Suy Niệm Năm B

Suy niệm Chúa Nhật thứ nhất Mùa Vọng năm B

 

“Anh vẫn đợi hoàng hôn lịm chết”

Để ánh bình minh gợi thức tâm hồn
Là ốc đảo trơ mình mùa sóng vỗ
Là cuối chân trời ước nguyện vòng tay

(dẫn từ thơ Cát Biển)

Mc 13: 33-37

            Kìa, sao anh vẫn đợi hoàng hôn đang lịm chết. Mà lại không đợi, Đấng vực dậy có bình minh gợi thức tâm hồn?. Bình minh gợi thức, là những điều trình thuật đề cập đến, hôm nay.

            Trình thuật hôm nay, ngày đầu mùa Phụng vụ mới, có lời dặn dân con “phải tỉnh thức”. Tỉnh thức, vì không biết ngày nào, giờ nào sự việc xảy đến. Tỉnh và thức, mà đón chào Đấng Mêsia, đến lại. Ngài đến lại, không phải trong huy hoàng, ầm ĩ. Nhưng, âm thầm bé nhỏ một Hài Nhi, thật dễ thương.

            “Đến lại”, là cụm từ mà Hội thánh lâu nay vẫn gọi đó là “mùa vọng”. Cụm từ Mùa vọng xuất từ tiếng Latinh adventus, là chỉ việc Chúa Quang Lâm, Ngài đang đến. Thật sự, thì Mùa Vọng còn là thời gian bốn tuần, cần gói ghém để chuẩn bị ngày Chúa hạ mình chấp nhận thân phận của phàm nhân.

            Ý tứ của Chủ nhật thứ I Mùa Vọng, nối kết với phụng vụ Chúa Nhật cuối năm, ở tuần trước. Bởi, tuần rồi, các bài đọc đều nói về việc Chúa ‘đến lại’, trong lai thời. Phụng vụ hôm nay, có nói đến thái độ mà mọi người phải có, đó là: chuẩn bị trực diện Đức Chúa. Trực diện Đấng là Vua. Là, Chúa các chúa.

            Trước tiên, chuẩn bị là thu xếp mọi việc thường ngày, để chỉ liên tưởng đến sám hối, quyết hồi hướng trở về. Sám hối trở về, tượng trưng bằng mầu tím, áo ta mặc. Chuẩn bị, còn là chỉnh đốn con người và tâm trạng của mình, hầu sẵn sàng tiếp nhận Đức Chúa giáng hạ, làm người. Như một tạo vật. 

            Chuẩn bị, là nhớ đến lý do khiến Thiên Chúa Đấng Tạo nên muôn vật, nay lại chấp nhận làm tạo vật, để cứu độ trần gian. Chuẩn bị, là sửa soạn hành trang lên đường, mà gặp gỡ. Gặp gỡ, chấp nhận thời kết tận có phán quyết “lên án kẻ sống cũng như người chết”. Để từ đó,được nghe biết những lời thân thương, như: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến mà thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi, ngay từ thuở tạo thiên lập địa.” (Mt 25: 34-35).

            Chuẩn bị chào đón, là mở cửa lòng để Chúa bước vào cuộc sống mỗi ngày, của riêng ta. Chúa vào, Ngài gọi mời ta ra đi. Gọi mời ta đồng hành với Ngài, qua các chặng đường đầy những khổ đau. Nhọc nhằn. Chúa bước vào, Ngài không chỉ tạm thời trú ngụ ở Bét-lem. Cũng chẳng phải, vào ngày cuối đời, thời sau hết khi có tiếng kèn, tập họp mọi người. Hoặc có thần linh thiên sứ vây quanh. Mà là, những gặp gỡ rất đời thường. Bởi, Ngài là Emmanuel, Đấng ở với ta “mọi ngày, đến tận thế” (Mt 28: 20)

            Chúa đến trú ngụ ở Bét-lem, làm nền tảng cho đời sống hiện tại và lai thời. Chúa quang lâm, là ý nghĩa của cuộc sống trọn vẹn ta vẫn có. Sống, trong tư thế chuẩn bị chờ ngày Ngài lại đến. Sống, để chấp nhận lời gọi mời kết hợp với Ngài, là Thiên Chúa Đấng Hoá Công.

Có nhận thức như thế, mới biết rằng chính đó là hồng ân ta vẫn cầu mong, hoặc đã nhận lĩnh. Chúa quang lâm, là sự việc đang diễn tiến mỗi ngày. Diễn tiến, đi thẳng vào cuộc sống của chính ta. Qua tiến trình nhận thức sự đợi chờ, ta mới biết Đức Giê-su, Ngài là ai. Và có thế, mới nhận ra ý nghĩa cuộc đời. Và, đó là ý nghĩa của thánh vịnh 42 vẫn được hát: “Như nai rừng mong mỏi tìm về suối nước trong, hồn con cũng trông mong được gần Ngài, lạy Chúa.”

            Một khi đã khắc ghi trong đầu ý nghĩa của việc Chúa quang lâm, ta sẽ mừng Giáng Sinh, đúng ý nghĩa. Bởi, Giáng Sinh nay đã bị tục hoá. Đã xa rời lời Chúa. Bởi, Giáng Sinh không là tưởng niệm những gì đã xảy ra trong quá khứ. Nhưng, Giáng Sinh chỉ có nghĩa, khi mọi người nhận biết những điều mặc khải về cuộc sống hiện tại, và lai thời cho chính ta thôi. Đúng như lời thánh Máccô viết: “Anh em phải coi chừng và tỉnh thức, vì không biết khi nào thời ấy đến.” (Mc 13: 33)

            Coi chừng và tỉnh thức, như thánh Mát-thêu đã viết: “Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào Chúa của anh em đến. Hãy sẵn sàng, vì vào chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.” (Mt 24:42) 

            Xem như thế, tỉnh thức không chỉ vào giây phút kết cục của thời gian. Mà vào, giai đoạn cuối hết của thời mình. Tỉnh và thức, không vì hệ thái dương, hoặc vũ trụ bao la của ta tự nhiên chấm hết, chẳng báo trước. Nhưng, tỉnh và thức để mọi người sẽ nhận lời mời mà ra đi gặp gỡ Đức Chúa, bất cứ lúc nào. Không báo trước. Như, vẫn thấy sự việc xảy ra, vào mỗi ngày.

            Tỉnh và thức, không là vấn đề đối với những ai thường xuyên đặt mình trong tình trạng đề cao cảnh giác. Luôn gần gũi Đức Chúa trong cuộc đời. Tỉnh và thức, là việc ta chỉ có thể hoàn thành nếu biết thực thi, trong hiện thực. Có tỉnh thức, ta mới thấy khác biệt trong cuộc sống có chất lượng. Có tỉnh thức, ta mới để giờ ra kiếm tìm và gặp gỡ Chúa. Gặp gỡ Ngài, nơi người anh người chị sống quanh ta. Có tỉnh thức, ta mới biết yêu thương phục vụ Ngài, nơi những người anh người chị ấy.

            Thành thử, thay vì phấn đấu chống chọi thực tế cuộc đời, hoặc tìm cách khuynh loát đời mình và đời người cho thích hợp với ước vọng và tham vọng của riêng mình. Thay vì như thế, cũng nên nghe lại lời của ngôn sứ hôm nay: “Lạy Chúa, Ngài là Cha chúng con; chúng con là đất sét, còn thợ gốm là Ngài, chính tay Ngài đã làm ra tất cả chúng con.” (Is 64: 7)

            Thánh Phao-lô đã học được bài học ấy, khi thánh nhân ra tay bách hại tín hữu Chúa, coi đó như sứ vụ được Trên giao phó. Trong ngộ nhận, thánh nhân đã được Chúa cảnh tỉnh, và đánh thức hầu nghe lời cảnh báo: “Saul, hỡi Saul, sao ngươi ruồng bắt Ta? Ngươi đã gậy ông đập lưng ông, như đàn bò húc mạnh vào chính cùm gông của nó.” Cũng tựa như thế, nhiều người trong chúng ta đã từng húc đá vào Thầy mình và vì thế vẫn tự hỏi, sao đời mình chưa một lần được bình an và hạnh phúc.         

            Hệt như Phaolô thánh nhân, những ngày sau đó, đã biết kêu lên : “Vì vậy, tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Ki-tô. Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.” (2Cr 12: 10).

            Tỉnh và thức, không chỉ để đợi đến ngày kết tận, bị gục ngã. Nhưng, mà là tỉnh và thức mỗi ngày với những kinh nghiệm sống, trong đời. Tỉnh và thức, vì Đức Giê-su đang đợi ta nơi đó. Tỉnh và thức, trong trạng thái không chống cưỡng Ngài. Nhưng, cứ để Ngài dẫn dắt, điều khiển. Điều khiển và uốn nắn ngõ hầu mình sẽ giống Chúa. Sẽ trở nên con người trọn vẹn, rất đích thật. Con người biết yêu thương giùm giúp. Có tự do. An bình.

            Có như thế, ta mới cùng với thánh Phao-lô, không ngừng cảm tạ về ân sủng Ngài phú ban, ngang qua Đức Kitô. Cảm tạ, như thánh nhân từng lập đi lập lại ở bài đọc: “Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em, về ân huệ Người đã ban cho anh em, nơi Đức Ki-tô Giê-su.” (1Cr 1: 3).

            Có cảm tạ, thì mọi nguồn lực sẽ được gửi đến. Gửi đến để ta được lớn mạnh hơn trong cuộc sống có dẫn dắt. Lớn mạnh qua những tiện nghi mà ta được sử dụng như: sách vở, báo chí, tĩnh tâm, hội thảo, cuộc sống chung đụng cộng đoàn, nhất nhất đều là ân huệ Chúa gửi đến trong lúc đợi chờ. Chúa gửi đến vì “ta được Chúa Mặc khải vinh quang của Ngài”; và, Ngài sẽ làm cho ta “nên kiên cố đến cùng, để không ai có thể trách cứ, trong Ngày của Chúa, là Đức Giê-su Chúa chúng ta.” (1Cr 1: 9)

            Maranatha! Lạy Chúa xin hãy đến.

           

Suy niệm Chúa nhật thứ 2 Mùa Vọng năm B

 

“Viết trọn năm dài, trên vách đá”

Mây trắng đang xây, mộng viễn hành,

Chiều nay tôi lại, ngắm trời xanh,

Trời xanh là một tờ thư rộng,

Tôi thảo lên trời, mấy nét nhanh.

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Mc 1: 1-8

            Thảo thư viết lên trời, mấy nét nhanh. Xin được hỏi, làm thế có như: thư viết cho người, về đời Chúa có thánh nhân rao giảng, ở hoang địa? Thánh nhân rao giảng, là nay giảng về Tin Vui của Chúa, như trình thuật đề cập, bấy lâu nay.

            Trình thuật hôm nay, thánh Mác-cô mở đầu Tin Mừng bằng một ảnh hình về thánh Gio-an, rất  Tẩy Giả. Gio-an Tẩy Giả, là đấng thánh chuyên kêu gọi người người chuẩn bị ngày Chúa đến, có lời vàng của thánh Mác-cô, như sau: “Khởi đầu Tin Mừng Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa” (Mc 1: 1). Chính đó là chuyện thánh nhân muốn kể. Chính đó là Tin Vui thánh nhân muốn rao báo. Điều, mà  thánh nhân rao báo, là ở câu cuối trình thuật, khi phạm nhân ngoài Đạo, đã giác ngộ: “Đích thật, Người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15: 39).

            Trình thuật, nay diễn tả: việc Chúa đến kiện toàn điều đã viết trong Cựu Ước, qua Isaya: “Tiếng của người hô trong sa mạc, hãy dọn đường Chúa đi.” (Ys 40: 3). Rõ ràng, “tiếng của người…” là tiếng của Gio-an Tẩy Giả. Viết về Đức Giê-su, là “Chúa”. Là, Đấng người người chuẩn bị để đón chào.

            Bản thân vị ngôn sứ, chỉ muốn nói về việc con dân Do Thái, từng lưu lạc bên Babylon, nay đã trở về. Gốc nguồn sự việc, là đoạn văn cổ nói lên việc Chúa cứu thoát con dân Ngài. Nhưng ở đây, thánh Máccô trích dẫn lời vàng Kinh Sách, là chỉ về thánh Gio-an từng cổ võ việc chuẩn bị dọn đường để Chúa đến, với nhân trần.

            Chẳng còn ngờ vực gì nữa, Gio-an Tẩy Giả là đấng thánh rất uy tín. Ông có sức thuyết phục, dẫn dụ quần chúng đến nghe. Đời thánh nhân, nay cũng là hình ảnh của ngôn sứ Elia trong hiện tại. Ông cũng phục sức nhiệm nhặt, đơn giản. Cũng ăn kiêng. Sống chừng mực. Nhất nhất, đều nói lên tính chất tinh tuyền trong nghi thức. Tính chất  là tính chất của cuộc sống nơi sa mạc, chốn hoang sơ.

            Với Thánh Kinh, sa mạc/hoang sơ mang ý nghĩa rất đặc biệt. Đây, là chốn thánh thiêng, nơi mọi người đến để gặp gỡ Chúa. Sa mạc, còn là đất miền, ta can trường chiến đấu. Ở nơi đó, có dân hiền lưu lạc những 40 năm, tìm về đất hứa. Ở nơi đó, có cuộc khẩu chiến giữa Đức Chúa và ác thần/sự dữ. Và, cũng ở nơi đó, Đức Giê-su thường xuyên đi vào chốn vắng, những nguyện cầu. Đó, còn là nơi Ngài dưỡng nuôi dân con mọi người, bằng Lời Chúa.

            Chính nơi đây, ta biết là: “Mọi con dân từ khắp miền Giu-đê-a và từ Giê-ru-sa-lem” kéo đến, để nghe ông (Mc 1: 5). Chính nơi đây, thánh nhân đã tổ chức nhiều cuộc thanh tẩy, biểu trưng việc dân con hồi hướng. Sám hối. Có quyết tâm. Quyết, thay đổi cuộc sống ngõ hầu chào đón Vương Quốc Chúa. Khi Chúa đến, Ngài sẽ công bố Vương Quốc Nước Trời qua Ngài hiện diện: “Nước đã gần kề”.

            Dù thánh nhân, đã thu hút và tạo ảnh hưởng nhiều trên dân chúng, ông vẫn nói: “Tôi không xứng đáng cúi xuống, cởi quai dép cho Ngài!” (Mc 1: 7). Đây là lời ám chỉ công việc của người nô lệ, rất thấp hèn. Công việc, là ý nghĩa và biểu trưng việc Chúa cúi rửa cho đồ đệ Ngài, vào ngày Từ Biệt. Vai trò của thánh Gio-an đây, chỉ là phục vụ Đức Giê-su. Phục vụ dân Chúa. Như thánh nhân bảo: “Ngài phải tiến, còn tôi phải suy giảm”. (Yn 3: 30). Và cả đời thánh Gio-an là tập trung công bố Đức Giê-su là Chúa. Đấng Mê-shia.

            Bài đọc 2, thánh Phêrô nhắc nhớ mọi người, về ước nguyện Chúa đến với cuộc sống của mình. Vì thế, ta nên chuẩn bị để Chúa đến, vào bất cứ lúc nào. Nhiều người cứ than phiền: Chúa chẳng đến mỗi khi họ cần Ngài. Vì thế, thánh Phêrô đã ần cần nhắc nhở: “Chúa không chậm trễ thực hiện Lời Người hứa.” Trái lại, “Người kiên nhẫn đối với anh em, vì Người không muốn mọi người diệt vong, nhưng biết ăn năn hối cải.” (2P 3: 9). Đây mới là vấn đề. Vấn đề đổi thay là hãy quay về với Chúa. Hãy năng đến với Ngài.

            Và, thánh Phêrô nói thêm: “Mong đợi Ngày Chúa đến, anh em phải cố sao cho Người thấy anh em tinh tuyền, không gì đáng trách. Và sống bình an.” (2P 3: 14). Theo các tác giả, một số tín hữu thời ấy vẫn trông chờ Chúa đến thật sớm, nên đã thắc mắc: sao Ngài lâu đến? Và có người còn lo sợ về ngày sau hết, lo bị phán xét. Nhưng thật ra, Chúa sẽ đến trong vinh quang. Và vui mừng.

Thật sự, ta cũng chẳng nên lo âu, sợ sệt. Bởi, những ai gần gũi Chúa, sẽ luôn sống trong an bình, dù giông tố bão bùng, thường xảy đến. Những người như thế, Ngày Chúa đến là ngày chẳng có gì để phải sợ. Với họ, mỗi ngày đều là Giáng Sinh. Rất đặc biệt. Với họ, mỗi ngày đều là Ngày của Chúa.

            Vai trò của thánh Gio-an, còn là bài học để ta suy nghĩ. Bởi, trong cuộc sống, có rất nhiều thánh Gio-an Tẩy Giả. Họ là những người, những vị đã giúp ta tìm ra Chúa. Đã giúp ta biết nhận thức. Biết yêu thương. Biết phục vụ Ngài tốt đẹp hơn. Là, người Công giáo, ta đã được Thanh tẩy. Có cha mẹ đỡ đầu dẫn dắt giúp hiểu rõ niềm tin. Một số trong chúng ta, còn có bậc cha mẹ là các tín hữu tuyệt vời trong khi cũng có người không được vinh dự như thế.

            Là tín hữu trưởng thành, trong sống Đạo, ta đã gặp nhiều người đã tạo cơ hội, làm công cụ giúp ta tìm gặp Chúa. Giúp ta dõi bước theo Chúa như giúp ta gặp gỡ/tiếp cận với sách vở. Tiếp cận với lời giảng huấn. Với khuyên răn. Tĩnh tâm. Giúp ta tìm nguồn hứng giúp ta sống trọn hảo. Chính ngày của Chúa, trong tiệc lòng mến này, là lúc tốt đẹp để cảm tạ những ân nhân ấy. Cảm tạ, trong nguyện cầu. Cảm tạ, bằng cử chỉ thiết thực.

            Một điều nữa mà  thánh Gio-an cũng nhắc chúng ta, là: cả ta nữa, ta có bổn phận/trọng trách công bố Tin Vui An Bình, Ngày Chúa đến. Công bố, bằng việc giúp đỡ dân con nhà Đạo biết nhận thức, yêu thương và sống đích thực tình thương của Chúa, trong xã hội.

Ngày nay, thật không dễ kiếm tìm Chúa và nhận chân giá trị cũng như thị kiến của Ngài. Thế nên, ai cũng cần mọi người giúp “thẳng tiến đến xa lộ không đèn, nơi có Chúa”. Giúp, đi vào cuộc đời của mọi người. Giúp san bằng, mọi núi non/gò lẫm. Giúp, lấp cho đầy mọi thung lũng. Gò nỗng, thì kéo lên. Núi non, san thành đồng bằng. Để, “vinh quang Chúa được tỏ hiện, và tạo vật được xem thấy.”

            Là tín hữu Đức Kitô, ta không chỉ có mỗi trọng trách lo cho chính mình. Nhưng, còn: mang Tin Vui Tình thương của Đức Chúa đến với mọi người. Còn, chuyên chở sứ điệp tràn niềm vui chiếu sáng qua hành xử của mỗi người chúng ta. Niềm vui ấy xuất phát từ bên trong. Vui, trong khôn ngoan. Vui, trong an hoà. Và, trọng trách ta luôn mang, là: không rao truyền niềm tin của ta như những gì khủng khiếp đáng lo sợ. Mà là, mang niềm tin đến với mọi người. Để, họ thấy được là niềm tin giải thoát hết mọi người.

            Reo mang tin vui, là trưng dẫn ảnh hình của Đức Chúa, như “Đấng Chăn Chiên Nhân Hiền, Ngài luôn nâng niu chiên con trên tay ẵm bồng, vào lòng.” Là, luôn mang theo niềm tin, hy vọng và sự thật. Mang theo an bình và hoà hoãn. Mang công lý và lòng xót thương. Thông điệp ấy, không rơi từ trời cao. Cũng chẳng là, mặc khải tư riêng mang đến, cách nhưng-không. Mà, còn tuỳ thuộc vào thái độ của mỗi người, có biết “dọn đường để Chúa đến?”hay không. Bởi, vẫn còn đó lời kêu gào từ chốn hoang sơ rất thị thành, ngày hôm nay.

            Và, thư thánh Phao-lô hôm nay nhắc nhở:“làm sao họ kêu cầu Đấng mà họ không tin? Làm sao họ tin Đấng mà họ không được nghe? Làm sao họ nghe, nếu không có ai rao giảng?Làm sao rao giảng, nếu không được sai đi? Như có lời chép: Đẹp thay những bước chân loan báo tin mừng!”. Vậy nên, “có đức tin, là nhờ nghe giảng. Mà, nghe giảng là nghe công bố lời của Chúa.” (Rm 10: 14-15, 17)

            Ta có phúc vì  vẫn được dân con Chúa đem Tin Vui Đức Chúa sẽ đến lại. Vậy, điều tối thiểu ta cần làm, là làm hệt như thế cho người khác. Bởi, quà tặng Giáng Sinh/Ngày của Chúa không gì quý bằng: giúp mọi người biết nhận thức, yêu thương Chúa, như Đường lối sống. Cho họ.

             

Suy niệm Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng năm B

 

Đang lướt mướt trong muôn màu hoa lệ!

Trên cung bậc, hãm mau niềm ngọc kể
Với lòng rung, ngưng hết cả thanh âm,
Cho lửng lơ chới với điệu phong cầm
Cho tôi bớt bồi hồi trong một phút!

(dẫn từ thơ Hàn mặc Tử)

Yn 1: 6-8, 19-28

            Thanh âm, nay ngưng cả. Để, nhà thơ rung lòng với cung bậc hãm mau. Lửng lơ, chới với. Rất bồi hồi, trong một phút. Lòng rung động, để nhà thơ cũng như nhà Đạo, ta mừng vui trong hoa lệ, đón mừng Chúa đến, trong oai nghi. Đón Chúa đến, trong vọng ngóng, có trình thuật thánh sử viết, hôm nay.

            Trình thuật thánh Gio-an hôm nay viết, là viết những chương đoạn về tình tự “mừng vui” ngay giữa lúc toàn thể Hội thánh đang tập trung nguyện cầu, chờ Chúa đến. Trong quá khứ, Mùa Vọng là mùa lễ hội qua đó con dân Đạo Chúa vẫn nhớ rằng có những 4 Chúa nhật trong mùa này, mọi người đều phải chay kiêng. Ngay như vị chủ sử sự buổi phụng vụ cũng đều ăn vận mầu tím than, rặt sám hối. Có nghĩa là, bầu khí những buổi này đều mang sắc mầu u buồn, thảm não.

            Thế nhưng, vào ngay giữa mùa sám hối này, mọi người cần nhớ đến sự việc mà họ cần là chuẩn bị ngày vui đón mừng Chúa hạ giáng. Ngay giữa mùa hối lỗi với sầu buồn, Hội thánh kêu mời ta mở cửa đón Niềm Vui trân trọng, ngày Chúa đến. Và sắc mầu ảo não được thay thế bằng sắc vui tươi, rất mầu hồng.

            Lý do của những mừng và vui, là như thánh sử cho thấy Đức Chúa đến mà trú ngụ giữa chúng ta: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta”.(Yn 1: 14). Hiểu theo nghĩa của người Do Thái thời ấy, thì Ngài đã “đóng lều” mà ở lại. Bài đọc 1, lời tiên tri Isaya được thánh Luca trích dẫn, có nói: “Thần Khí Chúa, ngự trên tôi; và Ngài đã xức dầu tấn phong tôi.” (Is 61: 1)

            Trích dẫn như thế, Đức Giê-su mặc khải chính Ngài là vị vua được xức dầu, mà dân con của Chúa coi là Đấng Mêsia đến cứu vớt. Và lý do hối thúc Ngài đến, là để: “sai đi báo tin mừng cho kẻ nghèo hèn băng bó tấm lòng tan nát, công bố lệnh ân xá cho kẻ bị giam cầm, phóng thích tù nhân; cống bố năm Hồng ân của Đức Chúa.” (Is 61: 1-2)

            Các trích dẫn và Lời Kinh được viết vào lúc sự đói nghèo, buồn khổ mà đa phần dân chúng đang chịu đựng qua kinh nghiệm sống. Và hôm nay, dù ta có đủ mọi tiện nghi kỹ thuật thời thượng nhưng tình huống của hàng trăm triệu người vẫn như cũ, vẫn không thay đổi.

            Cả những người, chừng như đang sống trên hải đảo sung túc/dư thừa, nhưng vẫn có dẫy đầy nhiều hình thức của giam cầm/đoạ đày, như: cưỡng bức, ám ảnh, ghiền say, sa rơi vào bẫy cạm của tiêu thụ. Vẫn còn có những hình thức mù loà, câm điếc nơi những người không nói lên được tính xây dựng, và sáng tạo. Vẫn có những trì trệ của người què quặt về xúc cảm, về xã hội. Chỉ hưởng lạc, chẳng biết đến yêu đương. Vẫn có tính bệnh phong cùi của những cách ly, đơn độc ngay giữa đám đông ồn ào, náo nhiệt.

            Một khi Chúa đã thực tình đến để giải phóng ta khỏi những cảnh như thế, ắt là ta cũng biết cách mà vui mừng, như lời tiên tri còn nói: “Tôi mừng rỡ muôn phần nhờ Đức Chúa. Người mặc áo cho tôi, đầy hồng ân cứu độ, Người choàng cho tôi đức chính trực, công minh” (Is 61: 10). Thế đó, là lời hứa Chúa đến với ta. Ngài đến để cứu rỗi, để thực sự đưa ta về với hồng ân cứu độ. Để ta không còn sống trong hãi sợ. Cuộc sống không còn bị phân mỏng vì tham muốn sở hữu vật chất nữa.                       

             Và, hồng ân cứu độ đã thực sự là kinh nghiệm sống, mà lễ hội Giáng sinh ngoài đời chẳng khi nào đem đến cho ta, một ý nghĩa. Rất đích thực. Đầy đặn. Điều đó, là do ta chưa thực sự gặp gỡ Chúa. Chưathực sự để Chúa giải phóng chúng ta khỏi sự cầm hãm của thế gian, theo cách mới.

            Bài đọc 2, tiếp nối chủ đề niềm vui đem đến cho ta qua Đức Chúa, khi thánh Phao-lô viết: “Anh chị em hãy vui mừng luôn mãi!” (1Th 5: 16). Lời nhắn của thánh nhân, vẫn ra như là một đòi hỏi chưa hiện thực. Không lý lẽ. Quả là, với tín hữu Đức Kitô, hạnh phúc là kinh nghiệm của cuộc sống hàng ngày. Kinh nghiệm của cuộc sống dù rằng hôm nay/ ngày ấy vẫn còn có khổ đau lẫn nỗi dằn vặt.

            Và lời Phao-lô thánh-nhân vẫn còn đó, khó mà quên: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ khinh thường ơn nói tiên tri.”(1Th 5: 20). Và chìa khoá giúp mọi người chúng ta kéo dài niềm hạnh phúc, là: biết cởi mở lòng mình để Chúa dẫn dắt. Cởi mở và sẵn sàng nói ra cũng như hành động quả cảm, vì Danh Ngài.    

            Về chuyện này, ta có được mẫu gương sáng chói lọi của thánh Gio-an Tẩy Giả, được tóm gọn nơi Tin Mừng thánh sử Gio-an: “Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng.(Yn 1: 6).

            Đọc Kinh Sách, hẳn mọi người đều hiểu: đây là khẳng định rõ nét về mối tương quan vẫn có giữa thánh Gio-an Tẩy Giả và Đức Giê-su. Đức Chúa là ánh sáng chói lọi và thánh Gio-an Tẩy Giả là nhân chứng cho Ánh sáng ấy. Nếu hôm nay, ta thay thế tên thánh Gio-an bằng chính tên của mình, ta sẽ nhận thức được nhiều điều hữu ích. Bởi, những điều được nói, cũng vẫn đúng thực với mọi tín hữu được thanh tẩy như thánh Gio-an.

            Bởi lẽ, mỗi người chúng ta, qua thanh tẩy và nhờ đã gia nhập làm thành viên gia đình Hội thánh, đương nhiên trở thành người được sai phái ra đi, không phải như Ánh sáng chói lọi, nhưng như nhân chứng của Ánh sáng. Chính bài giảng trên núi, Chúa đã nói đến mỗi người chúng ta như “ánh sáng thế gian”. Nhưng, ta vẫn là ánh sáng theo cung cách ánh nguyệt, được chiếu rọi và phản ánh từ mặt trời, là Đức Chúa.

            Trong chuẩn bị đón mừng ngày Chúa Giáng Hạ và Quang Lâm đến với cuộc sống của ta, ngang qua Đức Giê-su, ta cần tự nhắc nhở mình rằng: ta được gọi mời làm một phương tiện để đưa Chúa đi vào với cuộc sống của người khác.

            Vào Mùa Chúa Giáng Hạ, các thành phố của ta tưng bừng đầy ánh sáng chói lọi. Tuy thế, nhiều người vẫn không nhận ra được ý nghĩa của sự chói lọi đầy ánh sáng, là biểu tượng cho Đức Giê-su, nguồn Ánh Sáng của Muôn Dân, đang đến lại với chúng ta tại thời buổi này. Và có lẽ, cũng nên hỏi: ta sẽ mang Ánh Sáng của Chúa đến được bao nhiêu người? được bao người, đang sống với kinh nghiệm Chúa Hạ sinh nơi họ, vì nhờ có ta làm chứng cho việc Chúa đến?    

            Biết bao người, còn đang sống lẫn lộn trong tăm tối? Còn bao người vẫn còn nghèo khổ theo nhiều cách? Dù, họ rất giàu về tiền bạc. Của cải, vật chất. Còn biết bao người vẫn chưa được tự do chọn lựa sự thật? Tự do chọn công lý và bình trong lối sống? Trong hành vi, cử chỉ và lời nói. Còn biết bao người vẫn câm và vẫn điếc trong cái ồn ào của chủ nghĩa tiêu thụ? Còn bao người, vẫn trong vòng lao lý của những hào nhoáng bên ngoài? Vẫn cô đơn. Lạc loài. Bị ruồng bỏ. Biết bao người, vẫn chịu khổ đau ngay trong lễ hội đình đám? Những người vẫn chán và sợ Giáng Sinh, vì những chán chường, u sầu hoặc ê chề, lẩn trong đó.

            Chắc chắn là còn rất nhiều người đang đợi chờ. Đợi chờ ta, phản chiếu Ánh Sáng chói lọi của Đức Chúa. Chiếu trên họ, để rồi ta chuyển đổi cuộc đời họ cho có niềm vui. Cho có ân sủng tràn đầy, trọn vẹn. Niềm vui Đức Kitô. Vui Mùa Giáng Hạ chỉ thuộc về ta, trong mức độ nếu ta hợp tác với Chúa, đem niềm vui đến với cuộc sống, của muôn người.

             

Suy niệm Chúa nhật thứ 4 Mùa Vọng năm B

 

“Người về đây, có phải tự trời xa”

Với nét mắt vòng cung của cầu vồng che mưa nắng?
Có phải tên người là âm thanh vô vọng
Nên mắt buồn le lói thoáng bơ vơ
Hay một đêm nao nước lụt Ngân Hà

Thượng Đế đưa sao mang gửi về khoé mắt?

(dẫn từ thơ Nguyên Sa)

Lc 1: 26-38

            Nét đẹp Người về, nhà thơ nay đà thấy. Thấy lụt Ngân Hà Thượng Đế gửi. Nơi khoé mắt. Lụt Ngân Hà/Mưa Hồng Ân Ngài gửi con người, qua Đấng Mêsia, vẫn còn đó rất hôm nay.

            Trình thuật hôm nay, là trình thuật dọn đường Chúa đến, trong lai thời. Chúa đến, Ngài cũng nhập thế và nhập thể nơi cung lòng Người Con. Con Người, nay mặc lấy xác thịt phàm trần, để ở lại với con người. Với vũ trụ, rất yêu thương.

            Trình thuật, nay đưa dẫn sự kiện Maria mang thai. Mẹ không gần gũi xác thịt với đấng phối ngẫu. Nên, tín hữu thời buổi đầu vẫn nhận biết và suy tư về sự kiện lớn lao này. Biết và hiểu rằng Chúa đến với con người là đến bằng xác thịt. Ngài đến qua Đavít, như đã thiết lập, khi Phục Sinh (Rm 1: 3-4). 

Phúc Âm nay còn đưa ra một thắc mắc về lời ứng đáp của Mẹ. Qua ứng đáp, Mẹ đã cưu mang  Con Chúa, mà đồng trinh, sao? Thế nên, thần sứ mới kịp hoà giải, phải trấn an: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa.” (Lc 1: 35). Và, Đức Giê-su là Con Thiên Chúa vào khoảnh khắc lúc đầu, qua sự kiện Mẹ thụ thai, mà đồng trinh. Sự việc, là do quyền uy sức mạnh của Thiên Chúa. Và, việc Mẹ vẫn đồng trinh không ảnh hưởng lên căn tính của Mẹ. Cũng chẳng liên quan đến vị phối ngẫu. Vẫn tự nhiên.  

Nơi trình thuật, thánh Luca đã so sánh việc Chúa Giáng Hạ với thánh Gio-an Tẩy giả, được sinh ra. Trong khi, thánh Gio-an trở nên “cao cả trước mặt Chúa”, thì Đức Giê-su lại chính là Con của Chúa. Đấng Cao cả trên hết mọi cao sang cả thể nào khác. Ngài ngự trên ngai Đa-vít. Vương Quốc của Ngài không có mức cùng, hay giới hạn.

Thánh Luca, luôn coi Đức Giê-su là Vua trên hết các vua. Ngài là hiện thân của Nước Chúa, bằng vào những thống khổ của Ngài chịu. Cả vào lúc Ngài xem ra không còn uy lực, nữa. Qua ngòi bút thánh sử, việc thánh Gio-an Tẩy Giả sinh hạ, rất đặc biệt. Bởi, thánh nhân sinh ra từ bậc cha mẹ bình thường, tuy đã già. Còn, Chúa Giáng Hạ, Ngài lại giáng hạ cách đặc biệt. Bởi, Chúa giáng hạ là từ cung lòng của Đức Mẹ, vẫn đồng trinh. 

Trình thuật sự việc Giáng hạ cho người nghèo khổ, sẽ mang ý nghĩa đậm nét hơn, khi thánh sử Máccô viết về tính cách cùng-cứu-rỗi của Mẹ Đồng Trinh. Mẹ cùng cứu rỗi con người, từ thị trấn nhỏ bé, chứa đựng khoảng chừng 150 dân cư, thôi. Ta còn nhớ, lời bình của Nathael trong Tin Mừng Gio-an, có đoạn viết: "Từ Na-da-rét, có gì là hay đẹp?" (Yn 1: 46). Về sau, chính Mẹ cũng đề cập đến chuyện này, khi Mẹ hát bài Ngợi Khen, rất Magnificat: “Phận nữ hèn, Người đoái thương nhìn tới. Chúa hạ bệ, kẻ quyền thế, để nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.” (Lc 1: 48, 52).

Thế nên, những gì xảy đến với Mẹ, đều là quà “nhưng-không”, Chúa tặng. Là, những gì Mẹ không thể tự mình mà có. Nhưng, Mẹ vẫn tự do chọn lựa. Tất cả, gửi đến Mẹ như yêu cầu người nữ trinh trong thực hiện điều Chúa muốn.Và Mẹ nói lời “Xin vâng!”, rất tự do. Rất hãnh tiến.

“Tôi đây nữ tỳ của Chúa, xin cứ làm cho tôi theo ý ngài." là câu ứng đáp rất toàn hảo. Ứng đáp, của đồ đệ Chúa. Mãi về sau, chẳng nữ phụ hoặc phạm nhân tội lỗi nào dám nghĩ rằng mình có thể nói lời cung chúc tích cực, đẹp như thế. Ứng đáp mặc khải của Chúa qua Đức Giê-su, quả là không dễ.

Nhờ lời “Xin vâng!” của Mẹ, thế giới nay có đổi thay. Nhờ ứng đáp của Mẹ, nay cuộc sống mọi người đã thay đổi. Thay đổi là thay và đổi thật sự. Dù ta là người có niềm tin hay chỉ là đám vô thần, theo cách này, cách khác. Tiếc thay, hôm nay, tính vâng phục như của Mẹ, không còn được nhiều người ưa trọng. Bởi, người người vẫn muốn độc lập. Có tự do. Và, tự túc tự cường. Nhưng, vẫn có người thắc mắc về tính tự do này, khi nhiều người còn tuỳ thuộc vào nhiều thứ, như: nghiện ngập, lẫn say mê. Say nhiều thứ. Mê cả chuyện nổi tiếng, lẫn oai nghi.

Vâng phục, là đức tính có khi được hiểu sai ý nghĩa. Tựa hồ như: khúm núm. Quỵ luỵ. Và, ỷ lại. Thế giới hôm nay, nói đến vâng phục thường kết nối với tính yếu kém. Đớn hèn. Nhu nhược. Nhưng, vâng phục thực sự, lại là một chọn lựa rất tự do. Được soi sáng từ sự trung thực và đúng đắn. Vâng phục thực sự, đòi ta sự quả cảm. Cho dù có bị ràng buộc bởi làn sóng chống đối từ phía xã hội. Chính vì thế, thiên sứ mới phải giải thích nhiều việc Mẹ mang thai, mà vẫn đồng trinh.    

Vâng phục, không nhằm để phù hợp lòng mong muốn của các vị trên cao. Mà, để đặt mình trong tình huống phục vụ những gì cao cả hơn chính mình. Trong bối cảnh Tin Mừng, người cao cả không là người chỉ biết khuynh loát và thống trị kẻ khác. Nhưng, là người biết ứng phó sử dụng tài nguyên riêng tư, ngõ hầu phục vụ cộng đoàn. Xem như thế, cao cả đích thực là tích cực chấp nhận những gì Chúa muốn mình làm. Hoặc, những gì Ngài muốn làm, qua ta.

Khoảnh khắc cao cả, Chúa giống như Mẹ, khi Ngài nói lời “xin vâng!” với Chúa Cha. Bởi, trong âu lo, Ngài cũng vã mồ hôi đầy những máu khi nguyện cầu. Đó, là lúc Ngài quyết định: “Xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha." (Lc 22: 42). Và, thánh Phao-lô xác định: “Khi sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã dâng lời khẩn nài lên Đấng quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài được nhậm lời, vì tôn kính. Là Con Thiên Chúa, Ngài trải qua nhiều đau khổ mới học được đức vâng phục; và khi bản thân Ngài đạt mức thập toàn, Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ, cho những ai vâng phục Ngài.” (Hr 5: 7-9)

Mẹ vâng phục, thật ra không phải là chuyện dễ làm. Là thiếu nữ và là hôn thê chưa cưới của thánh Giu-se, Mẹ vẫn được yêu cầu mang thai ngang qua uy lực, từ ngoài. Tập tục Do Thái, hôn thê là người coi như quyết tâm gắn liền với phu quân tương lai, của mình. Người Do thái coi việc mất đi lòng trinh tiết, đồng nghĩa với ngoại tình. Và, hình phạt dành cho thiếu nữ này, là ném đá ngay tại nhà của cha mình (x. Yn 8: 1-tt).

Khi nói tiếng “xin vâng”, Mẹ đã thực hiện một việc cả thể. Chính đó, là động tác ưng thuận điều sứ thần đòi. Mẹ nói lời “xin vâng!” vào mọi tình huống. Cả vào khi Mẹ trở thành Mẹ của Thiên Chúa. Mẹ “xin vâng”, ngay cả lúc Con của Mẹ bị xử án, tấn công. Cả khi, Con của Me bị cả chính quyền lẫn thần quyền khích bác, ruồng bỏ. Mẹ “xin vâng”, khi Con Yêu Dấu của Mẹ bị đối xử tàn bạo, cho đến chết. Chết rất nhục. Chết, như tội phạm.

Mừng ngày Chúa Giáng Hạ, ta cũng đừng xử sự như nhiều người. Những người, chỉ muốn tránh né thực tế, trong xã hội. Ngược lại, hãy coi đây là thời điểm để ta nói lời “xin vâng”, với Chúa. Xin vâng và chấp nhận điều mà Ngài vẫn gọi mời ta đổi mới. Đổi mới, không để có được cuộc sống “rất chậm” ngày lễ hội. Hoặc có áp dụng, nhưng chỉ bằng những “xin-cho” của đời thường. Trái lại, “xin vâng” là quyết thích nghi và phù hợp với nơi chốn và thời gian ưu tiên, cho đời mình. Có “xin vâng” như thế, Chúa mới giáng hạ và tái sinh trong lòng mình và trong lòng người khác, nữa.

Vào phút giây nguyện cầu để nói tiếng “xin vâng”, lúc ta khởi đầu cuộc sống có chọn lựa. Trong mọi việc. Xin vâng, cả khi mọi việc ra như có chiều hướng xấu. Và trễ tràng. Xin vâng, để hiện thực. Xin vâng, để có thể quay về với Chúa. Để biết mình không là gì cả. Và, mọi sự xấu xảy đến với ta, không do Chúa. Nên, đừng đổ lỗi cho Ngài. Trái lại, hiểu rằng: xin vâng, chẳng vì Chúa hứa sẽ thuận theo kế hoạch của mình. Nhưng, là Ngài hứa thực hiện kế hoạch cứu rỗi của Ngài, trong ta. Qua ta. Và cho ta.

Chúa giáng hạ, và Mẹ Ngài đã nói lời “xin vâng” rất tự do. Tự nguyện. Chúa trở nên Đấng Cứu chuộc chúng ta, nhờ có lời xin vâng. Ngài cũng nói “xin vâng” rất tự do và quả cảm, với Cha Ngài. Mùa Giáng Hạ năm nay, cùng với Mẹ và Đức Chúa, ta hãy “xin vâng” tự nguyện. Không điều kiện. Quả cảm, dâng lên Chúa. Đấy là đầu tư an toàn, hạnh phúc và bình an ta chưa hề biết.

 

Suy niệm Giáng Sinh – Lễ Nửa đêm năm B

 

“Hoa không buồn thắm, bướm không baỵ”
Giữa lúc tâm hồn, trong sáng ấy
Đường mờ như thủy, mảnh gương phai
Ngây thơ hấp hối, trong nhan sắc
Đợi hắt hơi thừa, một sớm mai

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Lc 2: 1-14

            Hoa không buồn thắm, hồn trong sáng. Đường mờ như thuỷ, một sớm mai. Tất cả, nay không còn như thế. Không như thế, là bởi hôm nay Đức Chúa, Ngài đã Giáng hạ. Hạ giáng làm người, để hồn ta trong sáng, chờ Ngài đến. Ngài đến, trong bừng sáng như trình thuật, kể hôm nay.

            Trình thuật hôm nay, kể về lễ hội tưng bừng những ánh sáng. Có vui có mừng. Có giải thoát.  Người La mã lúc đầu có thói quen gọi lễ Hạ Giáng, là ngày lễ Mặt Trời không khuyết thực.

            Bài đọc hôm nay, rộ lên chủ đề ánh sáng có hài nhi nằm trên máng ăn của bò lừa. Hài Nhi, là Ánh Sáng cho Muôn Dân. Ánh Sáng ấy, nay quây quần hào quang chiếu sáng trên mục đồng. Cùng lúc ấy, có thần sứ hát mừng tôn vinh Chúa, với những câu: “Vinh danh Chúa Cả trên trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương." (Lc 2: 14)

            Mừng, là chủ đề xuyên suốt trong cả ba bài đọc hôm nay. Nhất thứ, là Tin Mừng. Tin Mừng, là đặc thù đích thực được gửi đến tín hữu Chúa Kitô, ở mọi chốn. Nguyên do dẫn đến những mừng vui, là vì ơn giải thoát Chúa đem đến. Ơn Chúa đem, Ngài mang lại theo cung cách của Vị Vua các vua. Và, cả đến cung cách của vị Hoàng Tử của An Bình. Tin Mừng Ngài đem đến, không phải để phô trương quyền uy và thế lực. Mà là, để ban phát quyền lực oai phong cho kẻ nghèo hèn, còn yếu kém.

            Trình thuật hôm nay, gợi lại lối sống và mục tiêu Ngài nhắm đến. Mục tiêu/lối sống Ngài nhắm đến, không theo cách thức của những người sống chung quanh. Nhưng, như thường dân ở huyện đến để đăng ký sổ bộ cho đoàn thu thuế. Và khi ấy, không có chỗ đàng hoàng tử tế cho Mẹ Ngài và thánh Giu-se. Mẹ đành để Hài Nhi tá túc chốn bò lừa. Đặt Hài Nhi nằm trên máng ăn của lừa/bò.

            Và, khách mời thăm viếng Vua các vua, vẫn chỉ là đám nhi đồng du mục, chẳng vai vế. Rất bần hàn, vùng cận Đông. Họ là đám người cùng cực, sống ngoài rià. Ngoài xã hội. Ngoài phe nhóm. Nhưng, họ là người tử tế. Chỉ mỗi tội là không biết thích nghi với xã hội mình sống. Và câu hỏi: tại sao lại như thế? Sao, Đấng Thế Tử đến với dân lại theo kiểu xuống cấp, đến như thế? 

            Thật ra, cũng nên hiểu ý của thánh sử Luca khi thánh nhân viết trình thuật thời thơ ấu của Chúa, là để thiết lập tương lai, Ngài sẽ sống. Thánh Luca nhấn mạnh đến khía cạnh Chúa đến, là: Ngài đến với người nghèo, kẻ yếu đuối, sống ngoài rìa. Sau này, Ngài còn cùng bàn với phường giá áo túi cơm. Với cả kẻ tội lỗi ghê khiếp nữa. Vậy, nếu Chúa đến vào thời buổi hôm nay, thì thế nào?

            Tại sao thế? Có nhà thần học đương thời, vẫn nhận định: “Nếu Chúa đến với đồ đệ Ngài, hôm nay, Ngài sẽ phải theo cung cách nào để mang Tin Mừng cứu độ, cho môn đệ? Ngài sẽ đến cách nào, khi đám người trẻ cứ phải chết vì Siđa? Khi hàng triệu người vẫn thất nghiệp, chẳng có nhân cách? Và, Chúa đến sẽ thế nào, khi đàn trẻ nhỏ vẫn bị sách nhiễu tình dục? Phụ nữ vẫn cứ thua thiệt, so với nam nhân? Ngài sẽ nói sao, khi tệ nạn phân biệt chủng tộc, chém giết vẫn cứ xảy đến với Châu Phi, châu Á, và cả châu Âu, nữa? Ngài đến theo cách nào, khi loài người vẫn cứ huỷ hoại môi trường, mình đang sống?

            Và hôm nay, có người hỏi: Chúa Cứu Thế, Ngài ở đâu? Ngài đâu rồi, sao không đến khi người hèn yếu đang cần Ngài? Ngài là Chúa Cứu Thế của ta –và của mọi người- khi ta và họ được Ngài chúc phúc bằng của cải, trên trái đất. Của cải vật chất, xã hội và cả đến tài sản trí tuệ, nữa. Thật sự, Ngài chỉ là Đấng Cứu Thế, khi ta chứng thực được rằng: mình đang chung lưng đấu cật, hợp tác tái tạo lại nhân cách và tính vẹn toàn cho người hèn yếu thôi.

            Thomas Merton, là nhà văn và cũng là nhà khắc kỷ/khổ tu, đã phát biểu: “Thế giới này, chốn trú ngụ cuồng điên, nơi đây tuyệt nhiên không còn chỗ cho Ngài đến trú ngụ. Ngài vẫn đến, dù không ai mời. Nhưng, Ngài không cảm thấy đó như ở nhà mình, là bởi không có nơi cho Ngài trú ngụ. Và Ngài vẫn cần thiết ở nơi ấy, nên Ngài đã phải đến với người khác. Những người cũng một tình trạng như Ngài, tức: không có chỗ trú thân.

            “Chỗ trú thân của Ngài, là ở với những người không thuộc phe phái nào, nên vẫn bị quyền bính chối từ và bỏ qua một bên. Bỏ, là bởi họ vẫn cứ bị coi như kẻ yếu. Bị coi, là những người không đáng tin cậy. Họ là những người bị tước bỏ cả đến “nhân cách chỉ làm người”. Là, những kẻ đang bị ruồng bắt. Hãm hại. Ruồng bỏ. Những người không có phòng ốc để trú ngụ, dù qua đêm. Với họ, Chúa vẫn có mặt, nơi thế giới.”

            Cách đây khá lâu, nhà văn Paolo Freire người Brazil, có viết trong Sách Sư Phạm Cho Người Bị Bức Bách. Đầu đề sách, thoạt nhìn có vẻ như một cẩm nang cho người khủng bố. Nhưng, không phải thế. Freire là tín hữu Đạo Chúa. Ông hoàn toàn chống lại bất cứ mọi hình thức của bạo lực. Sách của ông, chỉ cách hướng dẫn cho người nghèo, ít học. Ông tin rằng, khi đã được học đọc và học viết, thì người bần cùng nghèo khổ cũng sẽ học rằng: họ từng là người nghèo. Biết được lý do tại sao mình nghèo. Và, làm thế nào để vượt thắng cảnh nghèo hèn. Mọi giải pháp/cơ hội, nằm trong tay họ.

            Toàn bộ tiến trình giáo dục người nghèo, đặt nền tảng trên tín thư Tin Mừng. Và, người đọc sẽ áp dụng mọi chỉ dẫn cho cuộc sống của mình. Tiến trình này, giúp người nghèo và những người bị ruồng bỏ, hiểu rõ hoàn cảnh bức bách họ đang chịu. Giúp họ biết quyền lợi của họ là có được nhân cách sống. Cũng như công lý; và phương cách bất bạo lực, để giải quyết.

            Dù thế, lâu nay vẫn xảy ra nhiều bạo động, vì phần đông các người nghèo không kiên nhẫn đủ, để tiến hành bất bạo động. Họ bị cuốn hút vào cung cách của du kích. Khủng bố. Nhất là cách đang được một số chính quyền, giới kinh doanh và dân quân khác, thích sử dụng. Những người thích sử dụng kiểu này, là cốt tạo sự giàu sang và quyền bính trong tay một nhóm người, rất ít ỏi.

            Hài Nhi hôm nay Giáng Hạ, chính là Hoàng Tử Bình An, của mọi người. Tiếc thay, thông điệp tình yêu và công lý Ngài mang đến, đã biến thành tài nguyên cho bạo động và nỗi chết, như thành quả của người đã từng khước từ Ngài. Tiếng vang ấy, vẫn đọng lắng nơi truyện tích, của Giáng sinh. Chính vì thế, nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân và hàng ngàn nông dân vô tội cũng như gia đình họ, đã và đang bị giết hại, vì Ngài.         

            Và, lễ Giáng Sinh không chỉ xảy đến, mỗi đêm nay. Nhưng, là nguyên năm. Giáng Sinh, không chỉ là lễ hội đình đám có ngỗng quay, kẹo mứt bánh trái, ở đâu đó. Giáng sinh, cũng không là những dạ vũ kéo dài, có nhậu nhẹt vui chơi, đến thâu đêm. Mà là, cử hành việc Chúa đến với người nghèo, không nơi nương tựa. Người thiệt thòi. Có thông điệp của hy vọng Ngài đem đến cho kẻ thiếu thốn. Là, trách nhiệm coi ta như một thành phần của tiến trình giải thoát. Ơn cứu độ. 

            Cử hành lễ Giáng Sinh, còn là quyết tâm gột bỏ vết nhơ của khó nghèo. Của kỳ thị. Gột bỏ khai thác bóc lột. Gột bỏ, những gì đang xảy đến với môi trường giàu của chúng ta. Gột bỏ, là giải quyết cảnh: người thì ăn không hết, kẻ thì đói lả gục ngã trước ngưỡng cửa cứu đói.

            Là con dân Đạo Chúa, ta có quyền mừng kính ngày Chúa Hạ Giáng Làm Người. Nhưng, đừng quên ý nghĩa đích thực việc mừng kính. Ý nghĩa, là nghĩa lý của thông điệp Giáng Hạ chuyển đến cho cả bên ngoài, và đằng sau, ngày đại lễ. Nên biết rằng, ngày Chúa Giáng Hạ là ngày nhắc ta  ý nghĩa làm con dân của Chúa. Ý nghĩa ấy, hôm nay gửi đến với riêng ta. Với mọi người. Trong mọi nhà.

 

Suy Niệm Chúa Nhật Lễ Thánh Gia năm B

“Làm êm ấm đôi ngày xuân trống trải”  
Tôi lắng đợi! Nhịp lòng tôi đứng lại!
Tôi cần tin! Tôi khao khát được nhầm!
Cho tôi mơ một ảo tưởng thâm trầm,
Và mặc kệ, nếu đó là dối trá!

(dẫn từ thơ Xuân Diệu)

Lc 2: 22-40

            Nhà thơ nay đà biết nói: ông cần tin. Và, ông cũng khao khát được nhầm lẫn, có ảo tưởng. Rất thâm trầm. Nhầm lẫn – ảo tưởng - thâm trầm, thế mà ông vẫn cần đến niềm tin. Dám hỏi nhà thơ, ông  nay có tin, như tin vào tình yêu của Đức Chúa. Tin rất nhiều, hơn tình của đôi ta. Rất uyên ương. Không oan trái. Như trình thuật nay diễn giải.

            Trình thuật hôm nay, diễn giải là diễn nghĩa và giải thích về thánh gia. Gia đình của Chúa tuy rất thánh nhưng vẫn giống mọi gia đình. Tức, có thăng có trầm. Có lúc vui buồn, nhiều trầm lắng. Lắm ưu tư. Ưu tư nhất, là khi Mẹ chứng kiến nỗi chết nhục hình của Con Mình, trên thập giá. Ưu tư không kém, như thánh cả Giu-se âm thầm suy tư về ý định của Thiên Chúa.

            Là thành viên của Thánh Gia, Mẹ và thánh cả Giu-se cũng đã hốt hoảng khi Con của Mẹ “biến mất” nơi Đền thánh, những 3 ngày. Sau buổi ấy, Con của Mẹ, nay thuộc về gia đình mới. Gia đình thế giới. Chí ít, của những người quyết noi theo phương cách Ngài hằng chỉ dẫn. Ngài chỉ dẫn bằng dụ ngôn, truyện kể. Bằng diễn giải, nhủ khuyên khi Ngài quả quyết: là mẹ và là anh chị, chỉ những người biết lắng nghe và làm theo ý của Cha. Là, những người trong đó, có cả Mẹ. Bởi, không ai nghe và giữ Lời Chúa, cho bằng Mẹ.

            Trình thuật hôm nay, đích thực kể về việc dâng tiến Chúa nơi Đền thánh. Là người con lớn trong gia đình, Đức Giê-su cũng phải thi hành luật lệ của người Do Thái, tức: dâng tiến chính mình Ngài cho Đền Thờ. Cho Cha Ngài. Điều này, để biết rằng: cả cuộc đời Ngài còn là quà tặng từ Thiên Chúa. Rằng, Thiên Chúa là Đức Chúa của mọi cuộc sống. Của mọi sinh vật, trong cõi đời. Người thiếu niên Giê-su, một khi thuộc về Thiên Chúa, lẽ đáng cũng phải theo nghi tiết mang tiền vàng, dâng Chúa Cha, nơi Đền thánh.

            Và lần này, thiếu niên Giê-su lên Đền, lại được gặp các đấng thánh như cụ Simêôn và Anna đón tiếp vồn vã, thân mật. Và cụ ông Simêôn, tràn đầy Thánh Thần Chúa, giữ lời hứa ban xưa, nên đã nói: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo như lời Ngài hứa, xin để tôi tớ Chúa được ra đi trong an bình. Vì chính mắt con nay được thấy ơn cứu độ Chúa dành sẵn cho muôn dân: Đây chính là nguồn sáng soi dọi cho dân ngoại. Ngài là vinh quang của Ít-ra-en con Dân Ngài." (Lc 2: 29-32)

            Nhưng sự thật, thì tất cả đều đã không là ánh sáng. Bởi, người thiếu niên đây sẽ  “là duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống, hay trỗi dậy. Như thế, có nghĩa: Đức Chúa là cội nguồn của sự sống. Ngài chính là ơn cứu thoát cho muôn dân. Đồng thời, Ngài lại là cớ vấp phạm cho những người tự khiến mình đui mù, bằng những cản ngăn con đường Ngài đưa dẫn mọi người đến sự thật. Đến, tình yêu thương. Như cụ ông Simêôn, từng nói trước.

            Với ngôn sứ Anna cũng thế. Nhìn thiếu niên Giê-su, oai phong dũng mãnh, bà cũng nói về Ngài thay cho hết mọi người lâu nay từng mong chờ ngày Ngài “giải cứu Giê-ru-sa-lem”. Có nhà thần học tu đức nọ, từng nói về cách thức thánh Luca viết sử, như sau: “Thánh sử Luca, qua sắp xếp bố cục trình thuật Kinh Thánh, để nói lên rằng: cả nam lẫn nữ, ta đều có thể đứng thẳng người lên và đến gần bên Thiên Chúa. Là nam hay nữ, ta vẫn ngang đồng hưởng vinh quang và ân sủng của Thiên Chúa. Bởi cả hai, ta đều được phú ban, cùng một ân huệ. Nhận lãnh cùng một trọng trách.”

            Trong bầu khí đầy tràn tình thương yêu và niềm hy vọng, thân phụ và thân mẫu Đức Chúa thời niên thiếu, đã về lại Nadarét với Con của Mẹ. Ở nơi đó, Ngài lớn lên trong khôn ngoan và tràn đầy ân sủng cùng tình thương yêu của Chúa Cha.  Ở nơi Ngài, nền tảng vững bền cho công việc mai sau, được dựng xây. Điều này, chứng tỏ cho ta thấy: trải bao năm tháng, Đức Giê-su đã trưởng thành trong cung lòng đầy tình thương của thân phụ và thân mẫu, dẫu người phàm.

            Và những gì là sự thật về Đức Giê-su, cũng là sự thật cho chúng ta. Nghĩa là, môi trường sống có gia đình yêu thương trân trọng, vẫn là môi trường quan yếu cho cuộc sống. Nhiều người có cảm tưởng, là: nhiều nơi trên thế giới, tại các nước được gọi là “đã phát triển”, đời sống gia đình đang ở vào tình cảnh khốn khó, có vấn đề. Nhưng ngược lại, những ai thường xuyên tiếp cận với giới trẻ hôm nay, đều thấy được tình hình của nhiều người trẻ, vẫn có tương quan tốt, với gia đình.

            Vấn đề là, các bậc cha mẹ nào mong muốn rằng con cái mình biết kính trọng, hiếu thảo, vâng lời mà lại chẳng cần đòi hỏi chúng xử sự cho đúng cách? Trên thực tế, nhiều bậc cha mẹ ngày hôm nay lập ra các tiêu chuẩn gấp đôi, hy vọng rằng con cái mình thực thi được dù chỉ một ít thôi là cũng thấy mãn nguyện. Thế nhưng, thực tế cuộc sống hôm nay, đòi hỏi nhiều nơi cha mẹ biết kềm chế rất nhiều, mới mong tạo gương mẫu cho các con. Kềm chế cãi vã, tranh luận. Kềm chế trong việc bỏ quá nhiều thì giờ để làm ăn thay vì gần gũi với con cái. Đôi khi, còn phải biết hy sinh thì giờ và tiền bạc, cố lắng nghe lập trường và ý kiến của con mình.

            Một số người cha trong gia đình, còn có kinh nghiệm thương đau, như trường hợp một ông bố vẫn muốn giáo dục con trai mình cho nên người. Nhưng hễ ông bước vào phòng để nói chuyện với con, thì con ông lại bỏ đi chỗ khác, để khỏi nghe. Đến độ, bạn bè khuyên ông: hãy tìm cách cảm thông với ước muốn của con mình, hơn là bắt con mình làm theo ý muốn của riêng ông.

Ông bố cứ bảo: “Tôi cảm thông với tính tình của con tôi, lắm đấy chứ. Nhưng vấn đề ở đây, là: phận làm con, là phải biết tôn kính cha mẹ, biết trân trọng những gì chúng tôi làm cho chúng.” Bạn bè đành đề nghị một phương án khác: “Nếu con ông không cởi mở/dễ bảo, thì hãy cứ cho đi là ông chưa cảm thông với con cái và có lẽ chưa bao giờ ông biết cảm thông, và cũng chưa từng muốn thử , và dự định sẽ thử. Nếu thế, hãy tìm cách, một lần nữa, biết cảm thông với chúng.” Nghe điều đó, người cha nọ, đã làm thử. Ông chịu khó lắng nghe con mình, một cách vô điều kiện. Thế rồi, cả hai cha con đã học hỏi lẫn nhau. Học được nhiều bài học, hơn trước.

Cuối cùng thì, cấu trúc gia đình của tín hữu Đức Kitô phải được thiết lập theo ánh sáng Tin Mừng, như một thị kiến của cuộc sống. Thế giới hôm nay, có quá nhiều áp lực từ xã hội. Đôi khi, ta cũng quá đeo bám vào truyền thống cứng ngắc, của người xưa. Có lẽ, cả Hội thánh nói chung, chứ không là từng gia đình riêng lẻ, cũng nên giải quyết vấn đề thông cảm không chỉ giữa các thế hệ thành viên trong gia đình mà thôi; mà là, cho toàn thể xã hội nữa.

Chẳng cần phải tranh cãi, phẩm chất của bất cứ xã hội nào cũng tuỳ thuộc vào chất lượng của cuộc sống gia đình. Xã hội hiện hữu vì gia đình. Gia đình cũng hiện hữu vì và cho xã hội. Trừ phi tương quan của hai phần này liên đới phụ thuộc vào nhau đều được biết đến, còn không thì thị kiến của Vương quốc Nước Trời, sẽ lại trở nên ngang trái, đối nghịch.

 

   

 

Suy niệm Lễ Hiển Linh năm B

 

“Bỗng đêm nay trước cửa, bóng trăng quì”

Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu,
Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền diệu,
Não nề lòng viễn khách giữa cơn mơ.
(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mt 2: 1-2

            Trăng chỉ quì, khi nhà thơ sấp mặt. Sấp mặt, để uốn mình theo dáng liễu dâng lời nguyện. Trăng còn quì, khi Chúa tỏ lộ với người người, ngày Hiển Linh.

            Trình thuật Hiển Linh hôm nay, diễn lại tình Chúa khắp đất trời, miền Israel. Hiển Linh, bên tiếng Hy lạp có nghĩa một “bày tỏ”/”biểu hiện”. Và, Hội thánh nay mừng lễ Chúa Tỏ Hiện chính mình Ngài, đã hàm ngụ ý nghĩa một biểu hiện, như tiếng Hy Lạp. 

            Lần đầu Chúa Hiển hiện là ngày 25 tháng Chạp. Ngày ấy, Chúa hiện hình qua Hài nhi nhỏ bé. Ngài được mọi người coi như trẻ bé không nhà, nghèo hèn và, kém cỏi. Ngồi quanh bên Ngài, là các trẻ nghèo hèn bị bỏ rơi. Là, mục đồng thấp bé của xã hội nghèo túng. Điều này, rất ăn khớp với chủ đề được nói đến trong Tin Mừng thánh Luca.

            Hiển Linh hôm nay, cũng mang dáng dấp một tình huống tương tự. Nhưng ở đây, Hiển Linh là ngày lễ hoàn toàn khác. Khác ở chỗ, lễ hội này lại dành để cho người xa lạ, ở ngoài. Các vị ở ngoài, vẫn đến thần phục một trẻ bé, theo cung cách đối với vị vua quan. Điều này, còn xứng hợp với chủ đề mà thánh Matthêu đưa ra:“Hãy đi, mà tuyển chọn môn đồ mọi dân nước.”

            Tỏ mình lần thứ ba, là dịp Đức Chúa chấp nhận để thánh Gio-an thanh tẩy. Khi ấy, Đức Chúa trưởng thành, Ngài cùng đứng bên sông với những người tỏ ra biết sám hối. Và đó là lúc, có tiếng từ trời cao xác định Ngài là Con Thiên Chúa. “Đây! Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Ngài." (Mt 3: 17) 

            Tỏ mình lần thứ tư, Đức Chúa tỏ rõ nơi Tin Mừng thánh Gio-an. Tỏ hiện này, là Chúa tỏ mình ở tiệc cưới. Ngài tỏ mình, là để mọi người biết về Vương Quốc của tình yêu. Của, sự công chính và an bình. Vương Quốc của Ngài, nay tỏ hiện nơi Đức Giê-su Kitô. “Nước” ở đây, một biểu tượng cho Giao Ước cũ, nay biến thành “rượu”. Đấy, chính là Giao Ước Mới đã ký kết, có dấu ấn đóng trên thập tự, ở Calvari. Đức Mẹ, đại diện cho Hội thánh Chúa, nay được công nhận là Đấng Cầu Bàu, đã dùng uy tín của Mẹ Thiên Chúa để khiến Con của Mẹ, làm theo. Đây, “dấu chỉ” đầu trong 7 dấu ấn, qua đó Chúa biểu hiện rõ căn tính của Ngài, nơi Tin Mừng.        

            Hiển Linh hôm nay, có người hẳn sẽ thắc mắc: về câu truyện các “đạo sĩ” không chắc đã thực sự xảy ra theo đúng sử sách. Hay, chỉ là một truyện như mọi truyện kể, cũng không chừng. Trước nhất, phải công nhận đây chính là một truyện kể. Là trình thuật, gồm các sự kiện thật khó đoán trước. Khó đoán, như việc dự báo thời tiết về đêm, có lúc xuống đến 10 độ. Cũng rất khó, như việc dự đoán mực nước mưa dâng tràn, đến 10 milimét. Truyện kể ở đây, lại là truyện Kinh Sách. Cốt đặt nặng về ý nghĩa. Như khi nghe đọc Phúc Âm, đôi khi ta cũng thắc mắc, hỏi rằng: “Truyện kể ấy, có nghĩa là gì?” “Truyện kể ấy, đem đến cho ta những gì đây?” Bởi lẽ, sự thật vẫn nằm ở ý nghĩa, chứ không ở sự việc có đích thực xảy ra, hay không. 

            Thật ra, trong truyện kể như thế, sự kiện tỏ bày hiện hữu cũng chỉ vu vơ, rất lờ mờ. Không đủ dữ kiện cho báo đài/truyền hình, làm bản tin. Bởi, báo đài/truyền thông bình thường chỉ lưu tâm đến những gì, khả dĩ có thể trả lời câu: Ai vậy? Đó là chuyện gì? Tại sao thế? Ở đâu? Khi nào? Ý nghĩa làm sao? Trong truyện kể tương tự, thật khó trả lời các câu hỏi như thế.

            Về các đạo sĩ, mà người Hy Lạp có thói quen gọi là “magoi” (tức đạo sĩ/thân hào nhân sĩ) là các bè/nhóm hoặc các học giả kinh điển, chuyên lo giải mã chiêm bao, cùng giấc mộng. Ngày hôm nay, ta vẫn gọi các chiêm tinh gia/nhà ảo thuật thuộc tầm cỡ như phái Zoroastri, thời buổi trước. Truyền thống Giáo Hội gọi là Ba Vua (như: 3 vua ở Phương Đông), cũng là do ảnh hưởng từ Thánh Vịnh 72, câu 10: “Cả các vua Ả-rập, Xơ-va, cũng đến tiến dâng lễ vật.” hoặc từ sách Isaya đoạn 49, câu 7 có nói: ”Vua chúa sẽ thấy và đứng lên, chư hầu sẽ thấy và bái lạy”, hoặc câu 10 đoạn 60: “Vua chúa của chúng sẽ góp phần.”

            Thật sự, khó mà biết được con số các vị này gồm bao nhiêu người. Nhưng, truyền thống Giáo Hội vẫn định ra, chỉ có 3 vị. Vì tất cả, có những 3 loại quà được dâng tiến. Và, tên các vị này được đặt theo ý nghĩa của từ ngữ, như: Caspar, đại diện cho dân da màu. Tức: thế giới ở bên ngoài Do Thái, nay đến với Chúa. Như ta vẫn biết, “họ đến “từ cõi trời Đông”. Gia dĩ, có thể từ Ba Tư, miền Đông Xy-ri-a hoặc từ Ả Rập đến. Nghĩa là, những vùng sâu vùng xa. Xa và sâu, nơi chân trời ấy. Thần học gia Aloysius Pieris cho rằng: điều này mang ý nghĩa rất đáng kể với dân Á Châu. Bởi, các “thân hào nhân sĩ” đến từ vùng châu Á, chứ không là chiêm tinh gia địa phương, theo ánh sao lạ, mà tìm đến.

