành nhị hỷ của tâm hồn rất yêu thương. Tuyệt diễm.

 

 

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 31 thường niên năm A  

 

“Hồn khẳng khiu khát chờ trăng mở hội,”

“Ngỡ ngàng đêm mộng điệp thốt lời ca.”

(dẫn từ thơ Vương Ngọc Long)

 

Mt 23: 1-12

Chờ trăng mở hội, hồn nào mà chẳng chờ. Mở hội rồi, hồn cứ ngỡ mộng điệp, nên mới thốt lời ca. Lời ca hay lời hát,đâu chỉ có từ những người từng hát ca, cả một đời. Hát hay ca, cả ở hội đường. Nhưng, sống khác hẳn điều mình giảng và hát như trình thuật nói hôm nay

Trình thuật hôm nay, thánh sử Mát-thêu dùng lời lẽ khá cứng cỏi để lên án đấng bậc nào chủ trương giữ luật, nhưng không sống điều mình chủ trương. Người xưa gọi họ là đấng bậc rất Pharisêu. Ngày nay ta gọi họ là gì? Là ai? Phải chăng là bậc thày có ngai cao bục giảng, chẳng có lòng?

Là, dân dã tầm thường ở đời, cùng với Giáo hội, ít khi ta đứng lên mà chống trả/phản bác các đấng bậc chuyên giảng thuyết có lời khuyên. Bởi làm thế, ta sẽ bị người đồng đạo trách móc cho mình thuộc thành phần bất mãn với quyền lực, ở trên. Với thánh Mát-thêu, chẳng ai dám trách ngài là người như thế, dù thánh nhân dám viết về Biệt Phái/Kinh sư không gì tệ hơn.

Xét cho cùng, ta thấy thánh sử cũng có lý. Bởi, vào thời trước, Kinh sư/Biệt Phái vẫn có thiện cảm với Chúa. Chỉsau này, khi Giêrusalem bị tàn phá, hồi niên biểu 70 sau Công nguyên, nhóm này mới trở thành đoàn ngũ độc tài thống trị mọi người ở Do thái. Họ tụ tập nhau ởYebneh (Jamnia) lập ra triết thuyết mà ngày nay ta gọi là thuyết Giuđa tư tế phẩm trật, vẫn tồn tại. Các nhóm chuyên kình chống tín hữu tiên khởi như cộngđoàn Mátthêu ngõ hầu duy trì chỉ nhóm mình, thôi.

Thánh Mátthêu vốn người hiền lành, chân phương, tử tế. Nhưng khi gặp chuyện chướng tai gai mắt, ngòi bút nhẹ êm lại biến thành ngòi châm chích quyết tấn kích loài độc ác, để bảo vể Tin Mừng của Chúa. Các đấng bậc sẽ vung tay tấn kích loài lang sói và quyết liệt lên tiếng chống cự.

Thông điệp thánh Mátthêu gửi đến mọi người, là: ta chỉ chấp nhận quyền uy ở bên trên, chứ không hề chấp thuận lối sống bê tha, bệ rạc của mấy người. Các vị ngồi trên ngai bệ Môsê, nhưng không biết hành xử và sống như vị tổ phụ. Khi thánh sử Mátthêu viết “Những điều họ nói, các ngươi hãy làm và giữ lấy”. Đây chỉ là dẫn nhập. Điều, mà thánh nhân muốn nói, là: hãy nhìn cách họ sống, chứ đừng bắt chước. Bởi kiểu cách thì nhiều, nhưng sống thực lại ít. Họ còn tệ hơn cả gái làng chơi, không xứng với Nước Trời. Tức, nào khác người mù dẫn dắt kẻ mù, cả hai đều sẽ lăn cù xuống hố.

Về đường lối họ sống, đây là ba điều để chống lại:

 

1) Họ không thực hiện điều mình giảng;

2) Họ trao gánh nặng lên vai người khác;

3) Họ làm mọi sự chỉ để phô trương và muốn được khen ngợi.

 

Điều ấy chứng minh: họ chỉ là:

 

1) Người giả hình;

2) Những người nặng nề, lê thê không muốn tiến;

3) Và chỉ là người vênh vang hãnh tiến, phô trương đánh bóng chính mình thôi.

 

Dùng ngôn ngữ thời đại, phải gọi họ là kẻ “đâm sau lưng chiến sĩ” ở cấp trên.

 

Nói chi tiết, điểm cuối cùng cho thấy các đấng bậc nói ở trên làm mọi chuyện chỉ để phô trương với mọi người. Chỉ muốn tìm chỗ cao trên ngai bệ thờ phụng, để mọi người thấy. Ăn, thì chỉ ăn trên ngồi chốc, hết phần người. Mặc, thì súng sính những lụa là, đai mão rặt màu vàng đỏ. Đi đâu cũng võng lọng, gậy, mão, quyết tháp tùng. Nếu họ còn sống đến ngày nay, chắc chẳng ai dám chối từ mão, đai, giải lụa hoặc mũ chụp, nhiều sắc tiá. Danh xưng thưa gửi, cứ muốn mọi người một điều “trọng kính” hai điều: “Đức thánh”,hoặc “thưa Ngài”, nghe oang oang.

Đọc trình thuật, có người sẽ bảo: nếu vậy ta chẳng nên nhận áo mão, chức vụ ở trên cao, hay sao? Nhận thế, có gì tệ? Nghe hỏi thế, có thể thánh Mátthêu sẽ trả lời: tuỳ lý do hoặc động lực thúc đẩy ta tìm kiếm, thế thôi. Chỉ thành vấn đề, khi người nhận chức cao quyền trọng chỉ để đề cao, thăng tiến chính mình. Chỉ thành vấn đề, khi người bị trị hoặc sống chung quanh nhận định thế nào, về quyền chức. Nếu trả lời: ‘mọi người đều thế, tôi cũng thế’ thì câu này chưa hẳn là đúng, dù rất thực. Thế, những người không thể hoặc không làm thế, thì sao? Sao ta không cúi xuống nhập bọn, ởcùng hàng?

