Chuyện Phiếm Đạo Đời Tập VI



TRẦN NGỌC MƯỜI HAI


CHUYỆN  PHIẾM  ĐẠO  ĐỜI

TẬP VI



NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN



CÙNG MỘT TÁC GIẢ



Chuyện Phiếm Đạo Đời I – nxb An Phong Sydney 2008
Chuyện Phiếm Đạo Đời II – nxb An Phong Sydney 2008
Chuyện Phiếm Đạo Đời III – nxb An Phong Sydney 2009
Chuyện Phiếm Đạo Đời IV – nxb An Phong Sydney 2010
Chuyện Phiếm Đạo Đời V – nxb An Phong Sydney 2011

Suy niệm năm A do Lm Frank Doyle sj viết – Mai Tá dịch
Suy niệm năm B do Lm Frank Doyle sj viết – Mai Tá dịch
Suy niệm năm C do Lm Frank Doyle sj viết – Mai Tá dịch


LỜI  BẠT



Là người đã một thời chung sống với tác giả Trần Ngọc Mười Hai dưới cùng một mái trường, vào thời buổi có nhiều biến đổi cả về chính trị lẫn tôn giáo, như: Công Đồng Vatican II, hay biến cố mồng 1 tháng 11 năm 1963, hoặc ở lãnh vực âm nhạc có sự xuất hiện của Lm Aimé Duval, Sr Sourire và cũng từ niềm hưng phấn ấy mà ban Hallêluyah của anh em Học viện Dòng Chúa Cứu Thế ra đời, hoặc với “Tài Liệu X” của chính tác giả hợp tác với một số thày Học viện song hành với các “Bản Cáo Trạng” của Lm Trần Hữu Thanh DCCT, đề cập đến các vấn đề nhức nhối của thời đại trong Giáo hội, tôi cũng là người có mặt trên từng cây số.

Từ mái trường này –nơi có những vị Linh mục/giáo sư khả kính khá lỗi lạc mà tác giả Trần Ngọc Mười Hai đã lãnh hội tư tưởng mới mẻ và phóng khoáng để cho ra những bài viết khá lôi cuốn như hôm nay. Đó cũng là thời gian xuất hiện những tác phẩm như: “Ca Tụng Thân Xác” của Gs Nguyễn Văn Trung, “Đường Hay Pháo Đài”, “Cho Cây Rừng Còn Xanh Lá”... của Gs Nguyễn Ngọc Lan, vv.. Đó là chưa nói đến phong trào Du ca của Nguyễn Đức Quang với các nhạc phẩm như “Ôi Quê Hương Ngạo Nghễ”, “Không Phải Là Lúc Ta Ngồi Đặt Vấn Đề”, hoặc các bài “Tâm Ca” của Phạm Duy, những “Ca Khúc Da Vàng” của Trịnh Công Sơn, hoặc các nhạc bản sinh hoạt của Tôn Thất Lập, của Phong trào Thanh Niên Thiện Chí, Học Sinh/Sinh Viên Nguồn Sống,vv…

Cũng nhờ thế, tôi đã có cái duyên hiểu được phần nào sự thôi thúc cũng như nỗi ưu tư không ngừng nghỉ mà qua các câu chuyện phiếm Đạo đời –lần này là Tập 6-  tác giả Trần Ngọc Mười Hai muốn tiếp tục gửi đến quý độc giả gần xa.

Ngày nay cũng vậy, sống trong thế giới với những biến chuyển dồn dập từng phút giây, ngày giờ, hẳn cũng cần một kiểu cách và ngôn ngữ mới để truyền đạt, nhất là trong lãnh vực đức tin. Tình trạng mệt mỏi nơi Kitô-hữu là dấu hiệu cho thấy cần phải có cách diễn tả mới, với mọi người. Điều quan trọng, là chúng ta phải có mối liên kết nội tâm với Kinh thánh, với Đức Kitô, là Nguồn mạch của Lời Hằng Sống; và, phải sống trung thực với lời mình nói ra trong tư thế của người thời đại sống ở thời buổi mà cái gì cũng mới mẻ. Có sống thực và cảm nhận thật sự Lời của Chúa, thì ngôn ngữ mình nói ra mới mặc lấy âm điệu mới, cung cách cách mới.

Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô 16  – khi ngài còn là Hồng Y Ratzinger -  từng nói: Trước những nghịch cảnh, có lúc chúng ta cũng nghĩ rằng mình bị Chúa bỏ rơi! Thế nhưng, thực tế không phải thế. Chúa vẫn luôn hiện diện với ta và bên ta. Ngài không nhất thiết phải tỏ hiện ra bên ngoài. Thậm chí, cả đến thiên tai, dịch bệnh cũng có thể là cách thức Ngài lên tiếng . Ngài không ồn ào, xục sôi nhưng vẫn luôn phát sóng. Và vần đề, là chúng ta có sẵn sàng mở máy ra để đón bắt tín hiệu đó hay không thôi. Trong cuộc sống và qua lối suy nghĩ thường ngày, hiện có quá nhiều sóng nhiễu, khiến ta khó mà bắt được sóng/đài và chúng ta vẫn cứ xa lạ với ngôn ngữ của đài và sóng, nên không nhận ra được tiếng của Ngài, đó thôi.

Thế nhưng, bất cứ ai có chút quan tâm, đều có thể cảm nhận được rằng: chính Ngài đang chuyện vãn với ta. Có thể là, Ngài xuất hiện một cách đột ngột, ngay cả tai ương, dịch bệnh đến là thế, nếu ta biết tỉnh thức hoặc nếu có ai giải mã được các dấu chỉ do Ngài phát, thì chắc chắn sẽ nhận ra tín hiệu của Ngài. Ngài không lớn tiếng, nhưng Ngài nói qua dấu chỉ thời đại và qua mọi biến cố trong đời người hoặc tâm tình của tha nhân. Chỉ cần một chút tỉnh thức và không đa mang hoặc bận tâm quá mức để dễ bị vướng mắc vào những hời hợt chóng qua mà không nắm bắt được tín hiệu do Chúa gửi.

Bằng một ý thức rất rõ ràng, tác giả Trần Ngọc Mười Hai đã đề cập đến các chủ đề rất thiết thực, gần gũi với cuộc sống thường nhật của người thời đại, như: Bao cao su, Phụng vụ, Tiệc Thánh Thể, Coi bói và Tử vi, Người lành/kẻ dữ, vv.. cho đến các vấn nạn thời đại, như: An tử/trợ tử, Sách nhiễu Tình dục, Tự tử, Phá hoại thai nhi, Bảo vệ môi trường sinh thái, Tha thứ chính mình và mọi người, Thân xác là đền thờ, Ly thân ly dị, vv.. nhất nhất tác giả đều đề cập đến bằng một thái độ cởi mở, không tranh cãi ai sai - ai đúng; trái lại, tác giả vẫn chủ trương tinh thần cùng nhau kiếm tìm và học hỏi. Thái độ của tác giả Trần Ngọc Mười Hai không là thái độ mà người xưa gọi là “Magister dixit”, giống như lời phán bảo của bậc thày từ toà giảng, mà bằng tâm tình của môn đệ Chúa trên đường đi Emmaus như một gợi ý, sẻ san tư tưởng của bạn đồng hành trên bước đường tìm kiếm Chúa Kitô, mà thôi.
   
Chẳng thế mà, mỗi khi kết thúc bất cứ chuyện phiếm nào, tác giả Trần Ngọc Mười Hai vẫn thường tóm tắt lập trường của mình bằng một đôi câu bỏ nhỏ khá thú vị và thấm thía, như: Trần Ngọc Mười Hai vẫn nhắn bạn và nhắn tôi những điều tựa như thế, hoặc: Trần Ngọc Mười Hai vẫn cứ thương và cứ nhớ hết mọi người, trong Đạo ngoài đời, hoặc Trần Ngọc Mười Hai nhiều lúc vẫn muốn hát vì hát là nhân đôi lời nguyện cầu ở bất cứ đâu, vv…
   
Nhân dịp này, lại xin được nói đến những CDs, MP3 và “Slide show” về chuyện phiếm Đạo đời. Đó là công trình khá năng nổ của một số anh chị đã và đang hợp tác với tác giả, vào mọi lúc. Tuy không mang tính chuyên nghiệp, nhưng lại hết lòng đồng hành với tác giả để Chuyện Phiếm Đạo Đời đến với độc giả và khán/thính giả nhiều hơn nữa.
   
Một lần nữa, xin cảm ơn tác giả Trần Ngọc Mười Hai –dù ngôn vẫn bất tận- và các anh chị từng hợp tác thực hiện các bộ CDs, MP3 và Slide show ngay từ đầu. Ước gì lập trường, ý tưởng cũng như tâm tình gói ghém trong Chuyện Phiếm Đạo Đời tập 6 này cũng như mấy tập trước sẽ là hạt giống nảy mầm, sinh hoa kết trái để Nước Thiên Chúa cứ tiếp tục diễn ra và dàn trải ngay ở đây, bây giờ và khắp chốn.       

    Vũ Nhuận
    Những ngày chớm thu ở Sydney năm 2012.






1. “Mắt đã một chiều thu hoen lệ sầu”
“Tiếng đã lạc loài trong tim nghẹn ngào.
Đưa em về chiều thu reo dưới gót,
Âm thầm từng hồi giá buốt Nghe tiếng đông sang.”
(Thanh Trang – Tình Khúc Mùa Đông)
(Mt 25: 41-43)
Diễn tả về mùa Đông, nghệ sĩ nào mà chẳng diễn tả một lặng câm/chết chóc, rất cứng ngắc? Chẳng như mùa Hạ, vẫn cứ là khởi sắc. Có nắng ấm. Chói chang. Rất đàng hoàng. Làm sao được như mùa Xuân, mùa của tình tự cao sang. Rạng ngời. Hạnh phúc.
Thế nhưng, mùa Đông không chỉ là mùa của những rét mướt. Sũng sượt. Trượt hạ mà thôi. Nhưng còn là mùa chờ đợi đợt loé sáng, rất tinh mơ. Đấng mà mọi người đợi chờ, một cứu vớt. Thế còn mùa Thu? Phải chăng, chỉ là mùa của những hoen lệ sầu. Mắt biếc. Đớn đau? Và đây, một bằng chứng:

“Nhớ những đường về sương rơi mịt mùng
Mắt biếc là màu riêng tôi lạnh lùng
Thương cho người về cô đơn với bóng
Mây chiều lạc loài đã xuống, Với thu mênh mông.”
(Thanh Trang – bđd)

Thú thật với bạn và với tôi, rằng bần đạo vốn dĩ thuộc loại dốt nát rất nhiều thứ. Cả, văn chương chữ nghĩa lẫn võ biền. Mười hai con giáp, bần đạo chẳng giống con nào, dù cầm tinh Quý Mùi. Quanh năm suốt tháng cứ bùi ngùi, mỗi khi bạn bè kể cho nghe những chuyện buồn buồn tủi tủi, rất ỉ ôi cung đàn nhiều lãng du:

“Anh lãng du đêm dài cùng khói mây
Hôn tóc em, nghe hồn mình đắng cay
Tháng năm buồn miệt mài, từng ngón tay
Khi về còn xao xuyến ru hồn người đắm say.”
(Thanh Trang – bđd)

Hồn đắm say. Thật ra thì, bần đạo chỉ đắm và say ý/lời của người nghệ sĩ từng viết nhạc, tên Thanh Trang. Dù chẳng biết người là ai. Con trai hay con gái. Già hay trẻ, mà nhạc viết hay đến thế! Thôi thì, nói cho “xôm tụ” một chút, thì bần đạo thuộc “típ” người rất bén và cũng nhạy về những chuyện buồn, loại thế kỷ.
Nên, bần đạo vẫn cứ là hay trích dẫn những giòng nhạc sướt mướt có chữ “thu”, như:

“Nhớ mãi từng chiều thu rơi ngàn trùng
Tóc đó là vùng mây trôi ngập ngừng
Đêm mong người về cho vơi giá buốt
Nghe hồn từng mùa đã khuất
Tiếc thu mênh mông”
(Thanh Trang – bđd)

Cũng vì được người nghệ sĩ diễn tả ý/lời nghe như “hồn từng mùa đã khuất” , nên bần đạo có lần dám cùng bầu bạn lên tiếng phản đối đấng bậc nhà Đạo nọ cứ hung hăng tuyên bố về chốn “mây trôi ngập ngừng”, “cho vơi giá buốt”, để rồi kéo theo một kết luận lên án nhân vật trong truyện đã dám làm “cử chỉ đẹp” để chứng tỏ tình yêu, với con mình.
Trước khi nghe truyện, cũng nên thanh minh rằng bần đạo hơi bị “ướt” một chút, nhưng vẫn chưa hẳn là đồng thuận với hành xử của người cha hiền từ trong truyện, dù ông đã hy sinh cả tâm can cao quý của mình. Để rồi, có thể cùng với nó vấn nạn rằng: tình tự của người cha ở trong truyện có cùng “tầm nhìn” như các cụ đạo thời đức thày Đắc Lộ, gọi “chốn luyện hình” là nơi đến của những hành xử, tự giải quyết cuộc đời như thế không?
Truyện bắt đầu thế này:

“Ngày “N” hôm ấy, khi biết trẻ đầu lòng của mình là con gái, chồng tôi không lấy gì gọi là mặn mà hăng say cho lắm. Ông chỉ thích có con trai để nối dõi tông đường, mà thôi. Mãi đến khi con gái lên ba, nhờ vào nụ cười rất có duyên của cháu, ông bố mới thay đổi tính khí lạ kỳ. Và, khi con lên bảy, biết hỏi những câu thế này, bố lại thương:
-Bố à. Năm con tròn 15 tuổi. Bố dự tính cho con món quà gì làm sinh nhật, thế?
-Con yêu ơi. Năm nay con mới lên 7.Từ nay đến đó còn lâu lắm. Để rồi bố tính cho.
-Sao? Bố vẫn bảo là thời gian trôi nhanh như ‘bóng câu qua cửa sổ’ cơ mà!
Thời gian trôi có nhanh hay không, cũng chẳng rõ. Chỉ rõ một điều, là: ông bố ngày càng thương con gái mình hơn cả mẹ của nó. Thanh Tốn tuy mới mười bốn, nhưng đã chiếm trọn vẹn con tim chân chính của bố mình từ lâu.
Một hôm, đang vào giờ hiệp lễ ở nhà thờ, Thanh Tốn tự dưng ngất xỉu ngay ở bàn quỳ khiến vợ chồng tôi hốt hoảng vội đưa cháu vào nhà thương, gần ngay đó. Suốt 10 ngày liên tiếp, cháu rải qua cơn thập tử nhất sinh, tình trạng của con gái xem ra không có nhiều hy vọng. Đoàn bác sĩ chuyên khoa tim về hội chẩn cho cháu, xong tuyên bố: Thanh Tốn bị chứng bệnh tim, rất ác tính. E khó thọ.
Con gái nằm viện đã lâu, mà bọn tôi chẳng biết làm gì để giúp cháu mau hồi phục. Thời gian không còn trôi nhanh nữa, nhưng cứ chậm. Rất nặng nề. Chồng tôi quyết định bỏ công việc, hầu dành dụm trọn thời gian cho con. Tôi thì rất sợ cái cảnh cứ phải ngồi đó nhìn con gái lúc tỉnh lúc mê, đến đau lòng.
Sáng hôm ấy, Thanh Tốn cố dùng sức bình sinh để nói với:
-Bố ơi. Tối qua bác sĩ bảo: con không còn sống được bao lâu nữa, đâu bố. Nói rồi, cháu lịm đi một lúc. Ông bố vội trấn tĩnh. Dù, chẳng biết con mình có nghe rõ được hay không:
-Không đâu con. Chúa lòng lành vô cùng. Ngài không nỡ cất đi niềm vui của bố đâu!
-À bố! Khi chết rồi, mọi người sẽ đi đâu? Con có gặp lại bố nữa không? Nơi nào thế?
-Con à. Cho đến nay, chưa có ai quay về từ cõi chết để nói cho bố con mình biết được chuyện ấy. Nhưng, tin bố đi. Ngày nào bố rũ áo ra đi, bố sẽ không để con một mình đâu. Dù con có ở xa bố cách mấy, bố cũng cố tìm cách về với con thôi. Yên chí đi con nhé!
Chiều ấy, bác sĩ kịp đến cho biết: Thanh Tốn cần đến quả tim khác. Bằng không, cháu chỉ sống nhiều lắm chừng hai tuần. Vợ chồng tôi nghe thế, thấy mình như bị cú sét đánh ngang tai. Tay chân rã rời. Tìm đâu ra quả tim khác, thay cho con? Ôi lạy Chúa.
Cũng vào những ngày sau đó, Thanh Tốn sẽ vừa tròn 15. Hôm ấy là Thứ Sáu, kỷ niệm ngày Chúa chịu nạn, bệnh viện được tin có người vui lòng hiến tặng một quả tim, còn rất khoẻ. Tức tốc, Thanh Tốn được đưa vào phòng mổ, để thay tim. Sau cuộc giải phẫu, mọi người được biết là: cuộc giải phẫu tuy khá dài, nhưng mọi chuyện kết thúc thật tốt đẹp. Thanh Tốn chỉ nằm lại phòng hồi sức chừng hai tuần, là có thể về nhà, tạm ổn. Có điều là, từ ngày ấy, chẳng thấy mặt mũi ông bố đến thăm con. Chắc ông có việc bận, ở đâu đó.
Ngày “N” đến. Thanh Tốn được phép xuất viện về nhà tĩnh dưỡng. Vừa bước vào cửa, cháu đã lớn tiến gọi chào ông bố:
-Bố đâu rồi? Sao không ra đón con hả bố?
Nghe gọi, tôi vội bước ra khỏi phòng ngủ, mắt còn đẫm lệ, nhưng vẫn còn tỉnh đủ để trao cho con gái lá thư cuối cùng, bố cháu viết:
-Con hãy cầm lá thư này mà đọc. Đây là thư bố viết cho con cách đây ít ngày…
Thư không dài. Chỉ vỏn vẹn đôi hàng chữ, nét rất rõ: “Thanh Tốn thương yêu, con của bố. Khi con đọc những giòng chữ này do bố viết, chắc con cũng đã tròn 15. Và lúc ấy, chắc chắn tim con sẽ đập mạnh hơn bao giờ. Đó là lời hứa mà bác sĩ chuyên khoa chữa cho con, từng nói với bố như thế. Bố xin lỗi. Bố không thể có mặt gần bên con, vào lúc này được. Nhưng, từ lúc bố biết là con sẽ giã từ cuộc đời mà lại không có bố đi cùng, bố đã quyết định là: sẽ cho con câu trả lời mà con từng hỏi bố vào ngày con lên 7: bố sẽ tặng con món quà gì quý giá vào ngày con đủ 15 không? Thì hôm nay, bố tặng cho con món quà quý giá nhất là trọn sự sống của bố đây. Bố không đòi hỏi nơi con bất cứ điều gì hết. Con cứ tự ý mà hành xử theo cung cách của riêng con, món quà bố vừa tặng. Hãy sống trọn vẹn cuộc đời của con, hỡi con gái dấu yêu của bố! Bố yêu con, bằng cả trái tim này. Bố của con. Thanh Tâm.
Suốt hôm ấy, Thanh Tốn khóc đến không còn giọt nước mắt nào để khóc nữa. Hôm sau, cháu vội chạy ra nghĩa trang, gục đầu trên mộ của bố, mà thổn thức: “ Bố yêu dấu. Giờ, thì con đã hiểu thế nào là tình cha thương con vẫn thiết tha. Dù, con chẳng bao giờ nói lên được những câu như thế. Nay, thì con cũng đã biết nói lời âu yếm là “Con cũng yêu bố lắm!” mỗi khi bố nói bố yêu con. Con xin lỗi, vì lâu nay con vẫn cứ im lặng, chẳng nói lời gì để bày tỏ lòng con vẫn yêu quý bố, hơn bao giờ hết….”

Truyện kể, chừng như còn nói nhiều hơn những điều được ghi trên giấy. Giấy và bút, chỉ ghi mỗi mẩu đối thoại giữa cha/con, mà thôi. Còn đối đáp nào đẹp hơn lời đối đáp tóm gọn một chữ “yêu”? Chỉ mỗi từ gồm 3 nét chữ là y-ê-u “yêu” thôi, mà sao loài người viết đến cả vạn cả triệu pho sách, cũng không hết ý? Sách Đạo. Sách đời, vẫn đủ cả. Chỉ bằng vào động thái “yêu” thôi, loài người đã đánh gục biết bao người vẫn cứ nghi cứ vấn về tình thương yêu, đến là thế.
Ấy nhưng, câu chuyện mà bạn và tôi, ta mạn đàm hôm nay, không để ca ngợi văn chương chữ nghĩa rất phong phú. Mà, chỉ muốn nói đến nét “trăng thanh” bên lề một truyện kể. Lề phải hay lề trái, cái đó còn tuỳ ý mỗi người, có khác biệt. Người, thì đề cao nghĩa cử của ông bố. Kẻ, lại cho rằng như thế cũng không đúng luật Đạo. Có vị lại nói: đây chỉ là bản sao chép minh hoạ Tình Cha Nhân Hiền, được kể trong dụ ngôn “Người Con Hoang”, ở Kinh Sách.
Nghe truyện, có bạn của bần đạo, lại bàn thêm về đích điểm của linh hồn, sau khi chết. Chí ít, là nỗi chết do chính mình định đoạt. Có vị, cứ thích trích và dẫn các đoạn sách Tin Mừng, để thêm một lần nữa, cắt nghĩa chốn miền rộng/hẹp của thiên đường, đại loại như:

“Hãy qua cửa hẹp mà vào,
vì cửa rộng và đường thênh thang
thì đưa đến diệt vong,
mà nhiều người lại đi qua đó.
Còn cửa hẹp và đường chật
thì đưa đến sự sống,
nhưng ít người tìm được lối ấy.”
(Mt 7: 13-14)

Và từ đó, có người cũng lại kết luận bằng lời Kinh khác, vẫn còn nhớ:

“Quân bị nguyền rủa kia,
đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời,
nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và các sứ thần của nó.
Vì xưa Ta đói, các ngươi đã không cho ăn;
Ta khát, các ngươi đã không cho uống;
Ta là khách lạ, các ngươi đã không tiếp rước;
Ta trần truồng, các ngươi đã không cho mặc;
Ta đau yếu và ngồi tù, các ngươi đã chẳng thăm viếng."
(Mt 25: 41-43)

Một số đấng bậc vị vọng, lý đoán rất cao siêu. Chữ nghĩa rất đầy mình. Vẫn tỏ lộ cho dân con nhà Đạo biết chốn miền mình đạt đến, sau khi chết. Tỏ và lộ, bằng các cụm từ khá cũ, như: hoả ngục. Địa ngục. Chốn luyện hình. Tức, những ngục và ngục. Và, dẫn chứng bằng sách giáo lý hội thánh, như: “Giáo huấn Hội thánh khẳng định, là: có hoả ngục. Và, hoả ngục kéo dài đến vĩnh cửu.” (GLHTCG #1035)
Ở đoạn khác, Sách Giáo lý cũng trích thêm:

“Những người chết trong tình trạng tội lỗi mà không chịu sám hối và nhận lãnh tình Chúa thương yêu, chắc chắn sẽ bị ly cách khỏi Đức Chúa đến muôn đời. Việc ấy, là do mình chọn lựa. Và, tình trạng tự mình ly cách không còn hiệp thông với Chúa và với các thánh trên trời, còn gọi là hoả ngục.” (GLHTCG #1033)

Có cụ khác lại phản bác các ý kiến trên, bằng một biện luận: làm sao Đức Chúa Hiền Lành và Nhân Từ như thế, mà Ngài lại có thể giáng phạt loài người bằng hình thức là đưa họ vào chốn lửa lào, đến vĩnh cửu, được? Đối lại ý kiến này, một cụ khác lại biện giải: Chúa chả bao giờ nghĩ ra việc tống khứ con cái mình vào chốn lửa bỏng, rất hoả ngục được. Đúng hơn, Ngài muốn mọi người được cứu rỗi mà nhận ra được Sự Thật, như thánh Phaolô từng viết:

“Chúa muốn mọi người
được cứu độ
và nhận biết chân lý.”
(1Tm 2: 4)
Và:

“Ơn của Thầy đã đủ cho anh,
vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trọn vẹn
trong sự yếu đuối.
Thế nên tôi rất vui mừng và tự hào
vì những yếu đuối của tôi,
để sức mạnh của Đức Kitô ở mãi trong tôi.”
(2Cr 12: 9)

Các cụ nhà mình chứng minh như thế, thì có kẻ nào lại dám “há miệng” nữa đây chăng? Quả thật, bần đạo đây cũng chỉ dám nói mỗi một lời, là: Không dám đâu! Vấn đề là, Kinh và Sách khi nói về chốn tù đày lửa bỏng, hay quê miền để luyện hình, vẫn đều không mang tính không gian và thời gian. Mà, chỉ nói về tình trạng ly cách, chẳng còn được hiệp thông với Chúa. Với người anh em trong Hội của các thánh, mà thôi.
Và, cụm từ “lửa đời đời”, “quân ác quỷ”, là ngôn ngữ khá hạn hẹp để diễn tả tình trạng hun đốt tâm can, do thiếu tình thương yêu đồng loại, mà ra. Tình trạng đó, ngược lại tình huống có lửa bừng bừng khí thế ngày Thần Khí Chúa đến, hôm Ngũ Tuần. Cả hai, đâu có chung cùng một thứ lửa! Đằng khác, với Chúa, làm gì có thứ lửa vật chất hun khói thịt gan của con người.
Lời Chúa qua ý/từ của Phaolô thánh nhân trích ở trên, tưởng cũng đủ để người đọc thấm nhuần được tinh thần của lời Kinh “Chúa muốn mọi người được cứu rỗi và nhận biết Chân Lý”. Và Chân Lý Ngài muốn mọi người lĩnh hội, đích thị là “Tình yêu giải thoát nhân trần”, trong đó có cả người phạm lỗi. Về Sự Thật “Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu”, thánh sử Gioan còn nói rõ:

“Hỡi các bậc phụ huynh, tôi viết cho anh em:
anh em biết Đấng vẫn có từ lúc khởi đầu.
Hỡi các bạn trẻ, tôi viết cho anh em:
anh em đã thắng ác thần. “
(1Ga 2: 13)

Để minh hoạ quả quyết của các thánh, có lẽ cũng nên về với truyện kể nhè nhẹ, nhưng rất thấm. Ngõ hầu thư giãn sau những giờ phút ngẫm suy rất căng thẳng.

“Truyện rằng:
Người hành khất nọ, đến trước cửa nhà một người giàu có để ăn xin. Chỉ một xu nhỏ, hay vụn bánh, vẫn là những gì người hành khất trông chờ ở người giàu. Tuy nhiên, mặc cho hành khất khốn khổ van lơn, người giàu kia vẫn ngoảnh mặt làm ngơ . Kịp đến lúc, ông không còn chịu nổi lời van xin của người hành khất nữa, thì thay vì bố thí cho xong chuyện, người giàu đã lấy hòn đá ném vào người hành khất khốn khổ.
Hành khất buồn, bèn cúi xuống nhặt hòn đá cho vào bị, rồi thầm thì trong miệng: “Ta mang theo hòn đá này cho đến ngày ngươi sa cơ lỡ vận, rồi sẽ biết. Ta sẽ dùng nó để ném trả lại nhà người…”
Đi đến đâu, hành khất nghèo cũng mang theo hòn đá ấy làm kỷ vật. Tâm hồn ông luôn mang hận thù tựa lửa hoả ngục.
Năm tháng trôi qua, lời chúc dữ của hành khất nghèo đã thành hiện thực. Vì biển lận, người giàu kia bị tước đoạt hết tài sản, lại còn bị tống giam vào ngục thất. Hôm ấy, hành khất nghèo chứng kiến cảnh người ta áp giải người giàu có, đến ngục tù. Nỗi hờn căm sục sôi trong lòng, ông bèn men theo đoàn người áp tải, để xem tiếp. Tay ông không rời hòn đá nhỏ mà người giàu nọ từng ném vào người ông cách đó hơn chục năm. Ông dự tính ném trả hòn đá ấy vào người tù, để rửa mối nhục thù hằn in dấu vết nơi tâm can. Cuối cùng, thấy gương mặt tiều tụy đáng thương của kẻ bị nạn, hành khất nghèo bèn buông thả hòn đá xuống đất rồi tự nhủ: “Sao ta cứ phải mang hòn đá này từ bao nhiêu năm trước? Còn người này, giờ đây cũng chỉ là một con người khốn khổ như ta, mà thôi!” (Ngụ ngôn của Léon Tolstoi)

Sau khi kể lại truyện tích trên, người kể còn thêm một câu kết rất đẹp: “Tha thứ là điều khó nhất, nhưng cao cả nhất, trong đời người.” Bần đạo ngồi ngẫm nghĩ thấy cũng lạ. Có thứ tha nào mà không là điều cao cả? Chí ít, là những tha thứ do Đấng Cao Cả từng bảo ban.
Từ suy tư ấy, bần đạo bèn thiển nghĩ: hành khất trên, chắc đã từng sống tâm trạng ngục thất với ngục tù suốt nhiều năm? Chí ít, là khi ông cưu mang hận thù suốt đời mình. Cưu mang rồi, mới nếm mùi Thiên quốc với Nước Trời một khi dám vứt bỏ mọi hận thù đằng đằng, vẫn mang bên lòng, rất nhiều năm.
Vẫn biết thế, nên hôm nay bần đạo theo thói cũ mà ê a bài ca của nghệ sĩ trên vừa mới hát:
       
“Nhớ những đường về sương rơi mịt mùng
Mắt biếc là màu riêng tôi lạnh lùng.
Thương cho người về cô đơn với bóng,
Mây chiều lạc loài đã xuống, với thu mênh mông.”
(Thanh Trang – bđd)

Ê a một lời ca, là để ta sẽ không còn thì giờ mà biện luận, cùng cãi tranh. Ai hơn ai thiệt. Ai đúng ai sai. Nhưng, hãy cứ “thương cho người về cô đơn với bóng” . Cô đơn, trong một tình huống. Lẻ bóng, trong cả lập trường mình bận tâm. U hoài. Thời đương đại.

Trần Ngọc Mười Hai
Có luận và có phiếm
cũng chỉ để kiếm tìm
một Sự thật cho riêng mình.

2.  “Kẻ thù ta đâu có phải là người”
“Giết người đi thì ta ở với ai?”
(Phạm Duy – Kẻ Thù Ta)
(1Cr 6: 19 )
    Ấy thế mà, các cụ Đạo nhà ta xưa kia vẫn cứ kể ra, những là ba thứ kẻ thù: ma quỷ, thế gian, và xác thịt. Ma và quỷ, dù có là kẻ thù dữ dằn nhất, đâu nào thấy. Còn thế gian, là bạn và tôi, sao là thù! Và hơn thế, nếu xác thịt là những thịt thà cùng xương xẩu của tôi và của bạn, mà là kẻ thù ư? Nếu vậy, tại sao các thánh lại cứ bảo đó là “Đền thờ Chúa Thánh Thần”?
    Thôi thì, hôm nay, hỡi tôi và bạn, ta cứ thử đi một vòng phiếm sương sương đôi ba sợi để về với “đền thờ” và cái-gọi-là “kẻ thù thứ ba” xem sao. Và, nay thì mời bạn/mời tôi, ta hãy ngâm nga ba câu hát của nghệ sĩ già từng quả quyết, rất như sau:

            ”Kẻ thù ta tên nó là gian ác
Kẻ thù ta tên nó là vô lương
Tên nó là hận thù
Tên nó là một lũ ma (thế thì).”
(Phạm Duy – bđd)

    Nếu thế thì, “kẻ thù ta” trước hết và trên hết, phải là “lũ ma” chứ? Nhưng, ma là gì? Là, thân xác ư? Là “đền thờ Chúa Thánh Thần” chăng? Là gì đi nữa, hãy cứ để đó, hạ hồi sẽ rõ. Nay, bạn và tôi, ta lại hát thêm đôi ba chữ rất “kẻ thù”, như định nghĩa của người nghệ sĩ trên, vẫn từng hát:

            “Kẻ thù ta mang áo mầu chủ nghĩa
Kẻ thù ta mang lá bài tự do
Mang cái vỏ thật to
Mang cái rổ danh từ
Mang cái mầm chia rẽ chúng ta (thế thì).”
(Phạm Duy – bđd)

    Vâng. Ba thù hoặc kẻ thù thứ ba, mà khi xưa các cụ cứ cho là thân xác, nó vẫn mang cái vỏ thật to. Lại dựa vào hai chữ “tự do”, nên tha hồ làm. Tha hồ, mà chăm sóc, để rồi biến nó thành thứ gì đó rất ghê gớm. Cũng đáng yêu và đáng sợ, như sự thường.
    Về yêu thương những kẻ thù, rất thứ ba, cũng nên kể cho nhau nghe một truyện kể, như sau:

            “Truyện rằng:
Tại trại xe điện ngầm Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn vào buổi sáng tháng giêng lạnh lẽo năm 2007, một người đàn ông đàn liên tục 6 tấu khúc của Bach trên cây đàn vĩ cầm trong 45 phút . Ước chừng hơn 2000 người qua lại trạm xe điện ngầm trong khoảng thời gian đó và hầu hết những người ấy đều trên đường đi làm. Sau ba phút, một người đàn ông trung niên nhận ra là có người đang chơi nhạc. Ông ta chậm bước và ngừng chân trong vài giây rồi lại hối hả theo thời khắc biểu đã định sẵn.
Bốn phút sau, người đàn vĩ cầm nhận được đồng tiền đầu tiên: một phụ nữ vừa đi vừa liệng tiền vô cái nón mà không hề ngừng lại. Phút thứ sáu: một thanh niên trẻ dựa vào tường và lắng nghe tiếng đàn,sau đó liếc nhìn đồng hồ đeo nơi tay và bước đi. Phút thứ mười: một bé trai khoảng 3 tuổi đứng lại nhưng bị mẹ lôi đi vội vã. Cậu bé trì lại và nhìn người chơi đàn lần nữa. Dù bị mẹ kéo đi, cậu bé vẫn luôn ngoái đầu nhìn. Nhiều đứa bé khác cũng quay đầu nhìn như thế và không cha mẹ nào lại không nhanh chóng kéo con mình đi cả. Bốn mươi lăm phút đàn không ngừng, chỉ có 6 người thật sự dừng hẳn lại và lắng nghe trong một lúc. Khoảng 20 người cho tiền mà vẫn tiếp tục bước đi. Người chơi đàn nhận được tất cả là 32 đô la.
Sau một giờ, người đàn ông chấm dứt, thôi đàn và không gian trở nên im vắng. Không ai để ý. Không ai vỗ tay khen và cũng chẳng có ai lưu tâm. Nhưng không một ai biết điều này, người chơi đàn vĩ cầm đó là Joshua Bell, một cầm thủ lẫy lừng trên thế giới. Với cây đàn vĩ cầm trị giá trên 3 triệu rưỡi đô la, Joshua Bell đã đàn lên những tấu khúc tuyệt vời mà không ai có thể viết hay hơn được nữa. Hai ngày trước đây, Joshua Bell đã trình diễn ở Boston, nơi mà giá trung bình là 100 đô la một vé và nhạc viện bán sạch không còn dư một vé nào.

Đây là một câu truyện thật: việc Joshua Bell lặng lẽ chơi đàn tại trạm xe điện ngầm được báo Washington Post sắp xếp để xem cảm xúc con người trong xã hội như thế nào, họ nhận thức và lựa chọn ra sao…Câu hỏi được đặt ra là tại nơi chốn thông thường trong giờ giấc không thuận lợi cho lắm, liệu chúng ta có nhìn ra được tài năng với bối cảnh không ngờ, và liệu chúng ta có nhận thức được cái đẹp và ngưng lại để thưởng thức nó hay không ?

Có thể kết luận về chuyện này như sau: Nếu chúng ta không có thì giờ ngừng lại một chút để lắng nghe người nghệ sĩ lừng danh trên thế giới đàn những tấu khúc mà không ai có thể chơi hay hơn được nữa trên một cây đàn có những âm thanh tuyệt vời nhất thì chúng ta sẽ còn mất mát và bỏ qua bao nhiêu thứ tốt đẹp khác nữa trên cõi đời này….

    Có thể câu truyện ở trên, chưa nói hết đuợc ý nghĩa thân xác là đền thờ của Thiên Chúa”. Thì đây, đích thị lời thánh Phaolô, vẫn cứ quả quyết:

            “Hay anh em lại chẳng biết rằng
thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao?
Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em
là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em.”
(1Cr 6: 19)
   
    Tiếp đến là một đề nghị, cũng từ thánh nhân rất Phaolô:

            “Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa
nơi thân xác anh em..”
(1Cr 6: 20)

    Với thánh nhân, thân xác là đền thờ, chuyện ấy quá rành rành. Với người đời, thân xác còn là cái gì đó để ta quan tâm mà đề cao, với trân trọng. Còn nhớ, lực sĩ người Việt khi xưa nổi tiếng với những bắp thịt cuồn cuộn. Với những “đường cong tuyệt mỹ” là Võ Thành Nhơn, từng khích lệ mọi người hãy chăm lo cho thân xác qua khẩu hiệu “Bắp thịt trước đã”. Tiếp đến, các nhà quảng cáo thương mại, lại đua nhau sáng chế ra thành ngữ nổi cộm như: “Dáng em khoẻ cần hơn cả”, “Tấm thân ngọc ngà là chính hồn em”, vv…khiến nhiều người bắt đầu thái quá đến lạc hướng. Sai đường. Thay vì lo cho linh hồn, lại chỉ chú trọng đến những xác và thịt, thôi.    
    Là con dân nhà Đạo, chắc bạn và tôi, ta cũng nên nói lại cho đúng, rằng: thân xác con người dù quan trọng thật, vì nó giúp ta những ăn cùng thở và suy nghĩ, nhưng vẫn không là tất cả. Và, hiểu theo nghĩa nào đó, thì: nó vẫn chẳng là gì. Đẹp/xấu cũng chỉ một thời, rồi thôi. Quan trọng hơn, nó chỉ là phương tiện để ta có kinh nghiệm gặp gỡ Chúa. Gặp, những người sống quanh ta. Kinh nghiệm, là những kinh và nghiệm về một hoạt động của thể lực. Kinh và nghiệm, là những “nghiệm” và
"kinh” liên kết thể xác với người mình thương. Kinh và nghiệm về đớn đau. Về, sự yếu đuối của chính mình, để rồi từ đó mới biết trân trọng quà tặng, Chúa tặng ban.
    Thật tình thì, mỗi người nhìn thân xác theo cung cách khác biệt. Có người nhìn nó như chú chó lông xù rất đáng yêu. Có người lại coi đây như tài sản quý giá đáng trân trọng và chăm sóc. Chăm và sóc, không chỉ bằng các phương tiện của đời phàm. Hoặc, để tối ngày soi gương mặt giếng mà chiêm ngưỡng dung nhan, như thần Narcissus vẫn thường làm.
    Thật ra, thì thân xác là chính con người. Những con của người, có cả xác thể lẫn hồn thiêng được Chúa yêu thương hun đúc thành hữu thể sống động, mà sống với Chúa. Có Chúa ở cùng. Xem thế, thì thân xác không phải là kẻ thù, mà là mình. Là, bạn thân của chính mình. Là, bạn của Chúa. Bởi, chính Chúa đã chấp nhận mang thân phận “người” có xác phàm vào với Ngài, gồm cả hồn xác. Về ý tưởng này, nghệ sĩ trên đã minh định:

        “Kẻ thù ta đâu có ở người ngoài
Nó nằm đây nằm ngay ở mỗi ai
Kẻ thù ta trong mắt thèm lơ láo
Kẻ thù ta trong góc đầu tự kiêu
Trong cõi lòng quạnh hiu
Trong óc hẹp tiêu điều
Trong giấc mộng xâm chiếm nhau.”
(Phạm Duy – bđd)

    Xem thế thì, nghĩ đi và nghĩ lại, thân và xác ta đâu là kẻ thù đếm thứ 3. Quan trọng hơn cả, thân xác không chỉ mang “ảnh hình” Thiên Chúa, thôi. Mà, còn được đính kèm cả hồn thiêng nữa. Nói cách khác, thân xác là ta. Là, Chúa ở nơi ta. Bởi, Chúa có thương yêu/tôn trọng ta, Ngài mới ban cho con người của ta một thân xác. Ngõ hầu, xác thân ấy sẽ phản ánh/chiếu soi ảnh hình Ngài. Thân xác ta, không chỉ là đền thờ Chúa thôi, mà còn là “nhà” Chúa. Là nơi để Chúa đến mà trú ngụ. Chúa đến, mà thăm viếng. Thở than. Râm ran, nhiều tình tự.   
    Bởi, thân xác là ta, nên Kinh Sách vẫn tỏ cho ta biết đường mà kính trọng. Biết đường, mà đánh giá cao. Biết, để mình dùng thân xác mà vui hưởng cuộc đời như vui chơi, ăn uống. Biết tồn trữ nơi mình của ăn thức uống, rất ê hề. Thân xác, là quà tặng ta trao cho nhau, khi hai người trở nên một. Một gia đình. Tình nhân. Qua hôn phối. Để rồi sẽ “tương kính như tân”. Tôn và kính, như tặng phẩm Chúa kiến tạo. Tặng ban. Phân phát. 
    Một trong những đặc điểm của thân xác vốn là quà tặng Chúa ban, là vẻ đẹp hiếm quý, mỹ miều. Đẹp, cả ở bên ngoài lẫn bên trong. Đẹp bên trong, rồi sẽ tiết ra ngoài. Có vậy mới đáng giá. Có vậy, quà tặng mới mỹ miều. Đó cũng là điều mọi người cần nuôi dưỡng, cảm tạ. Cảm kích để tạ Ơn Trên. Cảm kích và tri ân người khác đã giúp đỡ, sẻ san. Ngõ hầu quà tặng diễm kiều do Chúa gửi đến, sẽ cứ thế đẹp lên mãi.
    Nói cách khác, vẻ kiều diễm của thân xác là tặng phẩm Chúa phú ban, không chỉ để ta sung sướng/hưởng thụ cho riêng mình. Mà, vì nó đẹp cả trong lẫn ngoài, nên mỗi người và mọi người cũng nên sẻ san với người khác. San và sẽ, để rồi tất cả sẽ cùng nhau cảm tạ và ghi tạc Ơn Trên đã ban phát những thứ ấy cho ta. Cho người.
    Nói theo kiểu nghệ sĩ ngoài đời về kẻ thù ở trong lẫn ngoài người mình, là còn nói và hát rằng:
   
        “Kẻ thù ta đâu có ở người ngoài
Nó nằm đây nằm ngay ở mỗi ai
Người người ơi, yêu mến người mãi mãi
Người người ơi, yêu mến người không nguôi
Yêu mến người đầy vơi
Yêu mến người đêm ngày
Yêu mến người, ta nắm tay…”
(Phạm Duy – bđd) 

    “Yêu mến người”, “ta nắm tay”, là những tình tự rất dễ thương. Tình tự để nói và hát về kẻ thù, tựa như người nghệ sĩ vẫn cứ hát như thế. Hát, để rồi sẽ còn yêu kẻ thù mình như người nhà Đạo! Hát những câu trên, thật ra chưa hẳn là đường hướng của tôi và bạn, ở trong đời. Nhưng vẫn cứ là câu hát rất ưu tư khiến bần đạo lại muốn gửi đến bạn bè người thân thêm lời nhắn nhủ, rằng: hãy cứ từ từ mà kiếm tìm một lập trường rất phải lẽ. Không có gì gấp gáp. Chỉ gấp một điều, là: hễ gặp điều gì khiến mình suy tư lo nghĩ ở đâu đó, thì xin bạn/xin tôi hãy cứ mạnh dạn mà hát và nói lên lời người nghệ sĩ già họ Phạm từng nói và hát, rất như sau:

        “Kẻ thù ta, đâu có phải là người
Giết người đi, thì ta ở với ai ?
Kẻ thù ta, đâu có phải là người
Giết người đi, thì ta ở với ai ?
Người người ơi, thương xót người nhỏ bé
Người người ơi, thương xót người ngây thơ
Thương xót người bị mua
Thương xót người bị lừa
Thương xót người thương xót ta.”
(Phạm Duy  - bđd)

    Và, hát thế nghĩa là: chẳng cần biết thân xác, thế gian và ma quỷ có là kẻ thù hay gì gì đi nữa, chẳng cần hiểu kẻ thù ta có đáng gờm hay không, ta cứ xin. Xin được như người nghệ sĩ cứ ngâm nga ba câu hát ở cuối bài mà kết thúc. Kết rồi thúc, để biết rõ chính mình hơn. Kết là kết như thế này:

“Kẻ thù ta, đâu có ở người ngoài
Nó nằm đây, nằm ngay ở mỗi ai
Kẻ thù ta, tên nó là vu khống
Kẻ thù ta, tên nó là vô minh
Tên nó là lòng tham
Tên nó là tị hiềm
Tên, nó là sự ghét ghen.”
(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Đúng thế. Chỉ ghét ghen mới là kẻ thù truyền kiếp của con người. Suốt mọi thời. Bởi, nó nằm ngay bên trong thân xác của ta. Bởi thế nên, ta mới ngộ nhận về thân xác! Vậy thì, hỡi tôi và hỡi bạn, ta cứ ngợi ca/yêu thương kẻ thù ở nơi thân-xác-là-đền-thờ-Chúa-ngự, để rồi ta sẽ sẻ san mọi ưu tư mà giùm giúp, với quyết tâm. Quyết sẽ thắng. Chứ không thua.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn suy nghĩ nhiều về
“Kẻ thù ta”, và kẻ thù của mọi người.
    Để rồi, sẽ hát lai rai hát dài dài vài ba câu bên dưới:

            “Kẻ thù ta đâu có phải là người
Giết người đi thì ta ở với ai?
Kẻ thù ta đâu có ở người ngoài
Nó nằm đây nằm ngay ở mỗi ai!...
Kẻ thù ta…


3. “Năm xưa, khi tôi bước chân ra đi,”
“Đôi ta cùng đứng bên hàng tường vi.
Em nói rằng em sẽ chờ đợi tôi,
Đừng nói tiếng phân ly.”
(Hoàng Quý – Cô Láng Giềng)
(1Cr 6: 19)
    Lại nói thêm một lần nữa, “Em” đây vẫn không là “Em” của tôi, khi em nói: “Em sẽ chờ”. Và tôi đây, cũng chẳng là đấng bầy “tôi” hôm nay, đâu đấy nhé! Bởi giờ đây, hôm nay, “tôi” đây cũng đã khác nhiều. Khác, là bởi vì: bây giờ tôi đã biết. Biết rằng:

            “Tan mơ, trời xuân đôi môi thắm.
            Đôi mắt nhung đen màu hạt huyền.
            Làn tóc mây chiều cùng gió ngàn, dâng sóng.
            Tan vỡ cuộc tình duyên.”
            (Hoàng Quý – bđd)

    Một lần nữa, lại thêm câu nói: đôi mắt của tôi đây, vẫn cứ “nhung đen mầu hạt huyền”, thật rất đúng. Thật hơn nữa, cả vào lúc: “tan mơ, trời xuân đôi môi thắm”. Cả vào khi “tan vỡ cuộc tình duyên.” Tình của tôi. Của em. Của mọi người, rày có vỡ tan/tan vỡ vì toàn thân tôi/thân em, nay cũng khác. Khác xưa, rất nhiều. Khác, cả một nỗi: người người vẫn nhìn tôi/nhìn em suốt nhiều hồi, cũng đâu nhận ra. Bởi, tôi và em, nay xem ra thế nào ấy. Bởi, toàn thân em/thân tôi bây giờ cứ lủng lẳng những khoen vàng vòng xanh trắng. Có “vân cẩu” vần vũ, với trăng sao. Bởi, mình tôi/mình em và mình người trẻ bây giờ, những đeo mang đủ mọi hình thù, khiến người nghệ sĩ khi xưa lại hát thêm:

            “Hôm nay, trời xuân bao tuơi thắm,
            Dừng gót, phiêu linh về thăm nhà.
            Chân bước, trên đường đầy hoa đào rơi.
            Tôi đã, hình dung nét ai đang cười.”
            (Hoàng Quý – bđd)

    Nét ai đang cười. Người có cười, đâu phải vì họ muốn hân hoan, chào đón một ai đó. Dù người đó, có là em. Mọi người cười, có thể vì vẫn nghĩ: tôi và em, nay như thể từ hành tinh nọ chợt bay đến. Mọi người cười, có thể vì hôm nay, vẫn nghe hát:

            “Cô láng giềng ơi!
Nay mối duyên thơ đành đã lỡ rồi.
Chân bước xa xa dần, miền quê.
Ai biết cho bao giờ, tôi về...”
(Hoàng Quý – bđd)

    Vâng. “Nét ai đang cười” mà tôi “hình dung (được)”, có thể là nét của em. Của, cô láng giềng ngày xưa ấy, cũng rất quen. Có thể là, của cộng đoàn buổi xa xưa thời tôi sống, nay mỗi người mỗi vẻ, vẫn cứ nhìn tôi/nhìn em bằng dáng vẻ xót xa. Cách biệt. Dị kỳ. Dị và kỳ, đến độ bạn bè gặp lại ai cũng hỏi. Cũng đưa ra một nhận định, như bạn Đạo nọ đã thẳng thắn phát biểu một cách công khai, như sau:

“Mấy năm gần đây, tôi thấy nhiều người lạ cũng như quen, dám cả gan vi phạm chốn “đền Chúa Thánh Thần”, rất trân trọng. Điều tôi muốn nói, là: ý chừng thiên hạ nay chẳng còn coi truyền thống đạo đức ra trò trống gì hết. Cái gì mà: trên mình họ, cứ “tòong teng” đủ mọi thứ. Nhìn thật kỹ, lại thấy có người còn vẽ đủ mọi hình thù xanh/đỏ, coi rất chướng. Vẽ thế rồi, lại còn phô trương khu vực kín đáo của thân mình có hình thù kỳ dị cho mọi người coi, thế có chết không. Hỏi ra mới biết, đó là nét “xâm mình” mà họ cho là tuyệt phẩm nghệ thuật, ở trên người. Thú thật, bản tôi cứ phải kêu lên: nghệ thuật đâu không biết, riêng tôi vẫn nghĩ là: các vị này vô hình chung đã đụng chạm vào truyền thống đạo đức nhân vị, của con người. Mà, một khi đụng chạm như thế, trước sau gì cũng sẽ bị Trời Phật quở mắng/trách phạt, cho coi. Vậy, ai có con có cháu vẫn đua đòi theo kiểu Tây/kiểu Mỹ, hãy coi chừng kẻo chúng sẽ xa rời lẽ Đạo.” (Phát biểu của một chị đạo đức rất Vêrônica trong buổi họp bàn chuyện nhân gian, sau giờ kinh tối lần hạt chung)

    Là buổi họp mặt góp ý sau kinh tối, nên các vị nói ở đây có nhiều thứ để kể cho nhau nghe. Có vị nọ, có dáng dấp rất trí thức, đã xin mọi người quay về giòng lịch sử xưa cũ để xem xét những chuyện dễ có khunh hướng chạm vào truyền thống đạo đức của Đạo mình, ngõ hầu mọi người được yên tâm. Vị ấy bảo rằng:
           
“Tập tục vẽ hình trên thân thể, người xưa gọi là “xâm mình”, có từ thời cổ sử. Tôi nhớ, vào năm 1991 người dân ở nước Ý và Áo Quốc gì đó đã tìm ra một xác đông lạnh nằm trên núi tuyết có lịch sử lâu đời đến 3,300 năm trước Công nguyên. Trên thân xác người này, các nhà khảo cổ tìm thấy những hình xâm vân cẩu, rất lạ kỳ. Ở giữa hình, có cây thập tự với 6 đường cắt ngang. Có đường, dài tới 15cm.

Nhiều nhà khảo cổ khác cũng đã tìm ra ở Ai Cập, một số xác ướp có niên đại lên tới cả 2000 năm trước công nguyên, nữa. Ngay ở Ai Cập vào thời cổ sử, người ta cũng tìm ra xác của những người bị giam giữ có khắc tên của vị thần hoặc chữ Pha-ra-ô mà họ sùng bái.

Người Do thái cũng có một số tập tục liên quan đến chuyện sùng bái phụng thờ ngẫu thần của ngoại giáo. Cũng có tập tục rất lạ, không theo tập tục hoặc đạo đức của Do thái giáo. Vào thời Môsê, luật Do thái ngăn cấm chuyện vẽ hình lên thân xác con người nữa. Bản tôi có người bạn theo Tin Lành, một hôm, trong lúc đề cập đến chuyện này, anh ta nói với tôi là anh đọc sách Lêvi thấy có đoạn viết như sau: “Ngươi không được phép để những dấu cắt trên da thịt người chết hoặc có hình vẽ khó coi, trên thân xác của ngươi. Ta là Giavê Thiên Chúa nói với người điều đó.” (x. Lv 19: 28)  

    Chả là, câu chuyện bàn về những điều lạ trong thói quen giữ Đạo ngày hôm nay, nên bà con trong cuộc xem ra thấy quá hấp dẫn, bèn góp giọng cho vui, như sau:

“Theo tôi, con người được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa. Bởi thế, nên không ai được phép vẽ hình gì, dù chỉ một thánh giá nhỏ trên thân xác của mình hết. Nói cách khác, không chỉ mỗi hồn người được Chúa tạo dựng giống hình ảnh của Ngài thôi, mà cả thân xác mình nữa. Nếu con người là hình ảnh của Thiên Chúa, thì bọn mình lại càng phải tôn kính hình ảnh lành thánh ấy nữa chứ!”

    Nghe chuyện, một nữ lưu ra chiều am hiểu nhiều truyện được viết trong Kinh thánh, đã tham gia ý kiến, như sau:

“Đọc Sách thánh, tôi nhớ một đoạn trong đó thánh Phaolô viết cho bổn đạo của ngài rằng: Anh em có biết rằng thân xác của anh em là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự, hay không? Và anh em có được thân xác này, là do ân huệ Chúa ban không? Nếu vậy, anh em phải làm sáng danh Chúa bằng thân xác rất đáng kính trọng của mình chứ!”    