Dõi theo ánh sao, không rõ thời ấy có xảy ra hiện tượng sao chổi nào không? Hoặc, có sự nối kết hành tinh nào, khiến các vị ngạc nhiên, đi tìm kiếm? Dù sao, khó tưởng tượng nổi chuyện “dõi ánh sao” cả trăm dặm, để rồi cuối cùng, thấy sao vẫn lủng lẳng, trên đầu mình. Tìm cho được sự thật, thì cũng là chuyện vô bổ, mất thì giờ. Bởi, sao đây chính là Đức Giê-su. Là, Ánh Sáng soi dẫn muôn dân.

Thành thử, không nên tìm tòi lý lẽ đưa dẫn đến sự kiện cho bằng, hãy chú tâm đến bối cảnh và ý nghĩa nói đến trong Tin Mừng. Theo đó thì Thiên Chúa, bằng vào bản thể Đức Giê-su, là Đấng đến với thế giới nhân trần. Không như, các lãnh tụ tôn giáo, những thượng tế với kinh sư, dù biết chắc Đức Mê-sia hạ sinh cách nào, vẫn không hề bỏ công tìm kiếm. Như Bét-lê-hem, đất miền mộc mạc chỉ cách Giê-ru-sa-lem không bao xa, thế mà Hêrôđê vẫn muốn gặp. Gặp Chúa, cốt để tẩy xoá/trừ khử mối đe doạ thay thế chỗ, của mình. Trong khi đó, khách lạ đường xa, lại cất công ra đi ngàn dặm tìm kiếm “Vua Do Thái”, để triều bái. Dâng phẩm vật.            

Ngoài việc triều bái, các vị này còn dâng tiến những là: vàng, nhũ hương, và mộc thảo đầy thuốc quý. Quà tặng các vị dâng cho Chúa, vẫn là điều được gợi hứng từ lời sấm của tiên tri Isaya, ở bài đọc 1:”Họ mang theo vàng với trầm hương” (Is 60: 6). Với truyền thống Giáo hội, sau này thì: vàng tượng trưng cho Vương quyền của Chúa. Nhũ hương, biểu hiện thiên tính của Ngài. Và, mộc dược là sự thống khổ và nỗi chết Ngài gánh chịu, để cứu rỗi.

Nói chung, Lễ Hiển Linh cho ta biết một điều, là: Chúa không coi ai là khách lạ hoặc người ngoài cả. Trái lại, tất cả đều trở thành con cái  dấu yêu, của Chúa. Dù ngoại hình của ta có khác nhiều, ta vẫn cùng chung một gia đình. Gia đình, có Người Cha Đáng kính, mà ta được phép gọi: “Lạy Cha của chúng con”. Điều này còn có nghĩa: ta là người anh người chị, của nhau. Là gia đình, vẫn không có chỗ cho những kỳ thị về bất cứ thứ gì. Dù, đó có là sắc tộc, chủng loại, tôn giáo, giai cấp, nghề nghiệp... Không có chỗ, cho những khác biệt về vị thế, mức độ.

Hiển Linh hôm nay, dù có mang tính mông lung/mơ hồ của một truyện kể, nhưng thông điệp ấy vẫn rõ mồn một. Rõ như ban ngày. Cảm tạ Chúa. Thông điệp rõ ràng là hôm nay, không có ai là “dân riêng được chọn” cả. Dù, có là người Do Thái. Dù là Kitô-hữu. Công giáo hay dân đứng ở ngoài. Thế nên hãy cứ tìm hiểu về đặc tính gần gũi/cận kề với Đức Chúa. Đó, cũng là lý do để ta tìm cách gần gũi/cận kề, bên nhau. Gần gũi/cận kề, là không đứng ở ngoài làm khách lạ người dưng. Nhưng, tất cả đều được mời gọi. Dù, người được mời có là Mẹ của Đức Chúa. Dù, ta giàu có hay vẫn nghèo hèn. Dù, ta được trọng đãi hoặc vẫn bị bỏ rơi, đơn lẻ. Dù, người được mời có mạnh khoẻ. Hay, vẫn ốm yếu, tật nguyền. Là, thánh nhân hay vẫn chỉ là tội phạm, ta vẫn là con của Đức Chúa.

Chỉ là dân ngoại/khách lạ người dưng khi ta đã lầm lỡ. Hoặc làm cho ai đó trở thành người sống ngoài rìa, ngoài cộng đoàn. Ngoài tình thân. Nghĩa là, ta vẫn chối từ tặng ban đặc sủng thương yêu tôn kính. Từ chối chấp nhận rằng đặc sủng được tặng ban một cách đồng đều cho hết mọi người. Cho cả dân ngoại. Nếu ta vẫn cứ làm cho người ngoài phải ở ngoài rià, tức là: ta đã tiếp tay với nhóm Pharisêu ngạo nghễ, với đám thượng tế rất hợm hĩnh, mù quáng và cố chấp.

Về lại với chính mình, ta hãy tự hỏi: mình thuộc về sao nào? Chúa gọi mình ra sao? Bằng cách nào? Ngài muốn ta tìm đến gặp Ngài nơi ai, để có thể phục vụ và theo chân Ngài? Nơi người vẫn có cỗ cao mâm đầy, ư? Hay nơi kẻ nghèo hèn? Có phải ta vẫn cản ngăn người khác tìm kiếm “ánh sao”, cho chính họ?

Mừng Lễ Hiển Linh hôm nay, dĩ nhiên có những điều ta khó mà đổi thay. Khó mà, quyết định ai sai - ai đúng. Nhưng vẫn không trễ, để ta có thể dõi mắt tìm kiếm “ánh sao” cho đời mình. Tìm kiếm, để dõi bước chân mềm mà đi theo ngay ở đây và bây giờ.

Khi xưa, đạo sĩ đã cất bước ra đi. Ra đi, các vị đi mãi tận đất miền Bét-lê-hem mới gặp Chúa. Chẳng vị nào tiếc công hoặc tiếc của cả.  Ra đi, các vị đã làm gương để ta cũng ra đi với lòng quả cảm và tin yêu dõi bước theo Chúa. Dõi bước không luyến tiếc, hối hận. Dõi bước ra đi, để sẽ không ân hận là mình đã không khởi sự từ hôm nay.

 

Suy Niệm Lễ Chúa Chịu Phép rửa năm B

 

“Vui đời mãi bên nhau, xây mộng ước”

Cám ơn em ... những đêm dài thao thức
Để nghe lòng chan chứa một niềm vui
Vần thơ yêu, ta trao hết về người
Anh sẽ giữ, trang tình thơ yêu dấu ...
(dẫn từ thơ Nguyễn Vạn Thắng)

Mt 3: 3-17

            Thơ văn hôm nay, thi sĩ viết những giòng thơ cảm tạ, để gửi em. Giòng cảm tạ, có những đêm dài từng thao thức. Để, nghe lòng chan chứa một niềm vui. Nghiệm sinh niềm vui, người nhà Đạo cũng có đôi lời trìu mến, để dâng lên với tấm lòng biết ơn và cảm mến. Với, tâm tình ngày Ngài Chúa nhận Thanh tẩy, ở bờ sông. Như được diễn tả ở trình thuật, hôm nay.

            Trình thuật hôm nay, thánh Matthêu cho thấy Chúa hiển hiện nhiều lần để ta nhớ rằng: Ngài vẫn ở với ta, theo cách thức đặc biệt. Lần đầu hạ giáng làm người, Ngài sống cho kẻ lỗi phạm, nghèo hèn, bị bỏ rơi. Hiển hiện lần sau, Ngài mặc khải Hiển Linh để ta thấy: giáng hạ của Ngài không dành riêng cho dân được chọn, mà cho mọi dân nước, sắc tộc. Cả hai hiển hiện, đều thấy có ở Tin Mừng thánh Matthêu và Luca. Hiển hiện lần cuối, được cả bốn Tin Mừng ghi chú. Ở đây, Chúa tỏ bầy cho thấy Ngài hiện diện với mọi người, khi Ngài bắt đầu cuộc đời giảng rao.      

            Giống như thánh Gio-an, có lẽ nhiều người sẽ thắc mắc, rằng: Chúa đâu cần đến phép rửa! Rửa, là rửa những gì? Rửa làm gì, khi Ngài chẳng bao giờ nhuốm tội? Và câu ứng đáp, sẽ là: Ngài làm thế, để kết hợp thâm giao với loài người, mà Ngài là thành viên. Ngài đồng hoá với con người, không theo tư cách phạm nhân, nhưng như một người bạn, cùng bản thể. Kết hợp, là ưu tiên Ngài thực hiện, ngõ hầu gần gũi các phạm nhân nào biết cải hối. Điều này, có lẽ là một khẳng định về đức tính và tăm tiếng Ngài từng có là tính Nhân Hiền.

            Để hiểu rõ việc Chúa hiển hiện bên bờ Gióc-đan cho đúng, điều cần hiểu: đây là việc được Cha công nhận. Đây cũng xác định sứ vụ Cha giao, đã bắt đầu. Và Cha hoàn toàn hỗ trợ sứ vụ cứu độ ấy.

            Thoạt vào lúc Ngài bước ra khỏi giòng sông, Thần Khí Chúa phủ tràn trên Ngài. Và nơi Ngài, đã có trọn vẹn tính Thần Thiêng của Đức Chúa: “Này, Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người." Con Yêu dấu, xuất từ tiếng Hy Lạp “agapetos”, là đối tượng lòng mến của Chúa, tức tình yêu Người xuống tràn. Có thể nói, đây là Một Hiện Xuống, riêng cho Ngài. Là, ý nghĩa của việc Thanh tẩy Đức Chúa, trên sông Gio-đan. Là, những gì ta chỉ thấy bằng con mắt của niềm tin. Và, cũng là ý nghĩa của mọi thanh tẩy cho ta.

            Bài đọc sách Công vụ, thánh Phêrô giải thích cho Conêliô, người dân ngoại tiên khởi được Tông đồ Chúa thanh tẩy: Chúa đã dùng Thánh Thần và quyền năng mà xức dầu tấn phong Người” (Cv 10: 38).

            Trường hợp, nay xức dầu bằng nước, chứ không bằng dầu. Và, xức dầu là để chỉ: Đức Giê-su được phong Vua các vua và Chúa các chúa. Tước hiệu “Kitô” (tiếng Hy Lạp là Christos) là Đấng “đã được xức dầu”. Theo tiếng Do thái, từ ngữ này mang ý nghĩa là: Ngài là Đấng “Mêsia”. Như đã nói, bối cảnh thanh tẩy Đức Chúa còn là nghi thức khởi đầu “sứ vụ tông đồ” dành cho Chúa, khi Ngài bắt đầu cuộc đời giảng rao, ơn cứu độ.

            Bài đọc 1, sấm của tiên tri Isaya vọng lại điều mà thánh sử Matthêu mô tả về hôm Thanh Tẩy Đức Chúa: “Này đây, người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn và quý mến hết lòng, Ta cho Thần Khí Ta ngự trên nó.” (Is 42: 1). Sứ vụ của Chúa, được các tác giả Kinh thánh diễn tả bằng nhiều cách, nhờ đó ta có dịp suy niệm những điều, như sau:    

 

·         Ngài không la hét, thổn thức, hoặc ỉ ôi.

·         Ngài không dẫm đạp bụi sậy bên sông. Cũng chẳng dập tắt lửa thiêng, đang lấp lánh.

·         Ngài đem đến cho mọi người sự công minh chính trực. Và, Ngài không hề bị dẫm đạp cho đến khi công lý được thiết lập, trên trái đất.

·         Ta gọi Con, để thực hiện công việc đại sự, có chính nghĩa.

·         Ta cử Con, như Giao ước trao phó cho mọi người. Như ánh sáng chiếu soi muôn dân nước. Con đến, mở rộng thị kiến cho kẻ mù loà. Giải thoát người bị cầm giữ, nơi lao tù. Con cứu thoát những người sống trong mê muội, giúp họ thoát khỏi ngục tù của tăm tối.

 

Các câu trên, được Chúa ban ngay nơi hội đường ở Nazarét, như sứ vụ của Ngài (Lc 4: 18-20). Suy niệm hôm nay còn là suy tư về ý nghĩa của mọi thanh tẩy cho ta nữa. Hãy thử suy nghĩ, thanh tẩy nơi ta có điều gì liên quan với Thanh tẩy của Đức Chúa, ở Gio-đan không?. Xưa nay, ta đã nghe lời giải thích đơn giản: Thanh tẩy là “cất đi tội tổ tông truyền và biến ta trở thành con cái Chúa”. Nhiều người, nhất là các vị được thanh tẩy khi còn bé, có thể có khuynh hướng coi việc ấy như một nghi tiết, chỉ một lần là xong. Một lần cho tất cả, do cha mẹ áp đặt như lối sống đã định sẵn, con cái không được quyền có ý kiến, dù cả về sau này nữa.

            Có người còn quả quyết rằng: “Kiếp sau có làm người, xin đừng cho tôi làm Công giáo!” nếu nói thế thì sao không thấy ai suy nghĩ kỹ lại là tại sao dám từ bỏ niềm tin nơi Chúa; tức, niềm tin đem lại cho họ ý nghĩa của cuộc sống.

Nếu ta thực sự am hiểu ý nghĩa đầy đủ của Thanh tẩy, chắc chắn phải hiểu rằng việc từ bỏ như thế sẽ không hề xảy ra. Thanh tẩy, không là nghi thức biệt lập, dù mọi Bí tích đều như thế. Thanh tẩy, luôn nằm trong bối cảnh toàn bộ cuộc đời. Dù có là thanh tẩy hồi còn bé hay lúc lớn khôn, điều tiên quyết chính là: ta được tháp nhập chung vào một khối, vào một thân mình và một cộng đoàn của Chúa.

            Lĩnh nhận thanh tẩy, tức là ta đã trở nên cùng thân mình với Chúa. Không có gì áp đặt lên ta mà trái ý muốn ta cả. Vì thế, với người trưởng thành, nay có tiến trình khai tâm dẫn mọi người về với Bí tích Thanh tẩy. Qua tiến trình này, cộng đoàn tình thương sẽ luôn hỗ trợ cho những người mới gia nhập, khi thanh tẩy.

            Chính vì thế, mỗi khi có người lĩnh nhận ơn thanh tẩy ở tuổi trưởng thành, Hội thánh vẫn thực hiện nghi thức này trước mặt cộng đoàn giáo xứ, vào đêm Phục Sinh. “Tội nguyên tổ” không được lấy đi do bàn tay phù thuỷ, hoặc do thầm thì câu thần chú. Nhưng đúng hơn, nhờ có thanh tẩy, hối nhân mới được tháp nhập vào cộng đoàn Đức Kitô. Và khi ấy, mọi ảnh hưởng của tội lỗi từng khuấy nhiễu thế gian, nay bị đẩy lùi. Và, mọi người đều đặt mình trong thị kiến của Chúa. Và từ đó, kinh nghiệm sống trải dàn trong cộng đoàn dựa vào tình thương, công bình và sẻ san.         

            Ơn thanh tẩy, không là và cũng không thể là máy hút khổng lồ, từ xã hội. Vì vậy, Hội thánh sẽ không thanh tẩy cho ai không có kinh nghiệm về cộng đoàn tình thương, của Đức Chúa.

            Từ đó, cũng như Đức Giê-su, ơn thanh tẩy đem đến cho ta những ràng buộc nghiêm túc, để ta san sẻ niềm tin với người đồng Đạo, qua lời nói. Bằng gương lành. Tiến trình này lôi kéo theo nhiều thứ chứ không chỉ mỗi chuyện kêu gọi “S.O.S. giúp tôi với”. Cũng chẳng phải để ta có cuộc sống ít lỗi phạm.

            Khi thanh tẩy, ta được mời sống chứng nhân cho Tin Mừng. Mời, làm muối cho thế gian. Làm ánh sáng thị thành, ở đồi cao. Làm cây nến, toả sáng các vùng còn tăm tối. Nói tóm lại, ta được gọi mời để kết hiệp với người anh/người chị trong cộng đoàn tình thương, ngõ hầu dựng xây Nước Trời. Chính vì không hiểu rõ ý nghĩa ấy, nên nhiều vị vẫn hành xử với nhau như người dưng khách lạ ngay cả vào lúc cử hành Tiệc thánh trong ngày của Chúa.

            Lời sấm trên, áp dụng cho Đức Giê-su, còn cho cả mỗi người chúng ta. Ơn thanh tẩy, không đơn giản chỉ là chi tiết về một sự kiện trong quá khứ, được ghi chép trong sổ bộ lấm đầy bụi, ở nhà thờ. Nhưng, là thực tại sống động thâm sâu và ngày càng phong phú .

            Cử hành Lễ Thanh Tẩy Đức Chúa hôm nay, hãy để Chúa Cha nói với ta như Ngài từng nói về Con: “Này đây, con của Ta. Ta hài lòng con lắm.”

 

Suy Niệm Chúa Nhật Thứ 2 Thường niên Năm B

 

“Cho thêm ý, nguồn hương thêm đầy dẫy.”

Màu như ru, sóng âm thanh xô đẩy .
Bao hương thơm trong lời nguyện chiều nay,
Lên bốc lên và ân huệ dường bay .
Ôi! khí hậu lọc bao nguồn ánh sáng.

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Yn 1: 35-42

            Sóng âm thanh – nguồn hương thơm, như màu ru xô đẩy, nơi lời nguyện. Lời nguyện hôm nay, là nguyện và cầu theo ý Chúa, có lời mời. Ngài mời dân con nhà Đạo mỗi người mỗi cách, như đã ghi giữ trong trình thuật.

            Trình thuật hôm nay, thánh Gio-an ghi giữ lời gọi mời Chúa gửi đến, với mọi người. Chúa gọi mời mọi người làm dân con đồ đệ, nay uỷ thác. Ngài uỷ thác, lối sống thân thương giùm giúp, bằng quà tặng rất trân quý.

            Bài đọc 1, Chúa đã gọi mời người trẻ, tên Samuel, những ba lần. Còn quá trẻ và thiếu kinh nghiệm về gọi mời, nên Samuel cứ ngỡ tiếng Ngài gọi là tiếng từ thày mình là Êlya. Thế nên, Chúa gọi hai lần đầu Samuel đều đi ngủ. Cả hai lần đến với Elya, cứ hỏi han. Mãi lần ba, người thanh niên trẻ Samuel mới dám nghe lời thày mách bảo: “lần sau, hễ có ai gọi thì con nhớ thưa: "Lạy Đức Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe."

            Rồi từ đó, “Samuel đã lớn lên. Và, Đức Chúa ở với ông. Người không để rơi xuống đất một lời nào Người đã phán với ông.” (1S 3: 19) Như thế là, anh vẫn tiếp tục lắng tai nghe rất cẩn trọng. Nghe những gì Đức Chúa nói với ông. Lắng nghe tiếng Người gọi mời. Và đổi lại, ông đã chuyển đến với mọi người, những gì mình đã nghe. Bởi, Lời Chúa không là Lời để ta giữ lại, cho riêng mình. Cũng giống như người tôi tớ lĩnh nhận đồng tiền vàng, rồi đem chôn.

            Và vì thế, mỗi lần Lời Chúa nói, mọi người cần lắng nghe. Lắng nghe, là: để tai ra mà nghe. Là, thông hiểu. Là, chấp nhận, thấm nhập  và đồng hoá thành như của mình vậy. Để rồi, san sẻ với người khác bằng lời lẽ và hành vi. Thành thử, nếu Chúa gọi ta hôm nay, Ngài sẽ nói gì? Ta có sẵn sàng lắng tai để nghe không?

            Trình thuật nay cũng nói về một gọi mời. Gọi mời, là lời gọi đến hai lần. Lời gọi hôm nay, là về hai người đã trở thành đồ đệ của Gio-an Tẩy Giả. Thánh nhân chỉ cho họ thấy Đức Giê-su rồi bảo: “Này, là Chiên Thiên Chúa!”. Thánh Gio-an còn biết rằng: vai trò thủ lĩnh của ông chỉ ngắn hạn và tạm thời thôi. Và, ông tập trung nhấn mạnh đến vai trò chỉ đạo của Đức Chúa. “Chiên Thiên Chúa”, là danh xưng mà thánh Gio-an thánh sử tặng cho Đức Giê-su, ngay chương đầu. Chương này, thánh nhân nối kết Chúa vào với lịch sử cứu độ, dân Do Thái. Và thánh nhân nói: Chúa hy sinh cả cuộc sống vì Ngài thương yêu chúng ta.

            Đồ đệ Chúa, thoạt nghe lời gọi mời, chẳng tỏ bày một ngạc nhiên, nhưng đã bước theo Chúa. Thấy thế, Chúa quay lại hỏi: “Các anh tìm gì thế?” Câu hỏi này, Chúa cũng đang gửi đến mỗi người, ngày hôm nay. Thông thường, ta cứ nghĩ mình là người hỏi Chúa: “Ngài tìm ai thế?”  Không phải vậy. Ở đây, Chúa chỉ muốn hỏi: ta muốn điều gì? Trả lời câu Chúa hỏi, không phải để trả lời Ngài, mà cốt ý làm lợi cho ta. Câu trả lời, sẽ cho ta biết: đâu là ưu tiên số một, ta có thực sự dành cho Chúa, cho mọi người chung quanh không?

            Chúa hỏi là để biết xem ta thực sự muốn cho cuộc sống mình ra như thế nào? Muốn Chúa làm gì cho ta? Và đây chính là câu hỏi không dễ gì có câu trả lời ngay tức khắc. Trả lời Ngài, có thể cũng chỉ lớt phớt, thoáng qua. Nhưng câu trả lời sẽ cho thấy ta như thế nào. Và, đây là câu hỏi buộc ta phải phản hồi, theo từng giai đoạn, trong cuộc sống và tuỳ hoàn cảnh.

            Và, dù đồ đệ chưa  trả lời câu hỏi “anh tìm gì?” là thế nào? nhưng đồ đệ Chúa, lại cứ hỏi: Thưa Thầy, Thầy ở đâu?” Hỏi như thế, có nghĩa: “Thưa Thầy, Thầy ở nơi nào để con tìm đến? Chúng con đi đâu mới tìm ra được Thầy? Trong cuộc sống, chúng con làm thế nào để giáp mặt cùng Thầy?” Thật phúc thay, nếu ngày nay mọi người chúng ta cũng có câu trả lời như thế.

            Và câu đáp trả của Chúa, vẫn là: “Hãy đến mà xem.”  Đến mà xem, trước tiên không phải là một hiểu biết về Đức Kitô và biết được nơi Ngài lưu lại. Cũng không là vấn đề truyền thông tin tức. Cũng chẳng phải là chuyện có liên quan đến mọi ý nghĩa thần học, tín lý hoặc tu đức. Cũng chẳng phải là vấn đề phải có chuyên môn về giáo huấn và luật lệ của Hội thánh mà nhóm Pharisêu thuộc mọi thời đại đều rất giỏi chuyện này.

            Hiểu biết Chúa, là vấn đề của kinh nghiệm. Người người đều có thể hiểu và biết Giáo lý mới của Hội thánh, dầy những 700 trang. Và, có khi còn thuộc lòng nhiều đoạn. Nhưng vẫn chưa biết Chúa. Biết Chúa, theo nghĩa của trình thuật hôm nay, là biết đi tìm, gặp gỡ và đáp trả sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài, trong cuộc sống.

            Biết đến Chúa, là dám lao mình tìm hiểu giáo huấn của Ngài. Tìm và hiểu, cả vào khi xem ra mình cứ phải đối đầu với những người khác nghĩ. Là, yêu thương không điều kiện. Là, thứ tha, đưa má kia cho người tát. Là, vác thập giá nặng theo sau Đức Chúa. Là, chịu đựng mọi sỉ vả, chê bai và hành hình. Hãy đến mà xem, chính là theo chân bước vào con đường Chúa đã đi. Không có cách nào khác.

            Hai đồ đệ được nói đến trong trình thuật, đều đã chấp nhận lời gọi mời. Các ngài đã thực sự ra đi và lưu lại nơi Chúa từng dừng chân vào cuối ngày. Và, kết quả của quyết tâm lưu lại với Chúa, sẽ ra sao? Một trong hai đồ đệ ấy, là thánh Anrê, không chỉ quyết tâm theo Chúa mà thôi, nhưng còn là người rao giảng Tin Mừng, không xa Chúa. Chính thánh nhân là người đã đến kể với anh em mình : “Chúng tôi đã gặp Đấng Mêsia!”  Cũng từ đó, Simôn đã trở thành Phêrô, một đồ đệ rất gần gũi. Một lĩnh tụ của cộng đoàn mới.

            Cũng nên nhớ, thánh Phêrô, dù đảm trách vai trò quan trọng trong tương lai, lúc đầu vẫn không là người được Chúa đích danh, trực tiếp gọi mời. Mà, qua người em của thánh nhân. Và, chuyện như thế vẫn xảy đến rất nhiều lần. Hôm nay cũng giống thế, mọi người chúng ta, kể cả các thánh, đều do người khác, những người yếu kém hơn mình, dẫn đưa đến Chúa. Ngay như ta cũng đều do người nào khác đem đến với Chúa.

            Bởi thế nên, cũng hãy nên hỏi:

            *Chúa đang gọi ta hôm nay, bây giờ để làm gì?

             Và, ta có thực sự để tai mà lắng nghe những điều Ngài muốn nói với tôi, không?

*Có ai đang chờ người như ta để nhờ dẫn dắt, đến cùng Chúa, không?

              Và, ai là người đang đợi chờ lời gọi mời rất vang vọng: “Hãy đến mà xem”?

            Hỏi, tức đã trả lời. Và, câu trả lời của ta, có là câu đáp trả rất tích cực?

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ ba thường niên năm B

 

“Cơn sốt sắng xinh hơn cầu vàng diệp,”
Ngửa tay thôi, ơn trời đà xuống hiệp.
Trăng và trăng cho thấm hết mọi nơi .
Người thế gian, ôi miệng lưỡi đâu rồi ?
Và tán tạ và khong khen nức nở .
(Dẫn nhập từ thơ Hàn Mặc Tử)

 

Mc 1: 21-28

Sốt sắng với ngửa tay, nhà thơ nay lãnh nhận “ơn trời đà xuống hiệp”. Tán tạ và khong khen,

nhà Đạo sẽ nhận lãnh những “trăng và trăng, cho thấm hết mọi nơi”. Trăng hay sao, là tất cả những gì

ta được biết. Biết, uy quyền của Đức Chúa đã tỏ dấu, đến với ta.

Bài đọc 1, hôm nay tràn đầy một lời hứa. Lời Chúa hứa, là như: “Thiên Chúa của anh em, Người sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em. Hãy nghe Người” (ĐNL 18: 15-20). Theo lời hứa, Đức Giê-su đã xuất hiện như người Do Thái sống giữa muôn người, ở Palestin. Là tiên tri, Ngài không báo trước chuyện tương lai, như thày bói. Nhưng, như vị Ngôn Sứ chuyển đạt Lời của Chúa. Chính vì thế, mọi người hãy nghe Ngài. Nghe, như nghe một thông điệp. Từ Đức Chúa.

Thông điệp hôm nay, xuất từ trình thuật thánh Máccô. Trình thuật này, báo hiệu một ngày bận rộn với Chúa. Bận rộn, vì hôm nay ta nhận diện đủ bá quan văn võ, trong cuộc đời. Đìều trước mắt, Ngài bận tham gia việc tế tự với dân chúng. Ngài giảng dạy, chữa lành, xua đuổi lũ ác quỷ. Và, Ngài cũng nguyện cầu ở chỗ riêng tư. Từ đó, có phản ứng bất chợt của đám đông chúng, rất thường dân.

Trình thuật hôm nay, thánh Mác-cô đưa ra ba loại dân chúng Chúa vẫn gặp. Tất cả những người này, đều phản ứng khác nhau. Phản ứng, là đối xử với Chúa, tuỳ hoàn cảnh. Trong ba loại người từng phản ứng, trước nhất là đồ đệ. Sau đó, đến lãnh tụ tôn giáo. Và cuối cùng, là đám dân đen bình thường. Dân bình thường, vẫn là những người luôn bước đi theo chân Chúa. Họ ra đi, mang theo niềm tin và nhận thức xác đáng, về chính Ngài.

Sinh hoạt của Chúa trong ngày đầu, Ngài đã công khai huấn/dẫn dụ mọi người, cả vào ngày Sabát. Ngày ấy, mọi người thấy Chúa gần gũi đám người thành thị vẫn có mặt ở hội đuờng. Vì là người Do Thái chuyên chăm, nên Ngài vẫn tuân thủ mọi đòi hỏi của niềm tin, đặt ra cho người Do Thái. Đó, còn là thái độ của đồ đệ Chúa vẫn có, sau Phục Sinh.

Điều Ngài không làm, là chê trách niềm tin của người dân bình thường. Trách mắng chăng, Ngài chỉ chê trách thái độ bẻ quặt sự thật, sống giả hình và chuyên nhũng lạm với người dân. Điều Ngài xác định, như có ghi ở Tin Mừng thánh Matthêu, không là bãi bỏ niềm tin người Do Thái. Mà là, sống đích thực niềm tin ấy, cho đúng cách (Mt 5: 17).

Hội đường người Do Thái, là nơi chuyên chăm nguyện cầu, và học hỏi Kinh thánh. Tuyệt nhiên, đây không là nơi để hiến tế, có các vị tư tế chủ trì. Đây, vẫn là nơi dân chúng bình thường rủ nhau đến, vào các ngày Sabát, cuối tuần. Ở đây nữa, không thấy xuất hiện các thày giảng hoặc trưởng tế chuyên lo việc Đền thờ. Đến hội đường, là để cầu khẩn và suy gẫm những điều được viết lại trong Kinh thánh. Bởi, nơi đây không là trung tâm của tế hiến phụng thờ, nên không có liên quan gì với nhóm Pharisêu, Luật sĩ hoặc kinh sư.

Tại hội đường, ai cũng được mời lên để diễn giải. Nên, vào ngày Sabát hôm ấy, Đức Giê-su cũng đã được mời lên để Ngài diễn giảng. Chính vì thế, khi Ngài bắt đầu ngỏ lời giải thích, dân chúng đã hiểu ngay: Ngài là nhân vật khác thường. Trong khi cũng đứng bục, nhưng kinh sư/luật sĩ này khác chỉ giải thích ý nghĩa luật lệ Do thái, viết trong sách, mà thôi. Khi Đức Giê-su giảng, Ngài tỏ rõ “quyền uy” tối thượng, có căn cứ. Nghĩa là, Ngài không giải thích luật lệ, hoặc tư tưởng của riêng ai. Nhưng việc giảng dạy Ngài làm, là giảng và dạy những điều liên quan đến chính Ngài. Cũng thế, lối giảng giải của Ngài được thánh Mátthêu viết: “Anh em nghe người xưa nói… còn Tôi, nay Tôi nói”

Ở đây, hôm nay, Chúa không chỉ nói về quyền uy tối thượng của Ngài, thôi. Nhưng, Ngài cũng đã hành động một cách đầy uy quyền. Tức là, ngay trong khi Ngài giảng, đã thấy có người bị ác quỷ hành hạ, hiện diện quanh quất đâu đó. Điều này có nghĩa gì? Muốn hiểu điều này, cũng nên biết rằng: vào thời của Chúa, thế gian tràn vốn tràn đầy thần linh các loại. Tốt có, xấu cũng có. Thần linh có mặt ở khắp nơi. Đôi khi còn tấn công vào những người hiện diện, bằng đủ mọi cách.

Những chuyện về quỷ ám hoặc bị thần linh xấu quấy rầy, không chỉ xảy đến vào thời xưa cũ, thôi. Nhưng, nay thấy nhiều người vẫn tin như thế. Vẫn thấy xảy ra, ở nhiều nơi trên thế giới. Chí ít, ở một số khu vực thuộc vùng Nam Á, như: Mã lai, Nam Dương, Phi Luật tân, vv… Ở các nước tân tiến, cũng thấy nhiều người vẫn tà tà tản bộ qua nghĩa trang. Ở Hồng Kông, Singapore, có người còn chọn ngày tốt xấu, tìm thày địa lý, tính toán phong thuỷ để định hướng nhà, đặt đất, cất mồ mả.

Thời của Chúa, những người ốm đau hoặc có hành vi ‘khác thường’, đều được coi như ‘bị quỷ ám’. Nhiều trường hợp, có người còn cho rằng: những ngưòi bị động kinh, lên cơn giựt, hoặc có vấn đề tâm thần, đều là nạn nhân của mãnh lực thần linh nào đó, từng xâm nhập. Người khác lại nghĩ, thần linh/ma quỷ đã khống chế người như thế. Nhưng vấn đề, là: Chuyện ấy, có thật như thế không?

Thật khó mà đoán biết, Rõ ràng là, ngày nay một số người chỉ đơn giản chẩn đoán y khoa, cũng đều biết. Nhưng có người gặp một số dân chúng số ở nơi nào đó, trên thế giới vẫn nhất quyết rằng, có hình thức nào đó, về trường hợp quỷ ám. Vấn đề ở đây, là: những người như thế đã được Chúa chữa lành, trở về với chính con người toàn bộ của mình. Tức, họ được giải thoát trở về, không còn bị như thế, nữa.

Thời của Chúa, nhiều người thực sự tin là có các quyền lực ma quái, đủ mọi kiểu. Các quyền lực ấy, bắt nguồn từ nỗi hãi sợ rất lớn lao làm cho họ bất lực. Điều Chúa làm, là giải thoát những người này khỏi cơn hãi sợ, mình vẫn có. Và, không phải chính sức mạnh ma quái ác ấy đã làm cho họ hãi sợ nhiều, như nạn nhân. Không phải thực thể khách quan đã giới hạn sự tự do và hiệu năng của chúng ta, nhưng là cách thức ta nhìn sự việc. Chẳng hạn như, nểu ta để con rắn bằng cao su vào giường của ai đó, khiến người có phản ứn. Vậy, cái gì làm người hét lên? Rắn bằng mủ, hay chính nỗi khiếp sợ, của chính họ?

Giáp mặt thần linh quái ác xuất hiện nơi hội đường, Chúa không tỏ dấu sợ sệt, đã quát bảo: “Câm đí! Hãy xuất khỏi người này.”(Mc 1: 25) Nghe như thế, người bị ám đã quăng quật, lên cơn giựt, nhưng thoát nạn. Và điều quan trọng, là: người ấy đã thấy mình tự do. Đã thoát nạn.

Đối với ta, khiếp sợ ở đâu? Sợ thần linh? Hoặc, có điều gì, người nào, nơi nào đã cản ngăn không cho ta làm điều mình muốn? Không để ta trở nên người mình muốn trở thành? Điều quan trọng, là: ta cần định ra khiếp sợ nào đang trấn át. Và, thấy được nó ở trong mình. Từ đó, không còn trách người khác, vì nó. Và, khi nhận ra nó đang lẩn khuất bên trong, ta xin Chúa giúp, mà trừ khử. Hãy đặt mình dưới sức mạnh quyền uy của Ngài. Để được giải phóng.

Chứng kiến việc Chúa giải phóng, người bàng quan đã tỏ bày ngạc nhiên: “Giáo lý của Ông thật mới mẻ, điều Ông dạy có uy lực. Ông ra lệnh cả với thần ô uế, và chúng phải tuân lệnh! (Mc 1: 26). Chẳng thế mà, tiếng tăm Ngài đồn khắp mọi nơi. Ở cả vùng quê, nữa. Thật đúng, tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa.

Đọc Tin Mừng, ta thấy mức độ giải thoát Chúa làm. Và ở đây, công trình cứu độ của Ngài, đã khởi đầu. Ngài làm thế, Vương Quốc của Chúa đã gần kề. Và có thế, dân chúng mới có kinh nghiệm về quyền uy sức mạnh, do tự Cha.

Đó là sức mạnh quyền uy. Uy quyền, là cụm từ xuất tự tiếng Latinh (Augere), có nghĩa: làm điều gì đó để gia tăng. Nguyên ngữ cụm từ cho thấy: quyền uy đích thực, là khả năng gia tăng giùm giúp, tạo lực cho người nào. Giúp họ phát triển khả năng thăng hoá, chính mình. Giúp họ tăng trưởng như một bản vị. Giúp họ, trở nên hiệu quả hơn trong phát triển. Biết sử dụng đúng đắn quà tặng, Chúa đặt trong ta.

Quyền uy Chúa vận dụng, không phải để nắm đầu kiểm soát con người. Chúa từng nói, Ngài đến không phải để được phục vụ, mà để phục vụ mọi người. Ngài đến, là để giải thoát hết mọi ngưòi. Để rồi, với tự do, người người sẽ gia tăng hiệu năng, phát triển năng lực bên trong mình. Và, cùng sống cuộc sống của Chúa, ở bên trong. Ngài giải thoát mọi người khỏi quyền lực quái ác của hãi sợ, co giựt, vị kỷ. Giải thoát, khỏi mọi giận hờn, oán thán, thù hằn, cùng bạo động khiến họ không thể sống vui tươi.

Buồn thay, nhiều người hôm nay cứ nghĩ nếu mình trung tín với niềm tin nơi Chúa, là gánh nặng khó giải thoát mọi đè nén, giới hạn. Câu hỏi đặt ra cho ta, cho Hội thánh, là: mình đã làm những gì để con dân Chúa đã phải ưu tư suy nghĩ, tệ như thế? Trái với tinh thần Tin Mừng?

 

Suy niệm Chúa nhật thứ Tư thường niên năm B

 

“Gió thổi hôm nay lá rụng nhiều,”

Cây em đan hộ tấm tình yêu

Để về mang ủ lòng anh lạnh,

Cho khoảng đêm trường đỡ quạnh hiu.

                                                          (Dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)

 

Mc 1: 14-20


Nhà thơ ưu tư nhiều, về người em đan áo lạnh. Đan áo cho đêm trường khỏi quạnh hiu. Nhà Đạo ít bận tâm, về đáp ứng lời gọi mời, có từ lâu.


Trình thuật hôm nay, thánh Máccô kể về lời Chúa gọi mời, có thử thách. Về, cả những đáp ứng của muôn dân thiên hạ, đã dửng dưng. Tin Mừng nay được viết, ngay sau khi Đức Chúa chịu thanh tẩy bên bờ sông Gióc-đan. Thanh Tẩy Chúa, có Ngôi Cha hỗ trợ. Có cả, Thần Linh Chúa ở cùng với Đức Giê-su.

Thánh Gio-an Tẩy Giả đã bị bọn xấu bắt giữ, nên thánh nhân đã “trao ban - phó nộp” vào lúc Đức Giê-su đi đến gặp ông. Đúng theo ngôn từ ta sử dụng trong thánh lễ, lúc vị chủ tế dâng Mình Thánh: “Này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con.” Trao ban – phó nộp, mang ý nghĩa Chúa khởi đầu cuộc đời công khai rao giảng, cho người đời.


Cuộc đời Ngài, tóm gọn vào hai giòng chữ, rất rõ ràng: “Thời buổi đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1: 15) Quả thật, toàn bộ tín thư Tin Mừng tóm gọn ở hai mệnh đề này. Đó, chính là mục tiêu Chúa đến với nhân trần. Và, ta đáp ứng việc ấy ra sao.

Thời buổi đã mãn, là Đấng Mêsia, Vua Cứu Độ, nay đã đến. Cũng thế, Vương Quốc Nước Trời, như Triều đại/ngai vàng của Chúa nay gần kề. “Vương quốc” Ngài, không là nơi chốn địa dư không gian, mà là mạng tương quan. Và, ai tuỳ thuộc “mạng”, là người chấp nhận thị kiến sống do Đức Giê-su ban bố, cho mọi người. Tức, cuộc sống của những ai đặt căn bản trên thị kiến ấy. Chẳng cần biết người ấy là ai; họ ở đâu. Mạng tương quan, đang hiện hữu ở đây. Lúc này. Vương quốc của Ngài rộng hơn Hội thánh vẫn được gọi là bảng hiệu chỉ rõ Vương Quốc Đức Chúa, hiện diện ở gian trần.

Làm cách nào vào được Vương quốc ấy? “Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng”. Ở bài đọc 1, tiên tri Giôna rao giảng về việc sám hối, chuyển đến dân chúng chốn thị thành ở Ninivê. Trái hẳn điều ông kỳ vọng, dân ngoại ở đây “đã biết tin vào Đức Chúa” và “họ đã bỏ đường gian ác mà trở về”. Ở đây, cụm từ “sám hối” mang ý nghĩa còn mạnh hơn cả việc hối hận những lỗi phạm thời đã qua. Nó đòi hỏi một chuyển đổi tận thâm căn (người Hy Lạp gọi là Metanoia). Thay đổi có định hướng. Đổi thay mọi ưu tiên trong đời mình. Thay, là thay cái cũ, để đi tới cái mới.


Điều thay đổi, là tin vào Tin Mừng. Là, không chỉ chấp nhận rằng: những điều Chúa dạy bảo hoặc Giáo hội nhủ khuyên, đều đúng thật, thôi. TIN VÀO, còn đòi phải có quyết tâm, rất trọn vẹn. Quyết, rũ bỏ nhiều điều của chính mình (như hai người thề hứa lúc kết hôn: quyết ở với nhau cả khi hạnh phúc cùng lúc gian nan. 

 

Phần hai của trình thuật, trưng dẫn đáp ứng đầu tiên với lời mời và gọi. Có 4 vị chài lưới, đã được bảo: “Hãy theo Tôi, Tôi sẽ làm cho các anh thành kẻ lưới người như lưới cá.” Ngay lúc ấy, Phêrô, Anrê bỏ chài bỏ lưới (tức bỏ cuộc sống cũ xưa) lập tức đi theo Ngài. Cũng thế, bỏ cha đẻ của mình ở lại, hai anh em nhà Zêbêđê là: Gioan và Gia-cô-bê đã ra đi, theo chân Chúa.


Theo chân Chúa, là trọn vẹn đặt tin tưởng và trao ban chính con người mình, cho Chúa. Thật ra, các vị thuộc lớp dân chài này, chỉ nghe theo tiếng mời gọi, chứ đâu biết mình sẽ đi đâu. Cũng chẳng biết tương lai của mình, sẽ ra sao. Đấy, chính là sự tin tưởng lớn lao vào Con Người, đến từ mây xanh. Lại, đã đi vào cuộc đời mình. Đã đổi thay chính mình, để mình bỏ lại đằng sau tất cả sự an toàn, bỏ tất cả. Thật sự, thì quý vị ấy cũng đã ngang qua nhiều kinh nghiệm, vui cũng có. Khổ, cũng có.


“Các anh sẽ thành những kẻ lưới người” là tiếp tục hành động cao cả, mà Thầy đem đến cho mọi người. Cao cả, là đường lối mới để sống. Sống chân thật. Sống trong tin yêu, tự do và công chính. Và, các ngài đã tạo cho mình nhiều kinh nghiệm thăng hoa mọi ước ao, mình vẫn có.


Lời gọi mời Chúa đưa ra, vẫn tiếp tục được gửi đến với mỗi người, trong chúng ta. Ta có sẵn sàng đáp trả? Có bước theo chân Ngài hay không, đó chính là vấn đề. Và, vấn đề còn đó, là hỏi rằng mạng nào đang bủa rộng/giam giữ chúng ta? Lưới nào, hạn chế tự do có quyết tâm, của chính ta? Tương quan nào đang làm cản trở đường ta đang đi? Lo âu nào khiến ta khắc khoải? Tham vọng? Vị kỷ?

Bài đọc 2, thánh Phao-lô hôm nay nhắn nhủ giáo đoàn Corinthô hãy sống hoàn toàn tự do, và rũ bỏ. Rũ bỏ, là bởi những gì ta sở hữu, dù là vật chất hay của riêng ta dính bén, đều không mang tính trường cửu. Vẫn có thể, chúng biến mất trong nháy mắt. Chẳng báo trước. Cuộc sống dù đẹp mấy đi nữa cũng chẳng tồn tại lâu dài. Trừ phi, đó là giá trị căn bản của sự thật. Của tình yêu đích thực. Của tự do. Và, công lý. Giá trị chăng, chẳng phải do cái mình có. Mà là, bản chất của chính mình.

Bởi thế nên, hôm nay ta hãy cầu và mong sao mình nghe được lời gọi mời, rất rõ. Mong và cầu, để mình có sự tự do, mà theo Ngài. Tự do, để nghe theo tiếng gọi mời, âu yếm ấy. Nghe, để lúc nào cũng sẵn sàng ra đi. Đi đến bất cứ nơi nào Chúa mời mình, đặt chân đến.


Suy niệm Chúa thứ 5 thường niên năm B

 

“Đường em về, mong tuyết phủ khắp nơi”

Và giông tố, xin đừng rời em nhé
Hạnh phúc tuyệt vời giờ em hiển lộ
Sợi xích vàng khóa tim chặt với nhau
Đừng tách ra sẽ mang đến thương đau!

(Dẫn nhập từ thơ Tân Văn)

Mc 1: 29-39

            Tuyết phủ khắp, con đường em về. Có phải là, nhà thơ nay muốn giữ chân người tình? Bằng sợi xích vàng, khoá chặt tim nhau?. Phải chăng đây, là trạng huống của nhà Đạo? Tâm trạng này, được diễn tả nơi trình thuật thánh Máccô. Có nối kết với sách Gióp, trong Cựu Ước. 

            Sách Gióp, nay có giòng chảy kể về sự mong mỏi đợi chờ: “Tôi thừa hưởng, những tháng ngày tuyệt vọng. Ngả lưng nằm, tôi thầm nhủ: ‘Khi nào trời sáng, đây?’ Vừa thức giấc, tôi đã lại hỏi: ‘Khi nào trời lại tối?” (Jb 7: 4) Dù sách Gióp được viết từ hơn 2000 năm trước, nhưng tâm tình trên vẫn còn mới mẻ đến hôm nay.

            Tâm tình nói ở đây, là sự bận rộn trong cuộc sống. Cuộc sống, có những công việc cật lực. Sống, để kiếm kế sinh nhai, như lời ông Giób nói: “Một ngày đời tôi, thấm thoát hơn thoi đưa, và tàn lụi không hy vọng.” (Jb 7: 6). Thật ra, cuộc đời con người, xưa cũng như nay, đâu chỉ là như thế. Xưa và nay, con người vẫn sống trong tâm thức chuẩn bị cho tương lai, ngày một sáng. Nhưng sao mãi ngày ấy không thấy đến. Có những người người vẫn lam lũ tạo cuộc sống. Nhưng, chưa vững bụng để vui hưởng kết quả lao động. Chỉ vững bụng, khi ta  biết sống tháng ngày của hiện tại, rất đơn giản.

            Trình thuật hôm nay, thánh Máccô đưa ra một ảnh hình, thật rất khác. Ảnh hình Đức Kitô đang làm việc, đầy ý nghĩa. Năng lượng Ngài sử dụng, là để chữa lành và tạo hạnh phúc cho mọi người. Và, khác biệt ở đây, chính là điều: Chúa đến để phục vụ. Để cho đi. Và để san sẻ. Ngài không tuyệt vọng  hoặc ta thán như ông Gióp:“Cuộc sống con người nơi dương thế, chẳng là thời khổ dịch sao?” (Jb 7: 1).

            Cuộc sống nơi dương thế, thật ra có mệt nhọc, luỵ khổ; nhưng cứ thử sống một ngày không có sinh hoạt vây quanh/nhộn nhịp cùng xã hội, chắc cũng nản? Cứ thử sinh hoạt tách rời khỏi xã hội, khỏi chòm xóm láng giềng, rồi sẽ thấy. Sống trên đời và với đời, là biết sống san sẻ những gì mình, như Chúa từng làm. Sống làm sao, để trở nên một người sống vì mọi người và mỗi người. Sống như thế, là sống mà cho đi. Sống, đem lại giá trị và ý nghĩa của cuộc sống. Và, giả như việc ta làm không mang dáng dấp của một đóng góp vào của chung, có lẽ cũng nên thay đổi lối sống là vừa.

            Sống, như Đức Giê-su từng sống, là biết san sẻ với người khác. Biết làm mọi thứ, giống như Ngài. Ở chốn thị thành nơi ta sống, đã có đủ mọi thứ mà vào thời của Chúa, Ngài chẳng có. Cũng thế, Chúa phải là người giàu lắm mới đi đây đi đó, khắp mọi vùng. Ngài lại còn lo cho mọi người được ấm no, đầy đủ. Nhưng, nếu sống thời hôm nay, Ngài đâu lái những Mercedes, BMW bóng láng. Và, cũng chẳng có điện thoại di động, cầm đi khắp phố phường. Nhưng Ngài là Đấng làm cho mọi người nên giàu có, phong phú. Và, Ngài lo lắng cho mọi người có đủ thực phẩm để độ thân. Có mái ấm che  đầu như mọi người.

            Tin Mừng hôm nay, đem đến cho ta một bài học, là: hãy sống cho ra sống. Sống, giống những người được Chúa chữa lành. Và phục vụ. Đầu trình thuật, thánh Máccô mô tả Chúa chữa lành bà mẹ vợ ông Simôn, đang cơn sốt. Khi khỏi bệnh, cụ bà không ngồi nghỉ nghơi, mà dậy “phục vụ các ngài”. Được lành bệnh, là được tháp nhập đi vào cùng sống với cộng đoàn. Cùng san sẻ công việc dựng xây cộng đoàn, qua phục vụ. Và, bài học hôm nay muốn nói: phục vụ là tình thương yêu đang hoạt động.

Bài đọc 2, thánh Phao-lô cũng san sẻ một kinh nghiệm, để tự hào. Thánh nhân nói: “đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr (: 16) Và, thánh nhân còn tự hào về chính mình: “tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người” (1Cr 9: 19). Và, thánh nhân cũng vang vọng Lời của Chúa, khi Ngài nói: “Ta đến không phải được phục vụ, mà là phục vụ người khác.”

Phục vụ, vì tình thương. Phục vụ, là hạnh phúc. Phục vụ, để san sẻ tình thương, lẫn hạnh phúc. Như Lm Tony de Mello từng biểu lộ, một khi đã phục vụ, ta sẽ thành công trong tác tạo những gì mình cần có. Cần, để tạo dựng nỗi niềm hạnh phúc ở đây trong tay mình. Bởi lẽ, hạnh phúc và sự tràn đầy không ở bất cứ nơi nào khác, nhưng ngay tại đây và bây giờ.

Tuy nhiên, phục vụ không có nghĩa vô chừng mực. Đức Giê-su cũng thế. Ngài không là người tham công tiếc việc, vượt nhu cầu. Để rồi, cuối cùng cuộc đời, Ngài lại phải lên núi đồi, mà hồi hưu. Không phải thế. Ngài lên chốn hoang vu, không để lẩn tránh áp lực của cuộc sống, nhưng tìm nơi vắng vẻ để tìm đến Cha, để nguyện cầu. Tìm Cha, để tạo thêm công lực. Để được thêm ân huệ, rồi tiếp tục phục vụ cho tốt hơn. Bởi lẽ, có đi xa Ngài cũng không tài nào tránh khỏi các khuôn mặt đang kiếm tìm Ngài, nhờ chữa lành. Ngài không là người phục vụ bất đắc dĩ. Nhưng rất công tâm và tự  nguyện.

Gặp môn đệ, Ngài bác bỏ đề nghị của các thánh yêu cầu trở về quê quán cũ. Ngài không tìm đến chốn thị thành nhiều người biết. Lắm người hâm mộ. Ngài không màng trở thành trung tâm thu hút mọi người. Cũng chẳng muốn đạt tiếng tăm, thành quả. Nhưng, Ngài chỉ đến nơi nào, dân chúng thực sự có nhu cầu. Và cứ thế, Ngài đi khắp nơi chỉ để phục vụ, hết mọi người. Những ai được Ngài phục vụ, rồi cũng sẽ học được bài học ấy, mà phục vụ người khác.

Sống phục vụ, là sống có ý nghĩa. Sống phục vụ, là có giờ để nguyện cầu, suy tư, và đến gần với Chúa. Trong cuộc sống như thế, mới có giờ để san sẻ với người khác bằng lời nói và hành động. Sống như thế, mới bỏ giờ ra mà dựng xây, chữa lành và hoà giải.

Thực tế, không ai là không biết học hỏi cách sống đích thực, như thế. Sống đích thực, là sống như ông Gióp hay như Đức Giê-su? Và, câu hỏi đặt ra cho mọi ngưòi, vẫn là: ta có giống như ông Gióp không? Có giống ông ta, khi cuộc sống của mình trở nên ngán ngẫm, trì trệ, sống như cái máy…? Sống đích thực, phải là sống giống như Đức Giê-su. Sống có ý nghĩa. Có định hướng. Sống để rồi, sẽ cảm thấy hạnh phúc tràn đầy khi gia nhập làm thành viên cộng đoàn. Quyết tập trung tạo cho cuộc sống nên tốt đẹp. Ở đây. Bây giờ.     

 

           

Suy niệm Chúa nhật thứ 6 thường niên năm B

 

Một hồn đau, rã lần theo hương khói”

một bài thơ, cháy tan trong nắng rọi

một lời run, thoi thóp giữa không trung,

cả niềm yêu, ý thơ cả một vùng,

hoá thành vũng máu đào, trong ác lặn.

Đấy, là tất cả người anh tiêu tán.”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mc 1: 40-45

               “Tất cả người anh tiêu tán”, chính là tâm trạng của những người phung. Người phung hủi trong Tin Mừng, còn tiêu tán thêm nhiều thứ. Tiêu phần hồn. Tán thân xác. Tán cả không gian, lẫn xã hội mình đang sống. Tiêu tán cuộc đời, có cam chịu như Tin Mừng ghi lại, bấy lâu nay.

               Tin Mừng thánh Máccô hôm nay, ghi lại tình trạng rất đáng thương của người anh/người chị mang thân phận hẩm hiu, với bệnh phung. Vào thời Chúa, chẳng ai biết đến nguyên nhân lẫn nguồn gốc của căn bệnh. Chỉ biết rằng, bệnh căn vừa ghê tởm, vừa lây lan. Dễ, phá tán cuộc đời. Dễ, trở nên thân tàn ma dại. Tàn, một sự nghiệp. Dại, cả cuộc sống. Cuốc sống nhà Đạo, rất đáng lo.

               Bài đọc 1, sách Lêvi đưa ra một chẩn đoán mà người thời nay nghe qua, đã thấy lạ: “Khi trên da thịt người nào phát ra ung nhọt, lác hoặc đốm, là nó trở thành vết thương phung hủi.” (Lv 13: 2)  Chẩn đoán như thế, rõ ràng còn thô sơ. Tuỳ tiện. Nhưng, điều đó chứng tỏ: người thời xưa đã rất sợ bệnh phung. Và, sách Lêvi chỉ cách giúp mọi người sống an lành, hơn xót thương. Thật đáng thương, cho nạn nhân nào bị chẩn đoán sai, dễ bị kỳ thị.

               Chẳng cần biết, người trong cuộc có mắc bệnh này không, án quyết sau đây rất đáng sợ: “Người bệnh phung phải mặc áo rách, xoã tóc, che râu và kêu lên: “ô uế! Ô uế! Bao lâu còn bị bệnh, người ô uế, phải ở riêng, bên ngoài trại.” (Lv 13: 45) Đây, chính là phán quyết đáng hãi sợ: phán quyết buộc người bệnh sống tha hương, ngay nơi mình ở. Phải xa gia đình, xa quê và xa cả Đạo Chúa.

               Tin Mừng hôm nay, là cảnh trí ban đầu kể về ngày Sabát kéo dài trong cuộc đời công khai của Đức Giê-su. Cảnh ban đầu, kể việc Đức Giêsu đến hội đường, chữa lành người tật bệnh và,  tống khứ thần ô uế, khỏi dân con đến nghe Ngài.

               Đây, là lúc người bệnh dám cả gan đến gần Chúa. Anh quá tuyệt vọng. Phủ phục xuống, kêu cầu Ngài cứu chữa như phương cách cuối cùng. Cách anh nói, diễn tả niềm tín thác xuất tự đáy lòng mình: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm tôi nên thanh sạch.” (Mc 13: 40). Thanh sạch, không có nghĩa: Chúa chỉ cứu/chữa những người Ngài muốn chữa, thôi. Nhưng, thực tâm muốn bảo: Đức Giêsu muốn mọi người biết ý của Ngài, khi được cứu.

               Ý của Ngài, là muốn mọi người tin vào sức mạnh/quyền uy của Thiên Chúa. Người phung hôm ấy, từng thấy Chúa cứu/chữa nhiều bệnh nặng. Và, niềm tin của anh đã được ghi lại ở Tin Mừng, là điều cần thiết. Những, ắt và đủ để ta có thể trở nên con người toàn diện, như Ngài muốn.

               Khi viết Tin Mừng, thánh Máccô không theo cùng đường lối như thánh Mátthêu. Nhưng, thánh nhân nhấn mạnh nhiều, đến lòng từ bi Chúa “xót thương” cảnh tình của mọi người. Thành thử, khi sờ chạm da thịt người bệnh phung, Ngài đã làm một việc ý nghĩa, là: tỏ bày lòng thương xót ấy.

               Làm thế, Ngài biến đổi Thân Mình Ngài, đtrở nên cũng ô uế như bệnh nhân. Làm thế, Ngài cởi mở tấm lòng, để cũng bị lây lan như mọi người. Làm thế, Ngài đã tỏ bày cam kết hoà mình hiệp nhất với người bệnh. Cũng một cung cách tương tự thánh Phanxicô Átxi, Mẹ Têrêxa Calcutta, và rất nhiều vị lành thánh, hôm nay. Làm thế, tức Ngài đã chứng tỏ một cam kết có từ đầu với người bệnh và với mọi người rằng: “Tôi muốn! Anh hãy được sạch!” Bằng vào khẳng định của Ngài, người bệnh phung cũng như mọi người, đều được cứu/chữa. Đều trở nên lành lặn, trọn vẹn nguyên dạng.

               Chưa hết. Nếu Chúa chỉ cứu/chữa mỗi người phung thôi, vẫn chưa giải quyết trọn vẹn được vấn đề. Người được cứu/chữa, cần hội nhập vào với cộng đoàn, mình đang sống. Việc này còn quan trọng hơn, khi mọi người chúng ta vào với tiến trình hội nhập trọn vẹn con người mình. Chính vì thế, sách Lêvi lại nhấn mạnh: “Bao lâu còn bệnh, người ô uế phải ở riêng, ngoài trại.” (Lv 13: 45) Chính vì thế, người bệnh phung hôm ấy, được khuyên là hãy quay về với các vị tư tế. Bởi, các vị này sẽ xem xét kỹ lưỡng, mới tuyên bố là anh đích thực đã lành sạch. Đủ tiêu chuẩn gia nhập lại cộng đoàn.

               Cùng một lúc, người phung hôm ấy đã được Chúa cảnh giác, là: anh không nên báo cho bất cứ ai về chuyện này. Khuyên dạy thế, Chúa không muốn mọi người cứ sôi sục, sửng sốt. Rối tung. Chúa chữa lành, vì lợi ích của người bệnh. Nhưng, tuyệt nhiên Ngài không muốn quảng bá rầm rộ hoặc đánh bóng ảnh hình đời công khai của chính Ngài.

               Việc Chúa muốn, là trọn vẹn nguyên dạng hình hài đem đến với cuộc sống, của muôn người. Ngài không muốn chuyện phép lạ gây sửng sốt/rối tung cho người chứng kiến. Việc Ngài làm, không nên hiểu theo nghĩa tách rời Lời Ngài giáo huấn về phương cách, ta nên sống. Hôm nay, nhiều người vẫn mải tìm kiếm đó đây những là “phép lạ/chuyện lạ”, rất giựt gân. Sửng sốt. Nhưng, lại ít quan tâm sống đích thực cung cách dân con Đức Chúa.

               “Ra khỏi đó, người phung bắt đầu lên tiếng cao rao và phao đồn việc ấy” Quả thật, người bệnh phung mọi thời không thể giữ kín hoặc chối từ việc quảng bá kinh nghiệm mình được  tiếp chạm quyền uy của Chúa. Quyền uy Ngài, tạo nên sự trọn vẹn nguyên dạng, cho mọi người. Người bệnh phung, nay đích thực trở thành nhà giảng thuyết. Quyết rao báo/giảng giải Tin Mừng, giống như ta. Như chúng ta, người bệnh được cứu/chữa nay được mời gọi rao giảng/quảng bá niềm tin yêu Đức Chúa. Quảng bá cả việc tìm nơi vắng vẻ để gặp Chúa. Nhưng tìm gì? Và làm gì? Đó là vấn đề, cho mọi người, hôm nay.

               Hỏi, là hỏi mọi người và mỗi người. Những người tự hào biết nhiều, về Chúa. Tự cho mình đang làm mọi việc, vì Chúa. Cho Chúa. Khắp nơi. Hỏi, là để biết tại sao không hăng say như người bệnh phung, hôm trước? Hỏi, là để biết là mình vẫn sống Đạo thật đấy, nhưng quá tập trung vào với chính mình. Không vì mọi người? Hỏi, là để biết là mình có giống như người phung hôm trước không? Có kinh qua khổ đau/sầu buồn như người bệnh? Đã thấy ánh sáng cuối đường hầm, chưa?

               Đức Giêsu vào nơi hoang vắng/ngoài thành, là để tránh đám đông sục sôi/sửng sốt, đang lùng tìm để hâm mộ quyền năng của Ngài. Ngài không quan tâm đến việc có “kẻ mộ điệu”. Mà, chỉ muốn những ai thực sự muốn dõi bước chân mềm giảng rao, như Ngài. Với Ngài, mà thôi. Ngài chỉ sẵn sàng xuất đầu lộ diện, tỏ bày trọn vẹn nguyên dạng Thiên tính của Ngài. Thiên tính, đã thành tựu trên thập giá. (Mc 15:39)

               Xã hội hôm nay, ai là người phung thời đại? Bởi lẽ, ở nhiều nơi trên thế giới, vẫn còn nhiều người đang bị bệnh phung, thực sự. Dù, y khoa hôm nay biết nhiều về nguyên nhân cũng như cách thức phòng ngừa. Chữa trị.

               Tin Mừng hôm nay, là tin rất mừng về những người, vì lý do này khác, đang bị đẩy lui/xa cách cộng đoàn/xã hội ta đang sống. Xa cách và đẩy lùi vì ta vẫn vị kỷ. Nạn nhân của xa cách/đẩy lùi thấy rõ, chính là người mắc chứng HIV/AIDS, dương tính. Dù, bệnh này không lây lan truyền nhiễm, nhưng người bệnh vẫn trở thành nạn nhân của hãi sợ, khiếp đảm. Nạn nhân của chính bạn bè/người thân, người gần nhất. Rất quen biết.

               Tương tự người bệnh phung hôm nay, lại là nạn nhân của tật/bệnh lâu nay bị ghê tởm/đẩy lùi vì kỳ thị, đó là tật/bệnh đồng tính luyến ái. Kỳ thị, vì người bệnh chỉ là nạn nhân đang mắc chứng bệnh quái ác, ngoài ý muốn. Người bệnh này, tuy chưa bị xa cách/đẩy lùi như người phung khi trước. Nhưng, cũng đã bị bạn bè/người thân coi như đám ghẻ lở/cùi phong, cần tránh xa.

               Tương tự như thế, là những người sống ngoài lề xã hội. Những người, vẫn bị coi là “man man sống ngoài thành”. Những người, sống dở chết dở vì ma tuý, vô gia cư, thất nghiệp, đơn chiếc, hay say/ghiền. Cả, người bần cùng/lao động, những ô-shin bất đắc dĩ. Người bị cưỡng bức làm nô lệ tình dục. Nô lệ kinh tế, chính trị…

               Xã hội hôm nay, vẫn có quá nhiều người bệnh phung biến dạng. Là nạn nhân, vì họ vẫn bị chúng ta xa cách/đẩy lùi. Vẫn cứ biện hộ cho hành động dửng dưng của chính mình. Cộng đồng dân Chúa, nay thấy hiếm các vòng tay nhận đón người bệnh phung “thời đại”. Chúa nhân từ, Ngài đang đến với người bệnh. Đủ mọi loại. Lòng nhân từ của Chúa phải được nhân rộng, nối dài. Nhân rộng, để ta có thể đến với người bệnh, đang đau khổ. Nối dài, để ta khuếch trương - mở rộng Nước Trời. Có làm thế, mới là giảng rao Tin Mừng của Chúa. Làm thế, để mọi người sẽ sống vui, ở Nước Trời.                

                                      

             

  Suy niệm Chúa nhật thứ 7 thường niên năm B

 

“Tự nhiên tôi thấy hết đơn côi

Lệ ấm nhiệm mầu thay phép lạ
Làm tim băng giá biết bồi hồi.

(dẫn nhập từ thơ Doãn Mạnh Tiến)

Mc 2: 1-12

            “Hết đơn côi” – “biết bồi hồi”, nhà thơ nay đà thấy lạ. “Lệ ấm” – “tim băng”, nhà Đạo xưa đã biết ơn nhiệm mầu, Chúa vẫn ban. Chúa ban, ơn nhiệm mầu bằng mọi cách. Như cách thức mà thánh Máccô ghi lại ở trình thuật, bấy lâu nay.

            Thánh Máccô hôm nay, ghi rõ trường hợp người dân thành Ca-phác-na-um, đầy tin tưởng. Thành này, là nơi Đức Chúa thường lui tới. Ngài tới, để giáo huấn/dẫn dụ dân con dõi bước chân mềm, một sứ vụ. Bởi, Ngài thường lui tới nơi đây, nên có người còn thắc mắc: nơi Ngài tới, há chẳng phải mái ấm của Simôn Phêrô, thánh nhân sao? Hay là, chốn ấm nhiệm mầu Hội thánh, rất tiên khởi? Dù là gì đi nữa, nhiệm-mầu chốn ấy, không còn chỗ khiêng/đưa người bệnh vào, để Chúa chữa nên đành trổ mái, đưa người bệnh nhận lãnh hồng ân.

            Trổ mái khiêng/đưa người bệnh, điều này cho thấy: người người hôm ấy đà quyết tâm. Quyết tin tưởng, cậy trông vào quyền năng của Ngài. Tất cả, vẫn là điều kiện để Chúa cứu chữa. Dù, là chữa phần xác, hay thần hồn.

            “Này con, tội lỗi của con đã được tha”, đây là phán quyết khiến nhiều người đâm sửng sốt. Sửng sốt, là vị họ cứ tưởng người bệnh, hễ đến với Chúa, là để được chữa lành về phần xác, mà thôi. Chứ đâu, dám cầu mong những muốn ơn tha tội! Thế nhưng, phương cách Chúa nhìn sự việc, không chỉ là thân xác được chữa khỏi, mà cả phần hồn phải được cứu chữa, mới đúng. Cứu và chữa, đích thực có nghĩa: Ngài đem lại sự lành lặn trọn vẹn, cả xác lẫn hồn.

            Vào khi ấy, kinh sư/Biệt phái đã bắt đầu sửng sốt, bèn tự nhủ: “Sao ông này là dám phạm thượng. Bởi lẽ, chỉ mình Chúa mới có quyền tha tội cho con người, thôi.” Sửng sốt, là chuyện dễ xảy đến. Bởi, người thời đó, vẫn cứ tin rằng: chỉ mình Đấng Mêsia mới có quyền năng mới dám làm như thế. Sửng sốt – khó tin, cũng là điều phải. Sửng sốt, vì người người đâu chịu mở mắt, ngõ hầu nhận thức được tính lô-gích của lời bàn. Huống chi, là kết luận. Và, họ không mở mắt trông thấy, vì bản thân họ chẳng muốn thấy điều mà nhà thơ trên gọi: lệ ấm nhiệm mầu, thay phép lạ, thôi.

            “Điều gì dễ hơn: hoặc nói với người liệt: tội của con đã được tha, hay bảo: Hãy đứng dậy, vác lều chõng, mà bước đi?” có nghĩa là: thật khó cho người dân bình thường muốn nói lên lòng tin tưởng, mà mình vẫn có bấy lâu nay. Đằng khác, thật cũng dễ, nếu bảo rằng: tội của con đã được tha, tức là: ai là người biết được những gì đã xảy ra, hoặc chưa biết?