Quả là vấn đề như vừa kể. Vẫn nóng bỏng thời hiện tại có xã hội và Giáo hội như xưa và cả đến hôm nay. Xưa và nay, nhiều mục tử và thừa tác viên trong Đạo hẳn vẫn muốn thứ gì đó rất riêng tư? Đặc biệt? Đặc biệt, nơi vai trò. Đặc biệt, ở thế lực. Lịch sử trải dài nhiều thế kỷ vẫn cho thấy: các đấng bậc vẫn dính dự với lối sống này khác mà thực ra công việc thừa tác của mình đâu đòi thế. Thế nên, có vị cứ súng sính áo chùng rủng rỉnh để mọi người quan tâm, ngắm và nhìn. Có vị còn đeo mang trang phục rất đặc biệt đểtỏ cho mọi người biết mình cũng có đặc quyền/đặc lợi, tỉ như các “vị cảnh sát”nơi phố chợ/huyện nhà! Có vị, chỉ muốn sử dụng danh xưng rất đặc biệt tuy không hợp chức năng/nghề nghiệp, của ai hết.

Nếu thánh Mátthêu nay bắt gặp những người như thế trong lòng Hội thánh, ngài có gay gắt như xưa không?

Để trả lời, câu dễ nghe nhất, có lẽ là: thánh nhân sẽ cân nhắc bề dày lịch sử, để rồi sẽ bảo rằng: mọi việc không thể đổi thay nội một ngày. Dù, ngài hy vọng về lâu về dài, mọi chuyện sẽ thay và đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Và, thánh nhân có lẽ sẽ hỏi đích thân các vị ấy, như từng hỏi và yêu cầu mọi người hãy sống thực tế. Cả vào khi mọi người làm vì sinh kế. Hoặc, để bảo vệ nồi cơm, manh áo, dù đâu muốn. Và khi ấy, chắc hẳn thánh nhân chỉ muốn bảo: hãy biến nơi làm việc của mình thành nơi chốn giúp mình sống đời tín hữu rất đích thực. Tức, chỉ làm những điều lành thánh đúng vai trò. Không se sua. Bè phái. Cũng chẳng cần “bùa phép”, lãng phí điều chi.

Có lẽ, thánh nhân sẽ có thêm nhiều ý tưởng để viết về chức năng/vai trò của người thừa tác công việc Hội thánh hoạch định, như linh mục. Có người phỏng đoán: có lẽ thánh nhân cũng muốn linh mục và thừa tác viên trong Đạo chỉ chấp nhận thực thi công tác mục vụ/rao giảng nào đượcđề ra cho mình thôi, chăng? Thời buổi này mà nói thế, e hơi lạc điệu. Lạc, cả cung giọng trầm bổng rất hăng say/nhiệt nồng hơn thời cổ, ở cộng đoàn Mát-thêu tiên khởi?

Kể cũng khó định vị trình thuật sao cho hợp với thời buổi hiện tại có nền văn hoá của sự chết, như ngày nay. Thế nhưng, thánh Phaolô khi xưa vẫn nghĩ và sống như thế suốt đời mình. Phaolô thánh nhân luôn chỉ sống như người thợ may âm thầm chế biến lều/bạt để kiếm sống. Thánh Mátthêu cũng nghĩ thế và sống như thế. Ngài chỉ là người thày viết lách và dạy học để kiếm sống, thế thôi.

Đức Giêsu cũng thế. Chúa cũng chỉ sống giản đơn hiền từ như thế. Chúa là bác thợ đơn thần nghề mộc cốt sinh sống. Nếu còn hiện diện đến ngày nay, hẳn thánh Mátthêu sẽ ngạc nhiên không ít khi nhận ra rằng Hội thánh mình đã phải trải qua bao thăng trầm để hội nhập, trải dàn như một thể chế, để ta hưởng. Nhìn ra thế, chắc hẳn thánh nhân lại sẽ viết thêm một trình thuật khác khá gay gắt để đòi ta từ bỏ lợi lộc hoặc áo sống khá đặc biệt, hoặc chức vị đặc trưng nào đó để trở thành dân dã đơn thuần như Đức Giêsu từng sống thế và muốn ta nên như thế.

Viết lên trình thuật, thánh Mát-thêu không chỉ muốn gửi cho vua quan/lãnh chúa thời hôm trước. Mà, cho dân con đồ đệngười của Chúa, ở mọi thời. Những thời và buổi còn đó, những người sống bên ngoài và bên dưới võng lọng cùng ngai bệ của vua, quan, giới chức. Để, mọi người suy ra mà khởi sự thực hiện chuyện phải lẽ, ngay từ nhà. Nhà mình. Nhà Chung, là thánh hội rất đáng thương. Đáng mến.

Trong tâm tình gửi gắm rất như thế, ta cũng nên ngâm lên lời thơ còn đó cũng khá buồn, rằng:

 

“Em còn đó, xoã lòng đêm tóc rối.

Tôi đứng đây, bụi lốc mịt mù xa.

Nghìn mắt lá, đang nhìn tôi ái ngại.

Đêm nguyệt quỳnh hoá nở kiếp phù hoa…”

(Vương Ngọc Long – Đêm Nguyệt Quỳnh)

 

Nguyệt quỳnh hay nguyệt vọng, là đêm ngày ta đứng đó mà ngó nhìn. Nhìn, cảnh trời mây nước có trăng giăng đầy tình tự. Có cả những vị chẳng cần biết chuyện phải chăng. Lưu tâm gì đến điều màĐấng bậc nhân hiền lành thánh vẫn khuyên răn vào mọi thời, gửi đến muôn người, rất hôm nay.

 

 

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 32 thường niên năm A

 

 

“Nếu hạnh phúc sẽ khơi nguồn đau khổ,”

“Thì xin em đừng tìm đến với nhau.”