    Tham dự buổi đọc kinh tối hôm ấy, bần đạo chẳng dám đưa ra ý kiến nào hết, sợ mọi người cho rằng mình chẳng biết gì mà cũng thưa thốt, bởi thế nên hôm ấy thắng bé cứ là “dựa cột mà nghe”, thôi. Hẹn rằng, khi về nhà sẽ nghiên cứu thêm cho rõ, rồi sẽ hạ hồi tính lại. Nay nghiên cứu tuy chưa kỹ, bần đạo cũng đã biết, rằng: ở một số nước, tục lệ cắt da/xỏ thịt trên tai hoặc trên môi; hoặc tục vẽ lên thân người mình, là cách làm cho thân xác mình đẹp hơn lên. Có thể là, với nền văn hoá khác, những thứ ấy là để nói lên chức vụ/địa vị của người xâm/xỏ trong xã hội nhỏ của mình, mà thôi.
    Đằng khác, nhiều nơi cũng có y hệt một tập tục giống như thế. Họ làm thế, là cốt ý chống đối chuyện gì đó vẫn có, trong phong tục/tập quán của dân tộc. Nhiều nơi, nhiều bộ tộc, vẫn giữ tục lệ cắt da/xỏ thịt, để chứng tỏ cho mọi người biết lòng can đảm của họ. Hoặc, người ấy chỉ muốn thề nguyền sẽ tuân thủ điều gì đó, trước mặt thần linh mà họ sùng bái. Có người làm vậy, là do tật bạo dâm/khổ dâm, thôi. Nói cách khác, đó cũng chỉ là thói tục rất khác người, và khác đời, ít khi thấy.
    Có người còn duy trì phong tục/tập quán của bộ tộc, cứ thích vẽ lên người những hình thù quái đản, ghê rợn như hình quỷ hình ma, đầu lâu thần chết, hoặc cả đến hình thù Satan quỷ dữ, nữa. Nhất nhất, chỉ để chứng tỏ rằng họ không chịu thuần phục Thượng Đế hoặc vị thần dân tộc, mà bộ tộc cứ muốn du nhập vào xã hội.
    Nhiều tập tục của Tây phương còn tiến bộ đến độ xâm/xỏ nhiều nơi trên mặt trên mũi, trên mí mắt/miệng lưỡi, thậm chí cả những nơi thầm kín trên thân xác mình nữa. Có người lại cho đó là cung cách để phô bày nét độc đáo, mới lạ của mình. Họ muốn những gì thật khác người, dù hình thù ấy có dị hợm lạ kỳ đi nữa, cũng chẳng sao! Có vị lại muốn tỏ ra là mình có tự do. Vẫn làm chủ thân xác mình. Như muốn bảo với mọi người rằng: tôi muốn làm gì thì tôi làm. Làm, trên thân tôi chứ có xâm phạm thân mình của ai khác đâu mà sao cứ thắc mắc. Ai không thích, xin đi chỗ khác chơi, nhờ bạn tí!     
    Đành rằng, mỗi người mỗi ý. Nhưng nói cho cùng, cũng nên quan tâm đến sức khoẻ của mình và của người chứ! Có loại xâm/xỏ trên mặt/mũi hoặc bộ phận nào khác trên thân xác, dễ gây nguy hiểm cho sức khoẻ. Đâu phải cứ xâm/xỏ cho thoả thích, để rồi khi nào chán sẽ bôi bỏ, cũng dễ thôi. Có trường hợp, chủ nhân muốn bôi bỏ hình thù xâm/xỏ đã chết dí trên thân mình, lúc đó có không thích nữa, cũng quá trễ. Bởi có bôi bỏ cách nào đi nữa, cũng sẽ để lại vết sẹo hoặc phản ứng phụ, rất khó coi.
    Thật ra thì vấn đề này, cho đến nay, không thấy sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nhắc nhở gì đến chuyện ấy. Tuy nhiên, truyền thống trong Đạo, cũng tuỳ trường hợp, hoặc hoàn cảnh riêng biệt mà giải quyết. Thành thử, cuối cùng vấn đề vẫn là: chuyện mình làm, dù chỉ ảnh hưởng lên thân xác của riêng mình thôi, cũng liên quan đến người khác, trong nhóm hội cộng đoàn mình chung sống.
    Để vấn đề không trở nên bi quan, phức tạp cũng nên đi vào truyện kể nhè nhẹ, sau đây:

        “Truyện rằng:
Đệ tử nọ, một hôm cảm thấy đau khổ vì cha mẹ, bạn bè cứ chỉ tríchkhích bác những chuyện anh lỡ lầm vẽ vài hình trên thân xác của anh, lại coi đó như chuyện tày trời. Đổ sụp. Anh rất khổ, đến độ anh không bỏ được nỗi oán hờn, thù ghét cả bạn bè, lẫn người thân. Anh bèn tìm đến vị linh hướng lâu nay là người hiểu biết nhiều sự, vẫn giúp anh giải quyết chuyện riêng tư, theo cung cách dễ dàng. Nhẹ nhàng. Có tịnh tâm, suy nghĩ. Anh hỏi vị linh hướng một câu cũng nhẹ nhàng không kém:
-Thế, thày khuyên con phải làm gì bây giờ? Rũ bỏ nỗi ghen ghét, oán thù chăng?
Bậc thày linh hướng đáp:
-Anh hãy ngồi xuống mà tịnh tâm, và tha thứ cho những người ấy.
Ít hôm sau, đệ tử khổ đau tâm can, trở lại vấn kế một lần nữa. Anh thưa với thày:
-Dạ thưa thày, con đã thứ tha hết mọi người rồi. Kể như xong.
Nghe vậy, vị linh hướng lại nói tiếp:
-Như thế vẫn chưa xong đâu. Anh hãy về mà tịnh tâm. Mở lòng mình ra mà yêu thương hết mọi người. Cả những người đả kích/khích bác anh nữa.
-Thưa thày. Tha thứ thôi, đã là chuyện khó. Nay con phải thương yêu họ nữa sao? Thôi được, cứ để con cố gắng.
Tuần lễ sau, người đệ tử lại đến với bậc thày để vấn kế. Hôm ấy, anh tươi tỉnh khoe với thày mình là anh đã làm được việc thương yêu những người đối xử không phải phép với anh. Vị thày nghe vậy, bèn gật gù bảo:
-Như thế rất tốt. Giờ thì, anh hãy về cố gắng mà tịnh tâm, tri ân họ. Bởi, nếu họ không làm thế, thì anh đâu có cơ hội tiến bước trên con đường tâm linh với tâm tịnh.
Lần sau đó, người đệ tử trở lại với thày mình, lòng những tin rằng: lần này mình học được nhiều điều từ vị linh hướng rất biết điều, nên đã biết ơn mọi người, cả đến bạn bè người thân hoặc kẻ thù không ưa thích mình, và anh học được bài học tha thứ, lẫn yêu thương. Bậc thày linh hướng nghe anh kể, bỗng cười nhẹ nói:
-Vậy, anh hãy về mà tịnh tâm hơn nữa. Bởi, những người từng trách móc, chê bai hay ghét anh vì những việc anh làm, là họ đóng đúng vai trò của họ chứ có lầm lỗi gì đâu mà anh phải tha với thứ…”

    Thôi thì, tha thứ hay bỏ qua những chỉ trích của mọi người về việc mình hành xử khi lầm lỡ hoặc xâm/xỏ có cố ý hay không, cũng cứ nên về với tâm tình của người nghệ sĩ trên mà ngâm nga ba câu cuối, để rồi sẽ nhớ đến mình, đến người. Dù, người đó là cô/là cậu láng giềng này khác, vẫn cứ hát:

“Cô láng giềng ơi!
Thôi thế không còn nhớ đến tôi.
Đến phút êm đềm ngày xưa kia.
Khi còn ngây thơ.

Cô láng giềng ơi!
Tuy cách xa phương trời tôi không hề,
Quên bóng ai bên bờ đường quê.
Đôi mắt đăm đăm tìm phương về.”
(Hoàng Quý – bđd)

    Hát rồi, này bạn hãy cùng tôi, ta trở về với vị linh hướng/hướng linh hồn nào khác trong nhà Đạo, cũng nhẹ nhàng, trầm tĩnh, rất thiết tha, khi thánh nhân nói:

        “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em
là Đền Thờ của Thánh Thần sao?
Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em
là Thánh Thần chính Thiên Chúa ban cho anh em.
Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa,
vì Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em.
Vậy anh em hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân xác anh em.”
(1 Cr 6: 19-20)

    Vậy thì, một lần nữa, hỡi tôi và hỡi bạn, ta cứ bình tâm mà suy nghĩ về những lời của thánh nhân hôm trước, để rồi sẽ nhẹ nhàng nghe theo lời khuyên của các đấng bậc linh hướng rất chí thân, và cũng rất hiền. Để rồi, mọi người sẽ đối xử với nhau cũng nhẹ nhàng tình thân như xưa. Dù, người này người nọ, có làm những chuyện khó coi, như xâm/xỏ. Rất lạ kỳ. Dị hợm.
    Dù gì đi nữa. Tình thân thương của người anh/người chị trong cộng đoàn Nước Trời, ở trần thế, vẫn quan trọng hơn việc vẽ voi những hình thù dị hợm, của riêng ai. Nhận định như thế xong, bần đạo lại sẽ mời bạn mời tôi, ta hãy hát câu ca ý nhị của nghệ sĩ trên, hát rằng:

        “Cô láng giềng ơi!
        Tuy cách xa phương trời, tôi không hề.
        Quên bóng ai bên bờ đường quê.
        Đôi mắt đăm đăm chờ tôi về…”
(Hoàng Quý – bđd)

    Đúng thế. Hãy chờ tôi về. Dù, tôi mang hình thù thế nào đi nữa. Vẫn nhớ rằng:

        “Em nói rằng em sẽ chờ đợi tôi.
        Đừng nói đến phân ly.”
(Hoàng Quý – bđd)
 
    Phân ly hay chia cách, vẫn không là ý hướng của người anh/người chị chúng ta, nơi nhà Đạo.

        Trần Ngọc Mười Hai
        Vẫn xin mọi người
đừng nói tiếng phân ly,
cả vào khi tôi, khi bạn
đã lỡ lầm làm những chuyện xấu xa, lạ kỳ.
Rất dị hợm.

4. “Kể từ em, đem cô đơn mọc lên phố vắng”
“Khi em mang nụ cười khỏi đời.
Từng chiều rơi nghe như cõi lòng mình tê tái
Ngỡ như đời còn gọi tên nhau.”
(Từ Công Phụng – Tuổi Xa Người)
(Ga 12: 32)
    Đặt đầu đề cho nhạc bản mình vừa viết, mà tác giả lại gọi là “Tuổi Xa Người”, có quá đáng không? Bởi, tuổi người đâu có là linh hồn mà bảo xa với gần. Hoặc, tác giả đây muốn nói đến tình huống “cô đơn”, “tê tái”, một cõi lòng. Rồi lại bảo: “phố vắng”, “nụ cười”, “từng chiều rơi”, vv và vv.. Nếu là nhà Đạo, hẳn tác giả sẽ gán ghép tư tưởng ấy vào buổi nguyện cầu ngày Chay thánh, rất lễ tro?
    Thế nhưng, ngay sau đó, tác giả lại đã hát:

        “Ngày đó khi một lần, một lần tiếng hát
Đồng lõa đưa em vào vùng trời lấp lánh
Bằng những cánh sao trời đầy đôi mắt ngước trìu mến.
Em, em xa dần ngàn đời hoang vắng
tôi đi về buồn chưng kẽ tóc
bước chân này còn trọn kiếp hoang vu.”
(Từ Công Phụng – bđd)

    À thì ra, tiếng em ca hát, nhiều lắm cũng chỉ là: “đồng loã đưa em vào vùng trời lấp lánh”, với “cánh sao trời đầy đôi mắt ngước trìu mến.” Để rồi, em “xa dần ngàn đời hoang vắng”, và “bước chân này còn trọn kiếp hoang vu…” Ôi thôi là lời lẽ, những âm nhạc. Ấy đấy, là ý tưởng với hồn thơ.
    Mấy ngày nay, bần đạo cũng đi vào chốn “ngàn đời hoang vắng” có suy tư về những kiêng khem/tự kiểm, của mùa Chay. Gọi suy tư, là nói về những tư lự, rất suy và cũng nghĩ. Suy tư hay suy nghĩ về trạng huống chay kiêng, một tình tự cũng bôn ba, vương vấn, vẫn là tâm tư người nhà Đạo, như bầy tôi đây, lúc này. May thay, nhờ ơn Trên soi sáng, bần đạo nhặt nhạnh được đoạn chú giải của bậc thày đàn anh đã từng viết về động thái đúng đắn cần có vào chay mùa, như sau:

“Ngày nay phụng vụ Mùa Chay cũng không ngừng loan báo Tin Mừng. “Mầu nhiệm Vượt Qua”, “hình ảnh Con Chúa Phục Sinh” (lời nguyện làm phép tro). “Trên núi thánh, bày tỏ vinh quang Ngài (…) Ngài đã cho các môn đệ hiểu rằng phải trải qua đau khổ mới có thể đạt tới vinh quang Phục Sinh” (Tiền tụng Chúa Nhật II Mùa Chay) “dịp thanh tẩy tâm hồn và hân hoan đón mừng các mầu nhiệm Vượt Qua” (Tiền tụng Mùa Chay I); “Sức mạnh của thập giá chứng tỏ rằng thế gian đã bị lên án và quyền lực của Đấng bị đóng đinh nay được sáng ngời” (Tiền tụng Thương Khó I). “Đã gần tới những ngày Đức Kitô chịu khổ hình để cứu độ và sống lại vinh quang…” (Tiền tụng Thương khó II). Mùa Chay, hay lúc nào khác trong năm, thì Phụng vụ vẫn là xum họp quanh Chúa Kitô đã sống lại, “không còn chết nữa” (Rm 6: 4): người tín hữu không bao giờ còn phải ”đi tìm Đấng Sống giữa những người chết” (Lc 24: 5). Cách thức Vượt Qua, Vọng Phục Sinh mới cốt cách, tinh thần của cả Mùa Chay. (x. Nguyễn Ngọc Lan, Chủ Nhật Hồng Giữa Mùa Tím, Cơ Sở Hy Vọng 2002, tr. 156)”
    Hiểu được tinh thần của Mùa Chay theo chiều hướng ấy, hẳn bạn và tôi, ta sẽ hát:
           
“Một chiều êm tay đan tay dìu nhau trên lối
Đưa em đi nhè nhẹ vào đời.
Bằng vòng tay tôi nâng niu mùa thu thức giấc
Đưa em vào ngày tháng vỗ về”
(Từ Công Phụng – bđd)
   
    Vỗ về nhiều ngày tháng, hỡi bạn và tôi, ta hãy cứ “tay đan tay” dìu nhau mà đi. Đi vào đời, để thấy rằng đời mình/đời người, ai cũng gặp được ở đâu đó, những ý tưởng/ý hướng rất “trí lớn gặp nhau”, như sau: 
   
“Mùa Chay là thời gian dài đằng đẵng để mọi người chuẩn bị cho lễ hội lớn lao nhất trong năm Phụng vụ: Lễ hội Phục Sinh rất quang vinh của Đức Chúa. Lễ Hội Phục Sinh, đến lượt mình, chấm dứt Tam Nhật Vượt Qua, trong đó Hội thánh cử hành tưởng nhớ nỗi niềm khổ đau đến chết của Đức Kitô, để mang đến cho loài người, ơn cứu độ.
Vào mùa chiêm niệm rất Chay, hôm nay, ta tháp tùng Chúa qua đoạn đường khổ ải để cùng Ngài Sống Lại. Có làm thế, ta mới sống thực lời Ngài gọi mời ở Tin Mừng: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16: 24)
Mùa Chay, là thời gian để ta quan tâm tự hỏi: mình nên làm gì hơn thêm? hơn là tự nhủ “hãy nên từ bỏ những gì”. Nếu ta sống thực những điều như thế cho thật tốt, thì có lẽ cũng chẳng cần chờ đến Phục Sinh mới hưởng được niềm vui Chúa tặng ban.
Hiểu mùa Chay theo ý nghĩa đích thực là như thế, thì rồi đối với ta, mỗi ngày trong đời sẽ là Lễ Hội Phục Sinh kéo dài để ta càng gần gũi Đức Kitô hơn qua việc từ bỏ chính mình, bằng những nguyện cầu và động thái mến thương người đồng loại.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 28/2/2011, tr. 10)
“Tay đan tay, đi vào đời”, để rồi sẽ lại gặp giòng chảy khác, cũng ưu tư không kém về ý nghĩa của chay kiêng/nguyện cầu, rất như sau:
“Trong những ngày qua, tôi thường nghe những câu đại loại như: mùa chay này, ta nên từ bỏ hay hy sinh điều gì đây? Hoặc: ta sẽ làm gì để Mùa Chay này mang nhiều ý nghĩa? Người thì quyết tâm bỏ thuốc lá. Kẻ thì cố gắng bỏ uống bia. Người khác có ý định bỏ ăn đồ ngọt, vv. Nói chung, những ý ngay lành nói trên và những ước muốn hy sinh tương tự, cũng đều tốt. Tuy nhiên, các lực sĩ hay nhà thể thao không chỉ thực hiện những điều ấy trong mùa chay, thôi. Họ tập luyện và từ bỏ những gì cấm kỵ trong suốt đời mình. Vậy, ta phải làm gì cho xứng với yêu cầu của Mùa Chay?...
Thay vì đi tìm lời đáp cho câu hỏi: ta nên hy sinh/từ bỏ điều gì trong mùa Chay này, tôi nghĩ đến điều tích cực hơn, là: tự vấn xem mình sẽ làm thêm điều gì.
Nói đến việc chúng ta cần từ bỏ điều gì, vẫn có thể hiểu ngầm là ta có quyền trên điều đó. Rồi vì hy sinh, nên ta mới từ bỏ nó… Nhưng thật ra, ta có quyền gì đâu? Những gì ta có, đều do Trên ban. Trong các trình thuật kể về việc Chúa Giêsu tìm ẩn dật trong hoang địa, sa mạc không thấy nói đến việc Chúa từ bỏ. Tất cả những gì Chúa làm, là Ngài làm cho Thiên Chúa, Cha Ngài. Và từ đó, mối quan hệ giữa Ngài và Cha càng mật thiết hơn. Cả Hai như một vậy.
Từ bỏ thói hư tật xấu, là những việc làm đáng cổ võ, khích lệ. Nhưng, như thế vẫn chưa đủ. Vì, như nhành nho, chúng không chỉ bị tỉa mà còn phải đơm hoa kết trái nữa. Và, chỉ có ở trong Tình yêu và sự cộng tác của Thiên Chúa thì hoa trái mới sinh ra và tồn tại mãi.” (x. Lm Giuse Mai Văn Thịnh, CSsR,  Chay Mùa Đã Đến, www.giadinhanphong.blogspot.com 10/3/2011)

    Nói thế, là nói khác người nghệ sĩ cũng từng đi. Nghệ sĩ đi, không nhất thiết phải “tay đan tay” đi vào cuộc tình có những điều cần thêm hay bớt. Mà là: đi vào cuộc tình có thi ca/âm nhạc, lời chưa vui:

            “Một mình đi, lang thang trong mùa đông rét mướt
nghe bơ vơ hồn mình, lạc loài
Buồn dậy lên, trên dung nhan gầy xanh của tuổi
trên tháng ngày hằn vết đời mình.

Trời mùa Đông, hong khô đi niềm tin sỏi đá
trên đôi tay này mình còn gì.
Và giòng sông, trôi đi vô tình mang tất cả
cuộc đời này, của người hay tôi.”
(Từ Công Phụng – bđd)

    Ở giòng sông cuộc đời, vào trời Đông, tuy “hong khô niềm tin sỏi đá”, nhưng đâu nào đã vô tình “trôi đi”, “mang tất cả, của người hay tôi”, được. Bởi, cả khi Ngài sắp sửa ra đi, Chúa vẫn quả quyết rằng:
  
            “Và Ta,
một khi Ta được giương cao khỏi đất,
            Ta sẽ kéo mọi người lại với Ta.”
            (Ga 12: 32)

    Xem thế thì, khi được “giương cao khỏi đất” rất Chay kiêng, là lôi kéo cuốn hút mọi người về lại với Ngài. Về với Tình yêu thương, như Chúa nói. “Giương cao khỏi đất”, để hiểu rõ hơn ý nghĩa của chay kiêng/nguyện cầu, rất đợi “Giờ”. Đợi “Giờ”, là ý nghĩa khác nữa của Chay kiêng rất thánh thiêng như nhận định của bậc thày đàn anh, từng bày tỏ:

“Mùa Chay là mùa Vọng Phục Sinh. Mùa đợi “Giờ”. Không lạ gì ngày Thứ Sáu Thánh, ngay sau khi công bố tường thuật thương khó, Hội thánh tôn vinh thập giá và với lòng tin cậy hứng khởi, lạc quan tràn trề. Hội thánh dâng lời cầu nguyện cho từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, cho khắp bàn dân thiên hạ, không trừ một ai. Ngay trên thập giá hạt giống đang sai hoa lắm quả và Chúa Kitô đang kéo mọi người lại với Ngài.” (x. Nguyễn Ngọc Lan, Chủ Nhật Hồng Giữa Mùa Tím, Cơ Sở Hy Vọng 2002, tr. 171)

    Đợi “Giờ” đây, là đợi chờ “Giờ” cứu độ từ Chúa, rất Phục Sinh. Nếu Chúa không Phục Sinh, thì cũng chẳng ai cần đợi đến thế. Chẳng có gì, để phải chờ như vậy. Đợi “Giờ” đây, là đợi chờ để có được một biến đổi. Biến đổi, từ tro bụi thành tình huống có sự sống mới. Sự sống đã phục hồi nhờ vào lửa Phục Sinh của Chúa. Biến đổi, từ trạng thái vỡ đổ/tàn lụi, thành tình huống biết dựng xây. Bồi đắp. Từ trạng thái nô lệ đoạ đày sang tình huống có tự do con cái Chúa. Từ suy sụp/gãy đổ sang hoà giải/đỡ nâng. Từ tình trạng chết chóc cảnh huống sinh động. Sinh động, có lửa cháy bừng bừng sức sống, Chúa đỡ nâng.
    Độ dài mùa Chay kiêng là một biến đổi rất kéo dài. Dài, những 40 ngày. 40 ngày, của đại hồng thủy. Của, lưu lạc nơi sa mạc. Của, thời gian dân Do thái cầu mong Môsê tiếp xúc với Giavê Thiên Chúa để rồi Ngài sẽ đỡ nâng. 40 ngày dài, khiến ngôn sứ Êlya cứ phải lang thang đây đó. 40 ngày dài/năm tháng, là thời gian chính Giôna đã loan báo việc Ninivê bị hủy diệt. 40 ngày dài, là thời gian Chúa chấp nhận thử thách/cám dỗ nơi sa mạc. Và, 40 ngày dài, là thời gian để mọi người thay đổi chính con người mình, tận thâm căn. Biến đổi, để tái sinh. Sống lại. Biến đổi thành người mới, Chúa ở cùng.      
      Và, dù gì nữa, 40 ngày Chay kiêng biến đổi, sẽ không làm mọi người khô khan, chán nản. Sơ cứng. Nhưng vẫn kiên trì đủ như lời ca của nghệ sĩ từng hát:

            “Ngày đó khi một lần, một lần tiếng hát
Đồng lõa đưa em vào vùng trời lấp lánh
Bằng những cánh sao trời đầy đôi mắt ngước trìu mến…”
(Từ Công Phụng – bđd)

    Cuối cùng thì, 40 ngày chay kiêng/biến đổi là tháng ngày đưa ta về với “cánh sao trời”. Với, “đôi mắt ngước trìu mến” của mẹ hiền, là Đức Kitô. Tháng ngày ấy, phút giây này, vẫn cứ là buổi chay kiêng rất tâm tịnh; ở đó, có ánh sáng vui tươi nhè nhẹ như truyện kể, để thư giãn, rất như sau:

“Alexander là vị vua vĩ đại. Trên đường khải hoàn sau khi chinh phạt nhiều nước, ông ngã bệnh. Thời khắc ấy, những vùng ông chiếm được, quân đội hùng mạnh, thanh gươm sắc bén và giàu sang không còn mang ý nghĩa gì với ông nữa. Ông nhận ra rằng: cái chết sắp sửa đến; và ông sẽ không về kịp với mảnh đất quê hương mình.
Ông bảo các sĩ quan dưới trướng rằng:
-Ta sắp sửa rời bỏ thế gian này. Ta có ba nguyện ước. Các ngươi phải thực hiện những gì ta bảo. Các vị tướng tuân lệnh trong nước mắt dầm dề.
-Nguyện ước đầu tiên của ta, là: hãy bảo thầy thuốc mang hòm rỗng của ta về một mình.
 Sau khi cố hít thở một hơi, Alexander lại nói tiếp:
-Ước nguyện thứ hai của ta, là: hãy rải vàng bạc châu báu trong kho của ta suốt dọc đường đến tận nấm mồ của ta khi các ngươi mang quan tài ta ra nghĩa địa”.
Sau khi quấn mình trong áo khoác và nghỉ ngơi một lúc, ông nói tiếp:
-Nguyện ước cuối cùng của ta, là: hãy đặt 2 bàn tay ta ra ngoài cỗ quan tài.
Mọi người quanh ông đều tò mò, nhưng không ai dám hỏi lý do tại sao thế. Vị cận tướng của Alexander hôn đôi bàn tay ông rồi hỏi:
-Tâu đức Vua, hạ thần sẽ làm theo mệnh lệnh của Ngài. Nhưng xin Ngài có thể cho hạ thần biết tại sao Ngài lại muốn bề tôi làm như vậy?
Sau khi gắng thở một hơi dài, Alexander trả lời:
-Ta muốn mọi người hiểu được ba bài học mà ta học được. Nguyện ước thứ nhất cốt để thầy thuốc đưa cỗ quan tài về một mình, là cho người ta nhận ra rằng các thầy thuốc không thể nào thực sự chữa bệnh cho con người được. Chí ít, là khi con người đối diện với cái chết, thầy thuốc đều bất lực. Ta hy vọng mọi người sẽ học ra được bài học này, là: biết trân quý sự sống của chính họ. Nguyện ước thứ hai của ta, là để nhắn mọi người rằng: không nên bắt chước ta theo đuổi giấc mộng làm giàu. Nếu ta bỏ cả một đời chạy theo sự giàu sang phú quý, ta sẽ lãng phí hầu hết thời gian quý báu của chính con người. Nguyện ước thứ ba của ta, là để người đời hiểu rằng: ta đến thế gian này với hai bàn tay trắng và ta sẽ rời thế gian này cũng với hai bàn tay trắng, mà thôi.
Nói xong ông nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng, ra đi rất thanh thản.”
 
    Thế ấy, là kinh nghiệm của vua quan/lãnh chúa, về cuộc đời có nỗi chết. Thế ấy, là lời bàn rất “Mao Tôn Cương” của người kể để nói về những tháng ngày ròng rã khổ đau. Âu sầu. Buồn bã. Những tháng ngày dài của cuộc sống, rất đời thường. Những 40 ngày đêm chuyên chăm nguyện cầu. Những ngày tháng có cuộc sống rất bức bách. Luôn tự vấn về những hành xử của chính mình, suốt cuộc sống, dưới ánh sáng của Phục Sinh, quang vinh. 
Cuối cùng thì, sống đời người cho có nghĩa, sẽ làm bạn làm tôi biết hy vọng vào những ngày vui. Vui, như Phục sinh mới. Vui, vì đã tìm ra cứu cánh cuộc đời, dù vẫn còn chìm đắm trong thương đau. Phiền muộn. Bởi, đau thương/phiền muộn rồi cũng sẽ qua đi. Sẽ, chẳng bao giờ kéo dài mãi, đến thiên thu. Bởi, Đức Chúa đã khẳng định với những kẻ quyết đi vào trầm lặng, rất Chay kiêng, rằng:

“Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất;
còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này,
sẽ giữ được sự sống đời đời.”
(Ga 12: 25)
 
    Bởi thế nên, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cứ nên hy vọng và tin vào lời Chúa hứa. Hãy cứ thực hiện Lời Ngài, mỗi ngày trong đời. Cứ sống niềm vui Phục Sinh, giữa Mùa Chay kiêng, để rồi, tự khắc sẽ thụ hưởng tương lai mai ngày, rất ngời sáng.

    Trần Ngọc Mười Hai
    Tự thấy nên nhắc nhở mình
    nhắc nhở người,
    về lời hứa của Chúa.
    Như Ngài từng dặn dò
bấy lâu nay.
   
5.  “Một ngày như mọi ngày, em trả lại đời tôi,”
“Một ngày như mọi ngày, ta nhận lời tình cuối.”
“một ngày như mọi ngày, đời nhẹ như mây khói,”
“một ngày như mọi ngqày, mang nặng hồn tả tơi.”
(Trịnh Công Sơn – Một Ngày Như Mọi Ngày)
(Mt 11: 25-27)
    Phải thế chăng? Chẳng lẽ ngày nào cũng như ngày nào sao? Nghĩa là, mỗi ngày đều vẫn phải cày? Vẫn cứ “lao động là vinh quang”, để kiếm gạo? Hay, ngày nào cũng như nhau? Cũng thấy “em trả lại đời tôi”? Trong khi, tôi lại cứ “nhận lời tình cuối”, thấy “đời nhẹ như mây khói”, “mang nặng hồn tả tơi”?
    Tả tơi hay tơi tả, trả lại đời. Thật buồn cười! Hỏi là hỏi thế, chứ bần đạo chỉ dám trả (một) lời, là: thật chẳng biết! Hoặc: “không dám đâu”! Duy có một điều, mà bần đạo biết rất rõ, là: đời sống nhà Đạo hôm nay lại cứ dẫn đưa ta về với tháng ngày không chỉ là “một ngày như mọi ngày”, mà là: những tháng ngày của “mùa thường niên”, rất loanh quanh. Mùa thường niên, còn là mùa mà nhà chú giải/suy tư tên tuổi rất nổi cộm ở Úc, Lm Richard Leonard, Dòng Tên đã có những lời trần (rất) tình, như sau:

“Có vô thường, bất thường hoặc phi thường cách mấy đi nữa, thì rồi ra ta cũng sẽ lại về với trạng thái rất bình thường bậc trung, của đời sống thường nhật. Sau nhiều tuần chộn rộn với những suy tư về Mùa Chay, Tuần Thánh, Phục Sinh, Hậu Phục Sinh, nay ta lại về với các chủ nhật quanh năm xảy đến rất thông thường, gọi là mùa thường niên.

Giống nhiều người, tôi rất thích những tuần có thánh lễ bình thường, là như thế. Bởi, đây là những khoảnh khắc trầm lặng trong niên lịch phụng vụ của Hội thánh Công giáo. Ở Bắc bán cầu, vào thời gian này, mọi nơi đang rơi vào một mùa có nắng ấm chói chang, là giảm nhịp sống để người người về với đời sống bình lặng, có ánh nắng. Trong khi đó, dân chúng ở Nam bán cầu, lại phải đụng mặt với cơn lạnh căm của mùa Đông mới chớm, đã lặng lẽ đi vào cuộc sống rất thường tình của “một ngày như mọi ngày”, rất hôm nay.

Lý do khiến tôi thích các chủ nhật thường niên là vì vào mùa này, phụng vụ đặt nặng giá trị lên sinh hoạt trầm bình, có nghi lễ rất quen thuộc, dễ đoán trước. Đây là mảng thời gian làm nên cuộc sống người tín hữu rất chuyên chăm với lễ lạy. Thử hỏi, nếu không có các chủ nhật thường niên kéo dài ngày, hơn nửa năm, thì làm sao ta có được các mùa lễ đặc biệt để mừng kính. Bởi, hết lễ trọng thể này lại đến nghi thức đặc biệt khác, thì người tín hữu hẳn sẽ phải lên cơn sốt vì cứ sinh hoạt dài dài, nhộn nhịp suốt.

Nói cách khác, sống đời thường mà ngày nào cũng tổ chức lễ lạy rất khác thường thì người người sẽ trở nên bất bình thường, hoặc rất lạ thường, tựa như người từ hành tinh lạ vừa chợt ghé. Rồi chợt đi, cũng chóng thôi.

Nói tóm lại, đã đến lúc ta nên về với tháng ngày có mùa lễ rất thường niên để mừng kính sự trầm lặng của cuộc sống tuy là thường nhật, những không tầm thường, hoặc khác thường chút nào.” (trích suy niệm Chúa nhật thứ 14 Thường niên, Lm Richard Leonard sj, ở Úc)

    Đến đây, hẳn là những bạn có tâm trạng bình thường như bần đạo, chắc rồi sẽ hỏi: có gì trùng hợp hoặc đồng bộ chăng về tư tưởng của nhà Đạo với người đời? Thiết tưởng, thay vì trả lời thẳng vào câu hỏi này, cũng nên nghe thêm đôi lời ca, câu hát, để thưởng thức:

            “Những sông trôi âm thầm,
            Đám rong rêu xếp hàng,
            Những mặt đường nằm câm,       
            Những mặt người buồn tênh.”
            (Trịnh Công Sơn – bđd)

    Rõ ràng là, đấng bậc nhà Đạo vừa trích dẫn ở trên vẫn chủ trương “về với tháng ngày thường nhật” để “mừng kính sự trầm lặng” trong cuộc sống ngày thường nhưng không tầm thường…” , thì nghệ sĩ ngoài đời lại kể về “những sông trôi âm thầm”, “mặt đường nằm câm”, “mặt người buồn tênh.”…
    À thì ra, cái bình thường của những ngày thường, qua đó có “một ngày như mọi ngày”, là nhà Đạo mình vẫn nhận ra được sự khác thường trong cái bình thường hoặc tầm thường của cuộc sống thường nhật, cũng rất thường.
    Nghệ sĩ ngoài đời, còn đi xa hơn, khi ông hát:

            “Sóng đong đưa linh hồn,
            Có mưa quanh chỗ nằm
            Mãi một đời về không
            Trong chập chùng thác nguồn.”
            (Trịnh Công Sơn – bđd)

    Hát thế rồi, người nghệ sĩ còn nhắn nhủ:

              “Một ngày như mọi ngày, đi về một mình tôi,
            Một ngày như mọi ngày, quanh đời mình chợt tối.
            Một ngày như mọi ngày, giọng buồn lên tiếp nối,
            Một ngày như mọi ngày, xe ngựa về ngủ say,”
            (Trịnh Công Sơn – bđd)

    Thật không xong rồi! Nghệ sĩ ngoài đời, dù nổi tiếng một thời, tài năng âm nhạc được nhiều người biết tới, nhưng mà sao ông vẫn cứ hát những là “đi về một mình tôi”, “Đời chợt tối”, “Buồn tiếp nối”? Như thế nghĩa là thế nào? Chắc hẳn, ông không được hạnh phúc cho lắm (?) chỉ vì ông không thuộc những người “tầm thường”, bé mọn mà Kinh Sách nhà Đạo đã trích dẫn ở thánh lễ Chúa Nhật 14 thường niên, hôm nay:

            “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, Con xin ngợi khen Cha,
vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái
biết những điều này,
nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.
Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha.”
(Mt 11: 25-26)

    Nói thế phải chăng ta bảo rằng: nghệ sĩ buồn là phải, vì nào được mặc khải những điều cao siêu mầu nhiềm về cuộc sống! Chí ít, là cuộc vui có tôi và có bạn. Có tất cả, vẫn về mừng kính sự sống rất chói sáng. Nơi mọi người.
    Chói và sáng hơn cả, vẫn là những điều được Đức Chúa bộc lộ/tỏ bày sự thật chỉ cho những người be bé, rất mọn hèn. Chúa mặc khải những sự rất thật, mà kẻ khôn ngoan ở đời có bật đuốc soi đèn, cũng không thấy. Nhưng, sự rất thật mà Chúa bộc lộ là những sự gì mà thật đến thế? Kẻ hèn mọn hôm nay, là những ai? Thánh sử Mátthêu, chỉ mới liệt kê một số người như thế, rất như sau:
   
            “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan
những điều mắt thấy tai nghe:
Người mù xem thấy,
kẻ què được đi,
người cùi được sạch,
kẻ điếc được nghe,
người chết sống lại,
kẻ nghèo được nghe Tin Mừng,
và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi." 
            (Mt 11: 4-5)

    Nghe biết Tin Mừng, trước tiên là nghe và biết Tình yêu cứu độ của Chúa, đã đổ xuống cho người trần. Ngài đổ xuống, không chỉ cho người khôn ngoan thông thái, kẻ giàu sang không thôi. Mà nghe biết Tin Mừng, là nghe và biết về Đức Chúa đã chấp nhập cuộc giáng hạ làm người hèn mọn, rất be bé. Sống “một ngày như mọi ngày”, giống mọi người.
    Nghe và biết Tin Mừng, là nghe và nhận biết những điều Chúa nhủ khuyên, thực hiện cuộc sống rất bình thường, giữa mọi người. Với người người. Nghe và biết Tin Mừng là biết được rằng Chúa thương yêu con người đến mức độ dám chấp nhận mọi khổ nhục trong cuộc sống. Cuộc sống rất tầm thường của người bình thường, để rồi sẽ chết nhục trên khổ giá, như tử tội.
    Nghe và biết Tin Mừng, còn là và nhất là biết và tin rằng Chúa đã trỗi dậy từ cõi chết, để rồi Ngài sẽ sống mãi với con người. Sống với kẻ nghèo hèn, bé mọn. Để, đỡ nâng họ. Đưa họ về với giá trị\của cuộc sống, rất hạnh phúc.
    Nghe và biết Tin Mừng, còn là nghe và chấp nhận bài sai Chúa đưa ra cho mọi người, vào phút cuối. Phút tạ từ ấy, có lời khuyên như sau:

            “Vậy anh em hãy ra đi
mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
làm phép rửa cho họ
nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.
Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế."
(Mt 28: 19-20)

    Nghe và biết Thần Khí của Ngài vẫn ở lại với ta. Thần Khí Chúa, được thể hiện qua sự Bình An, Chúa phú ban. Bình an ấy, được diễn tả trong một bài suy niệm khác, rất như sau:

“Là tín hữu Đức Kitô, có lẽ ta cũng nên cẩn thận về tình trạng cứ thế thi nhau bận rộn. Đành rằng sống ở đời, là phải biết dấn thân với thế giới. Bởi, có làm thế, cũng là nhận lĩnh quà tặng Trên ban xuống, vẫn cho ta. Thế nhưng, đôi lúc cũng nên xét lại xem tình trạng bận rộn của mình. Có thứ bận mà không rộn cho lắm. Hoặc có bận và rộn chăng nữa, cũng chưa hẳn là điều tốt. Có thể, bận rộn như thế chỉ mang ý nghĩa của một chối từ thứ gì đó. Hoặc, né tránh bổn phận này nọ, mà thôi.

Quà tặng Chúa ban cho mọi người, ở cuộc đời, là sự bình an. Thoạt nhìn, có thể có vị cho đó là chuyện không ổn. Và hơi lạ. Lạ ở chỗ, ai mà chẳng muốn bình an với an bình. Khổ nỗi, cuộc đời không cho phép mình được thư thái bình an, đến như thế.

Bình an Chúa ban, là những gì tốt đẹp nhất trong cuộc sống, rất đời thường. Nó là trạng huống tâm linh. Là, thói quen tạo được sau biết bao chọn lựa nhất quán và liên lỉ. Có người, cùng lúc làm rất nhiều việc, nhưng tâm hồn họ vẫn thản nhiên, an bình. Với họ, bình an là vấn đề của tâm linh, trí tuệ. Là, cung cách sống. Là, quyết thực hiện những gì Chúa bảo ban, khuyên nhủ, nhắc nhở.

Nếu biết rằng: cuộc sống của con người cũng mỏng dòn như bản chất của chính mình, ta sẽ đỡ vất vả hơn khi phải chiến đấu với nó. Và như thế, ta mới đạt tình huống biết thứ tha. Thứ tha, hết mọi người. Đồng thời, biết đón nhận sự tha thứ, từ nơi họ. Tha thứ, cũng là quà tặng quý giá Chúa trao ban, cho mọi người. Muốn có được sự bình an trong cuộc sống rất bình thường, thì phải chấp nhận đương đầu/giáp mặt với những gì mình không muốn thấy. Tức, những mong tránh né, khước từ.

Nhưng oái oăm thay, những điều ấy thường hay đi theo và kèm theo sự việc xảy ra hằng ngày trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Những đính kèm trong cuộc đời có thể là hành xử gây tổn thương cho người khác. Bằng cách này hay cách khác. Cũng có thể là kinh nghiệm về một buồn đau mà người khác vẫn đem đến cho ta.

Nói tóm lại, trừ phi ta biết tự tha thứ và tha thứ người khác, nhất là những người làm mình mất đi sự bình an trong tâm hồn, bằng không thì tình trạng những bận và rộn với xôn xao, náo động trong cuộc sống, sẽ để lại những dấu ấn, khó quên. Rất miên trường.” (trích suy niệm 12/6/2011 do lm Richard Leonard sj, viết, x. www.giadinhanphong.blogspot.com )          

    Xem thế thì, hỡi bạn và hỡi tôi, ta dù trải qua biết bao nhiêu là chộn rộn của “một ngày như mọi ngày”, hãy cùng tôi nghe thêm đề nghị cuối của đấng bậc từng trải nghiệm niềm đau tư riêng đến độ viết lời than trong cuốn “Where the Hell is God?” nhưng cũng nói lên một cảm nhận rất thấm thía rằng:

“Mong sao Tiệc thánh âm thầm mùa thường niên luôn nhắc nhớ, rằng: ta vẫn có thể cử hành Phục Sinh đổi mới cuộc đời mình bằng những sinh hoạt trầm bình hằng ngày, nơi cuộc sống quá ư là ồn ào, bận rộn. Cầu mong sao, cuộc đời thầm lắng trong những ngày thường giúp ta sẵn sàng để cho Tình Yêu Chúa biến đổi con người mình, hầu ta sống “một ngày như mọi ngày”, có thánh lễ thường niên. Quanh năm lặng lẽ nhưng không buồn tẻ, chán nản.”

    Chính đó là lời khuyên tốt đẹp, cho tôi và cho bạn. Suốt đường đời. Ở mọi nơi.

    Trần Ngọc Mười Hai
    Nay cảm kích
    một sự rất thật
    cho đời mình.
            
                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                          
6. “Bài thánh ca đó, còn nhớ không em?”
“Noẽl năm nào, chúng mình có nhau.
Long lanh sao trời, thêm đẹp môi mắt
Áo trắng em bay, như cánh thiên thần
Giọt môi hôn, dưới tháp chuông ngân.”
(Nguyễn Vũ – Bài Thánh Ca Buồn”

(1Ph 2: 16-17)
Sau gần 3 năm với chuỗi ngày dài những phiếm và phiếm, bần đạo phát giác ra được một điều để hỏi: suy và niệm, có phải để niệm suy? Chuyện Phiếm Đạo-Đời, có phải để suy niệm? Câu hỏi nay, một lần nữa, “trật đường rầy”? Và, Phiếm Đạo hôm rày, tưởng vẫn là truyện kể, để rồi phiếm. Phiếm và suy với niệm, có thơ văn, có nhạc nền rền một góc. Suy cho cùng, thì viết và lách, suy và niệm cũng chỉ để “phiếm”. Phiếm rất Đạo. Lạo xạo mấy chuyện đời có lời thơ để đời, như:

        “Cùng nhau quỳ dưới, tượng Chúa cao sang,
        Xin cho đôi mình suốt đời, có nhau.
        Vang trong đêm lạnh, bài ca Thiên Chúa,
        Khẽ hát theo câu, “Đêm Thánh Vô Cùng”,
Ôi! giọng hát em mênh mông, buồn.”
(Nguyễn Vũ – bđd)

Quả là, đời em dù đã sầu buồn cũng chẳng sầu đến độ lộ ra ngoài. Ở giọng hát. Đêm có thanh. Rất lạnh. Cũng đâu là “bài ca Thiên Chúa”, xưa em vẫn hát! Sầu buồn một nỗi, há có phải vì tình người lạnh tanh, trong hành xử, cả vào đêm Chúa giáng hạ. Thế mới chết! Chết ở chỗ: Tạo Hoá ban cho con người, những hai tai để nghe biết. Nhưng, chỉ một miệng, đế nói năng. Thế mà người người đâu biết áp dụng, cùng tỷ lệ! Để ăn và để nói!
Đời người, nay nhiều vị vẫn cứ nói và cứ giảng. Giảng cho người. Giảng cho mình, cả những điều đâu nào ai yêu cầu? Có yêu và cầu chăng, cũng chỉ cầu mỗi chữ “Yêu”! Cầu, là để có những “bài ca Thiên Chúa”, “trong đêm lạnh”. Yêu và cầu, chỉ mỗi thế, là để:

“Lời nguyện mình, Chúa có nghe không?
Sao bây giờ, mình hoài xa vắng,
Bao nhiêu đêm, Chúa xuống dương gian.
Bấy nhiêu lần, anh nhớ người yêu.”
(Nguyễn Vũ – bđd)

Thế mới biết, bà con/anh em lâu nay hát câu “mênh mông buồn”, là bởi: mình những yêu và vẫn cầu người người hãy cứ “suốt đời có nhau”. Yêu và cầu, để rồi “bao nhiêu đêm, Chúa xuống dương gian”, cũng chỉ để “bấy nhiêu lần” anh “nhớ người yêu”.
    Nhớ người yêu, em lại cứ thêm tĩnh từ “buồn”? Thành thử, “mỗi đêm Chúa xuống dương gian”, người vẫn buồn! Buồn rồi, mới hỏi. Buồn rồi, mới có lời đáp trả từ đâu đó, có thể từ Nguyễn Vũ “buồn” như sau:

“Dạo ấy, tôi chỉ là thiếu niên 14 tuổi hằng ngày đi lễ nhà thờ Con Gà (Đà Lạt). Sở dĩ tôi “siêng” đi nhà thờ đến vậy là vì tôi phát giác có một cô gái rất đẹp và...rất ngoan đạo. Hằng ngày cô vẫn đi lễ ngang qua ngõ nhà tôi.

Trái tim non nớt của đứa con trai mới lớn như tôi, thổn thức đến tội nghiệp! Đi theo cô suốt ba tháng, với 3 kilômét đi-về mỗi ngày, “mòn nhẫn” con đường nối liền nhà tôi và nhà cô ấy, gập ghềnh lũng đồi, như lòng tôi thấp thỏm ôm mối tình câm. Trầy trật mãi, tôi mới biết tên cô ấy là Th., hơn tôi 2 tuổi...

Cho đến một buổi chiều gần lễ Giáng Sinh, vừa tan lễ thì trời đổ mưa, cô nép vào một mái hiên trú mưa, tôi trú ké bên cạnh. Văng vẳng từ đâu đó, vọng ra bản thánh ca quen thuộc “Đêm Thánh Vô Cùng”, “Giây Phút Tưng Bừng”, “Đất Với Trời”, “Se Chữ Đồng...”

Th. đứng trú mưa và hát theo nho nhỏ. Thu hết can đảm, tôi đưa tay vuốt hờ lên những hạt bụi bám trên chiếc áo ấm của Th. Cô ấy nhoẻn miệng cười, nói: “Cảm ơn nghen!” và ánh mắt của cô cứ ám ảnh tôi mãi...

Tình yêu đơn phương, đến bây giờ người nhạc sĩ vẫn còn ôm ấp bằng hoài niệm. Bằng, ký ức đẹp để thành bài ca (x.www.nhacso.net/Music/Artist/2005/11/05F5F602).
    “Thánh Ca Buồn”, à thì ra là thế. Thánh Ca Buồn, có là “tình buồn” mà bạn và tôi, ta cứ tưởng có mỗi thế? Thánh Ca Buồn, tình đời của người thanh niên muốn làm thánh lúc ban đầu. Nhưng lại ngần ngại, để rồi thành tác giả lạnh tanh, nhưng nổi tiếng!!
“Thánh Ca Buồn”, có là tình buồn để bầu bạn bần đạo nhớ về một truyện kể ngày Chúa giáng trần, của hôm nay. Truyện, là truyện để kể. Cũng dông dài, lễ mễ như sau:

“Từ lâu, ở Đan Mạch, cứ vào độ tháng Chạp, người xem đài bất kể là có Đạo hay không, vẫn muốn biết về chuyện Đạo. Nên có thói quen theo dõi phim truyện nhiều tập ở truyền hình. Phim truyện dạo ấy, lại kể về Chúa-Giáng-Hạ-Làm-Người, kéo dài tận Giáng Sinh, linh đình lễ hội những 24 xuất chiếu.

Linh đình, là tình đã tỏ ở truyền hình Đan Mạch vào mọi năm. Những năm, có phim dài nhiều tập, cứ hoà trộn với văn hoá có tình tiết rất mới, nhưng cốt truyện lại y nguyên. Tình Giáng Sinh năm nay, như có chuyện gì đó xảy đến rất bất chợt, khiến người xem chẳng tài nào đoán trước sự việc sắp xảy đến. Phải chờ đến năm nay 2010, người dự khán mới thấy xuất hiện kịch bản khá ý nghĩa về một nhân vật thủ vai Giêsu Trẻ, thấy cũng lạ. Lạ hơn cả, là tựa đề “Giêsu và Diệu Sa, hai bé em”.

Giêsu và Diệu Sa, là trẻ đồng trang lứa. Cùng một ngày sinh, linh đình lễ tháng Chạp. Rất đẹp. Diệu Sa, là tên của bé em vốn ghét cay ghét đắng lễ hội Chúa-Giáng-trần. Đơn giản, chỉ vì Giêsu-Trẻ đã lấy đi mất sinh nhật vui nhộn của bé. Nên, dù còn nhỏ, bé cũng đã biết ưa và biết ghét. Ghét cả Giêsu bạn mình, chẳng muốn chơi chung. Đến khi gặp bạn lớn hơn, tên gọi là Diên Tử, cũng thù ghét Giáng Sinh, đến thê thảm. Diên Tử, tuy là bạn mới quen nhưng đã lang bạt kỳ hồ từ nhỏ, biết sáng chế máy du hành không gian, khá đặc biệt.

Diệu Sa gặp máy du–hành hình Máng Cỏ, được thiết dựng theo hình thái có ma lực ảo thuật, rất ít thấy. Ma lực của thiết bị có khả năng đưa người sờ chạm lãng du về chốn không gian vượt thời gian, không hạn chế. Hễ ai sờ vào thiết bị, đều có khả năng đi - về, từ Đan Mạch đến Galilê, đất miền đầu thế kỷ. Diệu-Sa rất thích thiết bị, vì nó có khả năng đưa bé đi đây đó mãi xứ miền của Giêsu-Trẻ Bé, hằng ngày. Bé Diệu Sa có thể ra vào đất miền văn minh tiến bộ, hoặc quê mùa thời tiên khởi, chẳng khó khăn gì. 

Một hôm, Giêsu Trẻ bất chợt sờ vào thiết bị hình Máng Cỏ, bỗng được máy du hành ghé thăm nhà thờ lớn/nhỏ ở Đan Mạch, mà Giêsu chưa một lần mục kích. Sau đó, lại còn đặt chân đến Galilê, đích thân gặp mặt một Giêsu Khác to lớn, chững chạc đang nằm chết trên thập tự. Giêsu-Trẻ muốn tìm hiểu Giêsu kia là ai, nên Trẻ Bé bèn hỏi han những người hiện diện quanh đó, đến độ thiên hạ cứ tưởng Giêsu Trẻ là bé bất thường. Bèn, đưa vào bệnh viện tâm thần, để chữa trị. May thay, Diệu Sa kịp thời đến cứu và Giêsu Trẻ vội dùng máy du hành về lại quê nhà.

Diệu Sa tự hỏi: giả như Giêsu Bạn Mình cứ sống đời bình thường như mọi người, đâu cần Đạo giáo với thập giá làm gì cho thêm mệt! Để, mọi người phải sống đời khổ hạnh, đạo đức, rất nhiêu khê?                         

Diệu Sa nghe Diên Tử thuyết phục bằng lý lẽ trần tục, đã bắt đầu nghi ngờ nhà thờ, cùng Chúa Mẹ. Nghi ngờ cả sự hiện hữu thánh thiêng, của mọi Đấng. Bắt chước Diên Tử bạn hiền, bé bắt đầu chẳng tin gì chuyện tốt/xấu, với thần thánh. Vẫn sống kiểu vật chất như mọi người ở Đan Mạch. Bé, còn tưởng tượng thời vô tính, con người chẳng cần tên tuổi mà chỉ dùng con số, để phân biệt thôi. Và, mọi người vẫn cứ làm việc và làm việc như cỗ máy theo lệnh của chủ-nhân-ông luôn giấu mặt. Từ đó, lại cho rằng Đan Mạch là đất miền trần gian/trang trại của các thần rất điên và dễ chết như tên của bạn hiền, Diên tử. Và Diệu Sa, nay nghĩ: mẹ mình thật có lý khi bà cứ coi Đan Mạch là chốn ngục thất trần gian, rất bất hạnh. Chính vì thế, năm nay thiên hạ sẽ không tổ chức hội Giáng Sinh, linh đình. Hấp dẫn. Như năm trước.   

Diệu Sa trở về kể cho Giêsu-Trẻ nghe biết về con người đích thật. Về, cách thức người xứ Đan Mạch cư xử với nhau không khác nào địa ngục, ở dưới thế. Giêsu-Trẻ nghe kể mà chẳng hiểu Diệu Sa muốn nói gì. Về nhà, lại nhớ về người đàn ông nằm chết trên thập giá, cũng cùng tên. Giêsu-Trẻ chìm vào giấc điệp lạ, qua đó bé thấy mình cũng trùng tên trùng tuổi. Cũng sinh ra ở Bét-Lem, như Đấng Bậc trùng tên kia. Trong giấc điệp, Giêsu –Trẻ thấy mình cũng lớn lên trong âm thầm. Cũng chết trên thập tự, mà mọi người đều nghe biết. Trong phút chốc, Giêsu-Trẻ quyết chối bỏ, không chấp nhận những điều lạ lùng như thế. Bé chỉ muốn trở thành tay “giác đấu” to lớn, khoẻ mạnh ở hý trường Côlôxêum, thời La Mã. Giêsu-Trẻ chối bỏ căn cước người Tử tội cùng tên vốn đã chết trên thập tự, thời buổi trước.

Lại một giấc điệp khác trờ đến với Giêsu-Trẻ. Với giấc điệp này, Giêsu-Trẻ lại gặp chính mình, qua hình hài Người Đàn Ông lực lưỡng, rất chững chạc. Người Đàn Ông ấy nói với Giêsu-Trẻ: Ta chính là ngươi đó. Nhưng, Ta sẽ không có mặt ở cõi trần, vì ngươi chẳng muốn trở thành như Ta, mà chỉ muốn làm tay giác đấu người La Mã, mà thôi. Nghe vậy, Giêsu-Trẻ bèn thổ lộ: Tôi đây nào muốn chết đứng trên thập tự, từ bao giờ? Người Đàn-Ông to lớn là Giêsu trong mộng nghe vậy bèn nói: Đúng! Nhưng, nếu ngươi không là Ta, thì kìa những người không mặt, không tên lại nghèo hèn, họ đang bị các chủ-nhân-ông, ở Đan Mạch, chèn ép chẳng thể nào có được hy vọng cho tương lai, mai ngày hết. Hãy đứng dậy mà sống và làm điều gì đó, cho họ. Rất có thế, đám ăn trên ngồi chốc ở trên kia đang tìm cách bắt ngươi, đem đi giết. Họ cũng treo ngươi trên khổ giá, là thập tự. Chính đó là việc ngươi cần làm. Hãy hy sinh, để họ được hạnh phúc.