            Bởi thế, Chúa đã minh xác cho lời Ngài muốn nói với những người chỉ tìm cách khích bác, chống trả. Ngài lại thêm một lần nữa, khẳng đình: “Vậy, để các ông biết: ở dưới đất này , Con Người có quyền tha tội…” Liền sau đó, Ngài quay về phía người bệnh, rồi nói: “Hãy đứng dậy, vác lều chõng mà ra đi.” Và lập tức, người bại liệt đã làm như thế, trước mặt bá quan văn võ, rất sững sờ. Và, họ bảo nhau: “Ta chưa hề thấy chuyện này. Bao giờ”

            Hiểu rõ hơn, cũng nên biết thói lề của người Do thái thời bấy giờ. Là, những người vẫn luôn nối kết tội lỗi với tật bệnh. Nhiều người trong số họ, vẫn cứ coi tật bệnh ngặt nghèo như hình phạt đến từ trời cao. Như trừng phạt những người sai phạm, mắc lỗi do chính họ, hoặc do tội phạm của mẹ cha. Yếu tố này, làm ta nhớ đến câu viết của thánh Gio-an: “Rabbi, ai đã phạm tội? Chính anh, hay cha mẹ của anh?” ( Yn 9: 2)

            Ở đây cũng thế, dân thường ở nơi đây, cũng vẫn nghĩ rằng: sở dĩ người bệnh đây bị bại liệt là do hậu quả của án phạt về những lỗi phạm do chính anh, hoặc cha mẹ anh, sai trái. Nếu Chúa gột thoát được bệnh tình của người bại liệt, thì nguyên nhân gây bệnh, cũng sẽ được cất đi. Chính vì thế, khi Chúa bảo: Tội của anh đã được tha”, có nghĩa là Ngài không làm điều gì phạm thượng. Trái lại, điều đó cho thấy Ngài chính là Thiên Chúa, Đấng Mêsia.

            Ngày nay, chúng ta lại cũng bắt đầu nhận ra mấu chốt liên kết tật bệnh với các hành xử của chính mình. Mọi người đều thừa hiểu, rằng: giữa điều ta suy nghĩ với thái độ, hành vi, cảm xúc, vẫn có ảnh hưởng hỗ tương, đan kết vào với nhau. Nhiều bệnh chứng –đa phần về tâm linh, tâm thần- là hậu quả của những căng thẳng thần kinh. Hoặc, của những mất thăng bằng trong cán cân tương quan ta vẫn có với mọi người. Mất thăng bằng trong công ăn việc làm. Thiếu quân bình trong môi sinh.

            Cũng thế, hành vi sai phạm còn là nguồn gốc gây nên những bất ưng trong cuộc sống. Sai phạm/tội lỗi, dù ẩn nấp dưới bất cứ hình thức nào, cũng gây tổn hại đến quan hệ ta vẫn có, với Chúa. Với Tình thương yêu. Với Sự Thật. Còn tổn hại cả những người chung quanh. Và chính mình. Nó gây chao đảo thế quân bình ở trong ta. Trong thần hồn. Trong cảm xúc, lẫn xác thân. Người phạm lỗi dứt khoát không thể nào là người lành lặn. Đó là người tham vọng. Giận hờn với ghét ghen. Từ đó, dẫn đến những ước ao lấn quyền, lấn cả tình thân thương vẫn có với mọi người.

            Cụm từ “Chữa lành”, “Lành lặn”, “Trọn vẹn”, “Lành thánh” vẫn có chung một nguồn gốc. Con người trọn vẹn/lành lặn, là người có tất cả mọi thứ kết hợp hài hoà với Đức Chúa. Với tha nhân. Môi trường. Và, với chính mình.

            Tuy nhiên, không phải mọi tật/bệnh đều nối kết với sai trái/lỗi phạm. Có khiếm khuyết bẩm sinh, không gắn liền với lối hành xử nào của ta hết. Cũng chẳng kéo theo một hình phạt nào hết. Người bại liệt trong trình thuật, là ví dụ cụ thể. Nhưng, như ta rõ: người mẹ lành lặn mà sử dụng rượu bia, ma tuý, vv. . chắc chắn sẽ kéo theo hậu quả nghiêm trọng cho phát triển bào thai, ở cung lòng. Con cái, sẽ gánh chịu hậu quả chỉ vì sơ xuất nhỏ của mẹ cha. Hậu quả ấy, không do lỗi phạm của các em. Không là hình phạt, gửi đến từ đâu đó. Nhưng, ông bà cha mẹ vẫn biết rõ sự thật, hơn hậu duệ.

            Bài đọc 1, có lý khi đưa ra nhận định: “Chớ quan tâm về những việc của ngày trước”. Quả là sai lầm, nếu cứ coi tật/bệnh như hình phạt hoặc hậu quả của lỗi phạm thời xưa. Điều cần lo, là những sai trái hiện ta mắc phải. Các lỗi phạm, mà mình không quyết tâm. Hãy hối cải. Bởi, Đức Chúa không nhìn vào quá khứ, của riêng ai. Ngài quan tâm đến thân phận ta đang gặp, trong hiện tại. Ngài để tâm đến tình thân thương ta đang có với Ngài. Với mọi người.

            Bài đọc 2, thánh Phaolô hối thúc cộng đoàn ở Côrintô nên háo hức nói lời “xin vâng” vô điều kiện với Chúa. Như Đức Giêsu vẫn nói với Cha. Bởi, qua Ngài, mọi lời hứa của Chúa với ta, đều mang tích tích cực, những cái “có”. Ngài không bao giờ giáng phạt, chỉ vì mình có sơ xuất/lỗi phạm. Các khổ đau do phạm lỗi, xuất tự chính lỗi phạm. Từ, các tương quan méo mó với Chúa. Với người anh em. Với chính mình. Thay vào đó, có lẽ nên nói tiếng “Amen” với Tình yêu Chúa đang đổ xuống trên ta.

            Với ánh sáng Tin Mừng chiếu dọi, ta có thể quay hướng nhìn về chính cuộc sống của mình. Nhìn, để thấy xem có sự hài hoà giữa thần hồn, tâm linh và xác thể. Với môi trường chung quanh. Lành thánh, không chỉ có nghĩa sốt sắng những đọc kinh, đạo hạnh là đủ. Mà lành thánh chính là có cuộc sống lành lặn. Là, tình trạng trọn vẹn nguyên dạng gắn liền với cuộc sống. Vào quan hệ thân thương với mọi người.    

                    

           

 

 

 

Suy niệm Chúa Nhật Thứ 1 Mùa Chay năm B:

 

“Em hãy trôi, trên giòng sông khổ hạnh,”
nở nụ cười khinh bạc,
thách thức cuộc nổi trôi.
Em hãy đi! Những lối chớ ngại ngùng,
Bước qua trời, để thấy được tình yêu.”
(dẫn từ thơ Cẩm Vân)

 

Mc 1: 12-15

            Trôi trên giòng sông khổ hạnh? Phải chăng, là lời khuyên nghe rất khó! Cũng khó, như lời vàng hôm trước: hãy vác thập giá mà theo Ta. Khổ hạnh – thập giá, tuy có khó, nhưng vẫn là điều thánh Máccô nay đà ghi chép.

            Trình thuật thánh Máccô, nay nói đến 40 ngày khổ hạnh của Đức Chúa. Ngài không “nở nụ cười khinh bạc, thách thức cuộc nổi trôi” như nhà thơ trên đã viết. Khổ hạnh, là Vượt Qua, tiến bước vào nỗi chết. Chấp nhận chết, Ngài mới sống lại trong vinh hiển. Với phép nhiệm Vượt Qua, Ngài luôn tiến bước. Ngài tiến, để ta suy tư nhận thức, sống khổ hạnh, hoà nhập cùng Chúa.

Sống khổ hạnh, không có nghĩa: tập trung vào chuyện tiêu cực, trong mọi việc. Nhưng, suy tư về cuộc sống rất tích cực. Sống thẩm nhập vào hành trình cứu độ của Chúa. Sống thân thương với mọi người. Với bạn bè. Với người thân. Với cả cộng đoàn Nước Trời, nơi giáo xứ. Sống vui tươi, với người anh/người chị trong môi trường xã hội bên ngoài. Sống hài hoà, theo tình con cái, nhất quyết đánh bật mọi lạm dụng/sai trái, nhất nhất là thành phần của cuộc sống, rất Chay kiêng.

Sống chay kiêng, là tự vấn chính mình, với quyết tâm. Và, khởi động. Sống chay kiêng/khởi động, là đi vào nơi hoang vắng, chốn hồn hoang mà thánh Gioan Tẩy Giả từng cảnh báo: “Thời đã mãn, và triều đại của Chúa đã đến gần. Hãy sám hối. Và, tin vào Tin Mừng”. Sống sám hối và tin vào Tin Mừng, cũng bao gồm cả những vấn nạn thường xuyên, là hỏi lòng rằng:

-mình có quyết tâm tham dự Tiệc Thánh mỗi ngày, hoặc mỗi tuần, chưa?

-có bỏ ra vài giây phút riêng tư tịnh thoát mà nguyện cầu, hằng ngày chưa?

-có để thì giờ để chuyên chăm một mình, đọc thánh Kinh?

-có sinh hoạt tình thân thương với cộng đoàn mình đang sống cùng và sống với?

-Lời Chúa có đánh động niềm riêng của mình, mùa Chay không?

-liệu mình có dám dùng tiền bạc định mua sắm/tiệc tùng, để giúp đỡ người cần hơn không?

“Người ở trong hoang địa những 40 ngày”, không nên tìm nơi đây chứng tích lịch sử khách quan. Cho bằng, hãy tìm hiểu ý nghĩa biểu trưng được thánh Máccô ghi lại. Tìm hiểu, để hiểu rõ các xung đột nội tâm Chúa cũng gặp, trong đời Ngài. Xung đột, là những hiện thực đang diễn tiến trong cuộc đời. Của mỗi người.

Xung đột nội tâm, như thánh Mátthêu và thánh Luca ghi nhận, là những thử thách đầu đời, nay đã đến. Với Chúa. Thử thách Chúa gặp, là những thử và thách qua:

 

-việc dùng phép lạ có nhằm đánh bóng chính Ngài (như: thử thách biến sỏi đá thành cơm)?

-làm điều lạ, Ngài có nhằm thu hút đám đông bước theo Ngài (như: gieo mình từ trên núi)?

-được dân con chúc tụng, nâng lên hàng vua chúa (khi nhân rộng cá/bánh nuôi 5000 người)?

-Ngài toan khước từ khổ đau và sự chết do Cha đặt để (Xin miễn cho Con chén đắng này…”)

 

Có giáp mặt thử thách cách thành công, Đức Giêsu mới nói được lời “Xin Vâng!” với Cha. Ngài xin vâng, cả vào khi chấp nhận hiến tặng cuộc sống của chính Ngài. Có giáp mặt với khổ đau và thử thách, Ngài mới tiến bước bắt đầu cuộc đời công khai, để rao giảng.

Khời đầu đời rao giảng, là khởi sự chấp nhận một bàn giao sứ vụ, từ Gioan Tẩy Giả. Với Chúa, hoàn tất sứ vụ rao giảng nhằm cứu độ muôn dân, Ngài bàn giao cả trọng trách “xin vâng” cho môn đồ và những ai quyết theo chân Ngài, mãi hôm nay.

Hôm nay, dự Tiệc Thánh, là bằng lòng chấp nhận cuộc bàn giao sứ vụ giảng rao, vị chủ tế đã truyền lan, khi tan lễ: “Anh chị em ra đi bình an, trong Đức Chúa”. Đi bình an, là đi đi để mà rao giảng. Đi đi, để làm chứng, bằng cuộc sống, cho lệnh truyền của Chúa, hôm xưa: “Này Mình Ta, đã phó nộp vì các con”. Phó nộp, một cụm từ xuất tự tiếng Latinh “tradetur”, có nghĩa là bàn giao. Là, trao trách nhiệm cho ai đó. Cho mọi người.

Tiệc Thánh Lời Chúa hôm nay, có thông điệp bàn giao Ngài truyền dạy: “Hãy sám hối, và tin vào Tin Mừng”. Sám hối và tin vào Tin Mừng, để khởi đầu một thông điệp đem về sứ vụ mà Chúa giao phó. Xem thế, một kỷ nguyên mới đã khởi đầu. Xem như thế, tương quan mới đã nảy sinh. Tương quan mật thiết, được thành lập giữa Đức Chúa và muôn dân. Ở mọi thời.

Thông điệp được giao phó, nay đã rõ, có lệnh truyền: “thời đã đến”. Thời nào? Đây chính là kairos. Là, giây phút quan trọng nhằm hoàn thành trọng trách, Chúa giao phó. Trọng trách ấy, nay mang ý nghĩa đích thực của “Nước Chúa gần kề” (Mc 1: 15). Nước Chúa, không là Thiên đường, mang tính địa dư. Nơi chốn. Mà chính là, quyền năng của Chúa. Ở đó, người người được gọi mời hãy thiết lập cho chính mình. Trong tình thương có Chúa. Tình thương yêu cứu độ, nay được hiển thị nơi Thân Mình Đức Kitô. Đức Chúa chấp nhận khổ hạnh. Mùa chay kiêng.

Chứng cứ của quyền năng yêu thương được Chúa hiển thị, nay thấy rõ:

-ở Lời dạy của Đức Giêsu. Đấng, đầy quyền uy đích thực, được Cha giao ban.

-ở công cuộc cứu độ/chữa lành người tật bệnh.

-ở việc Chúa giải thoát dân con Ngài khỏi sức mạnh thù địch cứ rình chực huỷ hoại con người

-ở việc đưa dân con trở về cùng một “ràn chiên”, người bị xã hội khước từ. Bỏ rơi.

-ở các hành xử biết thứ tha và giảng hoà phạm nhân. Người biết hối lỗi.

-ở động tác cao đẹp Ngài đã trao ban chính mình Ngài, bằng tình thương nhuộm thắm khổ

đau, cho đến chết. Và sống lại.

 

Nhưng, vấn đề là: làm sao tháp nhập được vào tình thương yêu cao cả ấy, của Ngài?

“Hãy hối cải”, chính là lời gọi mời, Ngài đưa ra. Lời gọi này, không là cảm xúc hối hận và nuối tiếc, chuyện đã qua. Cũng không là dừng đứng, thôi không làm điều xấu xa, nữa. Nhưng, lời gọi Chúa muốn ở đây, là đổi thay tận gốc rễ, trọn vẹn lối sống của mình. Của thế giới. Theo ngôn ngữ của thánh Phaolô, là: “con người mới”. Người mới, là người biết đặt mình trong Đức Kitô. Biết đổi thay.

Nhưng, làm sao để đổi mới? Đổi mới, là “tin vào Tin Mừng”. Tin, không chỉ tưởng rằng Tin Mừng đã hiện thực. Nhưng còn là: tin VÀO Tin Mừng. Cái khác ở đây, rõ ràng là khác biệt giữa ‘tin cái gì’, ‘tin vào điều gì’. Hoặc đúng hơn, la: ‘tin một người’. Người nào đó. Trong bối cảnh được đề cập ở đây, là tin rằng: “Nước đã gần kề”, “tin” ở đây chính là quyết tâm ta đã có. Có, cho lối sống được diễn bày nơi Tin Mừng. Của Chúa. Có san sẻ tầm nhìn, về cuộc sống. Có san sẻ, để rồi đảo ngược những giá trị chỉ mang tính rất chóng qua, thế mà thế giới ngày nay, vẫn ngộ nhận.

Mùa Chay kiêng, là thời gian trong đó người người quyết cải hối. Nhất định đổi thay. Đổi và thay, theo cách thức và chiều hướng đã được toàn thể mọi người thề nguyền, dạo thánh tẩy. Mùa Chay kiêng, còn là thời gian giúp ta tái xác định. Và nhất quyết, làm việc ấy. Cho bằng được.

Bài đọc 1, gợi nhớ người nghe, về quyết tâm mà ông Nô-ê và gia đình, đã thực hiện qua trận hồng thuỷ phá hoại mọi mùa màng, cùng sinh vật. Quyết tâm của ông, nay khơi mào một tương quan mật thiết đã khởi đầu giữa Thiên Chúa và dân Người. Tương quan, nay được thể hiện nơi giao ước mới vừa tái tạo, với tổ phụ Ápram. Với Môsê, lúc sau này. Hồng thuỷ trong truyện của Nô-ê, gợi cho ta nhớ về một quyết tâm được đặt ra, chính vào lúc mình lĩnh nhận ơn thanh tẩy.

Nhờ có thanh tẩy, ta mới được tháp nhập vào Hội thánh. Vào với Thân Mình của Đức Chúa, tức: cộng đoàn dân con, rất Nước Trời. Bằng vào việc ‘sống cùng’ và ‘sống với’ cộng đoàn dân Chúa. Cuộc sống, mà ta học được từ các lệnh truyền của Đức Chúa. Học hỏi phương cách để sống, sẽ giúp ta có quyết tâm, với Ngài. Học hỏi cách sống, có cuộc đời dựa trên sự thật. Sống, có tình thương yêu, giùm giúp. Sẻ san. Sống sẻ san, là: biến công bình và tự do con cái Chúa, thành hiện thực.

Đổi mới cuộc sống, như thế, ta có được hỗ trợ từ cộng đoàn Nước Trời, mà ta chính là thành viên sinh động. Sống như thế, ta sẽ có dịp học hỏi liên tục, nơi mọi người. Học và hỏi, để rồi tăng trưởng cùng với con dân Nước Trời, trong tình liên kết hoà hợp thành nguyên dạng hình hài, trong đó có Chúa hiện diện. Có cả người anh/người chị, rất thân thương. Đó, là ơn cứu độ. Là, ơn giải thoát, bắt đầu từ đây. Nơi này. Mùa Chay kiêng. Mùa củng cố và hỗ trợ cho đổi mới. Hăng say. Lành mạnh.

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 2 Mùa Chay năm B

 

“Dừng lại, trong lòng khói biếc bay”
Dừng lại đây, là nơi hiu quạnh
là nơi, nghe thấy tiếng cỏ cây,
là nơi, quên những mùi trần sự,
là nơi, quên những nỗi chua cay.”
(dẫn nhập thơ Lưu Trọng Lư)

Mc 9: 2-10

Dừng lại đây, nhà thơ nay đã dừng lại, trong khói biếc. Nhà thơ dừng, để nghe tiếng cỏ cây, và quên đi những mùi trần sự, đang khuất tất. Quên, nỗi chua cay của thế trần. Vậy thế, nhà Đạo lâu nay há vẫn dừng? Dừng vui chơi? Dừng hoạt động, vào mùa chay? Dừng và nhớ lại lời, khi xưa Ngài dạy?

Trình thuật Máccô hôm nay, ghi lời Chúa dạy ta hãy dừng. Ngài dừng lại, để tỏ bày thiên tính với đồ đệ, trên núi cao. Tỏ bày thiên tính, Ngài trưng dẫn những tương quan. Tương quan mật thiết, với đồ đệ. Tương quan, soi tỏ mọi người: Ngài là ai. Nhờ tương quan ấy, đồ đệ Chúa nay nhận biết Ngài là: Đấng Cứu độ. Đức Mêsia, mà mọi người từng trông ngóng.

Trình thuật hôm nay còn biểu tỏ: giữa lúc kinh hoàng nhiều suy nghĩ, đồ đệ Chúa như lĩnh nhận gáo nước dội trên đầu. Nước đây, là ân huệ gội tẩy những suy tư không đúng cách. Liền khi ấy, Chúa kể cho nghe những điều xẩy đến với Ngài, Đấng Mêsia-Cứu Độ, rằng:“Con Người sẽ chịu nhiều đau khổ; bị hàng niên trưởng, thượng tế cùng ký lục phế thải, giết đi, và sau ba ngày sẽ sống lại.” (Mc 8: 31)

Suy cho kỹ, đây là cú “sốc” gửi đến với môn đồ đang suy nghĩ, vẫn chưa tin. Chưa tin, là bởi: những gì các ngài vừa nghe biết, đã đi ngược mọi điều lòng dân trông đợi, nơi Đức Mêsia. Trông đợi, Ngài xuất hiện như anh hùng dân tộc giải phóng họ khỏi xiềng xích của địch quân, là xong. Ở đây, Chúa nói về sứ vụ giải thoát dân con bằng khổ đau và nỗi chết, Ngài sẽ chịu. Khác hẳn điều họ suy nghĩ.

Chẳng thế, mà Phêrô thánh nhân đã dám càm ràm đề nghị giải pháp khác. Giải pháp trông chờ, để hưởng thụ. Bởi thế, thánh nhân đã bị quở trách, rất gắt gao: “Xa-tan! Hãy lui lại sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà của loài người." Chính vì thế, thánh nhân bị coi là “đá tảng”, cản trở “Đường” Chúa sẽ đi. Vì thế, Phê-rô cùng các thánh rất “kinh hoàng”, chẳng hiểu Thầy là Mêsia Đấng nào. Thành thử, phần kế tiếp là giải thích Ngài muốn con dân am tường.

Chờ ngày “N” đến, Đức Chúa không chỉ bày tỏ cho con dân biết là Ngài chấp nhận nỗi chết theo cung cách nào. Mà còn, để dân con của Ngài, ai muốn làm đồ đệ Chúa, cứ phải chấp nhận thập giá. Chấp nhận bước đi, suốt đời mình. Hiệp lòng với Đấng Mêsia, không phải hiệp lòng để hưởng ơn mưa móc, có quyền hành. Nhưng, để theo chân Chúa ngõ hầu phục vụ. Phục vụ và tách rời, khỏi mọi thứ quyền uy, của thế trần.

Bối cảnh trình thuật hôm nay, gồm 3 môn đệ gần Chúa nhất: thánh Phêrô và anh em nhà Zêbêđê. Tức, thánh Gioan và Giacôbê. Cả ba môn đệ được cùng Thầy, cất bước ra đi lên “núi thánh”. Núi thánh nào? Ở đâu? Vẫn là đề tài gây nhiều tranh cãi. Đề tài, gây nghi ngờ ở lòng người. Nhưng, với Kinh Sách mặc khải, việc Chúa tỏ bày thiên tính của Ngài, thường xảy đến ở “núi thánh trên cao”. Chốn thánh thiêng, mà phần đông các tôn giáo, vẫn thường làm.

Bỗng đột nhiên, các môn đệ “gần gũi với Thầy’, nay đều mục kích tình huống có Chúa đang thay hình đổi dạng. Tình huống, mà Hội thánh thời tiên khởi gọi là cuộc “biến hình trên núi thánh”. Qua “biến hình”, người của Thầy trở nên “rực rỡ, trắng tinh”. Điều này, biểu trưng cho luồng sáng chói loà, của chính Chúa. Điều này, còn khiến các thánh nhận ra tổ phụ Môsê và tiên tri Ê-li-a, đang đàm đạo. Với Chúa. Với truyền thống Do Thái, tổ phụ Môsê được coi như trọn vẹn Lề Luật và tiên tri Ê-li-a đích thực là đấng bậc tiên tri, thời mới sớm. Tựu trung, hai vị nay biểu trưng cho toàn bộ truyền thống Do Thái, rất mộ Đạo. “Các vị đàm đạo với Đức Giê-su”, hiểu theo ngôn ngữ của thế giới truyền thông hôm nay, có nghĩa là: các thánh đã chứng xác những gì Đức Giêsu đã nói. Đã làm.

“Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay!” kinh nghiệm sống vốn có đã từ lâu, Phêrô thánh nhân quả thực đã hăng say, cùng nhất quyết. Thật ra, Phêrô thánh nhân vẫn chỉ muốn thiết lập có ba di tích lịch sử, mà thôi. Một dành cho Chúa. Một cho tổ phụ Môsê. Và, một cho tiên tri Ê-li-a. Thánh nhân dự định dựng lều cho Chúa và đấng bậc, là để các ngài thoải mái sống ở môi trường đầy cảm hứng. Điều này chẳng có gì sai trái. Tệ hại. Nhưng vấn đề ở đây, cho thấy: đó không là ý của Chúa. Không là, cuộc sống Ngài muốn dành cho Phêrô thánh nhân, cũng như các đồ đệ khác, rất gần gũi.

“Có đám mây bao phủ các ông…” ở đây nói về sự hiện diện của Đức Chúa. Thêm vào đó: từ đám mây có tiếng phán: “Này, là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài.” Thêm vào đó, còn là xác nhận của chính Chúa. Xác nhận, mà đồ đệ cần nghe theo và chấp nhận. Xác nhận, chính điều mà Đức Giêsu đã từng phán. Từng thực hiện bằng hành động. Xác nhận, cả những chuyện được Chúa bày tỏ, như: Ngài bị khước từ. Chấp nhận mọi khổ đau, và nỗi chết. Nhưng Ngài đã sống lại. Và Ngài sống lại thật. Nhất nhất, đều là những lời phán và lệnh truyền. Để, người người nghe và nhận thức.

“Chợt nhìn quanh, còn lại chỉ mình Chúa, Đức Giêsu”, đây chính là thực tại mà các thánh, cũng như ta, vẫn giáp mặt với Chúa. Như mọi ngày. Trong đời.

Bài đọc 1, chú trọng đến thời buổi Thiên Chúa yêu cầu tổ phụ Áp-ram tiến lễ con trai độc nhất của mình, là I-xa-ác. Nghe lệnh truyền, tổ phụ đã thực thi ngay lập tức. Chuyện thực thi, thoạt nghe có vẻ như không hữu lý. Bởi chính Chúa đã hứa cho Áp-ram con đàn cháu đống, rất đông dân. Thực thi đây, cho thấy tổ phụ ta luôn sẵn sàng tin tưởng vào Đức Chúa. Lời hứa của Ngài luôn được trân trọng, dù ta chưa hiểu rõ.

Thực thi đây, cũng tương tự tâm trạng Đức Giêsu sẵn sàng tuân theo ý định của Chúa Cha. Điểm khác biệt, là ở chỗ: I-xa-ác thẫn thờ giáp mặt nỗi chết. Còn Đức Giê-su, Ngài đã sẵn sàng làm đúng ý Cha. Làm đúng ý, Ngài hy sinh cả tính mạng, vì thương yêu hết mọi người. Chính đó, là ý nghĩa câu: “Song đừng cho ý của Con, mà là ý của Cha, được thành sự” (Lc 22: 42). Tâm trạng ấy, nay môn đệ Chúa đã biết. Và đã hiểu. Hiều, rằng sự phi lý của hành vi tế hiến hy sinh, là vì ơn cứu độ.

Hiểu sự phí lý ấy, thánh Phaolô đã viết trong bài đọc 2: “Đến như Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta.”(Rm 8: 31-34). Mãi về sau, cuộc khổ hạnh và nỗi chết của Chúa mới được con dân hiểu rõ như sự toàn thắng, vinh hiển. Như thánh nhân có nói trong thư khác: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.” (Hr 5: 7-9)

Suy cho kỹ, mới hiểu được Lời Chúa nói với các môn đệ trên đường Emmaus (Lc 24: 26). Giống như thế, đồ đệ/con dân của Chúa cũng phải đi cho đến cùng. Tức, cùng chấp nhận khổ đau và nỗi chết, như Thầy mình. Đi đến cùng, trong cuộc sống thực tế của chính mình. Của người khác. Đó cũng là ý nghĩa của câu nói: “Có Chúa bênh đỡ chúng ta, ai mà chống được?” (Rm 8: 32).

Ý nghĩa đó, rất đích thực và dễ hiểu cả vào lúc ta sống trong hạnh phúc, hoặc rất gian nan, khốn khổ. Đau bệnh. Thất bại và chán chường. Mất niềm tin. Tình Chúa yêu thương vẫn còn đó. Còn đó, cả vào lúc Chúa hấp hối trên thập tự. Đó còn là quả quyết của thánh Phao-lô ở đoạn tiếp: “Tôi tin rằng: dù có là sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai, bất cứ sức mạnh nào, trời cao hay vực thẳm hay loài thọ tạo nào khác, không gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta.” (Rm 8: 39)

Đó là bài học, các môn đệ “gần gũi Chúa” đã học được vào ngày “Chúa biến hình”. Và, mãi về sau, khi bị bỏ rơi trong khổ lụy, thất vọng và chán chường, các thánh vẫn học bài học ấy để sống. Các ngài đã chứng minh cho bài học yêu thương và hy sinh, suốt cuộc đời. Và, cuối cuộc đời trong khổ ải. Trong chết chóc. Tủi hờn.

Đó còn là, khích lệ gửi đến cho ta. Gửi, để ta học hỏi quyết tâm giữ vững niềm tin yêu, phó thác. Phó thác, như tổ phụ Áp-ram đã làm. Phó thác, vì vinh quang của Đức Chúa. Phó thác, vì hạnh phúc. Và sự bình an. Cho mình. Cho mọi người.

 

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 3 Mùa Chay năm B

 

“Tình mất rồi! oán hận đã mênh mông.”

Chớ thờ ơ! Ta nổi giận vô cùng,
Nhiều ác mộng hằng len vào giấc ngủ.

(Dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Ga 2: 13-15

            Tình đã mất, nên niềm oán hận đã mênh mông. Cũng dễ hiểu. Nhưng ở đây, nhà thơ lại nổi giận, cộng với ác mộng vô cùng, hằng len lỏi. Nhà Đạo hôm nay, cũng đã thấy Thầy Chí Ái, biết nổi giận. Tuy giận dữ, nhưng Ngài vẫn kiên nhẫn đợi chờ con dân, cố sửa sai.

            Đọc Lời Chúa hôm nay, người người đều thấy Đức Chúa nổi giận không phải vì sinh hoạt buôn bán hoặc đổi chác, do người làm. Mà vì, người Do thái đã ngang nhiên dùng nhà Cha, chốn phụng thờ, để làm chuyện sai trái, không đúng phép.

            “Đem tất cả những thứ này ra khỏi nơi đây, đừng biến Nhà Cha Tôi thành nơi buôn bán”. Có thể là, thời của Chúa, giới thẩm quyền ở Đền thờ từng làm ngơ, không ngó ngàng gì đến sinh hoạt sai trái, trong nhà Chúa. Cũng có thể, họ kiếm nhiều lợi lộc khi thương gia “quen lớn” đã mướn chỗ Đền Thờ, để cạnh tranh. Làm lợi. Điều này giải thích rõ, cơn giận của Đức Chúa.

            Bởi thế, họ cả gan dám vấn nạn: “Ông lấy dấu gì chứng tỏ rằng Ông có quyền xử như thế?”  Nhờ có thế, Đức Giêsu mới mặc khải việc Ngài làm: “Các ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội ba ngày, Tôi sẽ xây dựng lại.” Và Lời Chúa kéo theo một thắc mắc: “Đền Thờ này phải mất 46 năm mới xong, thế mà nội trong ba ngày Ông xây lại được sao?”  Vấn nạn thế, quả có đúng theo nghĩa đen, rất “từng chữ”. Bởi, vào lúc ấy, Đền Thờ vẫn chưa hoàn tất việc dựng xây.

            Trên thực tế, Chúa nói về chốn thánh thiêng khác. Đó là Đền thánh nơi Chúa sống, tức: Thân Mình Ngài. Nhờ vào sự kiện này, dân con trong Đạo lại được nhắc nhở về những gì Hội thánh đang chuẩn bị mừng kính. Kính sự chết. Mừng sự sống lại của Đức Kitô, trong mùa Chay.

            Mừng kính sự chết và sống lại, là trọng tâm của niềm tin, có nơi ta. Trong thư gửi giáo đoàn Cô-rin-tô, thánh Phaolô từng quả quyết: “cái chết của Đức Giêsu đối với người Do Thái là cớ vấp phạm, là sự điên rồ, là rào cản không thể vượt qua được” (1Cr 1: 23). Thật khó cho họ, khi phải chấp nhận Đấng Mêsia của họ phải chịu khổ đau và đi vào nỗi chết ô nhục trong bàn tay không phải của kẻ thù dân tộc mà thôi, mà cả dân Ngài nữa. Cũng thế, môn đồ Ngài cũng thấy khó lòng mà chấp nhận.

            Với dân ngoại, đây là điều vô nghĩa. Với họ, chỉ có nghĩa, nếu đó là quyền lực. Là, sự trấn áp ngự trị. Là, ảnh hưởng trên mọi người. Với những người như thế, ý tưởng về phụng thờ một đấng nào đó bị liệt chung vào danh sách các tội phạm hình sự, như Đức Chúa, quả là điều không thể nào tưởng tượng được. Ngày nay có người, khi suy nghĩ về chuyện này, đều cho đó là việc phi lý, rồ dại.

            Nhưng, với những người lâu nay được mời gọi, và đang đáp ứng với lời gọi mời ấy, dù là Do thái hay dân ngoại, nam hay nữ, nô lệ hoặc tự do, đó là quyền uy và sự khôn ngoan của Đức Chúa. Cái chết của Đức Giêsu, đối với người luôn khách quan nhận xét, đều ra như thất bại nhục nhã. Tin vào những chuyện như thế, được coi là người dốt nát, kém cỏi. Tuy nhiên, ai có cặp mắt đức tin, đều thấy đó là uy lực của tình yêu, trong nỗi chết.

            Và, tình yêu lớn lao con người có thể thực hiện, chính là trao ban sự sống của mình cho người mình yêu. Đức Giêsu làm như thế, không phải để cho bạn bè Ngài thôi, mà cả những người chối bỏ Ngài. Những người đem lại cho Ngài cái chết, nữa. Chính vì thế, Ngài xin cùng Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ. Vì họ không biết việc mình làm”. (Lc 23: 34).

            Bài đọc 2, thánh Phaolô nói rõ: “Sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì hơn sự khôn ngoan của loài người. Và, sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh mẽ hơn loài người.” (1Cr 1: 25) Và hôm nay, sau hơn hai ngàn năm dài, sự khôn ngoan của Đức Giêsu; và thập giá Chúa, đã lướt thắng mọi sự. Điều này được lập lại nhiều lần bằng những hy sinh cho đến chết, của nhiều đáng thánh tử đạo. Những: Oscar Romeo, Martin Luther King, Maximilan Kolbe, Dietrich Bonhoeffer, vv… là những ví dụ cụ thể.   

            Sức mạnh của người phàm, cho đến nay vẫn chưa vượt qua, chưa đạp đổ những gì Đức Kitô đã khởi sự. Các phong trào vô thần đối nghịch Kitô giáo, tuy cố gắng triệt hạ Đạo Chúa, cuối cùng đều thất bại. Hiện nay, chế độ vô thần Cộng sản ở nhiều nước, là một ví dụ cụ thể khác.

            Trên thực tế, ta vẫn tiếp tục chứng tỏ với mọi người, về khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa, qua hành vi mà người đời coi là rồ dại và yếu ớt, khi chấp nhận chết cho sự xấu, vẫn lướt thắng. Ta vẫn xác chứng điều đó, bằng chính sự sống có tình thương yêu vô điều kiện. Có hài lòng xót thương. Có từ bỏ tất cả. Từ bỏ, cả chính mình, như bài đọc 1 vẫn răn dạy, như từ bỏ:

 

-mọi hình thức của bạo lực bằng lời hoặc hành động, chống lại chính mình hoặc người khác, kể cả những lạm dụng cơn say/ghiền, kích thích tố độc hại, và ma tuý đủ loại;

-mọi hình thức của lạm dụng tình dục, với chính mình, hoặc với vợ hoặc chồng/bạn đường, người phối ngẫu hay người dưng khác lạ. Với, giới trẻ, kẻ vô vọng;

-mọi hình thức bất lương, thiếu công bằng hoặc tham nhũng;

-mọi hình thức sai trái, không đúng thực, nhằm triệt hạ tiếng tăm của người khác;

-mọi hình thức tham lam ham hố, cưỡng chiếm của cải/ bản thân người khác, đủ loại.

Tất cả điều nêu trên, đều là sự xấu, cần lướt thắng.  

 

            Đối với thế giới chuyên chú vào việc cần có nhiều hơn/cần hưởng thụ hơn, thì những điều kể trên chỉ là rồ dại và yếu đuối. Nhưng với ta, những người đeo đuổi sự rồ dại của thập giá đem về cuộc sống, thì điều cần quan tâm hơn cả, là: tôn thờ Thiên Chúa của Tình yêu. Chính vì thế, bài đọc 1 nhấn mạnh nhiều đến việc tuân giữ ngày Sabát. Quyết cột chặt tín hữu vào các chi tiết, rất từng chữ.

            Với thế giới hôm nay, Chúa nhật đã trở thành “một ngày như mọi ngày”. Ngày làm ăn. Ngày mua sắm. Với người khác, đó là ngày nằm trên giường, đọc báo lá cải, mải mê mua sắm hoặc ngồi trước màn hình nhỏ ngắm nhìn đủ mọi thứ bạo lực mang hình thức “thể thao”. Là dân con Đức Chúa, thiết tưởng cũng nên nghĩ đến cung cách “rất Kitô”, hầu sử dụng ngày của Chúa, cho phải phép. Như, tổ chức nghi tiết phụng thờ cùng với cộng đoàn, có người anh người chị hiệp thông trong Đức Kitô. Có sinh hoạt giải lao, ăn uống rất thân thương. Rất nhè nhẹ, tình cộng đoàn của Nước Trời.

            Nói tóm lại, dấn bước theo Chúa, Đấng chịu mọi khổ đau thập giá và đã sống lại, còn là việc sử dụng tài cán/năng lực của mình, góp phần dựng xây một xã hội có cuộc sống, giá trị. Đó là khôn ngoan. Là, bình an. Hạnh phúc. Tưởng, cũng nên suy tư về việc này, mùa Chay kiêng, rất thánh.

                

                       
 Suy Niệm Chúa Nhật Thứ 4 Mùa Chay Năm B

 

“Chơi vơi trong khí hậu, chín từng mây,”

“Ánh sáng lại sẽ tan vào hư lãng,

Trời linh thiêng; cao cả gợi nồng say…”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Ga 3: 14-21

            Mùa Chay hôm nay, nhà thơ thấy chơi vơi trên chín từng mây, đầy khí hậu. Trời linh thiêng, ánh sáng tan vào hư lãng, đổi sắc mầu. Tan, là để kêu gọi dân con rày cải hối.

            Trình thuật thánh Gioan hôm nay, kêu gọi mọi người hãy cải hối. Hối cải, trong tuân giữ mọi điều răn. Điều răn hôm nay, Thầy Chí Thánh chú trọng đến tình thương đặc biệt, rất đặc biệt:“Thương yêu Thầy, sẽ được Cha của Thầy yêu mến.” (Ga 3: 21).

            Trình thuật, nay cũng đề cập một lúc hai chủ đề: hăng say cải hối/ yêu mến giữ giới răn. Ở bình diện cao hơn, thánh Gio-an có nói: Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Ngài trở nên nhân-tố cứu độ của Chúa Cha. Ngài cứu độ, không phải duy nhất cho phạm nhân nào đó, từng nên tội. Mà, toàn bộ tình huống đầy lỗi phạm, của thế trần. Chúa nhật hôm nay, còn là Chúa nhật Hồng, nhằm dẫn dắt ta đến gần hơn, vào với ơn cứu độ, rất đích thực.                 

            Trình hôm nay, thánh sử lại đã so sánh Đức Chúa với Môsê. Cả hai đấng, là nhân-tố trong chương trình cứu độ, cho dân Ngài. Cụ thể, là Do Thái dân xưa cũng từng phiền than/oán trách cảnh huống mình hứng chịu. Chính vì thế, Môsê mới giơ cao “rắn đồng trên gậy”, như được kể trong Cựu Ước: “Nếu rắn cắn nhằm ai, người ấy cứ trông lên rắn đồng này, là được sống.” (Ds 21: 9)

            Thánh sử còn thấy nơi đây, cũng một ảnh hình việc Chúa nâng cao chính mình Ngài, như rắn đồng. Với thánh Gio-an, “nâng cao” ở đây, bao gồm việc Ngài tự nâng chính Ngài trên thập giá. Và cả, việc Ngài được tự nhấc mình lên cao với Chúa Cha. Trong quang vinh. Vĩnh hằng. Bằng vào tiến trình cứu độ trọn vẹn, ai tự nâng nhấc/ngước mình lên với Chúa qua tin yêu/giùm giúp, sẽ lĩnh nhận cuộc sống vĩnh cửu, Ngài hứa ban. Và, cuộc sống thân thương Nước Trời như thế, sẽ không bị lấy đi.

            Ở đây, tất cả đều là dấu hiệu chứng tỏ tình yêu của Đức Chúa. Tình yêu Ngài, được thể hiện qua việc Cha hy sinh Người Con của Ngài, để con người hưởng được cuộc sống an vui, vĩnh cửu. Đức Chúa chấp nhận hy sinh, là để cứu/chữa, chứ không phải để phê bình/lên án thế giới loài người. Quả vậy, chẳng người nào tự nhấc mình đặt để nơi vòng tay yêu thương của Đức Chúa, mà lại bị phê bình, lên án. Và, cũng chẳng khi nào là “quá trễ” để ta đặt mình vào động thái tự nâng nhấc, trong niềm tin yêu, của Nước Trời.

            Trái lại, ai khước từ, dù chỉ một niềm tin thôi, cũng sẽ bị lên án ngay khi đó. Việc lên án, không nhằm đeo đuổi hướng nhắm những người đang theo niềm tin nào khác. Đạo khác. Tín ngưỡng khác. Hoặc, cả đến thị kiến khác, về cuộc sống. Việc phê bình/lên án chỉ xảy ra, đối với ai cương quyết chọn bóng tối, hơn là lựa sự sáng. Chọn bóng tối, tức: sống đời tệ bạc, có những hành vi phi luân lý. Như: giận hờn, ghét ghen, thay vì yêu thương. Hận thù/trả đũa, thay vì tha thứ. Hoặc, như: tham lam bạc tiền/vơ vét của cải, thay vì san sẻ. Nhận thật nhiều, cho thì ít. Ít cho, những gì liên quan đến sự sống. Ít cho, những gì mình trân quý.

            Chúa Tình Yêu trọn vẹn, Ngài không phê bình/lên án, bất cứ ai. Người bị kết tội, thật ra, chỉ vì đó là chọn lựa của chính họ. Chọn tha hoá, tách rời khỏi Tình Thương Yêu của Đức Chúa. Và, thánh Gio-an còn viết: “Ai tự mình làm điều xấu xa gian ác, ắt sẽ ghét bỏ ánh sáng”, và sẽ chọn những gì là tối tăm.

Ai sống trung thực, biết tôn trọng phẩm giá con người, ắt không sợ ánh sáng. Chẳng có gì phải giấu diếm. Chẳng có gì phải hổ ngươi, mặc cảm. Người sống trung thực, sẽ là “muối trong đời. Là, thành luỹ ở đồi cao. Là, nến ngọn chiếu sáng, đặt trên đèn. Nhờ có thế, người người thấy được điều tốt lành từ nơi họ. Sẽ cùng họ, tiến về cùng Chúa.              

Tuy thế, cũng có loại hình tối tăm khác, trong đó con người vẫn lặn ngụp. Tối tăm, là những tủi nhục rất tăm tối, trong tình đời. Là sự việc tốt lành mình muốn sẻ san, nhưng chưa dám. Là, làm việc gì vì người, và cho người, vẫn chưa dám. Chưa, vì sợ ngườ ingười lên án. Phê bình. Sợ bị từ chối. Sợ, người đời chế giễu, mỉa mai. Cũng tựa như trường hợp không người nào dám đến ủi an/đỡ đần cô gái trẻ mới vừa phát giác ra mình đã mang thai, mà không chồng. Hoặc, không có cưới hỏi, ở nhà thờ. Và tự thân, cô cũng chẳng dám chuờng mặt cùng chòm xóm. Với thành viên gia đình. Với thành phần của Hội thánh Chúa, nữa.

Tệ hơn nữa, là trường hợp của những người “đồng tính luyến ái”. Bị người đời khinh chê/ghét bỏ. Đành lủi thủi trong tối tăm, tách biệt. Tách, hết mọi người. Biệt, cả với bạn bè, người thân.

Đó, mới chỉ là hai trong số các trường hợp cụ thể, dễ nhận thấy. Ở đây nữa, tác nhân của tối tăm/sự dữ, lại là người ngồi mát ăn bát vàng. Chỉ biết những chê bai. Lên án. Bình phẩm. Chính những người này, cũng đang trong cảnh tranh tối/tranh sáng của những tối tăm/sự dữ. Bởi những thành kiến. Huý kỵ. Và ghét ghen. Thông thường, đây là triệu chứng của những hãi sợ và bất an. Trong nội tâm.

Bài đọc 2, gợi nhớ người đọc về mọi sự tốt lành của ta/ở trong ta. Đó là ân huệ Chúa tặng ban. Quà Chúa ban, chẳng có gì để mình phải vênh váo, và kể công. Tốt lành của ta/ở trong ta, chính là tốt lành/trọn hảo do Ngài toả chiếu. Ngang qua ta, mà thôi.

Nay, ta hãy ngước nhìn về Đức Chúa, Đấng đang nâng cao chính mình Ngài, trên thập tự. Trong vinh quang. Hãy nhìn vào Tình Yêu cao cả Chúa luôn ban. Tình yêu ấy, vẫn sáng rực ở trên đó. Hãy mở lòng mình, với Tình Yêu. Và, để cho Tình Ngài thấm nhập thân mình, hầu đem lại sự sống cho mọi người.

Ánh sáng nơi ta phải sáng rực chiếu sáng mọi người. Chiếu sáng, như Chúa vẫn dặn dò. Ngài dặn kỹ, nơi Bài Giảng về Phúc Thật, ở trên núi. Rực sáng, để người người thấy điều tốt lành, ta đang làm. Có như thế, người người sẽ được đưa dẫn về với Tình Yêu Thương cao cả, của Đức Chúa. Đấng vẫn ban cho ta nhiều ân sủng, mới được thế.

 

Suy niệm Chúa Nhật Thứ 5 Mùa Chay năm B

 

 

“Thế kỷ chúng tôi chót buồn trong mắt”

 Dăm bảy nụ cười không đủ xóa ưu tư
Tay quờ quạng, cầm tay vài tiếng hát
Lúc xòa ra chẳng có một âm thừa

(Dẫn từ thơ Nguyên Sa)

Ga 12: 20-33

            Ưu tư – chót buồn trong mắt, không chỉ là nỗi buồn của thế kỷ. Tay cầm – quờ quạng, có thể là tâm trạng của nhà Đạo, vào mùa chay. Mùa chay hôm nay, có ưu tư thoáng buồn, như tâm trạng của Đức Chúa, nơi trình thuật.  

            Trình thuật thánh Gio-an hôm nay, ghi lại tình tự Chúa tỏ bày cho dân con của Ngài, để “tôn vinh Cha”. Điều mà Chúa trả lời cho người đến tìm Ngài, là: tìm Ngài, không có nghĩa chỉ nên tìm ảnh-hình bên ngoài, để nhớ vóc dáng. Như ông Zakêu, lúc đầu làm. Nhưng, “tìm gặp” Ngài, là dấn bước trọn vẹn vào với suy tư. Vào, để hiểu rõ tại sao Ngài chấp nhận khổ đau. Và, chết đi. Rồi, sống lại.

            Tựa hạt lúa miến, Chúa phải ngang qua tất cả mọi sự. Qua cuộc đời, ngõ hầu đem sự sống đến với Ngài. Với mọi người. Đây là tiến trình “tự bóc trần”, mà người Hy Lạp gọi đó là kenosis, tức: biến đổi. Biến và đổi, như hạt lúa miến. Nhìn bề ngoài, nó như bị hủy hoại. Nhưng nhờ bị huỷ, nó mới to lớn. Để rồi, sẽ làm giàu cho người khác. Nếu ta không coi và cứ chấp nhận điều đó, như cốt lõi của cuộc đời Đức Chúa, thì rõ ràng là ta chẳng thể tìm gặp và thấy được Ngài, cho đúng nghĩa.

            Và, Chúa còn đi xa hơn, khi Ngài nói: chúng ta phải suy tư về mình, như: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất. Còn, ai coi thường mạng sống mình ở đời này, sẽ giữ được sự sống, chốn miên trường.” (Ga 12: 25). Lời như thế, phần đông chúng ta thấy khó mà chấp nhận. Khó là bởi, ai cũng muốn chiếm hữu nhiều tiền, nhiều của. Muốn an toàn, yên ổn. Muốn bao đảm có được tương lai ngời sáng. Trong khi đó, Chúa lại bảo: chỉ khi nào chấp nhận bỏ hết mọi sự, và giữ mỗi tình yêu thương phục vụ người khác, thì khi đó, ta mới hoàn thành phần sâu thẳm, của chính ta.

            Phục vụ người khác, là đến với Chúa. Đến, để ra đi theo cung cách Ngài dạy:“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy. Và, Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng ở đó.” (Ga 12: 26) Dấn bước theo cung cách Chúa hành xử, là đi với Chúa. Và, có Mẹ cùng đi . Mẹ và ta, cùng tiến bước lên đồi ngọn Calvariô. Tiến và bước, đến bất cứ nơi đâu. Đi bất cứ chỗ nào. Đi và đến, chấp nhận mọi điều/mọi thứ xảy ra, với ta.

            Vấn đề thêm nữa, là: ta đã sẵn sàng ở vào tình huống “đi và đến” ấy chưa? Hay vẫn cứ lo sợ mọi sự xấu/ác thần, xảy đến với ta? Đi và đến, có là đòi hỏi lớn, từ Đức Chúa? Với Chúa, chuyện này cũng dễ thôi. Nhưng, với ta? Dù sao, cũng nên nhớ đến thư thánh Phaolô viết cho giáo đoàn Do Thái, có nói rõ: “Đức Giêsu giống hệt như ta trong mọi sự, trừ tội lỗi.”

            Vậy nên, đừng nghi hoặc. Bởi, vào khi Chúa khuyên nhủ ta làm điều gì, vì Chúa cũng mang tính người như ta, nên Ngài cũng sầu buồn, lo ngại. Vì lo, mới thốt thành lời: “Giờ đây, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này?” (Ga 12: 27) Nhưng, điều Chúa muốn bày tỏ là lời cầu Ngài đã thực hiện sau Tiệc Giã Từ: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho đi chén này qua khỏi Con!” (Mt 26: 39)

            Bài đọc 2, ta thấy thánh Phaolô dùng lời lẽ rất xúc động, khi thánh nhân có thư cho giáo đoàn Do Thái: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức giêsu đã lớn tiếng kêu van cùng nước mắt mà dâng lên lời nguyện cầu nài xin Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết.” (Dt 5: 7)

            Mọi sự xảy đến, đều dễ xảy ra với Chúa hơn với ta. Với Chúa, chuyện chỉ xảy đến sau chuỗi ngày dài nguyện cầu, ở Vườn Dầu. Xảy vào lúc, Ngài sầu buồn đổ mồ hôi, cùng rướm máu. Hãi hùng. Hãi đến độ Ngài đã lên tiếng: “Song, không phải như ý Con, mà như ý Cha.” (Mt 26: 39) Và, thánh Phaolô, còn nói rõ hơn: “Dù là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục.” Và từ đó, “Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ cho những ai tùng phục Ngài.” (Dt 5: 9)

            Chính vào lúc Chúa hoàn toàn tuân phục Cha, thì vinh quang của Cha đã khởi sắc, ngang qua Ngài. Rất chói lọi. Và, Ngài kêu lên: “Đã hoàn tất.” Với thánh Gio-an, câu này có nghĩa: khoảnh khắc có sự chết là khoảnh khắc vinh quang, về với Cha. Hạt giống có chết, mới đâm hoa. Kết trái. Đậu quả.

            “Phần Tôi, khi được giương cao khỏi đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi.” (Ga 12: 32) , giương cao ở đây, ý nói: việc Đức Chúa được đưa lên cao, trên khổ giá. Đồng thời, cũng có nghĩa: Ngài được nâng nhấc về với vinh quang của Cha. Bởi thế nên, nếu ta trọn vẹn dâng cao mình cho Đức Chúa theo cung cách tương tự, thì vinh quang Chúa cũng sẽ chờ đợi, đến với ta.

            Và như thế, hôm nay ta có muốn tìm gặp Chúa, cũng không nên theo cung cách hời hợt bề ngoài. Nhưng, hãy học đòi tìm cách thức tư riêng mà nguyện cầu. Cầu, cho ân sủng Người được thấm nhập tận phần sâu thẳm, ở trong ta. Cầu và mong, những gì ta gặp thấy, sẽ trở nên thị kiến cuộc đời. Thị kiến giúp ta sống. Nhờ Chúa nâng cao, để mọi sự trôi qua đi, là vì tình thương yêu Ngài dành hết cho mọi người. Để, gọi mời ta cùng với Ngài đi chung một lối. Đi cùng mọi người.

            Ta cũng hãy nguyện cầu, để có được lòng quả cảm và tín thác. Tín thác như Ngài đối xử với Cha. Tức, cần khám phá ra nhiều thứ. Khám phá, để rồi cuộc sống, niềm hạnh phúc và sự tuân phục giúp ta đi vào hành trình. Ở nơi đó, ta sẽ gặp thấy qui cách khiến mọi việc trôi chảy. Để Chúa hoạt động, nơi ta. Và cho ta.      

 

Suy niệm Chúa Nhật Lễ Lá Năm B

 

“Mình hãy trách đời nhau, nhiều hư hỏng”

Rồi giận hờn, cho kỷ niệm đầu tay
Thu miên man, không thấy lá vàng bay
Anh phải nói: buồn chúng ta màu trắng.

(Dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mc 14: 1/ 15:7

            Nhà thơ, xưa lưu dấu kỷ niệm, nhiều hư hỏng. Kỷ niệm đầu tay hay đầu đời, có lá vàng bay. Có nỗi buồn mầu trắng. Rất miên man. Giận hờn. Nhà Đạo, nay không mang sắc mầu kỷ niệm, một giận hờn. Miên man, nhiều buồn nhớ. Mà nhớ Vượt Qua. Nhớ nỗi chết của Chúa. Ngày sống lại.

            Trình thuật hôm nay, thánh sử ghi về nhiệm tích “Vượt Qua”, Chúa từng trải. Ngài từng trải qua nhiều khổ đau. Có nỗi chết. Sống lại. Có thăng thiên về trời. Và Ngài gửi Thần Khí đến muôn dân. “Vượt qua”, “Cứu độ” Chúa thực hiện, nay đã rõ. Ở trên cao. Chốn vắng. Có thập giá, khổ đau. Rất sầu buồn.

            Ngày buồn, Chúa ra đi. Đi, là về với Giêrusalem thành thánh. Đi, để khởi đầu một kết đoạn cuộc đời Ngài, ở trần thế. Kết đoạn, trong quang vinh, khải hoàn, hiển hách. Ở nơi đó, dân gian chốn thành thánh ra nghênh đón. Ở nơi đó, có niềm hân hoan, khởi sắc. Có, lời chúc tụng rền vang “Hosanna, Con Vua Đavít!” ầm ầm. Khắp chốn. Ở đó, lời tuyên dương “Đấng nhân danh Chúa mà đến”, vang dội mãi hôm nay, nơi Tiệc Thánh. Tại đây. Bây giờ.

            Nhưng phút chốc, cục diện khởi sắc bỗng biến thành cảnh tượng u buồn. Sầu khổ. Có nỗi chết. Tại sao thế? Suy cho cùng, không gì bằng: ta về với bài đọc Lễ Lá, có thư đậm nét, thánh Phaolô ghi: “Anh em hãy có nơi mình, tâm tình ta vẫn có với Đức Ki-tô” (Ph 2: 5) Bởi, “Đức Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, thế mà Ngài vẫn trút bỏ mọi vinh quang, để chấp nhận phận nô lệ” và, “Ngài mặc lấy thân phận nô lệ, hạ mình chịu chết; và là cái chết trên thập tự.” (Ph 2: 6-7).            

            Ý tưởng này, thấy rõ nơi bài đọc 1, sách Isaya. Sách thánh, có đoạn ghi: “Người môn đệ kiệt sức”, không cưỡng nổi sức mạnh của địch quân. “Tôi đưa lưng cho người đánh đòn, giơ má cho người giật râu”. Ở đây nữa, tiên tri Isaya bàn về thái độ “không sử dụng bạo lực để đối kháng bạo lực. Không bạo lực ở đây, không là thái độ đơn thuần, thụ động. Mà là trạng thái bất bạo động. Tức, một động thái được Mahatma Gandhi, Martin Luther King… rất đề cao.

 Bất bạo động, là hành xử Chúa muốn tỏ bày, qua yêu thương. Có yêu thương, Ngài mới chấp nhận nạp mình cho đám người chuyên sử dụng bạo lực. Yêu thương, là cung cách Chúa bày tỏ cho mọi ngưòi. Yêu thương, là đỉnh cao tâm tình Ngài gửi đến, với chúng ta. Gửi đến, để ta cứ thế mà làm để theo chân Chúa. Tuy đề cao, nhưng bất bạo động không còn là động thái của tín hữu Đức Kitô, ngày hôm nay.

            Theo chân Chúa, là sẵn sàng “rỡ bỏ” chính mình. Là, đặt mình trong tâm tình yêu thương, cùng với Ngài. Theo chân Ngài, là giùm giúp mọi người. Vô điều kiện. Theo chân Ngài, là phục vụ bất cứ ai, trong tinh thần tương thân/tương ái. Không ngừng nghỉ.

            Bài thương khó thánh Mác-cô ghi lại hôm nay nhấn mạnh một số điểm, để ta suy nghĩ:

 

            *Ngày giờ sau hết:

1. Kinh sư/thượng tế dùng mưu ma chước quỷ nhằm trừ khử Chúa không thương tiếc.

2. Người nữ phụ đến đổ dầu thơm lên người Chúa, ý nói buổi liệm táng Ngài, vào rất sớm.

3. Giu-đa nộp Chúa cho thượng tế, đổi lấy tiền, là gợi ý hỏi rằng ta có làm giống thế không? vì tiền?      

 

*”Một trong các ngươi sẽ nộp Ta cho họ”

4. Dự phần Vượt Qua với môn đệ, Chúa tỏ bày có sự bội phản của đồ đệ mà không nhận thức được? Dự tiệc Thánh, ta có thấy quan hệ tương tác với người đồng bàn hoặc đồng Đạo?

5. ”Này là Mình Ta. Này là Máu Ta” Chúa thiết lập Tiệc Thánh Thể, để tạ ơn. Nên nhớ, chính vì ta Chúa mới chịu khổ nạn, chấp nhận nỗi chết. Nhưng đã sống lại. Là, thành viên cộng đoàn dân con Chúa, ta có nhận chính ta là một  thành phần thân mình Ngài không?  

6. Phêrô chối Chúa. Về phần ta, đã bao lần, ta cũng hành xử như thế với cộng đoàn?

*Trước mặt quan án

7. Tại vườn Dầu, Chúa vượt mọi hãi sợ. Ngài đã nguyện cầu. Ngài hoàn toàn tuân ý Cha. Trong khi đó, các đồ đệ đều bỏ đi. Họ bỏ đi là vì chẳng ai đoán được Ngài sẽ bị như thế nên chẳng biết phải làm gì?

8. Chúa bị bắt. Giuđa bội phản. Phêrô rút gươm, ngăn cản dân quân đến bắt. Mọi người đều bỏ chạy để Chúa một mình. Tình thương đích thực đành bị bóp méo. Chẳng ai hiểu được đường lối bất bạo động mà Chúa  vẫn đi. Trường hợp mình, ta có bỏ chạy khi đụng chuyện không?

9. Trước mặt quan toà, Lời Chúa bị bẻ quặt. Nhưng Chúa vẫn lặng thinh. Ngài lặng thinh vì dân tình chỉ muốn lật ngược sự công minh, chính trực. Chúa tỏ bày Thiên tính Đấng Mêsia. Dân con mình tự bịt mắt làm mặt ngơ, mù quáng. Còn ta? Ta nhìn Ngài với cặp mắt nào?

10. Vốn bộc trực, Phêrô đã một mực chối bỏ Chúa. Chối bỏ những ba lần. Còn ta, ta đã chối bỏ Ngài bao lần?

 

*Quan trấn trưởng La Mã

11. Đứng trước Philatô, chỉ quan quyền mới lật ngược được tình thế. Đức Giêsu vẫn im lặng. Là Vua và là Chúa, Đức Giêsu vượt trên quyền tổng trấn, ở trần gian. Philatô không hiểu điều này, cứ tưởng rằng Chúa thuộc dưới trướng mình. Còn ta, lâu nay ta có thái độ nào với Ngài?       

12. Đám đông dân chúng xin tha Barabbas, thay vì Chúa. Còn Philatô, nắm thời cơ chuyển đổi sự việc, nhất quyết biến Chúa thành tội phạm. Trong cuộc đời, có bao giờ ta từng xử sự giống như thế? vì danh/vì lợi?

 

*Con đường của thập giá

13. Chúa tuyên xưng Ngài là Vua. Điều này khiến dân quân nhà trại cười ồ. Họ chụp mũ trên Ngài. Lại là mũ gai, cắm gài lên da thịt. Nhưng Ngài vẫn lặng thinh, không cất lên lời. Vua các vua, nay tự “rỡ bỏ” chính Mình. Vì loài người. Còn ta thì như thế nào?

14. Tiếp tục chặng đàng khổ ải. Chúng dân cười nhạo, phỉ nhổ. Con đường thống khổ, Ngài đi tiếp. Phần ta, phải chăng ta đã dự phần vào bi kịch hành hạ Đức Chúa? Ta đã thấy vinh quang Chúa hiển hiện qua khổ ải và ta đáp trả ra sao trong đời ta?

 

*Bĩ cực và hiển vinh

15. Tối tăm phủ khắp chốn trời. Chúa tiến đến phần sâu lắng của khổ hình. Ngài hít hơi cuối cùng, rồi tắt thở. Hơi Ngài hít, chính là Thần Khí Chúa Cha. Là Ngài. Chết, giai đoạn cuối đã hoàn tất. Ngài hoàn thành thánh ý Cha. Màn Đền Thờ nay rách nát. Chúa biến đổi, qua hiện thực Phục sinh, nơi Mình Ngài. Tức, Hội Thánh. Lính gác, nay nhận ra Sư Thật: “Người này là Con Thiên Chúa.” Đây, một nhắc nhở dân con mọi người hãy mở lòng đón nhận Thần Khí Cha. Như dân quân canh gác đã nhận ra.     

16. Giuse A-ri-ma-thi-a, xưa lên án Chúa, nay biến thành người đợi chờ Chúa đến trong vinh quang. Ngời sáng. Với đồ đệ, đây là kết cục mọi sự việc. Rất đau buồn. Sầu thảm.

 

Thương khó, do thánh Mác-cô ghi lại, đem đến cho ta nhiều điều để suy tư. Nguyện cầu. Nguyện và cầu, không chỉ mỗi hôm nay. Nhưng, suốt tuần. Tuần rất thánh, có những ngày sau hết của đời Chúa ở trần gian. Thánh Y Nhã khi xưa đã đề nghị một niệm suy, cho các khoảnh khắc cuộc đời ta vẫn sống. Thánh nhân đề nghị ta nên thêm vài suy tư, dù cổ lỗ:

 

“Tôi cố đặt mình vào lời lẽ được cất lên. Tôi tìm cách hiểu cho thấu, điều Ngài diễn tả bằng diện mạo. Và nơi tôi, đang dâng cao xuất hiện một nhận thức, vừa đủ sức. Có làm thế, tôi mới đi sâu vào mầu nhiệm để chiêm ngắm. Và, càng chú ý đặc biệt đến tính thánh thiêng, ẩn mình thầm kín, ta càng thấy Chúa tỏ mình như người thường, rất bất lực. Tôi hiểu rằng, Chúa yêu thương ta biết chừng nào, chính vì thế Ngài vui lòng chấp nhận khổ đau khi ta phạm lỗi. Khi ta khước từ Ngài, bằng nhiều cách.”

 

Dù cách nào đi nữa, trình thuật cuộc thương khó Chúa, diễn tả nỗi khổ Chúa bị người đời từ khước/chối bỏ. Chấp nhận thống khổ, Ngài quyết lãnh ý Chúa Cha. Làm thế, Ngài thực hiện công cuộc cứu độ, do Cha trao. Làm thế, Ngài hoàn tất hành trình trải dài nhiều khổ đau. Có nỗi chết. Nhưng Ngài sống lại. Để người người được vinh hiển. 

 

Suy niệm Chúa Nhật Phục Sinh năm B

 

“Tình đã chết, có mong gì sống lại”

Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết
Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn.

(Dẫn nhập thơ Trần Dạ Từ)

Ga 20: 1-18

             Tình nhà thơ, nay đà chết. Nào những mong, tình sống lại. Lòng nhà Đạo, dù khi xưa tuy có chết. Nhưng, nay đà sống lại cùng Chúa. Với Chúa. Với cộng đoàn thân thương, có chứng nhân. Nhân chứng hôm nay, hân hoan mừng Chúa sống lại. Vui vầy. Rộng khắp.  

            Mừng Sống Lại, ta không chỉ loanh quanh việc gợi nhớ. Nhớ giây phút Chúa sống lại, đánh động tâm can đồ đệ, thôi. Nhớ Phục sinh, là nhớ rằng ơn cứu độ đã ảnh hưởng lên cuộc sống và niềm tin của con dân. Nhớ Phục sinh, còn là nhớ lời gọi mời đổi mới. Đổi tận gốc rễ, như đồ đệ Chúa đã làm, thời tiên khởi. Nhớ Phục sinh, không chỉ là tin tưởng và loan báo việc Chúa sống lại. Nhưng, còn phải tác động lên điều mình tin. Lên, tình thương yêu. Rao giảng.

            Bài đọc 1, thánh Phêrô nói đến kinh nghiệm mà thánh nhân muốn sẻ san với cộng đoàn đang nghe giảng. Là môn đồ gần cận, thánh nhân san sẻ với mọi người kinh nghiệm về giảng rao. Nhờ có kinh nghiệm rao giảng, thánh nhân biết đích xác rằng Đức Giêsu đã chết trên thập giá, nay đang sống với các thánh, trong niềm vui đầy tràn. Và, các thánh san sẻ niềm vui ấy với mọi người. Để, ai nấy cùng vui như Ngài. Với Ngài.

            Bài đọc 2, Phaolô -một Pharisêu cương nghị- từng bức bách con dân của Chúa, cũng có kinh nghiệm về sự sống lại, với riêng mình. Và, thánh nhân đã hồi hướng trở về. Về cùng Chúa, ngay trên đường bách hại, ở Đamát. Hồi hướng trở về, thánh Phaolô đem dân con Chúa về với cộng đoàn tình thương.

            Qua kinh nghiệm, Phaolô thánh nhân đích thân thay đổi cuộc sống. Bằng vào kinh nghiệm sống lại, thánh nhân đã có thị kiến mới về mọi sự. Đặc biệt, về cuộc sống của Đức Giê-su. Về thông điệp Ngài đem đến. Cuối cùng, thánh nhân đã sử dụng trọn vẹn năng lực của mình để phục vụ. Phục vụ, theo cùng một cung cách khi trước, hầu giúp đỡ mọi người biết yêu thương và dấn bước theo chân Chúa.

            Trình thuật hôm nay, kể về “Mộ trống” như dấu hiệu Chúa về lại với cuộc sống, bình thường. Và thánh sử kể về sự kiện Maria Magdala và đồ đệ Chúa đến mộ phần, chứng kiến và tin vào Chúa Phục Sinh. Tin, là tin vào Tin Mừng, như đã viết: “Hai ông chưa hiểu rằng theo Kinh thánh (tức Cựu Ước): Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20: 9). Tin và hiểu, như hai vị tông đồ trên đường Emmaus, cũng được giải thích, để hiểu rõ. Tin và hiểu, là biết chấp nhận một sự thật: Chúa chấp nhận khổ đau và sống lại, quả đúng như điều được ghi trong Cựu Ước.          

            Suy cho cùng, ta cũng hiểu: Phục sinh không chỉ đơn thuần là phục hồi sinh lực cho cơ thể Chúa. Phục sinh, không đơn thuần là chuyện tai nghe mắt thấy. Thấy, như đã thấy việc Chúa bị đóng đinh, một sự kiện lịch sử. Mà, Phục sinh, chính là sự kiện của niềm tin. Đức Chúa Phục sinh, nay sống lại để đi vào cung cách mới, của sự sống.