(dẫn từ thơ Phạm Ngọc)

 

 

Mt 25: 1-3

Tìm đến nhau, là để mang lại hạnh phúc, cho nhau. Đó là sự thật. Nhưng, sao nhà thơ lại nói: xin em hãy đừng tìm! Tìm hay không, vẫn là chuyện khôn chứ đâu là dại. Khôn dại/dại khôn, thánh sửnhà Đạo xưa nay vẫn giải khuyên qua dụ ngôn truyện trình thuật. Có cân nhắc. Ngợi khen. Tung hô.

Trình thuật thánh Mátthêu hôm nay, cũng ngợi khen/tung hô việc của Chúa, bằng nhiều cách. Cách dễ nhận nhất, là dụngôn. Dụ ngôn hôm nay thánh sử đặc biệt kể về các cô phù dâu khôn ngoan đáng cho mọi người nhận biết mà phân biệt dại với khôn. Khôn/dại, ở vào tình huống đợi chờ chàng rể tới, không biết trước. Vì, chàng rể đến bất chợt nên nhiều phù dâu chưng hửng, những vãn than về cảnh đột ngột, khó đoán trước.

Thời Chúa sống, đám cưới là sự kiện lớn trong sinh hoạt làng xã, mỗi một ngày. Sự kiện lớn đến độ người người trong làng đều quan tâm, muốn dính dự. Tiệc tùng lớn, có khi kéo dài nhiều ngày, cảtuần lễ. Có tiệc còn tổ chức vui chơi đình đám suốt ngày đêm. Về phù dâu ở dụngôn, các cô đều là thôn nữ trẻ phần đông có quan hệ với nhà đám; tức, những người có vai vế quan trọng trong nghi thức tiệc rượu vui chơi, múa hát. Có phù dâu dự cưới, là có dễ vui và chắc chắn tiệc sẽ đạt.

Dụ ngôn, nay kể rằng chú rể đến khá trễ. Đây, là trường hợp rất phá lệ. Thường, thì chú rể nào cũng hăng say tìm đến với ngày cưới, rất không trễ. Vì cứ đinh ninh là thế, nên cánh phù dâu nhà ta mới thiếp đi và ngủ cả. Ngủ nghỉ, tuy thực chất không là vấn đề với đám cưới. Bởi, nhiều người có thể thức trắng đêm, cũng chẳng cần ngủ. Và, các phù dâu còn có thể thức giấc vào bất cứ lúc nào, khi chàng rể chợt đến. Nếu chàng đến vào nửađêm -thường thì ít khi là thế- tất cả đều cần đèn đóm, ánh sáng, nên rất muốn có dầu để đốt sáng. Muốn vậy, phù dâu phải chuẩn bị cho đủ, để khỏi lỡ mất cơ hội. Bởi, nếu không biết cách mà chuẩn bị, phù dâu ta phải bổ đi lùng tìm cho bằng được dầu đốt để thắp đèn, còn gì là vui nữa.

Dụ ngôn, nay cũng kể về hai nhóm phù dâu. Một, luôn đề cao cảnh giác. Còn nhóm kia, chẳng chuẩn bị hoặc quan tâm gìđến đèn đóm. Dụ ngôn hôm nay, thoạt nghe có vẻ hơi mù mờ. Đọc kỹ, hẳn có người sẽ tự hỏi: làm sao nhóm phù dâu khôn lanh kia, lại không chỉ cách cho nhóm khờ dại biết sớm hơn, để cả hai cùng nhau chuẩn bị cho chu đáo. Tại sao nhóm khù khờ dù có dại cách mấy cũng phải biết cử một hai người đi lùng tìm dầu, chứ sao lại phảiđi cả nhóm? Phải chăng, ngay lúc đó đã có căng thẳng, vì chú rể đã mướn toàn bộ số phù dâu để đạt hiệu quả tối đa cho tiệc cưới, nên toàn bộ nhóm phù dâu có thể hụt trọn cả lễ cưới? Nói tóm lại, hốt hoảng ở trường hợp nào cũng thế, thường lấy đi sự suy xét bình thường rất cần thiết của con người.

Sự thật mà nói, ở đời thường người khờkhạo thường là những người luôn chịu thua thiệt. Nên, dễ bị người khác chèn ép coi nhẹ như người không biết gì. Chí ít, là chuyện đạo đức, luân lý, rất trí thức. Chuyện dụ ngôn về người khờ khạo và khôn ngoan có thể áp dụng vào mọi người nói chung. Nói chung, là nói về những người không làm gì nên chuyện, hoặc cho ra hồn, nhưng vẫn muốn đạt lương tiền hậu hĩ, giống “mì ăn liền”. Như người đi tìm việcđược gọi đi phỏng vấn, lại cứ khăng khăng theo ý mình đội mũ ngược ngạo, chẳng giống ai. Cũng tựa như đám học trò chẳng chịu học nhưng lại cứ muốn đậu cao, có đủ bằng cấp, nhưng thực chất lại ngu dốt. Như đôi uyên ương nọ chỉ biết lấy nhau để gần nhau mà ăn ở cho vui sướng, chẳng lo gì chuyện tương lại mai ngày, để có con.

Dụ ngôn, nay không chỉ kể, có thế. Nhưng thực sự, còn muốn diễn tả về tình hình Giáo hội mọi thời đang ở vào tình trạng của phù dâu. Chàng rể nói ở đây, là Đức Kitô. Việc “chàng rể đến chậm” là ý nói về ngày quang lâm Chúa lại đến cũng chầm chậm, theo quan niệm của cộng đoàn Hội thánh lúc ban đầu. Dụ ngôn đây, là: truyện dài cốt để kể lại sử hạnh Hội thánh thời ban sơ. Về tiêu chuẩn Chúa phán xét định đoạt về Giáo hội vào ngày Ngài đến lại.