Giêsu-Trẻ suy nghĩ rất nhiều về điều ấy. Đến một hôm, Giêsu-Trẻ bèn chạy đến với máy du hành vượt thời gian trở lại Đan Mạch. Lần này Giêsu-Trẻ yêu cầu Diệu Sa cho mình gặp những người nghèo, vô vọng. Cả những người lê la đầu đường xó chợ đang lê lết ở các nẻo đuờng của xứ Đan. Và Giêsu-Trẻ đã gặp họ. Nên đã hiểu. Và đã thương yêu. Giêsu-Trẻ đặt tay lên máy du hành vượt thời gian do Diên Tử sáng chế, khởi đầu hành trình đi Galilê. Ở nơi đó, Giêsu-Trẻ trưởng thành dần. Vội vụt đứng, mà đi đến với người nghèo hèn, cặn bã của xã hội Đan Mạch. Và cũng từ đó, Giêsu-Trẻ bị người đời bắt đem đi giết chết trên khổ giá vì dám chống lại cung cách họ đòi sống. Giêsu-Trẻ kể cho Diệu Sa nghe hết hành trình tuyệt vời ấy. Diệu Sa hỏi: thế bạn có chấp nhận được như thế không? Giêsu Trẻ nói: Dĩ nhiên là có. Bởi, nay Tôi đã hiểu nên đã thương yêu hết mọi người. Nên Tôi mới làm như thế, để họ sống. Kể từ đó, Giêsu-Trẻ trở về với Người Cha yêu quí. Rất mãn nguyện” (tóm tắt kịch bản của phim tập, ở Đan Mạch)

    Truyện kể về một Giáng Hạ, kể cũng lạ. Lạ hơn nữa, vẫn là vấn nạn của người nghe kể thường vẫn hỏi: truyện ngày lễ như thế, xem ra không khá hơn gì mấy những tín điều trong Đạo. Phải chăng những truyện trong Đạo cũng mang dáng dấp nặng nề, lê thê của bản kịch tập phim dài, chuyên che đậy trạng thái “Thánh Ca Buồn”? Nói rõ hơn, thì: “chuyện ngàn năm mây bay” ở chốn này, có là kịch phẩm người xưa viết, không còn hấp dẫn nữa không? Hoặc, cuộc đời đi Đạo của người thời đại, nay có thấy gì vui đâu?          
    Kể cũng lạ. Giáng sinh là lễ vui mà sao cứ gọi “Thánh Ca Buồn”, khiến người người cứ là hát:

        “Rồi những đêm thánh đường đón Noẽl,
        Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu.
        Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối,
        nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn,
        “Đêm Thánh Vô Cùng” lạnh giá hồn tôi…”
        (Nguyễn Vũ – bđd)

    À thì ra, “lạnh giá hồn tôi”, là như thế. Ừ đúng rồi, tín điều buồn/chán rất có thể. Có thể, là có thể rằng: sở dĩ nhà Đạo mình cứ nghĩ rằng: tín điều/lời khuyên từ Hội thánh gồm nhiều chữ “Phải!” Có thể, là có thể rằng: tín hữu Chúa, vẫn cứ quên những lời khuyên từ bậc thánh hiền, hiểu rất rõ:

        “Anh em hãy hành động như những người tự do,
không phải như những người lấy sự tự do
làm màn che sự gian ác,
nhưng như những tôi tớ của Thiên Chúa.
Hãy tôn trọng mọi người,
hãy yêu thương anh em,
hãy kính sợ Thiên Chúa,
hãy tôn trọng Vua.”
(1Ph 2: 16-17)

    Hãy “yêu thương anh em”, và đừng coi đó như chữ “Phải”. Bởi, đó mới là thiên đường. Là, chốn phúc hạnh của lễ hội cũng rất vui. Là, niềm khát khao của người trần. Bởi, thiên đường đích thị là trạng huống cao cả nhất, của hạnh phúc. Hạnh phúc có đó, là cho con người. Hạnh phúc, chỉ có nghĩa khi con người biết “yêu thương anh em”. Yêu trong tự do. Thứ tự do không bị che khuất bởi những tối tăm của “gian ác”. Dù, người đời gọi đó là niềm vui chất ngất, ngày đại lễ. Và, niềm vui tự do chỉ xuất hiện khi con người biết “kính sợ” Thiên Chúa. Biết “tôn trọng” Vua.   
    Niềm vui thiên đường, luôn vượt quá khả năng của ngôn ngữ. Của những bài ca, ngày hội lễ mà người viết nhạc gọi là “Thánh Ca Buồn”. Thế nên, thiên đường ngày đại lễ đâu thể nào để ta coi đó như nỗi niềm chán ngán, rất tín điều. Thiên đường ngày đại lễ, chẳng bao giờ là ngày tháng dài, một nối tiếp cả. Thiên đường là bể tình yêu thương. Là, hạnh phúc miên trường, như Đức Giáo Chủ Bênêđíchtô 16 từng định nghĩa:

“Cuốc sống vĩnh cửu -chốn thiên đường- là trạng huống ta đắm chìm trong biển tình yêu thương vô bờ. Là, khoảnh khắc lúc đó –cả lúc trước lẫn về sau- không còn thấy xảy ra nữa. ta chỉ có thể bắt chụp một ý tưởng để thấy rằng khoảnh khắc như thế trong cuộc sống tràn đầy ý nghĩa của những ngụp lặn cứ lặp lại mãi đến thiên thu trong tính chất mênh mông, của hiện hữu. Khoảnh khắc, trong đó ta chỉ bị thoáng ngợp vì vui sướng.” (x. Hiến chế Niềm Hy Vọng Cứu Rỗi, # 12)      

    Với một định nghĩa rất như thế, quả là: không còn chỗ cho các sự kiện được định danh bằng tĩnh từ “chán/ngán”. Chán sao được, khi người người thấy mình lúc nào cũng vui cũng tươi, đầy hy vọng. Chán sao được, khi hy vọng nay chan hoà khắp chốn. Khi vui tươi, càn quét rất kiên quyết. Nếu còn chán, ta lại vội hát lời ca hôm trước của nhạc sĩ buồn họ Nguyễn, rất như sau:

        “Rồi mùa giá buốt cũng qua mau,
        Lời hẹn đầu ai nhớ dài lâu.
        Rồi một chiều áo trắng phai mầu,
        Em qua cầu xác pháo bay sau…”
        (Nguyễn Vũ – bđd)

    “Xác pháo bay sau”, ở đây, có thể là pháo nổ vào ngày cưới. Nhưng ai bảo, không thể là xác pháo vui mừng ngày Chúa Giáng Trần chứ? Thôi thì, ngày nào thì cũng được, miễn cứ là ngày kéo dài nhiều vui tươi, chan hoà hạnh phúc. Hạnh và phúc, của đất trời trong/ngoài nhà Đạo, những là lạo xạo một truyện kể để thư giãn. Buông lỏng. Ngồi rung đùi mà thưởng thức, cũng gọn nhẹ:

        “Truyện rằng:
Giáng sinh năm ấy, một ngày rất chán trong đời người bạn trẻ không biết làm gì cho qua đêm, bèn lang thang chốn phố phường mìền tịch liêu, bèn chứng kiến một sự kiện.
Sự kiện là: hôm ấy, bạn trẻ thấy cô gái nọ lẳng lặng đứng trên cầu, vào giờ “G” buổi tối đêm 25, chừng như đang chuẩn bị để nhảy xuống sông Tiền, định tuẫn tiết (?)
Người bạn trẻ đi qua thấy thế, liền hỏi:
-Bộ, cô dự tính trầm mình dưới giòng sông, mà tự vẫn hay sao thế?
-Đúng vậy, em đang có ý định đó! Có gái trả lời rồi quay lại nhìn người vừa gạn hỏi.
Thấy cô gái khá xinh đẹp mà lại có ý định trầm mình tự vẫn thế, chàng trai liền yêu cầu cô trao tặng một nụ hôn để đời, trước khi cô tự vẫn. Không ngần ngại, cô gái liền đồng ý. Thế là, đôi bên liền có nụ hôn ngọt ngào, hiếm quý. Lợi dụng tình thế, chàng trai cố kéo dài thời gian hy vọng sẽ thuyết phục để cô gái đổi ý. Và, câu hỏi vỏn vẹn, chỉ một câu:   
-Cô xinh đẹp và đáng yêu như thế kia, sao lại muốn tự vẫn?
-Dạ bố em cứ mắng rầy: tại sao em chỉ thích ăn mặc …như con gái?!? “

    Cũng rất may, truyện kể có thể: chỉ là chuyện hư cấu. Tức, kể để mà kể cho qua đi cơn buồn chán, dù rơi vào ngày lễ hội. Ở đây, hôm nay, phải chăng ta lại đã “phát giác kinh khủng” thêm một sự rất thật, rằng: sở dĩ có buồn chán, đâu vì ta cứ suy và nghĩ những chuyện mang tính giáo điều, hoặc tín lý. Chán và buồn, có lẽ chỉ vì ta cứ quên đi những câu chuyện cười “huề vốn”, chẳng chết ai, như đời thường vẫn cứ gặp.
    Vậy thì, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cứ thế mà thề nguyền: nhất quyết không buồn và không chán nữa. Vì, đã nhận ra được chân lý ở lời khuyên, rất như trên. Từ đấng thánh, rất Phêrô, rằng: “Hãy hành động như những tôi tớ của Thiên Chúa…” Biết “tôn trọng mọi người”. Và “Yêu thương anh em.”  Vì tình thương chắc chắn sẽ giải thoát con người, khỏi nỗi chán. Của cuộc đời. Con người.

    Trần Ngọc Mười Hai
    Nay đã nhận ra
    lời khuyên rất mặn mà,
    của đấng thánh, sẽ không chán.
    Dù, chán đó có là chán đời.
    Chán Chúa. Hay, chán Hội thánh.
    Con người.

7.  “Ừ thôi em về, chiều mưa giông tới”
“Bây giờ anh vui, hai bàn tay đói”
“Bây giờ anh vui, hai bàn chân mỏi,”
“Thời gian nơi đây…”
(Trịnh Công Sơn – Cuối Cùng Cho Một Tình yêu)
(1P 5: 7-9)
Bàn tay “Em” có đói, hay có mỏi. Chiều mưa, giông có tới hay chỉ là cơn mưa cuộc tình của người mình, thì linh hồn rỗi cũng rất vui. Vui, với “thời gian nơi đây”,“Tình yêu xứ này”. Thế đấy, là tình tự mà dân con nhà Đạo rày vẫn có vào ngày mừng kính Mình Máu Chúa, rất Thánh Thể.
Thật ra thì, bạn cũng như tôi, ta nào dám nghĩ: nhạc bản trên lại có thể “ăn khớp” với ý nghĩa của ngày Lễ rất thánh được. Thế nhưng, bản thân bần đạo, sao vẫn thấy như có điểm nào đó cũng rất gần. Cũng, liên quan đến đời mình, ở huyện nhà. Thành thử, có “Ừ thôi” hay “Ừ nhỉ”, cũng chỉ để nói lên rằng “Cuối Cùng (rồi) Cũng Cho Một Tình Yêu” thôi.
Vâng. Quả có thế. Cuối cùng ra, mọi sự, ta cũng chỉ dành để: “Cho Một Tình Yêu!” thôi. Tình đó là tình yêu dấu, có Đức Chúa. Chứ, đâu chỉ mỗi tình người, tuy là tình lai láng rất số lượng. Và, phẩm chất. Như, tính chất cũng rất “tình” của mẹ hiền cứ gọi con đến gần mình rồi bảo: “Mẹ yêu con lắm!” Phải chăng, đó còn là ý nghĩa của “Cuối cùng, cho một Tình Yêu”, rất nhà Đạo?
Về Tình Yêu, hay “Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu”, là về tình tiết, rất “kể lể”, như truyện kể ở bên dưới, cũng để cười. Cho vui:

“Truyện rằng:
Ba đồng nghiệp nọ cùng làm chung một sở. Hôm ấy, thấy hứng vì vừa trúng một vụ cũng kha khá. Cả ba rủ nhau ra Nhà Bè lai rai một bữa cho thoả thuê tấm lòng những căng cùng thẳng do công việc, mãi kéo dài. Họ gồm một nhân viên tiếp tân, một thư ký đánh máy và vị trưởng sở. Vừa đến nơi, một trong ba người tình cờ vớ được cây đèn dầu rất cổ lỗ, tựa hồ cây đèn của Alibaba, nhiều bùa phép. Thế là, cả ba vị lập tức tập trung xoa xoa vào đèn, xem có phép thần thông biến hoá nào hiện ra chăng? Quả y như rằng, vừa xoa xong, đã thấy thần đèn hiện lên bảo:
-Ta cho các ngươi mỗi người một điều ước, cứ thành thật mà “khai báo”, nói lên ước nguyện của mình. Sau đó, ta sẽ hoá phép. Và ước nguyện ấy sẽ thành hiện thực, ngay lập tức.
Cả ba vị giành nhau bước tới mà ước trước. Nhưng, người thư ký trẻ được ưu tiên, nói nhanh nhất:
-Tôi muốn thành đại gia. Sống đến già, ở Bahamas. Ăn chơi hết ga. Quên chuyện nhà.
Tức thì, thần đèn thổi hơi ngắn vào người của thư ký. Và, thư ký trẻ biến mất. Đến lượt người thanh niên chuyên tiếp tân, cũng vội ước:
-Tôi muốn đi Hawai. Nằm dài nơi bãi biển. Có dinh thự đẹp ở khu sang. Sáng chiều, lúc nào cũng có người đến xoa bóp. Cơm bưng. Nước rót. Cũng khoẻ re.
Lập tức, thần đèn thổi vào người nhân viên tiếp tân. Và, anh cũng biến mất. Đến lượt trưởng sở thấy sự việc coi mòi không êm ắng. Nếu để nhân viên biến mất dạng như thế thì rồi ra lấy ai làm việc cho mình. Ông bèn đề xuất một ước nguyện, theo kiểu Đạo:
-Tôi muốn nhân viên của tôi có mặt ngay ở văn phòng, để còn tiếp tục phát huy tình hiệp thông đoàn kết, trong mọi việc.
Thế là xong. Thần đèn chỉ thổi làn hơi nhẹ vào người, tức thì cả ba đồng nghiệp “ham vui” ấy lại đã quay về chốn cũ, tiếp tục công việc rất “Vũ Như Cẫn”. Tức, “vẫn như cũ”.

Nghe kể xong, người người cứ nghĩ đó chỉ là “chuyện tưởng như đùa”, rất cổ tích. Sự thật, thì nhiều truyện tích được trích từ các báo điện, cũng rất tiện. Báo nào cũng nói toàn chuyện đời. Ít khi bàn chuyện Đạo. Đúng hơn phải nói: báo/đài cùng lắm chỉ nói mỗi chuyện vui thôi. Nào để ý chuyện Đạo ở đời?
Chuyện Đạo ở đời, chuyện nào mà chẳng vui tươi, tinh tế. Ý nhị. Chí ít, là những chuyện có kết hậu. Có lời bàn của người kể. Chính vì thế, nên người kể hôm nay lại cũng đưa ra lời bàn luận rất ngắn gọn, rằng: bà con ta ước gì thì ước, chớ có mơ ước trở thành cán bộ cao cấp, hoặc linh mục nhà Đạo, dù bình dị. Bởi, đó là hai giới cấp rất sáng chói mà người người đều ước muốn.
Về những ước và muốn làm cán bộ cao cấp, bần đạo đây chẳng dám phiếm hoặc luận bàn. Vì không đủ tư cách. Chỉ dám phiếm qua đôi giòng cho bớt lòng thong rồi thôi. Nhưng, có thể đề cập nhiều đến chuyện phối kiểm tin tức về đạo đức/chức năng của linh mục hiện đang diễn hoặc  xảy ra ở đâu đó, rất xứ mình. Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, thì: mới đây, bần đạo nhận được một điện thư có nội dung khá ly kỳ như sau:

“Gửi anh một bài mới nhận được. Những loại “vạ tuyệt thông” như thế này vẫn cứ xảy ra dài dài, ở Việt Nam. Mình có đề cập đến chuyện này trong một bài viết ngắn trước đây, về tình trạng của một cụ ông thôn trưởng từng bị “vạ tuyệt thông” chỉ vì con gái ở làng cụ quá xinh đẹp đến độ lôi cuốn quá nhiều Việt kiều về cưới hỏi… đâm rắc rối. Cụ bị cha cố trong xứ ra vạ tuyệt thông cho đến khi “cha” này được đổi đi xứ khác mà vạ kia vẫn chưa thông, lại triệt tuyệt. Chuyện lạ đời là: cứ vạ này chồng lên vạ khác, mới chết con dân nhà Đức Chúa Lời, thế cơ chứ…” (trích điện thư từ một linh mục xa quê, đề ngày 6/6/2011)

Đọc thư người anh em linh mục viết rất ngắn, nhưng bần đạo lại cứ liên tưởng đến ca từ nghệ sĩ hát:

“Bây giờ anh vui, một linh hồn rỗi,
Tình yêu xứ này.
Một lần yêu thương, một đời bão nổi.
Giã từ giã từ.
Chiều mưa giông tới.
Em ơi! Em ơi!..”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Thoạt nhìn, hẳn bạn bè/người thân chẳng thấy có gì ăn khớp giữa lời thư với lời thơ, trích ở trên? Nhưng chuyện có “ăn khớp” hay không, cũng chẳng làm bần đạo bận tâm thêm, bằng nội dung bức thư của vị đại diện báo điện tử mang tên “BBT CGVN” mới đáng ngại. Ngại, là vì bức thư mang tính cách rất chung đuợc gửi đến Đức ngài “Chủ tịch HĐGMVN”, như sau:

“Trọng kính Đức Cha Chủ tịch HĐGMVN,
Quí Đức Cha Giáo Phận,
Nhân dịp có bài viết dưới đây của cha PX. Ngô Tôn Huấn đề cập đến việc lạm quyền ở một vài nơi, chúng con khẩn khoản kính mong Đức Cha Chủ tịch HĐGMVN, Quí Đức Cha Giáo Phận vui lòng giải thích soi sáng và điều chỉnh một số qui định đã lỗi thời, nhưng vẫn còn được áp dụng ở một vài nơi, đồng thời đã và đang còn tiếp tục gây phản tác dụng cho việc Rao giảng Tin Mừng trên Quê hương Việt Nam.
Chúng con đã có dịp nhìn tận mắt “Đơn xin giải vạ”: có bút phê, chữ ký, mộc của Cha Xứ và cha Quản Hạt, được giao lại cho hối nhân chỉ vì đã tham gia vào một đám cưới (của người thân) chưa hoàn thành thủ tục hôn phối đầy đủ theo phép đạo.
Có nơi đã “kỷ luật cả xác chết” bằng cách không cho lễ an táng, buộc phải chôn bên ngoài đất thánh chỉ vì được “báo cáo”là đương sự đã tự tử. Tiếc rằng ít lâu sau lại có tin người này bị hãm hại chứ không phải tự tử, thế là trong đêm lại âm thầm “đào mồ” lên đem xác vào chôn trong đất thánh. Có thai nhi còn nằm trong bụng mẹ cũng bị kỷ luật chung với mẹ (không có lễ an táng, không được chôn trong đất thánh), chỉ vì “quyền bính xã hội” kết luận là bà mẹ (quá đau khổ) này đã tự tử. Nhưng ở nơi kia, cha phó treo cổ tự tử thì chẳng thấy bị kỷ luật?
Thật ra để kết luận một trường hợp tự tử lại không phải là chuyện đơn giản của những “người trần mắt thịt”!
Chúng con xin chân thành cám ơn.
BBT CGVN”

Như thường lệ, mỗi khi được thông tri về “sự lạ” có liên quan đến cuộc sống tốt đạo/đẹp đời xảy ra ở khắp nơi, bần đạo thường có thói tật không hay cho lắm, là: bụng bảo dạ chớ có dại mà dính vô. Và thật ra, cũng chẳng có tư cách để tham gia ý kiến hay biện luận. Chỉ dám trộm nghĩ và suy tìm lời Chúa, cho bản thân thôi. Với bần đạo, Lời Chúa mới giúp ích mình, chứ không chỉ mỗi giáo luật, mà thôi. Và, cũng tình cờ, bần đạo tìm được một đoạn thư của thánh nhân trong Đạo từng có những lời khuyên như sau:

“Anh em hãy đứng vững trong đức tin
mà chống cự,
vì biết rằng toàn thể anh em trên trần gian
đều trải qua cùng một loại thống khổ như thế.
Thiên Chúa là nguồn mọi ân sủng,
cũng là Đấng đã kêu gọi anh em
vào vinh quang đời đời của Người
trong Đức Kitô.
Phần anh em là những kẻ phải chịu khổ ít lâu,
chính Thiên Chúa sẽ cho anh em
được nên hoàn thiện,
vững vàng,
mạnh mẽ và kiên cường.”
(1P 5: 9-10)

Vững vàng. Hoàn thiện. Mạnh mẽ và kiên cường. Phải chăng, đó là những đức tính cần có để sống giữa đời. Với nhà Đạo? “Đứng vững trong đức tin mà chống cự”. Chống cự, là chống ai? Cự gì? Theo bối cảnh nhà Đạo lúc thánh nhân viết thư, là: chống lại “mưu chước của quỉ ma, tà thần chuyên dùng thân xác để lượn rình mà cắn xé” (1P 5: 8).
Nhưng ở đây, trong bối cảnh của những chuyện viết trong thư gửi “Quí Đức Cha” có đầu đề rất nổi cộm: “Xin đừng kỷ luật xác chết”. Và, một đầu đề khác, nơi bài viết của Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn, cũng có nói: “Dự tiệc cưới của đôi vợ chồng lấy nhau không hợp lẽ đạo thì bị vạ tuyệt thông?” Và, cả kết luận của người đặt câu hỏi trên, cũng viết như thế này:

“Tóm lại, mọi linh mục đều được mong đợi học hành đến nơi đến chốn để khi thi hành sứ vụ (prietly ministries) không tự ý mình làm những việc sai trái về phụng vụ và bí tích, khiến gây hoang mang và thiệt hại cho giáo dân chẳng may rơi vào trách nhiệm mục vụ của mình.” (x. Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn, www.conggiaovietnam.net, 8/6/2011)

Về với lời thơ (chứ không phải lời thư, hay lời trong thư), người nghệ sĩ lại đã hát:

“Sầu thôi xuống đầy, làm sao em nhớ
Mưa ngoài sông bay
Lời ca anh nhỏ, nỗi lòng anh đầy.
Sầu thôi thôi đầy,
Sầu thôi xuống…đầy”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Với nhà Đạo, lại cũng có lời nhủ khuyên từ đấng thánh hiền, từng vướng mắc một vài sai phạm/lầm lỡ cũng tương tự, nhưng sau đó lại đã quyết tâm, trong hành xử. Quyết, là quyết thế này:

“Vậy anh em hãy tự khiêm tự hạ
dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa,
để Người cất nhắc anh em khi đến thời Người đã định.
Mọi âu lo, hãy trút cả cho Người,
vì Người chăm sóc anh em.”
(1P 5: 6-7)
Về với lời khuyên “như ở trên”, là về với quyết tâm “khiêm hạ”, đặt mình “dưới bàn tay uy quyền của Thiên Chúa”, để rồi ”mọi âu lo, trút cả cho Người”. Về với lời nhủ, dù rất cũ, là về với Cộng đoàn Hội thánh có niềm tin vững chãi quyết rằng bản thân mình là Đền thờ của Thánh Thần. Và cả mình nữa, hãy về với lời nhủ khuyên, là về với Mình Thánh Chúa. Với Hội thánh, để rồi sẽ thẩm nhập vào Tiệc Lòng Mến, ngày của Chúa. Nhất là ngày đặc biệt mừng kính Mình Máu rất thánh, của Đức Chúa.
Về với Hội thánh, còn là về mà tìm hiểu “tại sao Hội thánh lại có buổi mừng kính những hai lần trong một năm, sau khi đã mừng kính vào Lễ Tạ Từ ngày Thứ Năm Thánh?” Về với lời kinh/khuyên răn, còn là về mà nghe lời giải thích của đấng bậc nhà Đạo ở Sydney, như sau:

“Một trong các lý do khiến ta thêm một Lễ nữa để mừng kính Mình Thánh Chúa, là vì lần này ta tập trung vào sự hiện diện của Thánh Thể, tức Mình Thánh Chúa bằng một lễ Trọng gọi là Lễ Mình Máu Chúa.
Lễ này có nguồn gốc xuất từ việc tôn sùng thờ kính Thánh Thể vào thế kỷ thứ 13, lần đầu được thiết lập tại Liege, nước Bỉ vào năm 1246, do Đức Giám Mục Robertô thành Turôtê đề nghị. Vào lúc ấy, chị Julianna thành Cornillon đã khẩn nài Hội thánh hãy mừng Lễ này sau khi chị được thị kiến gặp gỡ Chúa năm 1208. Và, chị được thần hứng cho biết: Chúa muốn Giáo hội tổ chức trong niên lịch phụng vụ, một thánh lễ đặc biệt chú trọng đến sự hiện diện của Bí tích Thánh Thể ở nhà thờ.
Đấng bậc từng cổ võ việc này mong được phổ biến rộng rãi trong Hội thánh, là Tổng Phó tế Jacques Pantaleon lúc ấy còn trụ trì ở giáo Phận Liege, nước Bỉ. Đến năm 1261, ngài trở thành Giáo Hoàng Urban IV và ba năm sau, ngài quyết định thành lập Lễ này, cho toàn Hội thánh. Có kiệu rước rất long trọng, để tỏ lòng sùng kính. Và từ đó, Lễ này trở thành tập tục truyền thống, tổ chức hằng năm, từ thế kỷ thứ 14 cho đến nay.
Thật ra thì, Lễ này này tồn tại là do Phép lạ xảy ra ở Bolsena, nước Ý vào năm 1263. Năm đó, có linh mục người Đức là linh mục Phêrô thành Praha trên đường hành hương, đã dừng chân tại thủ phủ Bolsena, ngài được ơn lành nhận ra rằng Chúa Kitô thực sự vẫn hiện diện nơi bánh thánh khi ngài cử hành thánh lễ tại giáo đường có mộ phần của thánh nữ tử đạo Christina. Và, khi ngài truyền phép vào bánh thánh thì lúc đó bánh thánh rỉ máu, chảy vào tay ngài xuống khăn thánh thấm vào bàn thờ. Ngay khi ấy, toàn thân ngài bủn rủn đến khiếp sợ. Lúc đầu, ngài định bụng giữ kín trong lòng sự việc này, nhưng sau đó, quyết định ngưng thánh lễ và yêu cầu người dự lễ chở ngài đến thành Orvieto, nơi Đức Giáo Hoàng Urban IV trụ trì.
Đức Giáo Hoàng lắng nghe cha Phêrô kể đâu đuôi sự việc. Sau đó, ban phép lành cho cha; rồi chỉ thị cho các vị trong giáo triều có trọng trách điều tra “sự lạ” ấy. Khi mọi sự được cân nhắc, thẩm định kỹ, Đức Giáo Hoàng chỉ thị cho Giám Mục sở tại đem Bánh Thánh và Khăn Thánh có vệt máu ấy đến ngai toà ở Orvieto. Đức Giáo Hoàng đích thân đón tiếp phái đoàn kiệu rước thánh tích và cho phép đặt thánh tích ấy tại nhà thờ chánh toà, rất trang nghiêm. Trọng thể. Kể từ đó, Thánh tích này được lưu giữ tại nhà thờ ở Orvieto, như thánh tích rất quý hiếm.
Được biết Đức Giáo Hoàng Urban IV, rất quan tâm đến sự việc lạ lùng này, nên đã truyền cho thánh Tôma Akinô soạn Phần Riêng cho Thánh lễ và viết một kinh đặc biệt sùng kính Thánh Thể và công nhận đó chính là Mình Chúa Kitô. Tháng 8 năm 1264, tức một năm sau đó, Đức Giáo Hoàng Urban IV đã chỉ thị cho Uỷ Ban Phụng Vụ thành lập Lễ kính Mình Máu Chúa. Đến hôm nay, Phụng vụ Hội thánh vẫn sử dụng bản kinh do thánh Tôma đặt cho Lể Trọng này kể cả Kinh Phần Vụ được nhiều người biết đến và đọc đến hôm nay.
Tháng 8 năm 1964, nhân kỷ niệm 700 năm ngày thành lập Lễ Mình Máu Chúa Kitô, Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục cũng đã cử hành thánh lễ ngay tại bàn thờ, nơi xảy ra sự lạ khăn thánh có máu rỉ, đuợc lưu trữ tại Mồ thánh bằng vàng bên trong Thánh đường Orvieto.” (x. Lm John Flader, Question Time Connorcourt Publishing 2008 tr. 312-313)

Về thắc mắc: có xứng hợp chăng giữa hành xử của vị linh mục “nhà” đầy quyền sinh/quyền sát rất “tuyệt thông”, với động thái của vị linh mục rất lành và cũng, thánh nói ở trên? Nói cách khác, người đọc và nghe truyện nghĩ sao về sự kiện đấng bậc khi xưa dù lành thánh đến mấy vẫn không dám tự quyết đoán về “phép lạ” liên quan đến sự hiệp thông trong Hội thánh, và đấng bậc nay cứ tự tung tự tác quyết đoán cả lệnh “tuyệt thông” những ai liên quan đến “sự lạ”, trong hành xử. Ở giáo xứ
Nói cho cùng, thì sứ mệnh của thành viên Hội thánh, ở mọi bậc, sẽ là và phải là gầy dựng một thánh hội hiệp thông, hơn là và đúng là: một hội thánh chủ trương tuyệt thông, vô tội vạ. Hoặc, đầy những “vạ này chồng chất vạ kia”, đến khó giải.
Lời phiếm cuối hôm nay, là: đề nghị tôi/đề nghị bạn, ta cứ trở về với lời kinh rất thánh, vẫn nhủ khuyên, rằng:

“Chính vì Đức Kitô đã chịu đau khổ trong thân xác,
nên anh em cũng phải lấy tư tưởng này làm khí giới:
ai chịu đau khổ trong thân xác
thì đoạn tuyệt với tội lỗi,
để bao lâu còn sống trong thân xác,
người ấy không theo những đam mê của con người nữa,
mà theo ý muốn của Thiên Chúa.”
(1P 4: 1-2)

Có lẽ, Thân Xác rất thánh của Đức Kitô, vẫn và sẽ là lý tưởng để tôi và bạn lấy đó làm mục tiêu sống, rất ở đây. Hôm nay và mai ngày.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn muốn nhủ mình
và nhủ bạn
những điều rất như thế.

8.  “Sao không thấy em lại”
“Để cùng anh thẩn thơ”trước sân trăng vời vợi
để rồi cùng ước mơ.”
(Phạm Đình Chương – Thuở Ban Đầu)
(1Cor 1: 4-7)
Đúng vào “thuở ban đầu” ấy, người người thường ước mơ. Trẻ, thì mơ mẹ đi chợ về, mua cho bé rất nhiều quà. Già, lại ao ước mọi việc cứ thế thông suốt rất êm ả. Thẩn thơ. Nhà Đạo mình, cũng có những ước và những mơ. Mơ gì đây? Chắc hẳn, chẳng mơ và ước được Chúa sớm rước về? Ở đâu đó! Mà là, mơ như nghệ sĩ cũng từng ước và rất mơ, ở câu thơ:

“Sao không thấy em lại?
hàng dừa nghiêng thương nhớ
và khúc ân tình biết trao về đầu…”
(Phạm Đình Chương – bđd)

Khúc ân tình, còn biết trao về đâu nữa? Há chẳng phải là trao như “thuở ban đầu”, nơi chất chứa tình thương-yêu nhung-nhớ, vẫn cứ đẹp? Chất chứa, “sâu (nơi) đáy mắt”, rất “xanh tươi”. Niềm nhớ ấy, còn là câu ca được diễn tả ngọt ngào, nào ta hát:

“Ôi! đẹp sao là thuở ban đầu
chìm sâu đáy mắt một màu xanh khơi
niềm thương không nói nên lời
chỉ nghe xao xuyến một trời bâng khuâng.”
(Phạm Đình Chương – bđd)

Hát xong, hẳn bạn và tôi, ta rồi sẽ nghĩ: “thuở ban đầu” của tôi và của bạn, ở nhà Đạo, chắc cũng “Ôi đẹp sao!”, một thuở đầy “màu xanh khơi”, nơi đáy mắt. Ban đầu, là thuở mà Hội thánh Nước Trời nhà Đạo, được đầy ơn thánh sủng, của Ngôi Ba. Là, Thần Khí Chúa đầy ắp những ơn và huệ Ngài ban, cho ta.
Ơn và huệ, mà Thần Khí Chúa vẫn ban, nhiều hình thức. Có hình thức rất êm đềm. Mượt mà. Chẳng ai lạ. Cũng có hình thức sôi động. Nhiều suy tư. Khuất tất. Một trong những hình thức của quà tặng từ trên, nói theo kiểu méo mó nghề nghiệp, thật rất “phiếm”, là nói như truyện kể, ở dưới:

“Có mẹ già nọ sống ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Chồng của mẹ mất sớm, nhưng mẹ vẫn ở vậy tần tảo nuôi con những 25 năm. Đến lúc con của mẹ rày khôn lớn đã công thành danh toại ở nước ngoài, mẹ vẫn chắt chiu, quý trọng mọi thứ. Vẫn dành để ít nhiều cho con. Cả, những món quà con gom góp tháng tháng gửi về, cho mẹ. Tuy không nhiều. Chỉ vài hàng vắn vỏi gói trong thư và hai ba tờ trăm đô, để mẹ tiêu.
Xuân này đến xuân kia, con vẫn bận rộn hết việc này đến việc khác, không tìm ra được giờ nghỉ để bay về thăm mẹ mà cảm kích tấm lòng người mẹ ban cho con, như ân huệ trân quý. Kịp đến khi mẹ mất, con mới tức tốc bay về, dự định tổ chức tang lễ thật to, cho thiên hạ biết rõ gia đình mình cũng sung túc. Khá giả. Nhưng, tuyệt nhiên chẳng có tiếng khóc cũng chẳng một lời than lời vãn, với nước mắt.
Trước ngày an táng mẹ, con gái mới mở hộp quý mẹ để ở đầu giường xem mẹ đựng gì mà quý giá đến thế. Vừa mở nắp, cô bỗng òa lên khóc nức nở, ôm quan tài mẹ hét lên như điên như dại: "Mẹ đâu rồi! Mẹ ơi! Ôi, Mẹ!..."
Mọi người vội đến xem trong hộp có gì khiến cô khóc gào đến như thế. Thì ra, trong hộp đựng rất nhiều tờ đôla Mỹ còn rất mới, có buộc dây. Cạnh đó, là mẩu giấy nhỏ sắc mầu hoen úa, trên giấy nguệch ngoạc đôi ba giòng chữ nhỏ li ti có dán tấm hình của cô con, khi lọt lòng mẹ. Trong giấy có ghi: "Con à, con gửi cho mẹ nhiều tiền quá, mẹ xài không hết. Mẹ vẫn nhớ con lắm, mỗi khi nghe tiếng xe hông-đa nổ ngoài ngõ, là mẹ chạy ra xem có phải con về không. Lần nào mẹ cũng mừng hụt, vì người đó không phải là con. Con à! Số tiền này, mẹ để dành lại cho con, phòng khi đau ốm con cứ lấy mà xài. Ký tên: Mẹ của con. Má Năm."
 
Và bên dưới câu truyện kể ở trên, cũng lại có lời bàn rất “Mao Tôn Cương” của người kể, ghi rằng: “Cô con gái trong truyện đã có tất cả những gì mà người phụ nữ có thể có, đó là: tiền tài, danh vọng, địa vị, chồng con ngoan hiền, và sự thành đạt. Nhưng cô lại đã để mất đi một điều vô cùng thiêng liêng quý giá, đó là: lòng cảm kích biết ơn, người mẹ hiền. Kịp đến khi nhận ra được điều ấy, thì mẹ già không còn nữa, mà cảm tạ.”
Cảm ơn hay cảm tạ, về ân huệ có từ người đời, và do người đời ban tặng, là như thế. Rất gọn nhẹ. Như, tình mẹ vẫn cho con. Thế mới quý. Chứ, những đồng tiền giấy người con gửi cho mẹ, làm sao mẹ xài cho hết. Ân huệ nơi nhà Đạo, cũng là những ân và huệ, do Chúa ban. Được mấy ai trong nhà Đạo, nay cảm kích. Có vị, lại không coi đó là huệ lộc/ân tình, từ Đức Chúa. Có vị, cứ tưởng mọi việc do mình tạo ra. Nhiều vị thực tâm hơn, vẫn chẳng biết thế nào là ơn mưa móc trời ban, nên có thư về với đấng bậc ở Sydney, để rồi hỏi:

“Thưa Cha, có thể nào xin Cha giải thích cho biết có gì khác biệt giữa hoa quả và quà cáp Chúa Thánh Thần ban tặng được không. Điều này con nghe nhiều người nói, rất thao thức, nhưng chưa hiểu.” (Một giáo dân ở Sydney)

Nghe nói nhiều và thao thức không thiếu, nhưng chưa hiểu, thì làm sao biết đường mà cảm kích. Với biết ơn. Nay, hiểu tâm trạng của phần đông bà con đi Đạo, nên đấng bậc ở Sydney đã có đôi lời giải thích với trích dẫn, như sau:

“Quả như ngôn từ diễn tả nơi câu hỏi, hai chữ hoa quả và quà tặng từ Chúa Thánh Thần, mang ý nghĩa rất khác. Quà tặng, theo giải thích ghi trong Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo là “những bố trí sắp đặt cách thường xuyên khiến người người chịu nghe theo lực đẩy của Thánh Thần.” (x. GLHTCG #1830).
Bằng vào cụm từ “bố trí sắp đặt cách thường xuyên”, Hội thánh muốn nói đến thói quen đã ổn định nơi linh hồn. Quà tặng lần đầu ta nhận lĩnh là vào lúc thanh tẩy, được củng cố thêm bằng Bí tích Thêm sức và ta chỉ mất đi khi lầm lỡ rất nặng, mà thôi.
Hội thánh rút tỉa ý nghĩa của lời dạy về quà tặng, từ sách tiên tri Ysaya, trong đó nói đến Thần Khí Yavê đậu xuống nơi Đức Mêsia: “Trên Ngài, Thần Khí Yavê sẽ đậu xuống, Thần Khí khôn ngoan và trí tuệ, Thần Khí mưu lược và anh dũng, Thần Khí hiểu biết và kính sợ Yavê.” (Is 11: 2).
Theo truyền thống, Hội thánh vẫn dạy rằng: Thần Khí Chúa ban cho ta tất cả bẩy quà tặng, đó là: ơn khôn ngoan, hiểu biết, kiến thức, mưu lược, lòng dũng cảm và sự sốt sắng, kính sợ Chúa. Chỉ mỗi sự sốt sắng là không thấy nói trong sách tiên tri Ysaya, thôi.
Ngang qua quà tặng của Thần Khí Chúa, ta trở nên dễ theo lực đẩy của Chúa ở mỗi địa hạt của quà tặng Ngài ban. Khi thấm nhuần đặc trưng ấy rồi, chính chúng ta sẽ có động thái mang cung cách của đặc trưng ấy. Trường hợp quà tặng của Thần Khí Chúa, có sự trợ giúp của đặc trưng, thì chính Thần Khí sẽ xui khiến thúc giục ta hành động theo cách thường tình là vuợt khả năng của riêng mình.
Quà tặng này, được nhiều người ví von như cánh buồm lướt gió giúp thuyền vượt sóng bằng gió nguồn của Thần Khí, trong khi đó các đặc tính được sánh ví như mái chèo được các tay chèo sử dụng. Các quà tặng liên kết với 7 đặc trưng rất nhuần nhuyễn được kể đến, là: niềm tin, hy vọng, tình bác ái, khôn ngoan, công bằng, lòng dũng cảm và sự kềm chế. Xem thế thì, quà tặng khôn ngoan khiến ta hiểu biết và ưa thích sự việc Chúa ban, để rồi gia tăng lòng yêu mến ta vẫn có, với Ngài.
Quà tặng tạo kiến thức giúp ta thấm nhập sâu sắc vào với sự thật của niềm tin và thấy được sự hài hoà ở trong đó và cũng nhờ đó gia tăng thêm niềm tin của ta. Quà tặng về kiến thức giúp ta am hiểu mọi thụ tạo trong tương quan với Đấng Tạo Hoá, củng cố đặc trưng hy vọng, bằng vào việc cho thấy sự trống vắng các vật được tạo dựng, khiến ta khao khát Chúa, hơn mọi sự.
Quà tặng mưu lược là để suy tôn tính khôn ngoan, hầu giúp ta phân biệt những gì cần làm trong mỗi hoàn cảnh; cả trong cuộc sống của riêng ta, và cả vào việc mưu sự cho người khác nữa.
Quà tặng tạo sự dũng mãnh hoàn-thiện-hoá uy lực, giúp ta làm được những gì mang tính anh hùng đích thực mỗi khi cần đến, ngay cả khi ta chấp nhận chết cho Đạo.
Quà tặng tạo sự sốt mến hoàn-thiện-hoá, đặc trưng của tôn giáo, là thành phần của sự công bằng, khả dĩ giúp ta nhận biết Chúa là Cha khiến ta biết mà phụng thờ yêu mến Ngài.
Và cuối cùng, quà tặng để biết mà kính sợ Chúa giúp ta hoàn-thiện-hoá đặc tính biết tự kềm chế, khiến ta lo sợ mất đi lòng mến Chúa vì dám đeo đuổi những vui thú không xứng hợp. Đây không là niềm hãi sợ hạ cấp của giới nô lệ ở dưới, vẫn cứ sợ bị trừng phạt, cho bằng niềm cung kính biết sợ của con cái vẫn cứ lo và sợ xúc phạm người cha của mình; và, sợ mất đi tình yêu thương của người cha/bố. Kinh nghiệm về sức mạnh của quà tặng như thế, ta đều từng trải, vào lúc khác nhau. Chẳng hạn như, ngang qua quà tặng kiến thức, có thể là ta sẽ bất chợt có được nhận thức ấy qua nguyện cầu đi vào sự thật của niềm tin, mà ta chưa từng nghe biết, trước đó. Hoặc quà tặng mưu lược trong khuyên nhủ, có thể ta cũng nghĩ đến một biện chứng khả dĩ đã thuyết phục bạn bè/người thân quay về với bí tích hoà giải, chẳng hạn. Nói chung, tất cả đều là quà tặng của Thần Khí, rất quí báu.”

Về tâm tình cảm nhận quà tặng từ Trên, cũng nên lắng nghe thêm một chút ý nghĩa nơi ca từ của nhạc bản, khi người nghệ sĩ vẫn cảm kích lúc em cười, đã lại hát:

“Bâng khuâng lúc em cười
Kìa hàng cây ngẩn ngơ
sáng trăng xanh khung trời
dặt dìu nhạc với thơ.
(Phạm Đình Chương – bđd)

Hoặc, cả vào khi không thấy lòng bâng khuâng “lúc em cười”, người nghệ sĩ còn hát thêm:

“Nhưng không thấy em lại
hàng thùy dương chếch bóng
và lũ hoa thầm khép hương chờ mong.”
(Phạm Đình Chương – bđd)

“Lũ hoa thầm khép hương”, hay “hàng thuỳ dương chếch bóng”, là lúc người anh/người chị của ta cũng nhận ra “hoa quả đầu mùa” từ Trên ban tặng. Nhận thức này, là ý thức về một hiểu biết như đấng vị vọng thân quen của ta, đà quả quyết:

“Về hoa quả do Thần Khí tác tạo, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có nói: “Đó là sự toàn năng toàn hảo được Chúa Thánh Thần tạo thành trong ta, như hoa quả đầu mùa của vinh quang trường cửu.” (GLHTCG # 1832)
Thánh Phaolô cũng liệt kê như thế như một tương phản giữa hoa quả của cuộc sống theo tính xác thịt, với thành quả của sự sống có Thánh Thần Chúa dẫn dắt.
Truyền thống Hội thánh lâu nay nhấn mạnh rằng 12 loại hoa trái ấy, là: lòng bác ái, niềm vui tươi, sự an bình, tính nhẫn nhục, sự tử tế, tốt lành, đại độ, hoà nhã, lòng trung thực, tính khiêm tốn, sự tự chế và lòng khiết trinh.” (x. Gal 5: 22-23)
Nếu ta biết sống đàng hoàng luôn nghe theo sự thôi thúc của Thánh Thần Chúa, thì chắc chắn mọi hoa quả sẽ đến với ta, rất tự nhiên. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo gọi hoa quả ấy là vị ngọt của thiên đường, tức ‘hoa quả đầu mùa của vinh quang trường cửu.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly, 12/9/2011, tr. 12)

Về “hoa quả đầu mùa” mà Thần Khí Chúa vẫn ban cho mọi người, đấng bậc vị vọng cũng đã nhận được ơn khôn ngoan/thông thái, nên mới giải thích rõ như thế. Phần người đọc, chắc hẳn người người cũng cần ân huệ của Ngài mới đả thông được mọi ý nghĩa chí lý của sự việc.
Ân và huệ để thông hiểu mọi ý nghĩa nơi “hoa quả đầu mùa” do Thần Khí Chúa tặng ban, Ngài đã ban cho ta ngay từ “Thuở ban đầu”, rất đẹp. Đẹp như tiếng hát, nghệ sĩ vẫn ca đi hát lại một giai điệu:

“Sao không thấy em lại
Hàng dừa nghiêng thương nhớ
Này khúc ân tình biết đưa về đâu.”
(Phạm Đình Chương – bđd)

Cuối cùng ra, tất cả là “khúc ân tình” ta nhận từ nhiều phía, rất cảm kích. Biết ơn. Chính vì có ân tình, nên vẫn cần sự cảm kích, biết ơn. Biết, cả ơn từ những người đóng vai chuyển tải những ơn và huệ từ Đức Chúa. Như ý nghĩa của truyện kể được minh hoạ ở bên dưới:

“Truyện rằng:
“Có hai thiên sứ Nhà Trời được sai xuống trần gian, thực hiện một khảo sát rất ngắn gọn để xem loài người sống ở hành tinh có tên gọi là “mặt đất” lâu nay hành xử ra sao, trong quan hệ với Chúa. Để thực hiện công cuộc khảo sát theo cung cách của người trần, mỗi thiên sứ mang một bao bị đặc biệt hầu đựng dữ kiện của khảo sát. Cụ thể là, một thiên sứ mang bao bị đựng toàn những lời khấn nài xin xỏ, của người phàm. Thiên sứ kia, mang bao bị cũng ngang bằng một tầm kích. Nhưng, đựng toàn lời cảm kích/biết ơn, thôi.
Hoàn tất khảo sát rất tốt đẹp, hai thiên sứ quay về Thiên Đình báo cáo với Đức Chúa của Nhà Trời, về những gì mình đạt được. Đức Chúa nhìn thiên sứ mang bao bị đựng “những lời xin” thấy vị này cứ là khệ nệ những mang cùng xách, rất vất vả. Trong khi đó, bao bị của thiên sứ kia, chẳng có được là bao những dữ kiện cảm tạ, và biết ơn. Hỏi ra mới biết, người đời chỉ xin nhiều chứ ít biết mà cảm tạ, Chúa Thánh Thần.”

Truyện kể chỉ bấy nhiêu. Cũng không dài. Chẳng lòng thòng, miêu dạng. Tuy nhiên, ở đây, hôm nay cũng nên đính kèm lời bàn của người kể, bảo rằng: “Trong sống đời ở trái đất, rất hành tinh, người người đều nhận lãnh ân huệ, ngang bằng nhau. Nhưng, chừng như ai cũng muốn “xin thêm”, chứ nào có mấy người thấy đó làm đủ, và biết nói lời cảm kích/ biết ơn người tặng ban.”
Lời cuối chuyện phiếm hôm nay, phải là lời cảm nhận để nói rằng: bạn bè/người thân đọc đến đây chắc đã đủ? Chẳng ai muốn có thêm một lời bàn nào khác? Nếu thế, bần đạo xin kết thúc bài phiếm hôm nay bằng lời ngỏ rất “biết ơn” bạn và tôi, đã dõi theo giòng chảy có những “đoản khúc suy tư”, thực hư đều rất phiếm. Những mong rằng, cả tôi và bạn, ta sẽ cứ thế mà biến hoa quả đầu mùa mà Chúa Thánh Thần ban cho được cứ thế mà thăng hoa, triển nở mãi, với mọi người. Để rồi tìm đến Lời Chúa mà nghĩ suy thêm, như sau:

“Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa của tôi vì anh em,
về ân huệ Người đã ban cho anh em nơi Đức Ki-tô Giê-su.5
Quả vậy, trong Đức Ki-tô Giê-su,
anh em đã trở nên phong phú về mọi phương diện,
phong phú vì được nghe lời Chúa
và hiểu biết mầu nhiệm của Người.
Thật thế, lời chứng về Đức Kitô đã ăn sâu vững chắc
vào lòng trí anh em,
khiến anh chị em không thiếu một ân huệ nào,
trong lúc mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô,
Chúa chúng ta,
mặc khải vinh quang của Người.”
(1Cor 4-7)

Nói cho cùng, thì ơn Người và ơn đời, vẫn là việc của tôi và của bạn, vẫn cần làm thường ngày ở huyện đời. Nhà Đạo. Rất dễ thương.

Trần Ngọc Mười Hai
vẫn muốn chuyển
đôi ba tư tưởng mọn
đến bạn bè/người thân
nhân lễ Ngũ Tuần.
Ở đời.


9.  Yêu người như suối cuộn rừng sâu
“Như con tàu say gió, như con giun ngước lên trời,
Yêu trăng sao vời vợi, Làm sao nói được tình tôi.”
(Phạm Duy – Phượng Yêu)
(Gal 5: 22-23)
    Yêu người mà lại bảo: “như suối cuộn rừng sâu”. “Như con tàu say gió”, “như giun con ngước lên trời”, thì có lẽ mọi người chỉ thấy trong thi ca, và âm nhạc, thôi. Trên đời này, ngoài thi nhân và nhạc sĩ ra, đã mấy ai diễn tả bạo đến thế, về tình yêu?
    Bạo như thế, vẫn chưa đủ nghệ sĩ lão làng nhà ta hôm nay còn thêm đôi câu hát đẹp hơn nữa. Đẹp, chẳng vì nghệ sĩ không chỉ nói yêu người và yêu Phượng của ông thôi, mà còn nói yêu nhiều thứ khác, như:

            “Yêu người, yêu Phượng,
             yêu hoa đầu mùa yêu màu rực rỡ, yêu em mù loà
            yêu bằng tiếng nói đơn sơ.
            Yêu người, yêu cả cơn mơ rụt rè,
            Yêu bằng gió núi qua khe gập gềnh
            Yêu bằng tiếng hát yêu tinh…”
            (Phạm Duy – bđd)

    Nói yêu người, thì hầu như thi nhân nghệ sĩ vẫn nói và hát bằng tiếng “rất yêu tinh”. Lình bình. Như cơn mơ. Thế còn, nhà Đạo thì sao? Nhà Đạo ư? Trả lời câu hỏi này, thật không dễ. Riêng bần đạo, chỉ mỗi nói: không dám đâu! Thật tình, bần đạo chẳng biết nói thế nào cho phải lẽ. Chỉ dám dùng lời lẽ của các đấng bậc vị vọng ở nhà Đạo để cảm kích. Có thế thôi.
    Về chữ yêu, rất diễm kiều, nhà Đạo mình nói cũng nhiều. Trả lời, thật không thiếu. Nhưng, có đấng bậc nọ không trả lời cho người trẻ đang yêu vẫn muốn hỏi đôi điều bằng “tiếng nói đơn sơ”, “như cơn mơ”, “rụt rè” nghe rất khẽ. Và, chắc rằng người trẻ ở đây là nhân vật đang nổi bật, nên câu trả lời của đấng bậc nghe cũng mạnh. Mạnh, như thư điện của tác giả mang tên Michael McGirr, gửi đến công nương Kate Middleton, vợ hiền thân yêu của hoàng tử Williams nước Anh, như sau:   

        “Kính gửi Cô Middleton thân mến,
Trước hết, xin cảm ơn cô đã có thư hỏi đôi điều về việc cử hành lễ cưới tại nguyện đường nhà trường chúng tôi vào tháng Tư năm 2011. Tiện đây, xin cho tôi được phép có đôi giòng hồi đáp, như sau:

Thật ra, thì nguyện đường mà cô ngỏ ý muốn cử hành lễ cưới rất thân mật cho cô và hoàng tử Williams, vẫn có chỗ cho 200 khách quí tham dự. Nghĩa là, cũng đủ để bạn bè/người thân của cô và hoàng gia thân hành đặt chân đến. Bạn bè tôi nói ở đây, không tính các thân hữu ghi danh trên “facebook”, của cô. Bởi, ta có định nghĩa thế nào đi nữa, thì các người ấy vẫn không thể là bạn theo nghĩa đích thực được.

Hiềm một nỗi, là nhà ăn của trường lại không mở cửa vào dịp nghỉ học kỳ ở đây. Chính vì thế, cô cũng nên tính đến chuyện tìm người nấu nướng và lo ẩm thực cho quan viên hai họ. Địa phương chúng tôi ở, chỉ có một vài quán xá nhỏ bán bánh “pizza” giao tận nhà, mà theo tôi chỉ thích hợp cho bữa ăn nhẹ ngoài trời sau lễ cưới, mà thôi.

Trong thư, cô có đề cập đến ao ước của cô là đám cưới mình chỉ một lần cho trăm năm, nên phải đặc biệt. Tôi không thấy có vấn đề gì trong chuyện này hết. Chỉ biết rằng, đám cưới nào cũng là đám cưới đặc biệt đối với đôi tân hôn. Có đặc biệt, nên hai họ mới đồng ý cho cưới.

Cô cũng bảo, người yêu cô là hoàng tử còn rất trẻ. Và, cô yêu anh ấy rất mực. Điều đó thật tuyệt vời. Học sinh lớp 10 của tôi cũng vừa hoàn tất luận văn nhỏ bàn về tình thân thương mật thiết trong quan hệ yêu đương với mọi người. Tôi dám chắc rằng: các học trò nhỏ ở trường đây có thể kể cho cô nghe về tình tiết của nhiều truyện yêu đương, sau 20 năm trường dài đằng đẵng, khi ấy đối với họ: có còn chứng tỏ được hay không với người mình yêu là “hoàng tử của lòng em”, đó mới thành chuyện. Riêng tôi, vẫn tin rằng cô sẽ là người thành đạt được chuyện ấy.

Cô còn nói: cô đang có dự trù thực hiện một đám cưới rất huyền thoại, giống hệt truyện cổ tích. Về điểm này, tôi thật tình chưa hiểu ý của cô cho lắm. Điều mà mọi người ở đây hiểu nhiều và hiểu rõ nhất, vẫn là: nguyện đường của chúng tôi hằng ngày vẫn treo đầy các câu nhắc về thực tại sống ở đời. Và, ý nghĩa của tình yêu đích thực còn có đủ mồ hôi, nước mắt cùng xương máu nữa. Tình yêu ấy, còn bao gồm cả 14 chặng đường gian khổ dính đầy chông gai và có cả thập giá hiện lên ở phía trước, sát bên cạnh. Tôi hy vọng, là nếu đến đây mà bỏ ra ít giây phút để suy và nghĩ về câu truyện tình tiết rất yêu đương có chạm khắc những ảnh hình, ngay trên đó, thì mới tốt.

Cô còn muốn biết rõ nhận xét của riêng tôi về chiếc áo cưới lộng lẫy cô sẽ mặc vào giờ lễ, thì tôi chỉ dám thưa với cô rằng: tôi luôn thấy nó rất đẹp, và lộng lẫy. Tôi cũng cảm thông với cô trong quan ngại về nơi cử hành lễ, không biết có gần kề phương tiện di chuyển công cộng không, để người đến dự thấy thoải mái. Thật tình mà nói, thì nguyện đường nơi đây có may mắn được nằm sát ga xe lửa, nên cũng tiện cho những người không đủ điều kiện để sắm xe riêng dùng cho một lễ cưới mà thôi.

Tôi cũng hiểu được ý của cô khi so sánh nguyện đường này với các nhà thờ khác để cô còn lựa chọn. Tôi thật sự không rành lắm về các nguyện đường thuộc dòng tu đây đó, như tu viện Westminster, nhưng tôi biết chắc chắn một điều là: địa phương nơi đây không có mộ phần hoặc lăng tẩm của vua quan lãnh chúa, vào thời trước. Muốn tìm đến các di tích này, chắc cô phải ghé các cổ mộ hoặc thành lũy xưa cũ mới tìm thấy.

Cửa ngõ của nguyện đường nơi đây, chỉ rộng cỡ 2 mét là tối đa, nên nếu có ai đội mũ mão gì rộng và lớn hơn, thì xin cô nhắn với các vị ấy muốn vào lọt, cũng nên bẻ quẹo đôi chút, là được ngay.

Bà con nếu tham dự lễ ở đây, có thể sẽ được mời ghé tham quan trường học và lưu lại tại khuôn viên cầu nguyện chừng dăm ba phút, là nhiều lắm. Ở nơi đó, thường là nơi chốn để học sinh hoặc giáo chức ghé viếng nguyện cầu cho người thân thuộc hoặc khách lạ nữa.

Vào nguyện đường, có thể là bà con cô bác sẽ phát hiện một vài cô cậu học trò nhỏ người non dạ vẫn vào đó để thầm thĩ với Chúa với Mẹ Hằng Cứu Giúp đôi ba điều vui vui chứ không xin, vào giờ nghỉ. Các em thầm thĩ để chứng tỏ mình vẫn tin vào Chúa, Mẹ như bao giờ. Bằng chứng là, mới tuần rồi, có em học sinh lớp 10 cũng vào nơi tôn nghiêm ấy chỉ để kể cho Chúa nghe việc cô cậu gặp một lão ông ở Dịch Vụ Cộng Đồng hoặc viện Dưỡng Lão nào đó, mới biết được là lão ông từng là nạn nhân còn sống sót sau vụ cuồng sát của Đức Quốc Xã. Tuần trước đó, lại có em thuộc lớp khác cũng đến chia sẻ vào giờ lễ để kể cho mọi người tham dự về truyện phim sâu sắc có tựa đề là “The Incredibles”, tức đề tài mà em được học trong năm.

Nguyện đường của chúng tôi chủ yếu xây dựng ở niềm tin. Tin rằng: Chúa đích thân gặp gỡ hết mọi người. Ngài gặp, qua các biến cố thực tế trong đời người. Mà, biến cố nào cũng đeo mang một thử thách, đỡ nâng cốt tạo cho người đời thêm nghị lực để họ có thể sống. Bởi, Chúa vẫn phụ giúp con người vượt qua được mọi hãi sợ và tính hẹp hòi, vốn là bản chất của họ. Ở nơi đây, luôn có phần đất để mọi người có thể dựng xây quan hệ thân thương khả dĩ nương nhau mà sống. Chí ít, là trong hôn nhân.
Đó, cũng là lời cầu chúc cho cô và người yêu của cô đạt tương lai rất trong sáng.