            Các văn bản sau ngày Chúa Phục sinh, cho thấy: Ngài không được các tông đồ gần cận, nhận thức trước. Ngài ở bất cứ những nơi mà đồ đệ Ngài đi đến. Chúa Phục Sinh phải được hiểu, là Ngài mang nơi Mình Ngài, một hình thức tân tạo. Mang cung cách hoàn toàn mới mẻ, để hiện hữu ở với ta. Và, cung cách mới chính là cộng đoàn dân con. Là, Thân Mình hiện thân nơi Nước Trời, ở trần gian. Là, tương quan dân con, của Đức Chúa.

            Đọc tiếp trình thuật, ta sẽ thấy: thánh Phêrô và “môn đồ được Chúa thương” đích thân chứng kiến Chúa sống lại, đã chạy về kể cho bạn bè nghe những điều mình “tai nghe mắt thấy”. Riêng Maria Magđala, người nữ phụ đầy lỗi phạm khi trước, nay đã dâng trọn đời mình để Chúa dẫn dắt. Chính nhờ thế, Thầy Chí Ái đã vui lòng ở lại, với chị. Với mọi người.

Với Maria Magđala, mặc khải “Chúa sống lại” là sự kiện: có thiên thần hiện diện, tức do Chúa. Và, khi ngước mắt quay nhìn, chị thấy Chúa nhưng không nhận ra. Đó là điều, khiến chị bật thành tiếng khóc trong mừng vui. Vui, vì biết rằng Chúa Sống Lại đã hiện ra với chị. Với người đời. Thế mà, chị cứ ngỡ Ngài là “người làm vườn”.

“Người làm vườn”, lời Tin Mừng được thánh Gio-an nhiều lần nhắc đến. Vườn, là chốn địa đàng, nhị vị tiên tổ từng ngã phạm (Kn 2: 23). Vườn, là nơi chôn Chúa, chốn cứu chuộc (Ga 19: 41). Vườn, là khu lưu giữ chiên đàn, Chúa nói đến (Ga 10: 1-5). Tựu trung, Chúa Phục Sinh từng gọi tên Maria Magđala để mặc khải, hay gọi tên chiên con, đều ở đây ở trong vườn.

“Thôi đừng giữ Thầy lại”, điều này chứng tỏ: dân con Đạo Chúa cứ đeo đuổi bám víu vào con người “cũ” của Đức Chúa. Trên thực tế, Đức Giêsu nay đã về với Cha, trong quang vinh. Về với Cha, Ngài hứa sẽ trở lại, nhưng theo cung cách khác. Bằng một thực thể mới mẻ, khác lạ. Và, ta chỉ gặp Ngài, nơi những người được coi là đồ đệ. Người liên kết làm một Thân Mình Chúa. Một Hội Thánh Chúa ở địa phương.

“Tôi đã thấy Chúa!”, lời kể của Maria Mác-đa-la, người nữ phụ từng phạm lỗi, rất nặng theo luật Do Thái, cũng là của phụ nữ, những người có vị thế rất thấp trong xã hội. Nhưng, với Tin Mừng, lại được ưu tiên cao. Ưu tiên được biết trước nhất, chuyện Chúa sống lại. Đó chính là mục đích cũng như ý nghĩa của sứ vụ rao báo Tin Mừng. Rao báo, không chỉ là chuyển giao triết lý của lòng tin. Mà còn là, san sẻ cho nhau những kinh nghiệm mình chứng kiến.

Kinh nghiệm được gặp và được thấy Chúa trong cuộc đời, của chính mình. Rồi sau đó, mời gọi mọi người cùng làm như thế. Mừng kính Chúa Phục Sinh, ta cũng được gọi mời cùng một cung cách như thế. Gọi và mời theo một kiểu như Phêrô thánh nhân, Maria Mácđala và đồ đệ khác. Một kiểu cách như bài đọc hôm nay.

Đọc thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô, ta đều thấy: lời mời gọi Phục Sinh là một gọi mời hồi hướng trở về, tận căn rễ. Là, thanh lọc tự bản thân, của mỗi người. Khi cử hành lễ Vượt qua, người Do Thái có thói quen đổ bỏ bánh lên men mà họ vẫn có. Thay vào đó, là bánh không men, vừa mới cất.

Thói quen đổ bỏ bánh lên men này, vì qua tiến trình lên men tạo nên bánh, men được coi là nhân tố gây lũng đoạn bột. Vì thế, thánh Phaolô khuyên ta nên mừng lễ Vượt Qua, “đừng với men cũ, là men gian tà, ác độc; nhưng, với Bánh không men của lòng tinh tuyền, và chân thật.” (1Cr 5: 6)      

Về lại bài đọc 1, từ sách Công vụ Tông đồ, thánh Phêrô nhấn mạnh đến tầm vóc quan trọng của đồ đệ Chúa. Quan trọng ở chỗ, ta không chỉ rút kinh nghiệm từng trải và vui hưởng niềm vui Đức Chúa là Thầy Chí Thánh nay đã Phục Sinh, mà thôi. Nhưng còn phải sẻ san kinh nghiệm và niềm vui ấy cho càng nhiều người càng tốt. Đó là điều ta nên làm. Nên làm vì nếu  chỉ liên hoan Phục sinh thì mới có nửa phần. Mà, với người Đạo Chúa, Phục Sinh là đại lễ diễn ra hằng ngày. Là, ngày vui Chúa Sống lại, ta san sẻ với hết mọi người. Vào mọi ngày.

Lời thánh Phêrô “còn chúng tôi đây xin làm chứng”, là làm chứng về những việc Chúa đã làm. Về, việc Chúa bị bắt, hãm hại và giết đi. Về, “Thiên Chúa đã làm cho Người trổi dậy” và chúng ta, là “những kẻ được cùng ăn cùng uống với Người” (Cv 10: 40-41), vẫn là điều ta vẫn làm mỗi khi tham dự Tiệc Thánh Thể. Dự Tiệc Thánh, ta vẫn ăn và vẫn uống Thân Mình Đức Chúa Phục Sinh, quang vinh.

Vậy thì, thông điệp ta có được từ lễ Chúa Phục Sinh, là thông điệp gì ? Ta có đáp ứng đòi hỏi làm con dân Đức Chúa, hay chỉ ngồi đó tham dự thánh lễ mỗi Chủ Nhật, như người dưng? Bởi, thông điệp của Chúa là thông điệp gửi mỗi người chúng ta. Gửi, để ta ra đi mà rao báo Tin Mừng Ngài đã Phục Sinh. Rao và báo, cho cho con dân Ngài biết  Thiên Chúa đã chọn Đức Giêsu đến với ta, không phải để lên án kẻ sống với người chết. Nhưng, để mọi người tin vào Ngài, sẽ được tha thứ mọi lỗi lầm, ngang qua Ngài.

 

 

Suy niệm Chúa Nhật Thứ 2 Phục Sinh năm B

 

“Tình Yêu không biết sợ”

Người yêu chỉ biết buồn.
Tình yêu không cổng sắt.
Tình yêu không rào vuông.

(Dẫn từ thơ Võ Thị Trúc Giang)

Ga 20: 19-31

            Không biết sợ, là tình của nhà thơ. Là, tình không cổng sắt? Với nhà Đạo, là tình không rào vuông. Ơ hờ. Rất sợ. Sợ, là tâm tình của đồ đệ ngày Phục Sinh, Chúa đã về.

            Trình thuật hôm nay, bắt đầu bằng bầu khí hãi sợ. Chủ nhật hôm ấy, chỉ hai ngày sau lúc Chúa lìa đời, khi các môn đệ ở trong nhà trong cổng kín tường cao. Các môn đệ vẫn sợ. Sợ, là sợ bị giam giữ. Sợ bị trừng phạt. Sợ, vì liên quan đến Chúa. Vẫn sợ dù Chúa đã trấn an, mấy ngày trước.

            Chúa trấn an các ngài bằng sự hiện diện theo cách mới. Chúa trấn an bằng những lời thân tình.

            “Bình an cho anh em”, thoạt là lời chúc, rất “Shalom”. Shalom, thường là tiếng chào hỏi của người Do thái, mỗi khi gặp. Ở đây, lúc đồ đệ còn hãi sợ, lời chúc của Chúa mang ý nghĩa rất đặc biệt. Tiếng Hy Lạp, không có động từ “chúc tụng” như thế, nên có thể đây là lời chào đoan quyết một sự kiện, là: nơi đâu có Chúa hiện diện, nơi đó có bình an. Không sợ.

            “Chúa đưa tay chỉ vào cạnh sườn”, không là cử chỉ của thần linh ma quái hoặc phù thuỷ. Nhưng đây là động tác của Đấng, đã chết trên thập tự, nay thành dấu chỉ chứng tỏ một ý nghĩa mới rất đáng kể, là: Ngài chết đi và sống lại, để cứu độ con người. Một Ân huệ rất nhưng không và phổ cập cho tất cả mọi người.

            Ơn cứu độ, hiện rõ qua việc Thầy sống lại và trở về, đã đem đến cho mọi người niềm an vui, phấn khởi. An vui trở về, Ngài tiếp tục hiện diện với các đấng. Qua chuyện trò cùng các đấng, Ngài chúc bình an cho mọi người. Đồng thời, Ngài trao ban cho các đấng, sứ vụ mới. Sứ vụ cao cả, rất phấn chấn: “Như Cha sai Thầy thế nào, thì Thầy cũng sai anh em đi như thế” (Ga 20: 21).

            “Và, Ngài thổi hơi trên các ông”, đây là hơi thở của sự sống. Bằng hơi thở, Giavê Chúa đã thổi lên cát bụi nên con người như hơi lên người đầu tiên, tên A-đam. Bằng thổi hơi này, cuộc sống con người nay được thánh hoá.  Chúa thổi hơi, chính đó là Thần Khí, Đấng Linh Thiêng của Cha, và của Con. Khi thổi hơi, Ngài nói rất rõ: “Hãy nhận Thánh Thần Chúa, trên anh em.”

            Và tiếp theo, là mệnh lệnh: “Anh em tha lỗi cho ai, người ấy sẽ được tha. Anh em cầm buộc ai, người ấy sẽ bị cầm buộc.” (Ga 20: 23). Mệnh lệnh đây, Ngài trao phó, cho mỗi người. Và, mọi người. Lời Ngài trao phó, tuy không nhiều, nhưng đã trở thành quyền uy trao cho các thánh, ngang qua Lời.

            Thật sự, ta không thể tha thứ cho bất cứ ai, mà không hoà giải. Việc Chúa trao quyền uy tha thứ cho cho đồ đệ, là: quyền hoá giải để mọi người có thể đến với Chúa. Đến với người anh người chị trong cộng đoàn. Đến như thế, đất trời và tạo thành, sẽ thu về một mối. Bình an, Công lý và Sự Thật.

            Đó là việc tiên quyết mà các thánh sẽ làm, còn lại, tất cả chỉ là thứ yếu. Việc tiên quyết  tức: tái lập tương quan mật thiết giữa Chúa và dân Ngài. Tương quan, là mối giây mật thiết giữa con của Chúa, với chúng nhân. Đây, là công tác vĩ đại, chưa từng thấy.

            Trên thực tế, công tác vĩ đại gồm nhiều việc. Không phải chỉ đến mỗi toà cáo giải để nhận lãnh ơn thứ tha, rồi thôi. Công tác Thầy giao, bao gồm việc gầy dựng môi trường xã hội, có căn bản dựa trên tương quan mật thiết. Với Chúa. Với anh em để thiết lập Vương Quốc Nước Trời ở trần gian.

            Bài đọc 1, mô tả cộng đoàn Nước Trời, rất lý tưởng nay thấy rõ: “Các tín hữu thời ấy đông đảo, nhưng vẫn một lòng một ý.” Một lòng một ý, là dấu hiệu hiệp thông đoàn kết giữa cộng đoàn dân Chúa. Cộng đoàn tình thương mật thiết và thân thiện.          

            “Không ai coi những gì mình có là của riêng, nhưng với họ, mọi sự đều của chung”, đây là lý tưởng mà người Cộng sản trước đây vẫn coi như phương châm hành động. Phương châm khẳng định rõ: “Làm theo khả năng, hưởng theo nhu cầu”. Lý tưởng này, nay thấy hiếm trong xã hội lớn, nhỏ hôm nay vì nay gồm các cá nhân luôn ham hố, tranh giành và đố kỵ.

            Bằng vào phương châm này, “cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn”. Bởi, người có của dư thừa, đều bán của mình có, tặng cộng đoàn:“tiền bán được, nay phân phát cho mỗi người, tuỳ nhu cầu.”

            Giáo hội hôm nay, có tìm ra được cộng đoàn tình thương nào, đẹp thế không? Hay, chỉ thấy có, nơi cộng đoàn sống đời tu trì. Ở nơi đó, các thành viên sống yêu thương đích thực. Sống với lý tưởng phổ cập. Sống, như Kitô hữu đích thực, đã cải biến. Căn bản cộng đoàn Kitô hữu cũng nên thay đổi theo chiều hướng tích cực như thế.

Bài đọc 2, nói về giới lệnh của Chúa, cần tuân thủ. Thánh Gioan cho biết những việc như thế, không khó làm. Có thể, đây vẫn chưa là kinh nghiệm sống của nhiều người. Có thể, chuyện ở đây vẫn chưa thành hiện thực. Nhưng, đây là giới lệnh gọi mời ta sống đích thực như vẫn nghe: nhân chi sơ tính bản thiện. Giới lệnh, nay không đòi ta thực thi điều gì không ăn khớp với bản chất riêng tư, cần thăng tiến. Nhưng, lời khuyên từ thánh Gioan, cũng phù hợp với giới lệnh ở Tân Ước, đòi mọi người yêu thương nhau, như Chúa vẫn thương ta. Giới lệnh, nay yêu cầu ta trở thành nhân tố Bình an, Hài hoà và Công lý. Ăn khớp với ý của Tin Mừng. Và, của Bài đọc 1.     

            Chúa trở về hiện diện giữa các thánh, rất đầy đủ. Nhưng, không thấy có mặt đồ đệ Tôma. Thành thử, thánh nhân mới nói Ông sẽ không tin nếu không đặt tay nơi cạnh sườn Thầy. Sau đó, thánh nhân đích thân gặp gỡ Thầy. Nên, ông không còn cứng lòng, như trước nữa.

            Nhận ra Thầy, thánh nhân kêu lên: “Lạy Chúa tôi, lạy Chúa tôi!” Đây, còn là lời xác nhận căn tính đích thực của Đức Chúa nơi Tin Mừng. Đây, là lần đầu tiên và duy nhất, ta nghe các thánh gọi Ngài là Chúa. Kỳ diệu thay, đây chính là hành động của niềm tin. Rất có thể, thánh Tôma không trực tiếp nhận thức Đức Giê-su là Chúa. Vì, chẳng ai trực diện thấy được Chúa. Nhưng, kinh nghiệm cho thánh Tôma tin rằng: thánh nhân đang giáp mặt Chúa thực sự.

            Lời Tin Mừng, nay là lời phấn chấn, khích lệ mọi người. Với những ai không có kinh nghiệm, tựa như thánh Tôma, Lời Ngài được gửi đến, rất xác thực: “Phúc thay cho người không thấy mà tin!”. Điều này nhắc nhở mọi người, hãy mở lòng ra mà nhận biết Chúa đang hiện diện. Ở với ta.

            Cuối cùng, thì những gì được ghi ở trình thuật, nhằm giúp ta đạt đến trạng thái để ta cũng sẽ tin như các thánh: “Đức Giêsu là Chúa Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống!” Bằng vào niềm tin này, ta tìm ra được cuộc sống đích thực.

            Hôm nay, biết bao người từng kinh nghiệm thấy rằng: tất cả là sự thật. Tất cả, đều nhận ra rằng: dấn bước theo Chúa, sẽ mang lại cho ta ý nghĩa, hướng đi và chất lượng cho cuộc sống. Của mình. Chất lượng ấy, không thấy bất cứ ở đâu. Nơi nào. Cầu mong sao, đó sẽ là kinh nghiệm của mỗi người, chúng ta.

           



 

Suy niệm Chúa Nhật Thứ 3 Phục Sinh năm B

 

“Trên đường về nhớ đầy...”

Chiều chậm đưa chân ngày,
Tiếng buồn vang trong mây...
Tiếng buồn vang trong mây...
(Dẫn từ thơ Hồ Dzếnh)

Lc 24: 35-48

            Trên đường về, nhà thơ nay cũng nhớ. Nhớ rất đầy. Buồn trong mây. Buồn và nhớ, buổi đưa tiễn có mây chiều vang vọng. Nhớ và buồn, đường Emmau vọng vang tình nhà Đạo nay da diết. Da diết nhớ Thầy. Nhớ Bạn. Nhớ Chúa dẫy đầy, một trình thuật. Đậm ghi. Rõ nét. Sống lại.   

            Trình thuật thánh Luca, hôm nay nhớ đầy tình chậm bước. Nhớ và ghi, tâm trạng buồn người lữ khách. Và rất nhớ, Thầy dẫn giải Ngài chấp nhận nỗi chết nhục hình, do Cha định. Dẫn giải nhiều, để môn đệ của Thày chan chứa tình Phục Sinh, nơi cuộc sống. Của mọi người.

            Thoạt lúc đồ đệ mạn đàm việc xảy đến, Thày bất chợt xuất hiện ở với các ngài. Và, lời chúc “Bình an cho anh em!” do Thày chào, đã xác định Thày nay sống lại, nào phải ma.

            Và tiếp đến là lời trấn an:”Sao cứ hoảng hốt,” và nghi ngờ? “Hãy coi, chính là Tôi! Hãy cứ rờ mà xem, ma nào có thịt da như thế!” Và, các thánh đích thực nhận ra, đây chính là Ngài. Là, Thầy Chí Ái lâu nay, ta vẫn nhớ. Chúa hiện diện giữa các thánh, nhất định không như người chết trở về, chẳng có xác. Chúa hiện diện, là tình Thày ở với đồ đệ, đầy tình thân. Hình hài thể xác tuy có khác. Khác, lúc xưa. Khác bây giờ. Khác rất nhiều. Nhưng vẫn một tình Thày trò, ở nhà Đạo.

            Liền ngay đó, đã thấy có những cảm xúc lẫn lộn, nơi các ngài. Cảm xúc lẫn lộn giữa niềm quan ngại lẫn sướng vui. Bởi, cái chết của Thầy từng làm các thánh lo ngại sẽ không còn thấy Thày hiện diện với cộng đoàn, về sau nữa. Và cùng lúc, các ngài chưa hẳn đã tin. Nhưng kinh ngạc. Kinh khiếp và ngạc nhiên, tức tin đó và cũng nghi ngờ, liền sau đó. Kinh ngạc và hiểu rằng, dân con đồ đệ sẽ chỉ đạt đến Thầy, bằng nỗi niềm cậy trông phó thác. Và, cũng hiểu là Thầy sẽ lại đến qua diện mạo hình hài, rất khác nhau.

            Vì kinh ngạc, các thánh quên cả tiếp đón Thầy như thông lệ. Đến độ, Thầy phải hỏi: “Anh em có gì cho ăn không?” Và trở về với thực tế, các thánh mới dọn món cá, đưa cho Thầy. Cũng từ đó, việc Thầy sống lại, càng xác chứng. Bằng sự thực.

            Cũng từ đây, vai trò của các thánh đà thay đổi. Khi xưa, Thầy là Đấng cấp của ăn cho hơn 5 ngàn người, gồm bánh cá. Nay, đến lượt đồ đệ dọn thực phẩm để Thầy dùng. Việc này cho thấy: cộng đoàn các thánh nay chính là Thân Mình Chúa. Đấng Phục Sinh.

Việc làm của các thánh, là công việc xưa kia Thầy từng dặn. Tức, nuôi sống kẻ đói ăn người thiếu mặc. Cả thể xác lẫn tinh thần. Làm thế, tức nuôi sống cộng đoàn con cái Đức Kitô: “Quả thật những gì các ngươi làm cho một người trong các anh em hèn mọn nhất của Ta, là các ngươi làm cho chính Ta.” (Mt 25: 40). Ở đây, đã thấy có liên kết giữa Tiệc Thánh với các việc ta làm cho nhau. Trong đời.

Qua chuyện vãn với đồ đệ “trên đường về nhớ đầy”, Chúa dẫn giải ý nghĩa của khổ đau và nỗi chết. Và từ đó, dân con Đức Chúa nay đã biết: muốn hiểu Thầy, cần cởi mở lòng trí mà suy niệm điều Ngài nói, qua Tin Mừng mỗi Chúa Nhật. Cần giáp mặt chuyện trò với Thầy, qua Kinh Thánh. Tức, Lời Ngài. Bởi, Lời Thầy là quyền năng đích thực tạo đổi mới cho ta sống.

Trình thuật hôm nay, ghi rõ ba điều Thầy đã dạy:

1.Đức Kitô, chịu khổ hình đến chết, do dân Ngài. Nhưng Ngài đã sống lại, chỉ sau ba ngày.     

            2.Nhân danh Chúa, ta có bổn phận rao truyền ý Chúa đến với mọi người; để, tất cả sẽ cải hối, mà đối xử tốt với nhau.

            3.Theo chân Chúa, là làm chứng tá cho Ngài bằng cuộc sống. Cho tình cộng đoàn, rất liên kết.  

            Bài đọc 2, thánh Gioan còn viết: “Căn cứ điều này, ta nhận ra là ta nhận biết Thiên Chúa: là tuân giữ các giới răn của Người. Ai nói mình biết Người, mà không tuân giữ giới răn của Người, tức là kẻ nói dối. Và, sự thật không ở với người ấy. Còn ai giữ Lời Người dạy, nơi kẻ ấy tình yêu Thiên Chúa đã thực sự nên hoàn hảo.” (1Ga 2: 1-5)

            Tuân Lời Ngài, không chỉ là: tuân thủ đủ 10 điều răn, tức những điều không hoàn toàn do Chúa nói; nhưng còn là:

 

-tuân theo lời mời gọi và thử thách Chúa gửi. Qua Tin Mừng;

-trở nên con dân Chúa biết liên tục học hỏi và hiểu rõ Lời Ngài, qua Tân Ước. Như các tông đồ đã được dạy;

-hiểu rõ Lời Kinh Sách. Hiểu biết sự sống, khổ đau và nỗi chết của Chúa, như Ngài muốn.

-yêu mọi người, vô điều kiện. Yêu cả những người từng ghen ghét, hãm hại. Địch thù

-yêu thương người, là cầu mong Tình yêu Chúa thấm nhập tâm can, của mọi người.

            -trở nên cộng đoàn hiệp nhất biết sẻ san/giùm giúp những người cần được san sẻ, đỡ đần.

            -trở nên cộng đoàn duy nhất, biết nhận ra Chúa nơi người nghèo hèn, đau ốm, khốn khổ;

            -biết đem tình thương lành thánh đổi mới cuộc sống muôn người;

            -trở thành nhân tố bình an, đem hoà bình về với rẽ chia, đố kỵ.

 

            Nói tóm lại, là: trở nên nhân tố cùng với Chúa kiến tạo Vương Quốc Nước Trời, ở trần gian. Nhờ Tin Mừng, ta nhận biết Thầy Chí Thánh đã hiện diện ở với đồ đệ. Hệt như thế, ta quyết sống làm sao để làm chứng cho mọi người biết: Chúa đang hiện diện trong thế giới đầy nhiễu nhương, hôm nay.

 

 

             

Suy niệm Chúa Nhật Thứ 4 Phục Sinh năm B

 

“Ngẩn ngơ nghe tiếng gọi như thừa”

Bao người quen thuộc giờ đâu nhỉ
Khung cảnh thân thương phải đó chưa?

(Dẫn từ thơ Phạm Doanh)

Ga 10: 11-18

            Nghe tiếng gọi như thừa, vừa ngẩn ngơ? Hỡi người quen thuộc, giờ người ở đâu, sao không thấy? Người ở đâu, mà sao không đáp trả. Trả lời và đền đáp tiếng gọi, của Chúa Chiên.

            Trình thuật hôm nay, lại cũng ghi về một mời gọi “tưởng như thừa”, của Chúa Chiên. Chúa Chiên, nay ngóng chờ dân con làm mục tử, biết dấn thân. Biết nghe tiếng gọi. Nghe, để ra đi thực hiện điều Chúa ới gọi, nơi mọi người. Chúa gọi ta tiến bước trong hân hoan tràn ngập và hy vọng.   

            Hân hoan - hy vọng, là tự chế đời mình, như Lời Chúa nhấn mạnh nơi Tin Mừng thánh Gio-an.

            “Mục tử nhân lành, là người dám hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên.” Ở đây, Chúa muốn phân biệt giữa Chúa Chiên Hiền với người được chủ mướn chỉ để giữ chiên. Người được mướn giữ chiên, chỉ lo toan đến lương tiền. Nên, khi sói lang đến y ta bỏ chiên đó mà chạy vì sợ. Còn Chúa, Ngài nói: “Tôi biết chiên của Tôi, Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.”  

            Cũng có thể, là: Ngài tự tách Mình khỏi các lãnh tụ tôn giáo được thuê mướn sống giữa dân con nhà Đạo, vì các vị này chỉ làm những gì mọi người trông đợi mình làm. Tuyệt nhiên, không thực sự quyết tâm cũng chẳng có tinh thần trách nhiệm, đối với dân con được trao phó cho mình. Còn, Chủ Chiên Hiền là biết rõ chiên, và chiên biết Chủ. Giữa chiên và chủ, luôn có tình mật thiết với nhau. Như tâm tình giữa Chúa và Cha Ngài: “Chúa Cha biết Tôi, và Tôi biết Chúa Cha.” (Ga 10: 15)

            Người được thuê mướn hoặc vị thủ lãnh chỉ lo cho mình, sẽ chẳng bao giờ có được tâm tình mật thiết đến như thế. Bài đọc 2, tác giả thư cho cộng đoàn cũng sử dụng ngôn từ tương tự: “Anh em hãy xem Chúa Cha thương yêu chúng ta biết chừng nào. Ngài yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa –mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.” (1Ga 3: 1-2)

            Thêm vào đó, Chủ Chiên Hiền ao ước đoàn chiên đến nhận dạng với Ngài: “Tôi còn có chiên khác không thuộc ràn này; cũng phải đưa về.” Và, mục tiêu cuối của Chủ Chiên Hiền, cũng không là gì khác, ngoài việc: “sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử.” Để rồi, toàn thể thế giới này sẽ liên kết làm một với Cha và với Chúa. Đây chính là ý nghĩa cao tột của Vương Quốc Nước Trời, trọng tâm của Tin Mừng.

            Đây, còn là chủ đích làm ta bận tâm mãi đến hôm nay. Bận tâm, là vì vẫn còn hàng triệu người và chiên, chưa nghe được sứ điệp về Chủ Chiên Yêu Thương Hiền Từ, là Thiên Chúa. Chưa được biết Ngài là Đấng, đã gửi Con Một của Ngài đến để chết cho đoàn chiên, là chúng ta. Tức, những người còn mải miết đi tìm hạnh phúc /ý nghĩa của cuộc sống dẫn đến mục tiêu khác. Những mục tiêu chỉ đem đến những bụi tro, dễ gãy đổ, như: tiền tài vật chất thật dư dả, danh vọng ở trước mắt mọi người, quyền uy trên người khác, chọn hoan lạc lầm lỗi với hạnh phúc, mưu cầu những khoái lạc…          

            Chọn như thế, tự khắc họ chối bỏ Chủ Chiên Hiền. Và, thánh sử nói: “Sở dĩ thế gian không nhận biết ta, vì thế gian không biết Người.” (1Ga 3: 1). Đây là điều, ta cần học hỏi để nhận ra đó là sự kiện khó lòng mà am hiểu. Và, càng khó lòng mà nhận lãnh trách nhiệm.

            Tuy nhiên, càng quyết tâm theo chân Chủ Chiên Hiền, càng có nhiều người bị chối bỏ, và đột kích. Thảm hại hơn, nhiều người tuyên nhận Đức Giêsu là Chúa, dù rất hiền lành, chân chất, vẫn bị tan tác, với rẽ chia. Cay đắng.

            Ở đây nữa, hơn bất cứ nơi đâu, vẫn có nhu cầu dành cho mọi người để theo dấu vết chân mềm của Một Chủ Chiên, thành lập chiên đoàn duy nhất yêu thương và thân cận. Bằng không, sao có thể làm chứng cho tình yêu của Đức Chúa, nếu giữa người đồng hành với Chúa, không có tình thương yêu đùm bọc?    

            Cuối cùng, lại cũng có những người lâu nay tháp nhập vào Thân Mình của Chúa, ngang qua thanh tẩy,nhưng vẫn sống theo cung cách làm người khác hiểu lầm ta không phải con dân của Ngài. Hiều lầm cả lời Ngài kêu gọi ta làm nghĩa tử, làm đồ đệ chu toàn trọng trách và tạo hạnh phúc. Có thể là, phần đông trong ta từng ngại ngần trong đáp trả lời mời làm chứng cho sự thật và tình thương yêu, thấy nơi Chúa. 

            Một điều nữa, Chúa nhấn mạnh ở Tin Mừng, là: Chúa hy sinh mạng sống vì chiên đàn, là do Ngài tự ý. Chứ không vì hoàn cảnh, đưa đẩy hoặc bị thúc ép. Cái chết của Ngài là bằng chứng sống động, như Tin Mừng có viết: “tình yêu cao cả là trao ban sự sống của chính mình cho người mình yêu.” Và bằng chứng này, Chúa đã làm để tỏ rõ Ngài chính là Chúa Chiên Hiền.

            Bài đọc 1, Phêrô thánh nhân tràn đầy Thánh Thần Chúa, đã quả quyết: “Đây là đá tảng, mà quý vị là thợ xây loại bỏ, đã trở nên đá góc tường. Ngoài Người ra, không ai đem lại được ơn cứu rỗi, vì dưới gầm trời này, không một Danh nào khác đuợc ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào Danh đó, mà được rỗi.” (Cv 4: 12).

            Và cũng chính Chúa, có nói ở Tin Mừng: “Chính Tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh, và có quyền lấy lại mạng sống ấy.” Ga 10: 18)  Và sự thể, đã xảy ra như thế.

            Bài đọc 2, chứa đựng một phần trong diễn luận mà thánh Phêrô đã trình bày ở Đền thờ. Bài đó có được sau khi thánh nhân và thánh Gio-an đã chữa lành cho người hành khất, trước trụ lang. Chữa lành cho anh, các thánh đã nhân Danh Chúa chịu đóng đinh, qua quyền uy được uỷ thác cho các đấng, ngõ hầu làm chứng Đức Chúa đã sống lại thật. Và, Ngài vẫn hiện diện, ở với ta.

            Cuối cùng, tất cả những điều ở trên đã nối kết với chủ đề ơn gọi, vào ngày của Chúa, rất hôm nay. Bởi hôm nay, không chỉ là ngày Chủ Chiên Hiền, nhưng còn là ngày Ơn Gọi, vào Chủ Nhật. Vào ngày này, con dân ta được khuyến khích hãy nguyện cầu cho Hội Thánh. Cầu sao cho Thánh Thần Chúa ban ơn lành để ta có thêm nhiều vị thủ lãnh đóng trọn vai trò truyền rao Tin Mừng của Chúa.

            Cầu và mong sao, vào thời buổi đang có giảm sút trầm trọng về số mục tử/thủ lãnh làm việc ấy. Cầu và mong, sao Hội thánh đào tạo thêm nhiều linh mục và tu sĩ, đang cần có. Cầu và mong, để ta đừng hiểu là: lời gọi mời trực chỉ người khác. Nhưng là lời mời gọi đến chính ta và chính ta sẽ đáp trả. Chính ta thân thưa. Cầu mong sao, giới trẻ tự dâng hiến đời mình cho Chúa, thi hành sứ vụ rao truyền Lời Chúa. Cầu mong sao, đừng gạt tên con em ta trong những người thi hành sứ vụ rao truyền này.

            Một điều cần cầu liên tục, là: ý nghĩa của “Ơn gọi” không chỉ hạn chế trong vai trò rất hẹp là đời tu/linh mục, rất riêng tây. Nhưng mỗi người trong ta đều có một “ơn gọi”. Bởi, với mọi tư cách của ta, dù là tư cách người phối ngẫu, mẹ cha, giáo chức, y sĩ hoặc chỉ là tôi tớ rất đời thường, đại/tiểu gia chuyên lo thương mại, đều có trọng trách ấy.

            Dẫu ở vào địa vị nào, ta vẫn được gạn hỏi bằng những câu, như:

 

            -Những gì tôi bỏ sức ra làm, phải chăng đó là “ơn gọi” gửi đến với tôi?

            -Phải chăng, đây là cuộc sống Chúa muốn tôi, ở như thế?

            -Việc tôi làm, có là chứng tá cho niềm tin Kitô hữu, đặt nơi tôi?

            -Tôi có cộng tác đóng góp trong việc dựng xây thế giới mới, xứng đáng cho mọi người?

            -Cuộc sống của tôi có gì khác biệt theo nghĩa tích cực, đổi mới, với người khác?

-Tôi làm được gì, để quảng bá công lý và sự thật? để cổ võ công bình, tình thương và sự an vui? Và, nếu bảo rằng tôi đang ở vị thế khó có thể sửa đổi, nhưng tôi vẫn nghe được tiếng Chúa mời gọi phục vụ Hội thánh Chúa, và cộng đoàn chứ?

-Tôi đã từng xả thân ngang qua cuộc sống hay tôi chỉ lợi dụng xã hội và Hội thánh Chúa để đạt những gì tôi từng ham muốn?

 

            Chúa vẫn mời gọi mỗi người và mọi người tiếp tay làm việc để phổ biến Tin Mừng Ngài đem đến. Có lúc, chỉ qua cung cách của linh mục/tu sĩ. Nhưng nhiều khi, lại là trăm ngàn đường lối rất khác biệt, để phục vụ. Phục vụ Hội thánh. Xây dựng cộng đoàn. Và, câu hỏi khác là: Chúa có dùng khả năng của tôi, để mở mang đóng góp xây dựng Nước Trời?

            Nếu mỗi người và mọi người đều đã nghe và từng đáp trả lời mời gọi từ Chúa, theo cung cách tích cực, chắc chắn Hội thánh Chúa không còn gì phải bận tâm lo nghĩ, về vai trò lãnh đạo/mục tử, đang sa sút, nữa.

           

  

Suy niệm Chúa Nhật Thứ 5 Phục Sinh năm B

 

 “Bước một bước, xa thêm ngàn dặm thẳm”

Núi lam mờ, hay mắt đỏ tôi hoen,
Vườn nho xanh, vươn mình trong nắng ấm,
Người cúi đầu, câm nín nỗi hờn ghen.

(Dẫn từ thơ Vũ Đình trường)

Ga 15: 1-8

            Bước ngàn dặm, nhà thơ nào lại dám bước. Vào vườn nho, nhà Đạo nay vẫn bước vào. Vào nơi đó, có nắng ấm, sống cùng Chúa. Vào nơi đây, ta cùng Ngài tiến bước, với bà con, với anh em như trình thuật đề cập, rất hôm nay.

            Trình thuật hôm nay, thánh Gioan ghi lại câu chuyện về vườn nho, có lá cành liền gắn với Thân Nho Chúa, để sinh trái. Sinh hoa trái, không chỉ là sinh sôi nảy nở, ngày của Chúa. Sinh hoa trái, là như ý nghĩa Chúa khẳng định, cho nho cành:“Cành nào gắn liền Thầy, mà không sinh hoa trái, Ngài chặt đi” (Ga 15: 1)

Những ai có kinh nghiệm trồng giàn nho hay hoa hồng, đều hiểu rõ quá trình cần cắt tiả, để sinh sôi. Đây là tiến trình quan trọng, Chúa vẫn dạy: “Cành nào sinh hoa trái, Người sẽ tỉa sạch để sinh thêm.”

            Và lại nữa, Chúa vẫn khuyên: “Anh em đã được sạch, nhờ Lời Thầy nói với anh em. Hãy ở lại trong Thầy, và Thầy ở lại trong anh em.” (Ga 15: 4). Ở lại, là để đồng hoá với Thầy, với Chúa. Ở lại, bằng cắt lìa cuộc sống, của riêng ta. Cắt lìa, là từ bỏ những gì nghịch chống tinh thần Chúa răn dạy.

            Cắt tiả, còn là tiến trình đính kết cuộc sống khổ hạnh. Là, trạng thái thoát rời mọi khát vọng  tự nhiên. Cắt tiả, để gia nhập mọi sinh hoạt được Chúa bảo ban, đề nghị. Là, chấp nhận bỏ qua một bên, những vướng bận đớn hèn, vật chất. Là, chỉ đặt nặng những gì đến từ Chúa. Và trong Chúa thôi.             

            Bài đọc 2, diễn tả cũng cùng một điều, nhưng bằng cách khác. Cách đó là: “Ta đừng yêu bằng đầu môi chót lưỡi, nhưng hãy chân thật, bằng việc làm. Bởi có thế, ta sẽ biết là ta đứng về phía sự thật. Và, an lòng trước mặt Chúa.” (1Ga 3: 18)

            Bài đọc 1, cũng minh hoạ những điều xưa Chúa nói. Minh hoạ, bằng những kinh nghiệm từng trải của thánh Phaolô. Kinh nghiệm hồi hướng trở về, ở Đa-mát. Trở về, vì trước đó, đấng bậc Sao-lô nhiệt thành quyết bách hại dân con nghèo hèn, đi theo Chúa. Trở về lại, thánh nhân đã trở thành vị tông đồ đầy nhiệt huyết, sống với Chúa.      

            Với thánh nhân, tuy đã nhiệt thành hồi hướng, nhưng Hội thánh lúc ban đầu vẫn còn dè chừng và ái ngại. Ngại rằng, vị môn đệ nhiệt thành này lại sẽ có hành vi dối gian, trở mặt. Bởi thế nên, khi thánh nhân đặt chân ghé đến Giê-ru-sa-lem, chẳng ai dám đứng ra làm nhân chứng, để cùng tin cả. Ai nấy vẫn lo ngại rằng, có thể đây là một mánh lới mới mà thánh nhân dùng nó để xâm nhập cộng đoàn đang trong trắng. May mắn thay, nhờ có ông Ba-na-ba đứng ra bảo chứng, kịp đưa thánh nhân đến gặp các tông đồ, và  xác nhận; nên, thánh nhân “đã mạnh dạn giảng rao nhân danh Đức Giêsu” tại các sinh hoạt giảng dạy, ở Giêru-sa-lem.

            Mặc dầu thế, thánh Phao-lô vẫn gặp nhiều khó khăn với các địch thù mới người Hy Lạp. Với cả đồng Đạo người Do Thái, nói tiếng Hy. Vào lúc ấy, nhiều người vẫn coi thánh nhân là người từng phản bội lại truyền thống, rất khó tin. Vì vậy, thánh Phaolô mới phải kinh qua tiến trình cắt tỉa, như dân con Đức Chúa, vẫn lãnh chịu nhiều khổ ải. “Họ tìm cách giết ông.” (Cv 9: 29) là câu nói cho thấy tình trạng khốn khổ/cần cắt tỉa, như thế nào.

            “Anh em biết được, liền dẫn ông xuống Xê-da-ri-a, và tiễn ông lên đường về Tác-sô”. Xem như thế, nhờ có hồi hướng/cắt tiả, thánh Phao-lô đã biết “yêu thương/cải hối” không bằng “đầu môi chót lưỡi”. Nhưng, nơi thánh nhân, đã nẩy sinh nhiều hoa trái, do biết kết hợp hài hoà với Chúa, và trong Chúa. Cũng từ đó, thánh nhân đã cùng với các người anh em trong Chúa Kitô, men theo đường cận duyên, mà về với Xê-da-ri-a, một thị trấn Pelestin dọc bờ Địa Trung Hải.

            Cũng từ đây, Chúa đã mặc khải dấu hiệu là Ngài đang hoạt động cùng với thánh nhân. Ngang qua mọi người. Cũng nhờ đó, lời Chúa đã thành hiện thực, như thánh nhân viết: “Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, là nhờ Thần Khí Người ban cho chúng ta”. (1Ga 3: 24)

            Còn những ai, vì chọn lựa tư riêng của mình, mà tách lìa rời khỏi Chúa, cũng sẽ trở nên như nhánh khô bị cắt bỏ khỏi thân cành rất xanh. Và như thế, sẽ “bị người đời nhặt lấy, quăng vào lửa để thiêu đốt.” (Ga 15: 6). Tách rời Chúa, không chỉ là tách lìa, về thể chất. Tách lìa đây, là chia cách khỏi căn tính, lý lịch của người Kitô hữu. Tách lìa đây, còn là tách ly và rẽ chia, quyết chối bỏ đường lối Chúa ban. Quyết khước từ đường ngay lối chính cuộc đời mình. Và khước từ cả cuộc sống thẳng ngay để chọn lựa men theo lối mòn hạn hẹp, đầy chết choc, dối gian mịt mù.    

            Nói tóm lại, đính liền/tháp nhập và ở lại trong Chúa, ta sẽ nhận được lời hứa: “Nếu anh em ở lại trong Thầy, và lời Thầy ở lại trong anh em, thì muốn gì anh em cứ xin, anh em sẽ được toại nguyện.” (Ga 15: 7). Lời Chúa hứa, không thể coi đó như tấm ngân phiếu để ngỏ, không chữ ký. Cũng đừng coi đây như một van nài được trúng thưởng. Trúng, như trúng giải thưởng những lôtô/xổ số, đầy hấp dẫn. Trúng ở đây tức là có trúng, nhưng chẳng gạt bỏ được tên tuổi kẻ địch thù khỏi bản liệt kê danh sách. Và cũng không gạt bỏ được mọi chữa lành, cho căn bệnh nan y, cấp tính.

            Lời Chúa hứa, vẫn được dẫn nhập bằng điều kiện tiên quyết, là: cần thiết ở lại trong Chúa. Cần được Chúa dẫn dắt bằng “lời”. Bằng những điều Ngài từng phán dạy, bảo ban. Bằng thị kiến, Ngài vẫn dẫn dụ. Bằng, những điều đã được xác nhận, ở bài đọc 2: “Ta được dạn dĩ trước mặt Thiên Chúa, và nếu ta xin gì, thì ta lĩnh lấy nơi Ngài vì ta giữ lệnh truyền của Ngài, và làm những gì đẹp lòng Ngài.” (1Ga 3: 21).

            Lệnh truyền mới, nay đã là: “tin vào Danh của Con Người, tức Đức Giêsu Kitô”, “yêu mến nhau, như Ngài đã truyền lịnh cho ta.” (1Ga 3: 23). Nói được thế, chỉ những ai tiếp tục thực hiện những gì giúp ta đến gần với Đức Kitô hơn. Đến gần Ngài, để rồi ta sẽ tháp đặt Thần Khí của Ngài vào niềm tin, nơi ta. Và lời  nguyện cầu như thế, chắc chắn sẽ được đền đáp.

            Rõ ràng, là lời cuối của trình thuật còn viết rõ: “Nơi điều này Cha Thầy được hiển vinh, là anh em hãy sinh nhiều hoa trái, và trở thành môn đệ Thầy.” (Ga 15: 8). Ngõ hầu giúp Hội thánh hiểu rõ những điều nói trên, thánh I-rê-nê cũng từng viết: “Sự vinh hiển của Thiên Chúa ứ tràn nơi con người sống động, là chúng ta.”

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 6 Phục Sinh năm B

 

“Còn bao nhiêu đèn và bao nhiêu nến”

Hãy một lần mang ra thắp hết

Hãy một lần khôi phục lại, niềm vui.

(dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Ga 15: 9-17

            Nến đèn còn, nay tập trung ta thắp hết. Ân tình này, ta khôi phục tỏ niềm vui. Vui Phục Sinh. Vui tình Chúa có tỏ bày, nay thấy rõ nơi trình thuật.

            Trình thuật hôm nay, thánh Gioan lại đã thêm một chú giải về tình Chúa nói ở Tin Mừng, tuần trước. Tin Mừng tình Chúa, qua dụ ngôn cây cành nhận nhựa sống từ thân nho, là chính Chúa. Ngang qua Đức Kitô. Thu nhận nhựa sống, để duy trì tình thương tương quan với Chúa. Với nhau. Như Ngài nói: “Nếu anh em giữ các giới răn của Thầy, anh em sẽ ở trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các giới răn của Cha Thầy và Thầy ở lại trong tình thương của Người.” (Ga 15: 10)

            Ở đây nữa, Chúa không đả động gì 10 điều răn. Và, nhìn kỹ ta sẽ thấy, giáo lệnh 10 điều được người người tuân giữ mà chẳng cần ra khỏi tình chân phương, yêu thương. Bởi, có nhiều điều trong 10 giới lệnh, được diễn tả theo cung cách tiêu cực, để khi tuân giữ, ta chỉ cần kiêng cữ, chớ nên làm. Như: chớ giết người, chớ trộm cắp, chớ làm điều dâm dục, vv… Nhưng, Chúa vẫn mong ta làm nhiều hơn nữa, đâu chỉ mỗi việc xa lánh, thôi.

            Giới lệnh duy nhất Chúa muốn ta tuân giữ, là: “Anh em thương yêu nhau, như Thầy yêu thương anh em.”(Ga 15: 12). Điểm nhấn mạnh ở đây, là: hãy yêu Chúa hết lòng trí, và thương người đồng loại như chính mình. Gương rõ nét, là Đức Giêsu Kitô. Có điểm cần lưu ý, là: thánh sử Gioan không nêu Danh  Tánh Thiên Chúa, khi thánh nhân nhắc nhớ lời Chúa bảo ta yêu thương người đồng loại. Bởi, tình yêu thương người đồng loại, trực chỉ Thiên Chúa, như Ngài nói: “những gì các ngươi làm cho người hèn mọn nhất của Ta, là các ngươi làm cho Ta.”(Mt 25: 40) 

            Và thêm một chân lý khác, là: không thể nói yêu Chúa, trong khi mình chẳng yêu thương gì người đồng loại. Trái lại, bằng vào tác động rất chân phương yêu thương người đồng loại, là ta đã yêu Chúa rồi. Và, cũng có nghịch lý khác lại cho rằng: những ai chối từ, không tin Chúa, sẽ không thể có được tình thương yêu đích thật; hoặc, sẽ chẳng làm sao có thể chăm lo đùm bọc người anh em mình. Nói cách khác, một khi biết chăm lo đùm bọc người khác bằng động tác xác thực, thì khó có trường hợp luột mất niềm tin, vào Đức Chúa.

            Bài đọc 2, thánh Gioan lại cũng công bố một điều rất rõ, cứ thử nghe: “Chúng ta hãy yêu thương nhau”, như được dạy, “vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm, ai ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Còn ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa vì Thiên Chúa là Tình Yêu.” (1Ga 4: 7-8)

            Dù, không nói đến mục tiêu và đích nhắm của yêu thương, đến niềm tin hay tôn giáo khác nhau-  nhưng yêu thương vẫn do từ Thiên Chúa. Để tất cả mọi người được biết Chúa. Lý do? Vì Thiên Chúa LÀ Tình yêu. Bất cứ nơi nào trên thế gian có tình thương hiện hữu, thì nơi đó Thiên Chúa có mặt. Ngài có mặt, và được biết đến, bằng nhiều danh tánh. Ở đâu, và bất cứ lúc nào có người thật sự thương yêu, Thiên Chúa hoạt động, nơi người ấy.

            “Không tình nào cao cả hơn tình của người hy sinh tính mạng, vì bạn hữu”, đây không là lời nói suông. Nhưng, được Chúa biến thành hiện thực. Bằng nỗi khổ hình và chết nhục, trên thập tự. Và tình này, Ngài đối xử với người được yêu thương như bạn bè. Từ đó, ta biết được: ta không là tôi tớ hoặc nô lệ của Chúa. Mà là bạn.

            “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy.” Đây là công bố chính thức. Là thoả ước, giữa chính Chúa với dân con của người. Và giữa người người, tin vào Chúa.

            Bài đọc 1, còn làm sáng tỏ hơn: ai cũng có đủ tiêu chuẩn để an tâm đón nhận công bố về tình bằng hữu cao cả ấy. Thánh Phêrô lúc đầu chừng như không muốn đón nhận người ngoài Đạo, tên là Co-nê-liô, vào làm thành viên của cộng đoàn tiên khởi, cho đến ngày thánh nhân nhận ra được tình yêu thương của Chúa, và sức mạnh của thần Khí Chúa đã đến với ông. Đây là khúc ngoặt đưa đến  đổi mới trong cộng đoàn. Bởi trước đó, cộng đoàn Hội thánh chỉ chấp nhận người Do Thái, thôi. 

            Thánh Phêrô nói: “Tôi biết rõ, Thiên Chúa không thiên vị một ai. Hễ ai kính sợ Ngưòi và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng được Người tiếp nhận. “(Icv 10: 34). Đây chính là nhận định quan trọng trong quá trình phát triển cộng đoàn tình thương, mới khởi sự. Xem như thế, dân con của Chúa không thể giới hạn cho bất cứ nhóm sắc tộc, nào hết.

            Cũng từ đây, mọi người không còn là tôi tớ của nhau nữa, bởi ta đã được đưa vào “công chuyện”, của Chúa. Như Ngài nói: “Thầy gọi anh em là bạn, vì mọi điều Thầy nghe nơi Cha Thầy, thì Thầy đã tỏ cho anh em biết.” Ngài nói thế không có nghĩa, bảo rằng: ta sẽ hiểu hết mọi điều Chúa mặc khải. Đã từ lâu, dù ta nhận đón và thẩm thấu những gì mình nghe biết từ Chúa, suốt hai ngàn năm,  nhưng cũng đâu đã hiểu hết. Lại càng chưa thấm về sự thật mỗi người trong ta. Vì chính ta cũng là quà tặng Chúa gửi đến với những bí nhiệm về Chúa. Có thể nói, ta càng được chúc phúc, khi ta nhận biết tình Chúa thương ta, ngang qua mặc khải được Đức Giêsu cho biết.

            Cuối cùng, Đức Giêsu cũng nhắc ta một điều quan trọng, là: ta chịu ơn Ngài. Chứ, Ngài không thiếu nợ gì ta hết. Có nhiều người cứ nghĩ rằng: Chúa phải biết ơn mình mới đúng, vì mình yêu thương phục vụ Ngài bằng nhiều cách. Trong khi đó, biết bao người không biết Ngài, hoặc có biết nhưng rất dửng dưng. Nghĩ như thế, tức mình cũng xử sự không thua gì Biệt phái đứng nguyện cầu, ở đền thờ. Biệt phái vẫn coi thường người hèn mọn, tội lỗi. Đây là ý nghĩa của lời Chúa nói: “Không phải anh em chọn Thầy, nhưng thầy chọn anh em.”(Ga 15: 16)

            Tất cả những ta làm vì Chúa, hoặc cho Chúa, chỉ là một ứng đáp với lời gọi mời yêu thương, Ngài đưa ra. Đó là ý nghĩa diễn tả trong bài đọc 2, khi thánh sử Gioan viết: “Tình yêu Chúa đối với ta, được biểu lộ, thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một Ngài mà ta được sống.”  Và thánh sử diễn nghĩa: “Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con Một đến làm của lễ đền tội cho ta.”(1Ga 4: 10)

            Nhưng, vì lý do nào ta lại được yêu thương và chọn làm chứng tá cho tình yêu, như thế? “Thầy cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái tồn tại.” Nghe những lời như thế, có phải rằng ta chỉ cần nằm dài ra thư giãn, thoả mãn với những gì mình biết là: nay mình được Chúa chọn lựa, vì mục đích nào, cho riêng Ngài?

            Mà là, tình yêu Thiên Chúa đổ tràn trong tâm can, cần được xuyên suốt qua ta, để đến với người anh em đồng loại. Ngõ hầu, khi ta tiếp xúc với mọi người, bất kỳ vào lúc nào đó, cũng khiến cho họ suy tư, rút kinh nghiệm. Và, thấy được Chúa trong ta. Bằng không, như Tin Mừng tuần trước có nói, ta sẽ chỉ là cành nho khô, đồ bỏ, đáng quăng vào lửa đỏ, mà đốt đi.

            “Những gì anh em xin cùng Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em” điều ta xin, chắc chắn không phải là tấm ngân phiếu bỏ trống, bất chợt ta muốn có. Nhưng, đích thực phải là tình yêu thương sâu lắng, ta vẫn muốn. Muốn được kết hợp với Chúa, và với Đức Kitô trong tình yêu.

            Với ao ước sâu lắng như thế, ta sẽ chỉ thích nguyện xin những gì đem ta về gần với tương quan mật thiết với Đấng Tác tạo nên ta. Bởi, từ nơi Ngài ta được sinh ra, thì cũng cùng với Ngài, ta được mời gọi, để kết hợp suốt đời, nơi miên trường. Đó là ý nghĩa của trình thuật về yêu thương. Đó là ý nghĩa của một sai phái, từ Đức Chúa.

             

 Suy niệm Chúa nhật Lễ Thăng Thiên năm B

 

“Sự vinh thăng bất ngờ”

Là đem theo nước mắt.
Là danh dự xót xa.

(thơ Nguyễn tất nhiên)

Mc 16: 15-20

            Vinh thăng với nhà thơ, chắc chỉ đem theo những bất ngờ. Đầy nước mắt. Thăng thiên với nhà Đạo, là vinh thăng Chúa đoàn tụ, về cùng Cha. Về với Cha, là như các thánh xác nhận ở trình thuật.

            Trình thuật thánh Mác-cô, nay ghi lại một mặc khải, về niềm tin. Là, tin có Chúa vinh thăng về với Cha Ngài.  Về ở đây, không có nghĩa một nơi chốn, rất không gian. Về với Cha, là về với tương quan Thiên Chúa, nay vẫn thấy. Về với Cha, là về với cảnh huống thần thiêng, Chúa vẫn ngự. Là, đoàn tụ với Thiên Chúa, rất vẹn toàn. Sung mãn. Miên trường. 

Diễn tả chuyện này, sách Công vụ viết rõ: “Và, có đám mây quyện lấy Người.” (Cv 1: 9) Đám mây nói ở đây, là biểu tượng ám chỉ Thiên Chúa, vẫn thông thường. Đám mây ở đây, mang ý nghĩa: Chúa Cha đón rước Con Một Người, trở về vị thế Ngài vẫn có, nơi viên miễn. Đây, còn là ý nghĩa của câu nói ghi rõ ở trình thuật: “Nói xong, Chúa Giêsu được đưa về trời.” (Mc 16: 19)  

Đức Giêsu sống lại, lâu nay mang 3 ý nghĩa được ghi rõ trong Giao Ước của Đạo mình: trước nhất, là: sau cái chết khổ nhục trên thập tự, Đức Chúa đi vào cuộc sống mới, rất rõ rệt. “Ngài sẽ không bao giờ chết nữa.” Thứ đến, Ngài được chúc tụng và nâng cao, ngõ hầu cùng san sẻ vinh quang với Chúa Cha. Và, việc này dẫn đến kết quả là: Thần Khí của Cha và Con sẽ đổ tràn trên dân con của Ngài. Để như thế, cộng đoàn dân Chúa lãnh nhận trọng trách tiếp tục công trình của Chúa, tức: tiếp tục dựng xây Vương quốc Nước Trời, nơi dương thế.

Sự chết, Phục sinh và sự vinh thăng của Chúa, cộng với sự kiện Thánh Thần Chúa Hiện Xuống, hợp thành một tổng thể, được nhận biết rõ ngay vào lúc Chúa từng trải con đường khổ ải kéo dài đến Núi Sọ. Và, sự kiện tổng thể nhìn theo nhãn quan Tân Ước, đã phản ánh đại lễ của người Do Thái, kéo dài suốt 7 tuần.                 

Thành ra, với sự kiện Chúa về Trời hôm nay, ta lại nhớ đến cuộc “xiển dương” Chúa sẻ san với Cha Ngài, trong vinh hiển. Đặc biệt hơn, là thời gian 40 ngày được nói đến trong cả hai “quyển” do cùng thánh sử Luca viết, là sách Công vụ và Tin Mừng, vẫn không tách bạch hai sự kiện trên bằng con số 40 ngày.

Các bài đọc, nay cho thấy: Đức Giêsu trao cho đồ đệ Ngài bài sai rao giảng, trước ngày Ngài rời xa các thánh. Khi rời xa, Ngài giới hạn cho dân con Do Thái, thôi. Nhưng, bài sai Ngài trao ban, mang tính phổ cập khắp thế gian, chốn nhân trần. Nhận bài sai từ Thầy, các thánh nay thêm uy lực thực hiện công việc chưa hoàn tất, như đã viết: “Ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.” (Ga 14: 12). Và từ đó, các thánh có khả năng truyền rao Tin Mừng, cho mọi người.

Ngày nay, với phương tiện truyền thông rộng rãi, con dân Đạo Chúa, cùng với Đức Giáo Hoàng còn có thể rao truyền Lời Chúa qua vệ tinh, đến với truyền hình hoặc mọi báo/đài trên khắp thế giới. Và, với nền kỹ thuật tân tiến, biết đâu mai ngày sẽ còn nhiều phương cách giảng rao Nước trời, thuận tiện hơn. Và khi đó, người người trong ta, sẽ không còn nại cớ này khác mà chối từ bài sai rộng rãi ấy.

Bài sai Chúa gửi qua trình thuật, nay có 4 điểm cần lưu tâm:

 

1. Là con dân Chúa, mọi tín hữu có bổn phận truyền bá thị kiến sống động bao gồm nơi Tân Ước. Cần nhắc lại, đây không là trọng trách của riêng ai. Cho dù là giáo sĩ hoặc tu sinh nam nữ. Nhưng, là trách vụ của tất cả dân con Đạo Chúa, cũng là đồ đệ của Ngài. Trách vụ, Chúa phú ban. Thế giới xưa, chịu ảnh hưỏng nhiều của một Châu Âu gồm toàn những vị có quan niệm hạn hẹp. Những người, chuyên kềm giữ giáo dân bằng lòng yên nghỉ trong tư thế thụ động, rất phụ thuộc. Thế giới đó, nay không còn nữa, dù Châu Âu có hung hãn một thời.

2. Hội thánh Chúa có vai trò chữa lành, hết mọi người. Là tín hữu, ta không chỉ quan tâm có “linh hồn” người trong Đạo. Toàn vẹn tư cách của con người, mà ta cần có kinh nghiệm từng trải về hiệu quả ơn cứu độ, cả tinh thần, trí óc, cảm xúc, xác thân, lẫn môi trường. Bản thân Đức Chúa, Ngài từng bỏ giờ ra để chữa lành người tật bệnh. Chữa lành, là chữa cho lành mạnh cả phần hồn, lẫn thân xác. Quyết, đưa mọi người về với giao hoà, tránh lỗi phạm. Nghịch chống giao hoà, là lỗi phạm, sẽ tạo ảnh hưởng thấy rõ trên cảm xúc, cũng như thân xác. Thành thử, không phải chỉ đến toà cáo giải, trút gánh tội trần hoặc đến bệnh viện để chữa lành, mỗi thân xác, là đã đủ. Làm thân tín hữu, ta được mời gọi dính dự vào công việc chữa lành.

3. Đức Giêsu hứa gửi Thần Khí Chúa xuống ban thêm uy lực cho đồ đệ Ngài. Uy lực đây, không là quyền bính chính trị. Hoặc kinh tế. Cũng chẳng là quyền uy trần thế mang bộ mặt hệ cấp trên dưới chính quyền. Quyền uy đây, sẻ san cho hết mọi người, đến từ thị kiến sáng rực mà cuộc sống cần mặc lấy. Là, uy lực đến từ con tim, có trọng trách mang đến cho mọi người vào thời điểm gặp yếu đuối. Là, hy vọng vào lúc hãi sợ hoặc tuyệt vọng. Là, quyền uy sức mạnh nằm bên trên tất cả, mang đến cho ta ý nghĩa cuộc sống, mọi hoàn cảnh.

4. Cộng đoàn dân Chúa không bao giờ xử thế, cách đơn độc. Bởi, Chúa có hứa: “Thầy sẽ ở lại với anh em, mọi ngày cho đến ngày thế tận.” Ngài vốn là Đấng E-ma-nu-en, tức Chúa ở cùng chúng ta. Ngang qua Thần Khí Chúa, Đức Giêsu tiếp tục hoạt động với/và ngang qua dân con của Ngài. Và vì thế, chúng ta mang trong người niềm tin tưởng sẽ giáp mặt Ngài nơi diện mạo của mỗi người anh em, trong chúng ta. Nói cách khác, ta sẽ nhận diện Chúa nơi mỗi người, riêng lẻ. Như Chúa nói: “Điều gì anh em làm (hoặc chưa từng làm) cho một trong những người anh em hèn mọn nhất, là anh em đã làm (hoặc chưa từng làm) cho Thầy.”

 

            Chẳng thế mà, nơi các người anh người chị ta gặp trên đường đời, tức là ta đã:

-diện kiến giáp mặt với chính Chúa, là bởi sự tử tế đích thực, hoặc tình thương yêu, độ lượng, lòng xót thương, can đảm, hoặc ưu tư giùm giúp mọi người khác…

-nhìn thấy người nào đó, có nhu cầu sờ chạm vào người Chúa, là do bởi sự dữ/ác thần hoặc những hành xử không thích hợp, tính ghen ghét oán giận, bạo lực hoặc yếu kém, tật bệnh, cô đơn tuyệt vọng…

 

            Buổi tiệc thánh lễ Chúa về trời sẽ nhắc nhở cả ta nữa, về sự đổi mới sống lại của riêng ta, khi bản thân Ngài “sẽ vực dậy thân xác dẫy đầy sự chết của ta, và làm cho chúng trở nên giống hệt thân mình vinh quang của Ngài”. Cả vào khi “mọi giọt nước mắt sẽ được chùi sạch..”. Cả vào lúc ta vui mừng diện kiến Chúa, trong tư thế tư riêng, của mỗi người.                      

                  

Suy niệm Chúa Nhật Lễ Hiện Xuống năm B

 

“Mà sóng lòng dồn dập như mây trôi”

sóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ

dâng cao lên, cao tột tới trên trời.”

(thơ Hàn Mặc Tử)

Ga 20: 19-23

            Sóng lòng nhà thơ, dâng cao lên, cao tột tới trên trời. Tâm can nhà Đạo, dồn dập như mây trời đầy Thần Khí, cứ tuôn ra. Thần Khí Chúa, luôn tuôn trào đổ xuống nơi tâm tư nhà Đạo, như trình thuật hôm nay, quyết mô tả.

            Trình thuật hôm nay, thánh Gio-an lại diễn tả mầu nhiệm rất thánh, Chúa cứu độ. Nơi nhiệm mầu cứu độ, Chúa báo trước việc Ngài gửi Thần Khí đến với dân con nhà Đạo, rất thân thương. Thần Khí đến, là thực tại sóng lòng dồn dập, suốt tâm can. Nơi mây trời, người nhà Đạo.

            Trình thuật thánh Gio-an hôm nay, cũng được trích dẫn vào ngày Chúa Sống Lại. Vào khi ấy, Chúa báo hiệu Ngài gửi Thần Khí đến với môn đệ, và uỷ thác cho các thánh, sứ vụ giảng rao Tin Mừng, niềm vui đến. Hai trình thuật, diễn tả hai tình huống khác nhau. Nhưng, cùng một thực tại sống động. Với thực tại này, thời gian và không gian không là chuyện quan trọng. 

            Quan trọng là: hôm ấy, môn đệ Chúa rất hãi sợ chuyện liên lụy. Sợ, bị nhốt giam hoặc hành hình, như Thầy mình. Nên, đã “cửa đóng then cài”, rất cẩn trọng. Bất chợt, Thầy hiện đến ở với các ngài. Thầy chào đồ đệ bằng câu lời chào thông thường, rất “Shalom”. Ở đây nữa, lời chào thông thường ấy, đã mang ý nghĩa của một lời chúc hoà bình: “bình an thật ở cùng anh em”.     

            Chào bình an, lời chúc gửi đến với đồ đệ/người thân, luôn mang theo một sứ điệp quan trọng. Thật rõ ràng. Rõ ràng, ở điểm: nơi đâu có Chúa hiện diện, nơi đó luôn có bình an đích thực. Sinh động. Rất vui sống.

            Và khi có được bình an vui sống Chúa trao ban, thì kế tiếp Chúa đính kèm một sứ vụ: “Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai  anh em.” “Thầy sai đi”, là lời nhắn nhủ: anh em cứ đi đi mà truyền cho nhau cây “gậy” tiếp sức. Nghĩa là, ta hãy trao cho nhau công tác Chúa uỷ nhiệm, để rồi “Nước Chúa ở gian trần”, sẽ mau chóng được thiết lập, thôi. 

            “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông”, tiếng Hy Lạp cụm từ “thổi hơi” “Thần khí” mang cùng ý nghĩa tương tự. Thổi hơi, để nhớ lại động tác Thiên Chúa từng làm, khi Người “thổi” Thần khí sống động vào bụi đất và đưa người đầu tiên trong trần gian đi vào hiện hữu. Đích thực. Ở đây nữa, động tác này mang tính cách một loại hình đầy sáng tạo. Tựa như, ta cùng với Chúa đồng công-sáng tạo “con người mới”, tức ý nghĩa mà thánh Phao-lô đề cập đến trong thư gửi các cộng đoàn: “Người tràn đầy Thần Khí Chúa, và được sai phái tiếp tục công việc Ngài vẫn làm.”

            Làm theo phương cách nào? Và đây, là giải đáp Chúa đưa ra:“Anh em tha lỗi cho ai, người ấy sẽ được tha. Anh em cầm buộc ai, người ấy sẽ bị cầm buộc.”(Ga 20: 23). Nói thế, có nghĩa là: công việc của chúng ta nay là tác động của việc hoà giải. Hoà giải, giữa Thiên Chúa với con người. Hoà giải, giữa mọi người với nhau. Hoà giải, để: những anh em lâu nay lầm lỡ, sẽ trở thành con cùng một Cha. Hoà giải, để ta có thể chữa lành mọi đớn đau/tật bệnh. Và, để xoá bỏ mọi hờn căm/chia rẽ, ngõ hầu, dựng xây Nước trời Ngài gọi mời.

            Hội thánh lâu nay dùng đoạn Tin Mừng hôm nay, làm nền tảng cho Bí tích Hoà Giải. Nhưng, ý nghĩa của lời Thầy uỷ thác, còn đi xa hơn. Lời Thầy không chỉ giới hạn trong khuôn khổ một Bí tích, thôi. Nhưng, mang tầm vóc rộng rãi hơn.

            Bài đọc 1, cũng đề cập rõ hơn ý nghĩa này. Cũng là ý nghĩa, đã được thánh Luca diễn giải trong sách Công Vụ Tông Đồ, mà nhiều nhà chú giải đã kết nối với cuộc “Xuất hành lớn”, ở Cựu Ước. Tức, gợi nhớ dân con Đạo mình, về với biến cố Chúa giải thoát dân Người, khỏi cảnh làm thân nô lệ, đất Ai Cập.          

            Ở đây nữa, biến cố nói ở trên còn bao gồm nhiều yếu tố rất súc tích, như:

 

1.    “Cơn gió mạnh” hàm ngụ Thần Khí đến, Tin Mừng thánh Gioan gọi là “Ngài thổi hơi

2.    “Thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như lửa, tản ra đậu trên từng người một”, Lời Ngài đây qui chiếu về trình thuật “Xuất Hành”, có ý nói đến quyền uy và sức mạnh của Thiên Chúa đang hiện diện. Đọc kỹ tin Mừng, hẳn ta sẽ nhớ đến hình ảnh “Lùm cây bốc lửa”, khi Thiên Chúa chuyện vãn với ông Môsê, và sau đó, trao cho ông sứ vụ về với dân mình. Ở đây cũng nhắc ta gợi nhớ đến “cột lửa về đêm”, luôn tháp tùng/dẫn đưa dân Do Thái qua hành trình trên sa mạc. Nói đến lửa, mọi người thời ấy đều hiểu rằng: không ai bị bỏ rơi, đơn độc.

Kỳ diệu ở đây, là: sự việc diễn tiến nơi trình thuật dẫn đến hiệu quả tuyệt vời, nơi các ngài.

Các thánh hôm đó, tuy vẫn “kín cổng cao tường”, sợ bị bắt. Các ngài cứ tưởng như mình bị “cơn gió mạnh” cuốn hút khỏi phòng họp, biến đi mất. Nhưng ngược lại, các ngài lại được chính “ngọn gió lành” ấy, thôi thúc việc sẻ san kinh nghiệm mình từng trải. Và như thế, là các thánh đã hội ngộ cùng Thần Khí Chúa, qua Thầy mình. Cũng từ đó, mọi đe doạ về những hành hình và bách hại, đã không còn cơ sở để khiến các ngài hãi sợ, nữa.