Hình ảnh làm nền ở dụ ngôn hôm nay, là về dầu đốt. Nghe về dầu để đốt, hẳn có người sẽ nghĩ về niềm tin đốt cháy. Tức, lòng siêng chăm, sùng đạo. Về cung cách quản, tài lãnh đạo, hoặc: lòng độlượng, thứ tha, đùm bọc, rất phục vụ, hoặc những chuyện như thế. Cũng may, là trình thuật hôm nay thực ra chẳng đề cập gì về những chuyện như thế. Vậy thì, về vấnđề gì?

Đoạn cuối trình thuật có nói:“Cửa đóng lại.” Và chàng rể đây, là Đức Giêsu lại muốn bảo: “Ta không biết các người.” Không biết ở đây, là không được Ngài biết đến. Không biết, là: không biết theo cách riêng tư như quan hệ bạn bè, chỗ thân quen. Không biết đến, chẳng phải là: ta không biết đến Ngài. Mà là: Ngài không hề biết ta. “Không biết đến ta”, tức hỏi rằng: không biết Chúa có còn đoái hoàiđến ta hoặc mọi người? Phải chăng Ngài vẫn coi ta như dân con của Ngài? “Không biết đến ta”, còn có nghĩa là: ta có làm những việc “đáng làm” như Ngài, không? Đó, là những vấn đề đích thực đặt ra cho những ai tự gọi mình là Kitô- hữu. Tức Kitô khác.

Được Chúa biết, theo cách thế tự do như bạn bè người thân của riêng Ngài. Được Chúa biết, cũng đòi ta phải có cung cách xử thế như dân con được Ngài quang lâm đến lại. Được Chúa biết, là biết vào khoảnh khắc như Ngài từng loan báo vào thời trước. Được Chúa biết, còn diễn tả việc Chúa am tường mọi hành xử của Hội thánh trong quá khứ, hiện tại và mai ngày. Nói tóm lại, câu Chúa nói “Ta không biết các ngươi”, có nghĩa Chúa đã nhận ra được những việc làm “thật không phải”. Không thực tâm làm, như lời Ngài khuyên dạy.

Khi ta làm việc gì tốt lành, chắc chắn Chúa sẽ cảm kích, phấn chấn và cũng ngạc nhiên. Ngài sẽ đưa ta vào với nhóm hội của muôn người ở thế giới, để Ngài sẽ hiện diện trong ta, rất tự do. Cởi mở. Và có như thế, ta mới nhận ra thiên đường hạnh phúc Ngài hứa ban bằng vào việc sử dụng sự tự do của chính mình.

Không nên hiểu câu nói của Chúa “Ta không biết các người.” như Chúa biết tất cả về đời ta qua lăng kính của vi tính, dù mọi sự đều hiện ra ở trên đó. Bởi, nếu như thế, chắc Chúa cũng sẽ buồn chán khi phải ngắm nhìn ta chuyển vận. Thật sự thì, Chúa không là Đấng chuyên kiểm soát vũ trụ vạn vật, theo cách đó. Ngài làĐức Chúa tự do, sống động và mật thiết với ta. Ngài cùng làm và cùng vui với ta trong muôn việc, ở đời.

Nếu so sánh Chúa với ta theo kiểu nghệnhân đầy sinh lực, thì Chúa như nghệ sĩ bộ môn nhạc Jazz, chơi nhạc rất ngẫu hứng với ta, ở mọi thời. Ngài chấp nhận mọi hiểm nguy, cả khi ta tự do đối xửxem ra không ổn, như “người của Chúa”. Cả vào khi ta chơi nhạc Jazz mà lại chơi sai nốt trật nhịp. Ngài tuy biết, nhưng vẫn nhìn thoáng qua trong chốc lát, cứ để ta chơi tiếp. Nhưng, khi ta chơi nhạc đúng cách như người hành xử rất xứng hợp ở đời, thì Ngài sẽ cảm kích, biết ơn. Nói tóm lại, đó là cách thức để “biết đến ta” rất hay và rất thực như sự thực xảy đến trong cuộc đời. Của con người.

Nói theo kiểu dụ ngôn, thì chính đó là dầu đốt. Bởi thế nên, thể hiện tinh thần của trình thuật, là: sống thực. Sống, như mục đích ta sử dụng tự do của mình, để đem đến cho Chúa một thưởng lãm rất thực, để được Chúa nói ‘đã biết ta’. Đó, là thiệp mời. Là, tấm vé về dự tiệc cưới. Lễ hội của tự do. Giả như ta không làm thế, thì không thể gặp mặt chú rể cách đích thực như phù dâu có đèn mà không có dầu. Không làm được thế, chắc chắn rồi ra Ngài sẽ bảo: “Ta không hề biết các người”, như ngôn ngữ của trình thuật hôm nay.

Cuối cùng, có chuẩn bị chu đáo nhưthế không, mới là vấn đề. Vấn đề của ta. Và, mọi người.

Trong tâm tình đó, cũng nên ngâm tiếp lời thơ vừa chợt hát, để cảm kích hát mãi:

 

“Quỳnh chỉ nở về đêm trong giấc ngủ

Như tình yêu chỉ đẹp lúc ban đầu

Chẳng có gì tờn tâi đến ngàn sau

Khi cơn mộng mù loà đêm dâng hiến”

(Phạm Ngọc – Với Quỳnh)

 

Với quỳnh, thì như thế. Thế còn với Chúa, chắc không hẳn thế. Bởi, Chúa là Tình Yêu, Ngài sẽ cứ tồn tại mãi đến muôn đời. Để, người người ngợi khen Ngài mãi khôn nguôi. Ngợi Tình Chúa. Khen tình người tồn tại mãi chốn thiên thu. Rất bất tận.

 

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 33 thường niên năm A  

 

“Ta ngỡ mất, mà chưa đành đánh mất,”

“Bởi mùi hương ngự trị, cánh hoa tàn.”