Ký tên
Michael McGirr”
(x. Michael McGirr, A letter to Kate, The Australian Catholics Easter 2011, tr. 16)

    Luận phiếm hôm nay, không chỉ phiếm và luận về yêu đương/hỏi cưới bậc vương giả nơi xứ người, rồi thôi. Nhưng, phiếm và luận nay còn để bạn và tôi, ta cứ thế mà đàm rồi mạn phiếm về “tiếng nói đơn sơ”, có “ước mơ”, rất rực rỡ. Có, lời thơ rất “yêu người”, “yêu Phượng”, thêm đôi câu:

            “Yêu người xong, chết được ngày mai.
            Yêu như loài ma quái,
đi theo ai tới chân trời.
            Đi không ngơi kêu gào,
làm sao tránh được tình yêu.”
            (Phạm Duy – bđd)

    Yêu “như loài ma quái”, rồi “theo chân ai đến chân trời”, phải chăng là lối yêu đương chỉ thấy có ở thi ca/giòng nhạc của nghệ sĩ họ Phạm, thôi? Thế nhưng, nếu bảo rằng: “yêu người xong, chết được ngày mai”, có lẽ đây cũng là một trong những “phát giác kinh khủng” từ người nghệ sĩ từng kinh qua nhiều trải nghiệm trong đời. Nhà Đạo cũng thế, nhiều vị cũng đã kinh và nghiệm về thứ “yêu (đến) chết được ngày mai”, là sự thật. Sự thật về Tình Yêu ấy, nhà Đạo mình từng minh chứng bằng lời của thánh nhân tông đồ từng ghi chép:

            “Không có tình yêu nào cao cả
hơn tình của người
đã hy sinh tính mạng
vì bạn hữu mình.”
(Ga 15: 13)

    Đây là câu nói rất xác thực. Câu nói, được công nhận từ ngàn năm về trước. Và, sẽ còn được chứng thực cả ngàn năm, về sau. Và rồi, vấn đề ta cần phiếm thêm nhiều nữa, đó là: điều ấy có được người trong Đạo/ngoài đời đưa vào hiện thực cuộc sống, không?
Thế đó, là câu hỏi không cần trả lời. Bởi, trả lời là trả một lời cho ai? Để làm gì? Vì, “ai” đây vẫn là bản thể chân phương đơn độc, giống như mình. Nên, câu hỏi và trả lời, là để mỗi người tự cật vấn chính mình. Cật vấn, cho ra nhẽ, thế thôi.      
Và hôm nay, trong phiếm luận nhiều ngày, có bạn đọc từng đọc khá nhiều “câu chuyện phiếm”, lại đã đề nghị một mạn đàm về cuốc sống có yêu đương của những người đương yêu, hay đương được nhà Đạo yêu cầu nhưng thương và yêu, mà bạn gọi là sống bác ái. Thật lòng, thì bần đạo không hay và cũng không quen dùng cụm từ “bác ái”, vì có vẻ nho nhã quá. Theo Hán Việt Từ Điển của tác giả nguyễn Văn Khôn, thì “bác ái” là: lòng nhân từ yêu tất cả mọi người, mọi vật.
Yêu một người, một vật cũng đã khó, huống hồ là mọi người, mọi vật. Khó, là bởi vì nếu bạn và tôi, ta đồng ý với câu rất thơ rằng: “yêu là chết trong lòng một ít”. Thì, “yêu mọi người, mọi vật” là thì chết trong lòng cũng khá nhiều. Chết, không chỉ là “chết được ngày mai” như nghệ sĩ hát. Mà là, chết tức khắc. Hoặc, chết trong gang tấc. Rất tức tưởi. Chí ít, là khi yêu thì vẫn yêu nhưng trong quá trình “yêu đến chết” ấy, người trong cuộc gặp vài trở ngại như câu chuyện hỏi/thưa bên dưới:

“Kính thưa cha, con và bạn con là người trong Đạo. Hai đứa chúng con yêu nhau tha thiết muốn kéo dài tình yêu mãi đến thiên thu. Cho nên, để chứng tỏ tình yêu của mình rất chính đáng, hai đứa tụi con quyết định tiến tới hôn nhân, có lễ lạy ở nhà thờ. Ngặt một nỗi, bạn con muốn nhờ ca đoàn hát bản nhạc tình rất quen trong buổi lễ, lại bị linh mục từ chối bảo rằng: lời lẽ của bài hát không thích hợp vì không rút từ Kinh thánh. Vậy con xin hỏi: điều gì được phép điều gì không, trong lễ cưới?   
    Tuy chỉ là câu hỏi về những gì được phép làm trong lễ cưới, nhưng do bởi người hỏi cứ muốn đả động đến tình yêu vĩnh cửu của người nhà Đạo, gặp trắc trở. Bởi thế nên, vấn đề được hỏi cũng lại được chuyển đến đấng bậc rất vị vọng, chọn lời đối đáp, cho chính mạch. Và lời lẽ rất chính và rất mạch, là như sau:

“Qua câu hỏi của anh chị, tôi thấy có nhiều điều nảy sinh khiến cả hai phía: phía vợ chống sắp cưới lẫn phía chủ trì lễ cưới, cả hai đều quan ngại. Bởi thế nên, tôi xin trả lời bốn điểm mà xem ra nhiều người thắc mắc hơn cả.

Điểm thứ nhất, về các bài đọc trong lễ cưới. Về chuyện này, nguyên tắc chung vẫn quyết rằng: trong bất cứ buổi cử hành phụng vụ nào cũng thế -như thánh lễ, hoặc nghi thức cử hành bí tích hôn phối, lễ cầu hồn, vv.. – chỉ có bài đọc nào rút từ Kinh thánh mới được phép, thôi.

Mới đây, tông thư Verbum Domini (Lời của Chúa), Đức Bênêđíchtô 16 xác nhận rằng trong phụng vụ “các bài đọc được rút từ Sách Thánh không bao giờ được phép thay thế bằng bất cứ bản văn nào khác, dù súc tích. Dù đó có là quan điểm mục vụ hay linh đạo, cũng thế. Bởi, không một bản văn linh đạo hoặc văn chương/tu đức nào khác có thể sánh tày với giá trị Lời Chúa rất phong phú chất chứa trong Sách thánh. Đây, là điều luật của Hội thánh có từ thời xưa, cần được duy trì cho nghiêm túc.” (chú thích 69)

Vấn đề này cũng là lẽ thường tình. Bởi, chính Thiên Chúa nói với con người, Ngài nói qua Sách thánh của Ngài; và Giáo hội muốn ta được nghe những gì Ngài cần nói, từ Sách ấy. Lễ cưới, cũng giống như mọi nghi thức phụng vụ khác, là cơ hội thuận tiện để ta lắng nghe Lời Ngài. Thế nên, mọi bài đọc trong buổi lễ, nếu không là những bài rút từ Sách thánh, đều không được phép sử dụng vào buổi ấy. Giả như đôi tình nhân làm lễ cưới muốn đọc bài nào đó có nguồn từ ngoài đời, thì cũng chẳng có gì ngăn trở họ hết, chỉ mỗi việc là, hãy để bài ấy vào giờ cuối khi thánh lễ kết thúc hoặc đưa vào buổi tiếp tân ở nhà hàng, cũng là điều nên làm.

Điểm thứ hai, là việc chọn ca khúc để hát trong lễ cưới. Hiện nay, vẫn thường thấy danh sách chính thức gồm các ca vịnh được phép hát hay cấm không được hát trong các buổi phụng vụ, thường thì các ca khúc sử dụng phải có nội dung đạo đức hoặc linh thiêng khả dĩ thích hợp với buổi cử hành nghi thức ở nhà thờ. Chính vì lý do này, mà các bài hát thông dụng ở ngoài đời thưòng không mấy thích hợp với việc phụng thờ. Nhiều giáo xứ có sẵn các vị nhạc trưởng hoặc ca trưởng phụ trách hát xướng ở nhà thờ, là những người có thể giúp cho đôi tân hôn chọn bài nào họ thích.

Ngoài các thánh vịnh/bài ca ra, còn có một số nhạc cụ tuy không xứng hợp lắm với thánh nhạc , nhưng cũng có giá trị nào đó về linh đạo, có thể dùng vào lễ cưới. Trong số đó, có thể kể đến như Hành khúc cho cô dâu của Wagner, Hành khúc Lễ cưới của Mendelsohn, bản Canon cung Rê trưởng của Pachelbel, hoặc Giai điệu của John Sebastian Bach rút từ tấu khúc số 3, vv…

Điểm thứ ba ta cần bàn, là: công thức trao đời lời thuận thảo. Một số đôi tân hôn có lẽ cũng từng nghe những lời thề nguyền theo công thức đặc biệt dành cho lễ cưới, hoặc họ cũng có thể sáng tác cho riêng vợ chồng mình. Dù công thức trao đổi sự thuận thảo tự nó đã thích hợp, việc trao đổi cho nhau lời thề nguyền thuận thảo là động thái thiết yếu qua đó hai người trao cho nhau trong lễ cưới. Nhưng, vẫn là điều cần thiết nếu lời thề nguyền trao nhau ấy đã được Hội thánh chuẩn thuận. Để cho đám cưới không bị trở ngại về tính cách có hiệu lực hay không, hiện vẫn có hai mẫu thề nguyền ghi trong sách  “Nghi thức Lễ Cưới” để ở phòng thánh mỗi nhà thờ, đôi tân hôn có thể hỏi cha chủ sự để chọn lựa.

Điểm thứ tư, là nơi ký giấy hôn thú cũng như gấy tờ nào khác vào cuối lễ cưới. Có một số lễ cưới, nhiều vị chủ sự hoặc đôi tân hôn yêu cầu ký giấy tờ ngay trên bàn thờ, đó là điều Giáo hội nghiêm cấm.Lý do, là bởi bàn thờ làm lễ không chỉ là bàn đơn thuần để ký kết. Bàn thờ tượng trưng chính Đức Kitô, đã được cung hiến, thế nên chỉ có các đồ vật thánh thiêng dùng trong phụng vụ mới được đặt lên đó.

Việc ký giấy hôn thú không phải là thành phần chính thức của phụng vụ lễ cưới, bởi thế cũng nên sử dụng một bàn nào khác, cho việc ấy. Cũng nên biết rằng, khi ai đó tận hiến chính mình cho Chúa trong nghi thức phụng vụ cần phải ký kết lời khấn hứa suốt đời mình trên bàn thờ, lý do là vì người ấy muốn tận hiến đời mình cho chính Chúa, mà bàn thờ tượng trưng cho chính mình Ngài, mới đúng lẽ. Trong lễ cưới, đôi tân hôn cam kết ăn đời ở kiếp với nhau, chứ không phải cho Chúa.

Nói tóm lại, đôi tân hôn có rất nhiều văn bản để đọc hoặc ca khúc để hát, họ đều có thể chọn lựa và phải tôn trọng luật của Hội thánh và cũng nên quan tâm đến ao ước của vị chủ sự khi đưa ra sự chọn lựa.” (x. Lm John Flader, Question time, The Catholic Weekly 16/1/2011, tr. 10)

    Nói gì thì nói, nói như đấng bậc vị vọng rất chính mạch, là nói thế. Tức, nói có sách. Nhưng thực tế cuộc đời, tưởng đôi lúc cũng nên uyển chuyển cho nhẹ nhàng hơn để các đương sự không phải suy nghĩ nhiều. Chí ít, là suy và nghĩ chuyện yêu đương, hoặc đương yêu. Yêu đương, vẫn có nhiều thứ để nghĩ suy hơn, như truyện kể để minh hoạ, ở dưới đây:

“Ngày xưa có một anh chàng nhà nọ, gặp người con gái rất mỹ miều, thuỳ mị. Công dung ngôn hạnh đầy đủ cả. Mới gặp, anh đã đem lòng yêu mến, muốn cưới nàng làm vợ hiền. Cuối cùng, nàng nhận lời. Nhưng ra điều kiện với lang quân, là: mỗi năm phải để cho cô được vắng mặt, chỉ một ngày. Đi đâu, làm gì anh không được thắc mắc, điều tra hay tìm hiểu. Nghe thấy dễ, chành thanh niên liền đồng ý, chẳng đắn đo.

Cuộc sống đôi lứa trôi qua, khá lẹ. Chẳng khi nào thấy đôi vợ chồng này to tiếng cãi vã nhau. Nhất nhất đều thực hiện lời nguyền vào ngày cưới. Cho đến một hôm, khi cô nàng xin phép được vắng nhà như đã dặn, chàng trai mới sực nhớ là mình vì quá yêu đương nên hơi vội chăng? Vì lỡ hứa, nên đành chịu. Dù chàng trai cứ như ngồi trên lửa, đứng lên ngồi xuống vẫn thấy thời gian lê thê, quá dài ngày. Cuối cùng, đúng hẹn, người vợ hiền đã trở về, mọi việc cứ thế trôi qua êm ả, lặng lẽ, chẳng nghi ngờ.

Thời gian lặng lẽ trôi qua. Chẳng mấy chốc một năm nữa đã chợt đến. Và, người vợ hiền lại thực hiện lời nguyền/hứa lên đường vắng nhà, cả ngày trời. Cuộc sống vợ chồng vẫn như năm trước, chẳng có gì phải lo nghĩ. Duy, có mỗi sự việc là: cứ đúng một năm mười hai tháng sao vợ mình lại cứ phải đi vắng. Tính tò mò, chợt nổi lên, đức lang quân nhà mình bèn quyết định theo bám để điều tra.

Trong khi đó, người vợ hiền tin tưởng lòng thành của chồng, cứ thế cắm đầu tiến về phía trước, chẳng nghi ngờ chi. Đến tận bìa rừng, người chồng thấy vợ mình chui vào bụi rậm, rồi biến mất. Chờ mãi không thấy vợ quay ra, anh chồng bèn rón rén lại gần. Đến nơi, mới thấy chú rắn hổ đang cuốn mình lột xác. Bất chợt hoảng sợ, chàng trai vội cầm con dao đem theo mình, chém lia lịa. Rắn hổ chết gục trong vũng máu. Trước sự ngạc nhiên đến kinh hồn bạt vía, người chồng thấy chú rắn đã hiện nguyên hình của vợ hiền quằn quại trong vũng máu, hấp hối.

Nhớ lại, chàng trai mới tỉnh ngộ hiểu được rằng: thì ra, rắn hổ xin phép vắng mặt là để lột xác vứt bỏ mọi bực bõ, dồn nén suốt cả năm. Bỏ đi lớp da khô sần xùi cùng với nọc độc là những ưu tư phiền muộn của đời sống của lứa đôi. Bỏ được rồi, người vợ lại trở về với hình hài của thân phận vợ hiền dễ mến, quyết nhịn nhường chồng con, như đã thề. Người chồng nghĩ lại, chính vì tính tò mò, đa nghi đã khiến anh thất hứa, kết quả là: chính anh lại chuốc lấy khổ đau, của mất mát lớn. Mất đây, không chỉ người vợ xinh đẹp dịu hiền, mà còn chịu hậu quả của sự bội thề, là: khổ đau. Âu sầu. Mất bác ái.

    Lời kết của người kể, đã không có hậu lại hơi quá. Hơi hơi quá, là bởi: trong cuộc đời, biết bao nhiêu người từng bội phản lời nguyền quyết “yêu người, yêu Phượng” hoặc yêu ai đó, bằng “tiếng nói đơn sơ”, bằng “gió núi qua khe gập ghềnh”, hoặc bằng “tiếng hát yêu tinh”, hơn mãng xà, cũng chẳng sao. Thậm chí có vị còn dựa vào câu kết của bài ca trên làm bí kíp sống, chống chế rằng:

            “Yêu người, yêu có một lần thôi.
Xin yêu, dù gian dối
Xin yêu tôi, dẫu nghi ngờ
Khi bơ vơ còn nhiều
Thì đâu chối bỏ tình yêu.”
(Phạm Duy – bđd)

    Là nhà Đạo, kết cuộc cho một tình yêu “đến chết được”, có lẽ phải là câu nói để đời từ Đấng thánh, hiền lành vẫn quả quyết:

            “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình của người
            đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình.”
            (Ga 15: 13)

    Yêu như Thầy Chí Thánh căn dặn, không chỉ tỏ lộ với bạn bè người thân mà thôi. Nhưng phải với hết mọi người. Trong đời. Chính đó là ý nghĩa của cụm từ “bác ái”, rất trong Đạo.

    Trần Ngọc Mười Hai
    Nhiều khi cũng suy nghĩ
về hai chữ Bác ái     
    cả trong Đạo
    lẫn ngoài đời.

10.  “Ta vẫn thương người yêu dấu cũ”
“Dù hồn chơi vơi dù nhạc buông lơi tàn rồi
Người còn mai sau thôi lạc kiếp mãi chờ nhau.”
(Ngô Thụy Miên – Từ Giọng Hát Em)
(1 Ga 4: 7)

Trong chuỗi ngày dài những viết và lách của bần đạo, có hai sự kiện rất ư là tiêu biểu. Một là, bần đạo thường tự hỏi: làm sao tìm cho ra đề tài thích và hợp, để tản mạn. Hai nữa, là: tìm được rồi, lại phải nhẹ nhàng rong bước chân âm thầm vào chốn thi ca/âm nhạc để đầu óc cho thanh thản du hồn mình vào với thế giới thần tiên, chốn miền của nhận thức.
Thế nên, đề tài mà bần đạo rong phiếm hôm nay, là chuyện mà người ca sĩ từng bộc bạch:

“Rồi từ giọng hát em chợt vút cao vút cao
một trời một trời
Bài ca thánh đêm vang lên trong ngày dài
mệt nhoài một phận đời.”
(Ngô Thụy Miên – bđd)

Cũng từ giọng hát em chợt vút cao ấy, người tình nào mà cũng dông dài kể cho nhau nghe giai điệu cuộc đời, chắc sẽ tính toán như bạn đời nọ vừa có thư tình lòng thòng kiểu “hành chánh”, như sau:

“Người Tình của tôi thân mến,
Tôi rất hân hạnh thông báo cho cô biết, là: tôi đã phải lòng yêu cô từ những năm tháng dài cuộc đời, sau cuộc gặp gỡ giữa cô và tôi lúc 3 giờ chiều ngày 14 tháng chạp, năm ấy. Tôi nhận thấy mình có dư tiêu chuẩn để trở thành người tình đầy triển vọng của cô. Và, để tiện cho việc tiến tới giai đoạn tìm hiểu nhau sau này, tôi có vài đề nghị như sau:
Tình yêu của chúng ta sẽ trải qua một hạn dài thử thách là 3 tháng. Và, tuỳ vào sự tương đồng giữa đôi ta, mà tôi sẽ quyết định có nên tiếp tục quan hệ thường xuyên nữa hay không. Dĩ nhiên, sau khi thời hạn thử thách đã hết, ta sẽ lại xúc tiến kế hoạch để chuyển từ giai đoạn tình yêu sang hôn nhân, rất gần.
Chi phí cho mọi khoản cà phê, trà bánh lúc ban đầu, tôi đề nghị mình sẽ chia đôi, rất sòng phẳng. Về sau, nếu kết quả của tình yêu cô thể hiện cho tôi dồi dào đủ, thì ta sẽ gánh vác thêm một ít chi phí khác. Mặc dầu thế, tôi là người rộng lượng đủ để đón nhận sự quan tâm lưu ý của cô xem có xứng hợp với khoản chi tiêu, cô bỏ ra không.
Tôi trông đợi cô sẽ vui lòng hồi đáp thư này trong vòng 30 ngày kể từ lúc nhận được thư. Nếu không, đề nghị tôi đưa ra sẽ bị coi như không khả thi. Lúc ấy, không cần phải có thư thông báo, tôi sẽ đi tìm người yêu khác. Dù rằng thế, tôi rất vui lòng nếu được cô chuyển thư này đến người em gái dấu yêu của cô, ở vào trường hợp nếu cô không xem xét một cách tích cực mọi đề nghị rất ưu ái, của tôi.
Trước khi chấm dứt lá thư đầy tình cảm này, xin cô nhận nơi đây lòng thành kính biết ơn của tôi.
Thân ái,
Ký tên,
Người yêu giống nhân vật Rômêo đang tìm kiếm Juliét.

Chỉ biết là, vào thời đó, Rômêô cũng đã đi tìm Juliét ở cõi chết. Dám hỏi rằng, anh có mang theo những lời ca sang sảng đến muộn phiền, như sau không?

“Ôi biết bao giờ ta đốt hết, từng lời ca êm
mặn nồng trong tim muộn phiền
Người đem giá băng về trên tuổi đá buồn
Ta chết theo ngày em cất tiếng
Nhạc còn buông xuôi người còn chơi vơi tìm người
Người còn xa xôi cho mùa thu úa tàn theo.”
(Ngô Thụy Miên – bđd)

Thú thật là, bần đạo đây xưa nay chưa từng lần nào biết “chết theo ngày em cất tiếng” , hết bao giờ. Bởi “người em” của bần đạo có bao giờ chịu cất tiếng, dù chỉ là một chút du ca. Đạo ca. Hay, thiền ca đâu. Bởi thế nên, lâu nay bần đạo vẫn cứ ê a thêm một đoạn nhạc, như bên dưới:

”Thấy tiếc nuối người yêu ơi xin em một lời
Tạ từ nhau thôi cho mưa bay ngút ngàn phương trời
Ta theo lời hát đó như theo ngàn mây trôi
đẫm ướt trên bờ môi
Trời còn làm mưa rơi
cho tình mình còn thắm tươi nồng nàn.”
(Ngô Thụy Miên – bđd)

Hôm nay đây, khi nghĩ về “tình mình còn thắm tươi nồng nàn”, các vị cứ là ngâm nga hát lên
lời ca trên, rồi sẽ bảo:

”Còn chờ ngàn kiếp sau
một tiếng ca tiếng ca tạ từ, tạ từ
Bàn tay đã như xanh xao đan
cuộc tình mù lòa trọn đời mình.”
(Ngô Thụy Miên – bđd)

Đã là cuộc tình, thì tình nào mà chẳng mù lòa? Tình nào mà không muốn trọn đời mình. Chí ít, là tình đôi lứa. Rất vợ chồng. Và thêm nữa, là tình anh em như chi thể một thân mình, là Đức Chúa. Chẳng thế mà, thánh nhân khi xưa vẫn từng khuyên:

“Trên hết mọi đức tính,
anh em phải có lòng bác ái:
đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.
Ước gì ơn bình an của Đức Ki-tô
điều khiển tâm hồn anh em,
vì trong một thân thể duy nhất,
anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó.”
(Cl 3: 14-15)

Rất nhiều vị, vẫn nghĩ rằng: cụm từ “bác ái” ôm trọn rất nhiều nghĩa, không chỉ là “tình mù loà”, của lứa đôi. Mà thôi. Ví thử như, vợ chồng/chồng vợ và đôi lứa cứ áp dụng tình bác ái rất “mùa loà”, “trọn đời mình”, thì tình ấy chắc hẳn thể nào cũng là “tình mình thắm tươi nồng nàn”. Chẳng lo gì hai chữ “tạ từ, tạ từ”, hoặc: “xanh xao”, “chờ ngàn kiếp sau”…
Có bạn nọ, từng đánh đố bần đạo một câu để hỏi cho biết: cớ làm sao người Việt mình, hay cứ là bắt chước người Tây người Mỹ nay đã biết ly thân, tần ngần ly cách người mà mình từng thề hứa sẽ “ở với nhau đến bạc đầu”? Thú thật là, bần đạo rất ngại trả lời những câu hỏi theo kiểu “đố vui để học”, hoặc “học rồi sẽ đố”, cho vui. Nghe hỏi, chứ không phải bị đố, bần đạo cũng lại theo kiểu xưa là cứ “tầm thầy học đạo”, để cho biết mà thưa thốt. Nếu không, cũng đành “dựa cột mà nghe” thôi!
Và, cũng vì phương sách “học thày, không tày học bạn”, chí ít là những bạn nối khố hoặc chí thân, nên bần đạo cũng dám lân la, la cà hỏi bạn bè. Có bạn lại cứ lanh chanh cho rằng: ở quê nhà, các đức ông chồng vẫn có thói quen một thân nuôi của nhà, nên vẫn làm vua. Khi đi Tây các vị nữ lưu được chiều chuộng, nên lên nước làm “đệ nhất phu nhân”, bèn coi rẻ.
Một bạn khác lại “xí xọn” bon chen thêm ý nghĩa, cứ bảo rằng: đó là do các luật sư xúi giục ly thân với ly dị là để có quyền thừa hưởng phân nửa gia tài, dù không lớn. Tuy thế, phần đông bạn bè (tức bạn nhiều hơn bè) lại nhỏ nhẹ bảo với bần đạo rằng: sở dĩ có chuyện ấy, là vì người ta (tức người và ta, hoặc ta là người) vẫn cứ quên lời dặn dò của thân nhân, buổi hôm trước. Thế thôi.
Thánh nhân, cũng rất nhiều thánh có người đưa ý kiến, có người không. Thôi thì, ta cứ tìm hiểu đôi ba lẽ, để xem sao. Một lẽ thường rất hay thấy, thời bây giờ, không cứ ở bên Tây hoặc ao nhà bên ta, là: các đức ông chồng và bà chúa cứ là chê không chịu thay đổi trong cách sống cho phù hợp với xã hội. Vẫn bổ cũ soạn lại, rất khó khăn.
Vì, sao mà coi được nếu mang tiếng là vợ chồng mà chẳng sẻ chia một chút trách nhiệm nuôi nấng con cái. Cũng chẳng biết tôn trọng và cảm thông cho nhau.
Thật sự thì bần đạo chẳng bao giờ dám “vơ đũa cả nắm”, nhưng chừng như ngày nay người ta (tức ta và người), dễ chừng quên khá nhiều lời khuyên của đấng thánh, vẫn có câu, như sau:

“Anh em hãy cẩn thận xem xét cách ăn nết ở của mình,
đừng sống như kẻ khờ dại,
nhưng hãy sống như người khôn ngoan,
biết tận dụng thời buổi hiện tại,
vì chúng ta đang sống những ngày đen tối…
Chớ say sưa rượu chè,
vì rượu chè đưa tới truỵ lạc,
nhưng hãy thấm nhuần Thần Khí. “
(Êp 5: 15-18)

Thêm vào đó, cái khó và cái khổ của thời hôm nay, là: có nhiều thứ mà người thời nay tìm ra hoặc tạo ra, còn khiêu khích/hấp dẫn hơn những là “say sưa chè chén”, cũng khá nhiều. Người có kinh nghiệm, sẽ bảo là: chính đó: sắc dục, cờ bạc, “bột trắng”, nhạc kích động, “ghêm” kích dục, đầy bạo lực. Và, còn nhiều nữa.
Tuy nhiên, có một yếu tố khác, cũng nằm trong lời khuyên của thánh nhân khi xưa mà người thời nay, đà quên mất. Đó là lập trường chín chắn được thánh Phao-lô khi xưa vẫn nhủ khuyên:

“Là vợ chồng,
anh chị em hãy tòng phục lẫn nhau
trong sự kính sợ Đức Kitô,
như Hội thánh vẫn phục tòng Thiên Chúa.”
(Êp 5: 21-26)

Tương quan chồng vợ/vợ chồng, thật sự nằm ở cụm từ “tòng phục”. Tòng phục, là tòng và phục ở đôi bên chứ không chỉ một phía. Không phải, cứ thuyết phục người phối ngẫu để người ấy tâm phục/khẩu phục rồi bắt người ấy phục dịch mình, cũng không phải cứ bắt mình phục vụ người ấy, như đã tuyên hứa lúc kết hôn. Và, tòng phục gồm hai ý nghĩa: vừa tòng vừa phục. Tòng, như tòng quân. Tòng Đạo. Không tính chuyện “đào ngũ”. Và, phục, theo nghĩa tuân theo. Chịu để mình khuất phục, mà phục vụ.
Thật sự, thì: với những vị đang chịu cảnh gãy đổ tương quan đôi lứa, thì có vị cho rằng có những tình huống khả dĩ giúp một trong hai người trở về nhận lãnh ân huệ Trên ban. Ân huệ ấy, có thể là cơ hội gặp lại Thiên Chúa, qua người phối ngẫu bên kia. Để biết rằng, người ấy/bên ấy cũng từng kinh qua một khổ đau, sầu buồn như chính Chúa. Khổ đau không chỉ về thể xác, mà có thể là thần tính. Tức, tính thần thiêng, hoặc chính sự lạnh nhạt về tình yêu, cũng không chừng.
Chẳng ai dám tự hào mình thuộc loại “mình đồng da sắt” vẫn lướt thắng mọi thử thách, của thời gian. Chẳng một ai dám tự bảo mình không cần gì đến sự trợ giúp của đệ tâm nhân. Chí ít, là chính Chúa. Chúa, không ở trên cao. Nhưng vẫn hiện diện trong tâm can, của người khác. Có lúc là chính người phối ngẫu, phía bên kia. Có khi, là đệ tam nhân. Rất người trần.
Đến với người khác, dù người kia ấy, hay đệ tam nhân, chắc chắn sẽ cảm nhận được sức mạnh của Tình thương, đang hoạt động nơi mình. Nơi người. Để được thế, điều quan trọng là mỗi người/mỗi bên, hãy nhớ rằng: mình từng hứa sống thực với lòng mình. Mà lòng mình, bao giờ cũng chăm chú kiếm tìm sự thật và sự sống. Với Đạo Chúa, sự sống rất thật ấy, còn đó vẫn hiện diện ở Tiệc Thánh. Tức, tiệc của lòng mến mà cả hai đã từng cam kết những hứa và thề, với Bề Trên.
Về với “lòng mến” có Tiệc hay không, hãy tưởng nhớ đến lời ca hôm nào mình vẫn hát:

“Rồi từng ngày tháng vui,
tìm bước qua bước qua một lần thật gần
Người ta dấu yêu xin em, cho một lời
miệt mài trọn đời mình.”
(Ngô Thụy Miên – bđd)

Vấn đề là như thế. Khi vui thì “tìm bước qua thật gần”. Thật gần. Khi có vấn đề, lại cứ xin, dù chỉ là “miệt mài”, một lời”, “trọn đời mình”. Lời miệt mài ấy, thấy nhiều ở những cặp trai gái. Lứa đôi. Hoặc, thôi không còn trẻ nữa, như lời của cặp “tình già, vẫn viết thư cho nhau, dù ở tuổi 90, như sau:

“Anh ngồi bấu tay vào thành giường nhìn ra ngoài trời. Hình như mưa. Mắt anh mấy ngày nay thấy nắng loà nhoà lại tưởng mưa, thấy mưa thì nhìn như đang nắng xuống. Thằng chắt nội nói, mắt cụ nhìn không rõ nữa, cụ đi đâu để cháu dắt. Nó nói thật em nhỉ, nhưng mình cần gì nó dắt, ví thử có em đến ngoài ngõ kia, anh chẳng nhìn thấy rõ mồn một sao.
Anh vẫn khoẻ. Mỗi ngày các cháu nó cho ăn năm bữa, mỗi bữa một bát cháo đã nát nhừ. Anh chỉ dám viết thư cho em mà không dám gọi điện vì tiếng của anh nói em chỉ có thể nghe như tiếng rừng phi lao xào xạc.
Sáng nào anh cũng đi thể dục, đi từ mép giường ra tới bậc cửa sổ, vị chi là bốn bước. Bốn bước mà đi mất hai giờ, mồ hôi đổ vã ra, sảng khoái ghê! Nay con cháu đông rồi, anh không phải đánh máy như ngày xửa ngày xưa nữa, các cháu giúp ông. Nhưng khi viết thư cho em, anh phải tự đánh máy lấy. Thư này anh viết từ mùa hè, giữa hè, đến đúng mùa đông thì xong, mỗi ngày anh viết quần quật được hai dòng. Ngày nào viết đến ba dòng thì phải truyền một lọ đạm. Nhớ cách đây chừng 50 năm em nhỉ, chúng mình chạy ào ào trên bãi biển. Em thì lúc nào cũng hét lên: Thích quá cơ. Còn anh thì chạy theo sau nhìn em, thấy đôi chân em trắng loáng trong ánh chiều hoàng hôn ở bãi biển mà nhớ mãi.
Giờ vẫn nhớ đấy. Hôm rồi, nhớ em quá bảo đứa cháu nó đưa ra biển. Định nhấc chân bước, định hổn hển nhắc lại lời em nói, thích quá cơ, nhưng suýt nữa người anh đổ chúi xuống vì gió biển thổi. Nhận được tin em đã hết ốm, đã ăn được mỗi bữa năm thìa cháo bột mà mừng quá. Ăn năm thìa là tốt rồi, ăn nhiều quá không nên em ạ. Anh khoẻ thế này mà chỉ ăn bốn thìa thôi là thấy no căng. Nhớ ngày xửa ngày xưa vẫn thích ăn cơm nguội với nước cá kho. Vừa rồi, tự dưng thèm cơm nguội cá kho, ăn một chút thôi mà miệng anh như ăn phải đá hộc, đau tê tái.
Anh nhắc nhé, nếu ngoài trời có gió là em không được ra ngoài. Hôm qua, mấy đứa cháu bảo ông ơi, ra sân hóng mát, gió nồm mát lắm ông ạ. Theo chân nó vừa ra tới sân, ngọn gió nồm suýt thổi anh bay lên nóc nhà, may có hai thằng cháu giữ chặt.
Sắp tới ngày sinh nhật em nhỉ. Thế là em đã tròn tuổi 80. Hôm đó anh sẽ cố gắng điện thoại. Nhưng anh nói trước, nếu em nghe tiếng xào xào tức là anh nói rằng em đấy hả. Khi nghe tiếng thùm thùm tức là anh đang chúc em sinh nhật vui vẻ. Đến khi nghe tiếng phù phù nhiều lần là anh đang hôn em. Nhớ hồi ấy, anh đưa hai tay lên nhấc bổng em quay mấy vòng giữa trời, em cười rất to. Giờ anh nhìn lại đôi tay mình, hình như tay ai, nhìn rất tội. Hôm qua anh cố nhấc con búp bê bé tý lên cao mà nghe tiếng xương cốt kêu răng rắc, sợ quá nên thôi.
Em ngủ ngon không?
Anh chợp mắt từ chập tối. đến khoảng 9 giờ là dậy, ngồi, nhìn ra trời đêm. Mấy đứa cháu nói ông ngủ ít quá. Anh bảo, thì đến khi ông ra đi, xuống đất, ông ngủ cả ngày lo gì. Thỉnh thoảng, anh vẫn mở máy tính, xem lại mấy bài viết trên blog hồi ấy, thấy rất vui. Chắc giờ mấy ông, mấy bà blogger cũng không còn mấy ai nữa, lâu chẳng thấy ai vào blog nữa. Lũ cháu hỏi, ông ơi, blog là gì. Chúng nó bây giờ chẳng có blog. Ngồi bô đi ị mà vẫn có màn hình máy tính ở miệng bô, thích thật. Thời buổi giờ hiện đại quá, mình chẳng biết gì. Nhà anh, có cái máy giặt, con cháu nó đi làm, điều khiển từ xa, điều khiển cả rôbốt. Anh ngồi, rôbốt nó đến, nó cởi áo anh ra, nó gội đầu cho anh, tắm táp, rồi còn mang áo quần đi giặt. Lũ trẻ bây giờ yêu nhau cũng nhờ rôbốt làm hộ. Máy chữ không cần đánh, muốn viết gì, chỉ cần đọc là máy tính tự gõ chữ. Nhưng tiếng anh phì phèo quá nên máy chữ nó đánh sai hết cả. Ai đời anh viết, em ơi, anh nhớ em lắm nhưng vì miệng anh móm mém phì phò nên máy nó nghe không rõ, nó đánh thành: Phem phơi, phanh phớ phem phắm. Thế mới bực!
Anh không muốn gọi em là bà. Cứ gọi nhau bằng anh, bằng em thế nghe ngọt ngào. Hai ngày nữa anh tròn 90 tuổi. Anh đợi thư em. Mà nếu không gửi được thư thì bảo rôbốt nó mang thư đến cho anh em nhé.
Anh dừng bút.
Thằng chắt nội đang mang chén cháo bột đến để cho anh ăn. Chúc em ngủ ngon nhé. Nhớ đừng ra gió.
Êu em !!!!

Thơ tình, hay tình thơ. Thứ nào cũng là tình như thơ. Dù tình ấy nay đã cửu tuần. Dù ngày tháng ấy, nay nào được như xưa. Được hay không, cứ hãy nhớ rằng: đã có lần thánh nhân nhà Đạo vẫn từng bảo:

“Anh chị em thân mến
chúng ta hãy yêu thương nhau,
vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.
Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra,
và người ấy biết Thiên Chúa.”
(1 Ga 4: 7)

Hiểu đuợc như thế, ắt hẳn người người sẽ không còn tìm cách chỉ bắt người khác những là tòng và phục chỉ mình mình mà thôi. Bởi như thế, đâu còn là Nước trời ở trần gian, ta đang sống. Phải không bạn, phải không tôi? Những tôi và tớ, vẫn là bạn. Của nhau. Suốt đời. Và trong đời.

Trần Ngọc Mười hai
Cứ hay nhắn và vẫn nhủ
những tôi và bạn
rất hôm nay.

11. “Không! Không! Đến với tôi, nữa làm gì?”
Không! Không! Đến với tôi nữa làm gì.
Thôi! Thôi! Tôi van xin. Tôi van xin, đừng đến nữa tình yêu ơi.”
(Nguyễn Ánh 9 – Không 2)
(1Pe 4: 8-9)
    Ô hay! Nói tiếng “Không”, mà sao người nghệ sĩ lại gọi là “Không 2”? “Không 2”, phải chăng là 2 “Không”. Là 2 lần không, tức: có? Là, có/không - không/có, những hai lần”? Hoặc, “Không 2”, còn mang tính cách của hàm số “không”, rất bình phương?”.Tức, “không” nhân cho “không”, vẫn thành “không”, vẫn là số “Không!” to đùng, vẫn “sắc sắc không không”, rất hư vô. Tức “Không có gì”. Gì gì đi nữa cũng vẫn không. Không đi/không lại, mãi vẫn hoàn không. Nói gì cũng không hiểu. Kể gì cũng không hay. Nếu thế thì, cả người nói lẫn người nghe sẽ nổi cơn khùng điên mất. Khùng và điên, như chuyện điên khùng rất tếu, ở bên dưới:

            “Truyện rằng:
Có người bệnh vừa bước vào phòng mạch của bác sĩ nọ, chưa thấy mặt ông, đã  thấy giọng nói, rất sang sảng:
-Này, anh bị sao mà vào đây?
-Tôi điên mất rồi bác sĩ ơi. Tôi không còn biết tôi là ai nữa, thế có chết không!
-Cứ từ từ mà nói. Thế nghĩa là thế nào? Anh kể rõ hơn được không?
-Vâng, thưa bác sĩ. Vợ tôi trước khi lấy tôi, bà ấy đã có đứa con gái riêng ở Việt Nam. Bây giờ cô bé ấy đã là thiếu nữ trưởng thành. Mới đây, Bố của tôi về bên nhà cưới cô này, về làm vợ.
-Đó là chuyện thường tình, tôi thấy có vấn đề gì đâu.
-Nhưng thưa bác sĩ, kẹt một nỗi, là: vợ tôi đã trở thành mẹ vợ của Bố tôi.
-Bắt buộc là thế, có sao đâu! Ngôi thứ xã hội mình mà…
-Nhưng, khổ một nỗi, là: mới đây cô con gái của vợ tôi lại sinh hạ một cháu trai. Thằng đó, tôi phải xem là em cùng cha khác mẹ với tôi…
-Coi nào. Ừ đúng. Không thể gọi khác hơn!
-Đằng này, cùng lúc, tôi và vợ tôi đều là ông/bà ngoại của nó!
-Ừ đúng. Quả không sai!
-Vấn đề là: mới đây vợ tôi sinh được một đứa con trai. Vậy thì, con gái riêng của vợ tôi là con ghẻ của tôi, tức mẹ kế của tôi, đồng thời lại là chị của đứa con tôi, lại vừa là bà nội của thằng bé. Nói cách khác, con tôi là em tôi và cũng là cậu của tôi vì là em của mẹ kế tôi.
-Ơ! Ờ… thì đúng rồi. Phải gọi thế, chứ gọi thế nào nữa.
-Như vậy, thì vợ tôi trở thành con dâu của mẹ kế tôi, tức là con gái của vợ tôi trở thành Dì ghẻ của mẹ nó. Còn đứa con của tôi lại là Cháu tôi, và là Ông nội của tôi, và cũng là Anh của vợ tôi. Vậy bác sĩ thử xem tôi là ai? Tôi điên thật rồi, bác sĩ ơi!
-Thôi anh đừng kể nữa, tôi cũng đang điên rồi đây…”

    Điên khùng hay không, chừng như thế gian người người xưa nay, rày vẫn thế. Bác sĩ, bệnh nhân, người kể, người nghe đều biết rồi ra mình cũng sẽ điên khùng/khùng điên theo cung cách nào đó, rất liên miên. Bởi, nên mà điên, thì làm sao kể được chuyện vợ chồng/con cái, với hôn nhân. Bởi, nhân gian những chuyện rất hôn và nhân, không chỉ vợ chồng/chồng vợ ở đời trần, rất phàm tục. Vốn tục phàm, nên có người bảo: Ở với nhau, người đời chỉ cần yêu, chứ đâu cần hôn nhân, những cưới hỏi!
Cưới và hỏi, chuyện nhân duyên có là chuyện nhà Đạo hôm nay ở xứ mình nữa chăng? Bần đạo ngồi phiếm, nay nghe hỏi cũng chả dám trả lời. Chỉ xin hát thêm câu ca mà người nghệ sĩ, vẫn cứ hát:

            “Người ơi, cho tôi chi lời ân ái.
            Người ơi, cho tôi chi phút mê say!
            Để, giờ đây ai cho tôi lời cay đắng.
            Để, giờ đây ai cho tôi lắm phũ phàng.”
            (Nguyễn Ánh 9 – bđd)

    “Lời ân ái”, “phút mê say”, với người Mỹ có học lực bậc trung bình, thì vấn đề hôn nhân đang ở tình trạng khá lúng túng, khác xưa. Lúng túng, còn là trạng huống của lớp người có nền giáo dục bậc trung, nay không muốn dính dấp đến chuyện hôn nhân/hôn thú, nhưng vẫn muốn có con. Với những người này chuyện ly thân/ly dị cũng đã tăng dần. Trong khi đó, hạnh phúc lứa đôi nơi họ cũng đang trên đà giảm sút. Thậm chí có nhiều vị, vì lý do này khác nay cũng bớt đi nhà thờ/nhà thánh. Bớt cả chuyện hỏi cưới, hôn nhân, với gia đình. Chỉ thích sống thoải mái không phiền hà một ai. Bản thân, lại không muốn bị ràng buộc bởi lề luật. Luân lý. Và, đạo đức. 
    Phải chăng, vì cũng mang cùng một tâm trạng như thế, nên người nghệ sĩ mới hát tiếp:

            “Tình yêu cho tôi chi nhiều ngây ngất,
            Tình yêu cho tôi chi lắm men say.
            Để tình yêu đem thương đau và nước mắt,
            Để tình yêu đem cho tôi lắm chua cay.”
            (Nguyễn Ánh 9 – bđd)

    Vâng. “Ngây ngất”. Với “men say tình yêu” thôi, mà còn như thế. Chứ, nếu đó lại là hôn nhân hay nhân hôn ngày cưới, thì chắc vấn đề còn gai góc hơn nữa?
    Mới đây, theo báo cáo của cơ quan nghiên cứu Dự Án Hôn Nhân và Giá trị Gia đình ở Mỹ, có cho thấy các người Mỹ thuộc giới trung lưu, nay muốn lui không còn sốt sắng tiến tới hôn nhân như trước nữa. Con số đám người này, nay đang lên. Báo cáo cho biết: với người Mỹ trung lưu, vấn đề hôn nhân nay có dấu hiệu sút giảm, rất đáng kể. Trong khi đó, với người giàu có/sung túc, thì chuyện này nay xem ra ổn định và vững mạnh hơn.
Với lớp nghèo thành thị, thì chuyện hôn nhân gia đình ngày càng trở nên mỏng dòn, rất yếu kém.
    Theo khuynh hướng, mà người Mỹ thuộc giới trung lưu đeo đuổi, thì: số người không lập gia đình nhưng vẫn muốn sinh con, kết cuộc bằng ly thân/ly dị, đang có chiều hướng gia tăng. Ngay, nhu cầu hạnh phúc có được từ hôn nhân gia đình, cũng đang ở tình trạng sút giảm. Báo cáo cho biết: số người này so với tất cả mọi người sống trên đất Mỹ, nay lên đến 58%. 
Báo cáo phát hiện ra, rằng: hôn nhân, nay đã trở thành đường ranh ngăn cách các người có nền học vấn trung bình và các vị tốt nghiệp cao đẳng 4 năm. Nói rõ hơn, trong mấy năm gần đây, lớp người có trình độ học vấn cao, thường có khuynh hướng muốn chuyện hôn nhân của mình thật ổn định và có chất lượng cao. Con số những người này, nay lên đến 30% so với số dân toàn quốc.
Đến thập niên 70 thôi, 69% số người có học vấn trung bình và cao cho thấy: họ rất hài lòng về cuộc sống hôn nhân của họ. Trong khi đó, 59% số người có học lực thấp, cho thấy họ cũng hài lòng, nhưng hơi kém.
Đến năm 2000, 69% số người có học vấn cao lập gia đình, cho biết: đời sống hôn nhân gia đình của họ thành công, cũng không kém. Trong khi đó, tỷ lệ người có học vấn trung bình bằng lòng chuyện hôn nhân, nay suy giảm còn 57%. Và, chỉ còn 52% số người có học vấn không khá, nói là họ tạm hài lòng với cuộc sống hôn nhân gia đình, thôi.                  
    Về với tinh thần của Tin Mừng, thì thế nào?
    Với các thánh tông đồ, ta vẫn nghe rằng:

            “Anh em hãy hết tình yêu thương nhau,
vì lòng yêu thương che phủ muôn vàn tội lỗi.
Hãy tiếp đón nhau mà không lẩm bẩm kêu ca.”
             (1Pe 4: 8-9)

    Với nhà Đạo, dù ở thứ bậc hoặc giai cấp nào trong xã hội, thì cứ “hết tình yêu thương nhau”, vẫn là chuyện chính. Bởi, có yêu thương nhau mới kết thân, gần gũi mà ở với nhau đến bạc đầu. Với người đời, thời hôm nay, vẫn còn những thống kê và con số khiến choáng ngợp về ly thân/ly dị như ở Hoa Kỳ.
Báo cáo cho biết: từ thập niên ’70 đến ’90, chuyện ly thân/ly dị sau 10 năm đầu chung sống xem ra ít xảy đến với lớp người có học vấn cao. Nghĩa là, cũng từ 15% xuống còn 11%. trong khi đó, với lớp người có giáo dục trung bình, thì từ 36% lên 37%, và lớp người học thức thấp hơn, con số đã từ 46% xuống còn 36%. 
    Ngày nay, chuyện ly thân/ly dị đối với tầng lớp những người có nền giáo dục bình thường bậc trung đã đẩy lùi giấc mộng của người Mỹ đi khá xa. Xa đến độ, họ khó mà bắt kịp. Điều này, làm cho cuộc sống của các bà mẹ càng khó khăn thêm. Và, cũng lại làm cho các người cha càng rời xa gia đình. Tệ hại hơn, nó còn khiến con cái, các trẻ bé có động thái rời bỏ trường lớp, để rồi kết cục cuộc đời trong ngõ hẻm tăm tối, của những phá luật. Của, tệ hại vệ luâbn lý đạo đức, như: có bầu không hôn phối, vv…
    Tệ hơn nữa, chuyện hạnh phúc hôn nhân với gia đình, lại trở thành chốn tư riêng dành cho những người được chúc phúc bằng sự giàu có, sung túc. Làm trầm trọng thêm những rẽ chia, ngăn cách về văn hoá, xã hội. Tệ hơn cả, lại là mối đe doạ đem đến với nền dân chủ, khiến các lãnh tụ ngoài đời hay trong xã hội phải lo âu.
    Lo âu hơn cả, vẫn là mối quan ngại hàng đầu của các nhà mô phạm và giáo dục. Chí ít, là những vị có trọng trách dựng xây Nước Trời hài hoà, ở trần thế. Nhiều vị ở các nơi cũng đã đưa ra nhữngnhận định đầy quan ngại, như sau:

“Thật rất buồn khi thấy xã hội ở phương Tây không còn trân trọng thể chế hôn nhân, cho đúng cách nữa. Là người sống ở Phi Châu, bọn tôi vẫn vui hưởng sự ổn định, dù tương đối, với hôn nhân. Riêng tôi vẫn sợ rằng sự ổn định ấy sẽ mòn dần nếu như phong trào phụ nữ vẫn cứ tính chuyện hôn nhân theo cung cách tư riêng của họ; nghĩa là vẫn ký hợp đồng chung sống đến khi nào cuộc đời dịu êm cứ mòn dần, không còn êm ả như trước. Có nhóm phụ nữ lại dám áp dụng kiểu “đồng tính luyến ái” là những gì còn xa lạ với xã hội của chúng tôi.

Bản thân tôi vẫn mong rằng mọi người thấy được lợi ích của hôn nhân gia đình. Và tôi có đề nghị, là: ta cũng nên thiết lập làm một khảo sát nghiên cứu về quá trình lý lịch của những người phò chủ thuyết duy –phụ nữ. Những người cổ võ ly dị hoặc đồng tính luyến ái, để xem điều gì đã khích động họ đến độ họ có những suy nghĩ dại dột như thế. nghĩa là, giúp mọi người chúng tôi phấn đấu tranh thủ bảo vệ gia đình, của riêng mình.” (ý kiến của người ký tên Dorcy, xem thêm When Marriage disappears W. B. Wilcox & Elizabeth Marquardt, MercatorNet 7/12/2010)         

    Ý kiến của người Tây, hay Phi Châu thì như thế. Ý kiến của người mình, cũng chẳng kém là bao, về mặt lý luận và đạo đức của hôn nhân. Ý kiến của người ngoài đời, ở xứ mình, lại thêm thắt đôi chút tiếu lâm, khá dí dỏm. Như bức thu từ hôn của ông/bạn khá tếu, ở bên dưới:

        “Vợ cũ yêu dấu của anh,
Thư này gửi đến với em, để báo cho em rõ là: anh sẽ rời xa em vĩnh viễn. Anh đã là chồng tốt của em mấy năm qua; và, nay anh không còn nuối tiếc gì nữa, hết.

Hai tuần qua, anh đã sống như trong hoả ngục, quá chán chường! Lại thêm ông xếp của em vừa gọi báo cho anh biết là em sẽ thôi việc ngay tức khắc, không luyến tiếc.

Độ rày anh thấy em không còn niềm nở với anh từ khi em gái em là Phương Dung dọn về ở với chúng ta. Tuần vừa qua, anh đã đi hớt tóc kiểu em thích mà em chả quan tâm đến. Anh mặc cái quần thể thao hàng ngoại giá đến 50 đô, em cũng chẳng thèm khen. Anh đã cố gắng nấu những món ăn em thích như bún bò Huế, mà em cũng chẳng màng!

Đi làm về, em ăn qua loa dăm ba phút rồi chạy tuốt vào phòng nằm xem Paris By Night, rồi ngủ đến sáng, chẳng màng nhắc chuyện …vợ chồng. Chắc em không còn yêu anh nữa, hoặc đã có tình ý gì với ai?! Nhưng thôi, đủ rồi. Dù sao đi nữa, thì anh cũng dứt khoát ra đi với Phương Dung, chỉ thế thôi…

Chồng cũ của em,

Tái bút: Anh và Phương Dung sẽ đi xây tổ ấm mới nơi xứ Đảo Thần Tiên nào đó như Hạ Uy Di là điểm anh đã chọn. Đừng tìm anh vô ích. Cứ email về: …
Vừa đặt chân vào phòng khách sạn ở Hawai, anh chồng lấy cái laptop mở ngay ra xem email. Quả có ngay thư phúc đáp của vợ cũ, rằng:

Đức lang quân cũ yêu quí của em ơi,

Không gì lay chuyển tâm tư em khi đọc thư từ hôn của anh. Đúng thật anh là người chồng tốt sau bao năm chung sống. Em khóc trong sung sướng đây. Đi làm về, em xem DVD để nguôi ngoai tâm hồn, nhưng nào được đâu. Có chứ, em có để ý đến mái tóc của anh, sao mà nó giống kiểu tóc “gái gọi” ngày xưa quá! Ngày xưa, mẹ em thường bảo: đừng để ý tỉ mỉ đến ai, mà làm gì. Em cũng thấy anh mặc chiếc quần thể thao hàng ngoại đấy chứ, nhất là kể từ khi con Phương Dung nó vay em 50 đô trước đó (chắc là nó mua tặng anh?). Anh lại nấu bún bò Huế là cái món mà con Phương Dung thích và quên rằng Bác sĩ đã khuyên em kiêng ăn thịt heo từ hơn năm qua rồi!

Em trầm tĩnh cố quên đi mọi sự, vì em vẫn còn yêu anh tha thiết. Em tin rằng, rồi thì mọi việc cũng sẽ êm xuôi, nên em mua vé số cầu may. Sáng nay, em dò số và đã trúng độc đắc gần 10 triệu đô. Em đã đặt mua 2 vé máy bay đi Hawai, sắp xếp làm passport cho hai vợ chồng mình để xuất cảnh, sống thoải mái hơn. Em đã vào gặp Ông Chủ Sở xin thôi việc ngay hôm nay. Về đến nhà, nhận được thư anh, thì được biết anh đã cao bay xa chạy mất rồi… Em liền tìm ngay một luật sư danh tiếng để nhờ giúp, thì ông ấy bảo: với một bức thư từ hôn thế này, anh sẽ không được thừa hưởng của em một xu teng nào hết. Hãy ráng mà lo thân nhé anh. Bảo trọng, nghe anh.

Ký tên: Vợ cũ của anh
Vừa giàu sang lại được tự do…

Tái bút: À, có một chuyện mà từ ngày con Phương Dung về ở với chúng ta, em quên chưa kịp nói cho anh biết. Mẹ em sinh nó ra là một đứa bé trai mũm mĩm dễ thương, đặt tên cho nó là Hùng Dũng. Lớn lên, nó rất đẹp trai. Nhưng, sau khi đi Thái Lan nó đổi giống, đổi cả tên là Phương Dung, rồi dọn về ở với chúng ta đó. Mong rằng sẽ không có vấn đề gì xảy đến với anh, sau này.
Thân chào.

    Lạc quan hay bi quan về lập trường đạo đức hôn nhân. Chủ quan hay khách quan, khi chọn bạn để sống đời, vẫn là chọn lựa của mỗi người. Mỗi gia đình. Chọn, lời êm ả hay đanh thép, là quyền của mổi người và mọi người. Nhân quyền hay dân quyền, đều là việc đáng để ta trân trọng, như việc lựa chọn biết nghe theo lời khuyên của thánh nhân khi xưa, vẫn nhủ rằng:

            “Ơn riêng Thiên Chúa ban,
mỗi người trong anh em phải dùng nó mà phục vụ kẻ khác.
Như vậy, anh em mới là những người
khéo quản lý ân huệ thiên hình vạn trạng của Thiên Chúa.”
(1 Pe 4: 10)

    Nếu bảo: tất cả là ân huệ Chúa ban, thì hỡi bạn/hỡi tôi, ta hãy cố mà sống và thực hiện những điều các thánh đã nhủ khuyên, qua kinh nghiệm. Có thế, thì bạn và tôi, ta sẽ hân hoan vui hưởng cuộc đời vẫn rất đẹp. Ở thế trần.

    Trần Ngọc Mười Hai
    vẫn nhắn bạn và nhắn tôi,
    những điều, tựa như thế. 