            Bằng vào kinh nghiệm mình đang có, các thánh nay được trao ban quyền lực có đối thoại, và chuyển tải. Kể từ lúc đó, sứ vụ của các ngài được mọi người đều biết đến. Các thánh không còn gặp trở ngại về ngôn ngữ, kiểu Babylon tháp ngà khi xưa. Kinh nghiệm đây, không phải là kinh nghiệm “nói tiếng lạ”, với mọi người. Nhưng, là kinh nghiệm cho thấy: sứ vụ Chúa uỷ thác cho mọi người, là thông điệp rất dễ hiểu. Hiểu rất dễ, vì thông điệp ấy chính là Lời Vàng Ngọc của Đức Kitô, nay đạt phần sâu thẳm nơi tâm can, của mỗi người.       

            Từ nay, không ai là “dân riêng Chúa chọn”. Nhưng, mọi người đã là con dân Đức Chúa. Bằng nhau. Như nhau. Tất cả đều đã được Chúa kêu mời. Còn lại là chuyện có đáp trả hay không, là tuỳ mỗi người. Và, mọi người. Đáp trả, là đối đáp và ứng phó với lời mời gọi, từ Chúa. Đáp trả, là hành động tự do, không thúc ép. Đáp trả, là để ta ra đi mà dựng xây Nước Trời. Ở trần gian. 

            Thần Khí Chúa đến với anh em, việc này đem lại kết quả ra sao?

            Bài đọc 2, thánh Phaolô đã minh chứng: “Không ai nói được Đức Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí”. Gọi Đức Giêsu là “Chúa”, không có nghĩa: chỉ thốt lên lời ca tụng, rất sốt sắng. Nói được lời như thế, phải có lòng tin đích thực. Tin vào Đấng được gọi là Giêsu Kitô. Tin, còn là chứng tỏ việc ấy có thể xác minh bằng đường lối ta vẫn sống.

            Thêm nữa, Thần Khí là cội nguồn của mọi quà tặng rất đặc biệt, tức “đặc sủng”, mà mọi thành viên cộng đoàn dân Chúa, lâu nay vẫn nhận lãnh. Cội nguồn đặc sủng, chỉ là một. Một Thần Khí. Một Đức Chúa. Đấng Hiệp Nhất, con dân Ngài về một mối, tức cộng đoàn.

            Nhưng, quà tặng cũng có nhiều loại. Nhiều cách. Cách gì đi nữa, cứ nhớ rằng: quà tặng ban, sẽ không là ân huệ tư riêng, của một ai. Ân huệ tư riêng là khả năng đặc biệt, mà mọi người được phép sử dụng ngõ hầu phục vụ lợi ích của cộng đoàn. Chính vì thế, mọi người chúng ta phải hợp tác. Phải cùng hành động. Cùng sử dụng chung quà tặng Ngài ban, ngõ hầu dựng xây cộng đoàn, cho tốt đẹp.

            Nếu đếm, ta vẫn thuộc về số đông. Nhưng, bằng vào hoạt động của Thần Khí, ta đã thực sự trở nên một. Một Thân Mình. Một Đức Kitô. Tuy bao gồm nhiều cơ phận. Nhưng, mọi cơ phận đều hoạt động theo cung cách duy nhất. Và, nhờ Thân Mình Chúa làm Một với ta, mọi người sẽ góp phần tư riêng của mình, cho cuộc sống. Cho hoạt động của cộng đoàn. Đó, là điều mà thánh Phaolô muốn nói: “Là Do Thái, nô lệ hay tự do, ta đều đã chịu phép rửa. Trong cùng một Thần Khí, để trở nên một thân thể. Tất cả chúng ta được tràn đầy một Thần Khí duy nhất.” (1Cr 12: 13)

            Thần Khí đây, là đường dẫn đến tự do đích thực. Có giải thoát. Thần Khí đây, không là đường lối của nô lệ. Nhiều cưỡng bức. Rất tham lam. Nghiện ngập hoặc hãi sợ. Qua Thần Khí, ta có được tương quan mật thiết với Chúa. Tương quan đặc biệt cho phép ta được gọi Ngài: “Cha ơi!”. Đầy tràn một Thần Khí, ta trở nên con cái Chúa, theo ý nghĩa trọn vẹn nhất. Ta lại được trở thành hình ảnh của Thiên Chúa, nữa.

            Thần Khí biến cải ta thành người đồng thừa tự với Đức Kitô trong việc “cùng khổ đau với Ngài, để rồi sẽ cùng Ngài và trong Ngài, rất quang vinh”. Khổ đau đây, không giới hạn tự do ta đã có, bởi lẽ với quyết tâm trọn vẹn xả thân cho sự thật. Cho tình thương. Cho tư do đích thực. Cho phẩm giá con người, để ta được chuẩn bị mà trả giá cho bất cứ sự đầu hàng nào, nếu thấy cần. Không cậy nhờ Thần Khí, ta chẳng bao giờ thấy được hạnh phúc. Trong cuộc đời.

 

   

Suy niệm Chúa nhật Lễ Chúa Ba Ngôi năm B

 

“Chúng ta đến nghe nỗi sầu tinh tú”

Những ngôi sao buồn suốt một chu kỳ,
Những đám tinh vân sắp sửa chia ly,
Và sao rụng biếc đôi tay cầu nguyện

(“Đường Vào Tình Sử”, thơ Đinh Hùng)

Mt 28: 16-20

            Đường vào tình sử, nhà thơ nghe nỗi sầu tinh tú. Cất bước ra đi, nhà Đạo tìm thấy niềm vui ở Tin Mừng. Niềm vui, là niềm tin Đức Chúa có Ba Ngôi, đã mặc khải ở trình thuật.

Trình thuật hôm nay, thánh Mát-thêu ghi về người dân địa cầu không mang nỗi sầu tinh tú, nhưng rất tin. Tin, Chúa Ba Ngôi yêu thương kết hợp. Tin, mầu nhiệm huyền bí Chúa Ba Ngôi. Tin, vẫn một niềm, nhưng không giải thích bằng ngôn ngữ, với loài người.

Thánh Phaolô, bằng vào ánh sáng của lý trí và lẽ phải, mà con dân địa cầu biết rõ Thiên Chúa là Đấng tạo tinh tú. Vũ trụ. Cội nguồn. Là, nguyên nhân làm thành vũ trụ. Có một điều, mọi người không thể hiểu, khi vào bản chất sâu lắng của Thiên Chúa, đã mặc khải cho ta, nơi Tân Ước.

Không hiểu hết mặc khải, nhưng ta chấp nhận những khó hiểu ấy, bằng tin-yêu. Tin, như tin vào bản chất của nhiệm mầu. Tin, như tin vào mặc khải, ta nói được chỉ một Chúa. Đấng thấu biết mọi chuyện. Đấng, có quyền trên mọi sự. Đấng, thương yêu hết mọi người.

Thánh Tôma A-qui-nô xưa từng bảo: điều ta nói về Chúa, đều mang tính mâu thuẫn ngay trong tâm. Bởi “Chúa là Sự Thật”, nhưng không là sự thật ta nắm bắt. “Chúa là Tình Thương”, nhưng không là “thương tình” ta kinh nghiệm. Từng trải. Vả lại, ta nào có thể từng trải kinh nghiệm Thương Yêu giữa Ba Ngôi. Cũng chẳng rõ biết sự trong sáng Chúa vượt quá đầu óc hạn hẹp, của con người.

Bài đọc 1, sách Thứ Luật viết: ta biết Chúa, không bằng óc não, nhưng bằng kinh nghiệm riêng tư ta có về hoạt động của Chúa nơi sự sống. Đó, là điều Môsê từng khẳng định: “Có dân nào được nghe tiếng Chúa phán từ đám lửa như anh em đã nghe biết, mà vẫn sống? Có thần nào lại ra công chọn lấy cho mình một dân tộc từ dân tộc khác. Dùng bao thử thách, dấu lạ, điềm thiêng và chinh chiến, đã dang cánh mạnh mẽ uy quyền, gây kinh hồn khiếp đảm, như Đức Chúa?´(ĐNL 4: 334)

Qua mặc khải, ta được biết: trong Chúa, có Ba Ngôi vị: Cha, Con và Thánh Linh. Mỗi Ngôi vị san sẻ trọn vẹn bản thể Đức Chúa. Là, chính Thiên Chúa. Mặc khải rằng, mỗi Ngôi vị đều khác biệt. Khác, do quan hệ giữa các Ngài: giữa Cha và Con, giữa Con với Cha. Và, tình Thương Cha-Con, ngay tự bản chất, là Ngôi Thứ ba, Chúa Thánh Thần.

Xác tín ấy, ta chẳng làm được gì để nắm bắt được trọn vẹn ý nghĩa của Tương quan giữa các Ngôi Vị của Thiên Chúa. Nhưng, tương quan giữa Chúa nói lên một điều, là: khi đã tin, ta sẽ không còn ý định chỉ tìm giải thích những điều không thể lý giải. Nói cách khác, chẳng thể minh xác công thức “3=1”, được. Cũng không thể bảo: mỗi Ngôi vị là 3 Ngôi vị, nhưng chỉ nói: một Thiên Chúa có 3 Ngôi vị. Rõ ràng, khác biệt giữa từ ngữ “Chúa” và “Ngôi vị”, là ý thế.

Rõ ràng là, ý niệm như thế vượt quá kinh nghiệm của mọi người. Vượt, óc tưởng tượng của nhân gian. Thế tục. Vượt như thế, tự khắc giải quyết được huyền nhiệm. Thế giới của ta, có nhiều sự việc vượt quá sức hiểu biết trọn vẹn. Vượt, toàn bộ não trạng tưởng tượng, đang nhen nhúm. Đầu thái cực này, là sự bao la vĩ đại, của vũ trụ. Đầu bên kia, là yếu tố cực vi, như: điện tử, nguyên tử, rất nơ-trôn.

Trên thực tế, cụm từ “Ngôi vị”, xuất xứ từ tiếng La-tinh “Persona, không chỉ có nghĩa “người” phàm, mà còn có vai trò người nghệ sĩ thủ diễn, trong kịch nghệ. Kịch nghệ cổ La Mã, có thói quen để cho các nhân vật khi diễn xuất được phép đeo mặt nạ (gọi là persona), nhằm nói lên vai trò mình thủ giữ. Cũng tựa như kịch nghệ Hồ Quảng/hát bộ bên Trung Quốc, có tục vẽ mặt cho diễn viên để biết nhân vật ấy là ai.

            Tầm nguyên cụm từ Persona bên tiếng La-tinh, ta thấy giới tự “per” tức “ngang qua”, sona” xuất từ chữ “sonum” nghĩa là “âm thanh”. Tức, persona (Ngôi vị)  là người mà qua đó, diễn viên nói cho biết tính chất của nhân vật. Với kịch nghệ Hy Lạp, tức nguồn gốc mà phần đông người La Mã đã rút tỉa kinh nghiệm dựng xây nền kịch nghệ của mình, thì “persona” (ngôi vị) hoặc “mặt nạ” được gọi là “prosopon”  theo nghĩa của cụm từ, là thứ gì hiện diện ở trước mặt.

            Suy tư về Ba Ngôi Thiên Chúa, cụm từ “Ngôi vị” liên kết với Chúa, được coi như có liên quan đến truyền thống cổ xưa. Nơi Chúa, có 3 vai trò rõ nét: vai trò của Cha, Con và Thánh Thần. Có thể nói, ta không đủ khả năng để đi sâu vào thực tại sâu thẳm của các vai trò này, là bởi không thể tự giúp mình hiểu được điều đó, khi tìm hiểu tại sao mà mỗi Ngôi vị lại có thể thực hiện vai trò của các Ngài được như thế.

            Cha, là Đấng Tạo Hoá, Đấng Bảo Tồn, Nguồn Cội sự sống, của muôn loài. Ngài là Đầu Hết và Cuối Hết, của mọi sự.

            Con, là Ngôi Lời, nhờ Ngài và qua Ngài, Bản Chất Thiên Chúa được thông truyền cho ta. Con đã Nhập thể làm người. Tức, Ngài chấp nhận toàn bộ bản chất con người. Và, Ngài sống rất sinh động trong ta. Với ta. Ngài là Lời của Thiên Chúa, Đấng tự thông truyền. Ngài giúp ta hiểu rõ, bằng Lời và bằng các hoạt động của Ngài. Nhất thứ, là bằng toàn bộ phương cách sống động cũng như Bản vị của Ngài. Nhờ vào đó, ta hiểu được Thiên Chúa, đậm nét hơn.

            Dù thế, ta vẫn chỉ thấy Chúa “trong làn gương mờ của mây mù”; bởi, tính Người của Đức Giêsu giới hạn khả năng thực tế rất trọn vẹn mà Chúa mở ra, cho ta biết. Tình thương của Đức Giêsu tạo cho trí óc của loài người chúng ta chỉ đạt được giới hạn của hiểu biết. Nhưng, tất cả vẫn là bóng hình mờ nhạt của Tình Thương, có trong Ba ngôi Đức Chúa, thôi.

            Thánh Thần, là sự hiện diện của Thiên Chúa trong toàn bộ thế giới. Và, trong Hội thánh Chúa. Nhờ Thánh Thần, mà Hội thánh Chúa được dẫn đi và đưa dắt vào toàn bộ sự thật. Thánh Thần, như ta biết, là linh hồn của Hội thánh. Nhờ Thánh Thần, Hội thánh mới thật sự mặc lấy hình hài của Đức Kitô.

            Trình thuật Chúa Về Trời, hôm trước Chúa nói rõ việc uỷ thác Ngài nhận từ Chúa Cha. Đặc biệt hơn cả, Ngài ra lệnh cho con dân Hội thánh hãy mời gọi toàn muôn dân nước trở về làm đồ đệ của Ngài, bằng cử chỉ:“Hãy làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha, Con và Thánh Thần.’ (Mt 28: 19). Trọn vẹn ý nghĩa của thanh tẩy, đi xa hơn nghi thức ta vẫn tưởng, là: dẫn đưa ta vào với Vương Quốc của Đức Chúa, cách trọn vẹn.

            2000 năm qua, vẫn như thế. Việc ủy thác được ban ra với mọi thành viên của Hội thánh để mọi người được tháp nhập vào cùng một cộng đoàn bằng việc thanh tẩy, trong nước. Khi thanh tẩy, lời cam kết về Chúa Ba Ngôi vẫn cho họ biết, về nhiệm mầu này. Với tân tòng, Cha đã trở thành Nguồn gốc và Cứu cánh của sự sống. Con, trong Đức Kitô, đã trở nên mẫu mực; và ngang qua Ngài, mục tiêu ấy đã đạt. Và, Thánh Thần đã trở thành nguồn mạch năng động, mà ngang qua Ngài, ta đến được với Cha, ngang qua Con, là Đức Chúa của ta.     

  

 

Suy niệm Chúa nhật Lễ Mình Máu Chúa năm B

 

“Thôi quay về trú ngụ, với cô đơn”

ở một nơi, thiên đường tôi chết đuối
nỗi nhớ em, ướt nhòa trong bóng tối
ôi tình yêu, xa tít phía mặt trời

(dẫn từ thơ Phạm Ngọc)

Mc 14: 12-16, 22-26

            Vẫn cô đơn, làm sao chết đuối ở thiên đường? Còn nỗi nhớ, ôi tình yêu xa tít, phía mặt trời! Xa tít chốn thiên đường, đâu nằm phía mặt trời, mà nhà thơ đòi trú ngụ. Mặt trời, thiên đường nay nhà Đạo tôn vinh. Tôn vinh Mình Máu Chúa, có trình thuật.

            Trình thuật nay, thánh Mác-cô nhấn mạnh về Tiệc Mình Máu, một giao ước Chúa hằng ký kết. Giao ước Ngài ký, luôn ghi nhận tình thương giao hoà Ngài mang, suốt hành trình. Giao ước Ngài ký nhận, là nối kết hai truyền thống có Chúa. Có dân gian.  

            Giao ước, là khế ước Chúa long trọng ký kết với dân gian hết tâm tình vào buổi đầu. Và, Chúa mặc khải cho thấy: Ngài luôn vui lòng lập giao ước với con dân của Ngài. Tuy nhiên, Kinh thánh cho biết: dân con của Ngài đã bội ước với lời nguyền, sau giao kết. Chính vì thế, các lãnh tụ kêu cầu Chúa xót thương, kiên nhẫn chờ cho ngôn sứ ra tay khiển trách đàn dân bất trung. Lỗi hẹn.

            Bài đọc 1, nêu rõ chi tiết được ký kết trong Giao ước, bằng sắc luật Chúa tỏ bày với Môsê, ở núi thánh Sinai, để rồi ông sẽ chuyển lại cho dân chúng. Khi ấy, tất cả đồng thanh cam kết: “Mọi lời Ngài phán, chúng tôi sẽ thi hành.” (Xh 24: 3) Lời hứa ấy, đã trải qua tu chính bằng nghi tiết long trọng. Nghi tiết, ở nơi bàn thờ do Môsê thiết dựng. Có của lễ. Có đá tảng vòng quanh. Bàn thờ, tượng trưng cho Thiên Chúa. Đá tảng, ảnh hình của 12 chi tộc, đất Israel.

             Người trai hiên ngang dấn bước, tiến lên hy sinh làm của lễ toàn thiêu cho Thiên Chúa. Phân nửa máu đào của loài thú còn lại, rắc đều lên bàn thờ. Và khi Môsê đọc toàn bộ sắc luật, tức Giao Ước, thì toàn dân cất lời cam kết chu toàn bổn phận, ghi trong đó.

            Tiếp đến, Môsê dùng phân nửa số máu còn sót lại rưới lên người chúng dân, và nói: “Đây, Máu Giao ước, được thiết lập với anh em.” (Xh 24: 8). Đây, máu đào rưới lên bàn thờ. Và, lên người dân chúng. Nhưng, đừng lấy làm lạ nếu lời lẽ ta nghe, xem chừng đã quen.   

            Trình thuật hôm nay, cũng đưa ta về với Tiệc Tạ Từ, Chúa mở ra cho đồ đệ của Ngài. Hôm ấy, ngày đầu tuần Bánh Không Men, ngày sát tế chiên Vượt Qua. Lễ Phục Sinh được cử hành, kể từ đó. Đây là biến cố trọng đại nhất trong niên lịch của người Do Thái. Ngày, mọi người mừng kính cuộc giải thoát do Mosê lãnh đạo, nhằm cứu dân khỏi cảnh nô lệ, xứ Ai cập.

            Đêm trước ngày người Do Thái rời Ai Cập, họ giết một chiên con và ăn thịt chiên ấy. Máu chiên được bôi phết lên cửa ra vào, mọi nhà. Làm thế, để mọi bé trai đầu lòng được cứu thoát khỏi bàn tay lạnh, của thần chết. Các cháu được cứu, bằng máu của chiên cừu.

            Nay, Đức Giêsu và đồ đệ Ngài, chuẩn bị Lễ Vượt Qua, tức lễ Phục Sinh, như ta đà biết. Với các thánh tông đồ, lễ kỷ niệm này không là nghi thức bình thường, rất Vượt qua. Nhưng, đã khai phá một kỷ nguyên mới. Một giao ước mới. Cho dân mới.

            Khi mọi người tề tựu về ăn lễ, Đức Giêsu cầm lấy bánh không men –thời bấy giờ dùng bánh không men, vì men bánh là hình thức của ô uế, hỗn tạp-  Ngài chúc lành theo truyền thống, bẻ ra và phân phát cho các môn đệ đang hiện diện, rồi nói:“Anh em hãy cầm lấy mà ăn, này là mình Thầy.” Thân mình Thầy, không là thân xác của Ngài thôi, mà là toàn bộ con người. Là, tất cả những gì Chúa muốn nói, ngang qua đời Ngài. Nói, bằng lời. Nói, bằng việc làm.

            “Cầm lấy mà ăn”, Chúa xác định ta là người của Chúa, rất trọn vẹn. Trọn vẹn, theo sứ vụ Chúa giao phó. Trọn vẹn, theo thị kiến cuộc đời. Cầm lấy mà ăn, không chỉ tư cách cá nhân, nhưng với tư cách của tập thể, kết hợp. Kết hợp, tất cả cùng ăn chung tấm bánh. Hiền hoà. An bình.

            Cũng một cách tương tự, Đức Giê-su cầm lấy chén, đọc lời cảm tạ lên chén (tiếng Hy Lạp gọi là: eucharistesas), rồi trao cho môn đệ, để tất cả uống chung một chén. Và, Ngài nói: “Này là Máu Thầy, Máu Giao Ước sẽ đổ ra vì nhiều người.”  (Mt 26: 28)

            “Máu của Thầy”, diễn tả toàn bộ con người Đức Giêsu. Máu, không còn là máu chiên, máu bò nữa. Nhưng, là Máu rất Thánh của Ngài. Trên bàn thánh thập giá. Máu, đổ ra cho mọi người chúng ta. Bằng vào nghi thức này, Đức Giêsu cử hành Giao Ước Mới, thiết lập bằng cái chết, của Ngài. Và Máu Ngài trao, rưới vẩy lên bàn thờ thập giá. Làm thế, Ngài vừa là Vị Thượng tế, vừa là Của Lễ Hy Sinh. Hy sinh, tặng chính Mình Ngài.

            Bài đọc 2, thánh Phaolô viết và gửi giáo đoàn Do Thái bức thư, trong đó nói: “Đức Kitô đã vào thánh điện  -duy chỉ một lần- không phải với máu dê máu bò, nhưng với Máu của chính mình Ngài, và lãnh được ơn cứu chuộc vĩnh viễn, cho chúng ta.” (Dt 9: 12).

            Giả như, máu loài thú rưới vẩy lên những gì uế tạp mà còn thánh hoá được họ, thì “Máu của Đức Kitô càng hiệu lực hơn biết mấy. Nhờ Thánh Thần Chúa hữu thúc đẩy, Đức Kitô đã thanh tẩy lương tâm ta khỏi mọi sự việc đưa đến chết chóc, mà phụng sự Thiên Chúa hằng sống.” (Dt 9: 14)

            Chính vì thế, thánh Phaolô quả quyết: “Đức Giêsu là trung gian của Giao ước mới, Ngài lấy cái chết để chuộc lỗi loài người đã phạm vào thời giao ước cũ.” (Dt 9: 15). Nhờ thế, khi cầm “chén Máu Chúa” mà uống, ta đồng hoá với Đức Giêsu. Đồng hóa, với tâm tình hy sinh của chính Ngài. Và ngang qua tẩy rửa, giao ước mới giữa Chúa với dân Ngài, được thiết lập. Làm thế, ta nhất quyết theo Chúa, qua Đức Giêsu. Đổi lại, Ngài tự hiến Mình để tất cả sẽ thành Đường, Sự thật và Sự Sống.

            Ta làm thế, vào mọi Tiệc Thánh Thể, suốt cuộc đời. Lễ Vượt Qua khi xưa, tạo cho ta con đường dẫn đến Vượt Qua mới. Bánh không men xưa, tạo đường cho ta đi đến với Bánh hằng sống, tức Thân Mình Chúa. Chén rượu ta uống, tạo thành chén Máu cứu chuộc Ngài đổ ra vì tình thương ta. Và, ta làm việc ấy từ nay đến mãn đời. Ngõ hầu nhớ đến Ngài.

            Nghi thức phụng vụ sẽ chẳng mang ý nghĩa gì đích thực, phi trừ diễn tả trọn vẹn những gì mà cộng đoàn ta đang trở thành. Và, muốn trở thành dân con của Giao ước mới. Ta quyết tâm thực hiện sứ vụ Chúa giao phó, nơi Đức Giêsu. Ngài giao phó, mỗi lần cộng đoàn tụ tập quanh tiệc phụng thờ.

            Ở đây, hệt như người Do Thái đã từng làm dưới chân núi thánh Sinai, ta tụ tập để nghe Lời Chúa. Ở đây, ta tái lập Giao ước đã hứa, là theo chân Chúa, đến cùng. Tụ tập nơi đây, quanh bàn thờ này, ta cùng ăn và cùng san sẻ với nhau, một tấm bánh. Một chén cứu độ.

            Qua kết hợp làm chứng cho Sự thật, và Tình Yêu đích thật được ban ra, qua phụng vụ và trong cuộc sống thường nhật, ta tuân thủ giao ước ấy. Là dân con của Chúa, ta kéo mọi người về với kinh nghiệm của giao ước ấy.

            Chính vì thế, đối với ta, cử hành phụng vụ Chúa Nhật với lòng sốt mến. Có phẩm cách. Có niềm vui thông hiệp. Đó là việc làm quan trọng. Còn gì quý bằng cử hành Tiệc Thánh, trong cuộc đời. Có làm thế, ta mới thực sự phản ánh cuộc đời, ta đang sống. Và Tiệc thánh chỉ có ý nghĩa tốt đẹp, nếu toàn thể cộng đoàn cử hành trong hiệp nhất. Sốt mến. Hài hoà.         

   

                  

 

Suy Niệm Chúa nhật thứ 12 thường niên năm B

 

“Cho tôi uống cùng em ly hạnh phúc”

rượu trăm năm cất bởi trái tim buồn
bởi máu ta, bởi lệ nữa, ân cần
đã chảy miết từ khi hồn thất lạc.”
(Dẫn từ thơ Du Tử Lê)

Mc 4: 35-41

            Anh thấy không, nhà thơ nay mong uống cùng anh ly hạnh phúc. Về nhà Đạo, người người vẫn uống rượu trăm năm cất bởi trái tim. Tim không buồn, nhưng vẫn chảy. Chảy miết từ hồn vui phách lạc của Đức Chúa.

Trình thuật thánh Mác-cô nay lại đã ghi về Đức Chúa có con tim thôi thúc dân con Do Thái, theo chân để được chúc phúc. Theo chân Ngài, chúng dân nghe Lời Ngài dẫn dụ. Thấy việc lạ Ngài làm. Nhưng vẫn chưa hoàn toàn về với Ngài.

Việc Ngài làm hôm ấy, ở hồ Galilê, sóng cồn bất chợt nổi cơn giông, khiến môn đồ thảy đều lo sợ. Sợ thuyền lật làm hỏng việc, gọi Thầy dậy. Dù ở vào tình huống ấy, Đức Giêsu vẫn ngủ thiếp phía sau thuyền. Kịp đến lúc đồ đệ đánh thức, Ngài trỗi dậy quát bảo sóng gió: “Im đi! Câm đi!” Tức thì, gió liền tắt. Cả không gian vắng lặng như tờ. Và, đến lượt đồ đệ bị quở trách.

“Sao nhát thế! Làm sao anh em vẫn chưa có được lòng tin?”  Đến lượt các ông, còn hoảng hơn thế nữa, bèn bảo nhau:“Thầy mình là ai, mà cả đến biển gió cũng phải tuân lệnh?´(Mc 4: 41). Biết rằng chỉ có Chúa mới chế ngự cả gió, cả biển và mọi thứ khác. Đó là chủ đề của sách Gióp.

Bài đọc 1, thuật lại những lời ghi trong sách Gióp: “Cửa đại dương, ai ra tay khép lại, khi nước tuôn trào từ đáy vực sâu, khi ta giăng mây làm áo nó mặc, phủ sương mù làm tã che thân?”. Đường ranh giới của nó, chính Ta vạch sẵn, lại đặt vào nơi cửa đóng then cài; rồi Ta phán: “Người chỉ tới đây thôi, chứ không được tiến xa hơn nữa, đây là nơi các đợt sóng cao phải vỡ tan tành.” (Jb 38: 8-11)

Với người xưa, nhìn sức mạnh của gió và biển là thấy đuợc uy lực của Thiên Chúa, Đấng Tạo Dựng. Là, Chúa của biển: “Những kẻ xuống thuyền đi biển, chuyên nghề buôn bán giữa mênh mông, hõ đã được thấy các việc của Giavê, và những kỳ công Người làm nơi chốn biển khơi.” (Tv 107: 23).

Với người có niềm tin, không thấy có khó khăn gì khi nhìn quyền uy của Đức Chúa nơi sức mạnh của sóng/gió. Điều này áp dụng rất đúng cho các đồ đệ ở trên thuyền. “Người là ai, mà đến gió/biển cũng tuân lệnh?” Và các thánh đã hiểu về Ngài, cách nhãn tiền.

Và người xưa từng hát những câu Thánh vịnh theo sau đó: “Người phán và cho bùng lên gió bão, làm cho ba đào rầm rầm dấy lên: Họ nhô lên trời, họ nhào vực thẳm, mạng họ rữa tan ra trong điêu đứng.” Nhưng, gió bão hôm ấy, có là chuyện ngẫu nhiên? Có tắt dừng vì quyền uy của một người. Nhớ lời xưa, các thánh nay biết về quyền uy của Đức Giêsu: “Người làm cho bão táp dừng yên phăng phắc, sóng biển lại yên tĩnh như tờ. Họ vui mừng vì sóng gió đã dịu, và người dẫn họ đến bến họ mong.” (Tv 107: 27-30)

Trình thuật hôm nay, thánh Mác-cô còn chuyển tải một bài học khác, nữa. Bài học đó, là dụ ngôn về Hội thánh thời tiên khởi. Và, cũng là Hội thánh, suốt mọi thời. Thuyền chòng chành, ở đây hay nơi nào đó trong Tin Mừng Nhất Lãm, vẫn luôn chỉ về Hội thánh Chúa, gặp phong ba vẫn chòng chành. Vẫn cứ phải đối đầu với nhiều vấn đề, rãi khắp dọc đường đi.

Trên thuyền có đồ đệ của Chúa, và chính Chúa. Sóng nước vây quanh, lại chính là thế gian bao bọc. Con thuyền Hội thánh, vẫn quá nhỏ, rất mong manh trước cơn sóng thù địch là thế gian. Đôi lúc sóng vỡ, đe doạ con thuyền Hội thánh. Bằng các bách hại. Bằng các phong trào khác nhau, nổi lên từ nhiều phía, manh tâm  xoá bỏ Đạo của Ngài.

Trong tình huống lo âu, hỗn độn, nhiều cộng đoàn bé nhỏ, đôi lúc muốn tự hỏi: Thầy đâu rồi? Chúa ở đâu? Ngài chừng như vẫn xa cách. Tưởng như rằng, Ngài ngủ say. Tưởng chừng như Ngài không đoái hoài gì chuyện trông nom chăm sóc. Nhưng cuối cùng, cộng đoàn lớn/nhỏ của Chúa, vẫn tồn tại.

Trong nguyện cầu, con dân vẫn nhận ra rằng Thầy vẫn ở với mình. Và, lúc ấy, mọi người mới trải nghiệm sự bình an ở bên trong. Mới nhận rằng, giông ba bão táp không ở biển cả chốn khơi nguồn. Nhưng, ở chính nơi nào có lo âu và hãi sợ.

Niềm vui an bình cũng thế, nay ở ngay trong tâm khảm. Bởi thế giới chung quanh luôn vẫn thế. Vẫn cứ rắp ranh rình rập, chực bách hại. Nhưng con dân của Chúa nay đổi mới. Đã tái tạo niềm tin tưởng phó thác cho bàn tay chăm sóc của Ngài.

Trong cuộc sống, hay trong xã hội ta đang sống, có thể là ta cũng đang trải nghiệm một vài khó khăn như lo âu và hãi sợ.Có thể đang diễn ra nơi chân trời của ta đó vì vẫn còn có những đe doạ của phong ba. Nên, ta vẫn luôn cần đến an bình của Đức Chúa.

Rất thường là, ta không thể kiểm soát hoặc chế ngự các phát triển về xã hội và chính trị ở khu vực ta đang sống. Ta cũng chẳng tài nào kiểm soát/chế ngự được những gì thiên hạ đang làm. Nhưng, bất cứ việc gì ta đang trải nghiệm, với sự phụ giúp của Đức Chúa, ta cũng sẽ tìm được niềm vui an bình, Chúa vẫn ban. Bởi, Ngài chỉ có thể trao ban sự an bình vui sống. Vui sống bìnhan  là điều không ai có thể lấy đi khỏi nơi ta được.

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 13 thường niên năm B 

 

“Đêm nay ta khạc hồn ra khỏi miệng,

Để cho hồn đỡ bớt nỗi bi thương.
Nhưng khốn nỗi xác ta đành câm tiếng,
Hồn đi rồi, không nhập xác thê lương.

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mc 5: 21-43

            “Khạc hồn ra khỏi miệng”, là tâm trạng của nhà thơ, nay rất khổ. Nỗi xác đành câm tiếng, là tình huống người nhà Đạo, vẫn thương tâm. Chúa thương tâm cả nhà thơ lẫn người đời, như có nói ở trình thuật.

            Trình thật thánh Mác-cô hôm nay, lại đã ghi về niềm thương tâm Chúa phú ban cho con ông trưởng hội đường và cho cả người đàn bà, bị băng huyết. Những 12 năm. Và thánh Mác-cô nói “bà đã bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đến tán gia bại sản…mà tiền mất tật mang” (Mc 5: 21). Và, đã cả gan sờ vào gấu áo Ngài, và được khỏi.

            Vào khi ấy, Đức Giêsu quay lại hỏi: “Ai đã sờ vào áo của tôi?”  Hỏi như thế, Ngài biết uy lực thần thiêng vừa ra khỏi mình Ngài. Đây là điều, khiến môn đệ Chúa cứ thắc mắc với tranh luận. Ngay lúc ấy, người nữ phụ đã bước ra, mà nhận lỗi. Vì bà quá hoảng sợ. Chính ra, bà cũng không nên len lỏi vào chốn ấy, vì ô uế? Và đó là lý do mà bà chẳng dám đến, ngay phút đầu. Đây cũng là nỗi hoảng sợ của các bệnh nhân Siđa của thời đại. Một hoảng sợ, không tên tuổi, không lý do.

            Từ lúc ấy, bí mật của bà bị lộ ra cho mọi người thấy. Điều này càng khiến bà hốt hoảng hơn nữa. Thế nhưng, bằng một cử chỉ khác thường, bà tiến về phía trước, phủ phục trước mặt Chúa, và nói hết sự thật với Ngài. Về phía Đức Giêsu, Ngài không mảy may nổi nóng hoặc giận dữ, nhưng nhẹ nhàng nói: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con. Hãy đi bình an và khỏi hẳn bệnh.” (Mc 5: 34)  

            Bằng việc chữa lành, Đức Chúa của sự sống và sự sống lại, đã đưa bà về lại với sự vẹn toàn của cuộc sống. Bà không chỉ được chữa lành khỏi tật bệnh thể xác thôi; nhưng, còn trở về với tháp nhập cùng xã hội nơi bà sống. Bà đã kiện toàn con người mình, theo mọi ý nghĩa. Qua tư cách cá nhân lẫn cộng đoàn. Nhưng, chính niềm tin sâu sắc vào Chúa, qua cử chỉ “sờ gấu áo Ngài”, là yếu tố chính tạo sự chữa lành.

            Với câu truyện đầu ở trình thuật, Đức Giêsu đích thật là Đấng chữa lành mọi tật/bệnh. Nhưng mọi người không kỳ vọng là Ngài sẽ cho người chết được hồi sinh. Nhưng, Ngài vẫn cứ nhấn mạnh đến những câu khiến mọi người cần ghi nhớ trong đời: “Đừng sợ!”, được nhắc đi nhắc lại, trong Kinh thánh, những 399 lần.

            Ở trình thuật, Đức Giêsu chỉ cho phép có 3 tông đồ, thành phần cốt lõi là Phêrô, Giacôbê và Gioan, được đi theo. Chúa muốn các Ngài nhận thấy những gì xảy ra; nhưng Ngài không muốn thoả mãn tính tò mò của đám người dễ bị kích động.

            Khi mọi người kéo đến nhà bệnh nhân, lại nghe có tiếng ai oán, cùng khóc than. Ngài bèn bảo: “Sao lại náo động và than khóc đến như thế? Đứa bé có chết đâu, nó chỉ ngủ.” (Mc 5: 39) Thế là, họ cười nhạo Ngài. Nhạo và cười, vì chỉ cần nhìn thoáng, họ cũng biết ai chết, ai còn sống. Mọi người còn biết: nếu không có Chúa ở đó, cô kia chắc đã bị chôn rồi.

            Chúa vào nhà người lạ, chỉ có cha mẹ cô bé và 3 môn đồ thân cận. Ngài cầm tay có bé lên rồi nói: “Này cô bé. Thầy truyền cho con hãy trỗi dậy!” (Mc 5: 41). Đứa bé lập tức trỗi dậy và đi lại như người bình thường, không có gì xảy ra. Động từ “trỗi dậy” ở đây, gợi cho người nghe nhớ về tình huống sống lại. Tình huống, Đức Giêsu cũng đã “trỗi dậy”, từ cõi chết.

            Đây là cách thức thánh sử Mác-cô diễn tả sự việc rõ ràng và dứt khoát hơn thánh Tin Mừng của Gio-an: “Ta là sự sống lại và là sự sống!”. Dù bị hôn mê hay đã chết, cô bé vẫn được tái tạo vẹn toàn về với cuộc sống. Và Đức Giêsu được bộc lộ cho biết Ngài là Chúa của sự sống. Chính vì thế, những ai chứng kiến việc xẩy ra, đều đã “kinh ngạc sững sờ.”  

Sững sờ đến độ, Chúa phải nhắc họ cho cô bé ăn. Điều này nói lên chỉ một phần của con người Đức Chúa. Bởi, Ngài là Đấng chỉ biết lo cho người khác. Chăm nom đùm bọc người khác, mà thôi. Với người khác, có thể sẽ xảy ra chuyện là: sẽ ngủ quên trên chiến thắng, những muốn được  bái phục. Nhưng ở đây, Chúa tập trung lo cho nhu cầu của trẻ nhỏ, thôi. Cả hai truyện trong cùng một trình thuật, cho thấy Đức Giêsu là nguồn mạch sự sống và chữa lành.

          Bài đọc 1, Sách Khôn ngoan nói rõ: “Thiên Chúa chẳng vui gì, khi sinh mạng tiêu vong.” (Kn 1: 13). Và các đoạn khác còn nói tiếp: “Người đã sáng tạo muôn loài thọ tạo trên thế giời, đều hữu ích cho sinh linh.” (Kn 1: 14). Và điểm quan trọng khác, sách này cũng nói: ta được dựng nên theo hình ảnh bản tính của Thiên Chúa. Chính đây là mục tiêu của sự sống trong chúng ta là: để hiểu biết, yêu thương và san sẻ cuộc sống với Ngài mãi mãi không ngưng.

            Quả thật, bằng cách này cách khác, tất cả chúng ta đều cần được Chúa chữa lành. Chữa tật bệnh, cho lành mạnh, sự toàn vẹn, lành thánh bên tiếng Anh, là những cụm từ được đan kết, nối với nhau. Khi nguyện cầu, ta xin cho được lành mạnh để có sức khoẻ, trong mọi địa hạt của cuộc đời chứ không chỉ lành và mạnh, nơi thể xác thôi.

            Sự thể đem đến cho ta toàn vẹn sức khoẻ lành mạnh, là cốt trở thành con người vẹn toàn. Vẹn toàn, trong đó mỗi phần trong ta –từ tâm linh, trí tuệ, xã hội, tâm lý, cho chí thể xác—đều hoạt động theo chức năng của nó. Hoạt động trong hài hoà cả ở bên trong, với thế giới bên ngoài. Với cả môi trường chung quanh, người và vật.

            Bài đọc 2, thánh Phaolô cũng có nói đến sự toàn vẹn này, khi thánh nhân nhắc nhở giáo đoàn Côrinthô về Đức Giêsu: “Ngài vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo, vì anh em. Để anh em nên giàu có, từ cái nghèo của Ngài” (2Cr 8: 9). Chúa chịu mình trần trên thập giá, là để đổ tràn tình yêu xuống cho ta. Ngài ban sự sống của Ngài, để ta được sống. Và vì thế, Ngài sẽ sống mãn đời. Và nhờ đó, ta trở nên giàu sang phú quý.

            Thánh Phaolô lấy đó làm mẫu mực, để giáo dân ở Côrinthô biết mà sẻ san bất cứ thứ gì làm được cho những người anh người chị nghèo khó hơn họ, trong Hội thánh. Có điều là, cả vào khi ta san sẻ cho người khác, không phải là được kỳ vọng cho đi những nhu cầu mà ta cần có cho chính mình, nhưng là những gì ta có dư. Và khi ta san sẻ của thặng dư cho người đang có nhu cầu nhiều hơn, ta sẽ hy vọng được đối xử cùng một cách như thế  những khi ta cần.

            Xử sự theo cách này, cuộc sống sẽ quân bình hơn. Và, thánh Phaolô đã trích dẫn Kinh sách Cựu Ước nói rằng: ai tích tụ nhiều sẽ chẳng có được bao nhiêu, nhưng ai tích luỹ ít, cũng sẽ không thiếu hụt.

            Đây chính là mẫu mực của cuộc sống cộng đoàn, trong xã hội. Xã hội Cộng sản đáng lý ra đã phải làm như thế. Nhưng ngày nay, chỉ còn mỗi cộng đoàn dòng tu mới đích thực biến phương cách sống ấy thành hiện thực. Phương cách ấy, là “làm theo khả năng, nhưng hưởng theo nhu cầu.”

            Thành phần của việc chữa lành trong toàn bộ cộng đoàn ta sống, là sự toàn vẹn dựa trên sự thật, tình yêu, lòng xót thương và ý nghĩa công bằng đích thực cho mọi người. Và đây chính là sự thánh thiêng, bởi lẽ Thiên Chúa Đấng Thánh Thiêng là thành phần vẹn toàn của sự trọn vẹn. Ngài được biết với Danh hiệu Đấng tạo Dựng, Gìn Giữ và Cùng Đích của tất cả những gì ta phải là và có thể trở thành. Là, tất cả chúng ta đã, đang và sẽ trở thành, như thế.

            Vào buổi tiệc thánh hôm nay, ta cầu mong sao Đức Giêsu, Đức Chúa của sự sống giúp ta đạt đến mức độ ấy. Mức độ của sự lành mạnh, toàn vẹn và thánh thiêng, ta vẫn được mời gọi để đạt đến.      

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 14 thường niên năm B

 

“Không có anh, lấy ai cười trong mắt”

Ai ngồi nghe, em nói chuyện thu phong
Ai cầm tay, mà dắt mùa xuân
Nghe đường máu, run từng cành lộc biếc?

(dẫn từ thơ Nguyên Sa)

 

Mc 6: 1-6

            Than thở của nhà thơ, có là thở than nơi nhà Đạo? Nhà Đạo vẫn thở than, nhận định, qua nhân vật Giê-su, con của Bà Maria, như có nói ở trình thuật.

            Trình thuật hôm nay, thánh Mác-cô ghi rõ một nhận định. Nhận định, của những người kéo nhau đi nghe Chúa giảng dạy. Giảng dạy hôm ấy, Chúa quay về với xứ sở quê làng, ở Nadarét. Ngài giảng dạy vào ngày Sabát, ở hội đường. Nghe Ngài giảng dạy, dân chúng trong làng, đều thích thú và ngạc nhiên. Thích thú, về sự giỏi dang nơi ngôn từ. Ngạc nhiên, về uy quyền lạ lùng họ nghe biết nơi Ngài. 

            Thích thú và cảm kích, vì họ biết rất rõ về Ngài. Về, bác thợ mộc con ông Giuse và Bà Maria. Biết rõ, cả bà con thân tộc của Ngài, nữa. Chính vì biết rõ, nên họ từ chối không chấp nhận Ngài. Từ chối, vì họ chỉ thấy được ngoại hình, chẳng để tai lắng nghe điều Ngài dạy, giảng. Bởi, họ có thành kiến về Ngài, đã từ lâu.

            Xã hội hôm nay, nhiều người cũng có một số định kiến về Đức Giêsu. Họ nghĩ rằng, những gì họ biết, là trọn vẹn con người của Đức Chúa. Nhưng thật ra, con người đích thật của Chúa, lại là điều họ từng chối bỏ. Chối và bỏ chính Đức Giêsu, của Tin Mừng. Vì chối bỏ, nên họ bóp méo hình ảnh xưa nay họ vẫn có, vẫn suy nghĩ về Ngài.

            Nhiều người hôm nay cũng thế, không ai để tai nghe sứ điệp của Chúa, nơi Tin Mừng. Nhưng, cứ bị gò bó và mù loà, vì cứ tưởng mình biết nhiều về nhân vật do tình thân. Đôi khi, sự thân quen/biết rõ nhân vật, lại dễ đưa đến cảnh miệt thị, nhàm chán, ngán ngẫm. Những thứ như thể “bụt nhà không thiêng”nên chẳng khâm phục.      

            Nhiều người hôm nay, đối xử cũng không khác gì dân thành Nadarét khi xưa, có thể là chính chúng ta vào mọi thời, mọi lúc. Thế nhưng, Chúa vẫn nói với ta ngang qua những người ta quen biết, hoặc làm thân. Chúa nói với ta, ngang qua tình cảnh mình lại gặp mình. Tình cảnh, có tiếng nói hoặc sự điệp Ngài gửi đến. Chúa nói, qua người thân quen, người mà mình biết rất rõ, hoặc ngang qua nhân vật nào mình không thích. Thậm chí, qua người lạ. Qua khách nước ngoài. 

            Ta còn được bảo rằng, vì họ mù lòa, nên Chúa không thể làm nhiều điều lớn lao, ở nơi ấy.  Hướng về bản thân, ta cũng thấy mình nhiều lần cũng như thế. Nhiều lần, ta vẫn “bế quan tỏa cảng”, không để cho tình yêu Ngài đạt đến, nơi ta. Nhiều lần, ta vẫn cấm cản mọi tác động chữa lành, từ nơi Chúa. Nhiều lần, ta chẳng nhận ra Ngài, nơi một người hoặc tình huống nào cả. Quả thật, Ngài vẫn muốn đến với ta, qua trung gian một người. Qua sự kiện, trong đời.

            Để đến nỗi, Chúa kêu lên: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng, cũng chỉ ở quê hương mình.” (Mc 6: 4). Đó là sự thật. Sự thật ở chỗ: dân chúng ở các nơi, đều ngả đầu tiếp đón Chúa. Và, tuân theo Lời Ngài. Chỉ riêng những người trên quê hương Ngài, trong gia đình Ngài, là chối bỏ thánh danh Ngài. Đối xử với Ngài rất cay cú.

            Đây cũng là kinh nghiệm từng trải, đang chờ đón các ngôn sứ. Ngôn sứ, là người dấn bước rao truyền sứ điệp của Đức Chúa. Sứ điệp, mời gọi mọi người biết chấp nhận Lời Ngài. Thôi thúc ta thay đổi nếp sống. Hãy sống, dựa trên sự thật và tình thương.

            Truyền thống cho thấy, ngôn sứ thời Giao ước, và trong chuỗi ngày dài lịch sử Đạo, đều gặp nhiều đả kích/chống đối. Thậm chí còn bị bạo hành hoặc chết tức tưởi. Bài đọc 1, ngôn sứ Edêkien đưa ra mẫu mực là khi Chúa kêu mời ông rao truyền sứ điệp cho dân Ngài thi Chúa không hứa hẹn một dễ dãi nào cả. Ngài chỉ nói rằng:“Ta sai ngươi đến với chúng,vốn nòi phản lọan, chúng có thể nghe hoặc không nghe, nhưng chúng phải biết rằng có một ngôn sứ đang ở giữa chúng.” (Êz 2: 5)

            Quả là chuyện lạ. Bởi, sứ điệp thôi thúc ta về Sự thật. Tình thương yêu. Tự do. An bình và sự công chính. Sứ điệp này  lại dấy lên nhiều chống đối, thù địch, cùng ghét ghen với bạo lực. Điều này, vẫn xảy đến vào mọi thời, mọi lúc ở nhiều nơi. Trên thế giới, các cụm từ, như : “sự thật”, ”tự do”, “công bình”, đã trở thành từ ngữ đầy nguy hiểm, húy kỵ, nhiều đe dọa. Lạ hơn nữa, là: nhiều người không muốn nghe biết những từ ngữ ấy. Và cũng lạ là: nhiều tín hữu Đạo Chúa vẫn đã phải chết cho niềm tin, ngay tại những nơi được coi là văn minh, hiện đại hơn bao giờ.

            Đó là, Martin Luther Kinh đã phải chết chỉ vì dám kêu gọi sự đồng đều, giữa sắc tộc. Mahatma Gandhi người Ấn giáo, đã phải chết chỉ vì dám làm thân với Hồi giáo. Giám Mục Oscar Romeo lại chết vì dám nói lên cảnh người ta đang bóc lột đám dân nghèo. Danh sách các vị  chết cho sự thật, niềm tin, vẫn còn mãi không kết đọan.

            Có nhiều điều mà  người Công giáo chúng ta cũng cần nhớ: là khi đã thanh tẩy, ta cũng được kêu mời trở thành ngôn sứ. Là Công giáo, ta cũng được mời gọi quảng bá sứ điệp của Tin Mừng nơi gia đình, chòm xóm, sở làm. Mời ta quảng bá lan rộng tới bạn bè người than ở mọi chốn.

            Dù gì đi nữa, ta cứ vẫn sẵn sàng quảng bá và bảo vệ cho sự thật, tình thương yêu đùm bọc. Cho tự do, phẩm giá và quyền lợi của mọi người. Có nhiều điều ta chẳng thể nào nhượng bộ dù là bất cứ ai. Có những lúc, ta cũng chẳng thể nào giữ mãi sự im lặng.

            Có những thời, có thể ta sợ hãi. Hoặc thấy không đủ tài năng, lẫn thẩm quyền. Trong trường hợp đó, hãy nghe theo lời khích lệ của thánh Phaolô, ở bài đọc. Thánh nhân từng cảm nghiệm thân phận bọt bèo, chẳng làm gì được cho ra hồn. Vẫn tự ti mặc cảm, khi được sai phái rao giảng Tin Mừng cho hiệu quả. Và, thánh nhân đã nguyện cầu Chúa xin cất đi những nhược điểm của mình.

            Hồi đáp cho yêu cầu của thánh nhân, cũng rất lạ. Lạ ở chỗ, “sức mạnh của Chúa đã biểu lộ trọn vẹn trong yếu đuối”.  Vì thế, thánh nhân đã chấp nhận những yếu đuối bản thân, để sức mạnh của Chúa ở mãi bên trong mình:“Tôi vui sướng khi mình yếu đuối. Bị sỉ nhục, họan nạn, bắt bớ ngặt nghèo vì Đức Kitô. Bởi, chính khi tôi yếu là lúc tôi mạnh.” (2Cr 12: 10) Đó là lời lẽ của ngôn sứ đích thật.

            Cầu mong sao Lời Chúa hôm nay giúp ta nhận ra rằng không nên chán nản, hoặc thất vọng vì những thấp hèn cùng yếu kém về thể xác lẫn tâm linh của mình. Vì, dù bất tài hoặc vô dụng, Chúa vẫn muốn ta trở nên công cụ cho Ngài sử dụng. Ngài vẫn ở gần bên. Vẫn ban tặng những điều ta cần đến. Tuy nhiên khi Hội thánh và sứ điệp của Chúa được chấp nhận, cách rộng mở, thì khi ấy có thể ta sẽ lại nghi hoặc một chút về sự chân phương của sứ điệp, ta rao truyền.

 

Suy niệm Chúa Nhật thứ 15 mùa thường niên năm B

 

“Khi ác thần đã dịu xuống lửa hồng”

chuông từng cõi, đang gọi về sương ẩm
ôm xác thân, của sông lạnh không tình
đang u uẩn, hít sâu mưa lấm tấm

(thơ Lãng Đãng)

Mc 6: 7-13

            Ác thần/sự dữ, là những thách thức có lửa hồng. Thần linh/quỷ quái, là những uẩn khúc, u quạnh không tình tự. Ác thần ấy. Quỷ quái ấy, vẫn thấy đề cập ở trình thuật, rất hôm nay.

            Trình thuật thánh Mác-cô, nay ghi lại một thách thức, đã giáp mặt hiện đến với môn đồ. Môn đồ Chúa hôm ấy, đã phải giáp mặt đối đầu với thần linh quái ác quyết hiện hình, bằng nhiều cách. Cách thế lạ kỳ vừa thấy, như một ám ảnh cực kỳ quỷ quái, tâm thần phân liệt, dẫy dụa như động kinh.

            Thần linh quái ác ta gặp thời này, là những linh-tinh thần cờ bạc, rượu chè, quan hệ bừa bãi có dục tình. Hoặc, quái ác như linh vật thần thiêng, nhiều vật chất. Rất tiêu pha. Sa đà, không thể kềm chế. Tất cả, cứ dẫn đến tình trạng nô lệ, cả về thể xác lẫn thần hồn. Làm gián đoạn tự do của con Chúa. Khiến ta mong chờ Chúa lý giải. Nhưng hôm nay, Chúa mời ta hợp tác để giải thoát con dân Ngài được tự do.    

            Muốn giải thoát giúp người người đạt tự do con cái Chúa, thì chính mình phải tự do, trước đã. Thế nên, Đức Giêsu khuyên môn đồ: khi ra đi rao báo Tin Mừng, đừng mang theo nhiều thứ. Không thực phẩm, ba-lô, đồ đạc, tiền bạc, lẫn áo quần. Lời khuyên này, xem ra không thực tế và ít khi nghe. Chúa dặn thế, vì biết môn đồ Ngài đi đâu cũng được gia đình nhà chủ mời vào, chào hỏi, còn tặng quà nữa. Bởi lẽ, tính hiếu khách là thói quen cần thiết, vẫn diễn ra nhiều nơi, ở trời Đông.

            Khi xưa, nhiều gia đình có thói quen giữ rịt tông đồ, không để các ngài tìm thêm nơi nào tiện nghi thoải mái hơn. Và, nếu chẳng thấy ai đoái hoài gì, thì các ngài chỉ việc giũ phủi bàn chân những lấm bụi trần, mà đi tiếp đến miền nào vui vẻ đón chào, thật tình hơn. Bởi như thế, tức là: những người đó, chưa sẵn sàng để nghe ta rao báo những Tin Mừng.

            Đây, là cảnh tình của Hội thánh, thời ban sơ. Là, nhóm hội nâng đỡ giùm giúp, theo cộng đoàn. Ở cộng đoàn như thế, những người dư dả cơm áo gạo tiền, vẫn giùm giúp những người còn túng thiếu. Ai thiếu thốn, vẫn có người ân cần, chăm sóc, đùm bọc. Đó là ý tưởng, mà thánh Phaolô từng đề cập ở bài đọc, tuần trước. Thánh Phao-lô thôi thúc người có “của ăn của để”, hãy sẻ san giùm giúp những người anh người chị, còn nghèo túng.

            Ngày nay, ta không thể thực hiện lời khuyên tông đồ của Chúa, theo từng chữ. Dù lý tưởng ra, vẫn là như thế. Nhưng, vẫn có thể tự hỏi, tại sao là tín hữu Đức Kitô, ta lại không làm được như Lời Ngài dạy. Điều này, cần nhiều tháng ngày suy tư, nghiền ngẫm. Suy cho cùng, có thể là vì: ta vẫn tiếp tục sống đời Kitô-hữu theo chủ nghĩa cá nhân, hơn là: thực hiện đời sống Công giáo. Có thể là, ta dễ cho đi những gì người dân ở bên kia nơi cùng tận thế giới, đang rất cần. Nhưng lại vẫn quên, những người anh người chị, và em cháu trong cùng giáo xứ, cũng rất cần.

            Dù gì đi nữa, trình thuật hôm nay gợi cho ta đôi điều để suy nghĩ:

Là Kitô-hữu, ta được mời gọi, không chỉ làm môn đệ Chúa, nhưng còn làm tông đồ, nữa. Bởi, môn đệ theo tiếng Latinh (discipulus, discere=học hỏi), là: nghe biết, chấp nhận và thực hiện lời dạy của Chúa, đưa Lời Ngài vào cuộc sống. Môn đệ, là người quyết dấn bước theo chân Chúa, bắt chước Đức Kitô, và trở thành Kitô khác.

Là, tông đồ, theo tiếng Hy Lạp (apostolos), không chỉ là người dõi bước theo chân Chúa thôi, nhưng còn là người rao báo Tin Mừng, nữa. Tông đồ, cụm từ này có nghĩa: được các vị có vai vế ở trên cao, sai đi để làm sứ thần, công sứ, hoặc đặc mệnh toàn quyền. Bất cứ ai đã thanh tẩy, đều có được lời mời gọi nhận lãnh sứ vụ này. Lãnh nhận, để rồi quyết san sẻ niềm tin, với người khác.

Ta hợp tác với Chúa, để giúp đỡ người người biết kiếm tìm /tái tạo tự do. Ta giùm giúp mọi người tự chữa lành mọi tật bệnh của mình. Không chỉ là bệnh về thể xác, mà cả những bệnh tâm linh hoặc cảm xúc, nữa. Không chỉ có y tá/bác sĩ mới là người chuyên chữa trị. Điều này, chẳng có gì để tranh cãi. Bởi, thành viên gia đình, hoặc bạn bè, đồng nghiệp, các nhà giảng thuyết, ai cũng có thể tạo ảnh hưởng, và chữa lành, mọi thứ bệnh.

Điều quan trọng, là: người rao báo Tin Mừng vẫn sẻ san với người khác, các kinh nghiệm về Chúa. Đó là ý nghĩa được thánh Phao-lô đề cập đến ở bài đọc 2. Thánh Phaolô từng nói cho giáo đoàn Êphêsô biết rõ: “Thiên Chúa chọn ta, trước cả khi tạo thành vũ trụ.” (Êp 1: 3-14). Điều ta cần sẻ san, không chỉ là lời nói, ý tưởng hoặc tín điều rất suông, mà là kinh nghiệm ta có với Chúa. Với Đức Kitô. Người rao báo Tin Mừng mời gọi mọi người, cả người tín hữu lẫn kẻ ở ngoài Đạo, hãy cùng sẻ san kinh nghiệm tuyệt vời này.

Điều thứ hai, không kém phần quan trọng, là: rao báo Tin Mừng, trong tự do. Người rao báo Tin Mừng được bảo cho biết: hãy mang theo nơi mình sứ điệp họ nhận lãnh, từ Đức Chúa. Còn lại, cứ để người khác lo.

Ra đi rao báo Tin Mừng trong tự do, là để qua bên, rất nhiều thứ. Từ tiền tài đến của cải vật chất. Từ tài sản đến bất động sản. Vì những thứ đó  vẫn mang lại ưu tư và là  nguồn cội của lo lắng. Bởi, ta nối kết/gắn liền về với những thứ ấy, chúng sẽ làm cho ta càng trở nên nô lệ, phụ thuộc. Và rồi, biết bao điều khác, từng làm ta tê liệt, không thể giúp ta làm giàu cuộc sống, theo nghĩa chính đáng, đích thực được. Hãy cứ quẳng gánh lo đi. Đó đích thị là tự do mà Chúa hiến tặng.

Điều Chúa tặng, là mẫu mực tuyệt vời, ta cần có. Ra đi rao báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người, Ngài chỉ mặc có mỗi bộ đồ trên mình, và cũng “chẳng có chỗ gối đầu”. Nhưng, Ngài không nghèo cũng chẳng hèn, theo nghĩa xã hội học. Trái lại, Ngài giàu có, trong mọi sự. Chính sự giàu sang/sung mãn này, mới là điều cần thiết. Ngài là Đấng tạo sự giàu có, cho mọi người theo Ngài.

Nói cho cùng, ra đi rao báo Tin Mừng, người dấn bước theo Chúa cần nhận rõ thêm một điều, là: không phải lúc nào ta cũng được mọi người ân cần chào đón hết. Bài đọc 1, thượng tế Amaziah khuyên ngôn sứ Amốt mang sấm ngôn của mình về với quê nhà. Bởi, người đó chẳng muốn nghe ông nói, ở Bê-ten. Ngôn sứ Amốt cho biết: ông đâu có ý định trở thành ngôn sứ. Ông chỉ là người chăn chiên đơn hiền, chỉ là kẻ trông nom cây vả, để nó cho trái. Nhưng, thoạt vào lúc ông chăm sóc chiên hiền, Chúa đã mời gọi và thôi thúc ông hãy đi rao báo Tin vui an bình, cho dân Israel.

Ngày nay, ta quen dần với những cảm nghiệm, tương tự như thế. Tựa như, câu nói ta thường đối đáp mỗi khi nghe lời mời gọi, vẫn nhè nhẹ bảo rằng: tôi chỉ là thư ký hèn, người nội trợ trong nhà; hoặc giả, chỉ đứng quầy, làm công nhân hãng/xưởng rất thấp bé.Hoặc chỉ là  giáo viên trường làng, đâu dám mơ màng, cầu thân, vv. Nhưng, là người đã được thanh tẩy, Chúa vẫn mời gọi ta, vào mọi lúc. Cả vào khi ta bận rộn nơi hãng xưởng/sở làm, mải mê lao động công tác, ở môi trường sống. Ngài mời gọi/đưa dẫn ta cùng mọi người về với Chúa. Yêu Chúa. Phục vụ Chúa. Và, theo Ngài. Thử hỏi, mấy ai trong ta từng thật tình đáp trả lời mời gọi này?           

Tắt một lời, nếu muốn Chúa ở trong mình, ta phải biết mở đường để Ngài đến. Ngài sẽ đến, ngang qua ta. Và từ nơi ta, Ngài đạt đến mọi người. Chẳng có cách nào khác thích hợp hơn. Và qua ta, mọi người chịu ảnh hưởng từ nơi ta, cũng sẽ trở thành người rao báo Tin Mừng cho kẻ khác. Đó là phương cách tăng trưởng và lớn mạnh từ hạt giống của bông cải.   

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 16 thường niên năm B

 

“Mai kia sống với vầng trăng ấy

người có còn thương một bóng cây
Góc phố còn treo đôi mắt bão
Ai nhớ ngàn năm một ngón tay?

(dẫn từ thơ Du Tử Lê)

Mc 6: 30-34

            Đành rằng, nhà thơ nay sống với vầng trăng ấy, có còn thương? Đương nhiên, là nhà Đạo khi xưa không chỉ thế. Vầng trăng hay bóng cây hôm nay, là khung cảnh lạnh vắng, chốn ngơi nghỉ. Nguyện cầu. Như trình thuật, nay nói đến.

            Trình thuật hôm nay, thánh Mác-cô mô tả đồ đệ Chúa báo cáo với Thầy, về công tác các thánh đã làm. Tất cả, đều hân hoan, hãnh diện. Nhưng xem ra, ai cũng mệt. Mệt, về thể xác nên quên cả nguyện cầu. Thế nên, Thầy đã khuyên: “Anh em hãy lánh riêng ra, vào nơi hiu quạnh mà nghỉ ngơi đôi chút.” (Mc 6: 30). Lời khuyên của Chúa, chứa đựng những hai điều:

1.Thầy Chí Ái, muốn các thánh có cơ hội ở nơi vắng lặng, mà suy tư nguyện cầu. Nguyện cầu, về kinh nghiệm từng trải, ngang qua công cuộc mục vụ. Vào nơi vắng lặng, còn là lời căn dặn Hội thánh gửi đến dân con mọi người, trong cuộc sống. Căn dặn, rằng: hãy để giờ ra mà nguyện cầu, dù một vài phút. Về nguyện cầu, nhiều người vẫn nghĩ rằng: người Công giáo mình ít có thì giờ rảnh rỗi để nguyện cầu. Và, cũng ít sống đời tín hữu, chuyên chăm, đạo đức. 

2.Có thể, đồ đệ Chúa đang vui với với hoạt động mục vụ và cũng hơi bận về nhiều công chuyện. Nên, không nhớ mà tìm nơi hoang vắng, để nghỉ ngơi. Có thể, các thánh đang trầm ngâm chiêm suy tưởng cảnh đám đông dân chúng đang vây quanh, níu kéo. Cũng có thể, là các ngài mải chiêm niệm về quyền uy được Chúa phú ban. Và, đó cũng là lúc Chúa khuyên các ngài trở về với con người, của chính mình. Về, để suy tư/nghiềm ngẫm xem mình đã và đang làm gì. Về, để xét xem “quyền uy” đích thực từ đâu đến. Chính vì thế, “Thầy trò mới xuống thuyền đi đến một nơi hiu quạnh, biệt riêng ra." (Mc 6: 32)

 

Có lẽ, vì hôm ấy sức gió chuyển động mạnh làm thuyền đi chậm, nên dân con theo Chúa kịp

đến trước  ngồi chờ. Có lẽ, khi các thánh đưa thuyền cập bờ cập bến, đã thấy dân chúng ngồi đó chực chờ sẵn. Ở đây, không thấy thánh sử Mác-cô nói gì về phản ứng của các tông đồ theo Chúa, hôm đó. Nhưng, xem ra các thánh cũng đà rất nản. Nản, vì mệt đã đành. Nản, còn vì thời gian để nghỉ, nay luột mất. Cũng có thể, vài vị tông đồ thánh, đã chụp lấy cơ hội để biểu tỏ quyền uy Chúa cho. Đó là quyền trừ quỷ, quyền chữa lành. Có thể, chán nản là tâm tình của các thánh đã tác động lên Thầy, cũng không chừng.

Nhìn chúng dân đông đảo kéo đến để được nghe, Chúa đã “chạnh lòng thương”. Chạnh lòng

ở đây, là ngôn từ thánh Mác-cô sử dụng để mô tả niềm xúc động cực mạnh của Chúa, xuất từ đáy lòng Ngài. Chạnh lòng, còn là tâm tình Chúa tỏ lộ cho đoàn người “như bầy chiên không kẻ chăn dắt”.   

 Và, thánh sử viết tiếp: “Và, Ngài bắt đầu dạy dỗ họ nhiều điều.” (Mc 6: 34). Ở đoạn khác,

 người đến nghe Chúa dạy, vẫn bám víu vào Lời Ngài nói. Lời Ngài nói, có cường độ và uy lực, mà ít ai có kinh nghiệm từng trải. Ở những đoạn tiếp theo, người người sẽ còn thấy Chúa “chạnh lòng thương” bằng nhiều cách. Bằng vào cách phân phát thực phẩm nuôi sống hằng ngày. Tất cả đều được Chúa bộc lộ, để chỉ về Tiệc Thánh Thể, Chúa thiết lập. Tiệc sẻ san Lời của Chúa. Tiệc ban phát, những cá và bánh.

Còn một điểm ta cần minh định ngay ở đây, rằng: Đức Giêsu không phải là người ghiền/ say

mê làm việc đến độ quên sống, quên chết. Ngài cũng chẳng là Đấng truyền rao Tin Mừng một cách gượng gạo. Nhưng, đây là dịp để ta thấy rằng Ngài luôn mau mắn đáp ứng nhu cầu không lường trước của chúng dân. Đây, còn là lúc giúp ta hiểu rằng: Chúa quyết định mọi việc, đúng thời điểm. Đúng việc Ngài muốn. Chẳng bao giờ ta thấy Ngài gượng gạo làm những việc mà Ngài không muốn.

Và, cũng chẳng ai thấy Ngài đối xử một cách gượng ép với những người đang có nhu cầu cần

thiết. Nói cách khác, Ngài chẳng bao giờ từ chối một ai, khi họ khẩn cầu Ngài ra tay giúp giùm. Tin Mừng các thánh ghi lại, đều cho thấy Chúa quyết vào nơi hoang vắng, ở riêng mình. Dù, đám đông quần chúng có níu kéo, quyết van nài cho bằng được.

Mặt khác, Đức Giêsu chẳng bao giờ bị gò bó, trói buộc vào với đòi hỏi của mọi người. Chẳng

bao giờ Ngài hành động để mưu tìm lợi ích cho riêng ai. Ngài cũng không đánh bóng thiên tính của Ngài. Nhưng, khi đáp ứng nhu cầu của quần chúng, không có nghĩa là Ngài thuận theo đòi hỏi, hoặc ước vọng của riêng ai nhất là những ước vọng không kể gì đến phẩm cách con người. Chúa đối xử với mọi người hoàn toàn theo tính tự do. Ngài hành động cho công bình, sự thật và có lòng thương xót với mọi người.