(dẫn từ thơ VươngNgọc Long)

 

 

 

Mt 25: 14-30

Mất tình/mất tiền, nào mấy sợ. Bởi, tình/tiền xưa nay còn đó vẫn rất hiền. Cái dễ mất nhất, là niềm tin Chúa gửi nơi lòng dạ con người từ xưa đến nay. Lòng dạ ấy nay đà thấy ở trình thuật, ngày Chúa nhật.

Trình thuật Chúa nhật về niềm tin để luột mất, là ý tứ và ý từ được thánh Mat-thêu đềcập đến qua dụ ngôn kể lại hôm nay. Dụ ngôn, nay kể về “yến bạc” giao cho các người đầy tớ để sinh lời. Dụ ngôn, nay mang nặng tình tiết nối tiếp truyện kể đọc tuần trước, cũng đề cập việc sử dụng và đầu tư của cải vào mọi chuyện.

Thời xưa,“yến bạc” là đơn vị đo lường trọng lượng. Đó, là đồng cân nặng nhất trong hệthống cần lường. Yến bạc, được dùng để cân đo vàng/bạc, kim loại, và đồ đồng. Mãi về sau, con người mới dùng nó làm đơn vị tiền tệ. Với người Do thái, một yến bạc tương đương với 3,000 shekels, tương tự định mức cân lượng mà người thường mang vác được. Lịch sử sau thời của Chúa và vào thời thánh Mát-thêu, thì một yến bạc tương đương với 6, 000 quan tiền người La Mã. 6,000 quan tiền, tương đương với lợi tức mà công nhân bình thường ở huyện có khả năng kiếm được trong vòng 15 đến 20 năm. Đó, cũng là lối nói thông thường về “một tấn tiền quan” người La Mã.

Người chủ được nói đến ở dụ ngôn, là người bận rộn, phải đi xa một thời gian không biết trướcđược hạn định. Ông trao cho 3 người tớ của ông 3 lượng tiền khác nhau. Một người, những 5 yến bạc. Kẻ kia chỉ hai yến. Còn người chót, chỉ mỗi yến một. Tất cả đều tuỳ khả năng của mỗi người. Nhưng, ông lại không cho họ biết phải làm gì với số bạc ấy. Ông coi mọi người như kẻ chín chắn. Chững chạc. Ông rất tôn trọng tựdo và sức sáng tạo, của mỗi người. Và, ông cũng chẳng hề nghĩ là ông đã trao phần ít ỏi cho người đầy tớ thứ nhì và thứ ba. Bởi, mỗi yến bạc khi ấy nặng cảtấn tiền.

Về cốt truyện thì ai cũng đều đã tỏ. Hai người tớ đầu, đều biết mình phải làm gì với số lượng yến bào do chủ ủy thác. Tức, sử dụng nó một cách mẫn cán. Hiệu quả. Cả hai người này đều làm lợi cho chủ nhiều điều thấy rất rõ. Trong khi đó, người đầy tớ cuối lại không hành xử hệt như thế. Y đào đất chôn tiền quan xuống đó, tưởng rằng làm thế tức tạo sự an toàn, đúng đắn như bỏ vào két sắt/quỹ tiết kiệm, mà chẳng biết đầu tư cũng chẳng sinh lời sinh lãi.

Đó là biện pháp an toàn tối thiểu mà người tệ bạc nhất cũng nghĩ ra. Tức, không sinh lợi nhưng cũng chẳng làm hại, chẳng thua lỗ điều gì. Tức, không tạo tăng trưởng, nhưng cũng chẳng làm ai thiệt thòi hoặc mất mát. Y ta đem về cho chủ đúng số lượng buổi ban đầu do chủ giao, chẳng dùng vào việc chi hết. Cất như thế, có bỏ công tìm kỹ cũng chẳng thấy được dấu tay, hoặc vết tích.Thật ra, y ta chẳng làm điều gì sai trái cả. Vì có làm gì đâu mà có sai sót.

Dụ ngôn cũng cho thấy: hai người đầy tớ đầu được chủ tặng thưởng rất hậu hỹ. Lại được chủgọi đích danh “tôi tớ lương hảo và trung trực”. Tức, nhận nhiều trách nhiệm sẽgặt hái được nhiều niềm vui. Trong khi đó, người tớ chót bị chủ cho là thành phần “bất hảo, lười biếng”, đáng chê trách. Nói đúng ra, phải gọi anh ta là kẻvô tích sự, chẳng làm được gì nên chuyện. Một thứ “ăn hại đái nát”, chẳng giống ai. Tức, những loại người ăn không ngồi rỗi, rất đáng buồn. Thế nên, họ mới bịlên án, dù chẳng lỡ lầm. Hoặc, sai trái.

Có lẽ khi viết lên dụ ngôn này, thánh sử Mat-thêu đã mang trong đầu ý tưởng về hai nhóm người Do thái khá quan trọng, vào thời ấy, nếu đem so với nhóm thứ ba. Hai nhómđầu, là những người đại diện cho cộng đoàn Qumran. Nhóm thứ ba tượng trưng cho đám Biệt Phái, rất Pharisêu.

Qumran là nơi ta tìm ra Cảo Bản Biển Chết. Ở nơi đó, thấy có cộng đoàn sống chia cách/tách rời xã hội mình đang sống. Tách và rời, khỏi đền Giêrusalem để rồi đi vào chốn sa mạc lặng lẽ, trong hang động. Hang động họ sống, quanh Qumran, bị người La Mã phá huỷ vào thời chinh chiến suốt từ năm 68 đến 70 sau Công nguyên. Nên, cũng chẳng tồn tại khi thánh Matthêu viết lên Tin Mừng của thánh nhân vào niên biểu thứ 85. Và, thánh nhân cũng thừa biết là nhóm người này từng chôn giấu yến bạc đạo đức ở đâu đó, trong hầm tối của chính mnình.