12.  “Về đây nghe em, về đây nghe em!”
“Về đây mặc áo the, đi guốc mộc…
 (Trần Quang Lộc – Về Đây Nghe Em)

(1P 5: 8-9)
    Gọi “em” về, mà lại dẫn dụ “em” mang mặc những là áo the. Đi guốc mộc. Rồi hát kể:

            “Kể chuyện tình bằng lời ca dao
Kể chuyện tình bằng nồi ngô khoai
Kể chuyện tình bằng hạt lúa mới
Và về đây nghe lại tiếng nói thơ ấu khúc hát ban đầu.”
(Trần Quang Lộc – bđd)

    Kể, mà lại kể toàn những chuyện như thế, khác nào người anh họ của bần đạo, cũng có kể. Nhưng, anh dùng toàn câu thơ/bài vè từ “Quốc Văn Giáo Khoa Thư” của ngày trước, để rồi nhái lại bằng thơ văn, thời hôm nay. Cho hợp nhĩ. Thơ văn, thời buổi trước là như sau:

            “Hỡi các câụ bé con,
            trong lúc tuổi còn non,
            các cậu phải chăm học,
            Có học mới nên khôn.”
            (trích bài “Khuyến học” trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư)

    Và, câu vè của bậc đàn anh, lại như sau:

            “Hỡi ông bô bà via,
            trong lúc đợi mộ bia.
            Các cụ phải ngoan ngoãn,
            chớ ọ ẹ nọ kia.
            “Hiếu đễ” với con cái,
            Mới khỏi bị ra rià.”
            (Trích thơ vui của ông Nguyễn Trường Khoan, Úc)

    Thơ vui ở đời, là như thế. Còn thơ “tình” nhà Đạo thì sao? Dạ. Thơ tình nhà Đạo đại loại cũng rất “tình” như sau:

            “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức,
vì ma quỷ, thù địch của anh em,
như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.”
(1P 5: 8)
    Thơ “tình” nhà Đạo hay người đời, vẫn rất vui. Chẳng ai cười. Cũng vẫn là thơ, chứ không thẩn. Thế còn, văn xuôi ngoài đời thì khác. Văn xuôi/truyện kể ở ngoài đời, vẫn có những đoạn hoặc những truyện cũng khá vui. Tuy hơi dạy đời. Thời, cũng đúng. Hay và đúng, như truyện kể bên dưới, rất như sau:
“Sau 30 năm xa cách, 4 người bạn học gặp nhau trong 1 nhà hàng. Rượu vào thì lời ra. Người thứ nhất nói trước:
-Tôi rất hãnh diện với thằng con trai tôi, siêng năng thông minh, giỏi ghê hồn. Sau khi lấy bằng Master rồi nó còn học tiếp không chịu nghỉ, giờ thì nó là tổng giám đốc 1 tập đoàn lớn nhất Âu Châu, nó giàu đến nỗi nó vừa tặng thằng bạn thân khác 1 cái Mercedes S600 mới toanh…sương
Ông thứ hai xen vào:
-Ừ giỏi thiệt!! Chúc mừng anh. Còn thằng con tôi cũng đâu thua gì! Mấy anh biết không,sau khi tốt nghiệp đại học, nó lấy ngay bằng laí  máy bay và hiện giờ nó có 50% cổ phần của hãng hàng không lớn nhứt nhì Âu Châu! Tiền nhiều quá không biết làm gì, nó bèn tặng luôn cho thằng bạn thân của nó 1 chiếc Boeing 737-700 luôn, mấy anh coi có kinh khiếp không?
Ông thứ ba cũng không chịu thua, cũng góp ý:
-Vậy là 2 anh ngon quá rồi còn gì, nhưng mà tui cũng phải kể một chút về con trai tui chứ!!! Tui cũng hãnh diện không kém 2 anh, thằng con tui nó cũng là đại gia có tầm cỡ, sau khi lấy bằng kiến trúc sư, nó mở ngay 1 hãng thầu chuyên xây nhà chọc trời, hiện tại nó chuyên xây cho mấy ông vua dầu hỏa bên Dubai đó!
Nó cũng giống như 2 thằng con của 2 anh, tiền hô hậu ủng, nó xây cho thằng bạn thân nó 1 cái Villa 10 phòng ngủ có sân đậu trực thăng trên sân thượng luôn, nghe nó kể mà phát ớn……
Lúc đó ông thứ tư mới từ phòng rửa tay đi ra, chả hiễu ất giáp gì thì được 3 ông bạn chí thân dồn dập hỏi:
-Tụi tui mới vừa kể về mấy thằng con trai yêu quí của tụi tui! Còn quí tử anh thì thế nào?
Ông thứ tư vỡ lẽ câu chuyện mà bạn bè đang khoe, bèn chậm rãi nói:
-Thằng con tui thuộc loại đồng tính… luyến cái gì đó không biết. Nó làm việc trong 1 quán Bar và vũ sexy kiêm chân Callboy luôn..
-Trời ơi, sao mà anh bất hạnh quá vậy? Ba ông bạn đồng thanh lên tiếng.
-Sao lại bất hạnh? Ông thứ tư tiếp luôn: Nó là cả 1 sự hãnh diện của tui đó! Mấy anh biết hôn, mới đây nè, nó về khoe tui là nó được ba thằng bồ tặng quà xịn cho nó đó. Thằng thứ nhất tặng cho 1 chiếc Mercedes S600, thằng thứ hai thì cho 1 chiếc Boeing 737_700, còn thằng thứ 3 thì xây cho 1 cái Villa bành ki luôn. Mấy anh thấy tui có phước hông? (truyện kể trích từ trang mạng batkhuat.net/index)
 
     Nghe kể truyện, chắc người nghệ sĩ họ Trần, phải hát tiếp:

“Về đây nghe em, về đây nghe em
Về đây thả ước mơ đi hát dạo
Để đời đời làm giọt sương mai
Để chào đời bằng lòng mới lớn
Để hận thù người người lắng xuống
Và tìm nhau như tìm xót xa
Trong lúc lệ đã đầy vơi…”
(Trần Quang Lộc – bđd)

    Hát hoặc kể, vẫn là chuyện thường ngày chốn dân gian, ở đời thường. Nơi nhà Đạo, cũng có những chuyện không phải để kể hoặc để hát, mà để người đồng Đạo rủ nhau mà học hỏi, những điều tốt. Điều ấy, không hiển nhiên như lời thánh nhân cột trụ Hội thánh vừa khuyên ở trên. Mà là, những điều dân con ở huyện nhà Đạo cũng cần biết, vì có liên quan đến chuyện đời, rất thường ngày. Điều ấy, được diễn tả bằng lời hỏi han như thế này:
   
    “Tôi có người bà con trong họ, cô đang độ tuổi đôi mươi, nhưng vẫn thích ra riêng sống một mình. Mà lại san sẻ phòng ốc với người lạ khác phái, để cùng sống. Thấy thiên hạ thắc mắc, cô vẫn thanh minh rằng: giữa cô và “người ấy” chỉ là “bạn”, chứ chẳng có gì gọi là mật thiết, hoặc liên quan. Dù sao thì với tôi, vẫn có cái gì đó rất không ổn. Chí ít, là theo quan niệm và tầm nhìn của riêng tôi, xưa đến giờ. Xin linh mục cho biết tôi có lý hay người kia có lẽ?”

    Lại cũng là lời hỏi rất han. Đã hỏi han, thì đương nhiên đấng bậc nhà mình phải “lan man” mà trả lời, chứ không phải trả vốn. Hoặc, “một vốn bốn lời”, như ở đời. Trả lời, là trả một lời sau đây:

    “Tình cảnh cô vừa kể, lâu nay trở thành chuyện “thời thượng”, rất nghe quen.  Cách đây chừng bốn mươi hoặc năm mươi năm gì đó, thiên hạ cũng từng nhăn nhó bày tỏ mối bất đồng khi nghe biết có người đi Đạo vẫn theo lối sống kiểu như thế. Sự thật, thì ít người đồng ý chịu nghe theo. Nhưng ngày nay, chừng như xã hội đã có phần dễ dãi hơn. Tức,  chỉ “làm thinh, là tình đã thuận”, thì phải?
    Nên, vấn đề là: ta nghĩ sao về những chuyện đại loại như thế?
    Ví dụ như: có ai đó mướn căn nhà 2 phòng ngủ, nhưng một mình ở như thế thấy quá phí phạm bèn đem rao vặt cho thuê bớt căn phòng kia cho một người khác phái đến ở. Hoặc trường hợp: họ là hai người bạn, hoặc đồng nghiệp/đồng môn nhưng khác phái, lại quyết định “chia phòng”, sống chung căn hộ, ăn ở với nhau tự nhiên như cây cỏ. Thông thường, thì một người là nam nhân trẻ còn người kia là nữ lưu cùng trang lứa hoặc khác tuổi từng hứa hôn với nhau, nay quyết định về chung sống cùng một căn hộ cho đỡ tiền thuê hai phòng, hầu tiết kiệm. Hoặc một nam và một nữ có quan hệ ăn ở với nhau không đám cưới, ít là chỉ trong giai đoạn, thôi.  
    Xét về cuộc sống luân lý của những người có liên quan như trên cũng rất khác. Trường hợp thứ nhất, không thấy có tương quan mật thiết, còn trường hợp cuối, chắc chắn là có tương quan, rất rõ ràng.
    Dĩ nhiên, với Giáo lý Hội thánh Công giáo, thì bất kỳ vị nào sống đời dục tình, ăn ở với nhau mà không có hôn thú, dứt khoát là đang ở vào tình trạng có lỗi phạm nặng (x. GLHTCG đoạn 2353). Thế nhưng, hỏi rằng luân lý ta có chấp nhận cho nam nữ sống chung mà không giao hoan tình dục thì sao?
    Về chuyện này, cũng cần xét đến 2 yếu tố:
    Trước nhất, là mối nguy hiểm. Đã đành là, cho đến giờ, cả hai nam thanh nữ tú ở gần cận nhau nhưng không có tình ý lôi cuốn nhau và nhất là không có ý định dấn thân vào chuyện sinh lý xác thịt, dù đôi lúc lửa gần rơm cũng dễ bén, nhiều cám dỗ.”

    Xét đến đây, tưởng cũng nên xem thử người nghệ sĩ có nói gì thêm, hay chỉ những hát:

            “Này hồn ơi lên cao lên cao
            Đem ánh sáng hân hoan trên trời
            Rọi vào đời cho ta tinh cầu yêu thương
            Này thịt xương ta chưa mang theo
            Khi ngã xuống miên man tủi hờn
            Và về đây nghe nhau thở dài trong đêm...”
            (Trần Quang Lộc – bđd)

    Xem như thế, thì: sống với nhau, đâu chỉ cần để ý đến chuyện thân xác. Tiền bạc. Và, người đời mà thôi. Nhưng còn phải biết quan tâm cả chuyện “Này hồn ơi, lên cao lên cao”, cho phải phép. Phép và tắc, của “già nhân ngãi, non vợ chồng”, là chuyện luân lý/đạo đức cũng rất Đạo, như sau:

”Cách đây nhiều năm, tôi nhớ có lần được nghe vị cha già chuyên linh hướng có dặn dò tân chức mới thụ phong về những hiểm nguy khi sống cùng căn hộ với chị quản gia, lo bếp núc mà không định rõ cách ngăn nơi khu vực ăn ở, nên cha già đã khuyên rằng: gần gũi xác thịt còn nguy hiểm hơn cả tài sắc, rất quyến rũ. Đó là chỉ mới đề cập đến yếu tố gần/cận bên người quản gia, dù chị ta có hơn tuổi đương sự khá nhiều, cũng vẫn nguy. Nguy và hiểm, là nguy cho đức khiết tịnh đời linh mục, mà thực tế cuộc sống buộc có đụng chạm giao tiếp người khác phái.

Tôi cũng nhớ đến trường hợp của linh mục dòng Đa Minh khác, lúc ấy ngài đang làm tuyên uý cho sinh viên trường cao đẳng nọ. Theo qui định trường, thì bạn bè nữ giới muốn vào phòng ngủ thăm nam sinh viên, cũng không được phép. Lúc ấy, các sinh viên rất vô tội đến gặp vị tuyên uý này và đơn sơ hỏi: “Bộ cha không tin bọn con sao?”, thì vị tuyên úy trả lời: “Tôi mà ở vào hoàn cảnh các bạn, thì chính tôi đây còn chẳng tin được mình nữa là.”

Xem thế, thì nam nữ chưa thành vợ thành chồng mà lại chia phòng ở chung với nhau, thường hay dễ đặt mình, mà không có lý do chính đáng, vào tình trạng mà ta gọi là “dịp tội”. Cả hai sẽ gia tăng khả năng tình huống rơi vào cạm bẫy cám dỗ, cứ tìm đến với nhau, mà chung đụng.

Và, thường thì không có lý do nào thoả đáng khiến họ đi vào tình huống nguy hiểm ấy. Tiết kiệm tiền bạc, không là lý do đủ vững để mình tự đặt chính mình vào dịp tội. Là nam hay nữ, muốn tiết kiệm tiền bạc, tốt hơn nên chia phòng với người cùng phái tính; hoặc chọn ở lại với cha mẹ một thời gian; hoặc sắp xếp sao đó, cho hợp lẽ đạo làm người, vẫn tốt hơn.

Hơn nữa, sống ở đời cũng nên biết tự kỷ luật để giữ cho lòng mình được thanh khiết, cũng là điều tốt. Có như thế, mới có thể tự kềm chế chính mình, ngõ hầu giữ mình sẵn sàng trong trắng cho hôn nhân, về sau.

Điều khác nữa, cũng nên quan tâm, là chuyện thị phi/tai tiếng. Nói nôm na, thì: nếu người khác biết mình là gái nhà lành lại Công giáo đang chung sống với bạn trai không cưới hỏi, thì làm như thế rất dễ đưa đến chuyện người khác hiểu lầm rằng mình muốn sống theo kiểu “thử lửa” thôi. Và, sống như thế rất dễ khiến mình rơi vào tình trạng phạm tội; trong khi cả hai người, lúc đầu, cũng không muốn làm như thế. Đằng khác, sống theo kiểu ấy, dễ gây gương mù gương xấu cho kẻ khác. Để rồi, cuối cùng, mình cũng sẽ phải trả lẽ trước mặt Thiên Chúa về những lỗi phạm mà người khác có thể mắc phải chỉ vì bắt chước kiểu mình.

Chính vì những lý do này, mà các bạn chưa có gia đình, cũng đừng nên làm thế. Dù, hai bên không mảy may có ư định tiến sâu hơn vào chuyện tiếp xúc mật thiết về tình dục.” (x. John Flader, The Catholic Weekly 29/5/2011 tr. 10)        

    Tắt một lời, ngẫm nghĩ chuyện đời, lắm lúc cũng có một số bạn bè vẫn nhớ về lời thơ/ý nhạc của nghệ sĩ vừa trích dẫn ở trên, có câu hát làm đoạn kết, như sau:

            “Về đây nghe em, về đây nghe em
            Về đây đứng khóc trên sông nước này
            Chở lòng người trở về quê hương
            Chở hồn người vào dòng suối mát
            Chở thật thà vào lòng dối trá
            Và ngắt hoa, xin tạ chút ơn
            Hoang phế, khi đã gặp nhau
            (Trần Quang Lộc – bđd)

    “Hoang phế, khi đã gặp nhau”, phải chăng là đã hoang tàn/đáng phế thải, khi gặp lại người hoặc Đấng mình cần gặp? Bởi, khi gặp lại người mình muốn gặp, vẫn nên hát: “Chở hồn người vào dòng suối mát”, “Và ngắt hoa xin tạ chút ơn.” Ơn này hay ơn khác, phải chăng là những ơn và huệ, do Thánh Thần Chúa phú ban, đến với mọi người. Cả những người đã một lần từng lầm lỡ. Quá trớn. Hết biết?
    Lầm lỡ chăng, vẫn tự nhắn nhủ: “Chở lòng người trở về quê hương”. Chốn quê nhà, có người người vẫn muốn “Chở thật thà vào lòng dối trá”, để rồi: có về với nơi đây hay chốn đó, hãy cứ nhớ lời người hôm xưa đã cùng nghệ sĩ vẫn hát rằng: 

            “Về đây nghe em, về đây nghe em
            Về đây đừng khóc trên sông nước này…”
            (Trần Quang Lộc – bđd)

    Có hát thế, mới thấy rằng: lời thánh nhân khi xưa, vẫn từng thưa:

“Anh em hãy đứng vững trong đức tin
mà chống cự,
vì biết rằng
toàn thể anh em trên trần gian
              đều trải qua
              cùng một loại thống khổ như thế.”
              (1P 5: 9)

    Quả thế. Sống ở đời, chẳng ai biết trước được: nhiều hiểm nguy đang ở trước mắt, của mỗi người. Vấn đề là, người người có còn nhớ và tin vào lời thánh nhân xưa căn dặn không? Nói cách khác, có tin và nghe theo Lời ngài hay không? Đó chính là vấn đề. Của tôi. Của bạn. Của mọi người.

    Trần Ngọc Mười Hai
    vẫn tâm vẫn niệm và vẫn hát câu
    về đây nghe em, nghe anh.
    Về, để đứng vững trong lòng tin,
    một lòng như thế.  



                   
13. “Có lứa đôi yêu nhau rồi,
“Hẹn rằng còn mãi khôn nguôi.”
(Johann Strauss Jr/Phạm Duy: Khúc Hát Thanh Xuân)

(2Cr 13: 11)
    “Yêu nhau rồi”, thì lứa đôi chắc chắn là sẽ “hẹn mãi khôn nguôi”, như lời dịch của lão gia ngành nhạc, rất họ Phạm. Thật tình mà nói, khi sáng tác nhạc bản này, danh tài Johann Strauss Jr co chọn đầu đề bên tiếng Em (ấy chết, bên tiếng Anh chứ!) là: “When We Were Young” (tức: “Khi ta còn trẻ”) hay không?
Trong khi bên tiếng mẹ đẻ ra bần đạo, thì bậc lão thành nghệ sĩ họ Phạm lại dịch, là: Khúc Hát Thanh Xuân”. Làm như thể, tuổi thanh xuân mới có khúc hát, rất như thế. Và chỉ người trẻ mới nói được “nhớ tới câu thương yêu người”, mà thôi.
Bần đạo đây, xin nhân danh các vị cao niên hoặc đứng tuổi, và xin mạn phép bạn Ngọc Trần là người viết lên câu truyện ngăn ngắn ở bên dưới đây, để có lời phản đối, một tí chút. Phản để đối đáp, đối đầu cùng đối chiếu với bạn và với tôi, bằng câu truyện kể rất dễ nể, ở bên dưới mà rằng:

“Ngày đẹp trời nọ, cặp vợ chồng khoảng trên 60, đến văn phòng luật sư làm thủ tục ly hôn. Lúc đầu vị luật sư rất lấy làm ngạc nhiên. Nhưng sau khi nói chuyện với hai vợ chồng, ông cũng hiểu được lý do tại sao, lại có chuyện này…
Hơn 40 năm chung sống, hai vợ chồng luôn cãi nhau, suốt đời. Và, dường như họ chẳng bao giờ đi đến được quyết định đứng đắn nào cả. Họ vẫn chịu đựng nhau như vậy, mãi đến hôm nay là vì con cái. Con cái họ giờ đây đã khôn lớn, có gia đình. Nên, hai vợ chồng già không còn lo điều gì. Họ muốn được tự do sau những năm chung sống, không hạnh phúc. Cả hai đều đồng ý tiến đến ly hôn.
Hoàn tất thủ tục ly hôn cho vợ chồng này, đối với vị luật sư, không phải là chuyện dễ. Ông thực sự không hiểu vì sao, sau 40 năm chung sống, cả hai đã đến tuổi 60 rồi, mà vợ chồng vẫn muốn ly hôn. Đặt tay ký giấy tờ, người vợ bèn nói với chồng:
-Tôi thực sự yêu ông, nhưng không thể sống chung thêm được nữa. Tôi xin lỗi.
-Không sao. Tôi hiểu mà!
Nhìn cảnh này, vị luật sư bèn đề nghị là hai vợ chồng nên cùng nhau đi ăn tối một lần cuối, có luật sư mời. Người vợ nghĩ bụng: “Sao lại không? Ly hôn rồi, mình vẫn là bạn cơ mà…” Bên bàn ăn, là không khí im lặng đến ngộp thở. Món ăn đầu mang ra, là gà quay. Lập tức, người chồng cầm đũa gắp ngay miếng đùi gà trao cho vợ rồi nói:
-Bà ăn đi. Đây là món bà vẫn thích đấy
Nhìn cảnh hai vợ chồng tiếp thức ăn cho nhau, vị luật sư nghĩ bụng: “vẫn còn cơ hội!” Nhưng ngay sau đó, người vợ cau có nói:
-Vấn đề là ở đấy đấy. Ông luôn tự đề cao mình một cách quá đáng. Giờ này mà ông vẫn không hiểu được tâm tư của tôi. Ông không biết là tôi ghét đùi gà đến thế nào sao?
Có một điều mà người vợ không biết, là: bao năm qua, chồng bà luôn cố gắng để làm bà hài lòng. Bà không biết, đùi gà là món ông thích nhất, cũng như ông không biết là bà chưa bao giờ nghĩ là ông hiểu rõ bà hết. Ông không biết là bà thù ghét đùi gà vì bà không nói ra và ông thì chỉ muốn dành những miếng ngon nhất, những điều tốt nhất cho bà, mà thôi.
Đêm đó, cả hai vợ chồng đều không ngủ được. Sau nhiều giờ trằn trọc, ông chồng không thể chịu đựng được nữa, ông biết rằng ông vẫn còn yêu bà và không thể sống mà lại thiếu bà. Ông muốn bà quay trở lại với ông. Ông muốn nói  tiếng “xin lỗi” và “tôi yêu bà”. Ông nhấc điện thoại lên bắt đầu bấm số của bà. Chuông điện thoại reo liên hồi, ông càng tiếp tục giữ máy. Ở đầu bên kia, người vợ cũng thấy buồn. Bà không hiểu điều gì xảy đến sau bao năm chung sống. Ông ấy vẫn không hiểu mình. Bà vẫn yêu ông nhưng không thể chịu đựng cuộc sống như vậy nữa.
Mặc cho chuông điện thoại reo liên hồi, bà không trả lời vì biết rằng người gọi cho bà chính là ông, chứ chẳng ai khác. Bà nghĩ: “Nói làm gì nữa, khi mọi chuyện đã hết. Chính mình đòi ly hôn mà! Đã lỡ ném lao thì phải theo lao, nếu không sẽ mất mặt lắm.” Chuông điện thoại vẫn reo. Nhưng bà quyết định dứt dây nối ra khỏi điện thoại. Bà đã quên một điều là ông từng bị đau tim.
Hôm sau, bà nhận được tin ông mất. Như người quẫn trí, bà chạy nhanh đến nhà của ông, nhìn xác ông nằm sõng xoài trên chiếc đi-văng, tay vẫn giữ chặt cần điện thoại. Ông bị nghẹt máu cơ tim trong khi cố gọi cho bà. Bà vô cùng đau đớn. Một cảm giác mất mát quá lớn phủ trùm lên cả tâm trí bà. Bà phải mau mau thanh toán tài sản của ông. Khi nhìn vào phía trong ngăn kéo, bất chợt bà thấy tờ hợp đồng bảo hiểm đã được lập từ ngày cưới, do ông làm.
Đính kèm tờ hợp đồng, là mẩu giấy có giòng chữ ghi rõ: “Gửi người vợ thân yêu nhất của tôi. Vào lúc bà đọc tờ này, chắc tôi không còn sống trên cõi đời này nữa. Tôi đã mua bảo hiểm cho bà. Chỉ mất có 100 đô thôi. Nhưng hy vọng nó có thể giúp tôi thực hiện lời hứa của mình khi lấy nhau. Tôi đã không thể ở cạnh bà được nữa. Nhưng tôi muốn số tiền này tiếp tục chăm sóc bà. Đó là cách mà tôi cũng sẽ làm nếu như tôi còn sống. Tôi muốn bà hiểu cho rằng tôi sẽ luôn ở cạnh bà. Yêu bà thật nhiều.”
Nước mắt người vợ già cứ thế tuôn rơi. Bà cảm thấy yêu ông hơn bao giờ hết. Bà muốn nói lời “xin lỗi”, và ba tiếng “tôi yêu ông.” Nhưng trễ rồi. Ông không còn nghe được tiếng bà nữa.” (trích điện thư do một người bạn chưa quen gửi hôm 09/06/2011)    

    Thế đấy. Chuyện ở trên, tuy không là bằng chứng cụ thể để nói lên điều mà bần đạo muốn nói. Ý bảo rằng: bậc cao niên hay đứng tuổi vẫn có thể nói tuy không thể hát được những lời này:

                “Ngày ấy khi Xuân ra đời
Một trời bình minh có lũ chim vui
Có lứa đôi, yêu nhau rồi
Hẹn rằng còn mãi không nguôi.”
(Johann Strauss Jr/Phạm Duy – bđd)

    Đã “Yêu nhau rồi, mà lại hẹn: Còn mãi khôn nguôi!” , tức: sẽ không ngừng yêu nhau mãi mãi, dù đói/no, cay đắng/ngọt bùi, hoạ/phúc như lời thề trước Thượng Đế, ngày hợp hôn khi trước.Chính vì thế, người nghệ sĩ mới hứng thú có câu thơ, thêm vào bài hát. Cứ hát rằng
 
        “Nhạc lắng hương xuân bồi hồi
Như vì tình ai tiếng hát lên ngôi
Nói với nhau, yêu nhau rồi
Một ngày còn mới tươi môi.”
(Johann Strauss Jr/Phạm Duy – bđd)

    “Còn mãi tươi môi”, hay tốt tươi cuộc đời người sao đó, cũng chẳng ai biết. Chỉ biết có mỗi điều, là: hễ nói về tình yêu tươi mát, lúc ban đầu, thì người người đều sẽ hiểu. Và dễ nhớ. Tuy nhiên, nói về tình yêu có tươi và mát như ba mươi/bốn mươi năm về trước hay không, vẫn là điều chẳng ai dám quyết đoán. Bởi, sau bấy nhiêu năm chung sống, mà còn hiểu nhau, còn đồng ý với nhau về rất nhiều chuyện, đó mới là vấn đề. Đó mới khó. Khó hiểu và khó nói, như lời chia sẻ của người trẻ nọ, về thơ văn/âm nhạc của người mình, như sau:

“Hôm rồi, tình cờ  tôi được nghe cô ca sĩ ở Sydney hát một bài lại được người điều khiển chương trình giới thiệu rằng: bài hát ấy do nghệ sĩ Vũ Thành An sáng tác, đó là “Bài Không tên số 50”. Nghe cô hát, bản thân tôi, lúc ấy thấy ca từ của bài này cũng rất quen, nhưng không nhớ được xuất xứ cùng tác giả lời tiếng Việt, mà chỉ mang máng nhớ mình có đọc một bản dịch từ tiếng Anh ở đâu đó, có ý nghĩa cũng tương tự.
Nay, tìm đọc trong các sách, tôi mới khám phá ra rằng: đây là bài thơ lừng danh của thi sĩ gốc người thiểu số xứ Armênia, từng sinh sống bên hồ Van thuộc Thổ Nhĩ Kỳ, có tên là Silva Kaputikyan (1919-2006). Những năm về sau, bà chạy sang Nga xin tỵ nạn chính trị; và rồi có chân trong Hàn Lâm Viện Quốc gia của Nga. Bà cũng được Viện Đại Học Cambridge của Anh bình chọn là người phụ nữ tiêu biểu trong năm 1998. Vì bài thơ này quá hay, nên đã có không ít người ghi sai tên thực của tác giả, hoặc cho đó là bài thơ của thi sĩ người Nga nào khác như Olga Bergols, hay thậm chí như Evgueni Evtushenko, hoặc đại thi hào người Nga là Alexander Pushkin (1799-1837) nữa.
Chưa hết, ở Việt Nam có người còn viết rõ ngay trên báo hẳn hòi, cho rằng tác giả là thi sĩ người Đức tên là Heinrich Heine (1797-1856). Có biết đâu rằng, ông thi sĩ người Đức kia chỉ sáng tác bài thơ có tựa đề là “Anh và Em”  với nội dung thật khác hẳn. Kể ra, thì trí nhớ của phận hèn bọn tôi cũng không đến nỗi tệ. Và để chứng minh điều lầm lẫn này, xin trích nguyên văn dưới đây ca từ của bài không tên số 50, để thấy đuợc rằng ca từ của người nghệ sĩ nổi tiếng thời hôm trước có xuất xứ từ đâu ra:

            “Em bảo : Anh đi đi
Sao anh không đứng lại?
Em bảo : Anh đừng đợi
Sao anh vội về ngay?
Lời nói thoảng gió bay
Ðôi mắt huyền đẫm lệ
Mà sao anh dại thế
Không nhìn vào mắt em
Mà sao anh dại thế
Không nhìn vào mắt em
Không nhìn vào mắt sầu
Không nhìn vào mắt sâu ?
Những chuyện buồn qua đi
Xin anh không nhắc lại
Em ngu khờ vụng dại
Anh mơ mộng viễn vông
Ðời sống nghiệt ngã không
cho chúng mình ấm mộng
Thì thôi xin gửi sóng
Ðưa tình về cuối sông
Thì thôi xin gửi sóng
Ðưa tình về cuối sông
Ðưa tình về với mộng
Ðưa tinh vào cõi không.”

Có thể nói: ca từ của bài hát này nghe rất mượt mà, khác với ca từ ở những “bài không tên khác”, cũng do cùng một nghệ sĩ sáng tác. Có một điều mà nghệ sĩ nói ở đây đã quên sót, là không trích nốt câu thơ chót, vẫn chứa đầy ý tứ hơn. Ý tứ này đã được thi sĩ Xuân Diệu chuyển qua tiếng Việt, thì phải. Ngoài ra, cũng có nhiều bản dịch khác từ bài thơ này, như của Huyền Anh, Trần Đăng Khoa… Tựu trung, chỉ có bản của Xuân Diệu là lột tả được giọng điệu vừa trữ tình vừa nghe như lời thủ thỉ rất can trường, nhưng đầy nữ tính của nhà thơ:
“Em bảo : "Anh đi đi"
Sao anh không đứng lại ?
Em bảo : "Anh đừng đợi"
Sao anh vội về ngay ?

Lời nói thoảng gió bay
Đôi mắt huyền đẫm lệ
Mà sao anh dại thế
Không nhìn vào mắt em

Mà sao anh dại thế
Không nhìn vào mắt em
Không nhìn vào mắt sầu
Không nhìn vào mắt sâu ?

Những chuyện buồn qua đi
Xin anh không nhắc lại
Em ngu khờ vụng dại
Anh mơ mộng viễn vông

Đời sống nghiệt ngã không
cho chúng mình ấm mộng
Thì thôi xin gửi sóng
Đưa tình về cuối sông

Thì thôi xin gửi sóng
Đưa tình về cuối sông
Đưa tình về với mộng
Đưa tình vào cõi không.
Em bảo: “Anh đi đi!
Sao anh không ở lại?
Em bảo: “Đợi chờ chi”!
Sao anh xa em mãi?

Lời em buông cứng cỏi,
Lệ em trào mắt đen.
Sao anh tin lời nói,
Mà không nhìn mắt em?”
        (trích điện thư tâm tình của người trẻ mang tên Anthony Trần, ở Sydney 16.06.2011)

    Trích dẫn nơi đây những tâm tình rất thẳng thắn của người trẻ thích nghiên cứu về lịch sử âm nhạc của Việt Nam, bần đạo chỉ dám trích để phiếm vội đôi hàng về lời thơ và ca từ trong nhạc bản, được chuyển ngữ. Trích và dẫn, để bà con mình có được đôi phút thư giãn và thả lỏng con người, sau những ngày bàn luận cũng khá căng về thần học, với học thần. Tức, học về những gì là thần thiêng, siêng chăm, cũng rất thánh. 
    Trần tình với bạn và với tôi như thế rồi, nay bần đạo xin mạn phép được nói thêm về một thứ trần tình hay tình trần của người phàm trần đã có dịp hát lên cuối của bài hát mang tên “Khúc Hát Thanh Xuân” , có những lời đuợc lập đi lập lại như sau:

“Rồi nắm tay cùng nói vui
Những câu êm êm không rời vai.
Rồi lả lơi, hình dáng ai
Khuất xa biến vào nẻo khơi.

Từ đó khi xuân tái hồi
Cho bùi ngùi thương nhớ tới xa xôi.
Nhớ tới câu thương yêu người
Một ngày tuổi mới đôi mươi .”
(Johann Strauss Jr/Phạm Duy – bđd)

    Nói đi thì lại nói lại, là nói những lời như trên, chỉ để kết hợp với lời nói làm bằng về những điều mà tác giả nọ vẫn cứ bảo “Cuối Cùng Cho Một Tình Yêu”, của các thánh ở nhà Đạo. Và, nói đi thì lại nói lại lần nữa, là nói thêm đôi điều của thánh nhân rất “cao cả” của Hội thánh, từng có những lời như sau:

“Anh em hãy vui mừng và gắng nên hoàn thiện.
Hãy khuyến khích nhau,
hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hoà.
Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương và bình an,
sẽ ở cùng anh em.
(2Cr 13: 11).

    Và, một khi đã nắm chắc được như lời thánh nhân khẳng định, rằng: “Thiên Chúa là nguồn yêu thương, sẽ ở cùng anh chị em” , thì ta cứ tha hồ mà nói và hát. Miễn là lời nói và hát của tôi và của bạn, không làm phiền hà, một ai hết. Cũng không là “Cớ vấp phạm” cho ai hết, đích thật là điều vẫn nên nói, và nên hát. Chí ít, là hát và nói những “Khúc hát (rất) Thanh Xuân”. 

    Trần Ngọc Mười Hai
    Ở tuổi này
    chừng như vẫn còn tập nói và hát
    những lời lẽ rất yêu đương,
    của những người đương yêu
    như bao giờ.

14. “Ðừng, lừa dối nhau.”
“Ðừng nói "yêu", khi ta gần nhau”
“Ðừng, lừa dối nhau”
“Vì biết đâu, tin nơi tình yêu…”
(Y Vân – Đừng Lừa Dối Nhau)
(Mc 10: 21-22)
Có những chữ “Đừng!”, mà khi đã nói ra hay nói vào, thì chính người nói lại vẫn cứ mừng. Mừng, là vì nói thì nói thế, chứ nhiều lúc người nói vẫn bảo và vẫn hát bằng câu ca: “Anh cứ hẹn nhưng xin anh “đừng” đến nhé!”. Bảo và hát như thế, thì có ma nào hiểu nổi? Và, ai mà theo được?
Thẳng thừng ra, thì bà con anh em mình chỉ hiểu chữ “đừng” là “chớ nên”, mà thôi. Chứ, làm sao hiểu nổi “lời hay ý đẹp” cũng rất “đừng”, như giòng nhạc của nghệ sĩ, có ca từ như sau:

“Hãy, giữ lấy hồn ta
Ðừng cho ước mơ, gọi lòng say sưa
Thấy, khi đôi vai kề
Chắc đâu duyên thề, mà mơ.”
(Y Vân – bđd)

Ấy đó là chuyện đời người chỉ xảy đến, ở cuộc đời. Còn chuyện trong/ngoài nhà Đạo lại sẽ thấy khác. Khác ở điểm, là: nhà Đạo mình nói “một là một, hai là hai”, như những câu khuyên đầy tính chất giáo dục, như sau:

“Đừng để nhìn thấy nụ cười của ai đó rồi mới cười mỉm lại.
Đừng đợi đến khi được yêu thương mới thương yêu lại.
Đừng đợi đến khi cô đơn mới nhận ra giá trị của tin nhắn.
Đừng đợi đến khi có một công việc thật vừa ý rồi mới bắt đầu làm việc.
Đừng để đến khi mình sở hữu thật nhiều, rồi mới san sẻ đôi chút.
Đừng đợi đến khi làm người khác sầu buồn, rồi mới đi xin lỗi.
Đừng hạ thấp giá trị của mình bằng những so sánh chính mình với người khác. Bởi mỗi người là một nhân vị khác biệt, có giá trị rất khác nhau.
Đừng mải mê đeo đuổi mục tiêu nào mà người khác cho là quan trọng, vì chỉ chính mình mới hiểu rõ các mục tiêu là tốt cho mình.
Đừng ngần ngại học hỏi. Bởi kiến thức là tài sản vô hình luôn là hành trang vô giá theo mình suốt cuộc đời.
Đừng ngại mạo hiểm để làm điều tốt vì ít nhất bạn cũng học được cách sống dũng cảm, qua mạo hiểm.
Đừng phí phạm thì giờ hoặc lời nói thiếu suy nghĩ, vì cả hai thứ qua đi, đều không thể lấy lại được…” (trích điện thư  bạn vừa gửi, như bươm bướm)

Chẳng biết là, người nghệ sĩ viết giòng nhạc đầy những thơ luôn có câu: “Đừng, lừa dối nhau”, phải chăng ông đã thực sự nghe theo lời dặn của bạn đạo ở trên không? Duy có điều chắc, là: nghệ sĩ nay đã lặp đi lặp lại những tiếng “Đừng”, từng nghe quen:

“Đừng lừa dối nhau,
để xót xa trăng thanh ngày xưa.
Đừng lừa dối nhau,
để tiếc thương, mang trong lòng ta.
Nếu, đã biết tình yêu,
một người bước đi, một người mag theo.
Hối tiếc bao nhiêu lời,
đã trao cho người, mình yêu.”
(Y Vân – bđd)

Sự thật, mất lòng. Ngôn từ nhà Đạo khi xưa cũng mang nhiều ý nghĩa cũng tiêu cực như: “đừng có”, hoặc: “chớ nên” như chuyện hỏi/đáp giữa cố đạo và con dân ở xứ họ nọ, có lời hỏi/đáp rất như sau:

“Câu hôm nay con muốn hỏi Cha là: người giáo dân mà làm đám cưới “ngoài nhà thờ” với người nào đã ly dị rồi, vậy thì người đó có được rước Mình Thánh Chúa không? Con cũng biết là, phía người ly dị thì không thể; nhưng, còn người kia chưa từng lập gia đình với ai bao giờ, thì sao? Lý do khiến con đưa ra câu hỏi này, là bản thân con cũng biết nhiều vị vẫn lên rước Mình Chúa như thường, đượng nhiên là cha xứ cũng thừa biết chuyện này.

Đấng bậc nhà Đạo hôm nay nghe hỏi, sẽ lại trích dẫn giáo luật và/hoặc luân lý như mọi khi. Có trích dẫn gì đi nữa, cũng là để giúp giáo dân sống “tốt Đạo đẹp đời”, như thực tế cuộc đời vẫn có những sự kiện rất “tréo cẳng ngỗng” như đức ngài đề cập, rất sau đây:

“Vấn đề này làm tôi nhớ đến tình hình của Thượng Hội Đồng Giám Mục gặp gỡ ở Rôma vào tháng 10 năm 2005 để bàn về Tiệc Thánh Thể, hôm đó Đức Hồng Y Lopex Trujillo, nguyên Chủ tịch Ủy ban Giáo hoàng về Gia đình, đã minh định với Thượng Hội Đồng rằng: quan điểm của Hội thánh về vấn đề này, vẫn không đổi. Ai cũng biết, ước vọng của các vị làm mục vụ là vẫn muốn giúp bà con đi Đạo trong vấn đề này, nhưng giải pháp nào cũng phải theo đúng với Giáo huấn của Đức Kitô và Hội thánh của Ngài.   
Chính Chúa từng nói: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình."(Mc 10: 11-12). Ngay từ đầu, Hội thánh vẫn vâng lời Đấng Sáng Lập rất thánh của mình là không cho phép dân con trong Đạo được ly dị hoặc làm đám cưới một lần nữa, trong nhà thờ. Xem như thế, thì những ai làm đám cưới “ngoài nhà thờ” đều bị coi là đang sống trong tình trạng rất “rối” không thể ngang nhiên rước Mình Chúa được. Điều này áp dụng cho cả những người trước đây đã ly dị một lần và cả cho phối ngẫu của người ấy nữa.
Không phải Hội thánh muốn làm khó trong việc này. Chính Chúa đã dạy Hội thánh điều này và Hội thánh buộc phải trung tín với lời dạy của Ngài. Lời Chúa dạy quyết chủ trương không được phép có sự rạn nứt trong hôn nhân và trong việc thánh hoá hôn phối. Đó cũng là điều khá hệ trọng trong cuộc sống của Hội thánh và xã hội nữa. Và, Hội thánh chẳng muốn áp đặt điều gì lên người phối ngẫu, hết. Bởi, cuối cùng ra, thì cũng chính họ là những người có tự do chọn lựa. Tự do dấn bước vào cảnh tình trong đó họ thấy mình không thể ngang nhiên lên rước Chúa mà không có phép chuẩn của Hội thánh.
Dù họ không được phép rước Mình Chúa, Hội thánh với tư cách là mẹ hiền vẫn mở rộng tay chào đón đàn con mình về với các sinh hoạt khác, như: tham dự Thánh lễ thường xuyên, cầu nguyện, đọc sách thánh, tham gia công tác từ thiện, bác ái hoặc một sinh hoạt nào khác trong giáo xứ. Bởi lẽ, cả hai người lẫn cộng đoàn Nước Trời đều hy vọng đợi đến khi nào hai người được chuẩn thuận để nhận đón Mình Thánh Chúa sau khi Toà án Giáo hội đã tuyên bố huỷ bỏ hôn nhân nào, có vào lúc trước. Nhờ vậy, họ mới quyết định sống với nhau như bạn hoặc chờ cho người phối ngẫu kia qua đời, mới thôi.
Mặt khác, mọi người cũng không nên xét đoán điều gì. Chỉ mỗi linh mục mới có quyền cho phép hai người, trong hoàn cảnh này, được rước Chúa, mà thôi. Có thể là, vị linh mục ấy không am tường tình trạng hôn phối của hai người, trước đó. Hoặc có thể là, ngài cũng biết rõ cảnh tình của hai người nay đã đổi thay theo chiều hướng vừa kể, để rồi cả hai đều có thể rước Chúa vào lòng.
Dĩ nhiên, điều mà các linh mục không được phép làm, là: bịt mắt che tai chẳng ngó ngàng gì đến tình cảnh vốn đưa hai người đến chỗ lầm lẫn với giáo huấn của Hội thánh về tính bất khả phân ly, của hôn nhân, như thư luân lưu của chủ tịch Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin lúc ấy là Hồng Y Joseph Ratzinger gửi đến các giám mục trong Hội thánh, ngày 14 tháng 9 năm 1994, với lời lẽ như sau: “Thành viên nào trong cộng đoàn kẻ tin từng chung sống với nhau theo kiểu vợ chồng với người chưa có đám cưới chính đáng thì không thể rước Mình Thánh Chúa được. Dù họ nghĩ rằng mình được phép làm việc đó, thì khi ấy vị mục tử và đấng giải tội phải cắt nghĩa tính cách nghiêm trọng của vấn đề, để rồi có lời giảng giải tốt lành về đàng thiêng liêng cho cả hai.” (1 Cr 11: 27-29) Cũng thế, vì sự tốt lành của Hội thánh, vị mục tử ấy có trách nhiệm rất nghiêm túc là phải nhắc nhở cho hai người biết rằng nghĩ tưởng như thế là đi ngược lại giáo huấn của Hội thánh.” (x. Lm John Flader, Question Time, Connorcourt Publishing 2008, tr. 128-129)

Nói như đấng bậc nhà Đạo vừa trích dẫn ở trên, cũng là nói chữ “đừng” rất thẳng thừng. Mạnh bạo và bài bản. Bài và bản, ở chỗ: “chớ nên làm” và “đừng làm” những gì mà giáo huấn Hội thánh không cho phép. Nên chăng, những luật lệ gồm nhiều chữ “đừng” và “chớ” vẫn lạc lõng ở xã hội hiện giờ? Những luật và lệ xa lạ với người trẻ, tựa hồ như chia rẽ dân con mọi người, khiến ai nấy đều sợ sệt, chỉ nhắm thực hiện điều tiêu cực, mà thôi?
Nói chữ “đừng” như thế, là kể thêm một loại hình như “kinh cầu (đầy những) chữ”, với tiếng “đừng” và “đừng”, rất nên mừng còn thêm:

“-Đừng quên hy vọng, bởi niềm hy vọng mang lại cho bạn sức mạnh để tồn tại, khi bạn bị bỏ rơi.
-Đừng đánh mất niềm tin vào bản thân, chỉ cần tin mình có thể làm được. Và khi đó, mình có lý do để thực hiện những chuyện đó.
-Đừng lấy của cải vật chất để đo lường thành công hoặc thất bại. Bởi, chính tâm hồn mỗi người mới xác định được mức độ “giàu sang” của cuộc sống.
-Đừng để khó khăn đánh gục mình, vì đó là niềm hạnh phúc nhất của riêng mình.
-Đừng chờ đợi những gì mình mong muốn, nhưng hãy tìm kiếm chúng.
-Đừng chối từ nếu mình còn có gì để cho người khác.
-Đừng ngại ngần thừa nhận rằng mình vẫn chưa trọn hảo.
-Đừng ngại đối mặt với thử thách. Vì chỉ  khi thử sức, mới học được tính can đảm.
-Đừng đóng cửa con tim và cản trở tình yêu thương đến với mình chỉ vì chính mình nghĩ rằng không tìm ra được nó. Cách mau chóng nhất để nhận được tình thương là cho đi. Cách nhanh nhất để mình mất đi tình thương là giữ chặt nó, cho riêng mình. Hãy cho nó đôi cánh để tự bay đi, mỗi khi cần.
-Đừng đi quá nhanh trong sự sống để quên mất là mình đang ở nơi nào; thậm chí, quên rằng mình đang đi trên con đường của hạnh phúc.
-Đừng để quên nhu cầu cảm xúc cao của mỗi người là có được sự tôn trọng.
-Đừng ngại học hỏi. Kiến thức không có giới tuyến. Kiến thức là kho báu ta có thể mang theo, vào mọi lúc.
-Đừng sử dụng thời gian hay ngôn từ bất cẩn, vì hai thứ ấy, không thể lấy lại.
-Đừng bao giờ cho mình đã thất bại khi mọi kế hoạch cũng như giấc mộng của mình bị sụp đổ. Bởi, biết thêm điều mới mẻ thì chính đó là lúc mình đã tiến bộ rồi.
-Đừng quên cười mỉm trong cuộc sống.
Đừng ngại tìm người bạn đích thực. Bạn bè là điều cần thiết trong cuộc sống.
Cuối cùng, đừng quên ơn những người đã trao tặng mình cuộc sống hôm nay kèm theo tất cả những gì mình cần có. Bởi, con cháu đời sau sẽ coi mình như gương lành cho chúng…” (trích điện thư bạn bè vừa gửi, mới đây thôi).

Đừng gì thì đừng. Có “đừng” cho lắm, cũng bấy nhiêu thôi. Bởi, cuối cùng ra, chớ có ngừng lại khi đã cảm thấy thoải mái trong yêu thương. Nâng đỡ. Giùm giúp lẫn nhau. Bởi, Đấng Nhân Hiền Chí Ái vẫn nói nhiều, khuyên nhiều chữ “Hãy” hơn là từ ngữ “Đừng”, ở Tin Mừng. Như sau:

“Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh thanh niên
và đem lòng yêu mến.
Người bảo anh ta:
"Anh chỉ thiếu có một điều,
là hãy đi bán những gì anh có
mà cho người nghèo,
anh sẽ được một kho tàng trên trời.
Rồi hãy đến theo tôi."
(Mc 10: 21-22)

Ngoài nhà Đạo, nghệ sĩ đời cũng nhấn mạnh đến ca từ chứa chan hy vọng ở câu điệp khúc:

“Nhưng, tình yêu ngờ đâu
là mây theo gió đưa.
Nên, nhiều khi mộng mơ
làm quên bao xót xa.
Ngày đến, bao mặn mà
Ngày bước đi hững hờ
vì trót yêu, nên đành
Người quên vẫn quên
Người thương vẫn thương…”
(Y Vân – bđd)
Bởi thế nên, một khi bạn và tôi ta thực hiện được chữ “Hãy” ở trên, thì cuộc sống của tôi và của bạn, sẽ không còn gì để kèm thêm chữ “đừng” vào cuộc sống nữa. Thế đó, là đề nghị của bần đạo cũng như bạn đạo, rất hôm nay.

Trần Ngọc Mười Hai
cũng có những đề nghị
rất nho nhỏ.
Trong cuộc đời.





15. “Thời gian nào, trôi bềnh bồng trên phận người”
“Biệt ly nào không buồn phiền trên dấu môi…”
(Vũ Đức Sao Biển – Thu Hát Cho Người”)
(Mt 18: 3)
Là Thu, đã hát cho Người, mà sao anh vẫn cứ bảo:“Thời gian nào, trôi bồng bềnh trên phận người.”? Để rồi, lại còn viết: “Biệt ly nào không buồn phiền, trên dấu môi!” Phải chăng, nói như thế, tức bảo rằng: đời người, nào có vui?
Bần đạo đây, không đủ tư cách để trả lời những câu hỏi mang ý nghĩ ly kỳ như thế. Chỉ dám vin vào lời lẽ của tác giả viết nhạc buồn bằng cách trích dẫn một chuyện vãn văn nghệ với phóng viên tuần báo “Sinh viên” như sau:

“Âm nhạc là thú chơi, quà tặng của cuộc sống dành cho con người. Tình khúc của tôi không ồn ào, sôi động, nó là bức thông điệp của một người gửi đến đám đông những suy tưởng về cuộc sống, tình yêu và sự xa biệt", nhạc sĩ của "Điệu buồn phương Nam" và "Thu, hát cho người" tâm sự…

-"Thu, hát cho người" của ông đã gây xúc động cho người nghe bởi sự biệt ly, cô đơn và lẻ loi trong chờ đợi, ông viết bài này trong hoàn cảnh nào?
-Tôi viết năm 1968, khi 20 tuổi, với một tình yêu trong sáng và những cảm xúc yêu thương rất thuần khiết. Nhưng rồi cũng chỉ là một tình yêu đơn phương, vô vọng và chia xa...
- Ông nghĩ sao khi có ý kiến cho rằng, tất cả các bài hát của ông đều mang tâm trạng buồn?
- Quả thật tôi viết không có bài nào vui. Cả trăm ca khúc là cả trăm nỗi buồn, mỗi bài một vẻ. Có khi tôi cũng thử viết một vài ca khúc sôi động, nhưng rồi cảm thấy gượng ép quá, không viết nữa. Bây giờ nghiệm lại, tôi chỉ có thể viết theo những lắng đọng từ trong tim dẫn dắt và bật ra thành lời ca, nốt nhạc, thế thôi.
- Ngoài sáng tác, ông còn viết báo. Hai việc đó, một đòi hỏi sự tỉnh táo, khách quan, một cần sự bay bổng, lãng mạn. Tại sao chúng dung hòa được trong ông?
- Viết báo và sáng tác có phương tiện, cách thức thể hiện khác nhau nhưng đích đến vẫn là một: lòng yêu thương con người, nên cũng không có gì mâu thuẫn cả. Đi làm báo, tiếp xúc với những số phận con người, lòng tôi lúc nào cũng tràn ngập cảm xúc khó tả. Đêm về, nằm nghĩ lại, nhiều khi trăn trở ấy lại tạo mạch cảm hứng cho tôi viết ca khúc…
-Điều ông luôn tìm kiếm để vươn tới trong suốt cả cuộc đời mình là gì?
-Tình yêu. Đó là thứ quý giá nhất trong cuộc sống. Chính tình yêu thương con người đã chắp cánh cho tâm hồn và cả nghị lực sống của tôi, cho tôi cảm xúc thăng hoa trong sáng tác... và tôi là người lữ hành đam mê tình yêu... (x. music.vietvoice.net/song_details.php?lang=vietnamese&ID=430)

Vâng, lập trường của tác giả “nhạc buồn” họ Vũ Đức tên gọi Sao Biển là như thế. Thế nhưng, “như thế” không có nghĩa là tất cả những người viết nhạc nào khác, đều như vậy. Tức là, toàn viết những giòng nhạc buồn chứ không vui. Dù đời người quả thật vẫn vui, chứ không buồn. Và, tiếp theo đó, là lý do của những “Thu hát cho người” hoặc “Điệu buồn (rất) phương Nam”, của ông:

“Thời trung học, cứ mỗi lần đi học ở trường Tiểu La, tôi vẫn có thói quen hay uống café tại một quán rất quen thuộc tên là Café Thu. Quán giản dị với những chiếc bàn đã cũ kỹ theo năm tháng. Ngày ấy, ở thị trấn Hà Lam (Thăng Bình, Quảng Nam), ai cũng biết quán này, chủ nhân là một người đàn bà trên 30 tuổi, nhưng còn rất đẹp và sâu lắng. Một điều đặc biệt, café ở đây rất ngon, nhạc hay và buồn như chính chủ nhân của nó. Lúc bấy giờ, thứ “nhạc vàng” này, người ta thường hay cấm nên mỗi khi nghe xong, tôi nuốt từng lời, về nhà chép lại và tập với cây đàn guitar cũ. Chính vì thế, tội thuộc rất nhiều nhạc của các nhạc sĩ: Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Ngô Thuỵ Miên,… Trong lúc rỗi, tôi cũng thường nói chuyện với chủ quán, những lúc như vậy, đôi mắt cô Thu thừơng đượm buồn, xa xăm, nhớ về một dĩ vãng không xa lắm…” (Trích cảm nghiệm của tác giả Sao Biển qua điện thư buồn của bạn hiền, gần đây)

    Gợi nhớ điệu buồn nghệ sĩ viết, thì như thế. Thế còn, hồi ức vui của tôi và của bạn, sẽ ra sao?
    Ra sao hay ra răng, bần đạo đây rày chẳng biết. Chỉ biết mỗi một điều, là: xung quanh hồi ức về Đạo của riêng mình, vẫn thấy rất nhiều điều lạ và vui hơn nỗi buồn trăm năm, của nhà thơ. Buồn sao được, khi bần đạo mới ở độ tuổi “hai năm rõ mười”, vào cái tuổi rất ư là phá phách/nghịch ngợm, đến phát sợ. Không chỉ phá, còn là la cà ngoài đường chòm xóm những bay nhảy, cùng chạy rong đã bị -ấy chết, nói “được” thì đúng hơn- Vâng! Bần đạo được mẫu thân gọi lại mà nhủ bảo nhiều điều rất vui và chí tình mà đến bây giờ, hơn 50 năm sau nhìn lại, bần đạo vẫn còn nhớ như in trong hộp não vừa bé lại vừa tệ, hơn ai hết. Mẫu thân bần đạo, là cụ bà chân chất xuất thân từ đất Hà Nam - Phủ Lý, rất quê nhà. Cụ sống nhiều năm ở chốn thị thành, vốn dĩ thiếu niềm vui nhà Đạo, nên mới gọi bảo:

“Con à. Nhà mình thì đông đúc, giòng họ lại sung túc nhiều, thế mà chẳng được một ai chịu làm việc trong nhà Chúa để được vui đuợc sướng, ở chốn này. Hay là, con thử tìm đến hỏi cha xứ họ mình hỏi xem ngài có bằng lòng cho con theo học để đời con được sướng vui không con nhé…”

    Hồi ức của bần đạo tuy không sắc và thanh tao như người nghệ sĩ nhắc ghi ở trên. Duy, có một điều khiến bần đạo nắm chắc rất rõ là: ý của mẫu thân bần đạo khi ấy chỉ muốn cho bầy con sống sung sướng với cha với Chúa, chứ chẳng mong cho buồn con khổ như bất cứ ai trên đời, chí ít là người nghệ sĩ. Mẫu thân bần đạo, vốn xuất thân từ chốn quê mùa chân chất, rất đạo hạnh, nên nghĩ thế. Cụ vẫn tưởng rằng sống Đạo ở đời bao giờ cũng vui, cũng sướng hơn người đời chỉ ca với hát hết những bài “Thu hát cho người”, rồi lại đến “Điệu Buồn Phương Nam”, nên mới thế.
Hôm nay nghe lại lời ca sầu phát ra từ loa phóng thanh của ai đó, bên hàng xóm, bần đạo thấy như văng vẳng một lời trần (rất) tình, biết đâu trong giọng buồn ấy, mình lại tìm ra lời ca vui ở câu cuối. Câu hát rằng: 

            “Giòng sông nào, đưa người tình đi biền biệt?
            Mùa thu nào, đưa người về thăm bến xưa?
            Hoàng hạc bay, bay mãi bỏ trời mơ,
            Về đồi sim, ta nhớ người vô bờ…”
            (Vũ Đức Sao Biển – bđd)

    Nhớ người vô bờ, ở “đồi sim” không là chỉ nhớ mỗi lời buồn của người đời, mà thôi. Dù, người đó có là mẹ đẻ ra mình, hay của người cha ở bốn phương tám hướng, phía chân trời bể dâu, vẫn là nhớ. Nhớ, là bởi bậc mẹ cha ở đời hay trong Đạo, vẫn là các đấng các bậc có những lời thơ để đời, mong ta ghi và nhớ, rất như sau:

“Trong bài nói chuyện với người trẻ ở Madrid sau Đại Hội Giới Trẻ một ngày, Đức Bênêđíchtô 16 kêu gọi giới trẻ hãy đem theo những gì mình học được từ Đại hội Madrid về nhà mà san sẻ cho cộng đồng. San sẻ niềm vui đức tin mình học được: “Anh em đừng giữ Chúa cho riêng mình. Hãy san sẻ với người khác, niềm vui ấy”  (www.bbc.co.uk/vietnamese/world/2011/08/110822_pope_closed_wyd.shtml?pri...)

    Lời Đức Giáo Tông nói lên hôm ấy đã khiến nhiều người nhớ đến Lời Chúa từng phán bảo:

            “Thầy bảo thật anh em:
nếu anh em không hoán cải nên như trẻ bé,
anh em sẽ chẳng vào được Nước Trời.”
(Mt 18: 3)

    Người trẻ bé mọn ở đây, là người còn nghèo và cũng rất hèn, bị bỏ rơi hoặc quên lãng ở xó chợ, ngoài xã hội. Những người ấy, vẫn dẫy đầy nơi đất trời, ở mọi nơi. Nhưng hỏi rằng, trời kia đất ấy có nhớ họ không, đó mới là vấn đề. Và, vấn đề nay còn nhạy cảm như lời đấng bậc chủ quản ở trời Tây đất Mẹ cũng đề cập đến Đại Hội Giới Trẻ ở Madrid 2011 hôm vừa qua, cùng với những lời trần rất chí tình cũng giản đơn, chân chất, thành thật như sau:
“Trong lúc Hội thánh Công giáo tìm cách giúp đỡ người trần đến được Nước Trời, thì rất thường là Hội thánh hay đối xử với thành viên trẻ của mình như thể họ đến từ một hành tinh nào đó, khá xa xôi. Ý tưởng đối xử với người trẻ như người từ hành tinh mới xuất hiện, là của một viên chức cao cấp trong Giáo triều La Mã, đã nói thế trong cuộc phỏng vấn bên lề Đại Hội Madrid hôm 16/8/11.

Phát biểu với phóng viên Đại Hội, Tổng Giám Mục Joseph W. Tobin, Tổng Thư Ký Thánh Bộ Tu Sĩ và các Tu Hội Sống Đời Mục Vụ, có nói: “Người trẻ hôm nay có thể tìm thấy chính mình ngay trong lòng Hội thánh; nhưng cho đến nay, họ vẫn trong tư thế sống bên lề Hội thánh do bởi một số chuyện như: rất nhiều vị không nói cùng một thứ ngôn ngữ như họ, nên đã đối xử với họ như với người từ hành tinh khác chợt đến.”