Chúa sai phái đồ đệ đi khắp nơi để giảng rao Tin Mừng và chữa lành, tức là sai phái cả ta nữa

để mọi người cũng sẽ làm các công việc như thế. Nhìn về góc cạnh nào đó, chúng ta nên hiểu mình cũng là mục tử, được Chúa sai đi. Sai, như Ngài đã sai các tông đồ làm công việc mục vụ. Trong đó có cả Giáo Hoàng, Giám Mục, linh mục, hoặc các giáo dân, mỗi người đều rất cần. Mỗi vai trò đều mang tính chất tông đồ, mục vụ của kẻ chăn, của mục tử.

Bài đọc 1, ngôn sứ Giê-rê-mia đã có những lời rất mạnh bạo với các kẻ chăn không giữ đúng

vai trò/trọng trách của mình. Những người cứ để mặc chiên đàn bé nhỏ chạy tứ tán, thất lạc. hoặc rời rạc. Thời buổi trước, các ngôn sứ có lời lẽ rất mạnh đối với lãnh tụ tôn giáo. Thời của Chúa, Đức Giêsu đã cực lực lên án các lãnh tụ phe nhóm/giáo hội mà Ngài gọi là “bọn giả hình”. Là, “mồ mả tô vôi” đội lốt mục tử. Là, đám chuyên trút gánh nặng lên đầu người khác. Và, không có thói quen giúp đỡ dân lành vô tội.

Thời này, ta nguyện cầu cho Hội thánh Chúa có nhiều mục tử làm việc có trách nhiệm. Có

hiệu quả. Có lòng xót thương, với chiên ràn, bơ vơ, vô tội. Nay, là lúc ta không quên nguyện cầu cho các vị làm đầu ở địa hạt khác. Cầu cho các bậc cha mẹ/thày cô/giáo chức, để tất cả, bằng cách này cách khác, biết lãnh nhận trọng trách tạo trách nhiệm yêu thương/giùm giúp cho nhau, cho mọi người. Kẻ chăn tốt bụng/mục tử hiền lành/thủ lãnh chuyên chăm, nhất nhất đều phải là những vị biết đoàn kết, hết mọi người. Các vị không bao giờ tìm cách rẽ chia thành phần mọi  giới, trong cộng đoàn.

 

Bài đọc 2, thánh Phaolô nói: Đức Giêsu nối kết người Do Thái với dân ngoại, là để tất cả

chúng ta cùng nhau tạo thành gia đình thân thương. Đầm ấm. Thánh nhân quyết bẻ gẫy mọi rào cản gây phân rẽ các thành phần dân Chúa, trong cộng đoàn. Thánh nhân dùng hình ảnh bức tường ngăn cách, của đền thờ. Quả thật, Đền Thờ là công trình xây cất có nhiều tường. Mỗi bức tường, làm thành rào cản ngăn cách, hạn chế mọi kết đoàn, hoà hợp. Bên ngoài tường, nhiều người không thể đến được. Có tường, chỉ dành cho dân ngoại. Có tường, cho phụ nữ. Có tường cho đàn ông thanh niên. Có tường chỉ để cho các vị mục tử. Thậm chí, có tường còn cản ngăn không để ta đến được với Đấng Thánh ở trên cao. Như nơi  dành cho vị Thượng tế cao vút, mỗi năm chỉ một lần.

Bằng vào cái chết trên thập tự, Đức Giêsu đã phá bỏ mọi tường rào phân chia, ngăn cách.

Tường, của hờn căm. Chia rẽ. Bằng vào việc sống lại, Ngài tạo ra Con Người Mới. Và, gia đình mới. Gia đình, không dựa trên máu mủ. Chủng tộc. Cũng không dựa vào dân tộc tính. Giới tính. Giai cấp. Ngài phá huỷ mọi tường thành ngăn cách. Tức, tường rào chỉ nhằm phân cách/rẽ chia nhóm này với nhóm khác.

Giáo huấn của Đức Giêsu nhằm đạt đến cả người Do Thái lẫn dân ngoại. Cả nam lẫn nữ. Cả

người công chính, lẫn phạm nhân. Nô lệ lẫn tự do. Người tật bệnh, lẫn kẻ lành lặn. Ngài gọi mời tất cả mọi người chúng ta hãy về cùng một gia đình, gia đình của Ngài. Gia đình của Ngài gồm có Chúa Cha và ở đó, tất cả thành viên đều là anh em, chị em với nhau. Rẽ chia, là tà thần/ác quỷ chỉ chực ngăn chặn mọi người đến với nhau, trong chung sống an bình và hạnh phúc. Rẽ chia, là kẻ thù ngăn chặn ý định của Chúa muốn thu thập mọi người về với gia đình với Thân Mình của Chúa.

Điều mọi người trong gia đình/Thân Mình của Chúa cần làm, là phải nói tốt cho nhau. Nói tốt

về các Giám mục/linh mục. Về cha mẹ hoặc mọi thành viên trong gia đình, những người chuyên tạo bình an. Hãy phá bỏ mọi rào cản hoặc mọi yếu tố rẽ chia. Tất cả, phải đem mọi người về lại với nhau trong tình thương. Qua Đức Giêsu. Nhờ Đức Giêsu. Vì, tất cả đều có cùng con đường. Cùng một Thần Khí để đến với Cha, như đoạn cuối bài đọc 2, đã nhắc nhớ.

 

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 17 thường niên năm B

 

“Em lặng lẽ, tháng ngày như thế đó”

Anh thương lắm, đôi bàn tay nho nhỏ
Đã làm nên bao chuyện lạ trên đời .

(dẫn từ thơ Võ Văn Trực)

Ga 6: 1-15

            Chuyện lạ em làm, đôi tay nào có nhỏ. Việc lạ Chúa tặng ban, trình thuật rày diễn tả đẹp biết bao!

            Trình thuật thánh Gio-an diễn tả, là chuyện về dấu lạ Chúa làm cho cả ngàn người. Dấu lạ thánh Mác-cô kể về việc Chúa nhân bản những bánh và cá, ban cho hơn 5 ngàn người, chỉ kể đàn ông. Hai thánh sử Gioan và Mác-cô đều diễn trình công việc Chúa làm, khi Ngài đặt chân lên bờ Biển Hồ Galilê, để nguyện cầu. Biển Hồ hôm ấy, có chúng dân theo chân Ngài, rất đông. Họ bám theo Ngài, để được nghe. Và, được chữa lành.

            Ngay từ đầu, thánh Gio-an đã ghi rõ: “Đức Giêsu lên núi và ngồi đó với môn đệ”. Ở đây thánh sử không có ý chỉ về tư thế, lúc Chúa nguyện cầu. Mà là biểu trưng, thánh sử muốn người đọc gợi nhớ về sự lạ Môsê đem về từ núi thánh. Sự lạ Môsê đem, là Lề Luật Thiên Chúa tặng ban dân Người.

            Cũng nói về sự lạ, nhưng vẫn có khác biệt ở hai Đấng. Sự lạ Chúa làm là Ngài không thực hiện theo cung cách của Đấng Trung Gian Cầu Bàu. Nhưng, do tự Ngài. Ngài có quyền năng ban truyền sự lạ,  như Gia-vê đã làm, thời Cựu Ước. Sự lạ, được diễn tả ở trình thuật thánh Mác-cô, xem ra có hơi khác.

Thánh Mác-cô, cho thấy Chúa làm dấu lạ cho dân Ngài, trước nhất là để giảng dạy. Với thánh Gio-an, việc Chúa giảng dạy trải dài qua năm tháng, đầy kinh nghiệm. Còn với Môsê, ông lên núi nhận dấu lạ bài sai, chỉ một mình. Sự lạ Chúa làm, Ngài luôn có môn đệ, đi theo. Vì, các môn đệ là những vị luôn hợp tác với Chúa trong công trình cứu độ. Hợp tác, cả vào những tháng ngày, sau Phục Sinh, nữa.                  

Việc Chúa dạy, không chỉ mỗi thánh Gio-an lo toan phụ trách, nhưng toàn thể đồ đệ Chúa, đều làm. Khi xưa, Môsê đem cho dân, chỉ mỗi lời răn dạy của Gia-vê Thiên Chúa, bằng Lề Luật, qua Man-na gửi từ trời. Qua Đức Giêsu, Môsê Mới, Thiên Chúa vẫn dưỡng nuôi đoàn dân con đến với Ngài, cả về tinh thần lẫn vật chất.

Tin Mừng hôm nay, thánh Gio-an có ghi: “Lễ Vượt Qua của người Do Thái, đã gần kề”. Vượt Qua, là một đại lễ. Vào dịp đó, người Do Thái mừng kính việc Thiên Chúa giải thoát dân con người người, khỏi ách thống trị của Ai Cập. Vượt Qua, còn là dịp thuận để Chúa đưa mọi người về với tự do. Ban tặng họ ân huệ làm “dân con được chọn”. Đại lễ này, có bối cảnh làm nền cho cuộc “Vượt Qua” mới. Có Chúa làm trọng tâm. Có sự thống khổ, Ngài chấp nhận. Chấp nhận cả nỗi chết. Và sống lại, ngõ hầu giải thoát con người, khỏi lỗi lầm. Khỏi mọi lỗi tội gây nên nỗi chết.  

Trước khi xảy đến dấu lạ của nỗi chết, Chúa đã tặng ban cho môn đồ -và Hội thánh- dấu lạ cao cả, là cuộc Vượt Qua Mới, của Ngài. Phương cách Chúa làm, là cốt để diễn bày trước, bối cảnh của cuộc Tạ Từ rất thánh thiêng. Lúc ấy, Chúa cũng làm cùng một cử chỉ tương tự:“Ngài cầm lấy bánh, tạ ơn, rồi phân phát cho những người ngồi đó, mà dùng bữa.” (Ga 6: 11). Trước khi đó, Ngài cũng đã đàm đạo cùng đồ đệ Phi-líp-phê.

Cuộc đàm đạo, nghe qua có vẻ đơn giản. Tưởng như chỉ là một bộc bạch của dân thường, coi cuộc sống như chuyện giản đơn, chân chất. Giản đơn như lời Thầy hỏi: “Ta mua đâu được bánh cho họ ăn đây?”. Và, lời đáp từ đồ đệ của Thầy lại cũng giản đơn, chân chất và bộc trực:“Có mua đến hai trăm quan tiền bánh, cũng chẳng đủ cho mỗi người được một chút.” (Ga 6: 7). Một quan tiền, tương đương với tiền công một ngày làm của một người.

Đàm đạo Thày - trò, là để vang vọng cuộc đối thoại giữa Êlisha và Gia-vê Thiên Chúa, nơi bài đọc. Bài đọc 1, ngôn sứ được dạy: hãy dưỡng nuôi hàng trăm dân lành chỉ bằng 20 ổ bánh. Và ngôn sứ cứ hỏi:“Có bằng này, sao con có thể phát cho cả trăm người?” Câu đáp trả khi ấy, vẫn là:“Con cứ phát cho mọi người ăn.” (2V 4: 43). Ở một đoạn khác, cũng thấy viết:“Hãy cho đi, anh em sẽ được Chúa cho lại. Người sẽ đong lượng đấu đã dằn, đã lắc, đã tràn đầy; rồi đổ vào vạt áo của anh em.” (Lc 6: 38)

Ngay khi đó, thánh An-rê có nói: “Ở đây, có em bé có năm chiếc bánh và hai con cá.” (Ga 6:9) Lời Chúa ở đây, soi dọi lời ngôn sứ Êlisha, trong Cựu Ước:“Chừng nấy, nào đủ cho bấy nhiêu người.” Từ phản ứng này, ta có được diễn trình phụng tự, từ nơi Chúa:“Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn và phân phát cho mọi người.” (Ga 6:11)

Điểm quan trọng, là: Chúa nuôi mọi người, không từ chốn hư vô, bất định. Mà Ngài bắt đầu bằng những gì đã có sẵn ở đó. Điều Chúa làm, là thực hiện ước vọng của em bé, lúc đó có mặt, đã vui lòng chịu sẻ san cho hết mọi người được ăn no. Sẻ và san, cho cả người dưng khách lạ, chẳng quen biết.

Các nhà chú giải cắt nghĩa “sự lạ” Chúa làm, là lòng độ lượng khởi từ cử chỉ của bé em nhằm khuyến khích mọi người biết sẻ san, những gì mình có. Sẻ và san, cho cả người dưng, khách lạ. Cho hết mọi người. Làm thế, cần có “sự lạ”  để phá bỏ tính vị kỷ của con người. Vị kỷ, là tánh khí chỉ biết lo an toàn, cho riêng mình. An toàn cho riêng mình vì đã có tài khoản ở ngân hàng. An toàn vì có vàng bạc/châu báu, phòng thân.          

Hành động của bé em trong trình thuật, đã phá đổ tường thành bằng đá, để ta thấy được việc Chúa tặng ban sự sống, thể hiện qua những gì ta có, mà sẻ san. Sẻ và san, cho người nghèo. Những người thiếu dinh dưỡng đang chết dần. Chết dần, chẳng phải vì thế giới thiếu thực phẩm mà vì thiếu người người phân phát không đều. Dù là thực phẩm vẫn còn đó rất nhiều. Nhưng khổ nỗi, người người đâu muốn sẻ san, hoặc không quen làm. Và phương tiện sản xuất ra của ăn nuôi dưỡng, người nghèo muôn đời vẫn thiếu.

Tiệc thánh ta cử hành, là tiệc tình thương, ta san sẻ. Là cơm bánh, ta sẻ san cho nhau, được thánh hoá để dâng Chúa. Tiệc thánh, là tiệc bẻ bánh ta phân phát cho mọi người, cùng tham dự. Tham dự Tiệc thánh chỉ có ý nghĩa khi ta có quyết tâm đùm bọc hết mọi người. Đùm bọc- giùm giúp, suốt cả đời.

Trước khi ăn, mọi người được Chúa bảo hãy ngồi xuống. Ở đây, ta còn biết thêm:“Chỗ ấy có nhiều cỏ.” Đây, là lời vang vọng từ bài Thánh vịnh 23, trong đó ghi:“Gia-vê là Đấng chăn dắt tôi, tôi không còn thiếu thốn gì. Nơi đồng cỏ xanh tươi, Ngài cho tôi nghỉ ngơi.” (Tv 23: 1).

Điều cần nhớ, là: ở Tin Mừng Nhất Lãm, các môn đệ được dạy: hãy phát bánh cho mọi người được ăn. Phát bánh, là đem Chúa đến với mọi người. Trình thuật thánh Gio-an diễn tả: chính Chúa đã tự tay phát bánh. Bằng việc này, thánh sử muốn báo trước lời Chúa nói ở một đoạn khác: Ngài là Bánh Sự Sống, đến với thế gian. Ngài đến, ngang qua Lời. Bằng, Mình Máu Ngài nơi Tiệc Thánh. Ở đây, thánh Gio-an còn muốn nhấn mạnh là: Chúa là nguồn mạch mọi của ăn, thức uống. Cả về tinh thần, lẫn vật chất.

Cuối cùng, hơn 5000 người được ăn uống no nê, ê hề. Không những thế, Chúa còn dạy môn đệ thu gom các mảnh thừa còn lại, đừng phí phạm. Hơn 12 xọt thức ăn, còn thừa. Thừa ở đây, không có nghĩa là đồ phế thải. Mà là, dấu hiệu về quà tặng Chúa ban rất đầy tràn và hậu hĩnh. Hậu hĩnh, tuỳ nhu cầu mỗi người cả về tinh thần, lẫn vật chất. Con số 12, là để chỉ sự đầy đặn, sung mãn và ứ tràn.

Ở đây nữa, đầy tràn/sung mãn, còn là giòng tư tưởng của thánh Gio-an, khi viết sách Khải Huyền. Ở đây, cũng vang vọng điều mà ngôn sứ Ê-li-sa thắc mắc hỏi mãi: 20 tấm bánh sao đủ chia? Ngay khi ấy, ông được dạy:“Cứ dọn cho mọi người ăn. Vì Chúa phán: Họ ăn no, mà vẫn thừa.” (2V 4: 43)

Phản ứng của đoàn dân con lúc ấy, rất tích cực. Họ coi Chúa như nhân vật siêu phàm đầy quyền uy, nên bảo nhau: “Hẳn Ông này là vị ngôn sứ, Đấng phải đến với thế gian!” Và, họ muốn Ngài làm Vua. Làm Đấng Thiên Sai cho họ. Họ có lý, nhưng đã lầm. Lầm, vì coi việc ấy chỉ như sự lạ về bánh và cá, được nhân rộng. Lầm, vì họ chẳng hiểu gì về ý nghĩa của thông điệp Chúa tặng ban.

Thông điệp Chúa ban, khởi đầu bằng Vương Quốc Nước Trời. Thông điệp, là nhằm đem mọi người về với Cha. Để, Cha nuôi dưỡng bằng của ăn từ tay Đức Giê-su. Và để, người người có cơ hội theo chân Đức Vua của mình. Bởi, chỉ mình Ngài, là Đức Vua duy nhất, dám chấp nhận nỗi chết. Và là, cái chết trên thập tự. Dám, đồng hàng với đám tội phạm, thấp hèn và ô nhục.      

Vậy, đâu là dấu hiệu cho thấy Chúa vẫn nuôi hết mọi người?

Bài đọc 2, thánh Phaolô khuyên ta sống “sao cho xứng đáng với ơn gọi Chúa ban.” (Êp 4: 1) Có hai dấu hiệu, chỉ về cuộc sống “xứng với ơn gọi Chúa ban”, là:

1.      Hỗ trợ nhau. Yêu thương nhau, qua thái độ vô vị kỷ. Hiền lành. Kiên nhẫn. Và thứ tha.

2.      Cố gắng duy trì tình đoàn kết, do Thần Khí Chúa đem đến, bằng những tích luỹ hiền hoà.  Bởi, ta không là tập hợp gồm các cá nhân sống riêng lẻ, chỉ muốn làm vừa lòng Chúa, ngõ hầu lĩnh nhận phần thưởng cho riêng mình. Nhưng, ta được kết hợp để trở thành Thân Mình Chúa. Trở thành cộng đoàn hiệp nhất. Biết yêu thương, giùm giúp. Tiệc Thánh, là dấu chỉ Thân Mình Ngài rất hiệp nhất. Ngài là Bánh Sự Sống. Là, của ăn nuôi dưỡng mọi người. Bằng mọi cách. Ở đây. Bây giờ.

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 18 thường niên năm B

 

“Ngươi giam chí khí, vòng cơm áo”

Ta trói thân vào lụy nước mây
Ai biết thương nhau từ buổi trước
Bây giờ gặp nhau trong phút giây”

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính”

Ga 6: 24-35

            Giam gì không giam, giam chí khí nơi vòng cơm áo, người làm thế sao người? Trói gì không trói, trói thân vào luỵ nước mây. Ai biết thương nhau, từ buổi trước. Thương trước thương sau, tình tự trói, Chúa tỏ hiện. Cho mình? Cho mọi người? Như đã được diễn tả ở trình thuật, mãi hôm nay.

Trình thuật hôm nay, thánh Gio-an ghi lại lời Chúa dặn sau buổi nhân rộng, những bánh và cá. Lời Chúa dặn, nay đà thấy rõ: “Thật, tôi bảo thật. Các ông tìm tôi chẳng phải vì các ông thấy dấu lạ, nhưng vì được ăn bánh no nê.” (Ga 6: 27)      

Ban rộng bánh và cá, cho hơn 5,000 người, không chỉ là sự lạ Chúa làm. Nhưng, việc này mang ý nghĩa sâu sắc, mà thánh Gio-an gọi là “dấu chỉ”. Sâu sắc một dấu chỉ, là ở điểm: Đức Giêsu, qua chấp nhận thân phận làm người, Ngài đã tỏ lộ việc Thiên Chúa có mặt ở với thế gian. Có mặt ở thế gian, Ngài lại nuôi dưỡng con người cả hồn lẫn xác nữa.

Dấu lạ Ngài biểu tỏ, là lời:“Các ông hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh, là lương thực Con Người sẽ ban cho các ông, bởi chính Con Người là Đấng Chúa Cha đã xác nhận." Họ liền hỏi Người: "Chúng tôi phải làm gì để thực hiện những việc Thiên Chúa muốn? " Và, Ngài trả lời: "Việc Thiên Chúa muốn cho các ông làm, là tin vào Đấng Người đã sai đến.” (Ga 6: 27-28)

Rõ ràng, dân con mọi người hôm ấy, chỉ muốn Ngài tặng ban điều mình thích, mà thôi. Nhưng, Chúa hiện diện sống với thế gian, đâu phải để cung cấp của cải dư dật, tách bạch khỏi mọi khó khăn, của cuộc sống. Không. Điều cần, là tin VÀO Chúa, Đấng Tạo Dựng nên mọi sự.   

Nhưng, làm thế nào để tin VÀO Chúa? Quả thật, luôn có khác biệt giữa việc tin ai và tin VÀO điều gì. Khi tin ai, mình chấp nhận điều người ấy nói, là đúng. Nhưng, điều người ấy nói có thể điều đó chẳng liên quan gì đến riêng ta. Như câu của ai đó:“Hôm rồi, Sàigòn mưa to đến ngập đường/ngập cống”. Vậy thì sao với tôi đang sống ở Úc? Chuyện như thế, nào có liên can gì đến tôi? Cũng tựa như thế, ta có thể tin tưởng điều mà Kinh Sách, Hội thánh và Đức Chúa nói, đều rất đúng mà ta đều nằm lòng, từ nhỏ.

Nhưng, khi bảo: ta VÀO ai/vào điều gì, thì khác. Khác ở chỗ: ta xả thân, theo cách thức nào đó, cho người khác. Tức là, ta tin người ấy sẽ đùm bọc/chăm sóc hoặc kính trọng chính mình ta. Kính trọng, nên không lừa dối. Nhưng, sẽ ở cạnh bên. Tin và kính, như người nam người nữ khi thành vợ thành chồng, đều tin tưởng và tôn kính lẫn nhau. Nếu không, mọi người sẽ lo ngại cho tương lai của vợ chồng ấy.         

Còn bảo, tin VÀO Đức Giêsu, là đem cả mạng sống của mình trao hết cho Ngài. Là, biết nghe theo lời Kinh Thánh, chấp nhận lối sống mà Thánh Kinh đưa ra. Ta không chỉ tin những gì Kinh Thánh nói, là đúng thật. Nhưng, còn tin rằng Kinh Thánh là nền tảng. Là, trọng tâm cuộc sống của ta nữa.

Dường như, chúng dân hôm ấy chưa nhận ra được điều Chúa nói với họ. Hoặc, dù có nhận ra, họ cũng không tài nào chấp nhận, tin vào Ngài theo nghĩa trên. Bởi thế, họ quay sang hỏi câu khác. Thực tế cuộc đời, đôi lúc ta cũng xử sự hệt như thế. Xử sự, như một thách thức hỏi rằng: thông điệp Chúa gửi cho mọi người vào buổi ấy, vẫn là: Giáo huấn của Hội thánh về thứ tha đấy chứ?

Phản ứng của dân chúng về điều Chúa làm hôm ấy, không phải để có thêm thông tin về những dấu lạ. Hoặc để bảo rằng: thông tin họ có, không chính xác cho lắm. Nhưng, chỉ là phản ứng muốn đi trệch đề tài Chúa muốn dạy.  

Vì thế, chúng dân mới hỏi: “Chính ông, có làm được điều gì lạ để chúng tôi thấy mà tin không?” (Ga 6: 31) Nói cách khác, họ chỉ muốn bảo rằng: Tại sao chúng tôi lại cứ phải tin VÀO ông? Ông cứ đưa bằng chứng cụ thể đi. Có bằng chứng thì bọn tôi mới tin vào ông! Thật ra, chẳng bao giờ con người có thể hoàn thành được mọi chuyện, bằng vào dấu chỉ Chúa ban. Nhất là những người không thể thấy được ý nghĩa của “dấu lạ”; hoặc, không muốn tin vào điều Chúa nói, qua dấu lạ, thì mọi chuyện chẳng làm sao xảy ra, theo ý họ, được.

Và, họ dẫn chứng đủ mọi lý lẽ có từ thời Môsê, để nói rằng:“Tổ tiên chúng tôi đã phải ăn man-na trong sa mạc.” (Ga 6: 31) Như thể muốn nói rằng: chỉ bằng vào các dấu lạ, chúng tôi mới có thể tin, như tin vào Môsê vậy. Vì thế, Chúa nói ngay:“Thật, tôi bảo các ông, không phải Mô-sê đã cho các ông ăn bánh bởi trời, mà chính Cha Tôi cho các ông ăn bánh ấy. Bánh đích thực. Vì bánh Ngài ban, là bánh từ trời xuống. Bánh, đem lại sự sống cho thế gian." (Ga 6: 32)

Khi ấy, họ thưa ngay:“Thưa Ngài, xin cho chúng tôi được ăn bánh ấy mãi." (Ga 6: 35) Thật sự, thì họ đã lầm. Họ lầm, vì cứ nghĩ về của ăn vật chất. Lầm, cả khi thấy dấu lạ về bánh và cá được nhân rộng. Lầm, vì chỉ hiểu sự việc Chúa làm, theo nghĩa đen. Cũng giống như truyện người nữ phụ bên giếng, chỉ muốn được uống nước “hằng sống”, Chúa ban thôi. Dường như, mọi người ai cũng muốn được cung cấp của ăn/thức uống không bao giờ cạn để, khỏi nhọc công tìm kiếm.

Cuối cùng, cũng nhờ vậy mà ta có được sự thật là: “Tôi là bánh trường sinh. Ai đến với Tôi, không hề đói. Ai tin vào Tôi, sẽ chẳng khát bao giờ!” (Ga 6: 35).  Khẳng định của Chúa cho thấy: Ngài đích thực là man-na, bánh bởi trời. Bởi, chính Ngài là dấu chỉ, cho mọi người tìm đến mà tin vào Ngài.

Khi Chúa nói: Ngài là Bánh Sự Sống, ta thường liên tưởng đến Tiệc Thánh Thể. Nhưng điều Chúa nói, lại bao quát hơn. Khi nói: Ta là Bánh Sự Sống, điều này trước nhất, có ý bảo: Ngài là nguồn cội của sự sống, rất tràn đầy. Và, theo chân Chúa, ta sẽ có kinh nghiệm về cuộc sống tràn đầy sự thật. Tràn đầy tình thân thương.  Công bằng. Tự do và an bình.

Nhờ Ngài, ta sẽ  “đầy tính người”. “Đầy sự sống.” Nhờ Ngài, ta không chỉ trở thành người mà thôi. Nhưng còn trở thành người-có-nội-tâm. Có tương quan rất lớn. Nói cách khác, ta sẽ có tương quan tốt đẹp với nhau. Với người quanh ta. Với mọi người ở khắp nơi trên thế giới.

Có người hỏi rằng: Chúa dưỡng nuôi ta thế nào? Sao Ngài là Bánh Sự Sống của ta? Cho ta?       

Để trả lời, hãy xem xét từ Kinh Sách. Bởi, Kinh thánh là Giao ước của Do Thái và người Công Giáo. Ta vẫn biết, Lời Chúa thực sự là của ăn. Đích thật. Vì thế, ta cần hiểu biết Kinh thánh. Cần gần gũi Lời Chúa cách mật thiết. Thánh Giêrônimô có nói:“Không biết Kinh Thánh, là chẳng biết Chúa.”  Không biết Chúa, làm sao trở thành môn đệ của Chúa, được?

Hội thánh vẫn nuôi dưỡng ta qua Giáo xứ, cộng đoàn. Bằng vào phong trào/nhóm hội, ban ngành, ở giáo xứ. Tất cả, đều giùm giúp hỗ trợ mỗi khi ta cần, hoặc thiếu thốn điều gì.

Cuối cùng thì, sách vở, phim ảnh, truyền thanh/truyền hình, hoặc bất cứ ai, kinh nghiệm nào cũng đều có thể giúp ta hiểu rõ ý nghĩa của sự sống. Hiểu, Chúa là Bánh Sự Sống. Hiểu ra các dấu chỉ của Tiệc Lòng Mến. Hiểu rằng, đó là thời gian để ta biết mà cảm tạ Chúa. Cảm tạ đặc biệt, vì Ngài vẫn hằng chăm nom/săn sóc mọi người chúng ta.

Thêm vào đó, khi sẻ san Bánh Sự Sống nơi Tiệc Thánh, ta còn biết cảm tạ Chúa. Cảm tạ Ngài, vì bất cứ nơi đâu. Bất cứ khi nào, Ngài cũng đều nuôi ta. Ngài nuôi ta, để rồi ta biết đường mà sẻ san với người khác, với mọi người chung quanh. 

Là Kitô hữu và là thành phần của Thân Mình Chúa, ta còn là Bánh Sự Sống cho hết mọi người. Ta còn có trách nhiệm giùm giúp hết mọi người. Trách nhiệm tập hợp mà dưỡng nuôi. Trách nhiệm hỗ trợ và an ủi họ để họ có được cuộc sống đầy tràn. Ngõ hầu, kiến tạo sự vinh quang của Chúa. Tiệc thánh ta cử hành, đều nói về Chúa, Đấng giúp ta trở nên lành và thánh, là như thế.

 

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 19 thường niên năm B

 

“Ai cũng có, một đôi lần bước hụt”

Ta cũng biết, nên cắm đầu đi tiếp
Để sau lưng, lẫn lộn những vui buồn”

(thơ Võ Thị Quỳnh)

Ga 6:41-51

            Bước hụt và đi tiếp, không chỉ riêng em mới biết, trên đường đời. Bước hụt hẫng, nhưng cứ đi. Đi, để cùng với người anh/người chị, ta nghe Chúa giảng về Bánh Sự Sống, như trình thuật đà ghi lại.

            Trình thuật hôm nay, thánh Gio-an ghi lại Lời Chúa nói về Bánh Sự Sống. Đây, là một trong sáu chương Tin Mừng mà thánh sử diễn giải về thiên tính Đức Giêsu. Với đầu óc bình thường thì  quả thật khó hiểu. Vì thế, khi nghe Chúa nói Ngài là Bánh Sự Sống từ trời, dân chúng phản bác ngay câu ‘từ trời xuống’. Cũng giống như dân thành Nadarét, họ xầm xì: “Ông này chẳng phải là Giêsu, con ông Giuse sao? Cha mẹ ông, ta đều biết cả, sao ông lại nói: ‘Tôi từ trời xuống’?

            Họ nói đúng vì về tính “người”, Chúa chỉ là bác thợ hiền, miền Galilê. Nhưng, về thiên tính, Chúa nhập thể và nhập thể, chấp nhận sống giữa họ, nhưng không ai biết. Ta cũng thế, có thực là, ta hiểu biết điều gì về Đức Giêsu, không? Hay, ta chỉ sống với những ảnh hình “thánh thiêng”, tràn lan nơi thị trường sách vở/báo chí, giáo lý/sách phần ở đâu đó thôi?

            Chúa vẫn nói:“Chẳng ai đến được với tôi, Nếu Chúa Cha là Đấng đã sai Tôi, không lôi kéo người ấy.” (Ga 6: 44) Nhưng, làm sao ta được Cha “lôi kéo”, để hiểu? Bằng vào nghe tiếng của Cha, chăng? Hoặc, bằng việc học hỏi Lời Chúa? Đích thực là thế. Học hỏi về Cha, là thực hành nghe biết và tin vào thông điệp mà Chúa tặng ban. Ngài nói:“Không ai thấy được Cha” ngoại trừ có Ngài. Quả có thế. Nhờ có Ngài, ta mới được học hỏi và “lôi kéo” từ Chúa Cha. Bởi, chính Ngài là Đấng Diễn Giải về Chúa Cha rất trung thực.

            Cũng như thế. Về sự sống đời đời, ta có thể rút kinh nghiệm sống ngay ở đây, bây giờ. Và, sự sống vĩnh cửu sẽ đến, khi ta cương quyết sống đời trọn vẹn. Quyết sống vô điều kiện cho Chúa. Quyết sống vì Đức Giêsu. Quyết sống theo cung cách Ngài chỉ vẽ:“Ai tin (trọn vẹn vào Lời), sẽ được sống đời đời.” (Ga 6: 47).

            Một lần nữa, Chúa nói:“Tôi là Bánh Hằng Sống”(Ga 6: 48). Và, tiếp nối điều Ngài khẳng định ngay từ đầu, Chúa tiếp tục:“Tổ tiên các ông đã ăn man-na trong sa mạc, nhưng đã chết.” (Ga 6: 49). Nhưng Bánh Cha ban, là thức ăn có từ trời. Từ Giavê Thiên Chúa. Ai ăn Bánh này, sẽ không chết. Ai ăn Bánh này, sẽ sống đời đời. Và sự sống ấy, bắt đầu từ đây. Ngay bây giờ.

            Vậy, Bánh ấy là bánh gì?  

            “chính thịt Tôi đây, để thế gian được sống." (Ga 6: 51) Lời này, Chúa nói trước cả vào Tiệc Tạ Từ, lúc Ngài cầm Bánh lên, rồi nói:“Đây là mình Thầy, sẽ hiến tế vì anh em.” (Lc 23:19). Chính Lời này, đã loan báo trước về sự hy sinh Thân Mình Đức Giêsu. Hy sinh thân xác Ngài, ngang qua cuộc khổ hình và nỗi chết. Một cái chết rất ô nhục. Cuộc thống khổ rất đớn đau, nhục nhã. 

            Thánh Phaolô, trong thư gửi giáo đoàn Êphêsô, cũng có nói: ngang qua Thân Mình Ngài, Đức Giêsu “đã hy sinh Thân Mình để phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét. Ngài đã thiết lập hoà bình; đã tác tạo thành một người mới duy nhất, nơi bản thể của Người. (Êp 2: 14-16).

            Trên thực tế, điều này có nghĩa rằng: trước nhất, bí kíp của cuộc sống hạnh phúc đầy tràn, là nơi cung cách Đức Giêsu đã đề nghị. Là, Bánh Hằng Sống Chúa phú ban từ Cha, đã được tóm gọn duy nhất bằng cụm từ: “Thương yêu”  

            Tựa như thánh Phaolô có lần đã nói với cộng đoàn dân Chúa, ở Côrinthô rằng: tôi có thể sống đời đạo đức cách toàn hảo, giữ đúng mọi giới luật. Tôi cũng có thể nói được ngôn ngữ của thiên thần, có thể hy sinh cả tính mạng của mình đi nữa, nhưng nếu không vì lòng mến, thì tất cả đều ra hư luống.

Cuộc đời Đức Giêsu gồm: giảng dạy, chữa lành tật bệnh, giải thoát các linh hồn bị bức bách/hành hạ, vẫn là cuộc sống có yêu thương, có hiệp nhất. Khổ hình Chúa chịu, và nỗi chết Ngài nhận lĩnh, là dấu chứng tình yêu của Thiên Chúa, đối với ta.

            Tiệc thánh Lòng mến ta tham dự và sẻ san mỗi Chủ Nhật, là tuyên ngôn ta cam kết. Cam kết quyết sống một cuộc sống chỉ dựa trên Tình thương, mà thôi. Vì thế, mỗi khi bước về phía bàn thờ mà lòng còn ghét ghen, hờn căm, đố kỵ thì ta đã vi phạm điều mà mọi người vẫn gọi, là: phạm thượng, phạm thánh, cung xúc tu sỉ.  

            Bài đọc 2 hôm nay, là lời lẽ yêu thương thánh Phaolô đã gửi về cộng đoàn dân Chúa, ở Êphêsô, trong đó thánh nhân có viết:“Anh chị em, ta chớ làm phiền lòng Chúa Thánh Thần.” Không phải Thiên Chúa hoặc Đức Giêsu hoặc Chúa Thánh Thần là Đấng đã nổi giận vì những gì ta làm. Nhưng, có điều chắc chắn, là: thánh ý Chúa được Đức Giêsu diễn tả và đặt nơi ta, là qua Chúa Thánh Thần. Có qua Ngài, cuộc sống của ta mới đầy tràn tình yêu thương, hiền hoà và lành thánh.   

            Và, thánh nhân còn căn dặn: “Anh chị em, ta phải đối xử tốt với nhau, có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh chị em, trong Đức Ki-tô.” (Êp 4: 31-32)

            Nói như thánh Phaolô, thì: chỉ khi nào ta sống có tình thương yêu đùm bọc, tha thứ cho nhau, hoà hợp, sống tự do. Không bị  gò bó bởi bạo lực,  nhưng, biết chăm sóc nhau cho trọn vẹn, thì khi ấy, ta mới nói được là: mình đã ăn Bánh Sự Sống của Đức Chúa.

Chỉ khi những thứ trên trở thành mẫu mực cho cuộc sống của riêng ta, đó mới là chứng cứ hùng hồn xác định là ta đã ăn. Và, đã biến đổi nhờ Bánh Sự Sống của Đức Chúa. Hệt như bài đọc 2, hôm nay đã khuyến khích:“Anh chị em, hãy bắt chước Thiên Chúa (mà sống)”. Sống, bằng cách:

Sống yêu thương, theo cung cách Chúa làm. Là: thí mạng sống vì người mình thương;

Thương yêu nhau, như Thầy đã thương yêu anh em;

Và, bằng vào dấu này, mọi người biết anh em là môn đệ Thày, là anh em yêu thương nhau.

Vì thế, việc cử hành Tiệc Thánh thực sự phải là kinh nghiệm sống, giúp ta biến đổi thành một cộng đoàn tình thương. Vì thế, ta cần trở thành những người quyết ra đi để đến với những ai đang cần ta giúp. Bởi, là thành viên sống động của Thân Mình Chúa, chúng ta phải trở nên Bánh Sự Sống cho mọi người ở mọi nơi.

Xem như thế, Tiệc Thánh ngày của Chúa, trước nhất phải là việc cử hành mừng kính sự việc ta đã trở nên một cộng đoàn của tình thương. Thành, sức mạnh của cuộc sống. Để, ta yêu thương nhiều hơn. Sống đúng hơn. Sống đúng như Lời Chúa chỉ dạy.

Tham dự Tiệc hôm nay, ta cầu Chúa cho Tiệc thánh ta cử hành, sẽ trợ lực cho ta. Để, ta có thể rút kinh nghiệm mà sống yêu thương. Và, san sẻ nhiều hơn nữa. Sẻ san, Bánh Hằng Sống Ngài dành cho ta hôm nay và ngay tại chốn này.

         

    

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 20 thường niên năm B

 

“Tình đã đến, trong những ngày sát hại”

trong những ngày đồng loại hết dung nhau
trong những ngày ích kỷ lạnh như dao
cắt tàn nhẫn mọi tha-nhân-giềng-mối
người khó cưỡng ăn thịt người lúc đói
người nhân danh trong thời đại nhân danh!

(dẫn từ thơ Nguyễn tất Nhiên)

Ga 6: 51-58

            Ở đời thường, ngày sát hại, vẫn có cảnh người ăn thịt người, vào lúc đói. Có những lúc, đồng loại hết dung nhau. Những ích kỷ lạnh như dao. Nơi nhà Đạo, ngày Chúa đến, là chuỗi ngày Chúa hiến tặng thân mình, để đồng loại biết dung nhau. Dung nhau như trình thuật xưa nay, vẫn diễn tả.          Trình thuật hôm nay, thánh Gio-an diễn tả về tình Chúa yêu thương, thân tặng chính mình Ngài làm Bánh hiến, cho loài người. “Ăn thịt và uống máu Tôi, sẽ được sống muôn đời”.  Điều Chúa nói, nay mang chiều kích mới: “Bánh Tôi ban, đích thật thịt Tôi đây, để thế gian được sống.” (Ga 6: 51)

            Nghe lời Ngài, chúng dân nổi lên tranh cãi: “Làm sao ông lại có thể cho chúng ta ăn thịt ông, chứ?” (Ga 6: 52) Họ nói thế, vì đứng trên bình diện của người không tin và cũng chẳng hiểu.

            Lịch sử Do Thái, là lịch sử có sắc thái khá bạo động. Hôm nay, người thời đại với nền văn hoá cao rộng, đều thấy “dị ứng” mỗi khi nghe nói về chuyện ăn thịt và uống máu vị diễn giả. Họ không hiểu nổi những chuyện như thế lại được Chúa chủ trương. Mặc dù thế, Chúa nói tiếp: “Thật, Tôi bảo thật: nếu không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.” (Ga 6: 53).

Lời Chúa nói, ta nghe rất nhiều lần. Lần sau hết, là buổi Tạ Từ hôm ấy Chúa cầm bánh lên, và căn dặn: “Này là Mình Tôi, anh em hãy cầm lấy mà ăn.” Nghe như thế, nhưng người nghe nào đã bận tâm và cũng chẳng để ý. Người nghe vẫn cứ đặt tâm trạng của mình vào tình cảnh lần đầu, khi Chúa bảo:”Trừ khi các ông ăn thịt và uống máu Tôi”. Hẳn người nghe như ta đều khựng lại, mà suy tư và rất sợ.

Vào độ trước, có cuốn phim tài liệu tường thuật chuyện những người gặp nạn trong chuyến bay rớt xuống dãy núi An-des ở Ác-hen-ti-na, so với thân phận người vượt biển trôi dạt ngoài hoang đảo. Khi ấy, người sống sót cứ phải xẻo thịt người chết, để ăn cho đỡ đói. Thử hỏi, trên đời này, có gì khó khăn/khổ sở hơn, khi phải làm những việc man rợ như thế để mà sống sót..

Ngoài chuyện kinh hoàng khi nghĩ đến việc phải ăn thịt người, dân tộc Do Thái còn khiếp đảm về máu nữa. Một đằng, máu là cội nguồn tạo sự sống. Đằng khác, máu cũng là yếu tố lây lan bệnh tình, rất hiểm nguy. Dính vào máu, tự khắc thành ô uế không thể gột. Cả đến mẹ hiền khi sinh con, cũng còn thấy mình dơ dáy suốt nhiều ngày.

Bởi thế nên, dân con người Do thái khi nghe Chúa khuyên hãy uống máu Ngài, họ thấy lợm giọng, hồ nghi là Chúa bị bệnh. Nhưng, rõ ràng là Chúa không nói mọi người hãy uống máu Ngài, hiểu theo nghĩa đen. Vậy thì, Ngài có ý gì, khi nói như thế? Để trả lời, có nhà chú giải cho rằng Chúa nói thế là nói về việc rước Chúa vào lòng trong thánh lễ. Nhưng thật sự, ý nghĩa Lời Ngài, còn sâu sắc hơn thế nữa.

Ăn thịt và uống máu Ngài, là: trở nên đồng hoá một cách trọn vẹn với Ngài. Tức có tình thâm sâu cùng thị kiến cuộc đời mà Ngài đã sống. Tức trở nên đồng hoá với các giá trị Ngài đề ra. Đó là trọng trách dựng xây Nước Trời. Và, nhiều thứ nữa. Nhưng trên hết, Mình Máu Ngài là thành phần của cơ thể Ngài đã trọn vẹn hiến tặng, bằng sự khổ nhục và nỗi chết.

Đây là phương thức viết lịch sử thánh, theo khuôn mẫu Tin Mừng Nhất Lãm:“Ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình, vác thập giá mà đi theo. Quả thế, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất. Ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì người ấy sẽ tìm được mạng sống.” (Mt 16: 24-25)      

Ở đây cũng thế, Đức Giêsu kêu mời mọi người dấn bước theo chân Ngài. Theo Ngài, để sẻ san thân phận và sứ vụ Ngài thực hiện cách trọn vẹn, không một điều kiện. Theo Ngài, không có nghĩa là tránh thoát mọi hành hình bách hại, dành sẵn cho dân con/đồ đệ, cho người dám xả thân cho Chúa. Thánh Y Nhã, thành An-ti-ô-ka từng khẳng định:“Tôi muốn ăn Bánh Chúa, là thân thể nhiệm mầu của Đức Giêsu và uống máu Ngài, là tình yêu không bao giờ cạn.”

Bài đọc 1, sách Cách Ngôn đã nhân-cách-hoá tình yêu ở trên, bằng việc xây nhà trên 7 cây cột. Và, việc chuẩn bị tiệc rượu đầy thức ăn. Việc chủ nhân sai người nữ tỳ ra đi kêu gọi người ngây thơ, khờ dại:“Hãy đến mà ăn bánh của ta; và uống rượu do ta pha chế. Hãy trút bỏ ngây ngô, mà Sống và bước thẳng trên đường hiểu biết.” (Cn 9: 5-6)

Trình thuật hôm nay, ta nghe biết Chúa nuôi ăn hơn 5,000 người toàn những bánh và cá, là muốn nói về bánh thánh và Mình Máu Chúa nối kết buổi Tạ Từ với  tiệc Lòng Mến. Tiệc Thánh Thể. Vào khi chia tay, Chúa kết nối Thân Mình Ngài vào với bánh hình Ngài bẻ ra, để san sẻ với dân con/đồ đệ. Ngài nối kết rượu vào Máu Ngài đã đổ ra, qua chén đắng cứu chuộc Ngài chuyển đến với từng người tham dự. Máu Ngài, là bảo chứng thực sự cho Giao ước Ngài thiết lập với dân con: “Này là mình Ta… Và này là Máu Ta, sẽ đổ ra vì các ngươi. “(Lc 22:20)

Bánh thánh ta nhận lãnh trong Tiệc Thánh Thể, là Thân Mình Chúa Phục Sinh. Rượu thánh, ta uống ở Tiệc Lòng Mến, là Máu Đức Kitô đã sống lại. Khi lĩnh nhận Mình và Máu thánh Chúa, đích thực ta tỏ bày niềm khát khao đồng hoá với Chúa. Chọn Đường Chúa đi. Và nhận lãnh sứ vụ dựng xây Nước Trời cho mọi người. Và, trong nhiều trường hợp, ta còn xả thân vì Chúa vì Tin Mừng.

Làm thế, ta không làm theo tư cách cá nhân đến với Thừa tác viên mà đón Chúa. Nhưng, là làm qua tư cách cộng đoàn đến bàn thánh để sẻ san Mình và Máu Chúa, bản thân ta.

Đặt Mình Chúa trong tay đưa vào miệng, rồi thưa “Amen”, là chấp nhận sứ điệp Tin Mừng, cách trọn vẹn. Chấp nhận vinh quang cũng như đổ vỡ. Chấp nhận niềm vui cũng như nỗi buồn khi dấn bước theo chân Ngài, cùng Ngài, bất chấp hệ luỵ tiếp diễn theo sau và coi đó là việc thiết yếu dựng xây Nước Trời. Là về với thế giới, ta được gọi để phục vụ. Cụm từ “Amen” gồm tóm rất nhiều ý nghĩa. Đẹp như thế.

Lĩnh nhận Mình Máu Chúa, để rồi sẽ ra đi về với thế giới. Ra đi, giáp mặt cùng lúc, 3 thực tại:       

 

-đồng hoá với con người và sứ vụ của Chúa;

-cam kết cùng với Chúa chấp nhận mọi khổ nhục và nỗi chết, giống như Ngài;

-khẳng định điều này mỗi tuần, ngày của Chúa ở bàn tiệc.

 

Bài đọc 2, thánh Phaolô thôi thúc ta “đừng sống như kẻ ngây ngô dại khờ, nhưng như những người khôn ngoan.” Bởi, một khi tràn đầy Mình Máu Chúa, ta cũng có đầy tràn sự khôn ngoan. Khôn ngoan, để biết ý Chúa mà dành để cho cảnh tình cuộc đời, của chính ta. Khôn ngoan, để biết: đâu là giá trị đích thật, trong cuộc sống. Khôn ngoan, để biết cách sống một đời đầy năng động. Sống để biết rằng: chỉ có sự cao cả đích thật ta cần đeo đuổi, đó là sự khôn ngoan, do Chúa ban, mà thôi.

Ở cuối thư của thánh Phaolô, ta cũng thấy đầy lời khôn ngoan đích thật, khiến việc tập họp vào ngày của Chúa có ý nghĩa:“Hãy cùng nhau đối đáp lời ca, lời vãn của Thần Khí. Hãy xướng ca tụng niệm kính Chúa hết lòng anh em. Mọi thời, vì mọi sự, hãy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, mà cảm tạ Thiên Chúa, và là Cha.” (Êp 5: 19-20).     

      

         

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 21 thường niên năm B

 

“Ðời là chọn lựa, có khi nào vẹn nguyên”

Em khi nào tự hỏi?
ý niệm của bình yên?

(dẫn từ thơ Du Sĩ)

Ga 6: 60-69

            Chọn lựa ở đời, nguyên vẹn hay không vẹn nguyên, em đâu cần hội ý. Ý niệm về bình yên, Về hạnh phúc. Đó, mới là điều cả anh lẫn em, cần tìm hiểu. Tìm và hiểu, như Lời Chúa nói, để mà tin. Điều ta tin, là do Thần Khí Chúa mang đến, như trình thuật từng diễn tả.

            Trình thuật thánh Gio-an nay diễn lộ về một chọn lựa gai góc nhất đặt ra cho môn đệ. Chọn lựa gai góc, vì tương phản bối cảnh ở thôn làng She-chem, có nói ở cuối sách Giô-suê, bài đọc 1.  

            Giô-suê kêu gọi mọi người, từ kỳ mục/thủ lãnh, cho đến thẩm phán/ký lục, hãy chọn lựa. Chọn, phục vụ Gia-Vê Thiên Chúa, Đấng dẫn đưa họ khỏi Ai Cập, để đến miền đất ổn định. Hoặc lựa, thừa nhận thần linh của người E-mô-ri, Do Thái từng chiếm đất. Chọn Gia-Vê Thiên Chúa, hầu lập Giao ước với Ngài. Giao ước, mà Môsê và tiên tổ từng xác chứng.

            “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi”, ý nói: giống như Lời Ngài nói trước đây:“Nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình.” (Ga 6: 53), lời này tỏ cho thấy: người nghe khi ấy, chỉ hiểu Lời, theo nghĩa đen.

            Lời hôm ấy, Chúa muốn ta đón nhận nguyên vẹn con người của Ngài, không e dè. Vô điều kiện. Đón nhận tất cả về Ngài, từ cuộc sống, đến tư tưởng lẫn giá trị cùng tầm nhìn cuộc đời, nay trở thành của riêng ta. Và trên hết, là đồng hoá với Ngài, qua hiến trọn Mình và Máu Ngài, ở thập giá. Biểu trưng cho tình yêu không nói nên lời, đối với ta.

            Nơi Tiệc thánh, ta biết mình kết hợp/hiệp thông, chấp nhận mọi thử thách. Nhất quyết nên một, với Ngài. Bởi, nếu chỉ để Ngài đến với ta thôi, vẫn chưa đủ. Mà còn phải bước vào hành trình, đến với Ngài. Và, ở cùng Ngài, nữa. Thành thử, khi thừa tác viên trao Bánh thánh và nói: Mình Thánh Chúa Kitô, ta thưa: “Amen”, tức: ta không chỉ tin rằng, quả là Ngài đang hiện diện với ta, mà thôi. Thưa  “Amen” còn có nghĩa: ta quyết xả thân trọn vẹn cho Đức Chúa cho cộng đoàn tình thương mà ta là thành viên trong đó.

            Lời Chúa tiếp, thoạt nghe, ta cứ tưởng là lời vặn vẹo, khó hiểu. “Thần Khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng ích gì.” Lời Chúa đây, là Thần Khí. Là, Lời đem sự sống. Bởi, khi nghe về Mình và Máu thánh của Ngài, là ta nghe bằng cơ phận xác thịt, bằng đôi tai. Và, chỉ khi nào ta nghe Lời Chúa bằng thần khí, khi ấy ta mới hiểu rõ ý nghĩa đích thực. Ý nghĩa ấy, là: Lời đã nên xác phàm, thịt và máu. Có như thế, ta mới nắm bắt được nhu cầu cần hiểu. Từ chốn thâm sâu, đầy ý nghĩa.

            Đồng hoá với Thần Khí Chúa bằng thị kiến, là cách để ta đưa Lời vào đời mình. Lời, mang tính thách thức. Và thách thức này, khi xưa, đồ đệ Chúa chưa sẵn sàng để đối đầu vì : “Trong anh em, có những kẻ không tin.” (Ga 6: 64)

            Bằng vào niềm tin vô điều kiện vào Đức Chúa, có thế ta mới thấu hiểu lý lẽ sâu sắc, nằm bên trong. Hiểu đích thị là Lời của Chúa. Việc này đòi ta phải mở rộng tâm trí, hầu sẵn sàng nhận lãnh ngay ở đó. Chứ không phải, là những gì ta muốn đặt vào ở đó. Đây, còn là quà tặng của chính Chúa: “Vì thế, Thầy đã bảo anh em: không ai đến được với Thầy, nếu Cha không ban ơn ấy cho.” (Ga 6: 65)

            Ngõ hầu chứng minh điều Chúa nói là Sự thật, tác giả Tin Mừng thêm lời giải thích: “Chính vì thế, nên nhiều môn đệ đã rút lui. Không đi theo Ngài nữa.”(Ga 6: 66). Cụm từ “rút lui” đây, bày tỏ một nỗi buồn. Rút và lui, là về với cõi đời tăm tối, thuở trước. Rút và lui như thế, các vị không còn sẻ san sự sống, không còn san sẻ ánh sang mà Ngài toả rạng. Nỗi buồn không tên này, xảy đến với nhiều người và với bất cứ ai trong chúng ta ở đây, lúc này như đã từng xảy đến với Giu-đa. Xảy đến với cả Phêrô thánh nhân nữa.

            Cũng từ đó, Chúa hướng về nhóm Mười Hai, bằng những lời ra như thách đố:“Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”(Ga 6: 67) Và khi ấy, thánh Phêrô đã đại diện cho mọi người, bèn đối đáp: “Thưa Thầy, chúng tôi bỏ đi theo ai đây? Chỉ Thầy, mới có những Lời đem lại sự sống đời đời. Và chúng tôi những tin cùng nhận biết: Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.” (Ga 6: 68)

            Đến với ai đây, có lẽ là thái độ của chúng ta, lúc sầu buồn, khốn khó. Lúc mà ta những muốn nói lời từ bỏ.  Muốn từ bỏ cả Hội thánh. Đó cũng là lúc mà ta có cảm nghiệm về những nghi nan, hết tin tưởng. Có thể là, ta cũng gặp tình trạng ấy. Cũng đau buồn, khốn khổ vì những lý do, tựa như:

            -ít biết niềm tin của Kitô-hữa. Không rõ sứ điệp của Tin Mừng, nên cứ luẩn quẩn, loanh quanh.

            -chứng kiến hành xử tiêu cực/tai tiếng từ các kẻ tin, như linh mục, thừa tác viên phục vụ Chúa.

            -xung khắc/đố kỵ các tín hữu Công giáo, người Đạo Chúa.

            -bị cuốn hút về với thế giới quyền uy, không thích nghi với tầm nhìn của người đi Đạo.

            -chọn gia nhập Đạo khác. Tôn giáo khác.

 

            Gặp cảnh trên, hãy cứ tin rằng: dù khó khăn hoặc có nghi vấn mấy đi nữa, ta vẫn không thể tìm ra con đường nào khác hay hơn đường Chúa dạy. Đường Chúa dạy, không vì tai tiếng của người đời, mà thành xấu. Nói tóm lại, ta vẫn nhận ra có khác biệt giữa thực chất của thị kiến sống động Chúa ban, với những gì bê tha/chộn rộn mà người theo Chúa đang làm trong lầm lẫn.

            Tin, không là điều được ban cho. Cũng không là mớ ý tưởng ta dính liền vào đó. Mà, là tương quan sống động với Đấng mình tin. Tương quan với thị kiến sống, của Ngài. Tương quan sống động cần tăng trưởng, khắc sâu với tháng ngày dài ta từng trải. Tương quan không ngừng được xác định qua cung cách ở thế giới, luôn đổi thay. Là người Công giáo thế kỷ 21, đòi hỏi ta có lối sống khác biệt với lối xử sự của những người sống vào thập niên năm mươi hoặc thập niên bẩy mươi.

            Bài đọc 2, cũng cho thấy điều đó, rõ như ban ngày. Ai cổ võ phong trào “phụ nữ đòi quyền sống”, hẳn sẽ không hài lòng với điều mà thánh Phaolô nói đến hôn nhân và về người vợ, ở đoạn trích. Thật ra, không thể bãi bỏ/đổi thay đoạn trích dẫn lá thư mang nhiều ý tưởng đẹp như thế. Nhưng, điều cần là xem xét Lời Chúa và những gì thánh nhân nói đến, vẫn phản ánh tư thế người tính hữu thuộc nam giới trong xã hội thời bấy giờ thôi.

            Song song với tương quan chồng vợ, là tương quan giữa Hội thánh và Đức Giêsu. Là những gì gói ghém trọn vẹn ý nghĩa của Lời Chúa. Có lẽ, ta thấy được cái khó của người vợ, cứ phải tùng phục chồng trong nhiều việc. Nhưng, đó là chuyện tùng phục của tình thương, chứ không phải là tùng phục của hệ cấp trên/dưới. Và, thánh nhân cũng đòi người chồng biết tùng phục, hệt như thế. “Hãy yêu thương vợ, như Đức Kitô yêu thương Hội thánh, đã hiến mình vì người mình yêu.” (Êp 5: 25)

            Là chồng, ta phải thương vợ “như yêu chính mình”. Tức, hai người tạo cùng mức độ chăm só người phối ngẫu, như chính mình. Đây, là khế ước hai chiều, hỗ tương,  quyết tâm và Sâu sắc. Tuyệt nhiên, ở đây không dành chỗ cho sự lấn át hoặc thống trị từ một  bên nào cả.

            Thái độ bỏ Chúa, bỏ Lời Chúa ở đây, là do người đọc hiểu trích đoạn theo nghĩa đen, nên dễ để mất mối tương quan, ta cần có. Bởi, Lời Chúa không thay đổi. Trong khi đó, cung cách người người chung sống, đã đổi thay theo cấp số lớn lao, tuỳ thuộc thế giới. Tức, đổi cả con người.

            Nhiều tín hữu đã vật lộn với tình cảnh khó khăn về niềm tin trong đời. Và khi việc “chẳng đặng đừng” xảy đến thì lại rất cần đến niềm tin vào Chúa hầu được trưởng thành. Trưởng thành qua nhiều giai đoạn cuộc đời. Mỗi giai đoạn, là lúc ta nhớ lại lời đáp trả của thánh Phêrô, khi xưa: “Thưa Thầy, bỏ Thầy con biết đi theo ai đây?” Cả khi nghi vấn, nhiều người vẫn nhận ra rằng, dù có bỏ qua Lời đề nghị của Chúa ở Tin Mừng để theo thị kiến khác thì đã chắc gì điều ấy sẽ tốt  hơn.

            Điều mình muốn và cần, để cuộc sống có ý nghĩa, nhiều khi không dễ gì thuyết phục được chính ta. Có lúc những điều bất ưng chợt đến như hãi sợ, giận hờn, phẫn uất. Vào những lúc đó, chỉ có tình thương yêu nồng nàn mới giúp ta trở về với con đường mình đã chọn. Đó là lúc, Lời Chúa lại về, rất ý nghĩa: “Phúc cho ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được THẤY Chúa.” (Mt 5: 7).

            Có nhiều thị kiến về sự sống, như: Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo, Do Thái giáo. Các tôn giáo ấy, cũng đưa con người lên tầm mức hiệp thông với Chúa. Nhưng, một khi ta thuận đi theo Chúa, chấp nhận thị kiến cùng Chúa, có Chúa thì  ta sẽ cứ thế mà theo cung cách tự mình đã thuyết phục.

             

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 22 thường niên năm B

 

“Hoàng hôn nghe một mình”

Giáo đường chuông rời rạc
Tan vỡ nhiều âm thanh
.

Một chút linh hồn nhỏ

Đi về chân núi xanh.

(dẫn từ thơ Quang Dũng)

Mc 7: 1-23

            Những nào, linh hồn nhỏ. Đi về, chân núi xanh. Có chiều về chầm chậm. Nghe hoàng hôn tan vỡ, nhiều âm thanh. Âm thanh, là Lời Chúa nói với dân con/đồ đệ, có Pharisêu, ký lục cùng kinh sư, lanh chanh tranh luận về luật , về truyền thống rửa tay.

            Trình thuật thánh Máccô, nay ghi Lời Chúa nói về thái độ sống bề ngoài của kinh sư, ký lục cùng Pharisêu. Họ nghĩ, người mình trổi bật hơn đám dân ngoài Đạo. Nên, vẫn coi lề luật như niềm tự hào dân tộc, hệt như Môsê:“Có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Thiên Chúa chúng ta, khi ta kêu cầu Người? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh, như toàn bộ lề luật tôi đưa ra trước mặt anh em, không?” (Đnl 4: 1-8)

            Bằng lề luật, đám kinh sư/Biệt phái hy vọng dẫn dắt dân con đi Đạo sống đời sống khác biệt. Khác và hay hơn những người “ngoại Đạo”, ở cận bên. Nên, họ đặt nặng việc giữ luật như lệnh truyền từ Chúa. Tuy thế, thời của Chúa, lề luật đã trở thành duyên cớ cho nhiều sự kiện rối rắm xảy đến với đời thường. Đến độ, chỉ các chuyên gia mới dám biện giải các vấn đề phức tạp về luật, cho người dân.

Một trong các vấn đề thường nảy sinh, là lề luật thời của Chúa, không còn là bảng đường chỉ dẫn nhằm giúp đỡ dân con thương yêu phục vụ Chúa nữa. Vì thế, tuân thủ luật lệ đã nên quan trọng hơn nội dung của lệ luật. Nghĩa là, họ không cần biết luật ấy nói gì, chỉ cần sống sao cho mọi người thấy  mình có giữ luật, thế thôi. Nên từ đó, người người không còn quan tâm đến tương quan với Chúa, với người nữa, mà chỉ xét nét/rình rập người khác. Xét và rình, để xem họ có giữ luật Môsê, như mình hay không, thôi.

            Thái độ ấy đã  ăn sâu vào tâm não người đi Đạo đến ngày hôm nay. Hôm nay, phần lớn lỗi lầm ta xưng thú, lại được xét theo chỉ tiêu không giữ luật. Có người còn cho rằng: nổi nóng, mất kiên nhẫn hoặc, lười biếng, không đọc kinh/đi lễ, quên rước Chúa vào lòng, mới là tội. Còn thì chẳng cần xét xem lâu nay mình có lưu tâm đến người khác không. Cũng chẳng cần biết người khác có khổ sở, nhục nhã vì mình hay không.

            Như Chúa nói, nhiều luật được kê trong Cựu Ước là do con người viết. Luật ấy chẳng đề cập chuyện yêu thương/kính sợ Chúa. Các luật ấy chỉ thuận theo đòi hỏi của xã hội thời ấy, thế thôi. Lề luật ấy chỉ giúp người có quyền tiếp tục khống chế kẻ thấp cổ bé họng. Chỉ cốt cho thấy người giữ luật biết mình đang ở vị thế nào trong xã hội.  

            Nói cách khác, nếu sống như thế vào thời buổi này, người giữ luật chỉ cốt được khen: mình là người Công giáo tốt. Chúa nhật nào cũng đi lễ, đọc kinh lần hạt, rất đều. Khi chết, chắc chắn sẽ lên thiên đàng, thẳng cánh, chẳng cần biết là khi đến nhà thờ ta nghĩ gì? làm gì? Có quan hệ tốt với người chung quanh không? Quan hệ sau buổi lễ hoặc quan hệ trong đời thường ra sao?. 

            Trình thuật nay cho thấy: có sự khác biệt về quan niệm giữ luật, giữa Đức Giêsu và nhóm Biệt phái, như đã viết:“Sao môn đệ ông không theo truyền thống tiền nhân, cứ để tay dơ khi dùng bữa?” (Mc 7: 5) Và, điều thánh sử hôm nay ghi lại, phản ánh tình cảnh của cộng đoàn tiên khởi, vẫn từng gặp. Các tân tòng nhập Đạo, có vị là Do Thái, có vị trước kia thuộc dân ở ngoài. Vì quen ở ngoài, các vị này ít theo tập tục Do Thái. Chính vì thế, người toàn tòng Do thái mới bất đồng về lới sống đạo của họ.

            Xem thế, chủ đích của trình thuật là đặt tập tục của người Do thái vào đúng vị trí thời gian và không gian. Rửa tay trước khi ăn, vốn là biện pháp ngừa bệnh rất bén nhạy. Qui định này, mục đích ban đầu chỉ để giúp người dân giữ vệ sinh. Giúp phân định thức ăn nào “sạch”,¸thứ nào dơ. Kinh nghiệm cho thấy có nhiều thứ ăn vào, tạo hiểm nguy. Như để tay dơ bẩn khi ăn, sẽ gây bệnh. Từ đó, họ kết luận rằng : nếu không giữ được vệ sinh thì  làm sao giữ được luật Đạo được.

            Đức Giêsu không công kích các động thái phòng ngừa ấy. Điều mà Ngài bác bỏ là: giới chức Do thái quá đặt nặng sự việc, không cân xứng. Quá chú trọng những điều không cần thiết. Để rồi, quên đi việc chính yếu, là: yêu thương/tôn kính Chúa. Quên chăm nom giùm giúp người đồng loại. Đây, là lý do khiến thánh Phanxicô Át-xi vứt bỏ mọi thận trọng, để chú trọng vào mỗi việc thương yêu người nghèo hèn.     

            Chúa không đả kích việc người Do Thái áp dụng luật cách chi li. Nhưng Ngài chỉ muốn trích dẫn lời ngôn sứ Isaya:“Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta cũng vô ích. Vì giáo lý chúng dạy, chỉ là giới lệnh của phàm nhân.” Lời lẽ trên, không trực tiếp chỉ nhắm vào Biệt Phái thôi, mà cả các thành viên cộng đoàn tín hữu khi xưa nữa. Tức, nhắm vào những người ngày hôm nay vẫn chủ trương thi hành luật chỉ vì luật trong cộng đoàn.

            Nếu cứ chủ trương thi hành luật lệ/truyền thống cách triệt để, sẽ không tránh khỏi xung khắc đang rõ ràng xuất hiện trong thế giới hiện đại. Xuất hiện cả trong gia đình, cộng đồng, ban ngành và đoàn thể. Quá cứng ngắc trong thi hành luật lệ, dù là luật hội thánh, ra sẽ thấy xảy ra những là: ghét ghen, bạo lực ở nhiều nơi. Và, chủ trương gắt gao thi hành luật lệ đã tước bỏ niềm tin tôn giáo ta cần có.

Lời Chúa là một cảnh tỉnh gửi đến cho ta, trong xã hội đa văn hoá/sắc tộc, hiện giờ. Thời buổi này, ta chế tạo ra được nhiều thứ, từ kỹ thuật cao đến y khoa hiện đại, nhưng chẳng thay đổi được những gì xảy ra khi xưa, thời của Chúa. Tức, sống Đạo mà vẫn chịu ảnh hưởng từ cảm xúc uỷ mị, bề ngoài.

Về uế tạp, Chúa nói rõ: uế tạp, không do thực phẩm ta đưa vào miệng. Mà, do những gì xuất phát từ con tim. Sản phẩm uế tạp của tim, như: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, xảo trá, ác độc. Cả đến: phỉ báng, ngông cuồng, tự cao tự đại. Tất cả những uế tạp này đều trực tiếp xung khắc mối tương quan êm đềm với Chúa, với mọi người. Hành vi rửa tay cũng chẳng thể nào thay đổi những xung khắc, uý kỵ ấy.            

Bài đọc 2, thánh Giacôbê nói rõ:“Mọi ơn lành và phúc lộc hoàn hảo đều từ trên tuôn xuống. Từ Cha là Đấng dựng nên muôn tinh tú.” (Gc 1: 17). Quả thật, Lời Chúa mang đến cho ta tất cả mọi ơn lành/phước lộc, hoàn hảo ấy. Và, thánh nhân thêm:“Hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo trong lòng anh em…Hãy đem Lời ra mà thực hành, đừng nghe suông mà lừa dối chính mình.” (Gc 1: 21)

Đạo Chúa, không là mớ kiến thức chỉ chú trọng đến luật lệ, giới răn. Đạo Chúa, cũng chẳng quan tâm đến các thắc mắc của những người bối rối, chuyên hỏi han:làm thế có tội không? Tội trọng hay tội nhẹ? Có mất linh hồn không? Giữ Đạo như thế chỉ là lo mỗi hai chuyện: đó là tóm bắt mọi sự cho mình mình, và chỉ lo tránh thoát mặc cảm sợ tội. Tức, chỉ nghĩ chuyện tiêu cực mà chẳng lo sống tích cực.