Pharisêu là nhóm người có mặt nhiều hồi thánh Mat-thêu còn sống. Họ là những đối tác chuyên kình chống lại thánh nhân. Vào dạo trước, Đức Giêsu cũng có cảm tình với những người này. Và ngược lại, họ cũng biết điều với Ngài trong nhiều chuyện. Nhưng 40, 50 năm về sau, thế giới của họ đã biến đổi một cách khác hẳn. Sau ngày đền thờ Giêrusalem bị phá huỷ, đám Pharisêu lại trổi lên thành nhóm lãnh đạo dân Do Thái quyết tập hợp lại với cuộc sống ở ngoài đời. Trước thời thánh Mat-thêu sống, đám Pharisêu đã củng cố chỗ đứng của họ và phô trương cho mọi người thấy cung cách chỉ biết sống theo luật và luật. Và, cũng từ đó, họ tìm cách rút khỏi tầmảnh hưởng của người La Mã để còn áp đặt mọi chuyện lên dân con của chính mình. Nói theo ngôn từ đạo đức, thì thời đó, đám Pharisêu là nhóm hướng dẫn việc đạo hạnh quyết đưa mọi người rời thế giới thực tại thời bấy giờ. Họ chính là những người cột chặt tinh thần câu nệ lề luật sau hàng rào bảo vệ của Torah.

Thánh Mat-thêu chẳng ưa gì nhóm người này. Thánh nhân chỉ muốn sống theo tinh thần của Đức Giêsu chủ trương bằng vào tương quan cởi mở, gọn gàng và nhẹ nhàng hơn. Thánh nhân chủ trương tinh thần biết sử dụng các “nén bạc” do Đức Giêsu và Thần Khí Ngài tặng ban. “Nén bạc” nói ở dụ ngôn hôm nay, không chỉ mang nghĩa kim tiền/của cải thôi; nhưng, còn biểu trưng quà tặng về năng khiếu như khi ta đề cập đến kỹnăng âm nhạc, ngôn ngữ, toán học hoặc những thứ khác.

Thông điệp thánh Mát-thêu gửi mọi người bằng dụ ngôn hôm nay, luôn mang tính giản đơn. Thẳng thắn. Trực tiếp. Ý thánh sử muốn nói, là: ân huệ Chúa ban cho mọi người vẫn thừa thãi, tràn đầy, không cạn tiệt. Nếu ta lại đem chôn ân huệ Ngài ban xuốngđất, khác nào người đầy tớ vô tích sự,kể ở trên.

Truyện dụ ngôn hôm nay còn làm người đọc liên tưởng đến chuyện “Trân Châu Cảng”. Ở cảng này, tầu thuyền neo đậu đâu nào có nghĩa mình sẽ an toàn thoải mái mãi suốt đời? Chỉ hiện diện sống ở đó thôi, đâu có nghĩa mình sẽ được an toàn cả phần linh thánh lẫn mặt đời.

Tình tự chuyên lo sống an toàn, được ghi rõ ở nhiều thông điệp được Đức đương kim Giáo Hoàng Bênêđíchtô XVI tỏ cho giới trẻ biết trên báo đài lẫn Đại Hội Giới Trẻ ở Cologne, Sydney lẫn Madrid. Đức Giáo Hoàng đề cập đến Đạo Chúa nhưtình yêu cao cả, và mặc khải quý hiếm. Đối với ngài, làm tín hữu Đức Kitô là nhận lãnh ân huệ cao cả và quý hiếm Chúa vẫn ban. Ân huệ Ngài ban cho mọi người, sẽlà đôi cánh tiên để ta bay cao vút, lên cõi tiên. Ân huệ Chúa ban, còn là sứmạng gửi đến mọi tín hữu. Sứ mạng ấy, là dự án để ta thực hiện vào mai ngày. Là, đem chân, thiện, mỹ vào cuộc sống rất thực để rồi ta tập trung đời mình vào những gì quan yếu, thiết thực thôi.

Đức Giáo Hoàng từng bảo: giả như Hội thánh mình biết sống thực như thế, ắt hẳn cuộc sống của mình sẽ mãi mãi trẻ trung, suốt mọi thời. Có sống như thế, thánh hội của Chúa sẽ không bao giờ trở nên chai lì, cằn cỗi. Bởi, Hội thánh là hội của các thánh biết kết hiệp với Chúa, tức cội nguồn tuổi trẻ, rất sống động.

Nay, điều cần là mỗi người và mọi người nên để cho qua đi tâm tư mỏi mệt và tâm tình nhiều huỷhoại. Để rồi, sẽ hướng nhìn về phía về nơi có sự cao cả đích thực là di sản củaĐạo Chúa. Đó, còn là “nén bạc” mà Chủ Tể vũ trụ đã trao cho mỗi một người, trong cuộc đời. Đó, là sứ mệnh khiến ta chọn lựa. Chấp nhận. Sứ mệnh, là: sửdụng nén bạc Ngài trao hầu xây dựng tương lai mai ngày cho thế giới mình chung sống. Thế nên, hãy dấn bước thâm trầm mà tiến tới. Tiến về phía trước mặt, dùđời người muôn mặt, để còn sinh lợi “nén bạc’ hiếm quý Chúa trao ban, cho ta. Cho mỗi người.

Trong tâm tình cảm kích chấp nhận nén bạc Ngài ban, ta lại sẽ ngâm nga lời ca, còn đậm nét:

 

                        “Xa tít tắp từ rừng xưa cổ tích,

                        Cỏxanh mềm ảo hoá giấc phù vân.

                        Mùa thu ấy đôi mắt buồn man mác

                        Ngong ngóng chờ hoài niệm hoá rêu xanh.”

                        (Vương Ngọc Long – Đêm Nguyệt Quỳnh)

 

 

Nguyệt Quỳnh đây, có thể không là “nén bạc” quý hiếm Chúa gửi gắm. Nhưng, vẫn là huệ ân/ân huệ mọi người trông ngóng biến thành những gì có lợi cho mình. Cho mọi người. Ở đời.