Với người trẻ Công giáo, Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới vẫn là lễ hội qua đó họ có thời gian, không gian và tình bằng hữu thân thưong cần có, để có thể suy tư về đường lối mà Chúa muốn họ sống niềm tin tươi mát ngay trong Hội thánh, cũng như giữa lòng ðời. Thêm vào ðó, có sự kiện cho thấy ngýời trẻ hôm nay đang sẻ san kinh nghiệm tý riêng của mình với cả trăm ngàn bạn trẻ khác đến từ khắp nơi, trên thế giới. Đại Hội nay đem đến cho họ một dịp may hiếm có để họ có thể tham gia vào nghi thức phụng vụ, cùng nguyện cầu trong lặng thinh cũng như tìm hiểu thêm huấn giáo của Đạo, dành cho mình.

Với những ý tưởng như thế, đấng bậc chủ quản trên còn nói thêm: “Trong khung cảnh như thế này, người trẻ hôm nay còn có cơ hội gặp gỡ bầu bạn đang dấn thân vào cuộc đối thoại mà tất cả chúng ta cần có với Đấng Tác Tạo nên mình, bằng cách hỏi Ngài: “Chúa muốn con làm gì?”

Tổng Giám Mục Tobin còn cho biết: cuộc hội ngộ dành cho giới trẻ rất cần thiết cho những ai suy nghĩ về những đáp trả lời gọi mời đi vào cuộc sống chuyên tu giáo sĩ hoặc đời tu trì, và cho cả những vị từng dấn thân vào hành trình có lời tuyên hứa hoặc đã được tấn phong. Nói về những việc chính yếu sau Đại Hội có tầm vóc quốc tế này, Tổng Giám Mục cũng nói đến việc Hội thánh cần làm sau ngày Đại Hội, là: bám riết và hỗ trợ giới trẻ một khi Đại Hội bế mạc. Tổng Giám Mục Tobin công nhận: “Đây là thách thức không nhỏ đính kèm với kinh nghiệm mang nhiều cảm tính đã diễn ra. Nếu đây là điểm chuẩn cho mọi công tác về sau, thì cũng khó mà tái tạo được nó. Hãy hỏi các cặp vợ chồng trẻ mới cưới để xem họ cảm nghiệm thế nào trong đời mình, khi phải giáp mặt thực trạng cuộc sống cụ thể, như: phải giải quyết cả thau nồi niêu bát dĩa ngập đến đầu từ lâu, chưa kịp rửa. Hãy cứ hỏi những cặp vợ chồng có con còn nhỏ đang đau yếu hoặc những cặp vừa lấy nhau xong đã mất việc. Hỏi, để biết rằng niềm vui ngày mới cưới nào đã kéo dài, mãi thiên thu.

Dĩ nhiên, yêu đương là một nghệ thuật ở đời. Nhưng đó vẫn là nghệ thuật đòi hỏi nhiều kỷ luật và thao tác, đôi lúc cũng dẫn đến thất bại. Nhưng, bất cứ ai đương yêu cũng đều biết mình có cả một đời để sống và làm cho đúng hết mọi việc. Đấng bậc tu trì nào từng tiếp xúc với bất kỳ người trẻ ở đâu, cũng đều coi đó như phút chốc của mời gọi. Mời và gọi, là bởi giới trẻ bao giờ cũng kiếm tìm một giải pháp thoả đáng cho đời mình, xem mình có thích hợp với khuôn khổ đời tu hay không. Bởi thế nên, đấng bậc tu trì cũng cần để tai mà lắng nghe tâm tư của người trẻ. Biết rõ lai lịch họ và gọi mời họ thử xem đời sống tập thể với tu trì có thích hợp với điều mình kiếm tìm không.

Là đấng bậc chuyên đặc trách về Đời Tu, nên Tổng Giámmục Tobin cũng để ý nói: “Người trẻ không muốn các đấng bậc tu trì đánh giá thấp hoặc coi nhẹ đòi hỏi của Tin Mừng mình nghe biết. Thông thường, người trẻ chỉ dấn thân tham gia đời sống tu trì cộng đoàn mỗi khi được yêu cầu, mời gọi thôi. Và Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là cung cách yêu cầu họ sống đáp trẻ lời mời gọi ấy.“

Ngay tại các nước bị lung lay sau những vụ tai tiếng do một số giáo sĩ mắc phải lầm lỡ/sơ xuất qua phong cách xách nhiễu tình dục, nay vẫn thấy có ơn gọi giáo sĩ và đời tu: “Bản thân tôi, tôi nhìn sự việc bằng ánh mắt lạc quan ngay cả vào ngày đen tối xảy đến vụ 9 tháng 11 ở Hoa Kỳ. Khi ấy, tôi thấy nhiều người tìm cách tháo chạy khỏi hai toà nhà chọc trời đang bị hun cháy, thì cùng lúc ấy vẫn thấy có những người trẻ vẫn chạy về phía khói đen mù mịt có lửa bốc thiêu rụi cả con người lẫn vật dụng. Trong số những người ấy, tôi thấy có cả lính cứu hoả, cảnh sát cũng như nhân viên cứu trợ, đầy đủ cả. Ngay trong lòng Hội thánh cũng thế. Dù một số vị đang bị tai tiếng làm lung lay, suy sụp thì nỗi niềm giận dữ, nghiêm khắc vẫn rực sáng và có nhiều người trẻ vẫn cứ chạy về phía đó. Nhìn kỹ mới thấy, cái lôgích rất rồ dại của cuộc sống là chấp nhận có mất mát trong đời mình, có thế mới cứu vãn được chính nó.” (x. Cindy Wooden, “Church must not treat the young as aliens”, The Catholic Weekly 21/8/2011, tr. 23)  

    Về với chuyện buồn vui đời người, là về với nghệ sĩ vui cứ viết lên ca từ buồn, sau đây:

“Ta vẫn chờ em, dưới gốc sim già đó,
Để hái dâng người, một đóa đẫm tương tư,
Đêm nguyệt cầm, ta gọi em trong gió.
Sáng linh lan, hồn ta khóc bao giờ.
Ta vẫn chờ em, trên bao la đồi nương,
Trong mênh mông chiều sương,
Giữa thu vàng bên đồi sim, trái chín
Một mình ta, ngồi khóc tuổi thơ bay.”
(Vũ Đức Sao Biển – bđd)
    Nói cho cùng, thì buồn vui đời người đâu nằm ở nơi lời nói, hoặc câu ca. Nhưng vẫn cứ là và có thể là ý tưởng/lập trường sống, có chọn lựa. Chọn mừng vui hay buồn chán, cả một đời, vẫn còn đó âm hưởng của lời ca, không vui lắm:
“Thời gian nào, trôi bềnh bồng trên phận người,
Biệt ly nào, không muộn phiền trên dấu môi.
Mùa vàng lên, biêng biếc bóng chiều rơi,
Nhạc hoài mong, ta hát vì xa người.

Thu hát cho người.
Thu hát cho người, người yêu ơi! “
(Vũ Đức Sao Biển – bđd)
    Tắt một lời, hãy nói và hát như nghệ sĩ ngoài đời, ở đời thường, dù có viết bài ca những là “Thu hát cho người”, thế nào đi nữa, cuối cùng vẫn cùng ông công nhận rằng: “Tình yêu. Đó là thứ quý giá nhất trong cuộc sống. Chính tình yêu thương con người đã chắp cánh cho tâm hồn và cả nghị lực sống của tôi, cho tôi cảm xúc thăng hoa trong sáng tác. Và, tôi là người lữ hành đam mê tình yêu...”
    Nếu vậy thì, xin mời bạn và mời tôi, mời cả các vị trong ngoài nhà Đạo, ta hãy dấn thân vào giòng đời, mà giữ Đạo. Cứ thế mà sống Đạo, vẫn rất đạo. Dấn thân, để rồi sẽ luôn nghe theo lời dặn dò của Đức Chúa từng ở Tin Mừng, với mọi người, rằng:

“Nếu anh em không hoán cải
trở nên như người trẻ/bé nhỏ,
anh em sẽ chẳng vào được Nước Trời đâu.”
(Mt 18: 3)

    Người trẻ nhỏ bé mọn vừa qua đã đặt chân đến thủ phủ Madrid ở Tây Ban Nha hoặc ở đây, nơi này vẫn là bạn, là tôi, đang sống giữa cuộc đời có cả điều buồn lẫn chuyện vui. Nhưng còn gì vui hơn, khi người người nay áp dụng lời dạy của Thầy Chí Ái, mà sống thực đời mình, cùng mọi người.
    Sống rất vui, bên cạnh những người buồn. Sống tinh thần trẻ, cả trong lòng Giáo hội nay đã già. Già, nơi thân xác. Đầu óc. Nhưng không già, trong quyết tâm đổi mới với Lời Chúa, ở quanh ta.

    Trần Ngọc Mười Hai
    Vẫn nhớ nhiều
những điều Thầy từng dạy,
rất như trên.

 
 




      16.  “Anh ơi có bao nhiêu? 60 năm cuộc đời,”
“20 năm đầu, sung sướng không bao lâu”
(Y Vân – 60 năm cuộc đời)
    (Lc 23: 34)
    Có những điều, mà người người sống ở đời vẫn thường hỏi. Và, cũng nhắn. Những nhắn hỏi, như lời ca nghệ sĩ lâu nay vẫn hát, rất ở trên. Có những câu nhắn, mà người người sống mọi nơi, mọi thời, vẫn chẳng thấy trả lời, mà chỉ trả lỗ. Rất khôn nguôi. Nhắn hỏi đây, vẫn tràn đầy ở truyền thông đại chúng có thơ văn kể về tình huống ở đời người, gay go lấn cấn đến khó tả. 
    Truyền thông đại chúng, nay có lời nhủ/nhắn khá gay cấn như ca từ nghệ sĩ vẫn thường hát:

            “20 năm sau, sầu vương cao vời vợi,
20 năm cuối là bao.
Ơ là thế! đời sống không được bao
Ơ là bao! đời không lâu là thế…”
 (Y Vân – bđd)

    Vâng. Hỏi hoặc nhắn với người đời, thường như thế. Tức, những nhắn và hỏi khiến người người thốt lên lời than thật: “hết biết”! Hết biết đây, là: không còn biết trả lời/trả vốn sao cho phải đạo như báo đài/truyền thông đặt ra, sau vụ nội loạn ở Luân Đôn, tháng tám năm hai nghìn lẻ mười một.
“Hết biết”!, còn có nghĩa: chẳng biết đám trẻ ấy có như nghệ sĩ trên, dám hát lời ca vang rằng: “20 năm đầu, sung sướng không bao lâu! 20 năm sau, sầu vương cao vời vợi! 20 năm cuối là bao!” Xem thế thì, có bảo là “hết biết” hay chẳng dám biết, đều có nghĩa là: 60 năm cuộc đời, dù sướng/khổ, vẫn cứ “rung đùi” mà hát: “Ớ là bao! không lâu là thế!”. Và: “Ớ là thế! đời sống không được bao”, tức chẳng dám tự hào nói được mình sẽ sống dai/sống thọ để còn biết. Và, biết rất rõ cuộc đời người.
    Hôm nay, khi nói “hết biết!”, là còn nhận rằng: mình chẳng biết phản ứng ra sao khi thấy đám trẻ cứ chán đời, rồi quậy phá đến …hết biết. Thật ra, thì bần đạo cũng chẳng biết đích xác lẽ tại sao tuổi trẻ nay hung hăng/bốc đồng khiến các đấng bậc vị vọng ở nhiều nơi, đã phải phản ứng như bên dưới:
Phản ứng trước nhất, là ý kiến của tác giả Joanna Bogle trong một bài viết có tựa đề: “Tuổi trẻ không cha, nay đập phá”, trong đó người viết đưa ra câu hỏi, rằng: “Vụ hỗn loạn/xục xạo ở Luân Đôn tuần rồi, liệu có thuyết phục được những ai lâu nay nghi ngờ là: cấu trúc gia đình nay đã trở thành vấn đề khúc mắc thời đại đối với đám đông quần chúng, không?” Hỏi rồi, tác giả đã đưa ra ý kiến của mình để  mọi người bàn luận. Ý của cô, như sau:

“Sự thể là, chuyện gia đình đổ vỡ hôm nay đã lan tràn ở đây đó đến mức độ đáng báo động, khiến người người thấy ngán ngẫm khi nhận ra rằng: mới thập niên ‘60 đến nay thôi, mà các trẻ xuất thân từ gia đình có bố mẹ chung sống với nhau chẳng cần cưới hỏi, đã từ 5% lên đến hơn 40%. Trong khi đó, con cái của bậc cha mẹ tuy sống cùng nhà nhưng tương quan gãy đổ, có tỷ lệ cao hơn gia đình có cưới hỏi đàng hoàng.
Các khảo sát chính thức do Bristol Community Family Trust và Trung Tâm Công Bằng Xã Hội thực hiện vào năm 2010, đã cho thấy rõ: có đến 50% số trẻ em ra đời ở Anh lâu nay chịu cảnh gia đình đổ vỡ, thường xảy đến trước khi các em bước vào tuổi 16. Một số quận bên Anh, nay thấy có hơn 50% bậc cha mẹ đơn lẻ lại đã và đang làm chủ gia đình. Thế nên, vụ náo bạo tuần rồi khiến nhiều người đau lòng xót ruột khi được biết có người gọi về cơ quan chức năng với mục đích đổ vấy mọi lỗi lầm là do bậc cha mẹ giáo dục con cái không nghiêm túc, chẳng đúng mức. Qua vụ việc tuần rồi, ta nhận ra rằng: ít có trường hợp nào cho thấy đám trẻ ấy lại xuất thân từ gia đình có cha có mẹ đầy đủ.
Những tháng ngày gần đây, ta thấy một số trẻ phạm pháp có mẹ cô đơn sống chung cùng phòng với bạn trai của bà. Chẳng cần bàn chi cho nhiều, ai cũng hiểu rằng: nhiều trường hợp cho thấy sở dĩ đám trẻ nay làm bậy là do ảnh hưởng từ truyền thông/báo chí, truyền hình, phim tập, hoặc văn hoá nhạc giựt, và nhiều thứ. Rõ ràng, giá trị cổ xưa như: gia đình đạo hạnh có cưới hỏi đàng hoàng, sự thủy chung, siêng chăm, tận tuỵ và tính sẻ san tốt lành của gia đình, nay bị đẩy lùi khỏi cuộc sống hiện tại.
Muốn cho xã hội được lành mạnh trở lại, có lẽ ta cũng nên khởi đầu bằng việc chấp nhận thay đổi chính sách xã hội, ở mọi giới. Tựa hồ như, khi ta nghe ai đó chủ trương phá bỏ những gì tốt lành do hôn nhân/gia đình đem đến. Thêm vào đó, là những người cứ chê bai chuyện cần đặt nặng tình phụ tử, cũng như sự hiện diện của người cha, trong gia đình. Tất cả, là chuyện cần thiết không thể lơ là, hoặc bỏ qua. Có vị lâu nay chủ trương điều tiêu cực, sau khi đã phá bỏ mọi sự tốt lành rồi, thì có nói lời “xin lỗi” cách mấy đi nữa, mà không chấp nhận tu chỉnh thực chất của mọi việc, thì chẳng ai dám nhận lời “xin lỗi” ấy cả.
Thay vào đó, hãy thăng tiến hôn nhân sao cho đôi nam nữ sống với nhau càng lâu càng tốt. Hãy yểm trợ vị nào chủ trương đường hướng giáo dục đúng đắn cho xã hội. Hãy cho phép nhà trường thi hành kỷ luật đối với học sinh cá biệt. Có như thế, thì quần thể xã hội mới đạt kết quả khả quan. Hãy kiến tạo cuộc sống mẫu gương của người đàn ông/thanh niên tiêu biểu và thường xuyên có mặt với nhóm trẻ để sinh hoạt một cách tích cực. Hãy khuyến khích người trẻ thực thi công trình nào khả dĩ tạo nền tảng vững chãi cho xã hội. Hãy hỗ trợ người phục vụ chòm xóm cho tốt đẹp. Hãy lập lại kỷ luật trong xã hội, để tình bằng hữu thân thương về lại với đoàn thể sắc tộc nào chủ trương đề cao giá trị đạo đức, ý thức lịch sử. Hỗ trợ đoàn thể nào đặt nặng tính cộng đồng truyền thống lên trên mọi sự. Có như thế, thì nền văn hoá sắc tộc mới có cơ hội phát triển.
Đó là chính sách nhắm vào quần chúng. Là, chính sách nền tảng đặt ra cho cộng đồng dùng nó để có được sinh hoạt thật tích cực. Có làm thế, thì xã hội cộng đồng mới sống thuận thảo với chòm xóm. Và từ đó, cộng đồng mới triển khai được điều tốt lành cho xã hội mình đang sống. Cũng nên coi vụ hỗn loạn ở Luân Đôn hôm rồi, là tiếng chuông cảnh tỉnh để mọi người có quyết tâm mà đổi thay tận gốc chính sách cũ xưa/tồi tệ đang bám rễ trong cộng đồng mình. Hãy thay đổi cho thật rộng, để nhờ đó hy vọng rằng mình có đủ tài năng/nhân vật lực để đặt nền tảng vững chãi cho cuộc sống xã hội. Có thay đổi như thế, mới hy vọng vào tương lai tươi sáng cho xã hội mình đang sống. Hãy dũng cảm thiết lập chính sách thay đổi ấy một cách cương quyết, nhờ đó sẽ nắm chắc thành công.
Thủ tướng Anh, ông David Cameron và thủ lãnh đảng Lao Động Anh, là ông Ed Miliband đều nói đến trách nhiệm của bậc cha mẹ. Đó là vấn đề mọi người cần bận tâm, bàn luận. Vấn đề này, biên tập viên đài BBC Luân Đôn, ông Nick Robinson, cũng đồng ý nói: “Cái giá phải trả sẽ lớn lao biết là chừng nào. Giả như các nhà chính trị thuyết phục được cử tri mình rằng: sự việc xảy ra hôm tuần rồi đã cho thấy rằng: họ không là người bất lực, hoặc thụ động.” (x. Joanna Bogle, Fatherless youths run riot, www.mercatorNet 16/8/2011)           

    Nói theo kiểu truyền thông, là để truyền cho thông. Nhưng nói thì nói thế, chắc gì thuyết phục được người đọc ở các nơi. Chí ít, là những người sống ở thị thành bên Anh từng kinh khiếp khi thấy xã hội nay thay đổi đến rợn người.
Nói thì vẫn nói, nhưng hãy lắng nghe phản ứng/phản hồi của người dõi theo truyền thông/báo chí và từng có những bài báo, giống như trên. Cũng nên lắng nghe dư luận cùng phản ứng của người dân đen trước biến cố náo loạn xảy đến như sau:

“Theo tôi, nguyên nhân dẫn đến chuyện náo loạn/hôi của tuần vừa rồi, là do thái độ của thanh/thiếu niên sống thiếu kỷ luật ở nhà mình cũng như ở trường học. Điều các em cần làm, là: học biết thế nào là kỷ luật sắt vẫn có trong quân đội. Ở đó, người trẻ có cơ hội được thử lửa bằng thứ đồ chơi của giới trẻ. Ở nơi đó, họ học được cách sử dụng và biết cẩn thận với súng đạn và lúc nào cũng có người kiểm soát và hướng dẫn cho đúng cách. Ở nơi đó, họ cũng sẽ được học lái xe vận tải hoặc xe tăng/thiết giáp để tự biến mình thành người của băng đảng lớn nhất nước. Đó là những gì mà đám nam thanh nữ tú sẽ thấy thích thú và nên làm.
Nếu áp dụng nghĩa vụ quân sự cho đám trẻ chuyên quậy phá ấy, mọi người sẽ nhận ra sự khác biệt xảy đến với lũ trẻ chỉ sau 6 tuần khổ luyện, thôi. Và từ đó, thay vì trở thành đám trẻ hoang tàng quậy phá, bọn họ sẽ tự hào với mọi đổi thay nơi chính mình. Bọn họ sẽ không còn để lãng phí thì giờ nữa, nhưng sẽ tìm ra căn cước mới của mình. Và khi ấy, họ biết lo cho bản thân họ, vì học được những điều mình cần học, ngõ hầu giúp ích cho đời sống của mình trước khi nghĩ đến chuyện vị kỷ. Khinh suất.” (x. Stirling8, bđd)

    Và, thêm một phản hồi khác từ nữ độc giả ở Úc, cô Susan Reibel Moore, như sau:
   
“Bản thân tôi, nay muốn nói lời cảm tạ Joanna Bogle, vì thấy mình cũng đã mệt mỏi. Nhớ lại, khi con cái tôi đến tuổi niên thiếu, chúng tôi đã chuyển về khu căn cứ quân sự gần Sydney, khu có các cựu chiến binh thế chiến 2 sinh sống. Lúc ấy, tôi thấy đám trẻ quậy phá nhất là lũ cô nhi hoặc những trẻ có người cha bị bệnh tâm thần sau chiến tranh, nên đã khiếm khuyết trách nhiệm trông nom con cái, cho đàng hoàng.
Ở trường, tôi mục kích thấy 2 đứa trong đám trẻ, từng nổi khùng đốt công viên cây xanh trong vùng nữa. Bản thân tôi, hồi còn là thiếu nữ tuổi mới lớn, sống trong hoàn cảnh khá khiêm tốn ở Elizabeth, bang New Jersey Hoa Kỳ, tôi chẳng có bạn nào thiếu vắng tình phụ tử cả. Vì được nuôi dưỡng/giáo dục từ một gia đình đông con gốc Do thái sống với các ông bố rất biết điều, công minh chính trực và các bà mẹ chuyên chăm làm lụng, bà nào cũng được con tôn trọng. Con cái, đứa nào cũng có hiếu và biết nghe lời người lớn.
Tình trạng hỗn loạn hiện thời ở Anh và ở nhiều nơi trên thế giới khiến nhiều người thấy xấu hổ vì cuộc sống gia đình nay vỡ đổ trầm trọng. Ở nhiều nơi, những người lại hiểu về hôn nhân không đúng cách. Nên, mỗi khi nhìn cảnh tượng đau buồn xảy ra như thế, tôi đều ngán ngẫm lắc đầu và thấy bi quan, không biết xã hội này rồi sẽ ra sao..” (x. bđd)

    Và, tiếp theo đây là một phản cảm khác từ người đọc báo có tên là Juan R. Velez, ở Úc:

“Tác giả Joanna Bogle có nhắc đến trường hợp truyền thông ở Anh cũng như bên Mỹ, nay nói nhiều đến tình trạng gia đình và hành xử của con cái. Tôi lại nghĩ: chỉ khi nào nền đạo đức đích thực cũng như gia đình nào chấp nhận nền luân lý thuận theo thiên nhiên, thì mọi người mới duy trì đời sống thân thương êm đẹp được. Còn thì, cảnh hỗn quân hỗn quan đáng buồn vẫn xảy ra ở nhiều nơi, như tại Pháp vào tháng ngày gần đây. Thật ra, nghèo đói/bất công chẳng là cội rễ gây nên cảnh đốt nhà và hôi của bừa bãi như vừa rồi.
Nền luân lý xã hội ở Anh từng căn cứ vào niềm tin tôn giáo, nay dần dà biến mất. Tôi nhớ hồi Hồng Y Newman còn sinh thì, ông thấy trước là chủ thuyết vô thần và đạo rối cũng đã gia tăng tại đất nước này. Ông cũng nhìn thấy hậu quả của nó ðang tiến dần ðến xã hội ngày nay. Hồng Y Newman từng cảnh báo con dân trong đạo, là: hãy kiếm tìm sự thật mà thi hành. Lời Hồng Y Newman kêu gọi, vẫn vang vọng bên tai ta, mãi đến hôm nay, theo cung cách rất thúc bách.” (x. bđd)

    Và, sau đây là ý kiến của một người gốc Á Châu sống ở Anh, một độc giả mang tên Mal:
       
“Hiện có cả trăm triệu người trẻ sống khắp lục địa Châu Á chẳng khá giả gì hoặc không được thừa hưởng một chút phúc lợi nào dành cho mình. Thế nhưng, họ đâu có hành xử tệ bạc đến thế. Tuổi trẻ lục địa này, biết chăm lo học hành,chuyên cần làm việc hoặc cũng vui chơi như ai, nhưng điều quan trọng là họ vẫn có gia đình sống rất quân bình, về nhiều mặt.
Thông thường, mọi người đều biết là gia đình mình có êm đẹp thì xã hội mới yên hàn. Gia đình mà gãy đổ, sẽ kéo theo cả một xã hội đi đến cảnh đổ vỡ. Chẳng thế mà, có người cứ vô duyên/vô cớ bảo rằng nước Anh rơi vào tình trạng nát bấy rồi. Giả như xã hội nào cũng thật tình lo cho đám trẻ, thì chắc chắn xã hội ấy đảm bảo được quyền căn bản của dân mình. Chỉ khi đó, quyền lợi của người dân mới được bảo vệ. Xã hội nào nhấn mạnh đến quyền lợi cá nhân/riêng tư, đặc biệt là quyền tự tung/tự tác chỉ hưởng lạc, chắc chắn sẽ lơ là trách nhiệm của mình. Rõ ràng, cổ nhân ở đâu cũng nói câu: Gieo gió gặt bão. Đó là chuyện hiển nhiên, hai năm rõ mười.” (x. bđd)

    Cuối cùng, là ý kiến phản hồi của một người ở Calêđônia từng dõi theo báo/đài, tỏ bày như sau:

“Tôi thấy vấn đề đặt ra ở đây là thiếu kỷ luật cần có trong gia đình và trường học. Gia đình, nay thiếu vắng sự hiện diện của người cha, đó là nguyên nhân thấy rõ. Có chuyện buồn cười nữa là: lâu nay, vấn đề “nhân quyền/bình đẳng” vẫn được nói nhiều, nhưng vẫn trở nên tồi tệ, chẳng khá là bao. Với bậc thày cô/giáo chức ở trường, lâu nay chẳng mấy ai quan tâm hỗ trợ khi thày cô đã bị đuổi sở rất dễ dàng, chỉ vì dám ra kỷ luật cho học sinh dù chúng thuộc loại cá biệt, hết thuốc chữa. Thêm vào đó, chẳng ai buồn hỗ trợ các vị ấy, dù thấy trái. Chẳng ai lấy làm lạ khi xã hội nay đi dần vào chỗ bế tắc với đám trẻ chẳng chịu học hành. Làm việc, thì chẳng bao giờ làm cho ra hồn, thì sao mà khá được.
Nền luân lý truyền thống nay bị chê bai/nhạo báng. Thêm vào đó, sự kiện ai cũng thấy rõ đó là: ta đang rẽ vào con lộ nhỏ không đúng hướng. Thế nên, cần trở về và tìm cho đúng hướng mà đi, chứ đừng tiếp tục theo con lộ có vỉa hè đổ nát, sạt lở như bây giờ.” (x. bđd)

    Mỗi khi “sự cố” xảy đến, người người thường tìm cách viện dẫn đủ mọi lý lẽ để biện minh, hoặc chạy tội. Có vị đã không chạy và cũng chẳng chữa. Nhưng, quay về với Lời Vàng Sách Thánh có đoạn thánh sử ghi lại tình tiết bi quan trong Hội thánh. Trong đó, Đấng Thánh Hiền từng nói:

            “Lạy Cha, xin tha cho chúng,
vì chúng không biết việc chúng làm."
            (Lc 23: 34) 

    hoặc:

“Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau,
nếu ai có điều gì trách móc kẻ khác.
Như, Chúa đã tha thứ cho anh chị em thế nào,
thì anh chị em cũng vậy. Anh chị em hãy mặc lấy đức mến,
là giềng mối của sự trọn lành.”
(Co 3: 13-14)

             Về tha thứ, đấng bậc nhà đạo từng chung đụng với người trẻ ở trong cuộc –tức cùng sống ở trong vùng nhạy cảm này- đã có phản cảm hơi khác. Phản cảm ấy, phản ánh tình cảm vẫn có với dân con trong đời, dù con ấy dân nọ còn trẻ nữa hay không, cũng như sau:

“Sáng hôm ấy, tôi cùng với người bàng quan đứng rất đông xem và đọc các hàng chữ có thông điệp ghi phản ứng về cuộc loạn náo hồi tuần rồi, có viết: “Nhân quyền nay đi quá xa!”; “Dĩ nhiên phải công bình, nhưng có chăng tình thứ tha?”; “Họ là con cháu của mình, nên cần hỏi xem mình đã làm gì sai quấy?”…Bên kia đường, là cửa hiệu bán đồ tiệc tùng liên hoan mà người chủ tiệm từng có thói quen trích ra một số lợi nhuận để giúp chăm lo cho giới trẻ.
Cách đây ba năm, Quỹ Nhi Đồng Liên HIệp Quốc đã cảnh báo xếp nước Anh vào hạng áp chót trong số các quốc gia chăm lo cuộc sống an lành của trẻ em. Lúc đó, cũng có báo động chuyện giá trị của đám người trẻ là do người cùng trong nhóm tạo ra chứ không do các bậc trưởng thượng định đoạt. Có lẽ ta cũng nên đặt vấn đề với nhà cầm quyền rằng: “Các vị lâu nay đã làm được gì hầu cải tiến chuyện ấy?”    
Nay vẫn thấy, cách biệt giữa người giàu/kẻ nghèo ngày càng rộng lớn. Người nghèo cứ nghèo đi, trong khi giá trị của con người lại được đo đạc bằng của cải của mỗi người. Đó là việc làm rất nguy hiểm. Các bộ trưởng trong chính giới cầm quyền lại chỉ đổ lỗi cho chủ nghĩa cơ hội về những xáo trộn xảy ra trong xã hội mà không có phương cách hỗ trợ hoặc đổi thay cả. Nếu để như vậy thì tội ác ở mức độ này vẫn còn đất để dụng võ.
Cũng thế, những điều xảy ra hồi tuần qua, là triệu chứng của tình trạng phiền muộn/khó chịu đang len lỏi bên trong đám người trẻ, đến độ đưa họ vào tình trạng tuyệt vọng, không lối thoát. Thêm vào đó, là sự việc chính phủ huỷ trợ cấp giáo dục xưa kia đã giúp họ nán lại để học hành sau tuổi 16. Rồi, đến lệ phí đại học mà họ phải đóng vào năm tới cộng thêm với chuyện viễn ảnh của người trẻ có khả năng để làm chủ căn nhà của mình. Nhất nhất đều khiến họ thấy hệ thống phúc lợi nay có vẻ như chống lại họ. Và, đó là điều không tốt, đối với họ.
Thêm vào đó, còn có sự nghi ngờ đồn đoán, dù đúng hay sai, rằng: người nghèo là kẻ phải hứng chịu ngân sách cắt giảm nhiều nhất. Bởi, chính quyền sẽ không kham nổi những rắc rối và sợ rằng doanh thương/doanh nghiệp sẽ có hướng chạy ra nước ngoài để kiếm lợi nhuận. Thành thử, các lỗ hổng thiếu hụt ngân sách của xã hội lại càng cấp bách và phức tạp như chuyện cắt giảm nợ nần mà nước mình đang gánh chịu. Điều này, đòi ta phải coi lại đường lối mình chủ trương để đầu tư vào một nền văn hoá trong đó người trẻ và gia đình có cơ phát triển nhiều hơn.
Mặt khác, chất lượng giảng dạy cho trẻ cũng là việc cần tranh luận. Có thế, mới đảm bảo được tương lai mai ngày. Và nhà trường cũng nên nhận trách nhiệm về những chuyện vừa xảy đến, là: sự thiếu vắng tình thương nơi giới trẻ. Có lẽ mọi người cũng nên lắng nghe các đấng bậc có kinh nghiệm trong giảng dạy rất chuyên nghiệp.
Thiếu vắng tình thương ở trường, nay song hành với chuyện xảy ra hồi tuần rồi, ở Anh. Nó bao gồm cả chuyện tha hoá mục tiêu và ý định của thể chế chính trị. Cả việc nó đang rút chân khỏi cuộc sống của chính mình. Sự thể là, nền giáo dục ở trường lớp nay đã biến thể qua sự việc đám trẻ nay tỏ bày sự bất ưng, như: trốn học; hoặc đáng báo động hơn, như: cướp bóc, hôi của, phá phách, những hình thức rất bạo động. Thiếu vắng tình thương, nay được diễn tả bằng sự kỳ thị sắc tộc, đẳng cấp xã hội. Chính vì thế, nên nhà trường nay được coi là nơi chốn không còn thích hợp với họ nữa. Trường học, nay là nơi tạo phiền muộn cho kẻ thiếu vắng tình thương, vì các cơ quan công quyền cứ hay tỏ bày chống đối lại người trẻ như họ. Cuối cùng, thách thức cho ta hôm nay là: thay đổi lối cảm nhận ấy.
Một mặt, nguyên do của thiếu vắng tình thương thấy xảy ra rất nhiều và vẫn mang hình dáng của nhiều tầng lớp khác nhau, khiến nhiều người chọn đứng ở ngoài. Điều đó còn dẫn đến tình trạng, là: đám trẻ chưa từng nhận tình thương yêu đậm đà như thế, nên hậu quả sẽ đương nhiên cứ thế mà tiếp tục, và khó lường.
Điều dễ thấy, trước mắt là: người trẻ bất ưng nay tỏ ra tức giận, nên đã tập trung sự giận tức của mình vào những người mà họ nghĩ là họ có trách nhiệm để hả cơn nóng. Thứ đến, nhiều người trẻ lớn lên trong tình trạng không đủ tự tin, và vẫn muốn có được đức tính ấy bằng cách tạo cho mình có được nhiều thứ, dù thứ đó không phải của mình, hoặc dành cho mình. Hoặc, cũng có khi họ cũng tham gia băng đảng để có cuộc sống dễ chịu; hoặc có được thứ quyền khả dĩ mang lại cho họ những thứ họ muốn. Nói tóm lại, họ thiếu môi trường dưỡng dục làm nền cho việc đào tạo giá trị, đạo hạnh làm nguyên tắc và hành trang để thách thức tính vị kỷ của mình.
Ở môi trường như thế, những gì mà các cơ sở giáo dục đang ra sức cung cấp cũng nên dành cho trẻ nhỏ và các thiếu niên đã rời ghế nhà trường và cho cả chúng ta hết thảy, có cơ hội được một nền giáo dục thoả đáng. Không thể một sớm một chiều ta cải tổ được nền văn hoá cuộc sống gia đình nghèo, nhưng ta vẫn có thể làm cái gì đó cho họ, những người đang thiếu thốn đủ thứ, lại không đủ bản lãnh hầu giúp họ đầu tư cho tương lai của họ.
Trường lớp, là nơi dưỡng dục các giá trị đạo hạnh cần có, nên đám người trẻ cần nhận biết điều ấy. Thành thử, bằng vào cố gắng riêng tư có sự hỗ trợ của nền giáo dục, cũng nên ra chương trình giảng dạy  rộng đủ khả dĩ giúp người trẻ phát triển, dù rằng vì còn trẻ, nên họ cũng cần có dịp vui chơi/nô đùa khả dĩ giúp họ tạo niềm tự tin, thăng tiến sinh hoạt xã hội, nhận lãnh trách nhiệm cho chính mình, đạt kỹ năng làm việc theo đồng đội, và trở thành lãnh đạo, về sau này. Đó là lý do tại sao âm nhạc, thể thao, và kịch nghệ đều rất cần. Người trẻ cần đóng vai lý tưởng để tạo cho mình các giá trị đạo đức do nhà trường dạy dỗ. Và, chính nhà trường cũng phải nói lên rằng: “vấn đề là ở nơi anh, nơi chị”. Có làm thế, thì nhà trường mới mong tạo hy vọng và sáng kiến đem đến cho tuổi trẻ được.
Tuổi trẻ và gia đình, phải nhận trách nhiệm về những gì mình làm. Đồng thời, chính quyền cũng phải làm thứ gì đó mang tính văn hoá, xã hội và kinh tế để giải quyết những xáo trộn có thể xảy ra. Vấn đề là, chính quyền cần khích lệ nhiều người tham gia tự nguyện tạo lợi ích chung cho mọi người, kẻ cả tuổi trẻ. Bộ trưởng sở quan hoặc các vị có trách nhiệm cần cân nhắc việc cắt giảm ngân sách làm sao để đừng tạo nên những hậu quả xấu cho xã hội. Đồng thời, cũng nên học hỏi nơi các nhà chuyên môn từng đối đầu tuổi trẻ thiếu tình thương và đã tạo môi trường thăng tiến sự tự tin cũng như giá trị đạo hạnh cho họ.
Ta cần nền giáo dục nào chú trọng nhiều vào việc đào tạo người trẻ của ta, vì chính họ là tương lai của doanh thương kỹ nghệ. Chuyện cấp bách nhất, là tạo đối thoại về sự đồng thuận lập nền tảng giá trị và đạo hạnh, khả dĩ đem đến cho người trẻ và gia đình họ một địa bàn đạo đức, tức công việc khá phức tạp trong bối cảnh của xã hội đa văn hoá và phóng túng của ta hiện giờ. Phức tạp thật đấy, nhưng ai sẽ là người trả giá nếu không đổi thay đây?
Hồi thập niên ’40, linh mục Dòng Tên người Chi Lê là lm Alberto Hurtado từng viết: “Giáo huấn xã hội của Hội thánh phải thăng tiến thái độ của những ai không tuân thủ sự sai trái của xã hội. Thế nên, thách thức hiện thời gửi đến thủ tướng Cameron và cho cả xã hội lớn của ông là: làm sao thuyết phục được mọi người vì lợi ích chung, ta cần trả thêm chút thuế má để đầu tư cho tương lai đám “trẻ người non dạ”, trong xã hội của ta.” (x. Lm Michael Holman sj, Balm for disaffected youth, The Tablet 20/8/2011, tr. 6-7)

    Nói kiểu “điều hay lẽ phải” cho người trẻ, là nói như thế. Tức, không chối bỏ sự thật đang diễn ra mỗi ngày, ở đây. Nói kiểu “vui chơi/bông đùa” để người trẻ vui mà sống, là nói như truyện kể sau đây:  

        “Truyện rằng,
 Hai bạn trẻ lâu ngày gặp nhau, không dài dòng thắc mắc, đi ngay vào câu chuyện:
-Này, tớ thấy mặt mũi cậu lúc nào cũng thểu não, thế công chuyện làm ăn rày ra sao? 
-Làm với ăn gì đâu, chỉ có ăn mà không có làm, thế đấy cậu ạ.
-Sao lại thế? Vừa rồi tớ có nghe nói là cậu kiếm được một chỗ làm béo bở, lắm mà?
-Béo với bở gì đâu, tớ kiếm được công việc rồi, nhưng lại bị đuổi sở ngay hôm mới tới.
-Thế bộ, cậu mới đi làm đã dám quậy phá cơ sở rồi sao?
-Không dám đâu. Tớ chỉ là nghe theo lời dặn dò của người phụ trách cấp việc thôi.  Chả là, người phỏng vấn có dặn tớ là: ngày đầu nhận việc, tớ chỉ nên mang cà vạt đỏ mà thôi. Tớ làm đúng như thế, vậy mà bà xếp lại đuổi tớ ra khỏi sở ngay vì tội “cung xúc tu sỉ”. Chả biết tại tu sỉ  hay tu sĩ gì ráo trọi nhưng bị đuổi việc cách vô cớ như thế chứ. Cậu có ý kiến gì không?...”

    Sao lại thế, vẫn là câu hỏi của nhiều người. Hệt như câu nhắn của nghệ sĩ, vẫn cứ hát:

“Anh ơi có bao nhiêu, 60 năm cuộc đời?
Khi xa anh rồi, em biết yêu thương ai!
Nên khi yêu nhau, thì yêu cho trọn đời
Anh ơi, ta sống được bao.”
        (Y Vân – bđd)

    Đúng thế. Nghĩa là: sống ở đời, người trẻ muốn có đời sống cho đáng sống, chắc hẳn phải có nhiều sự hỗ trợ từ gia đình, xã hội, giáo dục và tôn giáo. Thực hiện chuyện ấy có là điều khó khăn chăng? Phải chăng đã đến lúc người người cần thay đổi lối sống? Và, có nên học hỏi rất nhiều điều từ các xã hội cổ xưa nhưng rất ổn. Bởi lẽ, có vui chơi quậy phá hoặc đòi hỏi nhiều thừ nơi người khác, thì cũng nên quay về với lời ta vừa hát: “Anh ơi, ta sống được bao.” Sống được bao, là sống thế nào? Sống giống ai? Theo ai? Mà làm gì?

    Trần Ngọc Mười Hai
    Vẫn cứ hỏi và chỉ nhắn
    những điều mình đã hiểu và đã biết,
có thế thôi.


  
17.     “Mây có bay và em có hay”
“Ta ngại ngùng yêu em lần đầu?”
(Ngô Thụy Miên – Bản Tình Cuối)
(Mt 2: 13-15)
Nếu cứ hỏi và cứ nói, về những mây bay và người em yêu như bài trên, thì câu trả lời cũng chẳng khó. Càng không khó, nếu bạn và tôi, ta đồng ý với người nghệ sĩ cứ coi các vị mà mình gọi là “Em” là thành viên Hội thánh, càng dễ tính. Bởi, một khi “đã say”, và “hồn ta ngất ngây” rồi, thì “men yêu thương (cũng) thấm cuộc đời” của “em” và của người anh/người chị trong thánh Hội nữa.
Và, khi cuộc đời đã “thấm” đậm như thế, ta lại hát:

“Yêu em, ta yêu em như yêu tuổi ngây thơ.
Bên em, bên em ta hát khúc mong chờ.
Ngày nào, người cho ta biết tình yêu đắm say
Ngày nào, đời cho ta biết tình là đắng cay.”
(Ngô Thụy Miên – bđd)

Đến đây, bần đạo phải thú thật với bà con bạn bè mình thêm lần nữa, rằng: trên quãng dài những “phiếm” và “phiếm”, bần đạo từng biết “tình yêu đắm say” rất nhiều thứ. Đắm say cuộc tình thật, đã đành. Với một số người đời, có khi còn đắm và say nhiều chuyện nữa. Như chuyện chiêm tinh, chiêm ngưỡng lẫn chiêm nghiệm những là chuyện “tiên tri”/“bói toán”, chẳng hạn.
Về chiêm ngưỡng tài nghệ những vị tiên tri, đoán được cả chuyện xảy ra trong tương lai, mai ngày, vẫn là chuyện thường ngày ở huyện. Chí ít, là huyện đạo nhà thờ nhỏ. Nghe cũng nhiều. Ngày nay, bạn và tôi, ta vẫn nghe/vẫn biết nhiều thứ về những thứ/những điều nói lên tâm trạng lâng lâng, thắc mắc về người đời. Sự đời. Thắc mắc và trăn trở, cũng tợ như những lời hoặc câu nói từ Kinh Sách khiến bận lòng người nghe, như bên dưới:

“Và, ông đã ở đó mãi đời Hêrôđê;
ngõ hầu được nên trọn điều Chúa đã phán
nhờ vị tiên tri nói rằng:
từ Ai Cập Ta đã gọi con Ta về.”
(Mt 2: 15)

Lại cũng xin thú thật thêm một điều nữa, rằng: lâu nay, bần đạo chỉ biết phiếm, chứ chả dám luận bình hoặc giải chú Lời Chúa dạy, tựa như trên. Nhất là, khi thoạt nghe biết những cụm từ như “tiên tri”/ngôn sứ được lập đi lập lại, rất nhiều lần trong Kinh Sách.
Hôm nay, có nhiều vị cũng thắc mắc về các cụm từ như: “tiên tri”, “tiên đoán” hoặc “sấm Trạng”, tức những điều hoặc các việc khiến họ những tưởng xảy đến trong tương lai/mai ngày. Người người ở đời còn gọi đó là những tiên đoán rất sớm về số phận của mình. Lại một đề tài khá lớn, rất khó phiếm. Thôi thì, bần đạo xin phép cả bạn lẫn tôi, ta lại ngâm nga đôi ba ý/lời của nghệ sĩ ở bên trên, mà hát những lời ở bên dưới, rất như sau:

“Ta đã yêu và ta đã mơ,
mơ trăng sao đưa đến bên người.
Một lần gặp gỡ đã như quen thuở nào,
một lần gặp gỡ nhưng tình đã xa xưa.”
(Ngô Thụy Miên – bđd)

Về những điều, mà bầu bạn gọi là “đã yêu và đã mơ”, đôi khi bày tôi là bần đạo đây cũng thấy “trăng sao đưa đến bên người”. Trăng sao, “đã như quen thuở nào”. Quen, khi gặp gỡ. Quen, trong tư tưởng. Tức, đã gặp và đã quen, như hôm nào “tình đã xa xưa”.
Nói gần nói xa chẳng qua nói thực, rằng: rất nhiều lần, bạn đạo bọn mình cũng từng gặp/từng biết những tình huống “có trăng có sao” ở đâu đó, rất bên trên. Gặp biết rồi, mà cứ ngỡ đó là chuyện thật. Là, sự sẽ xảy ra mai ngày. Vừa chợt nghe/chợt thấy đã tưởng thế nào rồi cũng xảy đến.
Nói nôm na dông dài, cuối cùng chỉ để minh định một cảm nghiệm, rằng thì là: nhiều bạn đạo từng đi sâu đi sát với bạn bè ngoài đời, đã có kinh nghiệm gặp gỡ những trăng sao. Có cả suy nghĩ rất “lung” về một thắc mắc, bảo rằng: suy tư tưởng chừng chuyện trăng sao/tinh tú, đẩu số, rất “tử vi” mà không tin không thờ, như thế có tội/có vạ gì không?
Một lần nữa, bần đạo thấy mình chẳng có tư cách để trả (những) lời rất lãi hậu, cho câu hỏi tinh tế/bén nhạy ở trên, bèn cả gan vời đến đức ngài trưởng thượng từng có lập trường rất vững chãi,/chính mạch, để thỉnh ý. Hôm nay, ngày rộng tháng dài nhân có vài phút giây chấm hết niên lịch hai nghìn lẻ mười, bần đạo nhận được lời chỉ giáo, rất đạo mạo. Đạo đức. Như sau.
Và, để cho tinh thần của bạn mình, được thoải mái/thư giãn trước khi nghe đức ngài phán và phê về thắc mắc trên, cũng nên “trích ngang” chuyện mình đang bàn, bằng một truyện kể về những tiên và đoán rất “tiên tri”, như sau:

“Truyện rằng:
Người vợ hiền hôm ấy, thong thả bước vào chốn miền nhiều khói bếp, đã bắt gặp đức lang quân của mình đang làm cử chỉ rất ư là “đằng đằng sát khí”, bèn hỏi:
-Anh yêu ơi, anh đang làm gì mà mặt mũi trông nghiêm chỉnh thế?
-Ấy chết! Để yên anh thực hiện vai trò “Dũng sĩ diệt ruồi”, đi em!
-Vậy thì, dũng sĩ của em đã diệt được chú nào chưa, thế?
-Có chứ. Bộ, em không thấy sao? Không những chỉ chút ít, mà còn nói được là khá nhiều. Một phát giác kinh khủng cho em biết: anh còn đoán được là có bao nhiêu chú ruồi đực, bao nhiêu nàng ruồi cái, nữa đấy nhé.
-Chà. Dũng sĩ của em nay lại nói chuyện tiên đoán với tiên tri rồi đây. Làm sao đoán được chú nào đực chú nào cái, cơ chứ?
-Cũng dễ thôi. Anh từng nghiên cứu khoa tử vi đầu số nên cũng biết rất rõ là ba chú gục trên loong bia, tự khắc là đực. Còn 2 em sõng xoài trên tay cầm điện thoại, đương nhiên là cái, chứ gì nữa. Nếu đúng, em cứ bỏ tiền quẻ lên dĩa, là xong ngay
-Quả là, dũng sĩ của em đoán như thần đoán. Ý em là, anh đoán việc như thần, cần gì phải tiên tri với bói bài, hoặc ra sấm mà làm gì cho mệt xác, chứ…”

Chẳng cần xét xem vợ chồng “dũng sĩ diệt ruồi” nọ, có là chiêm-tinh-gia chuyên đoán già/đoán non chuyện tình duyên gia đạo, đúng sai ai biết. Chỉ biết mỗi chuyện là: thói đời bạn và tôi, cùng rất nhiều người ta vẫn cứ là hay thích chuyện lạ những tiên và đoán. Rất tiên tri. Gọi đó là tiên tri hay nói “trạng”/nói trại gì gì nữa, cũng đặng thôi.
Thôi thì, nay hãy về với đức thầy nhà-Đạo-rất-đạo-mạo xem ngài phán thế nào về việc đoán già đoán non chẳng qua đoán mò kiểu “ta-rô” hay “tô thêm ra”, cho nó có vẻ tiên tri, để xem sao:

“Có thể nói: thói đời, nay tràn lan kỹ nghệ xét chuyện tương lai/mai ngày, xảy đến rất “đại trà” với mọi người. Tức, kỹ nghệ tiên và đoán đang nở rộ, thời cao điểm. Trong số những người đó, còn có cả những vị vẫn tự cho mình là Công giáo, mà còn ngụ ý bảo rằng làm thế để tỏ lộ thông tin mà người thường không thể kiếm tìm theo ngã thông thường. Rất an nhiên tự tại. Và, sinh hoạt của họ nay xuất hiện tràn lan trên truyền thanh/truyền hình cùng sách vở hoặc phỏng vấn đếm cả triệu. Nhất là, ở Mỹ.
Vấn đề này, người Công giáo cũng như Kitô hữu của Giáo hội bạn, phải có thái độ thế nào mới đúng?
Trước hết, phải nhận rằng con người luôn có giới hạn về chính mình. Tức, mình chỉ là hữu thể bình thường không thể nói rằng mình biết hết mọi sự. Cả những chuyện tương lai. Thật ra, con người chẳng thể nào biết được sức khoẻ của mình rồi sẽ ra sao. Cũng chẳng đoan quyết được rằng ông cậu/bà mợ của mình vừa quá vãng, có chắc là đang hiện diện tả/hữu bên cạnh Chúa ở Thiên Đàng, hay không. Hoặc, chuyện đầu tư kinh doanh chắc gì mình nắm chắc được thành công mỹ mãn như đã tính?
Đơn giản là, ta chỉ cần đặt hết tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng dựng nên trời đất muôn vật. Ngài quan phòng/chăm sóc hết mọi sự. Ngài dựng nên muôn loài, qua bàn tay quan phòng của Cha Nhân Hiền, luôn ưu ái. Quả thật là thế. Ngài vẫn mời gọi ta hãy tin vào Ngài, như Kinh Sách từng nói: “Ta là Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, đã đưa ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi cảnh nô lệ. Ngươi không được phép có thần nào khác nghịch với Ta.” (ĐNL 5: 6-7)
Trở về với chuyện bói toán, coi chỉ tay, hoặc bói bài Tarô, theo cung cách nào đó, tức “dám tạo một thần khác để kính thờ”. Tức, tin vào sức mạnh của người phàm dám bộc lộ cả những chuyện chỉ mình Chúa biết.
Thiên Chúa yêu thương loài người. Ngài muốn con người chỉ thờ phượng mỗi mình Ngài, thôi. Điều này được ghi rõ trong Cựu Ước, với những câu: “Anh em, không được thấy ai làm lễ thiêu con trai hoặc con gái mình, không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn. Thật vậy, hễ ai làm điều ấy thì là điều ghê tởm đối với Đức Chúa, và chính vì những điều ghê tởm ấy mà Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đã trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh em.” (ĐNL 18: 10-12)
Ở đoạn tiếp theo đó, Môsê cũng có giải thích thêm để dân con Chúa biết mà nghe theo những điều do từ miệng Chúa nói ra: “Từ giữa anh em, trong số các anh em của anh em, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ cho xuất hiện một ngôn sứ như tôi để giúp anh em; anh em hãy nghe vị ấy.” (ĐNL 18: 15) Và, theo giáo huấn của Hội thánh, thì Ngôn Sứ ấy không ai ngoài Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời của Chúa nhập thể, làm người.
Chính Đức Giêsu cũng dạy ta chỉ tin tưởng vào Cha trên trời. Đừng lo lắng về sự sống, của chính mình: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?... Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. “ (Mt 6: 26-33)
Có người lại hỏi: phải chăng Chúa đã mạc khải cho ta biết một chút sự thật, về tương lai của con người, chứ? Câu trả lời, là: có. Đôi lúc Ngài cũng làm như thế đối với những kẻ được Ngài đoái thương. Như trường hợp Ngài đã mạc khải cho 3 trẻ ở Fatima, ngang qua Đức Mẹ, về sự lạ xảy đến vào ngày 13/10/1917. Hoặc, một mạc khải về nữ phụ nọ đã chết, nay còn đang ở chốn luyện hình.
Nhưng, cứ sự thường, Chúa không tiết lộ những sự việc như thế. Và, ta vẫn cứ phải từ bỏ chính mình mà phó thác trọn vẹn toàn thân trong tay Ngài. Tin chắc rằng: mọi sự dù có xảy đến, cũng là điều tốt đẹp Ngài phú ban cho ta, đúng như các thánh từng quả quyết: “Ta biết rõ: Thiên Chúa làm cho mọi sự để sinh lợi cho những ai yêu mến Ngài, tức những kẻ được Ngài kêu gọi theo ý Ngài định đoạt.” (Rm 8: 28)
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng viết: “Thái độ đúng đắn của tín hữu Đức Kitô là đặt mình trong bàn tay Quan Phòng của Chúa, dù mọi sự xảy đến trong tương lai, có thế nào đi nữa cũng vẫn nên từ bỏ tính tò mò tọc mạch về mọi chuyện.” (GLHTCG #2115)
Sách Giáo Lý còn thêm: Mọi mưu toan tìm hiểu những gì có liên quan đến thiên tính, tức: tìm cách khám phá những điều mà tính tự nhiên con người không biết được, đều phải từ bỏ. Điều này được ghi rất rõ, như sau: “Quay về với Satan quỷ quái , tiếp xúc cầu cơ với linh hồn đã quá vãng hoặc làm những chuyện đại loại để tìm biết tương lai/mai ngày, như tham khảo chiêm tinh, đẩu số, coi chỉ tay, bói quẻ bói bài, chú giải những điềm gở/mộng mị hoặc các hình thức bói toán để nắm bắt chuyện đã hoặc sắp xảy ra, về chính mình hoặc người khác, cả đến những rắp ranh giao hoà với âm binh/âm quyền, đều nghịch chống sự danh giá, trang trọng và tôn kính yêu thương cần phải có đối Thiên Chúa, chỉ mình Ngài mới xứng đáng được như thế thôi.” (GLHTCG #2116)
Đàng khác, cũng nên nhớ một điều là những quyền lực nào khác không tự nhiên để có được hiểu biết chỉ xuất từ Thiên Chúa, hoặc Satan, thôi. Vì thế nên, những ai tìm cách nắm bắt những kiến thức như thế từ những nguồn lực sai trái , chắc chắn đang nằm trong tay Satan/quỷ dữ. Chắc chắn đang nằm trong bàn tay sai khiến của các quyền lực tăm tối, mà thôi.” (x. Lm John Flader,The Catholic Weekly 3/10/2010, tr.11)

Đức ngài phán và phê như thế, đà quá rõ. Nào còn gì nữa để bàn thêm? Nhưng khổ nỗi người đời, vẫn không phải là thần thánh. Nên, vẫn cứ tìm những trái cấm, để thử thời vận, chút rồi thôi. Dù, biết và tin rằng: tất cả là ân huệ và vẫn luôn cảm tạ những gì mình nhận được và dù ta có ưng ý hoặc bất ưng. Một lần nữa, bần đạo lại xin thưa: mình chưa đủ tư cách để phê và phán. Nên, chỉ muốn nghe. Vì muốn nghe, nên đôi lúc vẫn văng vẳng như có tiếng hát từ đâu đó, hát rằng:

“Mưa đã rơi và nắng đã phai
trên cuộc tình yêu Em ngày nào
Ta vẫn yêu hồn ta vẫn say
qua bao nhiêu năm tháng ơ thờ
Một ngày nào đó tóc xanh xưa bạc màu.
Một ngày nào đó ta có thôi hết yêu người.
(Ngô Thụy Miên –bđd)

“Mưa rơi trên cuộc tình, yêu Em ngày nào”. Phải thế không anh? Phải thế không chị? Anh và chị vẫn thấy lời đức thầy nói, cũng có lý, đấy chứ nhỉ? Thế nhưng, như lời người nghệ sĩ ở đây, vẫn cứ bảo: vấn đề là, một ngày nào đó, ta vẫn không thôi hết yêu người? Và vẫn yêu Ngài?
Nếu câu trả lời là: không! ta không thôi hết yêu người dù vật đổi sao dời. Và có, ta vẫn còn yêu, vẫn cứ yêu và mãi mãi yêu Ngài, xin hãy vin vào lời đấng thánh xưa kia từng nói: “Hãy cứ yêu đi, rồi thì mới làm điều mình muốn.”(thánh Âu Tinh) miễn là điều mình đang làm và muốn làm, không phản lại tình Chúa, mình vẫn ôm ấp. Thực thi. Là được.
Và, một khi đã quyết được như thế, cũng nên nhớ lại lời của Phaolô thánh còn nói trong thư gửi giáo đoàn Côrinthô rằng:

“Chúng tôi luôn mang nơi thân mình
cuộc thương khó của Đức Giê-su,
để sự sống của Đức Giê-su
cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi.”
(2Cr 4: 10)

Và nhất là:

“Cho nên chúng tôi không chán nản.
Trái lại, dù con người bên ngoài của chúng tôi
có tiêu tan đi,
thì con người bên trong của chúng tôi
ngày càng đổi mới.”
(2Cr 4: 16)

Xem thế thì, một khi tâm can ta được đổi mới với Đức Kitô rồi, thì thiết tha mà làm gì chuyện bói và toán rất vẩn vơ, để rồi cứ tin vào đó, mà mất đi con tim chân chính, đã thuộc về Chúa. Chí ít, là khi mọi người và mỗi người đã lĩnh nhận bí tích thanh tẩy, chết cho Chúa.
Bởi, cuối cùng thì chuyện bói toán cũng chẳng nên tạo ảnh hưởng lên niềm tin, ta vẫn có. Cuối cùng, chỉ như thế. Cuối cùng, vẫn là tình yêu. Vậy, hãy đem hết khí thế mà hát với người nghệ sĩ câu tình ca rất cuối, để mà yêu:

“Mưa có rơi và nắng có phai
trên cuộc tình yêu em ngày nào
Một lần nào đó bước bên em âm thầm
một lần nào đó ta vẫn không nói yêu người.
(Ngô Thụy Miên – bđd)

Hát xong, ta hiên ngang mà tin chắc: mình đang ở trên chính lộ của tình yêu muôn thuở. Chúa phú ban. Rất vững vàng.