Thực chất vấn đề, không phải thế. Điều, ta cần quan tâm hơn cả, là tự hỏi:“Việc tôi đang làm có mang ý nghĩa một hành động yêu thương, không? Thực ra, chẳng nơi nào lại có luật lệ, như thế. Với người Công giáo, bất cứ lời nói nào, hành động nào không vì tình thương yêu người đồng loại, đều không phải là lời nói và hành động phải lẽ, của tín hữu Đức Kitô. Của, một Kitô khác. Cũng chẳng là hành vi hợp với luân thường đạo lý, của con người.

Ta có thể chi li giữ đúng luật, như người Biệt Phái. Nhưng làm thế, dễ xa dần tinh thần của Tin Mừng. Dễ đi xa ý định của Chúa. Khi giữ luật, cần thiết nhất là cứu linh hồn mình, trước đã. Cần, đặt mình trong tình trạng giúp mình tiếp tục nhận lãnh ân huệ Chúa phú ban. Khi sống chung, làm việc chung với nhau, ở đâu cũng cần luật lệ. Nhưng lề luật được lập ra, là để ta dễ sống, thế thôi. Một khi ta để lề luật ra lệnh cho ta làm điều này/việc nọ, thì khi đó ta đã rơi vào cảnh tình người nô lệ , đi sai mục đích sống. Vì thế, người xưa vẫn có câu: Luật lệ đặt ra là để phá bỏ.

Suy cho cùng, nên nhận thức xem mình đã thương yêu/phục vụ Chúa chưa? Thương yêu, đến mức độ nào? Để được thế, cần sống trung thực, lương thiện và, tự do. Tự do chọn lựa những gì tốt đẹp. Tự do, trong yêu thương/giùm giúp. Tin Mừng không là lề luật đặt ra cho bất cứ ai. Tin Mừng chỉ đưa ra thị kiến sống để ta đích thực sống vì Chúa, vì mọi người. Tin Mừng đặt nặng tương quan giữa mọi người, tương quan yêu thương và giùm giúp.

Ngày hôm nay, ta có nhiều cơ hội để yêu thương/phục vụ Chúa, trong nhiều tình huống khác nhau. Thành thử, thay vì hỏi: làm thế có tội không? hãy nên hỏi: “Làm cách nào để ta trở thành người biết yêu thương, giùm giúp hết mọi người. Lúc này.” Đó mới là điều quan trọng trong đời.   

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 23 thường niên năm B

 

“Gửi vào biển xanh lời tim muốn nói”

Mai có trôi sang bên ấy cùng người
Nhớ tạc trên cát vàng câu sám hối
Cho tình này ngoi ngóp giữa trùng khơi”

(dẫn từ thơ Lã Thế Phong)

 

Mc 7: 31-37

            Lời, tim anh muốn nói gửi biển xanh, có là lời ới gọi từ muôn nơi? Gọi, để rồi nhớ ghi tạc trong tim, câu sám hối. Với trùng khơi. Tình ngoi ngóp?

            Trình thuật, nay không nói gì về sám hối. Nhưng, về Chúa chữa lành cho người câm điếc lẫn mù loà, ở vùng Tia. Ngoài Đạo. Tiến trình chữa bệnh của Chúa, kéo dài như một nghi thức. Quả thực là như thế. Bắt đầu, Chúa dùng tay đặt nơi tai người bệnh, rồi bôi nước miếng vào lưỡi anh. Nước miếng, là thứ mà người xưa tin sẽ có tác dụng chữa lành một số bệnh. Nay, sự thể này cũng có đúng vào một số trường hợp. Cùng lúc ấy, Chúa ngước mắt lên cao, chuyện vãn với Chúa Cha, bằng tiếng Aram, Ngài nói: Ephata, nghĩa là: hãy mở ra.”

            Tức thì, người bệnh được chữa lành. Anh nghe rõ và nói được. Thật sung sướng. Người chứng kiến đứng chung quanh, rất đỗi kinh ngạc. Họ đồng thanh đưa ra một nhận định, nghe rất đúng: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp: người điếc được nghe. Kẻ câm nói được.” (Mc 7: 37)

            Lời chúc đây, vang vọng từ sấm ngôn của tiên tri Isaya, ở bài đọc 1: “Bấy giờ, mắt người mù, mở ra. Tai người điếc, nghe được. Kẻ què nhảy nhót, như nai. Lưỡi người câm reo hò, vui vẻ.” (Is 35: 5-6). Và tương lai khi xưa được ngôn sứ hứa, nay đã đạt.

            Cách Chúa chữa bệnh, khiến mọi người chúng ta nhớ về Bí tích thanh tẩy. Nhờ vào quà tặng là niềm tin gửi đến với người nhận lãnh bí tích, tai họ mở ra để nghe Lời Chúa. Lưỡi họ được giãn lỏng, để nói cho mọi người biết, những điều tốt đẹp về Đức Chúa. Khi xưa, lúc chưa có ai lo ngại về chuyện lây lan mầm bệnh, linh mục cử hành bí tích thanh tẩy, có thói quen sờ chạm tai người nhận lãnh bí tích. Rồi, vị ấy chấm chút nước miếng vào lưỡi người nhận lãnh, là tỏ theo cung cách Chúa đã làm.          

            Thanh tẩy, là dấu hiệu cho thấy ta được tháp nhập vào Thân Mình Chúa, cách trọn vẹn. Tháp nhập vào Hội thánh của Ngài, nữa. Muốn được thế, ta phải quyết tâm tham gia lối sống sinh động Chúa mời ta thực hiện. Thực hiện quyết tâm, là mở hết tai ra mà nghe, những gì Đức Giêsu nói với ta. Là, mở trọn tâm hồn ra mà san sẻ niềm tin-yêu, với kẻ khác. Không như người trong Tin Mừng, ta thường không thấy là mình được nhận lãnh quà tặng này, ngay tức khắc.

            Thật ra, phải nói là nhiều người trong chúng ta không có khiếu lắng nghe và nói. Nói những gì liên quan đến Chúa. Có người còn ngưng cả việc lắng tai nghe, nữa. Nhiều người nghĩ, ai cũng đều nghe và biết về 7 phép bí tích, 10 giới lệnh của Chúa, 6 điều Hội thánh răn dạy, 7 mối tội đầu một khi  học lớp giáo lý. Cho nên, họ thường nghĩ: chẳng có gì để học thêm nữa vào sau đó nữa.     

            Tuy nhiên nếu nghĩ như trên thì họ chưa nhận ra được những gì cần nghĩ. Và dường như họ đang điếc. Bởi có điếc, họ mới không nói được hoặc không có gì để nói, không có gì để sẻ san. Cuối cùng thì, thường tình ta gặp rất nhiều người nhà Đạo, có kỹ năng rất cao trong xã hội, nhưng lại thấp bé về niềm tin. Đáng buồn hơn, vì không nhận thức, nên họ chậm lụt trong tự giác, để giúp người khác hiểu biết đôi điều về Đạo Chúa. 

            Trong khi đó, có nhiều người lại biết nghe. Và nghe rất giỏi nên hiểu biết rõ ý nghĩa con người của Đức Giêsu và Tin Mừng Ngài trong hoàn cảnh đổi thay cuộc đời mình. Ở đây nữa, có những người nghe thì tốt, nhưng nói không nhiều. Và, sẻ san cũng chẳng bao nhiêu cho người khác. Quả thật là, có điều trái nghịch là: ta nghe Lời Chúa cho nhiều, nhưng lại nói khá ít và nhất là san sẻ thì chẳng được bao nhiêu.     

            Chúa vẫn bảo, không ai thắp đèn lên rồi đem giấu kín, nơi chìm khuất. Đèn chiếu sáng, là để người người được san sẻ, mà thấy đường. Vấn đề Tin Mừng đề cập, Lời Chúa được ban bố là để nghe và san sẻ, hầu thực hiện trong cuộc sống. Nghe đây, có nghĩa: lắng tai và thông đạt. Là,triển khai thông điệp thành của riêng cho mỗi người. Rồi thực hiện trong cuộc sống bằng hành động.        

            Theo Phúc Âm hôm nay, dù Chúa có cản người lành bệnh đừng phổ biến, nhưng anh và mọi người cũng sẽ ra đi mà rao truyền sự kiện vừa xảy đến. Thật ra, người bệnh nào khi được chữa lành mà lại chẳng quảng bá sự lạ mà mình được phước. Nay, anh nghe được mọi sự. Anh cũng sẽ, sẻ san với mọi người, phước lành anh nhận lãnh. Cả ta nữa, khi phấn kích về Tin Mừng của Chúa; phấn kích về kinh nghiệm sống có thị kiến, ta cũng làm hệt một việc như anh ấy đã làm thôi. 

            Tựa như môn đồ Chúa ngày Lễ ngũ Tuần, nếu ta có kinh nghiệm sống đời tín hữu đích thực và sâu sắc, chứ không chỉ một mớ tín điều khô cứng, thì cả ta nữa, cũng sẽ phấn kích mà sẻ san với mọi người. Y hệt vậy thôi.

            Vấn đề là: lâu nay ta vẫn nghĩ về đạo hạnh như là việc cá nhân/riêng rẽ giữa ta và Chúa tức  sống lành thánh/tốt đẹp, giữ mình ở mãi trong tình trạng nhận lãnh ân huệ Chúa ban cho như đi nhà thờ vào giờ nhất định và đón nhận ơn lành nơi bí tích. Hệt như người giàu có trong Tin Mừng, anh giữ trọn đủ mọi điều răn dạy nhưng vẫn hỏi Chúa: tôi cần làm gì thêm nữa chăng? Và câu trả lời của Chúa, là: “Đúng. Hãy đem tất cả những gì anh có, cho người nghèo túng, có nhu cầu. Rồi đến mà theo tôi”.

            Hôm nay, ta nghe chăng lời răn dạy, tựa như thế? Ta có nghe những lời như thế ở bài đọc? Làm sao, để ta có thể đối xử với những người khác nhau trong xã hội? Dù là người lương thiện, ta thấy có nhiều lúc, nhiều lần, ta đối xử với mọi người, hệt như điều thánh Giacôbê nói: “Ta đối xử ra sao với bạn bè, những người tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, và người dưng khách lạ, nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, đến với ta?”

            Còn một vấn nạn nữa; thái độ của ta đối với giàu sang, khó nghèo có khác biệt, không? Ai là người ta thực sự coi như giàu sang, đang giàu nổi? Ta đeo đuổi loại giàu sang phú quý nào đây? Có thật sự là ta chẳng kỳ thị tí nào, trong các địa hạt như: giới tính, sắc tộc, tín ngưỡng/tôn giáo, giai cấp, nghề nghiệp…?

            Trả lời cho câu hỏi nêu trên, sẽ thấy là ta thực sự biết nghe Lời của Chúa hay không. Câu trả lời, còn cho thấy ta giao tế, tiếp xúc và xử thế với người khác bằng lời lẽ ra sao, bằng cử chỉ và hành động như thế nào.

            Đúng thế. Đôi khi ta cũng là người câm và điếc đặc. Đôi khi, ta để mất đi kỹ năng nghe và nói. Để mất đi, khả năng nhận ra tiếng của Chúa đang gọi ta thay đổi rất nhiều thứ. Cả xấu lẫn tốt, trong cuộc sống chung đụng với xã hội người phàm. Chúa vẫn lớn tiếng với ta ngang qua những gì xảy đến trên báo chí/truyền thông, hệ truyền hình. Và phản ứng của ta là khi nhìn cảnh tượng nào không thích, ta có thể hoặc thường nói: Ấy ấy, sao thế kià; hoặc: Ơ kìa, thế giới nay đi về đâu thế hả?  Và thế là, ta đổi hệ truyền hình, không xem nữa. Hoặc chuyển hệ nào mình thích, chứ không cần biết chuyện gì đang xảy ra.

            Vào Tiệc thánh hôm nay, ta nguyện cầu cho được quà tặng biết lắng nghe. Nghe và biết, tiếng gọi của Đức Chúa đang kêu mời ta trong mọi chuyện xảy đến, rất hôm nay. Cầu mong sao có được  quà tặng được nghe và nói, để được tràn đầy kinh nghiệm giải thoát, mà biết Chúa. Biết rằng, ta không thể dừng lại hoặc  chẳng sẻ san kinh nghiệm ta nhận lãnh, với người chung quanh. Nói tóm, sẻ san mọi sự và mọi chuyện, là việc cần thiết cho ta ngay lúc này.       

                

 

     

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 24 thường niên năm B

 

“Hồn là ai, là ai? tôi không biết”

Hồn theo tôi, như muốn cợt thôi chơi

Môi đầy hương, tôi không dám ngậm cười.

Hồn vội mớm cho tôi, bao ánh sáng.”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mc 8: 27-35

            Hồn, mà nhà thơ nói, có phải là Thầy Chí Ái? Đấng ban truyền, “bao ánh sáng”, cho môn đồ?

            Trình thuật thánh Mác-cô hôm nay, không nói về hồn của nhà thơ họ Hàn, mà chỉ ghi lời Chúa hỏi han:“Người ta nói Thầy là ai, thế?” Theo thánh sử, danh tánh và sứ vụ mà Chúa mặc khải, là vài nghi nan/thắc mắc, môn đệ có trong đầu. Đây là lúc, Chúa mặc khải về thiên tính của Ngài.

            Trả lời câu của Chúa, môn đệ thưa:“Kẻ thì bảo là Êlya, người lại cho là ngôn sứ nào đó.”(Mc 8: 28) Rồi, Chúa hỏi thẳng:“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mc 8: 29) Thánh Phêrô đại diện nói thay, ngay lúc ấy:“Thầy là Đức Kitô.”

Cụm từ “Đức Kitô”, xuất xứ từ Hy Lạp, có nghĩa: “Đấng được xức dầu”. Tức, một cách nói để chỉ về Đấng Mêsia. Từ Đức Kitô” bên tiếng Do Thái mang cùng một ý nghĩa “Đấng xức dầu”. Đấng, được mọi người đợi chờ Ngài đến mau, để làm Vua Do Thái.

            Rõ ràng, Tin Mừng hôm nay gợi lại lập trường của Hội thánh sơ khởi khi nói đến tương quan giữa Chúa và các đồ đệ. Tuy nhiên, trình thuật vẫn chưa nói hết các điểm mà hội thánh muốn nhấn mạnh. Các điều này, sẽ đề cập ở các đoạn trình thuật sau. Tiếp đến, dân con/đồ đệ được dặn: đừng phổ biến, nói về Ngài. Bởi, dân con mọi người chưa sẵn sàng nghe về Đấng Mêsia, chính là Thầy.

            Trước phản ứng khá bất ngờ của môn đệ, Đức Giêsu bắt đầu giải thích cho biết thế nào là Mêsia, Đấng được sai đến. Ngài được sai, như người chịu thống khổ, loại bỏ đi, và bị hành hạ/lên án như tội phạm. Và, Ngài sẽ chết đi. Rồi sống lại, sau ba ngày. Chính lời này, làm môn đệ chấn động. Chấn và động, vì đích thị Ngài không là Đấng, mà họ chờ mong.      

            Không chờ và cũng chẳng mong, là vì các thánh đã không nhớ đến lời sấm của ngôn sứ Isaya, ở bài đọc 1. Và cá thánh cứ nghĩ rằng lời sấm ấy chỉ áp dụng cho Đấng Mêsia mà thôi. Và không ngờ Đấng ấy chính là Đức Chúa: “Tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đưa lưng cho người đánh. Giơ má cho người giựt râu. Tôi đã không che mặt khi bị phỉ nhổ. Mắng nhiếc.” (Is 50: 5-6)

            Lúc ấy, thánh Phêrô bèn tiến về phía Thầy, mà nói: “Thưa Thầy, lẽ nào lại như thế.” Nghe vậy, Chúa quay về phía đồ đệ và nói cùng ông Phêrô:“Xatan! hãy lui sau Thầy! Vì ý tưởng của anh không phải là ý của Thiên Chúa, mà là của loài người.” (Mc 8: 35). Bằng vào lời này, thánh Phêrô lại trở nên một cám dỗ rất thực. Một loại hình chướng ngại, cản đường Chúa hành động để phục vụ.

            Đây là điểm then chốt. Một khúc ngoặt quan trọng trong Phúc Âm. Phần đầu, ta đã có lời đáp trả cho câu hỏi:“Đức Giêsu là ai?” Nay, mọi người đều biết rõ: Ngài là Đấng Mêsia, tức Đức Vua sẽ phải đến. Từ nay, và tiếp theo sau, còn nhiều câu hỏi khác, như:“Ngài là Đấng Mêsia, theo kiểu nào?”

            Và, toàn bộ phần cuối Tin Mừng, là lời đáp cho thắc mắc này. Lời đáp, được kết thúc bằng nhận định của người lính ngoài Đạo, dưới chân thập giá:“Chắc chắn ông này là Con Thiên Chúa.” Lời nhận định của người lính, vang vọng giòng chảy được xác chứng ở đầu Tin Mừng thánh Máccô viết:“Đây, khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa.” (Mc 1: 1)

Khởi đầu Tin Mừng Đức Giêsu Kitô là tiến trình thay đổi lối suy tư của đồ đệ. Tiến trình này, chỉ kết thúc sau ngày Chúa Phục Sinh. Tức, tiến trình mà mọi người đều phải ngang qua. Lời Chúa dạy, không chỉ nói về con đường ta đi ngang qua thống khổ và nỗi chết, ngõ hầu đạt được sự sống. Mà con đường này, bất kỳ ai muốn theo chân Chúa, đều đi qua như thế.

Nhiều người trong ta, cũng đã tìm cách sống bằng đường mòn kép. Tức, theo phương thức chơi nước đôi. Một mặt, ta những muốn là người tốt, có lương tâm. Nhưng mặt khác, ta lại sống một cuộc sống giống như những người thường, ở xã hội. Nghĩa là, chỉ bon chen lo lắng những gì là vật chất, rất hưởng thụ. Những muốn thành công phát đạt về mọi mặt. Ngõ hầu, tạo điều kiện cho cháu con đạt thành quả qua nghề nghiệp/công việc, có giá trị cao, mà thôi.

Quả là, ta cũng bận rộn trong mưu cầu tạo cuộc sống an toàn cho riêng mình. Trong khi đó, Đức Giêsu lại khuyên ta hãy cứ ra ngoài mà phục vụ và đừng níu bám điều gì. Bởi lẽ, ta luôn có tự do và luôn là người tự trọng. Lời Ngài khuyên, vẫn cứ là: hãy cho đi, chứ đừng tiếp nhận. Hãy sẻ san, chứ đừng ham hố. Hãy cứ coi mọi người như người anh người chị, chứ không phải là kẻ đối đầu, giành giựt gì với ta. Và ta đang sống trong thế giới cần nhiều người đến với mình hơn là cản ngăn họ.    

Bài đọc 2, cũng tả rõ thế giới ta đang sống. Trong đó, có người tự hào cho rằng: mình vẫn có niềm tin, vẫn chịu khó. Vẫn, chuyên chăm đêm ngày sống đạo hạnh, bằng câu kinh. Nhưng không minh chứng được bằng hành động. Không minh chứng được bằng hành xử thực tế cách hữu dụng. Sao gọi được là đạo hạnh, nếu cứ sống ru rú trong bóng tối?. Chẳng chịu ra ngoài mà gặp gỡ. Giúp đỡ, những người đang cần đến mình?

Lời thánh tông đồ vẫn còn đó, nói rất rõ:“Giả như có người anh người chị không có áo che thân, và chẳng đủ ăn, mà lại có ai trong anh em đi nói với họ: ‘Hãy đi bình an, mặc cho ấm. Ăn cho no’, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần. Nào ích lợi chi?” (Gc 2: 16)   

Nếu có Tin, mà không có tình, không thương yêu, không giùm giúp thì Tin như thế, chỉ là niềm tin chết cứng. Niềm Tin phải là biết cho đi chính con người mình, biết sẻ san những gì mình đang có. San và sớt, không chỉ những đồ vật nổi trôi, dư dật. Cho đi, không chỉ một dúm tiền được khấu trừ từ khoản thuế, giúp từ thiện. Nhưng Cho đi, để rồi mình sẽ nhận nhiều hơn số mình cho. Cho đi phải là liên kết, hỗ trợ. Cho đi cũng không phải là “bố thí”.  

Suy cho kỹ, ta sẽ liên tưởng đến lời nguyện giáo dân, trong thánh lễ. Thật rất dễ, nếu ta chỉ lập lại lời kinh người khác đọc giùm, lấy lệ. Dù đó có là lời cầu cho hoà bình, cho người tị nạn, kẻ vừa mất việc. Hoặc, cầu cho giới nghèo hèn, thất học. Trong thực tế, cầu nguyện như thế đôi khi chỉ để tránh né một mặc cảm, mặc cảm phạm lỗi hoặc như để tránh né một món nợ thôi.

Quả thực, lời nguyện phải là việc nhắc con dân của Chúa, hãy nhớ mà làm. Để nhớ ta là thành phần của Thân Mình Chúa và lời cầu là lời được gửi đến với Đức Kitô ở trong ta, ngang qua ta. Và cần đáp trả. Nguyện cầu, là dấu hiệu cho thấy mình nên đặt ưu tiên việc nào trước, việc nào sau.

Là tín hữu, là đồ đệ Chúa không chỉ lo ưu tiên có mỗi việc “rỗi linh hồn” để được “lên thiên đàng”. Nhưng là, để đi vào giòng chảy chính đáng của cuộc sống. Đi vào, cùng với ưu tư đích thực của con người và ưu tư đó trở nên thành phần của giòng chảy ấy. Ưu tư đó thực hiện qua hành động yêu thương, giùm giúp. Yêu, trong san sẻ. Thương, trong dựng xây cộng đoàn thương yêu với người khác. Và việc đó, không là chuyện riêng mình, mà là cho mỗi người. Tức, mình vì mọi người và mọi người vì mình.    

Trong cuộc sống rất ưu tư của đời thường, rất ít kẻ thắng, nhưng, nhiều người thua. Nay, Chúa gửi đến mỗi người và mọi người, một đề nghị nhỏ nhằm tạo an toàn đích thực, là: nếu ra đi để sống cuộc sống vì người khác, cho người khác thì mọi người sẽ được lưu tâm, chăm sóc. Và, nếu ai cũng có cuộc sống như thế, xã hội ta rồi ra sẽ là chốn tuyệt vời. Nơi sẽ gồm toàn người thắng, không có kẻ thua. Đó là ý, mà Chúa nói với mọi người. Bằng Tin Mừng hôm nay.

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 25 thường niên năm B

 

“Người ngất ngư, chết trong muôn thế kỷ!”

Chạy điên rồ, đứng sựng giữa xương ma.
Người là ai? Người có phải là ta?

(dẫn từ thơ Bích Khê)

Mc 9: 30-37

            Là ai, sao người vội giành. Giành ăn. Giành chỗ. Giành làm lớn đến điên rồ, có là thái độ của đồ đệ Chúa nói hôm nay?

            Trình thuật thánh Máccô hôm nay ghi lại cung cách của đồ đệ từng xử thế, như thế. Những là, cãi với ganh đua, giành làm lớn. Giành được gần Chúa hơn. Dù, đã bao lần, Chúa công khai loan báo về cuộc sống thấp hèn và khổ nhục của Ngài đang đi dần vào đoạn cuối.

            Nhiều lần, Chúa đã nói đến việc sẽ xảy đến với Ngài. Lần báo hiệu đầu tiên, là lúc thánh Phêrô phản ứng rất khác thường vì chưa hiểu ý Ngài. Lần thứ nhì, là hôm nay, đồ đệ lại không rõ nhưng chẳng dám hỏi. Cũng không dám bộc lộ điều mà các thánh không muốn thấy vào lúc ấy

            Trong khi đó, Chúa tỏ rõ điều mà Ngài vẫn cương quyết đả phá. Điều mà Ngai vẫn coi là hành vi giả trá, giả hình của lãnh tụ tôn giáo, thời ấy. Điều Ngài lên án, là thái độ giải thích lề luật một cách tuỳ tiện,quá đáng. Ngài đả phá, những cung cách mà lãnh tụ tôn giáo hiểu sai việc đạo mà dân thường làm.

            Chúa thực sự đi vào với nghịch thường của cuộc đời. Một đời, có ghét ghen đổ lên đầu người công chính như ý tưởng ở bài đọc:”Ta hãy gài bẫy ám hại người công chính”. Sao thế? “Bởi nó chỉ làm vướng chân ta. Chống việc ta làm. Trách ta vi phạm lề luật. Tố cáo ta không tuân hành lễ giáo”, của tiền nhân (Kn 2: 12, 17).

            Chúa đả kích, lối sống của lãnh tụ tôn giáo chuyên đi ngược ý nghĩa truyền thống. Đả kích các lãnh tụ chỉ sống bằng môi mép trong khi tim gan, thì xa Đấng mình thờ. Cả đến khi Ngài bị treo trên khổ giá, dân con lại nhập bọn châu đầu vào mà chế riễu Chúa:“Nếu quả Ông là Con Thiên Chúa, hãy xuống khỏi thập giá, để bọn tôi tin.” (Mt 27: 43)

            Lời chế riễu, phù hợp với ý tưởng ở bài đọc:“Ta hãy coi những lời nó nói có thật không, và nghiệm xem kết cục đời nó thế nào.” (Kn 2: 17).  Không chỉ ngược ngạo thôi, họ còn làm nhều điều nữa, như xách nhiễu, hành hình và đóng đinh Ngài để xem Ngài tốt lành đến mức độ nào. Để xem Xem Thiên Chúa có ở với Ngài không:“Ta hãy hạ nhục và tra tấn nó, để xem nó hiền hoà làm sao. Nhẫn nhục đến mức độ nào..” (Kn 2: 19)

            Và tiếp đó, trình thuật kể thêm:“Sau đó, Đức Giêsu và các môn đệ đến thành Ca-phác-na-um. Khi về tới nhà, Ngài hỏi họ.” (Mc 9: 33).  Danh từ “nhà”, được thánh Máccô nhắc lại nhiều lần trong Tin Mừng. “Nhà”, phải chăng là nhà thánh Phêrô? Hoặc của ai khác? Cơ bản, thì “nhà” ở đây là nơi Chúa tập họp môn đồ Ngài. Những người, mà Ngài muốn gần gũi. “Nhà”, là biểu trưng về Hội thánh. Về, cộng đoàn lớn nhỏ, con dân Chúa vẫn ở đó và vẫn thương yêu.

            Rồi Chúa hỏi:“Dọc đường, anh em bàn tán, những điều gì?” (Mc 9: 33). Ở đây, ta có danh từ “đường”. Mỗi lần, hành trình với Chúa hoặc mỗi lần rong ruổi nơi quê “nhà”, các thánh đều “đang trên đường”, đi hoặc về. “Đường” ở đây, là bởi Chúa chính là Con Đường. Là, Sự Thật. Là, Sự Sống. Thế nên, các thánh trong Giáo Hội Chúa, thường được hỏi xem mình đang làm gì trên “Con Đường” ấy. Với “Con Đường” ấy.

            “Các ông làm thinh”. Làm thinh là phải. Bởi, làm thinh không chỉ là “tình đã thuận”, mà còn vì các thánh đã biết xấu hổ. Xấu hổ, khi Chúa chưa loan tin Ngài sẽ ra đi nhưng đã giành. Xấu hổ, vì các thánh vẫn muốn làm lãnh tụ thay thế một khi Ngài ra đi. Xấu hổ, vì các ngài vẫn tranh giành vị thế, với ghế ngồi. Tranh giành được thương yêu hơn. Các thánh xấu hổ và lúng túng, vì còn nhớ Ngài có nói: “Tôi tớ không hơn chủ mình” trong chịu đựng, nhục nhã và chết chóc.

            Như thường lệ, Chúa biết rõ những gì xảy đến trong tâm tư của đồ đệ. Ngài ngồi xuống, gọi nhóm Mười Hai, tức các lãnh tụ tương lai của Hội thánh, lại mà nói:“Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, mà phục vụ người khác.” (Mc 9: 35). Một lần nữa, Ngài cho thấy điều nghịch lý/nghịch thường trong mọi sự. Khác hẳn điều mà các thánh xưa nay, vẫn cứ tưởng, cứ nghĩ.

            Trong đời thường, làm người đứng đầu, là làm lãnh tụ chót vót ở trên cao. Là đấng cầm cân nẩy mực, không chế dân con thấp cổ bé họng. Là có quyền sai khiến thần dân. Nghịch lý/nghịch thường ở đây, như Chúa nói: làm lãnh tụ, là phải làm người cuối hết. Tức là tôi đòi, phục vụ hết mọi người lớn bé, già trẻ, gái cũng như trai.

            Xét lại hành vi của mình, tín hữu Đạo Chúa đôi lúc thấy khó mà chấp nhận quan điểm này. Thử hỏi, trong gia đình, ai là người được coi là “đầu hết”? Người phục vụ toàn thể gia đình? Cha mẹ? Con cái? Hay người giúp việc? Khi nào thì cha mẹ được coi là đấng bậc tuyệt vời?. Phải chăng là khi, các ngài chỉ nghĩ chuyện chỉ huy, khuynh loát, lấn át? Hoặc, khi đối xử với con cái, trong thương yêu, tôn trọng, sâu lắng?

            Ở trường lớp cũng thế. Ai là đầu hết? Ai là cuối hết? Có phải là học trò? Hoặc, thày cô? Hiệu trưởng? Hay, người quét dọn? Ai, người phục vụ? Ai, lớn nhất trong họ? Lớn, theo cung cách nào? Ai đóng góp nhiều? Ai đóng góp ít? Đây là câu hỏi có thể không có câu giải đáp ngay trước mắt. Câu giải đáp chỉ đặt nền tảng trên hành vi, cá nhân thôi. Trên tương quan ta có với nhau hoặc nơi nhà trường.              

            Ở Hội thánh, ai là đấng được coi là đầu hết? Đức Giáo Hoàng ư? Hay, các Giám mục? Linh mục? Tu sĩ nam nữ? Hoặc giáo dân? Đấng được gọi là Chủ Chăn cao chót vót, có là “đầy tớ của các tôi tớ Chúa”? Ta được dạy, là hãy biết khiêm hạ mà phục vụ. Phục vụ nhau, cho nhau. Phải chăng, đó là điều ta đang làm? Ở giáo phận và giáo xứ hôm nay, ta nghĩ ai sẽ là người lớn nhất, trong Hội thánh? Dựa vào đâu để thẩm định, cho đúng nghĩa?

            Trong  xã hội cũng thế. Câu hỏi đặt ra, là: lớn nhỏ người người có mong rằng chỉ mình là được cung phụng thôi không? Cung phụng như kẻ cả? Người phục vụ có cung cấp cho dân con những gì họ ao ước? Hoặc, các phó thường dân vẫn cứ nai lưng ra mà phục vụ quan ông, đến chết xác? Sự thể ra sao? Thái độ của “đấng đầy tớ/công bộc, thế nào, trên thực tế?

            Và lúc đó, Chúa gọi một em nhỏ đặt giữa các ông. Ngài ôm em bé và nói:“Ai đón tiếp đàn em nhỏ như bé này vì danh Thày, là tiếp đón chính Thày.” (Mc 9: 37). Em nhỏ đây, là đại diện cho người thấp cổ bé họng, không quyền lực. Và chẳng có tiếng nói hoặc cũng chẳng gây ảnh hưởng được lên ai. Tức là những kẻ rất dễ bị khống chế, xách nhiễu, bỏ bê trong quên lãng mà không phản kháng.

            Chúa nói: ai tiếp đón/chấp nhận các bé em như thế này, là nhận và đón Ngài. “Đón tiếp”, là động từ nói lên sự tôn kính và phục vụ. Là, cung cách mà chủ nhà dùng để cư xử, tiếp khách quý dù chưa quen. Đón tiếp, là quan tâm đến sự an vui của người khác, để ý đến họ. Hơn là chỉ lo cho mình, hơn cả việc đánh giá vị thế rất tưởng tượng của mình. Tin mừng nói đến phục vụ không có nghĩa bảo ta hạ mình ở dưới người khác nhưng dùng tài năng và nghị lực để tạo niềm vui sống cho người khác.            

            Em bé đây, đại diện cho những người sống ở xã hội, không có quyền, không chức, không quyền lực và dễ bị khuynh loát, trấn áp, bỏ bê bên lề xã hội. Em bé đây, là kẻ hèn kém,đói ăn, già nua, bệnh tật hoặc người sắc tộc. Nói tóm, là những phó thường dân, ở xã ấp quê nghèo.

            Một gương sáng hôm nay, cần ghi nhớ, phải là Mẹ Têrêxa Calcutta. Mẹ là người, hiểu biết hơn ai hết Lời của Chúa. Mẹ sống trọn vẹn Lời Ngài. Nên khi chết, Mẹ được chính quyền của một đất nước mà hầu hết số dân là người ngoài Đạo, đã cho phép tổ chức quốc táng. Mẹ là bằng chứng bằng xương bằng thịt về sự thật Lời Chúa. Mẹ phục vụ kẻ thấp hèn mê say, thương xót dù kiệt sức, vẫn không ngừng.

            Nếu mỗi người và mọi người chúng ta biết sống và làm như Mẹ têrêxa, người đã thực hiện công tác của Mẹ suốt đời với tinh thần phục vụ như Chúa nói, thì thế giới đã đổi thay từ lâu. Và, Vương Quốc Nước Trời, đã gần kề. Nhưng, như thánh Giacôbê nói ở bài đọc 2, thế giới vẫn còn quá nhiều mâu thuẫn trong lối sống. Mâu thuẫn, làm cội nguồn cho mọi xung khắc, ghét ghen, tranh chấp. Mâu thuẫn gây chiến tranh, tranh giành và đổ vỡ.    

            Tham dự tiệc thánh hôm nay, với ánh sáng của các bài đọc, ta cầu mong sao có được tinh thần phục vụ, vứt bỏ mọi ham muốn tranh giành, chắc chắn sẽ đạt niềm vui sống khắp quanh ta.

             

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 26 thường niên năm B

 

“Mẹ tôi lo liệu đủ trăm điều.”

Sân gạch tường hoa người quét lại,
Vẽ cung trừ quỷ, trồng cây nêu.”

(Dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Mc 9: 38-43

            Vẽ cung trừ quỷ, vẫn là mẹ. Lo đủ trăm điều, là việc người đời cứ mưu toan. Trừ quỷ.  Trồng cây nêu. Tống khứ thần linh. Dọn mình đón Lời Chúa. Là, việc của nhà Đạo vẫn làm bấy lâu nay. 

            Trình thuật thánh Máccô nay ghi lại Lời Chúa về việc tống khứ tà thần, không chỉ là quyền hành của con dân/môn đồ Chúa, nay được Thầy chỉnh đốn, hầu chuẩn bị lãnh nhận trọng trách Thày phó giao. Cả việc chữa lành người bệnh, lẫn tống khứ, dẹp tan quyền của quỷ.

            Mỗi khi cùng Thầy làm việc, đồ đệ học thêm nhiều điều khác biệt giữa quyền bính, lẫn phục vụ. Nay, thấy người không cùng nhóm, vẫn “lấy Danh Thày mà trừ quỷ”. Nên, môn đệ mới chặn nhưng Chúa khẳng định:“Đừng ngăn chặn họ. Vì không ai lấy danh nghĩa Thày làm phép lạ, rồi sau đó lại có thể nói xấu Thày”.  Người mà Chúa nói, rõ ràng không dùng “Danh nghĩa Chúa”, mà vẫn thành công. Thành công trong trừ quỷ. Thành công để mọi người được tự do.

            Từ đó, Chúa đề ra nguyên tắc đồ đệ phải tuân giữ: “Ai không chống ta là ủng hộ ta.” Điều này có nghĩa: Thiên Chúa có thể sử dụng bất cứ ai làm việc cho Ngài. Nghĩa là, Hội thánh không thể độc quyền về việc Chúa làm hoặc về sự thật Chúa là Tình thương. Quyền uy Ngài ban phát, là để chữa lành và hoà giải. Việc Nước Trời, không thể hạn chế cho mỗi tín hữu độc quyền. Nhất là  công tác đặc biệt.  

            Bài đọc 1, rút từ sách Dân số, nói về cùng một tình huống mà Giavê chuyện vãn cùng Môsê ở sa-mạc: Thần Khí gửi đến Môsê, cũng được ban cho 70 kỳ mục. Nhận Thần Khí, các ông bắt đầu phát ngôn, ở trong trại. Kịp đến khi, mọi chuyện được tâu lên Môsê, thì người trẻ Giô-suê mới thay Môsê dẫn dắt con dân Do Thái về miền đất hứa. Thấy bất xứng, người trẻ cũng có phản ứng tương tự như thánh Gio-an, mãi về sau: “Thưa Thầy, xin cản họ.”  

            Và, Môsê có lời tương tự:“Anh ghen giùm tôi à? Phải chi Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ. Vì Chúa ban Thần Khí Ngài trên họ.” (Ds 11: 29). Hôm nay, nhiều đấng bậc của Chúa, cũng có những hành xử, rất tương tự. Thành thử, vấn đề đặt ra, không là: ai đang làm gì? Mà là: những gì người người đang làm, là do động lực nào? Từ đâu đến?

            Ngoài Hội thánh, có cả ngàn người đang làm công việc của Chúa, cho Chúa trong tinh thần hăng say, thật thà và quyết tâm. Có vị, không thuộc thẩm quyền nhà Đạo nhưng có ý hướng phụng vụ theo thánh kinh. Có vị là Phật tử, Ấn giáo, Do Thái giáo hoặc chỉ là nhân sĩ, phục vụ nhân quyền. Nhưng, hễ ai phục vụ vì Danh Chúa, và là cho Danh Cha toả sáng, ta đều hỗ trợ và hợp tác. 

            Tin Mừng hôm nay, Chúa nói:“Nếu bất cứ ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Đức Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu.” Những việc đơn giản và lành mạnh, “bất cứ ai” thực hiện trong tinh thần thương yêu và thương xót đều là hành động giống Chúa làm. Cần được công nhận và chắc chắn Chúa sẽ chấp nhận họ.

            Tiếp đến, là lời cảnh báo trước tiên là cho ta, kẻ đã thanh tẩy, dù được phép nói cho “bất cứ ai”, vẫn phải thấy: “Bất cứ ai làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn.” (Mc 9: 42). Cụm từ “cớ vấp phạm” được sử dụng để hiểu như “hành động đáng hổ thẹn”, Chúa nói như việc bỉ ổi, đáng lánh xa vì xa Chúa, xa Tin Mừng.

            Đặc biệt, Chúa nói đến “kẻ bé mọn”. Bé mọn đây, không chỉ là các em bé, thôi. Dù bao gồm cả bé em. Nhưng, là những kẻ yếu đuối nhất, trong cộng đoàn. Yếu, do tuổi nhỏ. Yếu, do thiếu học. Yếu, có thể do vị trí của người ấy trong xã hội. Hoặc, chỉ mới hồi hướng trở về, chưa chín chắn trong lối sống. Tức, những kẻ còn yếu về đạo đức hoặc yếu niềm tin.

            Cũng có thể, là những người mạnh mẽ trong đức tin nhưng lại xử sự cách nào đó khiến kẻ yếu kém trong cộng đoàn bị coi thường, bị lép vế nên không theo được Chúa. Bởi thế, thánh Phaolô tuyên bố:“Với kẻ yếu hèn, tôi là người hèn yếu.”  Và thánh nhân rất nhạy cảm với các vị hồi hướng trở về với nhà Đạo. Những người như thế, thánh nhân chẳng muốn làm điều gì khả dĩ khiến họ bị đánh động hoặc yếu kém.

            Là người Công giáo, đôi khi ta xử thế cũng không khác gì mấy người ở ngoài Đạo. Như thể là: “hãy sống như lời tôi nói, chứ đừng ăn ở như tôi đã làm…” Điều này, thường xảy đến với gia đình. Giữa cha mẹ, con cái. Giữa thày cô học trò. Giữa linh mục và giáo dân? Cũng có lúc, ta cũng xử tệ, vì đòi hỏi quá đáng, vì thành kiến, vì quyết tâm không cao? Nhưng hậu quả làm nhiều người mất cả tự tin và đầu hàng.

            Đoạn cuối Tin Mừng, Chúa khuyên hãy cẩn trọng về những gì mình sẽ mắc phải. Tức, làm cớ vấp phạm mình té ngã. Vấp phạm bằng tay chân/mắt mũi. Bằng vào ngôn từ dùng quá mức, Chúa khuyến dụ là: đừng sở hữu cơ phận ấy, nữa. Nếu sử dụng, ta sẽ đi trệch xa đường lối sống với Chúa. Thay vào đó, hãy hội nhập với cộng đoàn kẻ theo chân Chúa để rồi, cả tay/chân mắt/mũi của ta sẽ là nhân tố cho tình thương yêu, chữa lành, sung mãn. Tất cả, đều phải đưa Tin Mừng về với thế giới bên ngoài.

             Đó cũng là ý tưởng mà thánh Giacôbê bộc bạch, ở bài đọc. Về những hành xử quá đáng hoặc lạm dụng: “Vàng bạc của các người đã bị rỉ sét. Chính rỉ sét ấy là bằng chứng buộc tội các người. Nó sẽ như lửa thiêu huỷ xác thịt của các người.” (Gc 5: 3)

            Xử sự như thế, thật quá tệ. Còn tệ hơn, là khi do chính người tự cho mình là kẻ theo Chúa. Thư của thánh Giacôbê, dù đã viết hơn hai ngàn năm về trước, hôm nay, có lặp lại, cũng rất đúng. Và vẫn rất thật. Rất đúng và rất thật là thế giới hôm nay vẫn còn có khác biệt hơn kém giữa các nước. Ngay trong một nước, vẫn còn chênh lệch giàu/nghèo. Chênh lệch mỗi ngày một cao đến mức báo động.

            Có chênh lệch, là do các vị trực tiếp hay gián tiếp tự coi mình là người tốt lành, đạo hạnh, người của Chúa. Theo Chúa nhưng chẳng cần nghĩ đến ai. Cũng chẳng muốn biết điều gì dù tốt lành đạo hạnh. Đây, đích thực là cớ vấp phạm. Là, trở ngại lớn cản ngăn con người thực hiện cuộc sống Nước Trời. Như thế, là đá tảng đang tròng vào cổ bởi vẫn còn nhiều người chết lặng trong nghèo hèn, đói kém, khổ đau đến cùng cực.

            Vậy ta phải làm sao? Chỉ riêng mình thôi thì không ai tài nào giải quyết khó khăn ấy được. Dù chỉ một lần giúp đỡ người khác tuy không chấm dứt cảnh tình nghèo hèn nhưng cũng là bước đầu. Rồi từ đó, ta cùng nhau đỡ nâng được nhiều người. Và, một lần nữa, hãy lấy trường hợp của Mẹ Têrêxa Calcutta, làm mẫu mực. Cũng như mẹ, ta thừa biết có hàng triệu người đang sống trong cảnh nghèo đói, cơ cực, bần hàn, cần ta giúp. Đường lối mẹ Têrêxa Calcutta làm tuy chỉ mới bắt đầu với người nghèo đói thôi cũng là gương sáng để ta biết làm theo như thế một cách hăng say, không ngừng nghỉ.

             

    

Suy niệm Chúa nhật thứ 27 thường niên năm B

 

“Thưở ấy non sông thật thái bình,”

Trai hiền bạn với gái đồng trinh.
Đời say men rượu thơm hoa rụng,
Tràn những thơ ngây, ngập cảm tình.

(dẫn từ thơ Nguyễn Bính)

Mc 10: 2-16

            Non sông thái bình, người người vẫn biết. Và vẫn mơ. Mơ làm bạn, tràn ngập những thơ ngây. Cảm tình. Nhưng, tình cảm người đời, nay đã đổi thay như thay áo, thay vợ. Đổi thay cả đạo đức/chức năng, bất chấp Lời của Chúa.

Lời Chúa, nay thánh Máccô ghi lại rất nhiều điều. Những điều người Công giáo đều nhớ đến. Nhớ về cuộc sống có luân lý,có đạo đức/chức năng mọi trường hợp như trường hợp ly dị vợ.

Ly dị vợ theo luật Do Thái, là chuyện được phép làm, ngay từ thời xưa. Luật thời xưa cho phéo bất cứ ai muốn ly thân/ly dị vợ, chỉ cần trưng tờ giấy cho biết mình có ý định rẫy bỏ vợ là được. Một khi đã ly dị, hai bên có tự do tái tục chuyện gia đình. Thật sự, luật Do Thái xưa đã làm lợi cho người đàn ông, hơn phụ nữ. Bởi, phụ nữ một khi đã bị chồng bỏ, đều khó có cơ hội tái tục.

Ngày xưa, ở Do Thái, muốn ly dị chẳng cần nêu lý do, mà chỉ việc đổ lỗi cho người đàn bà không biết uyển chuyển trong đời sống gia đình, là xong. Hoặc người chồng chỉ làm mỗi việc là: cho biết mình không còn thích sống chung, hoặc đã có người đàn bà khác, hấp dẫn hơn. Trong khi đó, người phụ nữ dù có muốn thôi chồng, cũng không dễ dàng ly dị, vì họ tuỳ thuộc người chồng, như một thứ tài sản. Một thứ nô lệ thể xác.

Câu hỏi mà đám Pharisêu đặt ra với Chúa, là hỏi về tính cách hợp pháp của hôn nhân giữa vua Hêrôđê với Hêrôđias. Thánh Gioan Tẩy Giả đã lên án việc ấy là ngoại tình, nên ngài mới bị chém đầu. Nay, họ muốn biết xem  Chúa có  đồng ý với quan điểm của thánh Gioan, không. Tuy nhiên, trình thuật hôm nay, Chúa muốn chuẩn bị cho môn đệ Ngài về sự và sự sống mới sắp xảy đến với Ngài. Ngài huấn giải cho các thánh biết muốn theo chân Ngài, phải làm gì.

Trái với nền văn hoá rất kỳ thị, Chúa chủ trương nam nữ đồng quyền. Ngài muốn: hôn nhân đích thực phải là tương quan bền đỗ, kéo dài. Nên Ngài dạy:“cả hai sẽ thành một xương một thịt”; sự gì Thiên Chúa phối hợp, loài người không được phân ly.” (Mc 10: 8-9) Điều này, nói lên tính chất đồng đều và tương quan hỗ tương trong việc cho đi chính mình. Đây, là lý tưởng và là một khẳng định.

Ý niệm “một xương thịt” được chứng thực rất rõ, khi một trong hai người phối ngẫu mất đi người bạn đời, vì quá vãng. Trường hợp ấy, người ở lại thấy tâm can mình như xé nát, phải mất nhiều năm tháng, mới qua được cơn đau mất mát ấy. Có khi, mất mát quá lớn khiến người còn ở lại chẳng sống được bao lâu, vì thương tiếc. Hoặc tim can, tâm thần nát tan như đã chết.

Trong trường hợp trên thì ly dị là chuyện không thể hình dung được. Nói thế không có nghĩa là cuộc đời vợ chồng luôn phủ đầy hoa dễ dàng và họ vẫn có thời gian của khổ đau, xung khắc hoặc bất trung , tuy nhiên quyết tâm ‘ thành một xương một thịt’ của họ vẫn còn ở lại. Có trường hợp, nhiều cặp phối ngẫu lấy nhau được nhiều năm nhưng vẫn tỏ bày tình cảm thân thương, âu yếm thật dài lâu.

Đây là chuyện hiếm thấy trong thời đại này. Nay rất thường tình, ta vẫn di chuyển chỗ ở, thay đổi công ăn việc làm, dù đã quen. Hoặc có khi, thay người phối ngẫu, rất dễ dàng. Lý do của đổi thay, nhiều khi khá phức tạp. Không thể bàn luận chỉ trong đôi hàng. Một trong các điều thấy dễ nhất, là: hai người chỉ chuẩn bị cho tương quan cuộc sống, thật quá ngắn. Có trường hợp, tính chất chung thuỷ không hiển hiện ở một trong hai bên. Hoặc giả, một trong hai người nay chững chạc hơn về địa hạt khác, khiến người phối ngẫu không kịp đạt đến giai đoạn mà bạn đời mình đang có.

Một khi tương quan vơ chồng bị gẫy đổ, không hy vọng có thể hàn gắn được, thì Hội thánh công nhận hai bên đều có quyền sống ly thân, riêng rẽ suốt cuộc đời. Có thể, họ tiến tới ly dị là để thực hiện biện pháp chia tài sản. Hoặc, hỗ trợ người phụ nữ. Hoặc giúp hai bên thăm nom con chung, vv. Hội thánh xưa, không để hai bên trở lại được phép chính thức làm đám cưới một lần nữa ở nhà thờ bởi vì bí tích hôn phối chỉ được cử hành duy nhất chỉ một lần thôi.

Rõ ràng, chuyện người Công giáo tái tục chuyện vợ chồng thêm lần nữa, đã trở thành vấn đề nan giải. Hôm nay, chuyện hôn nhân đổ gãy giữa người Công giáo kết cục bằng ly thân/lydị, không thua kém/khác biệt, ở ngoài đời. Nhiều cặp thực hiện việc tái tục với đám khác, cho biết họ có tầm  nhìn khác biệt theo hướng tích cực hơn. Tích cực ở điểm, là họ có quyết tâm sống đời đi Đạo khá  hơn. Khá hơn vì họ biết giáo dục con cái theo đường lễ giáo và đạo đức.

Tuy nhiên, nhìn từ góc cạnh của con cái, thì cũng có điều khó coi và mâu thuẫn. Một số người Công giáo vẫn nhìn các vị tái tục hôn nhân theo nhãn quan tiêu cực. Nghĩa là, vẫn có cái mà họ gọi là “rối rắm”. Theo luật thường, có một số cặp hôn nhân tái tục vẫn đi nhà thờ, nhưng không dám rước lễ. Có cặp dám cũng quyết định sự việc cho riêng mình với tất cả công tâm và thiện chí. Có cặp thấy khổ sở vì luật Đạo khá cứng. Có cặp, đành lòng phải đổi đạo. Hoặc, chuyển đổi nhà thờ, để tìm nơi hỗ trợ. Hoặc, rời đạo.         

Sau ly dị, Chúa nói đến hoa quả của hôn nhân:“Hãy để trẻ em đến với Thầy.” Điều này có nghĩa: là cha mẹ, ta không thể đứng đó nhìn con cái tự tìm kiếm Chúa. Nhưng, phải chỉ đường để chúng đến với Chúa. Nhiều lần, ta cản ngăn không cho trẻ tìm đến với Chúa. Đơn giản, là như: không tìm cách cho con em học biết về Đạo. Không dạy cho các em biết cách nguyện cầu. Hoặc không nhờ ai đào tạo con cái mình nên người Công giáo chân chính. Có khi dạy con một kiểu, nhưng cha mẹ lại sống kiểu khác.

Nói tóm lại, không phải cứ cho con rửa tội, rồi gửi chúng vào trường Đạo, cho chúng đi nhà thờ học giáo lý, thế là hết bổn phận đâu. Con trẻ phải tìm gặp Chúa, ngay Ở nhà. QUA cha mẹ. Là bậc cha mẹ, ta chỉ có thể thực hiện chuyện này qua bằng tình thương yêu giữa cha mẹ. Bằng vào việc sống chứng tá cho sự thật. Cho trọn hảo. Cho yêu thương với tất cả mọi người.

Tin Mừng hôm nay, không quan niệm hôn nhân theo cách sống riêng lẻ, tách biệt. Nhưng, trong bối cảnh của cộng đoàn biết thương yêu, đùm bọc. Bí tích hôn nhân được cử hành có bạn bè, người thân, cùng đến dự. Họ đến, không để làm chứng rằng hai người đã lấy nhau. Nhưng, để tôn trọng tương quan giữa hai người nay nên một. Họ đến, để giúp dưỡng nuôi, bảo vệ, giùm giúp. Điều đáng buồn, là: sự thể không phải lúc nào cũng xảy ra, đẹp như thế.

Ly dị, là kinh nghiệm sầu khổ, của đôi lứa. Hôm nay, vợ chồng có quyết tâm ăn đời ở kiếp với nhau, cũng không nhiều. Và, cũng không thiếu các cặp hôn nhân ở với nhau cốt để xem hôn nhân có là điều tốt nên thực hiện không. Rõ ràng là  vào ngày cưới hỏi, chẳng ai muốn rằng chuyện đời mình sẽ ra như thế. Và, đối đầu với đe doạ chia tay, vẫn là kinh nghiệm chẳng ai muốn. Cũng chẳng ai muốn cảnh tình thất bại, trong đau buồn, sầu khổ hoặc sống riêng biệt cả.

Hậu quả của ly dị bao giờ cũng trút lên đầu con cái. Con cái, vẫn là nạn nhân vô tội. Chuyện như thế, xảy đến dẫy đầy nơi phố chợ, tại toà án, học đường. Ở đó, con trẻ là hiện thân của thất bại, của đau buồn, của những núi băng, lờ lững tan. Hậu quả này ảnh hưởng đến  nạn nhân sẽ còn kéo dài trong tương lai. Vậy nên, đâu là thuốc chữa hay nhất, cho ly dị? Thuốc chữa hay là tìm cách phòng ngừa. Phòng, bằng cách chuẩn bị kỹ lưỡng. Ngừa, bằng cách bỏ ra thời gian, công sức, tiền bạc mà giải quyết. Đám cưới chỉ kéo dài chừng dăm mươi phút hoặc cùng lắm là cả tiếng thôi. Nhưng, hôn nhân lại kéo dài suốt đời người. Bởi thế, cũng nên chuẩn bị cho kỹ lưỡng. Chuẩn bị cho đúng và cho đủ, vẫn là chuyện nên làm vào thời buổi này.

Tin Mừng nay trích dẫn ý tưởng “một xương một thịt”, từ sách Sáng Thế. Trở nên một, đòi hỏi nhiều hành động. Đòi, phải được hướng dẫn. Phải có các vị dầy dặn kinh nghiệm giúp cố vấn. Cũng cần có hỗ trợ của gia định/người thân, từng chung sống. Cần, cả cộng đoàn tình thương giùm giúp. Để rồi, khi gặp cơn giông bão, sẽ không thấy cơ đơn. Kinh nghiệm của cộng đoàn giáo xứ cho thấy, mọi hỗ trợ cảm thông, đều rất quý. Giúp giảm bớt nguy cơ đổ vỡ, dễ xảy đến. Có thể, đây cũng là phương án rất thực tiễn, cần thông đạt.

Nói cho cùng, hôn nhân không thể như phép mầu một sớm một chiều, đến với ta. Nó đòi đôi bên phải thực hiện rất nhiều việc, hầu đạt được kết quả khả quan. Nhà tâm lý Erich Fromm, người từng viết cuốn “Nghệ Thuật Yêu”, có đề nghị đôi bên nên triển khai kỹ năng thực hiện nghệ thuật gìn giữ tình yêu, mới đạt được kết quả tốt đẹp, bền bỉ. Muốn tạo sự bền đỗ trong hôn nhân, cần duy trì tình thương yêu trong mọi sinh hoạt. Sinh hoạt, trong đó sự thân thiết /cởi mở và “tương kính như tân”, là phương cách hữu hiệu nhất cần gìn giữ.

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 28 thường niên năm B

 

“Thuở trước tinh anh, mà thể phách bây giờ”

Hãy tự hủy, đêm nay vào dĩ vãng
Xuất thần, cho tận nhập với hư vô.”

(dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)

Mc 10: 17-30

             Nhà thơ khuyên ta tự huỷ để đi vào dĩ vãng. Xuất thần, để tận nhập với hư vô. Tin Mừng Chúa lại khuyên một cách khác. Ngài khuyên người giàu hãy bán của cải, mà theo Ngài. Hai lời khuyên. Hai đường hướng rất khác biệt. Khác đường lối. Khác cung cách. Khác, như Lời Chúa nói ở trình thuật, rất hôm nay.

            Trình thuật hôm nay thánh Máccô ghi lại một thử thách. Thử thách đồ đệ về thị kiến. Và thánh sử cũng ghi về đường lối Ngài đã khuyên. Ngay câu đầu, đã thấy:“Ngài ra đi lên đường!”. Lên đường, Ngài đi để tỏ lộ một đường lối. Đường, dẫn về với Giêrusalem. Có nỗi niềm thống khổ. Có nỗi chết. Nhưng, sống lại. Dẫn, về đường lối mà kẻ theo chân Chúa đều mong được. Theo Chúa, người người sẽ biết Đường mà đến với sự sống.

            Lên đường, Chúa gặp người giàu có mà thánh Mátthêu ghi nhận còn trẻ tuổi. Những điều anh biết, chỉ là phương cách “hưởng sự sống đời đời.” Lành thánh. Chốn miên trường. Lành thánh theo anh, không chỉ bao gồm việc giữ giới răn Chúa dạy. Lành thánh, còn là làm nhiều điều tốt đẹp hơn nữa. 

            Với anh, tuân giữ điều Chúa dạy, là thành tựu mình đạt được. Duy có điều, những gì anh đạt được, chỉ dành cho riêng anh. Không liên can đến người khác. Thành tựu anh đạt, là hương hoa dành để cho cuộc sống cá nhân. Thái độ này, không khác lập trường của những người cho rằng: chỉ giữ 10 điều răn Đức Chúa Trời và 6 điều Hội thánh, là đủ. Đủ, lên thiên đàng. Đủ, làm thánh. Ngoài ra chẳng cần gì khác. 

            Thánh sử Máccô ghi thêm:“Chúa nhìn anh, đem lòng yêu mến.” Yêu mến đây, không mang ý nghĩa một tình cảm. Hoặc, ham muốn. Đây là tình tự thương yêu, của những người chỉ cốt sao mọi sự được tốt đẹp. Là, lòng xót thương mà Tin Mừng đòi ta phải có với mỗi người. Và, mọi người.

            Tình tự xót thương đây, là điều Chúa thường nói: “Hãy yêu thương nhau, như Thầy yêu mến anh em” (Ga 15: 12). Lòng mến mà Chúa nói, đã dẫn Ngài đi đến thử thách, phải trải qua. Và đây là thử thách Chúa gửi đến mọi người, mà thanh niên giàu có kia, là đại diện.

            “Anh còn thiếu một điều, là hãy bán đi những gì anh có mà cho người nghèo. Anh sẽ được kho tàng châu báu trên trời. Rồi theo Tôi.” (Mc 10: 21) Xem thế, việc giữ trọn mọi điều răn thôi, cũng chưa đủ. Đây là mặc khải, Chúa gửi đến. Mặc khải, xác minh thêm một điều: sống trọn lành, không chỉ là tuân giữ giới răn Chúa đưa ra. Và, đây là cú sốc đối với người thanh niên giàu có. Với nhiều người.

            Cú sốc hôm nay, là đòi hỏi đi theo Chúa. Theo, để phục vụ người nghèo đói, có nhu cầu. Theo, để sẻ san những gì mình đang có. Cả ơn lành, Chúa ban cho rất nhiều. Theo Chúa, là san sẻ mọi thứ, với mọi người. Chứ không phải, để ngủ vùi trong quên lãng.

            Đồ đệ Chúa nghe thế, cũng thấy lạ. Thử thách Chúa đưa ra, đã đi ngược lại điều mà đồ đệ Chúa lâu nay vẫn hiểu. Giàu sang đích thực, là dấu hiệu của phúc lành. Là, bằng chứng của kiên trì thực hiện điều thử thách. Là, trung thành với những gì được gửi đến. Như ví dụ trong sách Gióp nói rõ ông Gióp biết trung thành với Thiên Chúa, dám chấp nhận chịu mất tất cả. Để rồi, bù lại, ông được tất cả. Được nhiều hơn. Sau khi đã ngang qua thử thách. 

            Đồ đệ Chúa cũng sửng sốt, khi Ngài nói:“Người giàu, khó vào Nước Trời biết là chừng nào!” Đồ đệ Chúa, nay chẳng hiểu Thầy muốn nói gì, nên mới hỏi: “Vậy, ai là người sẽ được cứu?” (Mc 10: 26).

            Theo định nghĩa, người giàu là người có của cải. Có cuộc sống thoải mái, không lo âu về tiền bạc vì hiện có mức sống sung túc hơn người khác. Ngày nay, người ta phân chia ra hai loại người trong những người “Có”, ở xã hội. Hai loại người ấy là: những người “Không Có nhiều ” và “Có rất nhiều”. Và, ngày nay người ta cũng nhận định rằng: của cải, là phương tiện sử dụng đồ vật, rất tương đối.

            Trên thực tế, có nghĩa là: ta đang sống trong xã hội mà ở đó mọi vật dụng được phân phối không đồng đều. Việc này, kéo theo hậu quả là: nhiều người không có được phẩm vật thiết yếu, mình đang cần. Nói cách khác, thế giới còn rất quá người sở hữu nhiều phần to lớn của nguồn tài nguyên ngày càng vơi dần. Từ đó, dẫn đến cạnh tranh ráo riết, không nương tay. Và sau đó, người sót lại sẽ giàu mạnh nhất.

            Các nước phát triển đang ở vào trường hợp này. Họ giàu có quá mức đến độ song song bên cạnh họ là người nghèo đói, cũng quá độ. Sự thể xảy đến theo sau, là: ác thần/quỉ dữ đều do giàu sang quá mức  lẫn đói nghèo quá thảm, đang đến. Trong sách nhan đề “Sư phạm của người chịu áp bức”, tác giả người Brazil là Paolo Freire có nói về cảnh người giàu lẫn người nghèo, cả hai đang rơi vào bẫy cạm của hệ thống huỷ hoại nhân loại.

            Đây không thể là Vương Quốc Nước Trời. Cũng không là thứ xã hội mà Tin Mừng từng đề nghị. Cũng không là cộng đồng xã hội mà Kitô hữu ta cổ võ. Không thể nào quan niệm giàu sang là do Chúa mang đến. Cũng không thể nói: nghèo đói là do Chúa trừng phạt, được.

            Điều quan trọng, là: Tin Mừng hôm nay không tập trung vào chuyện giàu sang vật chất, rất bạc tiền. Người thanh niên trong trình thuật, được khuyên hãy rời bỏ những gì mình quyến luyến/dính phần. Giàu có - quyến luyến, nhiều khi không chỉ là tiền bạc, vật chất. Có thể là người nào đó. Rất thân thiết. Tức là, những thứ ta có thể dễ dàng sở hữu, như: công ăn việc làm, chức vụ, sức khoẻ, tăm tiếng, vv.

            Không thể tự coi mình là đồ đệ Chúa, cho đúng nghĩa, nếu chỉ biết tuân giữ giới răn Chúa dạy, Hoặc, vẫn cứ gắn liền không rời bỏ của cải/sự vật hoặc người nào được,để theo chân Chúa. Bởi, theo chân Chúa là có quyết tâm dấn bước, một cách trọn vẹn. Không đặt điều kiện nào hết.

            Khi Chúa đề nghị người theo Ngài hãy từ bỏ mọi sự, thì cùng lúc, Ngài hứa sẽ cho lại nhiều hơn, đến gấp trăm. Ngài còn hứa đời sống vĩnh cửu, nữa. Điều này có nghịa, là: khi bỏ mọi sự để theo Ngài, ta sẽ tìm ra điều tốt đẹp hơn của cải vật chất, rất nhiều. Tìm ra được nhiều phần thưởng chính đáng rất cần. Đây là ý nghĩa của đoạn cuối Tin Mừng.

            Nơi thị kiến mới của cộng đồng dân Chúa, giàu sang vật chất không còn có ý nghĩa giá trị. Bởi lẽ, một khi theo Chúa, ta tìm ra được sự bình an nơi cộng đoàn đầy tha thiết. Luôn giùm giúp. Khi bỏ lại đằng sau, những gì còn vương vẫn, ta được lại nhiều thứ, rất sung mãn. Đó là : mái ấm/cơ ngơi với tâm tình đầm ấm. Hiếu khách. Có người anh, người chị đông đảo gấp trăm, ta cần có cho đời mình. Và tất cả, không để đạt “thiên đường” trong lai thời. Nhưng thiên đường ấy đã sẵn có, ở đây, ngay bây giờ.         

            Bài đọc 1, đề cập đến:“vương trượng, ngai vàng… sánh được với Đức Khôn Ngoan, vàng vòng trên thế giới chỉ là cát bụi; và bạc tiền, so với Đức Khôn ngoan, kể như bùn đất. Tôi ham chuộng Đức Khôn ngoan, hơn sức khẻ và sắc đẹp..” bởi vì: “cùng với Đức Khôn ngoan, mọi tốt lành đều đến với tôi… Và, của cải quá nhiều, đếm không xuể.” (Kn 7: 10-11) Bởi thế nên, còn gì giá trị hơn những gì nay đã đến. Đến với tôi, nay là: Tình thương. An bình. Tự do. Hạnh phúc.    

            Bài đọc 2, lời thư mà thánh Phaolô gửi đến cộng đoàn Do Thái là minh hoạ tuyệt vời cho những gì được nói đến ở Tin Mừng:“Lời Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ.” (Dt 4: 12-13). Và, Tin Mừng hôm nay, đã xuyên thấu cách thức suy tư ta vẫn có, từ trước. Tin Mừng, nay đem ta về với suy tư những gì cụ thể. Về, của cải đích thực. Về, chúc lành của Chúa. Ở đâu. Cần tìm biết.

            Chuyện còn lại, là: ta cứ nghiêm chỉnh mà suy tư về đề nghị Tin Mừng. Có thế, ta mới dựng xây được cộng đoàn biết sẻ san. Xây dựng được những gì thiết yếu cho cuộc sống. Cuộc sống có Chúa. Sống, nhưng không đặt nặng vào vật chất, bạc tiền, của cải hoặc nhà đất. Bởi, Chúa đâu cần gì những thứ ấy. Không có chúng, Ngài vẫn không nghèo. Bằng chứng là, không ai giàu hơn Ngài. Giàu có ở đây, là tất cả những gì tự tại nơi Ngài. Là tâm tánh. Là Bản vị. Là, thị kiến của sự sống. Là, tự do Ngài vẫn có. Là, trọn vẹn con người Ngài. Là, khả năng yêu thương vô điều kiện, người tốt xấu, giàu nghèo. Ngài đâu màng chức tước, địa vị hoặc tiếng tăm.

            Làm đồ đệ Chúa, không có nghĩa phải từ bỏ những gì có giá trị. Trái lại, là tìm ra bí kíp của giàu sang, phú quý rất đích thực. Người thanh niên trong trình thuật không khám phá ra là mình đã để luột mất, rất nhiều thứ. Nên, anh đã “sa sầm nét mặt, và buồn rầu, bỏ đi.”       

           

Suy niệm Chúa nhật thứ 29 thường niên năm B

 

“Ước ao gặp một bàn tay ấm áp”

Chạm nhẹ thôi, đủ vơi bớt ngại ngần,
Mong vài phút, xin cho tôi sống lại
Ôm mẹ già, ôm hết những người thân.”
(dẫn từ thơ Phú Sĩ)

Mc 10: 35-45

            Tay ấm áp, làm nhà thơ sống lại. Sống, để ôm mẹ già, ôm cả người thân. Tay giơ lên, đồ đệ Chúa cất cao một yêu cầu. Yêu cầu được gần gũi, ở hai bên Thầy cùng ngồi hưởng vinh quang. Hưởng hay không, trình thuật hôm nay đà ghi rõ.

            Trình thuật hôm nay thánh Máccô lại ghi về sự kiện thôi thúc môn đồ Chúa yêu cầu Ngài ban cho các thánh hồng ân: được gần Thầy, vinh quang chễm chệ chỗ cao ngồi. Mở đầu yêu cầu lớn ấy, vậy mà các ngài, vỏn vẹn chỉ đưa ra những lời lẽ, rất thân thương: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện điều chúng con sắp xin đây.”

            Đức Giêsu, không dễ gì bị một ai đưa vào vòng tròng tréo, của ngôn ngữ. Ngài hỏi lại hai môn đồ: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì? Ngôn từ cầu và xin, sẽ còn được lập lại một lần nữa, ở Tin Mừng kỳ tới.

            Câu hỏi ở trên Chúa đặt ra với đồ đệ, là vấn nạn Chúa gửi đến mỗi một người. Cả vào thời buổi này. Và, câu trả lời, liên quan đến điều căn bản của cuộc sống mỗi người. Liên quan đến những chuyện thường ngày trong cuộc đời. Cả khi vui cũng như lúc buồn, ta thường hỏi: tại sao thế? Để làm gì?  Trong cuộc sống, điều ta muốn thực sự, là những gì? Có cần thiết? Phải chăng là: hạnh phúc? An vui? Yên bình? Và gì nữa?