 

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 34 thường niên Lễ Kitô Vua năm A  

 

 

“Em trở về đây với Bướm Xuân,”

“Cho tôi mơ ước một đôi lần.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

 

 

Mt 25: 31-46

Hôm nay đây, Bướm Chúa của Mùa Xuân đã trở về với hình dạng của Đức Vua. Vua vũ trụ.Vua của mọi tâm hồn, như tình tự được thánh sử ghi nhanh ở trình thuật.

Trình thuật, nay có thánh sử rất Mát-thêu ghi về đoạn cuối cuộc sống công khai củaĐức Kitô, trước khi Ngài vào với nỗi thống khổ, và rồi sau đó, đã Phục Sinh, đểvực dậy hết muôn người.Thánh Mát-thêu làm công việc ấy bằng cung cách của người kể dụ ngôn về ngày sau hết, có phán xét. Đọc trình thuật hôm nay, hẳn rằng người nghe lại liên tưởng đến dụ ngôn của những chiên con và dê hiền. Phụng vụHội thánh lại dùng trình thuật hôm nay để mừng kính Đức Kitô Vua, tức Vị Chánh Án vào ngày phán xét cuối cùng.

Nhìn vào ngôn ngữ mà người Công giáo thường sử dụng xưa nay, thì chữ “Vua” không là từ ngữ dễnghe và dễ chấp nhận cho bằng danh xưng khác. Đã có lúc, danh xưng “Vua” của Đức Chúa được coi như một biểu ngữ nhằm nói lên các giá trị đạo đức hầu đối chọi với ý nghĩa rất chúa của các vua quan ở đời. Thời nay, người người thấy mình không dễ gì thấy được sự khác biệt giữa tính chất rất “vua” của tín hữu Đạo Chúa.

Trình thuật thánh Mát-thêu hôm nay, Đức Giêsu được gán tặng bằng nhiều danh xưng nhưCon Người, Chúa Chiên (tựa như vua Đavít), Đức Vua, Đức Chúa, Người Con ngựtrên ngai vàng cùng Thiên Chúa Cha, vv… Bằng vào các danh xưng ấy, Đức Giêsu Kitô được con dân mọi người tôn kính như vị Chánh Án mọi dân tộc. Và hôm nay, người đọc sẽ thấy Ngài sử dụng quyền tài phán của Chánh Án. Đó là lý do mà thánh sử coi Ngài là “Đức Kitô rất Vua”. Và, điều đó ăn khớp với mọi hiểu biết của chúng ta khi nghĩ về vị Vua của vũ trụ. Bởi, Ngài chính là vị Chánh Án có trọng trách phán xét tất cả những gì con người làm, hoặc không làm.

Kinh Tin Kính của Công Đồng Nicêa có nói Ngài sẽ đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết. Cũng thế, các bản văn tuyên tín khác cũng có nói dân con mọi người sẽ phải trả lời về những gì mình làm. Thánh Kinh của người Do Thái còn tỏ cho thấy “Ngày của Đức Chúa” là ngày mà vị Chánh án đứng lên để phán và xét. Thêm vào đó, truyền thống giáo hội còn dạy con dân phân biệt việc phán xét vào ngày chung cục cuộcđời của mỗi người với việc phán xét hết mọi người vào ngày thế tận. Nhưng, chẳng một ai, kể cả Đức Kitô, biết được thời điểm với nơi chốn xảy đến công cuộc phán xét chung cuộc ấy. Nên, việc này chỉ được kể bằng ngôn từ rất biểu trưng và thông thường rất dễ sợ.

Kể, bằng biểu trưng hay biểu tượng, là nói trước mọi việc trước khi việc ấy xảy đến. Và, trình thuật về sự việc này được giảng rao khắp nơi và khắp chốn, để người Do thái cũng như dân ngoại sẽ hồi hướng trở về. Cả Enoch lẫn Elijah cũng về lại. Ngàyấy sẽ là ngày Cánh Chung, Phản-Kitô sẽ ngự trị một thời gian. Và, không gian vạn vật sẽ chuyển đổi đến rối mù, lửa từ trong/ngoài địa cầu sẽ bốc cháy. Và rồi, có tiếng loa kèn phát lên báo hiệu sự sống lại của muôn loài và khi ấy Con Người cũng sẽ xuất hiện giữa mây trời, rất bảng lảng. Rồi, người người cứ như thểbảo nhau: ngày thế tận đã kề cận. Thế nhưng, lẽ thường tình của con người lại hay chống đối những chuyện như thế. Và, phần đông sẽ không tin rằng chuyện đó là sự thật như đinh đóng cột. Hay nhất là bảo: ta chẳng hiểu gì về việc ấy.

Chẳng hiểu, vì ngôn từ biểu tượng mà thánh Mát-thêu sử dụng chỉ để kể về một gặp gỡrất riêng tư thân tình giữa Đức Kitô và mỗi một người, khi ta chết. Vào lúc ấy, Ngài muốn biết, không chỉ mỗi việc cuộc sống của ta ra thế nào, nhưng còn nhắn nhủrằng ta đã làm gì cho lịch sử của con người, tức đóng góp được bao nhiêu cho nhân loại. Lúc thánh Mát-thêu viết lên trang sử này, lên giấy, ngài muốn tỏ bày lập trường để ta biết, là: mỗi người chúng ta cũng nên cải thiện lối hành xửcủa chính mình, ở đây. Bây giờ. Thánh nhân không mô tả những gì sắp đến cho bằng ngài muốn xác chứng những gì phải xảy ra, ngay bây giờ.

Thánh Mát-thêu diễn tả việc ấy qua ảnh hình và biểu tượng về chiên lành và dê hiền. Ở Do thái thời xưa, chiên lành chịu đựng cơn lạnh hay hơn dê hiền. Bởi thế nên, dê hiền cầnđược bảo vệ nhiều hơn. Bằng vào mầu sắc, chiên con thường mầu trắng. Còn, dê hiền lại là mầu đen. Ở dụ ngôn, chiên lành đứng bên phải, tức phía rất phải. Còn, dê hiền ở bên trái tức trái rõ đành rành. Đặc biệt hơn, bằng vào biểu tượng thánh sử viết, thì thú đàn ở phiá bên phải, vẫn phải lẽ. Còn dê hiền, là kẻ xấu nên mới trái. Thế nhưng, dưới tầm nhìn của Chúa, thú đàn dù có trái, vẫn rất phải.