Trần Ngọc Mười Hai
Nhiều lúc cũng trăn trở,
không kém.
Nhưng vẫn tin rằng
Tình Yêu Chúa
giải quyết hết mọi chuyện.


   
 

18.  “Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc,
”Áo nàng xanh, anh mến lá sân trường.
Sợ thư tình, không đủ nghĩa yêu đương.
Anh pha mực, cho vừa màu luyến thương.”
(Phạm Đình Chương – Mầu Kỷ niệm)
(Rm 12: 16-18)
    Anh cứ pha đi. Xanh vàng màu gì cũng đều của giấc mơ. Của, những thư tình đầy luyến nhớ. Của, áo anh yêu. Màu gì, cũng vẫn là màu của kỷ niệm luyến nhớ, cũng rất yêu. Yêu và nhớ, suốt đời. Nhiều kỷ niệm.
    Kỷ niệm, vẫn là những gì có chút sắc màu. Có cả niềm nhớ rất như sau:

“Nhớ ngày nào, tan trường về chung lối
Mắt thuyền sương, nghiêng nón ngất ngây đời
Lòng trao lòng, cho tình vút lên khơi,
Cho ngon màu, trìu mến ướt lên môi.”
(Phạm Đình Chương – bđd)

    Phải chăng đó cũng là kỷ niệm của một “trìu mến, ướt lên môi” ? Kỷ niệm, tuy không đầy sắc mầu của nhung nhớ, hay gì đó. Nhưng, vẫn cứ là những kỷ và những niệm rất để đời. Của, những sắc màu hiện đến một lần, sẽ chẳng bao giờ quên.
    Sẽ chẳng quên, cả vào khi anh quân hành “đi về cánh rừng thưa”, cũng chẳng bao giờ quên được sắc màu, của kỷ niệm. Vẫn nằm ở “màu áo năm xưa”. Nay, “len lén trở về tâm tư”, rất kỷ niệm. Kỷ niệm để đời. Khó phai. Như lời thơ/ý nhạc ta hát tiếp:

        “Ngày hành quân, anh đi về cánh rừng thưa,
Thấy sắc hoa tươi, nên mơ màu áo năm xưa
Kỷ niệm đâu, len lén trở về tâm tư,
Có mắt ai, xanh thắm trong mộng mơ.”
(Phạm Đình Chương – bđd)

    Thế đó là kỷ niệm. Của, những bạn và những tôi, chỉ một lần thấy em hay chị mặc “áo năm xưa”, nên nhớ. Nhớ một hành xử ít thấy trong đời, đành không quên. Hành xử đó, có là hành mà không xử, như dân thường ở huyện, nay cũng có những kỷ niệm khó mà quên như sau:

“Cô y tá hướng dẫn chàng thanh niên nọ với vẻ mặt hoảng hốt, âu sầu tới gần bên giường bệnh của ông già, rồi nói:
-Ông ơi! Con trai ông đã tới rồi đây!
Cô phải nhắc đi nhắc lại nhiều bận, ông bệnh nhân mới mở mắt ra nhìn. Ông bị ảnh hưởng thuốc mê và cơn đau, nên chỉ thấy lờ mờ người thanh niên đứng cạnh bên bình dưỡng khí, ở đầu giường. Ông giơ tay nắm bàn tay người thanh niên. Xiết chặt, như đang cần một an ủi khó tìm.
Cô y tá lăng xăng mang ghế nhỏ lại gần giường bệnh cho người thanh niên ngồi. Suốt đêm, người thanh niên cứ ngồi đó giữ bàn tay đã lạnh của người bệnh mà nói những lời ủi an, đầy hứa hẹn. Còn bệnh nhân, chẳng nói câu nào. Cứ thế ông nắm chặt bàn tay ấm áp của anh thanh niên.
Sáng ra, cụ bệnh nhân kịp thở hắt một lần cuối để giã từ trần thế, chẳng trối trăn đến một lời. Người thanh niên bùi ngùi đặt bàn tay nhăn nheo bất động của người bệnh lên giường rồi báo cho y tá biết.
Trong lúc y tá làm thủ tục giấy tờ cho người bệnh xuất viện, anh thanh niên cứ tẩn ngẩn tần ngần đứng cạnh đó chẳng nói năng. Xong thủ tục, cô y tá ngỏ lời chia buồn với anh thanh niên, thì được hỏi:
-Ông này là ai thế hả cô? Tên ông là gì, để tôi còn nhớ mà ghi lại?
Cô y tá ngạc nhiên, hỏi:
-Thế ông ấy không phải là ông cụ thân sinh của anh sao?
-Không. Tôi chưa gặp ông lần nào. Tôi vào đây thăm người bạn trùng tên. Có lẽ cô lầm lẫn sao đó, nên mới dắt tôi đến ông ấy…
-Ồ! Thế sao anh không cho tôi hay biết ngay khi tôi dẫn?
Anh đáp:
-Khi tôi biết ông bị bệnh khó lòng mà qua khỏi, lại mong được gặp người con trai, đợi mãi mà chưa tới. Ông quá yếu, nên không nhận ra ai hết. Tôi đoán ông rất cần sự hiện hữu của con ông, nên tôi mới nán lại để ông được thanh thản… Thật ra tôi cũng có giúp được gì nhiều đâu cô!!!”

    Vâng. Cũng chẳng nhiều gì. Như giúp nhau chuyện sống chết. Nhưng ở đây, dù anh thanh niên cho đi không bao nhiêu, mà kỳ thực, anh đã cho rất nhiều. Nhiều, nội mỗi chuyện biết trân trọng ý muốn của người sắp mãn phần. Nhiều, ở chỗ: anh chẳng quản ngại bỏ chút thời gian để ở gần người mà anh biết sắp ra đi. Bỏ cả ý định riêng tư để chiều ý của bậc cha bác, nữa.
    Trong đời, cũng có rất nhiều tình huống qua đó người người đều trân trọng ý kiến cũng như thành quả việc làm của người thân quen hoặc chưa từng biết đến, như nhân vật được trích dẫn ở trên. Vì thế nên, sống ở đời người người vẫn diễn tả động thái trân trọng bằng lời nói hoặc hành động đáp trả. Và có khi, chỉ bằng một cử chỉ nào đó, theo truyền thống văn hoá của mỗi người. Xưa cũng như nay.
    Tuy nhiên, có những truyền thống văn hoá, mà người thời nay vẫn diễn tả ra bên ngoài bằng những cử chỉ/hành động mà đôi khi nhiều người không quen nghe/nhìn, nên không thấy. Cũng có thể, người thời nay có những hành xử hơi khác với thời xưa, khiến các bậc thức giả hơi “xưa” một chút như bần đạo, nên không thích. Và cũng vì không thích, nên cứ nại đến truyền thống văn hoá của người xưa đem ra mà chống chế.
    Vừa qua, bần đạo lại bắt gặp một trường hợp hơi “giông giống” vấn đề mà bà con ta ở nhiều nơi, nhất là các vị đang muốn “hội nhập” nền văn hoá “khang khác” với nước ngoài, cần nghiên cứu để sống. Sống cho phù hợp với thời đại. Nay, xin trích dẫn như một trường hợp cụ thể, để bạn và tôi, ta cứ thế mà tham khảo và suy nghĩ. Cũng chỉ như một đề nghị để gọi là có chút gì để phiếm cho vui. Cho dông dài, nhiều chuyện. Ở đới. Thế thôi.
    Bần đạo nói bắt gặp, là gặp được ở mục hỏi đáp nơi tuần báo The Catholic Weekly số đề ngày 19/12/2010, như sau:

“Thỉnh thoảng trong sống đạo hàng ngày ở huyện, tương tự như trong thánh lễ chẳng hạn, tôi vẫn nghe nói nhiều người đi lễ lại có thói quen hay vỗ tay sau khi nghe bài chia sẻ hoặc bản nhạc nào đó khá hay. Tôi, thì tôi thấy việc ấy hơi lạ và không đúng chỗ. Vậy xin hỏi linh mục là tôi phải có thái độ thế nào đối với chuyện này, mới đúng?”

    Hỏi, mà lại hỏi  trong mục “Hỏi đáp” của tuần báo Công Giáo ở Sydney, thì đương nhiên là câu hỏi của mọi người sẽ chạy thẳng đến đấng bậc vị vọng từng có trên dưới 50 năm kinh nghiệm sống đạo, làm người. Và, vị ấy không ai khác ngoài đức thày họ Flader, tên gọi rất John, như sau:

“Trước tiên, xin cho tôi được bắt đầu lời giải đáp bằng một khẳng định, rằng: Thánh lễ hoặc bất cứ nghi thức phụng vụ nào khác, trên hết và trước hết, vẫn là để thờ phụng Chúa. Đó là thời khắc, để ta nâng lòng trí lên với Chúa mà chúc tụng, ngợi khen cùng cảm tạ và đệ đạt lời thỉnh cầu có thể có, đồng thời xin Ngài đổ tràn mưa hồng ân chúc phúc xuống trên ta.
Chính vì phụng vụ là thời khắc để ta nguyện cầu và niệm suy trong thinh lặng, và cả vào lúc ta cất tiếng hát lên lời ca vang chúc tụng Chúa. Tuy nhiên, việc ấy tuyệt nhiên không là xuất diễn để mua vui cho những người hiện diện. Tất cả, là để tập trung vào với Chúa, chứ không phải với cộng đoàn.
Mặt khác, khi ta đi dự buổi diễn âm nhạc, kịch nghệ, màn thi đấu thể thao hoặc bất kỳ hình thức tiêu khiển nào khác, ta thường vỗ tay tán thưởng một đôi lúc, là để tỏ bày sự ngưỡng mộ cho buổi diễn.
Thái độ này và đường lối cũng như cung cách tỏ bày sự cảm kích như thế không thích hợp cho phụng vụ. Bởi phụng vụ, là những buổi có mục tiêu hoàn toàn khác hẳn.
Trong cuốn Tinh Thần Phụng Vụ Đức Hồng y Joseph Ratzinger có tóm tắt nhắc đến tinh thần này bằng tiêu chuẩn như sau: “Bất cứ khi nào phụng vụ bị đứt quãng vì tiếng vỗ tay cổ võ do thành tựu của con người, thì chắc chắn đây là dấu hiệu cho thấy bản chất của phụng vụ đã biến mất và được thay vào bằng một thứ tiêu khiển theo kiểu của tôn giáo thôi“(sđd tr. 198).
Dù cho người tham dự cũng nên được gợi hứng cảm kích về bài chia sẻ bằng cách tỏ bày sự cảm kích ấy bằng cử chỉ vỗ tay, nhưng đây vẫn là động thái khá nguy hiểm.
Nguy ở chỗ, là: vị linh mục hoặc phó tế rất có thể nhận ra một cách có ý thức hoặc không ý thức rằng: mình soạn bài “chia sẻ” chỉ cốt để chiều lòng người nghe hoặc kích thích những đợt vỗ tay, hơn là tìm dựng xây cộng đoàn có kiến thức và tình thương yêu Chúa. Cả hai cách trên đều khác nhau. Thế nhưng, quả là chuyện đáng buồn nếu như các đấng bậc chia sẻ lại chỉ muốn mọi người biết đến tài năng giảng thuyết hùng hồn của mình, thôi thì thật là đáng tiếc.
Đằng khác, giả như cộng đoàn dự lễ có thói quen vỗ tay một vài lúc, thì họ sẽ cảm thấy có áp lực vỗ tay để không muốn xúc phạm đến đấng bậc đang giảng, hoặc họ có thể suy xét về bài chia xẻ bằng cách xem nguời khác có vỗ tay hay không để còn so sánh với các vị khác bằng số những lần vỗ tay dành cho vị ấy.          
Đấng bậc giảng lễ phải tìm xây dựng cộng đoàn dân Chúa cho phải phép, và cộng đoàn dự lễ phải lắng nghe bài giảng với thái độ là: khi về có thể giữ lại điều gì đó giúp ích cho đời sống thiêng liêng thực tế ở đời.
Chính vì lý do đó, mà qui định phụng vụ đề ra là phải có những khoảnh khắc thinh lặng sau bài giảng, để giáo dân có thể suy tư về những gì mình vừa nghe.
Vỗ tay là động thái khả dĩ cắt đứt tinh thần suy tư nguyện cầu, cần có.
Âm nhạc, cũng thế. Mục đích của âm nhạc trong phụng vụ là để góp phần vào nét diễm kiều của buổi lễ, nên vì thế để gia tăng việc vinh danh Chúa. Khi cảm kích âm nhạc thấy quá hay, thì người tham dự phụng vụ dễ có hứng vỗ tay, như họ vẫn từng làm vào các buổi hoà nhạc, ở vài nơi.
     Nếu vậy, họ cũng nên nghĩ lại và nhớ rằng nghi thức phụng vụ không phải là buổi hoà nhạc, mà là nghĩa cử để phụng thờ. Qua phụng vụ, mọi người cảm tạ Chúa trong nguyện cầu có kèm theo âm nhạc để nâng lòng mình lên với Chúa và làm vinh danh Ngài nhiều hơn nữa.
Thông thường, vẫn có luật trừ. Vào các lễ có đông người tham dự do Đức Giáo Hoàng làm chủ tế, giáo dân vẫn có thể tỏ bày lòng thương yêu Đức Thánh Cha bằng cách vỗ tay đón ngài, và ở một vài trường hợp cũng có thể ngưng bài giảng của ngài bằng những lần vỗ tay nhiều cảm hứng.
Ngoài ra, đối với một số tập tục văn hoá khác, chuyện cộng đoàn dự lễ vỗ tay thường xuyên hơn ở thế giới phương Tây, vì thế có thể cũng xảy ra ở nghi thức phụng vụ nữa.
Thêm vào đó, có một số các nghi thức cũng đòi người tham dự phải vỗ tay, như qui định phụng vụ. Ví dụ như các buổi tấn phong linh mục hoặc phó tế, sau khi truyền chức, vị giám mục nhận ra rằng tân chức là người xứng đáng, nay được chọn để tấn phong, cũng nên vỗ vào lúc ấy, thôi.
Có những kiểu vỗ tay tự nhiên xảy đến và cũng thích hợp vào trường hợp giám mục nào đó mới được phong đi vào với cộng đoàn dự lễ, để ban phép lành mở tay cho người dự, hoặc trong lúc đoàn người xếp hàng ra khỏi nhà thờ, kết thúc nghi lễ tấn phong ấy. Nhưng sự thường, thì phụng vụ là buổi lễ thinh lặng, mang tính nguyện cầu để ta nâng lòng lên cùng Chúa. Xem thế, thì vỗ tay không thể là thành phần của những buổi như vậy.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 19/12/2010, tr. 10).

    Thế đấy, là lời lẽ chính qui. Chính mạch. Và, rất chính thức của đấng bậc vị vọng, rất đức thày. Tức đấng bậc từng trải hơn 42 năm kinh nghiệm sống trong cộng đoàn mang tên Opus Dei (tức “Việc Của Chúa”). Chính thức và chính mạch, đôi khi có nghĩa là chính cương, nhưng chưa chắc đã chính đáng. Và, chính lệnh.
    Sở dĩ đấng bậc kinh nghiệm ở trên phán những lời rất ư là chính đạo và chính hiệu như nhóm hội “Opus Dei” là thế, nhưng chưa chắc đã chính thống và chính xác như chính kiến của Đạo Chúa. Nội nghe lời trần tình của Đức ngài vừa mới nói, hẳn bạn và tôi cũng hiểu là ngài thuộc thế hệ rất chính đại như các đại thụ, đại chức sắc, rất như sau:

“Tôi từng quen biết một đấng thánh, và tôi cũng từng sống với thánh Josemaria Escriva đấng sáng lập hội Opus Dei ở La Mã. Tôi thấy ngài đích thực là một vị thánh. Khi quý vị đọc sử hạnh của thánh Mary MacKillop, như tôi từng đọc và nhận xét về cuộc đời cũng như công việc của vị thánh nữ này, quý vị cũng sẽ như tôi nhận ra là chị cũng rất thánh theo khuôn khổ cổ xưa của các vị gọi là thánh nhân.”
“Tôi sẽ còn tham gia nhiều buổi tĩnh tâm, suy niệm, hướng lòng mà chiêm niệm và hoá giải, Tôi sẽ làm việc tại Pennant Hill Sydney trông nom cho cộng đoàn giáo dân ở đây. Tôi rất vui được làm việc như xưa tôi từng được yêu cầu làm với hội Opus Dei, nên từ nay tôi cứ thế mà tiến tới và tôi dám chắc rằng người đến thay thế, sẽ hay hơn tôi.
Là linh mục, chúng ta sống là để giúp đỡ các linh hồn. Công việc của Hội thánh được định ra trong Giáo Luật cũng thế, tức định đoạt việc thuyên chuyển các linh mục trong giáo xứ…” (x. Sharyn McCowen, New Opus Dei role for a ‘very blessed priest’ The Catholic Weekly 19/12/2010, tr. 9)

    Nói cho cùng, đó là kiểu sống thánh của các cây “đại thụ”. Từ ngàn xưa. Nhưng vấn đề mà bạn và tôi cũng như các bạn của tôi sẽ hỏi, là: ngày nay muốn sống lành thánh với lễ lạy phụng vụ, ta phải làm sao? Có nên “im thin thít như thịt nấu đông” vào những buổi nghe giảng và dạy, ở giờ lễ? Có nên đổi và thay đôi chút theo kiểu giờ lễ của nhóm “Hill Songs” thường tổ chức mỗi tuần ở Sydney. Có hát. Có nhún nhảy và vỗ tay, mà vẫn ngợi khen Chúa, rất vui vẻ?
    Vấn đề đặt ra, là để bạn để tôi, ta cứ thế mà gẫm và suy. Suy rồi, sẽ có quyết định cho riêng mình. Riêng mình tôi, và mình bạn, để có lẽ tôi và bạn sẽ lại tìm đến câu ca của người viết nhạc ở trên mà ngâm nga, kết thúc bài phiếm hôm nay:

        “Hẹn ngày mai khi tan giặc sẽ cùng nhau
Góp hết hoa thơm chung tay xây kết mộng đầu
Trời thần tiên đôi bướm nhịp nhàng lả lơi,
Nương cánh nhau đi xa hơn cả cuộc đời
Ôi màu hoa, màu thương nhớ.”
(Phạm Đình Chương – bđd)

    Giặc hôm nay, không là giặc tranh cãi, đúng sai. Mà là giặc ù lỳ, nặng hình thức, cứng ngắc. Và, chúng đã và đang bóp chết những hoa thơm cỏ lạ. Đúng ra phải là vẫn cần “nương cánh nhau (mà) đi, xa hơn cả cuộc đời”. Nương cánh nhau mà đi, dù chỉ dự lễ hội có vỗ tay hay không vỗ. Cứ nương cánh nhau hợp tác mà sống, như lời thánh Phaolô dặn dò về nhân sinh quan cần có, như sau:

        “Hãy đồng tâm nhất trí với nhau,
đừng tự cao tự đại,
nhưng ham thích những gì hèn mọn.
Anh em đừng cho mình là khôn ngoan,
đừng lấy ác báo ác,
hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt.
Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được,
để sống hoà thuận với mọi người.”
(Rm 12: 16-18)

Cuộc đời, nay vẫn có nhiều “màu hoa”, “màu thương nhớ”. Nhớ nhau. Đồng tâm nhất trí, sống cùng người. Cuộc đời, nay vẫn có “trời thần tiên”. Có, “đôi bướm nhịp nhàng lả lơi”. Suốt cuộc đời. Để người người cứ thế mà sống. Sống vui. Sống thích thú. Cứ vỗ tay cả vào lúc mình thinh lặng, chiêm ngắm Vua trời đất. Cả vào lúc, chúc tụng ngợi khen hết mọi người. Ngợi khen vì biết chắc Chúa vẫn ở nơi mọi người. Với cuộc đời.

    Trần Ngọc Mười Hai
    vẫn muốn sống Đạo trong đời
    mà vẫn sướng.


19. “Nếu, nếu một ngày không có em,”
“Thì niềm cô đơn dài như năm tháng
như mùa thu chết, như lá thu rơi...”
(Khánh Băng – Nếu Một Ngày)
(Rm 12: 15, 18)
Vâng. Đúng là như thế. Nếu không có “EM” hiện diện bên tôi/bên bạn, thì niềm cô đơn không chỉ “dài như năm tháng” mà đời bạn/đời tôi sẽ như “mùa thu chết”. Như “lá thu rơi”. Rất tơi bời.
Vâng. Bần đạo còn nhớ: có lần nghệ sĩ Từ Công Phụng từng nói với phóng viên báo Người Việt rằng: mỗi khi viết nhạc hay làm thơ, hễ anh gọi tên “em”, thì người em đó, không hẳn là người yêu của anh, mà có thể là người nghe. Là, bạn bè. Là, đối tượng anh muốn gửi đến. 
Thế nên, trong hành trình rong ruổi về với lịch sử Đạo Chúa ở Istanbul, bần đạo như nghe  được từ đâu đó, nơi đền đài đổ sụp, có giọng hát rất quen quen, vẫn hát rằng:
 
                        “Nếu, nếu ngày ấy mình đừng quen nhau,
                        Thì ngày đó có đâu buồn đau,
                        Những khi mình xa nhau, có đâu buồn đau.”
                        (Khánh Băng – bđd)
 
Kỳ thực, trong chuyến hành hương “bỏ túi” này, bần đạo học được rất nhiều thứ. Nghe rất nhiều điều. Những điều, tưởng chừng như còn mới. Nghe, là nghe tiếng gọi của đất đá. Trăng sao. Vạn vật. Nghe rồi lại ngỡ rằng, trăng sao vạn vật muốn nói với mình đôi câu thắm thiết, tựa lời ca sau đây:
 
                        Nhớ, nhớ ngày ấy mình cầm tay nhau
                        Nhìn hạt mưa ướt mi
                        Ngày sau, sẽ không còn mưa rơi,
                        Sẽ không còn mưa rơi.”
                        (Khánh Băng – bđd)
 
Về nhà, lòng những bâng khuâng, ngây ngất, bần đạo lại được nghe thêm lời tâm tình của những người “em”, tuy không chỉ là những cá nhân hay động vật, mà là đồ vật được “nhân-cách-hoá”, có tâm tư rất thắm thiá, đậm tình như sau:
 
                            “Chào bạn,
Bạn không nhận ra tôi sao? Tôi đây mà. Tôi vẫn được bạn coi như kẻ đồng hành trân quí nhất, mà sao bạn lại chẳng nhớ? Đấy kìa! Tôi là kẻ, mà bạn vẫn luồn nhét vào túi quần hoặc xách bóp. Đi đâu cũng được bạn cho tháp tùng. Lúc nào cũng bị bạn bắt “ứng chiến”, để sẽ luôn có mặt “trên từng cây số”, ở bên bạn. Không có tôi, bạn sẽ cảm thấy lo sợ, lạc lõng, mất hướng.
Bạn nhớ ra tôi rồi chứ? Nếu vẫn chưa, thì thôi để tôi nhắc lại vài điều cho bạn dễ nhớ. Tôi là kẻ duy nhất được khi bạn âu yếm đặt dưới gối, mỗi khi bạn đi vào giấc ngủ thần tiên. Giấc, êm ái, hoặc mộng chẳng lành. Nhiều khi thức giấc/khó ngủ, bạn lại đem tôi ra mà nhìn/mà ngắm đến tội. Có hôm bạn lại nói vào người tôi bằng những ngôn từ thương yêu, nồng thắm nữa đấy.
                        Đến đây, thì  chắc là bạn đã biết tôi là ai rồi chứ?
Vâng. Đúng thế. Tôi là chiếc điện thoại di động mọn hèn, mà lúc nào bạn cũng cầm nắm, nâng niu. Nâng, như nâng trứng. Hứng, như hứng hoa. Dù nhiều lúc toàn thân tôi cứ bần thần. Ướt đẫm những mồ hôi. Thích tôi hay không, bạn cũng chẳng bao giờ bị tôi khuynh loát, hoặc chế ngự hết. Bạn bè/người thân của bạn vẫn nâng niu tôi trìu mến hệt như bạn đường, không thể thiếu. 
Thật ra, tôi cũng chỉ góp mặt với đời, chừng vài chục niên thôi. Nhưng tôi đã giúp ích rất nhiều người. Nhất là các người trẻ. Nói chung, ai cũng cần tôi giúp đỡ hết. Nhưng, lại ít có người biết đến đời tư, tâm sự của riêng tôi. Thôi được. Bạn cứ bình tâm mà theo dõi, tôi sẽ kể hết chuyện đời tư của tôi cho mọi người biết, mà trân trọng.
Năm 1973, ông thân sinh ra tôi là cụ Martin Cooper đã hy sinh thì giờ, tiền bạc để cưu mang sinh hạ tôi trong một cơ xưởng đầy những giây nhợ và ống nghiệm. Họi gọi đó là Hãng Xưởng Motorola.
Khi tôi chào đời, trọng lượng của tôi cũng chỉ sơ sơ có 2kí. Đến nay, nhờ có nghiên cứu viên làm đẹp và theo chế độ kiêng ăn, nên tôi tròm trèm chỉ chừng 5 gà-ram là nặng nhất. Chắc có nhiều bạn hỏi tôi làm cách nào mà thân hình tôi được “xăn xái” như vậy? Thật ra, thì cũng chẳng do phép lạ hay phép mầu gì đâu. Nhưng, do mấy chú được gọi là “con bọ” cực nhỏ cứ quấn quit bên mình tôi làm cho tôi nên nhỏ bé, đến là thế.
Thực chất, thì tôi dám tự hào cho mình là nhân/sự vật có được thân hình nhỏ nhắn nhất hành tinh lại chứa đựng nhiều chức năng tuyệt vời cho loài người mỗi khi họ cần đến, như: chuyển lời nhắn, đánh thức, nhắc nhở giờ kinh, mua vui giải trí, cố vấn chuyện riêng tư, trò chơi, hết thể thao rồi lại thể tháo...cứ là liên tu bất tận. Thêm vào đó, tôi còn giúp các vị thân hào nhân sĩ mà tôi quen biết, tạo thêm thu nhập, để kiếm sống nữa.
Thành thật mà nói, tôi chẳng muốn “nổ bạo” để làm gì. Chỉ muốn bảo nhỏ với bạn bè, rằng: hãy cẩn thận mà ăn nói và đối xử với tôi! Vì bọn tôi nay số nhân khẩu đếm được tới 5 tỷ công dân, lận. Mỗi năm bọn tôi làm lợi cho giới chủ nhân sơ sơ chừng 30 tỷ đô, là tối thiểu đấy, thấy chưa!
Đến đây, hẳn bạn sẽ hỏi ngược: phải chăng tôi chỉ muốn “nổ văng miểng” về chức năng và khả năng, chứ thực chất, tôi chỉ là vật vô tri vô giác, nào có biết thiết thân với ai? Thành thật mà nói, với thẻ “sim” bé nhỏ, tôi nay luôn dính liền trở thành chính con người của bạn từ lúc nào cũng không biết. Chính tôi, lại là kẻ giúp cho mọi sự trở nên thân thương, mật thiết. Chỉ một âm thanh với âm lượng nhỏ nhưng rất tình tứ, là tôi có thể báo cho bạn biết có người gọi đến. Có thể là bạn hiền. Cũng có thể là đối tác với doanh nhân, cũng không chừng.
Rồi khi bạn không đáp trả được câu nào, tôi cũng có chức năng mình sẵn có để lưu trữ hoặc tải lời nhắn riêng tư/bí mật đến với bạn. Kể từ đó, tôi và bạn trở thành người thân, rất nên một. Đôi lúc, khi bạn chào từ biệt bạn bè/người thân, bạn tỏ vẻ thích thú đến độ lôi tôi ra mà hôn mà hít, khiến tôi nghẹt thở.           
Rồi từ đó, tôi tự cho phép mình trở thành cánh tay nối dài làm bạn của bạn. Đôi khi, tôi còn tự tung/tự tác đóng vai bạn nữa, mà không ai biết. Nói rõ hơn, nhiều lúc tôi diễn tả cung cách xã giao của bạn, khiến bạn chẳng mất gì, mà vẫn được việc. Điều này cắt nghĩa tại sao đôi lúc bạn thấy người trẻ khác cứ ngún ngoảy trước mặt mọi người bằng những động tác xỗ xàng nói thẳng vào người của tôi, khiến tôi ướt đẫm những bọt là bọt.
Thôi được. Để tôi chứng minh thêm một vài “chuyện nhỏ” mà tôi vẫn làm để giúp bạn quên đi nỗi phiền hà. Tức giận. Có lúc, chỉ bằng một vài âm điệu như cung đàn nhỏ thôi, tôi cũng có thể giúp bạn nguôi ngoai cơn phiền bực tưởng như chết. Nếu bạn vẫn coi đó là chuyện “chán chết”, thì đây Bạn cứ tự tiện “bấm” vào người của tôi mà chơi trò giải trí. Hoặc giải quyết công việc riêng tư, ở sở, còn bỏ dở. Nói tóm lại, tôi sẽ giúp bạn không bỏ phí thì giờ. Và, bạn cũng chẳng còn thấy đời mình, đáng chán nữa. Như thế, đã được chưa?
Là kẻ thân thiết gần sát với bạn, nay tôi muốn khuyên bạn thêm vài điều: làm gì thì làm. Bạn cũng đừng ỷ y vào tôi một cách quá đáng, để rồi bạn lại thấy phiền. Phiền, là phiền một nỗi: giống người thường, nếu bạn sử dụng tôi quá mức, hoặc quá tải, tôi thì chẳng thấy sao. Chẳng mất đi kí lô nào, nhưng bạn lại thấy bịnh đó. Những bịnh thông thường dễ thấy nhất, là: trầm cảm. Mất ngủ. Não bộ thần kinh bị thương tổn khá trầm trọng. Bởi, từ nơi tôi, bạn sẽ thấy toát ra những làn sóng nhỏ li ti dễ gây hại cho những ai có não bộ không được khoẻ, nhất là trẻ con. Bởi thế nên, cứ bảo các trẻ em đừng nói vào người tôi nhiều quá, cứ bấm vài giòng nhắn nhủ, cũng được rồi. Chẳng hại gì. Cả thân thể lẫn tài chánh.
Thêm điều nữa, là: dù tôi vẫn muốn bạn nói nhiều vào người tôi. Sử dụng toàn bộ tấm thân gầy còm của  tôi để làm gì cũng được; nhưng cũng nên cẩn thận. Có nhiều chuyện riêng tư, dính dấp đến luật pháp, như chuyện chit chat. Doạ nạt. Gian lận khi thi cử. Hoặc hẹn hò buôn bán đồ quốc cấm, hoặc nói chuyện với tôi khi lái xe. Bởi, dù gì đi nữa, tôi không có lương tâm đạo đức như nhiều người vẫn lầm tưởng. Nên, cuối cùng vào ngày cánh chung, chính bạn mới là người bị thánh Phêrô cật vấn, chứ không phải là tôi đâu nhé!.
Dù vô tri vô giác, tôi vẫn có trực giác của riêng tôi, để có thể đề nghị với bạn đôi điều, rất nhỏ là: đừng buồn, khi chẳng có ai dùng tôi để nói chuyện với bạn. Đừng bật máy người tôi rồi để dưới gối, suốt đêm thâu. Đừng quá lo âu, sợ lỡ hẹn. Bởi, cả khi tôi ngủ, bạn bè người thân của bạn vẫn có thể để lời nhắn, qua tôi. Cũng rất dễ!
Đừng quá lo, khi bạn để tôi ở nhà một mình. Vì quên sót hoặc cố ý. Hãy quẳng gánh lo đi mà vui sống, dù vắng tôi vài tiếng đồng hồ, cũng đâu có sao! Tôi vẫn chờ. Chớ nao núng. Đừng hành xử như người khùng, là cứ gửi máy nhắn loạn xạ cho cả những người đang đứng gần hoặc ở cùng phòng. Không có tôi hiện diện, bạn cứ nói chuyện trực tiếp, vẫn thích hơn. Và, lâu lâu bạn cũng nên nhớ rằng: bạn không như tôi đâu, vẫn cần sinh hoạt với bạn bè. Nhóm hội. Đoàn thể. Để sống còn.
Nghe tôi đi. Bạn là kẻ cố tri tôi rất thích. Là, người tình của riêng tôi. Vì thế, tôi sẽ giới thiệu bạn với mọi kẻ trên thế giới. Hãy biết cảm ơn tôi. Nhưng, đừng vì thế mà lệ thuộc vào tôi. Bởi, công việc của tôi là phục vụ mọi người. Chứ không phải để mọi người phục vụ tôi. Phục vụ bạn.”
 
            Là nhà thơ, bạn và tôi, ta hẳn có dư khả năng diễn tả ý nghĩ của cỏ cây/vạn vật, không gì khó. Để xác chứng điều này, bần đạo mượn câu hát ở dưới đây, làm bằng:
 
                                    “Nếu, nếu một ngày không có tôi,
                                    Thì người yêu ơi đừng quên tôi nhé.
                                    Xin đừng giận dỗi, xin hiểu cho tôi.”
                                    (Khánh Băng – bđd)
 
            Hiểu, là hiểu nỗi niềm riêng tây, mà bạn và tôi, ta thao thức. Hiểu, là cảm nghiệm niềm thao thức/khát khao của người khác từng kêu mọi người giúp: “Ai biết số của Chúa Trời?”, xin giúp tôi:
 
“Cả tháng nay, con vẫn treo ở đầu giường, câu nhắn: “Hãy cho con số Ngài đi, hỡi Thượng Đế!”
Hôm nay, con thử lên mạng, biết đâu thỉnh thoảng Ngài có “cảm giác buồn” cũng muốn lang thang chuyện vãn với người đời, chắc sẽ gặp lời nhắn của con thôi. Gặp rồi, Ngài sẽ gọi lại.
Có lẽ, Ngài cũng chẳng cần phải lên mạng để xem có ai muốn gặp gỡ Ngài, như con. đây. Bởi lẽ mỗi ngày, ngoài con ra, có cả tỷ người hằng kêu réo tgên Ngài: “Ôi lạy Trời, sao tôi khổ thế?” “Trời ơi. Chắc tôi chết mất!”; hoặc: “Chúa ơi, con đang bị người tình bội phản, Chúa đến giúp con đi!”…
Chừng như, ngày nay người ta thường trút lên đầu Ngài mọi thống khổ. Oán thán. Vãn than. Và, buồn phiền. Và vẫn coi Ngài như sức mạnh thiêng liêng kỳ quặc để đổ vấy. Níu kéo. Giật giọng. Chẳng có người ngoại đạo nào như con biết Ngài thực sự là ai? Là thứ gì? Nên, thường chép lưỡi, ừ hử, rồi gọi Ngài như gọi một quyền lực nào đó khả dĩ giúp mình trải qua cơn khốn khó hiện tại...
Hôm nay, loay hoay suốt trên mạng, con đọc được bài viết của ai đó có biệt danh là Nick D., cũng khôi hài. Sâu sắc. Tuy nhiên, vẫn có cái gì đó trống vắng, mà chẳng thể nào giải thích được nỗi trống vắng ấy là gì? Do đâu? Nhìn kỹ, sao con thấy nó giống con quá. Giống rất nhiều thứ. Mà, toàn là thứ quý báu, quan trọng để ý thức được nó mà nâng niu. Nâng niu chứ không “đành hanh”. Ghen tị. Nâng niu và trân quí, khi nhìn lại vẫn thấy toàn những “hố đen”. Trống vắng. Cứ lạnh lùng đục khoét, cấu cào, giẫy dụa. Mà không tài nào nắm bắt và hiểu được.
Ngồi buồn, đọc lại mấy chục cái “entry” trên “blog” của mình, con chợt nhận ra mình vẫn thiếu vắng tính hài hước. Nhưng, lại dư thừa tính “sên sến” rất riêng tư, nên biết sợ. Hôm nay, con định viết vài hàng để có thêm trong con tính hài hước, nhưng không biết cuối cùng làm sao lại ra như thế này. Và, con cũng chẳng biết kết thúc câu chuyện lạt lẽo đặt ra với Chúa, cách  sao đây. Con phải làm gì bây giờ đây, hỡi Chúa?
Thôi thì, xin Chúa, xin Trời/Phật miễn lỗi. Thôi, con không dám xin số của Ngài nữa. Bởi, Ngài đã cho con những người bạn để tâm tình và để gọi rồi. Con còn cần gì nữa mà xin xỏ!...
Bởi thế nên, nay con kết luận: Đừng ai sống một mình, tách riêng. Vì, bản tính tự nhiên của con người là phải sống chung. Sống theo nhóm. Chí ít, phải có “một ai đó” như nửa phần còn lại ghép  vào mỗi con người.”

Thế đó là nỗi niềm riêng tây. Là tự sự. Của con người, hay sự vật được nhân-cách-hoá. Của, gì thì của, hãy nên tâm sự với mọi người. Tâm sự ấy, nay ta nhận ra được chân lý giản đơn như sau: Với kỹ thuật tiên tiến. Hiện đại. Con người vô hình chung, đã trở thành một hữu thể riêng rẽ. Sống đơn lẻ. Buồn chán, nếu ta cứ tuỳ thuộc vào máy móc. Kỹ thuật. Hoặc, vào gì đi nữa. Bởi, tuỳ thuộc như thế, ta sẽ không còn tự do. Thứ tự do con cái Chúa. Tự do làm người, do Chúa ban. Và, khi quá tuỳ thuộc vào máy móc, ta sẽ thấy cô đơn. Trống vắng. Rồi gọi: Chúa đâu rồi? Sao không đến cứu con?
Không tuỳ thuộc vào máy móc, kỹ thuật, thân tâm của ta sẽ tìm ra ánh sáng của chân lý nơi đời mình. Người kể truyện hôm nay mượn phương pháp “nhân-cách-hoá” đồ vật, để nói lên một điều, là: chớ tìm Chúa nơi đồ vật. Dù đồ vật ấy ở nơi trang trọng như nhà thờ, cung thánh… Nhưng, Chúa vẫn ở và chỉ ở trong tim ta. Trong cả tâm can của người anh, người chị trong cộng đồng thế giới. Hoặc cộng đoàn thân thương, ta đang sống cùng, và sống với.  Đó, là chân lý đã được rọi sáng. Được “đưa lên mái nhà”, từ khi trước. Vậy mà, đã bao người biết được điều ấy để mở tai/mở mắt, mà nhận ra chân lý? Thứ chân lý để đời, vẫn truyền tụng từ thế hệ này sang thế hệ khác, rất như sau:

    “Hãy vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc.
    Cùng nhau tâm đồng ý hợp…”
    (Rm 12: 15)

Và:

    “Nếu có thể,
    thì về phần anh chị em,
    hãy sống an hoà với hết mọi người.”
    (Rm 12: 18)

Thật sự, vào thời tiên khởi, bạn đạo của ta làm gì có phương tiện để sống riêng, sống một mình với máy nhắn. Với điện thoại di động. Với vi tính! Nhưng, vẫn có những cảnh nhiều người tách riêng sống một mình. Chẳng quan tâm gì người khác. Chẳng giúp đỡ bất cứ một ai. Một ai đây là kẻ nghèo hèn. Như: các bà goá, kẻ tật nguyền,phong cùi, đĩ điếm, đám người thu thuế, hoặc những người bị gán cho cái mũ “cấp tiến, “rối đạo”... Nói tóm, là những người suốt ngày thui thủi bị cô lập/ né tránh, chẳng ai thèm héo lánh, đến làm quen. Nói gì đến “đồng tâm ý hợp”, hoặc, “sống an hoà với hết mọi người.”
Sống an hoà. Có lẽ là chuyện của mọi thời. Sống an hoà, không chỉ là chung đụng, ở cạnh nhau. Nhưng vẫn theo thuyết Mackeno (mặc kệ nó). Sống chết mặc bay. Hơi đâu mà bận tâm. Sống an hoà, là: không ai khiến bảo mà vẫn đến. Là, sống cùng. Sống với nhau. “Vui với kẻ vui, khóc với kẻ khóc.”  Vẫn quan tâm đến đường đi nước bước, của ăn cái mặc, với mọi người. Sống an hoà, là sống an ninh hoà hoãn và khiêm tốn với mọi người. Không tranh giành/cãi vã, toan tính điều lợi cho riêng mình.
Sống an hoà, như lời thánh Phaolô khuyên, là:       

        “Đừng quá cao vọng về mình,
        trái lại, hãy biết bỏ mình,
        chuộng phần hèn kém;
đừng có tự thị mình khôn…”
(Rm 12: 16)

    Giải thích, áp dụng lời thánh Phaolô vào đời sống nhóm hội/đoàn thể, trong cộng đoàn Nước Trời, hẳn bạn và tôi, ta cũng nên kiểm điểm xem chính mình và cộng đoàn mình đã sống được như thế chưa? Hay, vẫn chỉ thực hiện những động tác “đạo đức” hệt như cái máy điện thoại di động?   
Cảm nghiệm lời khuyên của đấng thánh, không phải để ta tìm hạt bụi nơi con mắt của kẻ khác, mà quên cái “dằm” nơi mắt mình. Cũng chẳng để chỉ trích đoàn thể/tổ chức nào đó, mà chỉ là suy tư  tâm niệm, cho chính mình. Suy và niệm về đời mình, để rồi ta nhất quyết không bi quan, mặc cảm, hoặc kỳ thị. Nhưng trái lại, vẫn cứ lạc quan, trong vui hát. Hát rằng:

“Nếu, nếu một ngày không có tôi,
thì người yêu ơi đừng quên tôi nhé,
xin đừng giận dỗi, xin hiểu cho tôi.”
(Khánh Băng – bđd)

    “Đừng quên tôi nhé”, và “Xin hiểu cho rằng” tôi vẫn thế. Vẫn không quên một ai. Nhưng vẫn nhớ. Vẫn muốn về với mọi người, để cùng vui. Để, cùng mọi người thực hiện lời khuyên của thánh nhân, hay người nghệ sĩ. Vẫn cứ “tâm đồng ý hợp”, “sống an hoà với mọi người”.  Cứ thế mà cười, mà vui. Cười và vui, cả vào lúc không thấy có gì tức cười. Bởi, cuộc sống đôi lúc cũng đắng cay, gay gắt. Vì, đời người vẫn bon chen. Tranh giành. Kèn cựa.
    Cuối cùng, hỡi tôi và hỡi bạn, ta cứ sống chan hoà niềm thương mến. Cứ bông đùa với trẻ nhỏ, và người lớn. Để thấy rằng: đời vẫn thế, dù bạn/dù tôi có đặt nặng vấn đề, để ưu tư. Thế thì, hãy quẳng gánh lo đi, mà vui cười. Dù, nụ cười đó có là cười gượng. Niềm vui ấy có là “vui gượng kẻo mà”. Có, “trong héo ngoài tươi”, như chuyện đời, nhiều người kể. Tương tự truyện kể, ở bên dưới:

            “Truyện rằng:
Cha xứ họ đạo nọ, có nuôi một con két, lại rất khôn. Cha vẫn nhờ đến nó để giải khuây mỗi khi mệt mỏi, buồn phiền. Một hôm, chim két của cha tự dưng bay đi đâu mất dạng, nên cha tiếc. Cha tự nhủ: xứ mình cũng nhỏ, nên chắc là mọi người đều biết mình vẫn lâu ngày nuôi chim con, nếu hỏi vặn chắc cũng tìm ra ngay thôi. Nghĩ tình thật, nên cha bạo miệng hỏi bà con cô bác để nắm chắc, trước giờ giảng:
-Bà con đây, ai có chim xin đứng dậy giùm.
Tưởng cha hỏi thật, nên các cụ đàn ông có mặt ở nhà thờ hôm ấy, đều đứng dậy. Cha xứ biết mình nói không khéo nên giáo dân hiểu lộn, bèn chữa lại:
-Ý cha muốn hỏi là: nhà thờ này, ai từng thấy chim của người khác, thì cứ mạnh dạn đứng dậy.
Tức thì, các bà đạo đức đều đứng bật dậy hết. Thấy vậy, cha hoảng quá không biết nói làm sao để con chiên mình hiểu rõ hơn, bèn hỏi lại một lần nữa:
-Cha xin lỗi, ý cha muốn hỏi là: trong nhà thờ này ai từng nhìn thấy con chim cha nuôi giữ lâu rày, thì hãy đứng dậy.
Nghe cha hỏi thế, chả ma nào còn dám đứng. Chỉ cúi đầu cười tủm tỉm, rồi thôi…”

    Truyện trên, nghe hơi lạ. Kể ra đây, không phải là kể chuyện tục/thanh hay thanh/tục trong nhà Đạo, nhưng chỉ để nói lên điều này: “sống an hoà với mọi người”, “khóc với kẻ khóc”, “cười với kẻ cười”, luôn thương yêu /giùm giúp mọi người, là việc nên áp dụng vào đời sống. Áp dụng rồi, hẳn bạn và tôi, ta chẳng còn dám cười lớn tiếng, mà chỉ ngâm nga ba câu sau làm đoạn kết:  
    
“Nhớ, nhớ một chiều em đến thăm,
Ngoài trời mưa rơi, trời mưa không dứt,
Con đường trơn ướt, em đến thăm tôi.
Nhớ, nhớ ngày ấy mình cầm tay nhau
Nhìn hạt mưa ướt mi,
Ngày sau sẽ không còn mưa rơi,
Sẽ không còn mưa rơi…”
(Khánh Băng – bđd)

    Vâng. Đúng thế. Cứ “sống an hoà với mọi người”, rồi ra “ngoài trời (dù) mưa rơi”, ta vẫn nhớ. Nhớ, “trời mưa không dứt”. Nhớ, “đường trơn ướt, em đến thăm tôi”. Nhớ đến mưa ngoài trời hay mưa trong hồn tôi, vẫn là nhớ. Và cứ nhớ. Nhớ rồi, sẽ “khóc với kẻ khóc”; “cười với kẻ cười”, suốt một đời. Mãi không thôi.

    Trần Ngọc Mười Hai
    Từng biết khóc.
Biết cười.
Với nhiều người.

20. “Ơn Em, thơ dại từ trời”
“Theo ta xuống biển vớt đời ta trôi”
(Từ Công Phụng/Du Tử Lê – Giữ Đời Cho Nhau)
(Rm 8: 20-22/Ga 9: 2)
Là “Em”, mà cũng thơ cũng dại nữa sao? Nói cho cùng, thân “Em” dù có rơi rớt từ trời cao; hoặc, theo ai xuống biển, để “vớt đời” nạn nhân sóng thần, động đất đi nữa, thì bạn Đạo bọn tôi vẫn xin múa hát chỉ đôi lời:

“Ơn Em, dáng mỏng mưa vời,
Theo ta lên núi, về đồi yêu thương.
Tạ ơn em. Tạ ơn em.”
(Từ Công Phụng/Du Tử Lê – bđd)

“Theo ta lên núi”, “về đồi yêu thương”, cũng chỉ để ta thông cảm, sẻ san và xót thương thân phận của hàng chục ngàn người nạn nhân của tai ương ở Nhật, gần đây nhất. Xót thương, để rồi sẽ cảm kích biết ơn sự sống quý giá ta nhận lĩnh từ Thiên Chúa. Tạ ơn Em. Tạ ơn anh. Tạ ơn các người anh/người chị có Chúa hiện diện ở trong lòng. Tạ ơn Hội thánh nhưng không oán trách về những sự việc xảy đến với ta, dù sẽ ra tồi tệ thế nào đi nữa, vẫn là ân huệ trời ban. Không oán thán, là bởi em và tôi dù có cho đó là ân huệ hay không, thì sự việc vẫn xảy đến theo cung cách nào đó, rất khó tránh. Khó, như đấng bậc vị vọng ở Sydney đã nhận định:

“Thêm một lần nữa, chúng ta lại đối đầu với những bí ẩn của khổ đau, rất người. Tin Chúa hay không, hẳn ai cũng bị thôi thúc hãy dừng lại đôi phút để mà suy tư. Suy rằng: ta chẳng thể nào trả lời được câu hỏi: tại sao có khổ đau? Tai ương/sầu buồn sao vẫn có ở trên đời? Sao chết chóc hoặc khổ đau, vẫn dính liền với con người?
Christchurch, là tên gọi rất đẹp của thành phố mang ý nghĩa rất Hội thánh. Tuy nhiên, tên đẹp hoặc ý nghĩa hay cách mấy cũng không thể bảo vệ cho thành phố ấy thoát khỏi cơn điạ chấn những hai lần, trong sáu tháng.
Thời Chúa sống, tháp Siloa ở phía Nam bức tường thành Giêrusalem đẹp và hiển thánh là thế, nhưng vẫn sụp vẫn đổ, giết chết những 18 thường dân vô tội. Chính Chúa từng quả quyết với những người theo chân nghe Ngài giảng giải, rằng: nạn nhân tai ương, họ nào có tội tình gì để cứ phải lãnh chịu hậu quả thảm khốc đến như vậy. Họ đâu nào xấu xa tội lỗi như bao kẻ khác, mà sao vẫn gặp rủi ro, sầu khổ đến độ chết bẹp dí dưới lớp gạch vụn từ tháp canh tường thành, nay đổ sụp!.
Người thời nay, thật cắc cớ nếu cứ bảo: giữa tội lỗi và khổ đau luôn có nối kết, rất chặt. Dù, có một số trường hợp, các hành vi tệ nạn như: rượu chè, chích choác, sống thác loạn, lạm dụng, vẫn bị coi như đã nối kết với sự xấu, thật khó tránh. Dù có thế, thường dân vô tội hoặc cả những người có niềm tin vững chắc, vẫn không tránh được khổ đau, âu sầu xảy đến với họ, rất thường nhật.
Kinh thánh chẳng khi nào bàn luận về việc Chúa là Đấng tốt lành rất mực, nhưng Ngài lại không bác bỏ chuyện khổ đau/sự dữ vẫn xảy đến rất thông thường trong cuộc sống. Ngài gọi đó, là dịp để ta biết mà yêu thương giùm giúp người bị nạn. Đó còn là dịp, để ta cắt nghĩa cho mọi người hiểu rằng: theo cách thức rất bí nhiệm và bằng niềm tin yêu rất mực, thì khổ đau/sầu buồn vẫn là cơ hội để ta có được ơn lành cứu độ Chúa tặng ban. Chính vì thế, mà thập giá Đức Kitô là biểu tượng được nhiều người biết đến và trân trọng hơn.
Người vô thần vẫn có thái độ khác với người theo Đạo cách nghiêm chỉnh. Với người vô thần, thiên tai/sầu khổ khi nào cũng là cớ là dịp để họ chối bỏ việc Chúa hiện hữu, có thật. Nhưng kỳ thực, ai cố tình kiếm tìm sự an nhàn tự tại, vẫn có cách và có lý để tránh né những người đang gặp khó khăn, đau khổ. Làm như thế, những người này cũng đâu củng cố gì thêm được niềm xác tín cũng như tình bác ái mình có. Ai đang sống đời chật vật ở đây, nơi xứ này hoặc trước giờ vẫn quen sống nghèo khổ/khốn khó, thường ít tỏ vẻ ngạc nhiên ưu tư trước những tai ương của trời đất hoặc tai hoạ do con người đem đến. Có gặp tai ương sầu khổ mấy đi nữa, họ vẫn nghĩ đến người khác. Vẫn nhanh chóng tìm ra phương cách để giúp đỡ người bị nạn hơn là ngồi đó mà lý thuyết suông. Thế nên, đây là lúc ta cần đoàn kết giúp đỡ nhau. Và, cảm tạ Chúa. Cảm tạ, vì lâu nay vẫn có nhiều người còn làm chuyện giùm giúp đỡ đần nhau, đến bây giờ.” (x. ĐHY George Pell, New Zealand quake: time for all to unite and help, The Catholic Weekly 06.03.2011, t. 4)

Nhận định của đấng bậc trích dẫn ở trên, lâu nay là như thế. Vẫn chính xác. Mạch lạc. Và, nhuần nhuyễn. Thời Giáo hội tiên khởi, nhiều đấng bậc không trả lời được lý do tại sao có thiên tai/sầu khổ bằng lời lẽ thông thường cho dễ hiểu, nhưng vẫn nhất tâm như các thánh lâu nay quả quyết:

“Tôi quyết rằng
những đau khổ đời này không đáng là gì
so với vinh quang hòng tỏ hiện trên ta.”
(Rm 8: 18)

Với lời lẽ chính thức thoả đáng, Giáo hội lại đã đưa ra khẳng định rất chuẩn mực như sau:

“Bằng sự khôn ngoan tử tế rất vô cùng, Thiên Chúa đã tác tạo thế giới theo cung cách một hành trình đi đến kết cục rất toàn hảo. Theo kế hoạch của Chúa, hành trình này trở thành diễn tiến lịch sử bao gồm các sự kiện liên can đến các hữu thể được sinh ra và tiếp tục hiện hữu. Trong khi đó, một số hữu thể khác lại cứ biến thái, mất dần. Diễn tiến lịch sử, là sự diễn lộ ra bên ngoài những yêu tố xảy đến với con người, song song với sự toàn thiện vẫn là bất toàn. Lịch sử diễn tiến cả hai mặt. Vừa là sức mạnh hủy diệt, vừa là uy lực dựng xây, theo cung cách tự nhiên trong trời đất.” (x. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo #310)

Thêm vào đó, Hội thánh còn quả quyết:

“Ta tin chắc Thiên Chúa là Chúa tể vũ trụ lịch sử. Đường lối Ngài định đoạt, theo lẽ thường, loài người khó lòng mà nhận biết. Chỉ vào lúc cuộc đời con người đạt đến giai đoạn kết thúc, khi mọi điều họ nhận thức nay chấm dứt, phải đối diện với Ngài, thì khi ấy, con người mới hiểu mới biết cách tường tận, đường lối Chúa dẫn đưa thụ tạo của Ngài trải qua trạng thái khổ đau/âu sầu/tội lỗi, để rồi thụ tạo ấy mới đạt chốn ngơi nghỉ ngày Sabát, khi Chúa kết thúc công cuộc tạo dựng trời đất, rất vũ trụ.” (x. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo #314)

Mỗi bản thể là thành phần vũ trụ được tạo dựng, dù có là thần thánh hay người trần xác thịt cũng đều trải qua tiến trình ấy. Vị nào đầy kinh nghiệm từng trải, sẽ có tiếng nói khiến mọi người đều lắng nghe. Là, thi nhân ở đời, người nghệ sĩ cũng lắng nghe, nhưng nghe rồi họ lại hát:

“Ơn em ngực ngải môi trầm
Cho ta cỏ mặn trăm lần lá ngoan.
Ơn em hơi thoảng chỗ nằm
Giấu quanh giấu quẩn nỗi buồn một nơi.
Tạ ơn em. Tạ ơn em.
(Từ Công Phụng/Du Tử Lê – bđd)

Có là “Ngực ngải môi trầm”, hoặc “cỏ mặn trăm lần lá ngoan, là “hơi thoảng”, vẫn cứ buồn khiến em phải giấu quanh giấu quẩn, ở nơi nào đó có trong đầu, hay trong tim, vẫn là những kinh nghiệm “đau cồn ở cữ”, mà nhiều đấng bậc từng trải, nay giải thích:

“Theo nghĩa rộng, “khổ đau/âu sầu” có nghĩa là mất đi những gì ta yêu thích. Cả đến những gì mình yêu mình thích theo nghĩa như: ngồi vụt dậy khỏi chiếc giường mình đang ngủ cũng là khổ đau. Mất đi sự yên hàn của giấc ngủ đẹp vừa qua đêm, để rồi phải giáp mặt với những sự lạ trong ngày, cũng lại là đau khổ. Khổ đau/âu sầu là những gì mình nhận lĩnh, từ đâu đó. Thế nhưng, hỏi rằng có ai, dù nhận thức thấu đáo cách mấy, dám bảo rằng: mất mát như thế mới xứng hợp với mình, không?..
Tóm lại, theo phần đông các câu truyện nhiều người kể, thì khổ đau/âu sầu là con lộ để ta tăng trưởng như tư cách của bản thể người. Mục đích, để ta thắng lướt mọi thử thách vẫn đề ra…
Khổ đau/âu sầu, chết chóc nếu ta chấp nhận nó như một thử thách, nó sẽ cứu ta ra khỏi cảm giác không đúng lắm về động thái vô dụng, vô tích sự, đáng đổ bỏ của bản thể con người. Theo nghĩa đó, thì kinh nghiệm khổ đau vẫn chuyện cần thiết. Ai dám hân hoan đắc chí cho rằng sức khoẻ mình vẫn tốt, nếu không là người từng mặc bệnh trầm kha? Ai là người biết trân trọng sự sống nếu không phải những người có kinh nghiệm thoát chết trong đường tơ kẽ tóc? Ai dám bảo mình là người rất cảm kích/biết ơn nếu không nhận ra rằng hạnh phúc chẳng là gì cả, chỉ là chuyện chóng qua, rất nhất thời?
Chính vì vậy, hãy xử như ông Gióp từng reo lên trong Cựu Ước, rằng: “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?" (x.William j. O’Malley, Forgiving God, America, the National Catholic Weekly 22/9/2008)

Giống như thi nhân ngoài đời, đâu có là người cảm nhận hạnh phúc, suốt nhiều năm. Nhưng thi nhân ấy, nghệ sĩ nọ vẫn chấp nhận âu sầu, buồn da diết. Buồn, đến độ tuôn ra từng âm tiết lạnh lùng, nhưng lại cảm hoá được nhiều người. Để rồi người người cũng ca cũng hát lời thơ hay, từ những ngày:

”Ơn em tình những mù lòa
Như con sâu nhỏ bò qua giấc mùi.
Ơn em hồn sớm ngậm ngùi
Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau.
Tạ ơn em. Tạ ơn em.”
(Từ Công Phụng/Du Tử Lê – bđd)

“Con sâu nhỏ, bò qua giấc mùi”, “hồn sớm ngậm ngùi”, vẫn là tình tự “giữ lại đời”, “cho nhau”, cả kiếp sau. Kiếp sau hay kiếp trước, là duyên là kiếp của tình người từng biết đến khổ đau, âu sầu, nhiều chết chóc. Điều đó, có thể ai cũng kinh nghiệm từng trải. Nhưng, vẫn muốn tìm nguyên do của nó, ngõ hầu đổ tội hoặc giận dỗi, cách vô lối. Tuy nhiên, có những vị không giận dữ vì khổ đâu, âu sầu, bức bách. Các vị ấy, vẫn cảm kích biết ơn và kiếm tìm người đồng cảnh ngộ để san sẻ. Trong số đó, phải kể đến đấng bậc vị vọng ở Melbourne với những tâm tình rất trung thực như sau:

“Cơn địa chấn và sóng thần mới đây ở Nhật, đã dấy lên nhiều tâm tình cảm thông, thương xót. Vì xót thương, nên nhiều vị lại đã trở về với câu hỏi, có từ ngàn xưa: sao ta cứ đau cứ khổ đến thế?” Đây là câu hỏi từng làm điên đầu nhiều vị thánh đã từ lâu. Lâu cả ngàn năm. Lâu, nhiều thiên niên kỷ. Đến độ, có người còn nghĩ: Thượng Đế là Đấng Nhân lành và Hiền Từ vô cùng, đồng ý thế, nhưng sao Ngài cứ để đau khổ/sự dữ xảy đến với con người?”
Trước nhất, ta phải công nhận một điều, rằng: chẳng ai tài giỏi để có thể trả lời được câu hỏi ấy, chí ít là khi chính mình hoặc những người đang giáp mặt với khổ đau/âu sầu. Nếu có ai cho rằng mình có thể đưa ra câu trả lời, thật đích xác, cũng nên gọi họ là người nói láo, hoặc khùng điên. Hoặc, chỉ là người chưa bao giờ biết đến khổ đau là gì hết.
Thứ đến, phải công nhận rằng: tin vào Chúa có nghĩa là mình tin rằng Ngài có cung cách hành xử thật bí hiểm. Còn nhớ, có lần tác giả cuốn sách mang tựa đề “Nói về Chúa”, là thày tư tế Daniel Polish từng bảo: “Tôi không tin vào Thiên Chúa mà ý định hoặc động lực của Ngài rõ như ban ngày, đối với tôi. Với tư cách là kẻ có lòng tin, tôi vẫn thấy mình nên nghi ngờ những người đưa ra nhận xét rõ ràng đến như thế.”
Thành thật mà nói, bản thân tôi nay không còn dựa vào các lý lẽ rút từ Sách thánh để giải thích lý do của khổ đau, như: Đau khổ là hình phạt Chúa gửi. Là, cung cách để ta giữ mình được thanh sạch. Là phương cách giúp ta tham gia cuộc sống của Đức Giêsu… Là, thành phần cuộc sống trong thế giới bất toàn, của con người vv…và vv...
Trong Tin Mừng thánh Gioan, chính Đức Giêsu từng phản bác ý nghĩ cho rằng mù loà là kết quả của tội lỗi, như sau:

“Các môn đệ hỏi Người:
"Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù,
anh ta hay cha mẹ anh ta?"