Môn đệ Chúa đều nghe biết về thống khổ Ngài gánh chịu. Về nỗi chết. Và sự sống mới, Ngài trải qua. Các thánh đều biết Chúa là Đấng Mêsia. Là, Vua dân Do Thái. Các ngài cũng từng nghe Thầy nói về “Vương Quốc Nước Trời, nên mới dám hỏi: “Xin cho hai anh em con, được ở chỗ cao, nơi Thầy ngồi.” Và, thánh Máccô lại đã thêm lời bình phẩm: “Các ông không biết điều mình xin”. Cuối cùng, thánh sử trích dẫn Lời Chúa nói về thống khổ và nỗi chết Ngài chấp nhận.    

            Thật sự, các thánh không thể hiểu sao Vua Vũ Trụ lại chiến thắng bằng cách chấp nhận hạ mình xuống hàng thấp nhất ngang bằng con người. Rồi, mới vinh quang vào với Vương quốc của Thiên Chúa. Đó là điều mà tiên tri Isaya nói đến, ở bài đọc 1. Tiên tri diễn tả cảnh Thiên Chúa muốn Ngài bị nghiền nát qua nỗi thống khổ. Bởi, “Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính.” Is 53: 11)

            Đó là đường lối, mà các thánh sẽ phải trải qua, giống như Thầy. Trải qua, để uống cũng một chén đắng. Lãnh nhận, cùng một phép rửa. Đầm mình nơi trạng huống giống Thầy, là cho đi trọn vẹn bản chất rất thánh như Thầy. Và Chúa nói trước, các thánh sẽ cam chịu một thân phận như Thầy. Đã trở thành thánh tử đạo đầu tiên, hiến mình cho Hội thánh. Và các thánh cũng được hưởng phúc vinh quang cùng Chúa. Suốt hành trình.     

            Thật cũng dễ hiểu, tại sao mười tông đồ còn lại khi nghe biết, đã tỏ ra tức giận. Tức và giận, tưởng như toàn bộ nhóm bị lừa đảo, cách gian ngoan. Gian và ngoan, nhưng không chắc được Thầy chấp thuận.

            Nay Chúa tập họp môn đồ ngồi lại với nhau để nói cho các thánh biết ý của Ngài về sự cao cả và thành quả, trong cuộc sống. Chỉ một đường duy nhất có thể tạo thành quả, là Đường của Ngài. Con Đường ấy, không phải đứng hoặc ngồi, trên ngai báu. Có nhà cao cửa rộng. Có xe sang. Có chân, trong câu lạc bộ nổi tiếng. Có ăn thì tại nhà hàng sang trọng, đắt tiền hoặc nghỉ tại  vắng vẻ, ít người tới. Tức, toàn những thêm thắt cho ngày của Chúa, thật vui thích.

            Thật sự thì, chuyện cao cả trong cuộc sống, không nằm ở những gì ta có. Hoặc, những gì ta có được từ người khác. Nhưng là ở điều: ta có cho đi trọn vẹn chính mình, cho kẻ khác? Bài đọc 2, thánh Phaolô cho giáo đoàn Do Thái biết, rằng: nơi Đức Giêsu ta đã có vị thượng tế “cao cả”. Nhưng, Ngài là Thượng Tế của chúng ta, vào lúc nào? Có phải, là khi Ngài ở đền thờ xây bằng đá cẩm thạch, cao sang? Hay, vì Ngài mặc lễ phục toàn là “hàng hiệu” đắt tiền, có đính kim cương đá quý, chói lọi? Không phải thế. Ngài chỉ thành vị Thượng tế Cao Cả, khi Ngài vừa là Thượng Tế vừa là nạn nhân, treo mình trần trụi trên bàn thờ khổ giá hình chữ thập, bị dân con nhạo cười bêu rếu, ở bên dưới.

            Ở thời này, hẳn Mẹ Têrêxa Calcutta là mẫu mực, ta thấy rõ. Sự cao cả nơi Mẹ Têrêxa được cả người Công giáo lẫn người ngoài Đạo ở Ấn Độ nhận thức, dù mẹ chẳng bao giờ mơ tưởng. Cao cả, là ở chỗ: mẹ biết cho đi trọn vẹn chính mình, để đến với người cùng cực, đói nghèo. Coi tất cả mọi người dù nghèo đói, khổ đau như những người anh người chị. Nên mẹ sống gần gũi họ. Thích ở với họ. Và, mọi người ở Ấn Độ, đều biết thế.

            Cũng nên nhớ, mẹ Têrêxa làm công việc cho đi chính mình, cả vào lúc trước khi Malcolm Muggeridge dựng mở chương trình truyền hình về mẹ. Làm cho mẹ nổi tiếng. Sự cao cả của Mẹ Têrêxa không nằm ở điểm Mẹ trở thành người nổi tiếng. Dù nổi tiếng là nhân vật lành thánh. Mà, do tinh thần phục vụ những con người bị bỏ rơi. Những kẻ cần người khác giúp đỡ. Đoái hoài.

            Mẹ Têrêxa Calcutta là vị thừa sai cao cả, là ở chỗ Mẹ đã mang Tin Mừng về sự phục vụ người nghèo đói khổ nhất. Mẹ không chỉ duy nhất là người Anbania, trở thành vị thừa sai đến Ấn Độ, mà thôi. Mẹ và các nữ tu cùng Dòng, đã ra đi với sứ vụ tông đồ truyền Đạo tại các vùng như New York, Los Angeles, Luân Đôn, và cả Rôma nữa. Mẹ là một thừa sai cho Rôma? Vâng. Công cuộc thừa sai như Mẹ hôm nay, bung ra khắp mọi nơi.

            Cũng giống như thánh Giacôbê và thánh Gioan, cũng tựa như Mẹ Têrêxa Calcutta và rất nhiều người khác, chúng ta tất cả đều được mời và được gọi. Mời và gọi, đến với công cuộc thừa sai/tông đồ. Phần đông, ta được mời tham gia hành trình mục vụ ngay tại chỗ. Muốn trở thành vị thừa sai chân chính của Chúa, ta cần nghe được Lời Chúa, ngang qua nơi nào thấy có sự cao cả đích thực. Nghe được lời mời gọi như thế, ở thời buổi này, là chuyện không dễ.

            Mặc dù vậy, chúng ta được mời và được gọi không chỉ làm đồ đệ theo Chúa, mà thôi. Nhưng, còn được kêu gọi trở thành các vị tông đồ thừa sai, rất cao cả. Bởi, ta chẳng thể nào sống niềm tin Kitô hữu một cách trọn vẹn được, nếu không biết sẻ san và làm chứng tá cho sứ vụ tông đồ của Chúa, trong cuộc sống hằng ngày ở đây và ngay hôm nay. Sống như Mẹ Têrêxa Calcutta là sống  cao cả, cho đi trọn vẹn cuộc đời mình dù chẳng có gì để cho. Cho, là hết lòng phục vụ. Cho, là quyết tâm ra đi, làm việc cho Chúa. Ngay chỗ ta đang ở.

             

           

                     

Suy niệm Chúa nhật thứ 30 thường niên năm B

 

“Những kỷ niệm, vàng hoe trong ký ức”

Anh trở lại, dửng dưng nhìn quá khứ
Của một thời, sỉ nhục gánh trên vai.

(dẫn từ thơ Trần Trung Đạo)

Mc 10: 46-52

            Kỷ niệm có vàng hoe trong ký ức, không làm anh lại về với hiện tại. Đầy nhớ nhung. Dân Do Thái xưa cũng trở lại. Trở lại, sau bao tháng ngày lưu lạc. Nơi quê người. Lại trở về, với tâm tạng mừng vui. Đó là tâm trạng dân con Chúa, được trình thuật ghi, hôm nay.

            Trình thuật thánh Máccô ghi, về sự lạ Chúa làm cho người mù thành Giêrikhô, là để ta suy nghĩ. Suy và nghĩ, về điều được ghi ở bài đọc 1: ”Trong chúng, có kẻ đui mù, què quặt, kẻ mang thai, ở cữ. Ta sẽ an ủi và dẫn đưa chúng; dẫn đưa tới dòng nước, qua con đường thẳng băng.” (Gr 31: 8). Nhờ đoạn này, ta định ra được cảnh trí Tin Mừng thánh Máccô ghi.  

            Tin Mừng thánh Máccô ghi hôm nay, là đoạn kết cho thấy Chúa tập họp đồ đệ Ngài thành một nhóm. Tập họp, khởi từ việc Chúa chữa người câm điếc, vào hôm trước. Được chữa lành, người bệnh đã biết nghe và biết nói. Nhờ kỹ năng này, tín hữu và đồ đệ Chúa cũng sẽ nghe biết và thông hiểu Lời Chúa. Rất rõ. Và từ đó, biết sẻ san thông điệp mình nghe, với mọi người.

            Các đoạn Tin Mừng sau đó, như ở chương 8, thánh sử cũng có ghi lại hai giai đoạn Chúa chữa lành người đui mù. Trình thuật này, rõ ràng biểu tỏ rằng đồ đệ Chúa tự mở mắt để thấy được thiên chức và sứ vụ thừa sai của Đức Chúa. Và kế đến, trọn vẹn giai đoạn kết thúc sự kiện chữa lành cho một người mù khác, là đoạn ta nghe đọc, hôm nay. Đây, không là chuyện ngẫu nhiên trùng hợp cách tình cờ. Nhưng, là chuyện thánh sử ghi lại, có dụng đích.    

            Như được biết, Đức Giêsu đã cùng đồ đệ và đông đảo quần chúng rời thành Giêrikhô, đi nơi khác. Nay Chúa đã về với thành thánh Giêrusalem. Tạo bối cảnh cho trình thuật được kể, ở đoạn sau. Ở đây người người nhìn thấy anh thanh niên mù tên BaTiMê đang ngồi bên vệ đường, chừng nghe ngóng. Anh nghe có tiếng ồn ào. Và được biết: Đức Giêsu đang ngang qua. Nên anh gọi: “Lạy Ông Giêsu, Con vua Đavít, xin dủ lòng thương tôi!´(Mc 10: 47)

Xin dủ lòng thương, là lời anh Ba-ti-mê cầu xin cho anh lành bệnh? Vì anh biết, Đức Giêsu là Đấng chữa lành tuyệt vời. Và, anh biết chắc là Giờ Ngài đã đến. Đến, với mọi người.

Biết điều này, quần chúng đứng chung quanh bèn khuyên nhủ: hãy im đi mà giữ miệng. Vì, anh chỉ là người hành khất rất thấp hèn, không xứng đáng. Không được phép quấy rầy Đấng Rất Thánh, là Đức Chúa. Ở đời thường, nhiều người cũng gặp tình huống rất tương tự. Tức, vẫn ưu tư /quan ngại vẫn tạo rào cản ngăn chặn con đường ta đến với Chúa. Đó là lúc, mình quá bận rộn, không đủ thì giờ để đến với cộng đoàn. Đến, để đi lễ. Đến, để tham gia sinh hoạt phụng vụ với Hội thánh. Và, đôi lúc ta cũng cản ngăn rất nhiều người muốn làm thế.

Nghe kêu cầu, Chúa dừng lại. Và giả như người mù hôm ấy không tiếp tục kêu cầu, chắc hẳn các ngài vẫn tiếp tục hành trình, đã dự định. Ngày nay cũng thấy rất nhiều trường hợp tuy có thấy Chúa ngang qua, nhưng hẳn đã mấy ai nhận biết Ngài? Nhận biết để mà kêu van, cầu cứu! Hay là ta vẫn cứ yên trí, vẫn mang nặng thành kiến. Nên cứ nhất định chỉ tìm kiếm Ngài ở nơi nào mình tính trước. Để rồi, chỉ chấp nhận Ngài bằng ảnh hình, mà ta có sẵn trong đầu. Rất thường tình, nhiều người cứ nghĩ mình chỉ tìm thấy Ngài ở Nhà Tạm trên Cung Thánh. Nào mấy ai biết kiếm tìm Ngài nơi những người mình chẳng ưa thích?  

Sự thật, Chúa đã và đang đến với ta, qua nhiều dạng. Qua người lạ. Trong tình cảnh không quen. Khó nhận. Hoặc, những trường hợp, thật không ngờ. Ngài đến, qua cung cách của người bần hàn. Nghèo túng. Đói khổ. Ngài đến, nhiều lúc ngang qua những người khó tính, hay bẳn gắt với nhiều người. Ngài đến, có khi chỉ qua người đem thử thách, kKhó chịu đến cho ta.

“Gọi anh ta lại đây ngay”. Lệnh truyền, cho thấy Chúa không đi thẳng đến với người mù. Ngài cũng chẳng gọi đích danh anh. Nhưng bảo anh, hãy tự mình mà đến với Ngài. Qua quần chúng. Qua, đám người dửng dưng vừa quát bảo anh, hãy câm miệng, hãy ngồi im, để Thầy đi. Chúa đến, ngang qua những người khuyến khích anh chạy tới. Đây, là đề nghị để ta biết cách mà  đến với Chúa. Cung cách của người dưng khác họ, là cung cách của những người khuyến khích ta “hãy đến với Thầy”. Của, những người giới thiệu Thầy, cho ta.

Ở đời thường, người giúp ta đến với Chúa, vẫn thường là: cha mẹ, gia đình, bạn bè, thày cô, lời chia sẻ, buổi tĩnh tâm, các sách vở, báo chí, phim ảnh, truyền hình… Ta cũng nên tưởng nhớ đến những người như thế, để cảm tạ. Cảm tạ và biết ơn, vì nhờ có họ mà ta mới đến được với Chúa.

Cũng thế, nhiều người cũng đang chờ đợi để được biết Chúa qua ta. Qua người trong nhà. Ngoài sở. Phố chợ. Nhà thờ. Đoàn thể. Ngày nay, còn có chăng, những san sẻ niềm tin? Có còn chăng, những người nay nhận biết ta là hiện thân của Đức Chúa ở đời? Là “Công” Giáo, ta không thể không chứng tỏ niềm tin ta có với Chúa, và xem đó là niềm “riêng” trong Đạo, thôi. Đây là mâu thuẫn. Là, ngược ngạo. Cũng nghịch nhĩ.  

“Anh mù liền vất áo choàng lại, đứng phắt dậy mà đến gần Đức Giêsu”. Với người hành khất, áo choàng còn là chăn chiếu để ngủ. Là, cả gia tài họ có được. Mặc dù thế, anh mù nay cũng bỏ hết. Bỏ tất cả, để đến với Chúa, mỗi người không. Người không hay mình trần, là trạng thái của tiên tổ khi phạm lỗi. Ngay Đức Chúa, Ngài cũng đã chấp nhận cái chết rất mình trần, là để hoán cải sự hổ ngươi do lỗi phạm đem đến. Anh mù Ba-ti-mê đến với Chúa, cũng mình trần, nhưng không xấu hổ.

Mình trần, còn là tình huống khi ta nhận lãnh ơn tẩy rửa. Là, dấu chỉ ta quyết tâm đến với Chúa. Người tân tòng, cũng cởi bỏ áo choàng tội lỗi xưa, để bước xuống giếng rửa. Nhận lãnh ơn thanh tẩy. Khi bước lên, lại đã khoác cho mình bộ áo trinh trong, dấu chỉ của một sẻ san cuộc sống rày đổi mới. Có Chúa. Có cộng đoàn. Ở Nước trời.

Và như thế, anh mù Ba-ti-mê đến với Đức Giêsu với tất cả tự tin, lẫn tự do. Chẳng cần vật chất. So với thái độ của người thanh niên giàu, đã có áo choàng sang trọng nói ở Tin Mừng hôm trước, ta sẽ biết tại sao người thanh niên ấy không thể theo chân Chúa. Lý do, là vì anh vẫn còn vương vấn chốn tiền bạc. Giàu sang. Phú quý.

“Anh muốn Tôi làm gì cho anh?” là câu hỏi Chúa vẫn đưa ra mỗi khi ta đối diện với Chúa. Ở đây, ta có Đức Giêsu là Vị Thượng Tế, được diễn tả, ở bài đọc 2. Ngài là Đấng, vốn chấp nhận một sẻ san với loài người, nên đã rõ mọi nhu cầu, ta vẫn có: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong tương quan với Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội.” (Dt 5: 1)     

“Anh muốn Thầy làm gì?” Câu hỏi Chúa đặt ra cho ta hôm nay, cũng tựa như câu hỏi Ngài đưa ra với đồ đệ thân thương chỉ muốn chia nhau chỗ ngồi gần bên Chúa, vào hôm trước. Và, lời đáp trả của đồ đệ hôm ấy, là: “Xin cho anh em chúng con tả hữu hai chỗ bên Thầy, khi Thầy được vinh quang.” (Mc 10: 37) Và, mặc khải của Chúa rõ ràng là: đồ đệ Chúa chỉ nhận lãnh những gì mình đáng được. Và hôm ấy, các thánh được dạy về việc phục vụ mọi người. Chứ không chỉ cầu vinh.

Lời đáp trả của anh mù hôm nay, thì khác: “Thưa Thầy, xin cho tôi nhìn thấy được.” Trong bối cảnh của trình thuật, điều anh muốn còn giá trị hơn mỗi chuyện về thể xác. Yêu cầu của anh mù Ba-ti-mê là điều chúng ta cần đến. Rất liên tục. Trong đời Kitô-hữu.

Bí kíp của cuộc đời, thật ra là: thấy được. Thấy được, ý nghĩa và đường hướng đích thực của đời sống. Thấy được, như người có thị kiến về Chúa. Biết tìm Chúa ở đâu. Nơi nào, ta nhận ra được Chân, Thiện, Mỹ? Chuyện mà anh mù Ba-ti-mê thực hiện được, là biết đường mà đi theo Chúa.    

Lúc đầu, chưa gặp Chúa, anh Ba-ti-mê ngồi ở vệ đường. Ăn xin. Mù loà. Vào lúc cuối, anh đã thấy. Đã có thị kiến. Đã biết mình đang ở đâu. Sẽ đi đâu. Anh không còn ngồi ở vệ đường nữa. Nhưng anh đã lên đường theo Chúa. Bởi Chúa là Con Đường. Là Sự Thật. Và Sự Sống. Con đường anh đi, dẫn đến thành thánh Giêrusalem. Ngang qua thống khổ, nỗi  chết. Và sự sống đã hồi sinh.

Chuyện anh mù, là kết đoạn và tóm tắt của lời dạy được ghi tóm của Tin Mừng thánh Máccô viết. Là, tóm lược cuộc sống và hành trình của mọi tín hữu Đức Kitô. Gồm tóm ấy, cho thấy trước kia ta cũng mù loà và nghèo đói, về nhiều thứ. Là Kitô hữu, khi lĩnh nhận ơn thanh tẩy, mắt ta đã mở rộng để thấy được ý nghĩa của cuộc sống. Biết, hồi hướng tận căn, mà trở về. Để rồi, lãnh nhận đường hướng mới cho đời mình. Mà thực hiện. Nay thì, ta sẵn sàng cùng Chúa đi Giêrusalem, với thị kiến rất rõ. Với, tự do rất thực.    

 

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 31 thường niên năm B

 

“Bụi che tay, không thấy hết đường về”

Trời rất nắng, còn anh buồn đến vậy
Khác chi ngày hiu hắt, nép hiên mưa .

(dẫn từ thơ Từ Kế Tường)

Mc 12: 28-34

            Trời rất nắng vào ngày hiu hắt, bụi che tay nên không thấy đường về. Đường nhà thơ về, hay đường Chúa đi, vẫn mang mác buồn. Buồn, như dân con/đồ đệ chẳng biết đường, mà thưa Ngài.

            Trình thuật hôm nay thánh Máccô ghi lại sự việc xảy đến vào ngày tháng, cuối đời Ngài. Trước lúc Ngài bước vào sự thống khổ. Có hy sinh. Chết chóc. Phục sinh, quang vinh. Sự việc xảy ra ở Giêrusalem, luôn là bối cảnh quan trọng cho công trình cứu độ. Cụm từ: “hy sinh” được nhắc đến ở bài đọc 2 và ở Tin Mừng, nối kết với Cựu Ước. Có Đền thờ. Và với lề luật người Do thái.

            Một kinh sư lỗi lạc về luật, đến gần gạn hỏi Chúa đôi điều, về Cựu Ước. Kinh sư nhớ vanh vách hơn 600 điều luật mà người bình thường không làm sao nhớ nổi. Kinh sư đưa ra câu hỏi mà các nhà kinh viện thời đó vẫn tranh luận: điều luật nào đứng hàng đầu cần tuân giữ? Điều nào tóm gọn ý hướng căn bản luật của Chúa? Vấn nạn ông đưa ra, không mang dáng dấp của một bẫy cạm hoặc kình chống. Thật sự, ông chỉ muốn biết ý của Chúa, về vấn đề này mà thôi.

            Hãy để ý cung cách Chúa tiếp đón vị kinh sư, nay thắc mắc. Thông thường, Biệt Phái/Kinh sư hay tỏ thái độ kình chống đối nghịch Chúa, ra mặt. Lẽ đáng ra, Chúa phải đóng vai người thủ thế. Tức, chỉ phản ứng đối đáp một cách tiêu cực thôi. Nhưng, ở mọi trường hợp, Ngài luôn đối xử với mọi người một cách đồng đều. Không thành kiến. Chẳng coi nhẹ một ai. Dù, Biệt Phái, Kinh sư. Luật sĩ.

Ngài coi trọng hết mọi người. Chẳng lên án một ai. Không phân biệt giai cấp. Sắc tộc. Tuổi tác. Gái trai. Ngài vẫn để mọi người bộc bạch mọi thắc mắc, rất tự nhiên. Ngài chấp nhận đối đáp với từng người. Đối đáp theo tư cách một nhân vật. Đó là mẫu mực để người theo chân Chúa, biết mà bắt chước. Biết, để tạo quan hệ tốt, với hết mọi người.

            Khi đối đáp, Chúa trích lời Cựu Ước, là định vị những điều thân quen, mà mọi người dễ chấp nhận. Ngài dùng cả hai bản văn kết hợp thành một. Một thị kiến. Một trọng tâm sống Đạo. Bài đọc 1, khuyến khích mọi người hãy kính mến Chúa, hết lòng. Hết khả năng. Đồng thời, giữ gìn luật Chúa ban, đúng qui cách. Và, chú giải về “người thân cận”, là câu trích từ sách Luật khác, sách Lêvi đoạn 19 câu 18.

            Kinh sư hôm ấy, mãn nguyện với ứng đáp của Chúa, nên đã chấp nhận điều Chúa nói. Ông coi việc đó, còn quý hơn lễ vật toàn thiêu, hy sinh. Điều này, làm nổi bật tính chất thánh thiêng của vị Thượng Tế Vẹn Toàn, nói ở bài đọc 2.

            Bài đọc 2, vị thượng tế chuyên về luật, là người luôn quan tâm nhìn xuống nỗi yếu hèn, tồi tệ của dân con: “Đức Giêsu, vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi mãi.”(Dt 7: 24). Ngài là Thượng Tế Duy Nhất. Thánh thiêng. Trọn hảo, vì tình yêu thương Ngài dành cho Cha. Và vì tình thương yêu Ngài dành cả cho ta, nữa.

            Về lại với chính mình, ta không thể để tình Chúa yêu thương dành cho mình, tách rời ta ra khỏi mọi người, đang cùng sống với ta. Sống cạnh ta. Có lẽ do có mặc cảm, nên ta tưởng rằng mọi lỗi lầm ta vướng mắc, là những trở ngại kình chống Chúa. Chống lại anh em. Nên, ta về với toà cáo giải, tức để được tha thứ. Và ta thường nghĩ rằng làm như thế đã đủ. Tuy nhiên, nhiều lúc đến với Chúa, ta chỉ xin ơn thứ tha. Nhưng, lại không biết việc mình cần làm, là tha thứ. Là, sống hài hoà, với những ai từng xử tệ, với ta. Bởi lẽ, nếu không thương yêu người đồng loại, làm sao ta có thể nói là mình yêu Chúa được. (1 Ga 4: 20)

            Tiếp theo, là câu hỏi: ai là người cận thân của tôi? Với tôi? Thời của Chúa, đó là người Do Thái. Như Chúa từng dạy, cận lân vẫn là người cần đến tình thương của ta. Là, những người mà ta cần quan tâm. Ưu tư lo lắng. Và cận lân là những người từng để ý đến ta. Tức, những người bất kể khó khăn/rào cản, vẫn không ngại ngần đến với ta dù ta có chấp nhận hay chối bỏ, hoặc bỏ rơi. Những người dù có ở sát ngay bên mình, nhưng ta chưa hẳn coi họ là người cận lân. Nói tóm lại, cận lân là những người mà danh hề Charlie Brown nói: “Tôi yêu hết mọi người. Cả những người mà tôi không thể chịu đựng, nữa.”

            Vấn đề là, ta được dạy: hãy yêu thương người lân cận, như yêu chính mình. Đây là một lệnh truyền. Một đòi hỏi có hơi quá đáng? Thật ra, đây chỉ là một phần của vấn đề. Vấn đề, ở chỗ: phần đông trong chúng ta vẫn chưa biết yêu chính mình tới đâu là đủ. Phần đông, ta muốn người khác coi mình hơn thế nữa chứ không phải chỉ là như thế hoặc chỉ có thế.

            Đây, còn là âm vang phản ánh một trong những quan niệm của tác giả Dòng Tên, Lm John Powell, người từng viết sách mang tựa đề “Sao tôi vẫn sợ. Vẫn không cho mọi người biết mình là ai?” và “Tôi thực sự là người muốn vùng dậy?” Quả đúng như linh mục quan niệm rằng đã lâu rồi, ta vẫn cứ giấu đi sự yếu kém, không thức thời của mình. Bỏ ra quá nhiều tiền bạc/của cải để đầu tư vào nhà cửa. Xe cộ. Quần áo. Nữ trang. Đầu tư, nuôi thẩm mỹ viện. Để tiền vào chốn ăn chơi. Vào những nơi để tạo phong cách/chỗ đứng mình đang có, trong xã hội.  

            Điều trước tiên, cứ kính Chúa trước đã. Và rồi, vì Ngài, ta tiến tới chứng tỏ lòng yêu thương nhau. Yêu, quên bản ngã. Quên cả chính mình. Để hy sinh. Thêm vào đó, ta được dạy: chớ vị kỷ. Đừng tập trung mọi sự vì mình. Cho mình. Có như thế, ta mới về với người khác. Mới làm mọi sự, vì người khác. Cho người khác.

            Cũng từ đó, ta sẽ khám phá ra rằng: khi học cách yêu thương rất mực và vô vụ lợi, ta sẽ được người người yêu lại. Dù có lúc, không phải tất cả mọi người sẽ lại yêu ta. Dù cũng có khi, chẳng ai yêu ta hết. Dù rằng, lắm lần, người người không yêu ta, chỉ vì họ không có khả năng để yêu. Không biết yêu.

            Chỉ khi nào ta hiểu được hoặc có kinh nghiệm về tình thương yêu đích thực và thực sự được người khác yêu, thì khi đó, và chỉ lúc đó, ta mới nói được về Chúa, là Đấng yêu thương đích thực. Ngài là Đấng yêu không điều kiện. Ngài yêu, vô vụ lợi. Việc này, quan trọng hơn của lễ hy sinh. Hơn việc chăm chú đi nhà thờ. Đọc kinh. Rước lễ. Bởi, dù có làm nhiều việc như thế, cũng chẳng nghĩa lý gì nếu ta không thực sự yêu mình. Yêu người. Yêu Chúa. 

            Trở lại câu Chúa nói về kinh sư: “Anh ta rất gần với Nước Trời.” Điều này, Chúa từng nói ở đoạn khác: “Để chứng tỏ anh em là môn đệ Thầy, anh em biết yêu mến Thiên Chúa.” Và, điều kiện ắt và đủ để yêu mến Thiên Chúa, là: yêu tha nhân. Yêu người ở gần, lẫn người ở xa. Không quen, không biết. Yêu tha nhân, là yêu Chúa. Như nghệ sĩ Bob Geldof của nước Anh cũng từng đưa ra câu hỏi trong cuốn sách anh viết mang tựa đề: “Phải thế không?” Vâng đúng thế. Rất đúng.

           

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 32 thường niên năm B

 

“Dẫu rong rêu, xóa mất dấu tên đường”

“vui nhé em, chào những khung cửa khép
hạnh phúc chờ, từng tiếng gọi yêu thương.”

(dẫn từ thơ Cao nguyên)

Mc 12: 38-44

            Khung cửa khép, suy tư/nguyện cầu đâu cần những phô bày. Phô và bày, ở khung cửa khép như Kinh sư/Biệt phái nhà Đạo, thời buổi trước. Thời, có trình thuật thánh sử đà ghi sâu.

            Trình thuật thánh Máccô hôm nay, ghi sâu về phong thái của người đời chỉ những muốn phô trương cùng bày biện. Phô bày diện mạo, danh xưng chức phận, cùng phong thái. Phô và bày, để tỏ ra ta đây lành thánh, có khắp nơi. Đó là thái độ Chúa nói về kinh sư nhà Đạo, ở Kinh thánh: “Những ông kinh sư ưa dạo quanh, xúng xính trong bộ áo thụng. Thích được người ta chào hỏi nơi công cộng. Họ muốn chiếm ghế danh dự  trong hội đường. Thích ngồi cỗ nhất, trong đám tiệc.” (Mc 12; 38)

            Quả tình, Kinh sư Biệt phái, là những người am hiểu rộng rãi về luật lệ. Nên rất được kính trọng. Xúng xính trong bộ áo thụng, để chứng tỏ mình thuộc tầng lớp cao quý, rất riêng tây. Rất am hiểu nhiều bộ luật. Nên, mỗi khi thấy họ đi ngang, chúng dân đều đứng dậy, mà tỏ lòng cung kính. Rất quý trọng.

Nhiều lần, quần chúng xưng hô chúc tụng họ như các đáng thuộc “Bậc Thầy”, hoặc “Cha/Cố”. Khổ nỗi, quen với thói tục này, họ tưởng mình vẫn có quyền được như thế. Quyền được có lợi. Quyền để hành, dành riêng cho một mình mình. Và từ đó, họ có thêm thái độ tự tung tự tác. Phô trương. Ngạo mạn. Coi luật Chúa, như của riêng.

Ngày nay, nhiều viên chức cấp cao trong xã hội, cũng hành xử theo cùng một cung cách. Có vị ngang nhiên tự tạo cho mình tính “quý phái” giống giòng hào kiệt. Có đủ mọi quyền uy/vị thế để có thể lọt vào giai cấp rất chững chạc, ở trên cao. Trọng vọng. Để rồi từ đó, cứ tiếp tục làm mầu làm mè ở chính trường, lẫn nhà đạo. Nay, Chúa lên án thái độ đê hèn của Kinh sư, chuyên “nuốt tài sản của các bà goá”, “làm bộ đọc kinh cầu nguyện thật lâu giờ”. Nói tóm, quyền uy/chức vụ thường kết nối chặt với tham ô/nhũng lạm. Mà, nhiều thủ lãnh tôn giáo vẫn cho là mình không thể là kẻ có tội.      

Thời nay, đôi lúc có vị tự cho mình là “thủ lãnh tôn giáo” trong địa hạt rao truyền Lời Chúa trên truyền thông/truyền hình dám gom góp tiền bạc của chúng dân hiền lành. Khờ khạo. Từ đó, họ sống thoả thuê bằng mồ hôi nước mắt của bà con. Trong khi đó, hình ảnh của Mẹ Têrêxa Calcutta hiện lên chuyến viếng thăm trường học nọ ở Hồng Kông, đơn giản chỉ với chiếc áo dòng cũ kỹ trên người. Mẹ đi đôi dép da chẳng đáng giá. Và khi đến thăm Nữ Hoàng Nước Anh, Mẹ cũng chỉ ăn vận đơn giản. Hèn mọn. Như chính bản thân Mẹ. 

Ở đời thường, ta cứ bận tâm với “thể hình bên ngoài”. Luôn ưu tư, đến việc người khác đánh giá thế nào, về mình. Luôn lo sợ người khác biết mình có khuyết điểm. Nên, không còn có thể giáp mặt người “đồng loại” cách thoải mái. Nói tóm, ta quá bận tâm về chính mình. Nên chẳng để ý đến một ai.

Tin Mừng nay nói về thái độ của Kinh sư/Biệt Phái, là nói về ta, là dân con nhà Đạo. Lâu nay ta suy nghĩ và hành xử, hệt như thế. Lâu nay, ta cũng ưu tư lo lắng về lớp mù sương dày đặc, cần lướt thắng. Nỗi ưu tư, giống như thái độ người Kinh sư/Biệt Phái vẫn tiềm tàng, trong ta. Làm thành trở ngại lớn. Và, đây cũng là căn nguyên mọi vấn đề với nhiều người.

Phần hai Tin Mừng, dẫn đến ảnh hình của truyện tích, rất khác biệt. Ở đó, nối kết giữa hai phần, nhờ cụm từ “bà goá”. Bà goá và trẻ mồ côi, là hai lớp người nghèo/khổ, thời của Chúa. Ở xã hội, không có hệ thống phúc lợi, lớp người này chẳng bao giờ có được giùm giúp.  Mồ côi, vốn vô gia cư. Chẳng được gì. Lại bị xã hội ruồng bỏ. Và goá bụa, thường vì chồng chết sớm vì chiến tranh hoặc bệnh tật, nên tuy gọi là goá, các bà thường vẫn trẻ. Nhưng, với xã hội trong đó hôn nhân được đẩy đưa/mai mối, thì bà goá là người chẳng có cơ may làm lại cuộc đời. Nếu không con, lại đơn chiếc, thì nhiều phần là các bà goá sẽ bị dồn vào cảnh tình nghèo đó. Túng cực.

Ở trình thuật, sự tương phản thấy rõ giữa thái độ của bà goá nghèo hèn và Kinh sư/Biệt Phái, rất quyền cao chức trọng, đầy uy nghi, đã làm nền cho lời dạy của Chúa. Tính giản đơn/chân phương của bà goá qua quyên góp, phản nghịch lòng tham lam/ngạo mạn của một số lãnh tụ tôn giáo, và đây còn cho thấy trạng huống chênh lệch của xã hội Do Thái, thời của Chúa.

Nhìn vào cảnh tình hôm nay, ta thấy rõ: vẫn có chênh lệch giữa các giai tầng quyền chức trong xã hội, ngày hôm nay. Chênh lệch và khác biệt, còn nhận thấy trong thái độ vui chơi/ăn uống giữa giai cấp sống thoải mái, dư dật và nhóm người đói nghèo. Cùng cực. Có những cảnh, người ăn không hết, cứ vứt bỏ của dư thừa vào thùng rác. Trong khi đó, người nghèo đói cứ phải phấn đấu kiếm từng giọt nước với hột gạo, để sống sót. Tín thư Tin Mừng Chúa đưa ra, không phải chỉ cho người Do Thái thời của Chúa mà thôi. Mà, cho mỗi người. Và mọi người chúng ta, hôm nay.

Bà goá nghèo, đã hành động hoàn toàn tin tưởng vào sự an bài của Chúa, dám bỏ vào thùng tiền những gì bà hiện có. Bà chẳng quan ngại ngày mai đói khát. Còn mỗi hai đồng tiền kẽm có thể nuôi sống bản thân mình nhiều ngày, nhưng bà vẫn cho đi. Cho để phục vụ những người còn khổ hơn.

Bài đọc 1, diễn tả cùng một chuyện tương tự. Cũng nói về bà goá. Bà goá nghèo, có con trai. Và cả hai, đang đứng trước cảnh tình cùng cực, chuẩn bị chết. Nhưng, dù đói nghèo cùng cực, bà  vẫn có tinh thần phục vụ. Phục vụ người đang có nhu cầu cấp bách. Phục vụ, được thử thách bằng đòi hỏi gắt gao của ngôn sứ. Đền đáp lại, là phần thưởng cao quý dành cho ba người. Những người con, dám hy sinh cho đi mọi sự. Để phục vụ. Cho đi, mẹ con bà goá và vị ngôn sứ được nhận lại, nhiều hơn trước. Đó là tín thư của Tin Mừng. Của Phục vụ. Và, cho đi.

Trình thuật nay diễn bày câu chuyện thoạt xem có dáng vẻ “không tưởng”. Nhưng thực tế, biết bao gương lành về phục vụ và cho đi, như chuyện thần thoại, vẫn diễn ra ở phố chợ. Điều, mà trình thuật muốn chứng minh, là: bao lâu ta nhận ra rằng chỉ khi nào ta biết nghe theo Lời của Chúa trong mọi việc, khi đó ta mới đạt cội nguồn của an bình. Hạnh phúc. Sướng vui trong miên trường.

An bình và hạnh phúc, không thấy nơi bạc tiền. Tài sản. Học vị hoặc chức nghiệp. Bởi những thứ ấy đều thoáng qua. Tạm bợ. Dễ biến dạng chẳng báo trước. Chỉ một điều có thể tồn tại mãi mãi, là: tình thương yêu đùm bọc. Giùm giúp lẫn nhau. Trong mọi tình huống, dẫu xấu xa. Tồi tệ.     

Câu chuyện thánh Máccô diễn tả, còn là nhịp cầu nối kết cuộc sống đầy ý nghĩa của Đức Chúa với nỗi thống khổ sắp tiếp diễn. Hành động của bà goá hoàn toàn tin tưởng vào Chúa, biểu trưng việc Chúa phó dâng trọn vẹn cuộc sống của Ngài cho Cha. Ngài phó dâng, như một bài dạy để ta nhận biết, mà noi theo. 

Trình thuật hôm nay, là tổng luận lời Chúa dạy về tính chất người đồ đệ. Đồ đệ Chúa, phải là người tự coi mình như không có. Không vênh vang, tự mãn. Không tham vọng. Cũng chẳng đánh bóng tạo hình tượng cho người người đến chiêm ngắm. Như Biệt phái/kinh sư hay người giàu có, ở đền thờ. Bà goá hôm nay là ảnh hình lý tưởng của người chẳng là gì, nhưng lại có tất cả. Có được sự cao cả, Chúa hứa ban.

Còn lại, vấn đề: “có hay không có”, và “người người nghĩ thế nào về mình”, cũng chẳng quan trọng bằng: mình có là người tự do, trung thực và thật sự công chính, trước mặt Chúa? Có dám cho đi tất cả, để tin tưởng trọn vẹn vào Chúa, Đấng sẽ ban trở lại những gì mình cần đến? Có tin tưởng rằng: cứ cho đi, như bậc tiền nhiệm của ta từng làm. Rồi ra, ta sẽ được Chúa đoái hoài, tặng ban thêm?

 

Suy niệm Chúa nhật thứ 33 thường niên năm B

 

“Đấy là tất cả, người anh tiêu tán”

Cùng trăng sao, bàng bạc xứ Say Mơ
Cùng tình em, tha thiết như văn thơ
Ràng rịt mãi, cho đến ngày tận thế.

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mc 13: 24-32

            Ràng rịt - tha thiết, mãi cho đến ngày tận thế. Thiết tha - rịt ràng, tiêu tán cả người anh. Tiêu tán đến tận thế, có là tâm tình nhà thơ? Thế còn, tâm tình nhà Đạo có là tình tự Lời Chúa ghi lâu nay? 

            Trình thuật Lời Chúa hôm nay, thánh Máccô ghi về ngày thế tận, tiếp theo sau đoạn văn nói thành thánh Giêrusalem bị phá huỷ. Tình tự âu sầu mà người Do Thái thời của Chúa, từng trải nghiệm. Trải nghiệm, còn sầu buồn hơn việc thành đô La Mã và đền thánh Phêrô bị hư hao. Với người Do Thái, Giêrusalem là chốn thánh Chúa ngự. Đền Giêrusalem dù bị huỷ hoại rất nhiều lần và dân con  từng lưu lạc, rất nhiều năm. Nhưng, huỷ hoại lần này kéo dài hơn 2000 năm, không kém. Và đến nay, đền thờ Hồi giáo đang chiếm lĩnh nơi đó, không biết đến bao giờ mới ngưng.

            Với cộng đoàn tiên khởi, sự kiện huỷ phá đền thờ để lại nhiều dấu vết suy tư, trầm lắng, rất thương đau. Và, thánh Phaolô nói “Đền thờ mới” Thân Mình Đức Kitô. Tức, ngụ ý rằng: thân mình Ngài tìm thấy ở dân con, chứ đâu phải lớp sỏi vụn, bên ngoài. Nên, dù Vaticăng và đền thánh Phêrô có bị huỷ đi nữa, cũng đâu ảnh hưởng gì đến bản chất thiết yếu của Hội thánh. Hội các thánh lớn dần, đầy sinh lực.

            Trình thuật hôm nay, Chúa nói rõ về sự xuất hiện của Con Người. Con Người đến trong vinh quang. Ngài đến, để thiết lập một lần là mãi mãi cho Vương Quốc Chúa ngự trị. Triều đại Ngài, có kẻ đến để thần phục. Có người mải đến để chối bỏ và chọn lựa chốn tối tăm. Họ chối bỏ, để rồi chọn lựa tư thế chỉ làm người ngoài cuộc mãi mãi.  

            Con Người nói ở đây, được hiểu là Đức Kitô, Con Một Chúa mà đồ đệ nhận biết, đã gần gũi. Con Người ấy, nay xuất hiện đầy quyền năng. Quang vinh. Và, trình thuật còn kể: “Con Người ngự đến trong mây trời, đầy quyền uy, sáng chói” đã là lời vang vọng từ sách Tiên tri Đanien. Nhưng ở đây, Con Người oai nghi uy quyền, hơn bao giờ hết.

            Con Người xuất hiện, bằng cũng một ngôn từ như ở Cựu Ước. Nơi Giao Ước xưa, khi thánh sử diễn tả việc Chúa xuất hiện, lại có “thần thiêng sứ giả và tập họp dân con Ngài lại với nhau”. Tập họp, là để Ngài tỏ lộ cho thấy quyền uy vinh quang chói lọi, vẫn có nơi Con Người. Đây, là mặc khải diễn bày nhiều lần, ở Cựu Ước. Thế nên, khi lặp lại những lời của Cựu Ước, tín hữu Chúa nhận ra xác chứng về thiên tính của Đức Giê-su, nơi vai trò của Con Người.

            Phân nửa bài Tin Mừng nay lặp lại ngôn ngữ và ý tưởng truyền thống có từ thời Cựu Ước. Mà lặp lại không để người đọc hiểu theo nghĩa đen rất từng chữ. Cũng không như lời tiên tri về sự việc sắp xảy đến. Lặp lại, là để diễn bày nội dung rất sáng, đang diễn tiến. Ảnh hình có mặt trời mặt trăng muôn tinh tú, là lối diễn đạt phán quyết của Thiên Chúa đối với dân tộc Do Thái.

            Người Do thái xưa, vẫn tin rằng mặt trời, mặt trăng và muôn tinh tú, đại diện cho thần linh/thượng đế luôn kiểm soát vũ trụ, với trăng sao. Người Do thái tin rằng khi Thiên Chúa ra tay hành động, thì không gian tinh tú sẽ vần vũ. Rối bời. Người thời xưa, chẳng thể nào hình dung ra hệ thống và cơ cấu trăng sao tinh tú, rất vũ trụ như hôm nay.

            Điều mà trình thuật nay muốn nói, là: toàn thể tinh cầu vật thể ở vũ trụ mà người đời vẫn nghĩ là đang kiểm soát lịch sử, so với quyền uy của Đức Chúa, vẫn chỉ là hư vô. Và, một khi mặt trời mặt trăng muôn tinh tú, sẽ không còn chiếu sáng. Thì, trăng sao tinh cầu lớn nhỏ, sẽ rơi rụng.

            Đàng rằng, thời thánh Máccô còn sống, niềm tin vào sức mạnh của trăng sao tinh tú đều rất mạnh. Ở Trung Hoa thời đó, các chiêm tinh gia được kính nể rất mực vì các vị đều có thể đoán trước đường đi nước bước của nhiều tinh tú, ngoài vũ trụ. Đoán được cả, cung cách tác động lên cuộc sống của người phàm, dưới thế trần. Nhờ có kỹ năng tinh tế như thế, các thừa sai Dòng Tên đã được trọng vọng, kính nể cả từ bậc trên. Hôm nay, nhiều đấng bậc ở đời vẫn còn giữ thói quen “bấm số”, “cúng sao”, đoán già đoán non cả về tình duyên/gia đạo, rất bạo miệng.

            Dù rằng thế, chẳng có gì để ta có thể đoan quyết được rằng: có mối giây liên kết giữa việc thành thánh Giêrusalem bị phá huỷ, với việc Đức Chúa quang lâm, sẽ tái thế. Cả khi, tín hữu thời tiên khởi vẫn trông ngóng Chúa đến lại. Chúa đến vào thời họ còn sống. Điều này phản ánh nguyên do khiến thánh sử ghi chú bằng những lời lẽ như: “Thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy đến.” (Mc 13:30)

            Hiển nhiên là điều này vẫn ám ảnh truyền thống người Do thái, cứ quan niệm rằng kết cục của thành thánh Giêrusalem còn có nghĩa là kết đoạn của thế trần. Ám ảnh đến độ, các thế kỷ sau đó, ngay như thánh Âu-tinh lại cũng hiểu rằng đoàn quân man rợ đánh chiếm LaMã sẽ kết thúc nền văn minh Kitô, thấy rất rõ. Tuy thế, vào thời điểm trình thuật hôm nay được viết lên, chúng dân đã bắt đầu vấn nghi về lý đương nhiên chuyện Chúa đến trong lai thời.     

            Phần cuối trình thuật kể về việc Chúa dùng dụ ngôn cây vả, làm bài học dẫn dụ người nghe. Vả, là loại cây ai cũng biết, sống tràn lan trên núi Oliu, nơi Chúa giảng. Vả, chỉ đâm chồi nẩy lộc vào cuối xuân. Bởi thế nên, khi thấy vả nảy lộc ai cũng biết là mùa hè đang dần đến. Và khi, nghe Chúa tả ngày thế tận bằng từ ngữ như đại hoạ, đồ đệ Ngài đã ứng đáp bằng niềm tin. Hy vọng. Và tiên liệu. Với họ, ngày thế tận như mùa hè, đều rất tốt. Tốt, không vì Chúa quên lịch sử. Nhưng, vì Ngài đưa mọi sự vào giai đoạn kết cuộc toàn thắng. Thắng tà thần. Thắng lòng dạ con người, luôn đổi thay.     

            Xem như thế, trời/đất, trăng/sao, tinh tú/giải ngân hà, và cả đến hành tinh bé nhỏ của ta nữa, rồi ra cũng sẽ đổi thay. Biến mất. Nhưng, Sự Thật, Tình Thương, và Công Lý sẽ không thay đổi. Vẫn lấn lướt. Vẫn hiện diện. Và ngời sáng, đến muôn đời.

            Lâu nay, nhiều người muốn cảnh báo về ngày thế tận, nhưng “khi nào” thì ngày ấy xảy đến, nào ai biết. Cuối năm 1999, nhiều vị đoán là “ngày ấy đã gần kề”, nhất thứ là khi thấy xảy ra nhiều hiện tượng nhiễu nhương được họ coi như một việc trả đũa, từ Thiên Chúa? Ngôn từ trả đũa mang tính xúc phạm. Bởi, Chúa chẳng bao giờ trả đũa lẫn trừng phạt ai. Dù, người ấy có làm quấy. Ngài vẫn xót thương cả người vô tội, lẫn có tội. Vì tội có bao giờ chạm được Chúa, mà chỉ quay về người vi phạm, thôi.

            Chúa nói: không ai biết được ngày/giờ ấy, sẽ xảy đến. Thành thử, cũng chẳng nên lo lắng về chuyện ấy. Chỉ một cách duy nhất nên làm, là: sống mỗi ngày và mọi ngày trong tình thương yêu phục vụ cũng đã đủ. Ngày hôm nay sẽ định đoạt cho tương lai, mai thời.Thế nên, ta cũng nên tập trung vào chuyện ở đây. Bây giờ. Có thế, mới vào với Nước trời. Vào, để sớm muộn gì Ngài cũng sẽ mời ta đến. Đến với Ngài, như buổi họp mặt của bạn thân.

            Quả thật, Ngài đã, đang và luôn luôn có mặt ở nơi đây. Tuy nhiên, vấn đề không phải là để Ngài đến với ta, mà là: ta sẽ đi vào với tương quan đậm sâu với Ngài. Với Ngài, ngang qua nỗi chết. Chết cho chính mình. Chết cho mọi sơ xuất. Tật xấu để về với cuộc sống, đã đổi thay. Như Ngài dạy.

 

Suy niệm Chúa nhật Lễ Kitô Vua năm B

 

“Ta lớn khôn rồi, vẫn trẻ thơ

Hồn nhiên nuối mộng, thuở nào xưa
Lâu đài ta vẫn, xây trên cát
Ôm trái tim người, đứng ngẩn ngơ!

(thơ Vương Đức Lệ)

Ga 18: 33-37

            Mộng thuở xưa, là mộng vàng tuổi thơ, rất hồn nhiên. Hồn tự nhiên, nhưng vẫn là lâu đài xây trên cát. Mộng hôm nay, phải là chân lý xác thực. Xây dựng, ở trong tim. Xây trong tim, vì tim là đền đài vững chắc Chúa dựng xây cho loài người. Hệt Đức Vua.

            Trình thuật hôm nay, thánh Gioan nói về cuộc đời nhà Đạo, không đặt trong mộng, dù lớn nhỏ. Nhưng, đặt vào niềm tin vững chắc, của dân Chúa. Vững và chắc, vì dân con Chúa nay đã biết hợp lòng cùng vị chủ tế vinh danh Đức Vua, như kinh Tiền Tụng đà ghi rõ: “Là Vua, Ngài tỏ bày quyền uy trên mọi thọ tạo để dâng lên Cha, Vương quốc trải rộng toàn cầu, vĩnh cửu. Đức Giêsu Kitô là Vua của chúng con, Đấng dẫn đưa mọi dân tộc đến với Cha.”           

            Bài đọc 2, sách Khải Huyền cũng nói Ngài là “AnPha và Ômêga, Đấng Hiện Có, Đã Có và Đang Đến”. Ngài, là Khởi Đầu và Cùng Tột của cuộc đời chúng ta. Và mọi loài.

            Tin Mừng nay ghi lại cuộc đối đầu giữa Philatô, tổng trấn La Mã và Đức Giêsu. Cuộc đọ sức giữa một người tự cho mình có quyền uy dũng mãnh như lãnh tụ một chế độ thực dân hà khắc, và Đức Giêsu, Đấng rày đây mai đó giảng rao Nước Chúa. Không tham vọng làm vua, quan, lãnh chúa.

            Philatô hỏi: “Ông có phải là Vua dân Do thái không?” (Ga 18: 33) Nói xong, ông cảm thấy bứt rứt khi Chúa hỏi ngược lại xem câu của ông có là câu hỏi chân phương, lương thiện. Hoặc, chỉ cốt để xác minh lời đồn đoán hoặc kết án, từ đối phương. Philatô có hỏi đấy, nhưng vẫn ngượng ngùng khi thấy Chúa đối đáp tay đôi với ông, như người cân tài cân sức. Không sợ hãi. Cán cân quyền lực nay chừng như đã và đang chuyển đổi. Philatô không muốn thế. Ông cũng chẳng lấy làm thích thú gì, khi biết rằng sức mạnh quyền uy đích thực không tuỳ vào cương vị/chức tước, nhưng vào phần nội tâm, bên trong con người.   

            Chúa Giêsu trả lời, không để vùi dập một ai, như Philatô đã từng làm. Sức mạnh và quyền uy của Chúa không phải để trấn át bất cứ người nào, nhưng là để nâng đỡ/hỗ trợ. Chỉ những người yếu kém mới tìm cách lấn lướt, để khuynh loát người khác. Đó là điều mà các bậc có quyền có thế, cũng nên chú ý, như: cha mẹ, thầy cô, chủ nhân, linh mục, quan chức chính quyền, thủ trưởng…

            Dù Chúa không đáp trả bằng câu nói “Tôi chính là vua”, nhưng Ngài minh định rất rõ: “Nước Tôi, không thuộc về thế gian này.” Nước của Ngài bắt đầu thế gian này, nhưng không THUỘC về thế gian. Điều đó, có nghĩa: nguồn gốc của hứng khởi và quyền lực là chính Chúa. Đặc biệt hơn, là ở Tình Yêu của Ngài.      

            Đức Giêsu là Vua, nhưng ảnh hình của Vua Kitô hoàn toàn khắc hẳn ảnh hình ta vẫn có, về vua quan ở đời. Khác ảnh hình, mà dân con người người vẫn có về Đấng Mêsia-Vua mà họ trông ngóng. Ngài không có quân đội. Cũng chẳng màng tìm ảnh hưởng chính trị. Trước mặt Philatô lúc ấy, Ngài không giống một ai khác, ngoài Đức Vua Kitô. Ít lâu sau, Philatô bình tĩnh trở lại, đã nghĩ về cơ nghiệp của mình, mới ra lệnh hành hình Vua vũ trụ, là Vua các vua. Là, Chúa các chúa. Từ lúc đó, lính tráng của Philatô mới kết triều thiên gai lên đầu Ngài, mà chế riễu: “Kính lạy Vua Do thái.”

            Thế rồi, khi dẫn Chúa ra trước mặt chúng dân, Philatô nói: ”Này là Người!” Lời này, có thể diễn dịch cách thông thoáng, như: “Hãy xem kìa! Kẻ đứng trước mặt các ngươi đây, dù các ngươi có tin hay không, vẫn chỉ là con người.” Với lời lẽ thảm thương ấy, “Vua quyền” của Đức Giêsu Kitô đã bị chối bỏ. Để từ đó, họ bắt đầu coi Ngài như kẻ tội phạm. Và từ đó, dân con Ngài cũng đã chối từ Đức Vua của vũ trụ. Của con người. Điều này không còn gì để ngỡ ngàng. Bởi, đây không là ý tưởng về Đức Vua-Mêsia, Đấng cứu độ được hứa ban cho dân Do thái.      

            Ở đây, cần nhớ rằng: thập giá nhục nhã Chúa cam chịu, không phải là dấu chỉ của một thất bại. Ta cần hiểu rằng: thập giá ấy, là chính ngai vàng của Đức Vua Vũ trụ. Với các vị đứng gần bên thập tự, giây phút xem ra như một thất bại nhãn tiền, nhưng sự thực, lại là giây phút Chúa tỏ bày một chiến thắng quang vinh. Chiến thắng của sự sống. Của Sự thật. Và, của  Tình yêu. Chiến thắng ở bên trên mọi tủi hổ. Trên sự suy sụp. Trên chính cả sự chết nữa. Đức Giêsu chiến thắng sự chết là bởi Ngài chấp nhận nó. Ngang qua nó. Ngài lấy lại sự sống. Ngài sẵn sàng để sự sống qua đi.

            Đức Kitô Vua Vũ Trụ chết trên thập tự, đã trở thành chiến thắng của sự thật. Của công lý, lòng xót thương. Và trên tất cả là chiến thắng của Tình yêu. Thứ tình, mà chẳng một ai có thể cho đi chính sự sống của mình, cho bạn bè. Và đây, chính là quyền uy sức mạnh của Đức Vua Vũ trụ. Sức mạnh mà không một thứ gì có thể sánh tày, rày lướt thắng.

Vua Vũ trụ, không thể thực sự là Vua của chúng ta, nếu như ta không nhận làm thần dân của Ngài. Ngài sẽ là Vua của ta, nếu ta không chịu nghe lời Ngài. Phục vụ ngài. Theo chân Ngài. Ngài không là Vua của chúng ta nếu như ta không tự nhận dạng với cứu cánh/mục tiêu của triều đại Ngài trị vì. Ta đến với triều đại của Ngài không vì ta được thanh tẩy hoặc vì ta mang danh tín hữu, người Công giáo. Cũng chẳng vì ta tham dự vào các sinh hoạt phụng vụ, và lễ nghĩa. Ta chỉ dám nói mình thuộc triều đại của Ngài, khi mà:

-ta cố gắng bước theo Ngài

-cố gắng sống cuộc đời tràn đầy tinh thần của Phúc Âm

-Tinh thần của Phúc Âm xâm nhập mọi khía cạnh của cuộc sống.

Ta chỉ thuộc triều đại của Ngài, khi –giống như Ngài-  tức là ta đạt đến cấp độ tự do, qua đó ta có thể để mọi thứ ra đi, cả sự sống trong chiến đấu để biến thế giới của ta thành một thế giới của sự thật. Của công lý. Của Tình yêu. Đó là cuộc chiến đấu giúp cho lời cầu của mọi người thành hiện thực. Lời cầu ta tuyên xưng ít nhất là mỗi tuần: “Xin cho Nước Cha trị đến”.

Và, ta không thể theo chân Chúa , Đức Vua của ta được, nếu như ta không am hiểu Ngài nhiều hơn. Điều này đòi hỏi ta không chỉ gật đầu hứa hẹn tìm đọc Tin Mừng, Lời của Chúa. Bởi, đơn giản là nếu không biết rõ Tin Mừng, ta sẽ không thể biết Chúa, như thánh Giêrônimô từng minh định. Ta cần nguyện cầu có sự khôn ngoan ấy hầu am hiểu tường tận tinh thần của Đức Kitô Vua. Am hiểu cả bản chất quyền uy và cứu cánh, cũng như đối tượng của thế giới, ta đang sống. Và rồi, ta mới tự đặt mình vào với thế giới ấy.

Cuối cùng ra, ta quyết tâm tin rằng Đức Kitô không chỉ là Vua của người tín hữu nhưng còn là Chúa của thế giới này. Ngài là Chúa theo dạng thức, rất đặc biệt. Bổn phận của ta, là phải giúp mọi người hiểu biết căn tính của Vua Vũ trụ, Ngài chính là:

*Vị Vua, từng yêu ta không điều kiện

* Vị Vua, từng muốn hoà giải hoà hợp với kẻ tội phạm

* Vị Vua, vốn chỉ muốn giúp đỡ, chữa lành kẻ ốm yếu, tật bệnh.

* Vị Vua, rất khiêm hạ, chẳng bao giờ kiêu hãnh lẫn tự hào

* Vị Vua chỉ muốn san sẻ cuộc sống với ta, bây giờ và mãi mãi.

Để am hiểu Lời Ngài, trước nhất ta phải tự giúp mình am hiểu cương vị Vua nơi Ngài, sau đó giúp mọi người hiểu và biết đến Ngài. Nghịch thường thay, cách thức hay nhất để biết Đức Kitô Vua là ra đi giùm giúp mọi người biết đến Ngài. Để làm việc san sẻ nhận thức, sự am hiểu và lòng yêu thương Đức Kitô Vua với người khác, ta phải khám phá ra nhận thức, sự am hiểu và lòng yêu thương của chính mình.

 

 

Suy niệm lễ Các thánh Nam Nữ năm B

“Người mới lớn, cửa hồn chưa bám bụi,”

Vội vàng chi, mở rộng cánh tin yêu?
Biết đâu ta lẩn quẩn một đời, liều
Chuyên đội lốt thánh nhân, đi lường gạt”

(dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mt 5: 1-12a

            Đi lường gạt, sao lại đội lốt thánh nhân? Đội lốt rồi, lại còn liều lĩnh lần quẩn suốt một đời? Đã liều, sao còn mở rộng cánh tin yêu? Tin - yêu người nhà Đạo, đâu cần liều. Mà, chỉ cần hiệp thông cùng các thánh. Có cộng đoàn. Với Giáo hội. Như trình thuật, nay ghi rõ.

            Trình thuật thánh Mátthêu rày đã ghi về hiệp thông giữa các thánh. Hiệp và thông, là chung lòng con cái Chúa, những người được tẩy rửa, còn sống hay đã quá vãng, sống gần Chúa. Sống với Chúa. Hiệp và thông, là cùng với các vị tuy ngoài Đạo, nhưng xác tín sống cuộc đời, rất lương tâm.

            Trình thuật hôm nay, Chúa đưa ra hiến chương 8 điều để giúp người nghe trở thành lành thánh. Lành thánh, không chỉ ràng buộc sống 10 giới lệnh, thời Cựu Ước. Lành thánh, còn là nối kết Giao Ước xưa với luật Do Thái. Nối kết, hiến chương Chúa khơi mào để kiện toàn luật lệ mới.

            Hiến chương 8 điểm Chúa đề nghị, nối kết người người tiến bước xa hơn 10 lệnh truyền Cựu Ước. Xa hơn, 6 điều Hội thánh vẫn khuyên răn. Hiến chương 8 điểm Chúa đem đến, nay định hướng cho dân con sống đời hạnh phúc rất đích thực. Nhưng tiếc thay, người người chỉ đặt nặng trọng tâm lên lề luật cũ. Chẳng để tâm gì đến hạnh phúc 8 điểm, để theo Chúa, đến cùng.   

            Hiến chương Chúa nói, không mang ý nghĩa của một chúc lành, đến từ Ngài. Mà là vận may của những người đang hưởng hạnh phúc. Vận may, cho thấy ta thuộc Nước Trời, đang diễn tiến. Ở đây. Lúc này. Nước Trời ta sống, vẫn là tình thương. An bình. Công lý. Nơi đây ta sống, là Nước Trời có tự do. Cho đi. Và, sẻ san. Giùm giúp. Sẻ san, những gì có giá trị. San sẻ quà tặng Chúa ban, để chứng tỏ rằng ta tuỳ thuộc về Chúa. Thuộc, cộng đoàn có người anh người chị biết tuân thủ 8 điều Chúa bảo ban.

            Trình thuật hôm nay nói về những chúc lành đặc biệt gửi đến:

1.    Những người biết sống đời khó nghèo, rất tinh thần. Những người biết mình vẫn khốn khó. Mỏng dòn. Cần Chúa giúp. Khác hẳn, một kẻ tự cho mình biệt lập. Chẳng cần ai. 

2.    Những người tử tế biết đi ra tìm đến bất cứ ai đang cần săn sóc. Đỡ nâng. Gửi đến người công chính, biết xót thương. Lo toan giùm giúp, hết mọi người.

3.    Người sầu khổ. Tức, những ai đang sầu buồn vì mất mát. Cần được ủi an. Từ cộng đồng dân Chúa luôn yêu thương. Đỡ đần.

4.    Những người đói khát sự công chính, bằng mọi giá. Những ai biết lo toan giùm giúp mọi người sống tự trọng. Có nhân cách. Dù, phải trả giá rất đắt.

5.    Người có lòng bao dung độ lượng. Biết thứ tha. Và nâng đỡ hết mọi người.

6.    Người thanh sạch. Không chỉ trinh trong về tình dục, mà là người giản đơn/chân phương. Không lươn lẹo. Không thành kiến. Không thiên vị. Người như thế, vẫn nhận ra Chúa ở khắp mọi nơi.

7.    Những người kiến tạo hoà bình. Tức, người phá bỏ rào cản cách ngăn rất nhiều thứ, từ nghề nghiệp, giai cấp, sắc tộc, tôn giáo, đến bất cứ gì tạo xung khắc cá nhân, hoặc nhóm hội. Những người được gọi là “dân con Đức Chúa”, nhờ Đức Kitô đến để phá bỏ ngăn cách giữa Chúa và loài người. Và, giữa loài người với nhau.

8.    Những người bị bách hại vì sự công chính. Bách hại, không là kinh nghiệm thích thú. Đôi khi còn dẫn đến cái chết. Nhưng, chúc lành Chúa gửi, là để đến với những ai có uy lực và can đảm đề cao giá trị của sự thật. Của tình thương và công lý trên sự sống. Chính mình.               

            Hiến chương hôm nay, nói về tính lành thánh mà tín hữu Chúa cần thực hiện. Hiến chương còn đi xa hơn giới lệnh Cựu Ước, là do những tích cực Chúa đề bạt. Trong khi, phần lớn giới lệnh Cựu Ước gồm lệnh truyền “Chớ nên làm”. Nghĩa là, chỉ theo lệnh mà chẳng cần làm gì. “Không giết người”. Chẳng làm “sự dâm dục”, như thế có dễ trở thành thánh nhân không?

            Làm người Công giáo, là làm nhiều hơn nữa chứ không chỉ ngồi đó lánh xa dịp tội. Lánh xa chước cám dỗ, rất tiêu cực. Hiến chương 8 điểm, đề ra quyết tâm tích cực. Hiến chương không chỉ nói đến hành động, mà cả thái độ sống, nữa. Thái độ, thực hiện hiến chương cách trọn vẹn. Bởi, có hoàn tất thực hiện điểm nào đi nữa, vẫn còn nhiều điều để ta tiến xa hơn. Thực hiện mà không tự mãn, như người Biệt phái khi xưa, đã tự hào. Hiến chương Chúa đề ra hôm nay, là bí kíp giúp ta sống đời lành thánh, rất trọn nghĩa.

            Sống đờì lành thánh trong yêu thương, mà Cha đã cưng chiều cho ta được phép làm con Ngài, như có nói ở bài đọc 2. Không chỉ cho phép, mà Ngài còn mời gọi ta san sẻ cuộc sống với Chúa,  vĩnh viễn ở cuộc sống sắp đến: “Chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ.” (1Ga 3: 2). Sống với Chúa, không nhất thiết là như các ảnh hình vẽ theo sách Khải Huyền có thiên thần ngồi gảy đàn, ngàn năm mây bay. Mà, như thánh Phaolô diễn tả,  là sống giáp mặt Chúa. Vui khôn tả.

            Bài đọc sách Khải Huyền tỏ bày thị kiến cánh chung về những người chết trong Đức Kitô. Số 144,000 người là con số bình phương của 12 chi tộc nhân gấp ngàn, đơn giản chỉ biểu trưng toàn bộ những người đã trung thành chết vì Đức Kitô. Chết cho Đức Chúa của họ. Con số tượng trưng cho các chi tộc, đất nước và ngôn ngữ đến với Chúa, được mở ra cho hết mọi người. Những người vận mầu trắng trinh trong rất thiên thần. Tay cầm nhành thiên tuế. Áo mầu trinh trong có nhành thiên tuế mầu xanh lục, biểu trưng cho cuộc chiến thắng mà người Do Thái vẫn ăn mừng lễ hội Nhà tạm gửi đến những người được mời đến sống trong lều của Chúa.

            Cùng có mặt với các ngài, là triều thần thánh trên thiên cung, có 24 kỳ mục (có lẽ đại diện cho 12 tổ phục và 12 tông đồ) và 4 con vật (ảnh hình của 4 thiên thần ở chốn cao chót vót) , tất cả đều phủ phục thờ lạy Thiên Chúa uy nghi. Lời ca vang chúc tụng các ngài cất lên đã được nhạc sĩ Handel soạn thành giao hưởng khúc “Mêsia’, rất độc đáo. Chúc tụng, vinh quang, sự khôn ngoan, lời cảm tạ, danh dự, quyền uy và sức mạnh là 7 điều mà triều thần thánh chúc tụng.

            Những người trinh trong mặc áo mầu trắng, là ai? Họ từ đâu đến thế? “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao.”(Kh 7: 13). Phải hiểu đây, là những người chịu bách hại, dưới triều Nêrô. Tức, vào thời sách Khải Huyền được viết. Và lạ thay, “Họ đã giặt và tẩy trắng áo mình trong máu Chiên Con.” (Kh 7: 14). Máu Chiên Con, là chính máu thánh Chúa mang ơn cứu độ đến với những kết hợp với Ngài mà san sẻ, thôi. Nhiều vị trong số đó, là các thánh tử Đạo. Và máu của các ngài đã hoà trộn với máu của chính Chúa.

            Lễ các thánh, nay là dịp để ta đem lời cảm mến, dâng lên Chúa. Cảm kích lòng mến chuộng để nghĩ về bạn bè, người thân trong gia đình rộng lớn đã ra đi. Trước chúng ta. Cả ta nữa, đang trông chờ ngày mai ta sẽ hiệp cùng với tất cả, trải nghiệm cũng một niềm hân hoan sung sướng. Hân hoan, vì các vị ấy sẽ không còn đói, không còn khát nữa. “Vì Con Chiên đang ngự giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ."(Kh 7: 17)                   

            Lễ hôm nay, là ngày để ta nguyện cầu cho các ngài, các vị đã hiển thánh cũng như những vị nào chưa được phong. Nguyện cầu, để các ngài cầu bàu và hộ phù cho ta. Ngõ hầu ta có thể sống đời tin yêu rất mực. Và, cũng được tận hưởng những ân huệ lành thánh Chúa ban.

Comments