Công việc của Chánh án, là tách chiên khỏi dê theo tiêu chuẩn nào đó. Tiêu chuẩn đây, không là 10 điều giáo luật, vì khi bị phán xét không ai bị cật vấn điều đó. Nhưng tiêu chuẩn phán xét, là phán đoán và xét nét về 6 công tác từ thiện rất cổ điển về lòng thương xót mà người Do thái có thói quen gọi đó là hành xử đầy yêu thương.Cũng chỉ là: lo cho cái ăn, thức uống, đón tiếp mời chào, cho áo mặc, trông nom chăm sóc và viếng thăm đỡ đần. Vấn đề là, người người được hỏi có làm thế trong đời mình không?

Thật ra,đó còn là nội qui cuộc sống cộng đoàn do thánh Mátthêu đặt, ở Tin Mừng chương 18: “Không được để con trẻ lạc lõng, mất mát. Không được để thành viên cộng đoàn bị bỏ rơi, cô độc”. Phán và xét, còn là hỏi: anh/chị có tuân giữ nội qui ấy không? Nếu có, anh/chị là chiên lành. Nếu không, anh/chị sẽ là dê hư. Ở đây, thánh Mát-thêu và -Đức Giêsu- đặt tầm quan trọng vào nội qui giản đơn ấy cho cộng đoàn Kitô hữu thời tiên khởi. Để sau này, sẽ không có ai bị án phạt về những gì mình đã làm hoặc định làm; mà về những gì mình quên làm và không bao giờ chịu làm những việc như thế.

Người tốt lành không làm việc đó vì họ thấy người có nhu cầu như chính người anh, người chị của mình. Đức Giêsu nói: nếu người làm điều tốt lành ít là cho người anh, người chị ấy của mình, thì tức là làm cho Chúa. Họ là người thân của Chúa. Ta làm cho người của Chúa, chứ không phải cho người của ta. Thế nên, phán xét tích cực là phán và xét xem ta có mừng đón vào nhà mình, những người của Chúa, thuộc gia đình Ngài, vì họ nhìn ta như là người trong số họ.

Khi nói đến việc phán xét nói chung, ta bao gộp tất cả mọi người. Vậy thì, “nội qui của cộng đoàn” không chỉ là cho người Do thái hoặc cho cộng đoàn Mátthêu thời tiên khởi hoặc những người thuộc giáo phái nào đó, thôi. Mà là, tất cả. Nội qui ấy, là để mọi người biết mà thực hiện. Nội qui được viết trong tâm khảm của mỗi người. Cho mọi văn hóa, sắc tộc. Mọi thời khắc của lịch sử nhân loại. Nội qui rất chung và sẽ có phán xét cũng rất chung như thế.

Chúa có cách để giáo huấn để họ hiểu rằng cuộc sống đích thực không cần lời nói, hoặc thể chế, dù thể chế ấy là Hội thánh. Chúa thiết lập trong ta bản năng riêng của mội người. Cho mỗi người. Bản năng ấy, giúp ta mở lòng ra với người đang thiếu thốn, có nhu cầu. Dù ta là người thế nào đi nữa, Chúa cũng sẽ phán và xét chính ta, về tất cả điều đó. Phán và xét, xem ta có làm những việc giùm giúp như thếkhông. Chính đó là ý nghĩa của phán xét chung.

Chương 28 cuối Tin Mừng, thánh Mathêu viết: Đức Giêsu truyền lệnh cho nhóm người bé nhỏcủa Ngài hãy ra đi mà trở nên đồ đệ của Ngài đến với muôn dân. Không cần biết họ thuộc sắc tộc nào. Có lý lịch ra sao. Họ từ đâu đến. Ngài dạy họ làm những việc như thế bằng cách quan sát xem họ có làm những điều Ngài dạy trong đời mình hay không. Tức, dạy họ sống biết giữ nội qui đề ra cho cộng đoàn của Ngài, như thánh Mátthêu từng ghi lại. Nếu họ làm theo điều Ngài dạy, thì Ngài sẽ ởvới họ suốt mọi ngày, cho đến ngày thế tận.

Đọc trình thuật hôm nay, có thể có người nghĩ là thánh Mátthêu muốn tách chia chiên khỏi dê, để dễ bề phân biệt. Nhưng sự thật, đó không là phân và tách mà là đến với nhau như đàn trẻ lạc được tìm thấy. Là, ra đi mà tìm đến với họ. Ra đi, để ởgiữa những người từng lỗi phạm nay bị bỏ rơi, quên lãng. Ra đi, giang tay mà chào đón tất cả mọi người, đưa họ về với hòa giải và hòa hoãn. Thế đó, không là tách chia, phân biệt. Mà là, thuộc về nhau. Ở với nhau. Mà là, tất cả ràng buộc vào với nhau để tiến vào với cộng đoàn Nước Trời Hội thánh.

Trong tâm tình cảm kích những điều thánh sửghi về Đức Kitô Vua, ta lại ngâm lên lời rằng:

 

“Em trở về đây để nắng hồng,

Hồn xưa còn đẹp ý xưa không?

Trăng tình chưa nguyện lời Hoa Bướm,

Em chẳng về đây để ngỏ lòng.”

(Đinh Hùng – Bướm Xuân)

 

Là Bướm Xuân hay Bướm của Mùa Xuân, Ngài vẫn là Vua Vũ Trụ, nơi lòng người. Nay, Ngài trở về để Bướm và Xuân nên một. Một thân. Một mình. Thứ Mình rất thánh của Chúa Xuân.

 

 

 

 

Ċ
LCSSNamA.pdf
(1210k)
VN Enterprise,
Jul 10, 2013, 10:08 PM
Comments