Đức Giê-su trả lời:

"Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội.
Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa
được tỏ hiện nơi anh.”
(Ga 9: 2-4)

“Với tôi, điều giúp mình cảm thông với nỗi khổ mình chịu là tin rằng Chúa luôn đồng hành với mình trong đau khổ. Vẫn có nhiều điều còn “bí hiểm” khiến tôi không hiểu được như các vấn đề đặt ra trong sách Gióp ở Cựu Ước, nhưng tự thân, tôi vẫn đặt mình trong tương quan với Chúa. Vẫn cố gắng, dù đôi lúc cũng thất bại, cố gắng ủy lạo bệnh nhân, uỷ lạo chính minh đang đau đớn vì bệnh tật để nói được rằng: chính Đức Giêsu cũng từng giáp mặt với khổ đau, trong đời Ngài. Ngài sẽ cùng ta nguyện cầu để cùng đồng hành với ta qua cơn đau.
Một điều rất rõ, là khi đã chấp nhận để Chúa đồng hành với ta, qua cơn đau như thế, tôi nhận ra được hy vọng đang loé sáng trong tôi, khiến tôi có thể chấp nhận thực tại của đau khổ. Và đó là con đường để tôi gặp gỡ Chúa. Đây không là lý do cũng chẳng là giải thích của khổ đau, nhưng đôi lúc vẫn có thể là thành phần trong kinh nghiệm chịu đau chịu khổ, tôi từng trải.
So với những đau khổ mà người ở Nhật đang gánh chịu, khổ đau tôi từng chịu chỉ là một phần rất nhỏ so với kinh nghiệm đau thương của họ. Hơn nữa, đau khổ của tôi không giống khổ đau của anh hoặc chị đang cam chịu. Tôi chỉ muốn nói một điều, là cũng như mọi kẻ tin khác cần tìm ra con đường để đến với Chúa, thì thị kiến về khổ đau bao giơ cũng là kinh nghiệm riêng tư, mật thiết nhất.” (x.Lm James Martin sj, Why Do We Suffer?, The Jesuit Guide to (Almost) Everything, 13/3/2011)

Bàn về kinh nghiệm khổ đau với bệnh tật, là người ai mà chẳng có một lần cảm nhận như thế. Nhưng kinh nghiệm của người nhà Đạo, tức các vị có quan hệ gần gũi với Chúa nhất, vẫn đa dạng. Mỗi người mỗi cách. Thường thấy nhất, là cách thức của một số tu sĩ có phản ứng nhanh nhẹn, dễ nói như:

“Các kẻ tin vào Chúa, đều tỏ ra nghi ngờ về các câu trả lời quá dễ, đối với vấn đề khổ đau. Mẹ tôi có lần kể cho tôi nghe về vị nữ tu trọng tuổi nọ sống trong làng hưu dưỡng cùng với bà ngoại của tôi nay đã 90. Một hôm bề trên của vị nữ tu này đến làng thăm kẻ liệt, thì được vị nữ tu trọng tuổi than vãn về cơn đau lưng kéo dài tưởng như không dứt. Vị bề trên bèn khuyên: “Mỗi khi đau, chị hãy nghĩ về cuộc khổ nạn của Đức Giêsu trên thập tự.” Nữ tu nọ bèn đáp trả: “Dạ thưa Bề trên, Chúa chỉ ở trên thập giá có ba tiếng thôi, còn con đây suốt ngày này qua tháng nọ, thế mới chết…”
Về câu trả lời quá dễ ấy, Lm Richard Leonard dòng Tên có viết về kinh nghiệm thương đau ngài phải chịu cuốn sách mang đầu đề “Chúa ở nơi chết tiệt nào thế?” Trong sách, tác giả kể về các khổ đau mà gia đình ngài phải chịu. Bố của ngài chết vì nhồi máu cơ tim năm 36 tuổi, để lại người mẹ đơn chiếc chăm lo cho 3 người con.
Tảng sáng ngày sinh nhật thứ 25 của linh mục, Bề trên của ngài gọi dậy để nghe điện thoại mẹ gọi. Mẹ cho biết chị ruột của ngài là Tracey, một nữ y tá làm việc cho cộng đồng người Thổ dân, đã bị tai nạn xe cộ, rất khốc liệt. Kịp đến khi thăm được chị bằng chuyến bay tốc hành, thì Tracey đã toàn thân bất toại, đành chịu liệt. Trong cơn đau đến nổi quạu, mẹ ruột của linh mục kêu lên “Chúa đang ở cái xó chết tiệt nào vậy?” Không như câu trả lời quá dễ dàng của vị nữ tu kia, linh mục Richard Leonard sj chỉ biết mếu máo trả lời: “Mẹ à, con nghĩ Chúa của mình cũng đang bấn lên, không kém. Như Thiên Chúa của Isaya từng làu bàu không ít, như Đức Giêsu từng khóc rống bên cạnh mộ phần của người bạn thân, con nghĩ Thiên Chúa không đứng bên ngoài mọi khổ đau của gia đình mình, đâu mẹ. Nhưng, Ngài là người bạn đồng hành vẫn ấp ủ ta trong cánh tay Ngài, để sẻ san nỗi đau buồn thống khổ của mẹ con mình, trong lúc này.”
Ngoài ý tưởng về sự khổ đau vốn dĩ giúp ta mở lòng mình để có kinh nghiệm thực tế về Chúa, tôi nghĩ đây là nhận thức thần học khá sâu sắc có thể giúp ích được nhiều người đang trong cơn đau, đó là hình ảnh về Thiên Chúa từng chịu đau chịu khổ, Đấng luôn sẻ san nỗi sầu buồn, Thiên Chúa hiểu rõ và cảm thông với con người hơn ai hết.
Trả lời cho câu hỏi về nguyên nhân gây đau khổ, có câu trả lời thích hợp với người hỏi, có câu làm cho người đang đau khổ thấy lạnh lùng hoặc xúc phạm hơn. Nhưng tựu trung, mỗi người khi đau đớn, phải biết tìm ra phương án nào khả dĩ giúp mình giáp mặt đương đầu với cơn đau hoặc mất mát luôn có Chúa. Bởi, đau khổ vẫn là một “bí nhiệm” đối với nhiều tín hữu, nhưng tuyệt nhiên không là thứ gì ta có thể bỏ sót hoặc lãng quên, nhưng là thứ gì ta cần chú tâm đến bằng cả con tim lẫn thần tính.” (x. Lm James Martin sj, bđd)

Nói gì thì nói, diễn tả nét cùng cực rất đích thực của khổ đau như hai linh mục James Martin sj và Richard Leonard sj không là những gì bất kính tỏ ra với Chúa. Đúng hơn, nên hiểu đây là phản ứng rất bình thường của con người khi rơi vào cảnh khổ đau giống như trên. Tất cả chỉ để nói lên rằng: Chúa đâu sao không đến giúp, con chịu hết nổi rồi, Chúa ơi!
Bằng vào kinh nghiệm bản thân lúc nào ta cũng thấy đau khổ/khổ đau ở quanh quất, hẳn rằng ai cũng đồng ý mà bảo: khổ đau là sự thật rất thực, luôn đồng hành canh cánh với sinh vật sống. Chí ít, là con người. Làm người, không ai thoát khỏi khổ đau, sầu buồn, mất mát. Đó, là qui luật của sự sống.
Là sinh vật sống, hữu thể nào cũng phải chấp nhận qui luật ấy. Thế nên, thay vì bác bỏ đau khổ, Đức Giêsu đã vui lòng chấp nhận khổ đau, sầu buồn cho đến chết. Ngài chấp nhận, vì biết rằng Ngài luôn có Cha ở cạnh để cảm thông và san sẻ.
Nói cho cùng, cũng nên hiểu khổ đau, sầu buồn, mất mát là quà tặng Chúa đính kèm với sự sống, ngay từ đầu. Quà tặng, đâu phải lúc nào cũng trơn tru, tốt đẹp, bền vững mãi. Tốt hay xấu, khổ đau hay hạnh phúc vẫn là quà. Còn lại, là thái độ của mỗi người khi gặp phải qui luật đau thương ấy mà thôi.
Để minh hoạ cho triết lý sống này, cũng nên về với truyện kể nhè nhẹ, dễ nghe sau đây:

“Hôm ấy, một ngày không đẹp trời cho lắm, chú bé tinh tinh (đười ươi) cắc cớ, hỏi mẹ:
-Mẹ ơi, có thể nào mẹ dạy cho con biết: mẹ con mình trông to lớn, mạnh khoẻ hơn bất cứ loài khỉ/vượn nào khác, mà sao tướng tá vẫn dị hợm và không tránh khỏi các cơn đau như mây chiều lạnh giá, thế hả?
Tinh tinh mẹ hiền nhìn con một hồi, rồi cười bảo:
-Tốt hơn, con hãy cảm tạ Thượng đế đã cho mình được như thế. Trông vậy, mà mẹ con mình vẫn còn hơn chán vạn loài thú khác, đó nghe con. Kìa con xem, to lớn như loài voi, loài người thế mà có loài nào thoát được hình hài quái dị, lại bị đau bị khổ đến chết được cơ chứ. Bằng lòng đi con. Mình có muốn hơn loài khác cũng chẳng được đâu, con à…”

Đúng thế. Bằng lòng đi bạn, bằng lòng đi tôi. Ta cứ vui vẻ bằng lòng, rồi sẽ hát lời ca trên rằng:

“Ơn em, thơ dại từ trời
Theo ta xuống biển vớt đời ta trôi.
Ơn em, dáng mỏng mưa vời,
Theo ta lên núi, về đồi yêu thương.
Tạ ơn em. Tạ ơn em.”
(Từ Công Phụng/Du Tử Lê – bđd)

Tắt một lời, tất cả đều là Ơn “Em” từ Trời, cũng rất thơ nhưng không dại. Vì thế nên, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cứ tạ ơn đời. Tạ ơn Người. Mãi khôn nguôi.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cứ tạ ơn Em.
Tạ ơn hết mọi người
Suốt một đời.

21. “Chiều đi về đâu?”
Chiều đi lòng nhớ bao nỗi u sầu.
Chiều sương im lặng buồn,
Mờ xa đôi cánh chim lùa theo gió.”
(Nhật Bằng – Bóng Chiều Tà)
(Mt 26: 38)
    Chiều có đi hoặc có về. Về nơi đâu/đi chốn nào, hay cứ đứng đó lặng nhìn người xung quanh, thì người người vấn nhớ và thương, đến u sầu. Lặng im. Phủ đầy sương. Buồn rất nhớ, và rất thương “đôi cánh chim lùa trong gió”, rất mờ xa, thì nhà nhà vẫn xôn xao, âu sầu, Chúa hấp hối.
    Chiều về trong cơn lịm tắt Chúa hấp hối, cũng rất buồn. Buồn, mà sao dương gian lòng người vẫn cứ thờ ơ. Ơ hờ. Lạnh giá. Và, Chúa lộ tâm tư “chiều về” với dân con/đồ đệ, như sau:

            “Tâm hồn Thầy
sầu buồn đến chết được;
            anh em hãy ở lại mà thức với Thầy.”
            (Mt 26: 38)

“Sầu buồn sầu đến chết được”, là điều Chúa tỏ lộ cho dân con/đồ đệ, buổi chiều về? Ở lại mà thức với Ngài, để cảm thông nguyện cầu. Chốn chiều về lặng thinh. Im ắng. Rất hấp hối, đến nỗi thi sĩ viết Tin Mừng theo thánh Luca gọi đó là “cơn sầu buồn, chết lặng, với tâm tư như sau:

            “Người lâm cơn sầu buồn
càng khẩn thiết nguyện cầu.
Mồ hôi Người như những giọt máu
rơi xuống đất.”
(Lc 22: 44)

    “Lâm cơn sầu buồn đến chết được”, ngôn ngữ cổ Hy Lạp gọi đó là “Agonia”, đượm tâm trạng phấn đấu, rất hấp hối. Phấn đấu tự đáy lòng. Phấn đấu trong cơn hấp hối vào buổi chiều đời người như thi sĩ ngoài đời còn diễn tả:

            “Chiều xa ngoài khơi,
            thuyền theo giòng nước về chốn xa vời.
            Cành hoa phai xác tàn,
            còn đâu trăng sáng mơ bên vườn lan.”
            (Nhật Bằng – bđd)

    Chiều hấp hối. Xa khơi. Cuộc đời trôi theo về chốn rất xa vời. Ôi! Bản tình ca. Thiết tha nhiều tình tự của những chết lặng ở tâm can. Trong đó, có tình đời và tình người, là như thế.
    Hấp hối theo tầm nhìn Cựu Ước, qua đó ngôn sứ Ysaya coi như một hành xử được Giavê Thiên Chúa chấp nhận chịu đựng đến nỗi chết, như sau:

            “Sự thật, chính người đã mang lấy những bệnh tật của chúng ta,
đã gánh chịu những đau khổ của chúng ta,
còn chúng ta, chúng ta lại tưởng người bị phạt,
bị Thiên Chúa giáng hoạ, phải nhục nhã ê chề.
(Is 53: 4-5)

    Hấp hối buổi xế chiều cuộc đời, có thể là ảnh hình về một hệ quả do con người hành xử từ tạo thiên lập địa, có nam nhân và nữ phụ đầu đời cả gan hành động chống lại ý định của Thiên Chúa, thuở hạnh phúc ở nơi vườn, như thánh nhân tông đồ từng quả quyết:

            “Vì thế, chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Ki-tô,
như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy.
Vậy, nhân danh Đức Ki-tô,
chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa.”
(2Cr 5: 20)

    Hấp hối đời sầu buồn, là như ai đó vẫn kiên tâm chấp nhận hành hình theo kiểu thời đại: như GM Oscar Romero và 7 vị linh mục dòng Tên ở El Savador từng trải nghiệm. Là, chấp nhận cuộc đời buồn đến nỗi chết, do xã hội nay chai đá bất chấp tình cảnh khốn khổ của dân đen, vẫn bách hại.
Sầu buồn đến chết được, là trạng thái của nhà Đạo, luôn cùng Chúa chấp nhận đến nỗi chết. Chúa sầu buồn đến chết, là bởi thời bây giờ, ở nơi nào đó trên thế giới vẫn có đấng bậc vị vọng chỉ quan tâm đến số lượng người quay về với ràn chiên mình mà thôi. Hoặc vốn dĩ chỉ thoăn thoắt trôi theo tình đời kình chống tinh thần yêu thương đùm bọc, Chúa chủ trương cho con dân mình.
    Chúa sầu buồn đến chết được, khi Ngài thấy dân con Ngài chỉ mỗi quan tâm đến chỗ đứng/ngồi trong hệ cấp quyền hành để dành quyền chỉ đạo. Tuyệt nhiên chẳng đoái hoài gì việc thực hiện tinh thần phục vụ nhân quần. Cũng chẳng quảng bá hành xử rất sống lại hầu cứu giúp loài người lại được sống. Sống xứng đáng danh xưng của Đạo. Của Đạo Chúa-là-Tình-Yêu rất đích thực.
Chúa sầu buồn đến chết, trước nỗi buồn của bạn bè người thân Lazarô để rồi Ngài lại phải nhắc dân con/đồ đệ Ngài những điều Ngài từng sống:

        “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống.
Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.
Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết.”
(Ga 11: 25-26)

Xem thế, thì ngay trong cơn hấp hối sầu buồn đến chết được của Đức Chúa, dân con/đồ đệ cũng nên nhìn ra sự sống lại đã khởi sắc. Sống lại, không theo kiểu Lazarô lại đã mang hình hài như trước để mà sống. Sống lại, như đã biến thái về tình thân sau khi vượt thắng cơn sầu buồn đến nỗi chết. Sống lại, bằng tinh thần yêu thương sảng khoái rất cảm tạ. Như tâm trạng của người vừa sống sống trở lại sau cơn “đại hồng thuỷ” sầu buồn ở Nhật, như tâm tình gửi nơi thư ở bên dưới:

        “Xin chào bạn bè người thân, rất quí mến,
Trước nhất, tôi cảm tạ tấm lòng ưu ái của các bạn đã tỏ lòng quí mến, đối với tôi. Bản thân tôi, thật là cảm kích đến xúc động trước cử chỉ đầy ưu ái của các bạn. Nay, chỉ xin gửi thông điệp đầy tình tự cũng rất chung đến quý vị. Hãy xem đây như cung cách tỏ bày về tình thân thương ta nối kết.
Chuyện xảy ra ở Sendai này, chừng như không thực tế cho lắm. Nhưng bản tôi lại thấy mình được chúc phúc mới có được những người bạn tốt đang ra tay giúp đỡ, cũng rất nhiều. Nơi chúng tôi đang ở tạm, là ngôi nhà của một bạn, ở đây tôi được sẻ san thực phẩm, nước uống lẫn hơi ấm từ lò suởi kêrôden. Chúng tôi nằm xếp lớp, ngủ thành hàng như cá mòi trong hộp chung một phòng dài. Ăn uống thì vẫn le lói dưới ngọn đèn suốt canh thâu, vừa ăn vừa kể cho nhau nghe những câu truyện êm ả tình thân, vẫn rất đẹp.
Suốt ngày, chúng tôi dọn dẹp khuôn trang cho sạch sẽ. Nhiều vị ngồi trong xe theo dõi tin tức qua màn hình phát sóng hoặc đang chịu khó xếp hàng dài nhận lĩnh nước uống khi có người tình nguyện mở vòi nước tư đem cho uống. Nhà nào còn nước đều uống, đều giăng biển phát không để mọi người cùng đến mà múc, hoặc đem thùng đựng.
Rõ ràng, tại chốn tạm dung tôi đang ở, không có hiện tượng hôi của. Cũng chẳng thấy ai xô ai đẩy giành chỗ đứng để nhận nước uống. Các nhà còn đứng vững trong khu này đều mở rộng cửa cho mọi người đến vì thấy nơi mình ở, vẫn an toàn hơn khu bị động đất phá tan tành. Nhìn cảnh tượng này, người người đều nói: “Ôi sao, trông giống hình ảnh khi xưa mọi người vẫn nhường nhịn nhau. Giúp đỡ nhau.”
Cơn địa chấn vẫn còn râm ran ở nhiều chốn. Nội tối hôm qua thôi, cứ 15 phút lại đã thấy cơn chấn động tiếp đến. Còi báo động hú liên hồi và trực thăng luẩn quẩn ở trên đầu, không chịu nghỉ.
Tối qua, nhà chúng tôi tá túc đã có nước chừng vài giờ, nay lại có cả nửa ngày để hứng háp. Trưa nay, lại có thêm điện để thắp sáng. Có hơi khí đốt kịp nối đến, nhưng toàn bộ khu vực thì chổ có, chỗ không. Người có thứ này, kẻ lại không. Thành thử, mấy ngày nay ra như mọi người chưa được tắm hoặc lau rửa. Ai cũng bực bõ, khó chịu. Nhưng vẫn còn nhiều chuyện để làm, khiến mọi người quan tâm hơn là chỉ nghĩ đến riêng mình.
Tôi thấy cũng nên tách bạch những chuyện không cần thiết đến bức bách, để sống theo bản năng, trực giác, tự chăm sóc cho riêng mình. Tách bạch để tồn tại là chuyện không chỉ mình tôi mới thấy được, mà hầu như mọi người ở đây đều cùng như thế. Chừng như chuyện này đang xảy ra với vũ trụ trăng sao như mọi biến cố vẫn song hành. Nhà cửa thì ngổn ngang suy sụp, thấy rất rõ. Cũng có một đôi nhà còn đủ phòng bếp với phòng giặt đang phơi trần dưới ánh nóng như thiêu như đốt, của mặt trời. Kìa, thiên hạ lại đã bắt đầu xếp hàng chờ đợi để được nhận nước uống, cùng thức ăn. Chỉ một ít người còn thong thả đi bộ dắt theo chú chó nhỏ. Tất cả như xảy ra cùng một lúc.
Đây đó, vẫn còn thấy đôi nét chấm phá của trời trông rất đẹp. Nhưng rồi thì, tất cả đều rơi vào cảnh lặng câm, khi buổi chiều về đã sụp xuống. Không thấy có xe nào qua lại. Cũng chẳng thấy có ai bước ra đường dù chỉ để mắt ngó nhìn xem có sự cố nào nữa hay không. Trời về đêm như vẫn được điểm tô bằng những chấm sao le lói đến lạ lùng. Thông thường, tôi chỉ thấy có một hai ngôi đổi dời ở đây đó, nay thì đầy kín cả bầu trời. Núi đồi Sendai nay còn đứng vững, đã lộ nguyên hình hài nổi bật trên vòm trời lộng lẫy.
Và người Nhật thật tuyệt. Tôi về lều để kiểm điện thư và gửi cho các bạn thông điệp này, vì đèn đóm chỗ tôi ở vừa có lại. Kìa, đã có người để sẵn thức ăn cùng nước uống ngay bên cửa. Chẳng biết những thứ ấy do ai mang đến, nhưng đồ ăn vẫn nằm sẵn ở đó chờ tôi về, mà chẳng ai giựt giành hoặc lấy đi. Đây đó, lại thấy vài ba lão ông đầu đội mũ xanh đi hết nhà này đến nhà nọ, xem mọi người có an toàn, hoặc cần điều gì để giúp đỡ. Có vị còn hỏi người lạ từ đâu để còn biết là họ có muốn được giúp đỡ hoặc liên lạc với ai không. Tôi thấy chẳng một ai tỏ dấu sợ sệt hoặc hãi hùng. Ai nấy vẫn cứ nhịn nhường nhau, đó là chuyện thấy rõ. Tuyệt nhiên không thấy dấu hiệu của sợ sệt.
Tin cho biết, sẽ có nhiều cơn hậu chấn nhỏ hoặc một cơn động đất khác cũng lại đến nữa, cũng không chừng. Có thể trong nhiều tháng hoặc vài năm nữa, cũng chưa biết. Hiện giờ, chúng tôi đang thấy rung chuyển, tròng trành, lắc lư, cứ ùng ục. Tôi được cái may là sống ở vùng cao bên trên Sendai, nên vững bụng hơn nhiều nơi trong vùng. Thành thử, dù sao thì nơi đây cũng khá hơn chỗ khác rất nhiều. Tối qua, chồng người bạn của tôi từ miền quê trở về có mang theo ít thực phẩm và nước uống để tiếp tế. Đấy, chúng tôi lại được chúc phúc một lần nữa, vẫn còn hơn được rất nhiều người.
Vào lúc này, tôi như có cảm nghiệm rằng bước tiến hoá của vũ trụ đang xảy đến với thế giới, ngay bây giờ đây. Và theo cách thế nào đó, tôi cũng cảm nghiệm được biến cố ấy đang xảy đến nơi đây, ở nước Nhật này, khiến tâm can mình đang như rộng mở, bung rất lớn. Em trai tôi hỏi tôi có thấy là mình quá bé nhỏ so với tất cả những gì đang xảy đến, không. Tôi thấy không. Đúng hơn, tôi thấy mình là thành phần của những gì đang xảy đến, vẫn to tát hơn mình tưởng. Tựa hồ như cơn “ở cữ” của thế giới thật lớn lao đang lâm bồn. Cái thế giới đang lộ diện nét lộng lẫy của nó, ngay lúc này.
Một lần nữa, xin cảm ơn các bạn đã tỏ bày tình thương yêu chăm sóc, gửi đến cho tôi.
Bằng vào tình thương yêu đáp trả, tôi cũng xin gửi đến tất cả, điều tốt đẹp nhiều hơn tôi.
Anne.”

    Tâm tình của người chứng tên Anne, là thông điệp có từ “cơn sầu buồn đến chết được” mang dáng dấp của tín thư về sự sống lại, rất yêu thương. Ngoan cường. Tín thư đó, chính là tình tự yêu thương cảm tạ sau khi trải qua cơn sầu buồn đến chết. Sầu buồn, nhưng vẫn cảm tạ, như sau:

        “Tạ ơn đời.
Tạ ơn Người.     
        vì sáng nay, khi thức dậy, con nhận được tin về bọn con cháu vẫn yên hàn, sống sót.
        vì sáng nay con được biết căn nhà mình đang ở, nay còn đó vẫn đứng trụ.
        Tạ ơn Người,
vì sáng nay con không phải khóc nhiều về bạn bè/người thân, vẫn còn sống
vì chồng/vợ, con/cháu, anh/chị, mẹ/cha mình không bị vùi chôn dưới cơn sóng.
Tạ ơn người,
vì sáng nay, con còn có thể uống được ngụm nước lã, rất quý giá.
và sáng nay khi thức dậy, con còn được bật đèn chiếu sáng không gian còn mù tối
vì sáng nay khi thức dậy, còn lại vẫn có thể mở vòi nước ấm để được tắm
và sáng nay con không phải thu xếp công việc để đưa tang người thân thuộc vừa từ giã
và con lại cám ơn vì sáng nay vẫn còn sống mà khóc thương những người Nhật xấu số
Tạ ơn Người
và xin Người là Đấng làm cho mọi chuyện không thể thành có thể
để các bà mẹ Nhật Bản còn đủ nghị lực để lại sống cuộc đời đã sống lạ, Ngài ban cho.
Con cầu Người ban cho mọi loài sự bình an cần có để hiểu rõ sầu buồn đang còn đến
Con cầu Người mở rộng mọi con đường để viện trợ từ các nơi vẫn đến được
Con cầu Người gửi nhiều bác sĩ, y tá, thực phẩm và nước uống, là thứ họ đang cần
Cầu cho ai lạc mất bạn bè/người thân vẫn bình an, hy vọng can đảm lên mà tiến bước
Con xin Người giữ gìn lũ trẻ đơn côi, để chúng được núp dưới bóng mát của Người
Con cầu Người nhân danh Đức Giêsu cũng sầu buồn đến hấp hối vì tai ương xảy đến.”

    Nói tóm, sầu buồn đến chết được dù có rơi vào buổi hôn hoàng cuộc đời mình, hãy cứ cảm tạ. Vì tất cả là ân huệ. Ân huệ Ngài ban, cả trong cơn sầu buồn đến nỗi chết. Thành thử, có cảm nhận được nỗi sầu buồn trong đời mới là điều cần thiết. Bởi, có thế bạn và tôi mới biết nhận lãnh sự sống lại, vào mai ngày.
    Bởi, chính đó là niềm tin. Và cảm kích. Cảm kích rằng, trong mọi sầu buồn trên đường đời vẫn có đó một kết đoạn. Kết rất hậu, như lời thơ mà nghệ sĩ ở trên còn muốn hát như để dứt đoạn nỡi sầu buồn, của giấc mơ:

            “Nhưng giấc mơ tan,
vương theo gió bao cung đàn,
            đâu dáng duyên xưa,
một chiều thu ta còn nhớ.
            Nhớ hồi còn thơ,
vai kề vai trong tiếng tơ,
            Tuy xa vắng ta vẫn mong chờ.
            Chiều sao hờ hững lạnh lùng thờ ơ.”
            (Nhật Bằng – bđd)

    Nhớ khi xưa, Chúa từng cảm nghiệm nỗi sầu buồn đến chết được. Nhưng, Ngài vẫn sống. Sống mạnh, sống vững chắc để còn vực dậy, rất nhiều người đang sầu buồn. Trong đời mình.

    Trần Ngọc Mười Hai
    Cũng có sầu
    nhưng không buồn.
    vì có Chúa ở cạnh bên
    lại vẫn đồng hành với mình.
    Vào mọi lúc.



22. “Sợi buồn, con nhện giăng mau,”
“Em ơi hãy ngủ, anh hầu quạt đây…”
(Phạm Duy – Ngậm ngùi)
(2P 3: 17-18)
Kể ra thì, âu cũng là chuyện tréo cẳng ngỗng, khi anh cứ là hát khúc ai ca, rất “ngậm ngùi”, mà lại bảo: “Em ơi hãy ngủ!… Anh hầu quạt đây!” Cứ như thể, người anh chỉ hầu quạt …để cho em ngủ. Ngủ vùi. Ngủ như chết. Hoặc chết và ngủ cũng như nhau. Ôi! Thế đó, là ngôn từ người đời. Ấy! Đấy cũng là ý tứ nhà Đạo, vốn dĩ đạo mình?
Chốn đạo hạnh, xưa nay người vẫn bảo: hãy đến Na-Uy mà xem, chốn miền đạo đức, không oan ức. Vẫn sống vui. Sống mạnh. Sống vững chắc, trong tình huống rất Nước Trời. Thế nhưng, sau ngày “N” tháng 7 năm hai nghìn mười một cũng rất lẻ, thì sao đây? Xã hội Na-Uy nay thế nào? Sau những ngày “N” đen tối có đến bảy chục mạng con người đã ngủ mà không yên, vì không có “anh hầu quạt đây”. Nên đã phải ngủ vùi, rất tức tưởi. Trọn nhiều kiếp.
Quả là sau biến cố ngày “N” đen tối ấy, chàng trai Na Uy Anders Breivik đã ru những 70 người em ngây thơ ngoan và dại bằng những viên đạn thật bắn vào. Ru em bằng phát súng cũng lạ lùng, không cần biết người em trẻ vô tội có còn vương vấn những lời buồn chăng:

“Ngủ đi em! Ngủ đi em!
Ngủ đi, mộng vẫn bình thường.
À ơi có tiếng thuỳ dương mấy bờ…”
(Phạm Duy – bđd)

Thuỳ dương hôm nào, ở đảo nhỏ bên Na-Uy, đâu còn cảnh anh vừa bắn vừa hát:

“Cây dài, bóng xế ngẩn ngơ.
Hồn em đã chính mấy mùa buồn đau.
Tay anh, em hãy tựa đầu
Cho anh nghe nặng (ư ứ) trái sầu rụng rơi.”
(Phạm Duy – bđd)

Quả là trái sầu, thật khủng khiếp! Trái sầu rơi rụng khắp chốn Na Uy, không êm đềm, thần tiên nữa. Và từ đó, có người em rất vô tư, vô tội nay vẫn hỏi và vẫn nói, như sau:

“Có thể bảo rằng: ở vào bối cảnh có hơi khác, Na Uy là một trong các nước ở Bắc Âu vẫn cứ được khen là vẫn có cuộc sống đặt nặng lên an sinh xã hội và thân thiện như gia đình, rất vượt bực. Thế nhưng, chừng như thảm trạng vừa xảy ra ở Na Uy đã cho mọi người thấy có một thứ gì đó mà nền an sinh/phúc lợi của xã hội cũng như chủ trương thân thiện cởi mở như gia đình, không còn đảm bảo tạo được niềm tin nơi mọi người nữa rồi.
Không còn mang tính chân-thiện-mỹ rất xác thực nữa, cũng đã đành. Và lại không bảo đảm được cả chuyện cung cấp cho người nhập cư và định cư có được một đời sống an ninh, an toàn và lành mạnh đủ thuyết phục ngay đến người sinh trưởng và lớn lên ở đây nữa.
Cây viết lão làng thuộc địa hạt giáo dục của tờ Luân Đôn Điện Báo là bà Katharine Birbalsingh cũng đã thử thời vận làm một nghiên cứu khảo sát bỏ túi thuộc loại “thăm dân cho biết sự tình” đã phát hiện ra rằng cảnh tình đổ vỡ của gia đình Breivik và nhất là do sự thiếu vắng khuôn mặt của người cha trong giáo dục người con từ lúc anh lên 1, đã tạo nên tâm tính bạo động kiểu ở trên.
Tuy nhiên, một số các nhà bình luận thời sự đã tấn công tác giả Katharine cho rằng tác giả đã đổ cho trách nhiệm dạy dỗ của người cha ở nội vụ này, là không đúng. Thoạt nhìn, nhiều người cứ nghĩ rằng tác giả Katharine Birbalsingh chừng như đang bào chữa cho tội sát nhân của Breivik. Thật ra, ký giả KatharineBirbalsingh không có ý như thế, mà bà chỉ muốn kéo người đọc chú ý đến sự kiện là: với xã hội hiện thời, yếu tố đổ vỡ và thiếu trách nhiệm trong các gia đình có cha mẹ gãy đổ, đã lôi kéo các phạm nhân như người trai trẻ Breivik đi vào với thế giới cuồng điên, kỳ thị đầy bạo động, cả trên mạng lưới trực tuyến nữa.
Quả thật, người trẻ Breivik tuy đã 32 tuổi đời nhưng đã sống và lớn lên trong một đất nước mà chỉ số hôn nhân đang tụt giảm trầm trọng. Trong khi đó, chỉ số ly dị và nam nữ sống chung đụng cùng giường mà chẳng cần nghĩ đến hôn phối, vẫn gia tăng. Báo cáo của khối Các Nước Có Nền Kinh Tế Đã Phát Triển Cao cho thấy mức sống lành mạnh của các gia đình ở Na Uy được coi là tốt nhất thế giới, nếu ta nhìn vào tình trạng giải quyết giúp những người nghèo đói và qui cách tuyển dụng nữ giới có công ăn việc làm đàng hoàng, đều thấy rõ.
Thế nhưng, nếu xét về con số các trẻ em sinh ra từ các cặp nam nữ sống chung đụng cùng giường mà không cần hôn phối, hoặc môn đăng hộ đối, vẫn đứng hàng đầu ở các nước đã phát triển. Thống kê cho biết: chỉ nội niên biểu 2007 thôi. Nuớc này đã có hơn 50% số trẻ bé được sinh ra từ người cha người mẹ sống với nhau mà không có quyết tâm lập gia đình, cho đàng hoàng.
Xem như thế, thì nội chuyện cùng chung một lập trường như các nước tân tiến khác, không có nghĩa là các gia đình hoặc cặp nam nữ này lại không có con cái xấu xa. Bê tha. Tệ nạn. Nội mỗi yếu tố căn cứ vào gia đình gãy đổ làm gương mù gương xấu cho con trẻ, mà thôi, không có nghĩa là các trẻ này sẽ lớn lên trong tình huống điên cuồng với tội phạm. Thế nhưng giờ đây, đất nước của giải Nobel đang làm tốt công tác phản ánh mọi yếu tố khả dĩ đưa đến thảm trạng vừa qua ở Oslo. Và, người Na Uy cũng đang tự hỏi xem mình có thực sự đang làm điều tốt đẹp cho con em của chính mình, hay không?”(x. Carolyn Moynihan, MercatorNet 27.07.2011)

Về những chuyện rất ư là “Ngậm ngùi”, kiểu “hồn em đã chín”, hoặc “mấy mùa buồn đau”, đâu phải ai cũng cùng một lập trường như tác giả ở trên. Hoặc, cùng lập trường/quan điểm nhưng điểm quan trọng trong bàn hỏi, đâu na ná giống ở trên.
Ở trên hay ở trong bối cảnh của thảm hoạ vừa xảy ra, vẫn có những tư tưởng lập trường, cũng rất khác. Khác, như các phản hồi/phản ảnh đối viết xuống trên giấy trắng mực đen như sau:

“Chuyện ở đây nữa, vẫn còn đó sự tự do về đạo đức, của mỗi người. Mỗi chiều hướng, đều được công nhận hoặc chối bỏ, đó là chuyện tự nhiên như cây cỏ. Vẫn có rất nhiều người từng có kinh nghiệm thương đau do chính cha mẹ mình hoặc người khác gây ra; nhưng kinh nghiệm ấy vẫn có thể phát triển cách tích cực ở một số người khác. Nói về chuyện con em nào bị cha mẹ mình đối xử tàn tệ, khi thành người lớn lại cũng sẽ đối xử với người khác không kém phần tồi tệ, là nói không bao giờ cùng. Và, cũng chưa chắc gì đúng. Tôi có gặp một ông bố từng đối xử rất tốt với cả ba đứa con của ông. Tôi hỏi ông: làm sao ông có thể đối xử tốt với con cái đến là thế, thì ông bảo: ngay hồi mới lên 13, chính ông đã bị ông già mình đối xử tàn tệ như loài thú. Kể từ đó, ông quyết tâm sẽ không làm thế với chính con của mình. Và, cho đến nay, ông ta vẫn còn giữ được quyết tâm ấy.
Qua việc này, tôi thấy: thái độ và động thái của bậc cha mẹ là điều rất hệ trọng, nhưng đối với tôi, có sử dụng sự tự do của mình theo hướng tích cực, mới là điều hệ trọng hơn.” (x. phản hồi của Marijo Zivkovic, cũng cùng bài.)

Quả y như rằng, mỗi người mỗi ý. Cả đến những ý tứ của những người trong/ngoài cuộc. Trong hoặc ngoài ngành sư phạm, rất giáo dục. Thế nhưng, “nằm trong chăn mới biết chăn có rận”, hay không cũng chẳng phải là vấn đề ở đây. Vấn đề, là ở chỗ: “có nuôi con, mới biết lòng cha mẹ”, như các cụ nhà ta thường nói thế. Và lòng cha mẹ ở đây, phải chăng là lòng của một vị khác cũng đã có ý kiến rất phản hồi sau đây:

“Thật cũng dễ để ta có thể đứng từ góc cạnh từ bên kia thế giới mà đưa ra ý kiến liên quan đến vụ việc Anders Breivik thảm sát vào với hệ thống phúc lợi của đất miền xứ Scăng-đi-na-vi. Về cả chuyện ly dị và/hoặc chung sống không hôn thú có liên quan đến chỉ số tăng giảm về bạo động, ở Na Uy. Nghĩ cho cùng, tôi thấy nhiều người cũng hơi bị ngây thơ khi đề cập đến mấy vấn đề này. Bởi, ngay ở các nước có truyền thống Kitô giáo ở đó có rất nhiều gia đình vẫn còn đủ cha đủ mẹ, thế mà họ vẫn có quan niệm phân biệt “chúng mình với chúng nó”. Vẫn cứ sử dụng ngôn ngữ cực kỳ bạo động theo kiểu chính trị, để rồi lại cưu mang ảnh hình của một quốc gia rất nghiêm ngặt về chủng tộc; rồi còn chống đối xã hội nào chủ trương đa văn hoá, nữa. Và, cả những người từng tạo đất sỏi thật tốt, thật màu mở để dưỡng nuôi một thứ đầu óc méo mó, vặn vẹo như công dân Anders Breivikk. Nếu bạn thử biên dịch các tư tưởng như trên đây sang ngôn ngữ của những người cực đoan về tôn giáo hay chính trị đi, sẽ thông cảm cho một đất nước đang hứng chịu sự sầu buồn, mấy hôm nay…” (xem ý kiến một di dân đặt chân đến Na Uy www.dn.se/kultur-noje/debatt-essa/anne-hol...)

Quả là, “bá nhân bá tánh”. Dù, tánh ấy có “bá vơ thiên hạ”, không đem về một mối. Hoặc, tánh ấy khí ấy, có là tánh khí của một dân tộc từng trải và có nhiều năm văn hiến, với văn minh. Tánh khí của người ngoài với nhiều niên văn hiến, phải chăng là tánh và khí của “phản hồi nhân” sau đây?

“Phải công nhận rằng gia đình có ảnh hưởng rất lớn lên sự phát triển của mỗi cá nhân, con người. Nhưng, mỗi người lại tự đan kết LƯƠNG TÂM của chính mình. Tốt hay xấu, đều có ảnh hưởng lên chính mình. Tôi vẫn tự hỏi làm sao lương tâm của người thanh niên tên Breivik có bị ảnh hưởng (chứ không phải định đoạt) do điều kiện sống gia đình của anh không? Và, có phần nào do nền văn minh/văn hoá của Na Uy hay không nữa? Có một điều tôi biết rất chắc, là: hễ ai có lương tâm xấu xa hoặc dữ dằn, hoặc mất nó đi thì cũng giống như chiếc xe ôtô đang bị tay lái dầu và bố thắng không hoạt động cho đúng được nữa. Chiếc xe hoặc những con người bị như thế, chỉ làm hại người khác hơn giúp được ai.” (xem phản hồi của một người mang tên Arthur, trong bài viết)

Còn nhớ, có lần rất nhiều vị thường trích dẫn câu nói để đời rằng: “Gia đình là nền tảng của xã hội”. Câu nói này, nay có nên đảo lại rằng: “xã hội có ra sao thì gia đình mình mới nên như thế”? Hỏi gì thì hỏi. Quan niệm sao thì cứ quan và cứ niệm. Vẫn nên để tai lắng nghe tiếng nói của người xưa, thường rất quí.
Vế nhận định, lại có ý kiến của người ngoài cuộc, nhưng rất gần, từng phản hồi như sau:

“Vâng. Tôi hoàn toàn đồng thuận với tư tưởng làm nền của bài viết. Tuy nhiên, tôi vẫn nghĩ rằng: thật rất dễ cho xă hội mà người dân chỉ biết trả tiền thuế đóng góp vào hệ thống phúc lợi rồi thôi. Cứ việc nhắm mắt bưng tai, bỏ ngoài chuyện về những người đang chịu đau chịu khổ, vì cho rằng dù gì đi nữa, thì đã có hệ thống phúc lợi của xã hội cũng quan tâm đến họ, rồi. Thế nhưng, mỗi khi có chuyện xấu mà thời nay người ta có thói quen gọi là “sự cố”, thì lại hay đổ lỗi cho người khác. Cho, những người không phải là mình, hoặc không do thái độ “mũ ni che tai” của mình, cơ quan, chính phủ mình. Tôi đề nghị những người như thế nên đọc quan điểm được viết ở http://stockholmkicuties.wordpress.com/2011/07... (x. ý kiến của K. Cuties, cũng trên bài vừa trích ở trên)

Và, thêm một phản hồi khác, không tệ nhưng vẫn thế. Nghĩa là, vẫn nói lên cung cách nào đó rất tư riêng, trân quý:

“Tôi nghĩ, lập trường của người viết ở trên rất có lý, khi bà ta muốn gợi sự chú ý về một đóng góp khá tiêu cực từ “gia đình gãy đổ” của Breivi, như nữ tác giả chuyên bênh vực cho phong trào phụ nữ đòi quyền sống như Birbalsingh trong Luân Đôn Điện Báo được trích dẫn ở trên. Tuy nhiên, bà ta lại đưa ra những lời lẽ khá căm tức về người cha của phạm nhân mà lại không chịu kiểm chứng hoặc đã xác minh. Người cha nào và gia đình nào mà lại không thấy đây là một việc làm có chủ trương làm hạ phẩm giá được viết theo cung cách đầy công kích từ cây viết nữ chuyên chủ trương đòi nhiều quyền lợi cho nữ giới.” (xem www.fathersandfamilies.org/?p=17932)

Người xưa hay hôm nay vẫn kinh qua nhiều kinh nghiệm thương đau, ngậm ngùi, có rất nhiều “sợi buồn con nhện giăng mau”, mà không hát, cũng không ru. Không hay hát dù một lời ru: “Em ơi hãy ngủ! Anh hầu quạt đây!” Hoặc, có hát đấy, nhưng không ru cho ngủ, bằng lời ca hay viên đạn, để rồi quạt. Bởi, cứ ru và cứ quạt như thế, tự khắc sẽ thấy “ngậm ngùi”. Thương đau. “Xếp đôi (những) là rầu”. Cả một đời.
Nhận định thì như thế. Luận phiếm vẫn như vậy. Để rồi ra, ta sẽ hát thêm câu cuối, để suy nghĩ:

“Cây dài, bóng xế ngẩn ngơ.
Hồn em đà chín, mấy mùa buồn đau.
Tay anh, em hãy tựa đầu.
Cho anh nghe nặng, trái sầu rụng rơi!”
(Phạm Duy – bđd)

Hát gì thì hát. Suy nghĩ gì thì cứ suy và nghĩ. Hãy cứ nghĩ và suy, rồi hát lên những lời lẽ đầy nhủ khuyên của đấng bậc nhân hiền và lành thánh, từng căn dặn:

“Anh em thân mến,
biết trước như thế, anh em hãy coi chừng
kẻo bị những kẻ phạm pháp và lầm lạc lôi cuốn,
mà không còn đứng vững nữa chăng.
Nhưng anh em hãy lớn lên trong ân sủng
và trong sự hiểu biết Đức Giêsu Kitô
là Chúa và là Đấng Cứu Độ chúng ta.
Xin kính dâng Người vinh quang,
bây giờ và cho đến muôn đời. A-men.”
(2P 3: 17-18)

Amen hay không, lần này bần đạo xin thưa rằng: mỗi khi bàn định chuyện nghiêm trang, nghiêm chỉnh, và nghiêm túc, bần đạo vẫn tìm đến truyện kể để minh hoạ, hoặc thư giãn cho bớt phiền và muộn. Truyện kể hôm nay, không dễ nể, chỉ chớp nhoáng nỗi niềm buồn/vui rất thoáng qua. Xong rồi thôi. Truyện là để kể, như thế này:

“Trên chuyến bay đường dài, qua hai nước, viên phi công trưởng đã xem xét tình hình của chiếc máy đang bay rất ổn thoả, bắt đầu nói vài lời thông báo, ngay trên loa rằng:
-Thưa quý khách. Đây, phi công trưởng đang nói chuyện cùng quí khách đây. Chào mừng quí khách đáp chuyến bay hôm nay với phi hành đoàn. Thời tiết hôm nay rất tốt… Nên, chúng ta sẽ có một chuyến bay rất êm đềm. Thoải mái. Xin quí khách cứ ngồi uống mà thoải mái, thư giãn. Vui hưởng… Ấy chết! Không được! Chết tôi rồi, cô ơi!...
Sau vài giây im lặng. Rất hết hồn. Viên phi công trưởng lại tiếp tục nói trên loa:
-Thưa quí khách, tôi thành thật có lỗi nếu tôi đã lỡ làm quí kháchg lên ruột, vì sợ. Chả là, đang lúc tôi nói ở đây, có tiếp viên mang cho tôi ly cà phê cho tỉnh ngủ, nhưng loay hoay thế nào, cô lại để rớt ụp lên người tôi. Quí vị có thấy phía đằng trước quần của tôi mà có ướt thì cũng hiểu được lý do tại sao…
Ngay khi đó, có hành khách tự nhiên gào lên:
-Thấy cái quái gì đâu mà thấy. Cụ có giỏi thì tụt xuống phía dưới này mà xem thấy phía sau quần của tôi đây này…”

Truyện kể ở đây không mang tính giáo dục, cũng chẳng là phiếm luận chuyện Đạo hay phiếm loạn chuyện đời gì cho cam. Có phiếm, có kể, cũng chỉ để bạn để tôi, ta có vài phút mà suy tư về động thái hoặc trạng thái của người, và của mình. Khi xảy ra sự cố, rất kỹ thuật. Ở nhiều nơi.
Sự cố xảy đến ở đâu. Nơi nào. Vẫn xin bạn và xin tôi, ta cứ bình tĩnh mà luận và phiếm. Giống mọi hôm. Luận và phiếm, như có Chúa ở cạnh để giùm giúp, đỡ đần. Khi ta cần đến Ngài.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn trân trọng lập trường
những luận và phiếm
của mỗi người
trong đó có bạn mới thân
gần Hồ Lãng Bạc.

23. “Từ khi trăng là nguyệt”,
“Đèn thắp sáng trong tôi,
Từ khi trăng là nguyệt,
Em mang tim bối rối…”
(Trịnh Công Công Sơn – Nguyệt Ca)
(1P 4: 7-8)
    Trăng là nguyệt, hay nguyệt là trăng. Là chị Hằng, đều là một nỗi. Nỗi và niềm, có trăng luôn thắp sáng hoặc có nguyệt làm bối rối tim em mỗi tháng hay mỗi ngày vào nguyệt tận? Tức, tháng ngày chỉ leo lét ánh sáng đâu đó, cứ tưởng chị Hằng ghé thăm, thì cũng lầm. Lầm, như đêm 30 lại nghe có niềm vui đến từ lời ca của nghệ sĩ, một thời từng hát:

            “Từ khi trăng là nguyệt
            tôi như từng cánh diều vui,
            Từ khi em là nguyệt,
            trong tôi có những mặt trời.”
            (Trịnh Công Sơn – bđd)

    Chỉ mới hát, “Khi em là nguyệt” thôi, mà người nghệ sĩ đã như “có những mặt trời”. À thì ra, người người ở mọi thời, vẫn cần đến ánh sáng của nguyệt là trăng/trăng là nguyệt như của mặt trời, khiến chị Hằng thấy nguội lạnh, cần thắp sáng bằng ơn trên.
Bởi thế nên, dù có là ánh sáng của Ơn Trên, hay là mặt trời/mặt trăng rất chị Hằng như câu chuyện Mẹ Têrêsa thành Calcutta từng nhắc đến như sau:

    “Mẹ Têrêxa thành Calcutta đã thuật lại một sự kiện như sau:
Ở Úc, có thổ dân nọ giống giòng Aborigines từng sống trong hoàn cảnh thật đáng thương. Ông là đấng bậc cao niên, nhưng vẫn sống trong túp lều xiêu vẹo. Bắt đầu chuyện vãn với ông, tôi có nói:
-Để tôi dọn dẹp nhà cửa và sửa soạn giường chiếu cho ông.
      Ông trả lời cách hững hờ:
-Tôi quen sống vậy rồi, Bà đừng phiền.
    -Nhưng tôi nghĩ, ông sẽ cảm thấy dễ chịu hơn nếu nhà mình sạch sẽ, ngăn nắp, chứ?
Sau cùng, ông bằng lòng để tôi dọn dẹp lại cho ông. Khi quét dọn, tôi phát hiện ra cây đèn cũ tuy rất đẹp nhưng phủ đầy bụi bặm bồ hóng. Tôi mới hỏi:
    -Có khi nào ông thắp cây đèn này lên không?
    Ông trả lời rất cộc lốc:
-Thắp đèn để làm gì, nào ai thấy! Có ai bước vào nhà này bao giờ đâu mà thắp nó. Đã lâu, tôi vẫn quen sống như thế cũng chẳng cần thấy mặt mũi của người nào.
Tôi hỏi tiếp:
-Nếu nữ tu của tôi thường xuyên đến thăm ông, ông có vui lòng để họ thắp đèn không?
-Dĩ nhiên rồi. Ai mà chả vui lòng đón tiếp nhìn mặt các chị ấy chứ…
Từ ngày đó, các nữ tu quyết định mỗi chiều sẽ ghé thăm nhà ông. Và cũng từ đó, ông bắt đầu thắp đèn lên và dọn dẹp nhà cửa trông sạch sẽ hơn. Ông còn sống thêm hai năm nữa, mới qua đời. Trước khi chết, ông có nhờ các nữ tu về nhắn với tôi rằng: Xin nhắn với Mẹ Têrêxa, người bạn quý của tôi rằng: ngọn đèn mà Bà thắp lên trong đời tôi vẫn còn chiếu sáng đấy. Đó chỉ là một việc rất nhỏ Bà làm, nhưng trong bóng cô đơn đời tôi, ánh sáng hy vọng đã loé sáng đời của tôi, vào giờ cuối. Và nó sẽ còn tiếp tục loé sáng mãi, với mọi người.”

    Với vị nữ tu Bề Trên là Đấng thánh lập dòng, thì như thế. Với nghệ sĩ ở đời, thì như sau:

            “Từ đêm khuya, khi nắng sớm trong những cơn mưa,
            Từ bao la, em đã đến xua tan những nghi ngờ,
            Từ trăng xưa là nguyệt, lòng tôi có đôi khi,
            Tựa bông hoa vừa mọc, hân hoan giây xuống thế.
            Từ khi trăng là nguyệt, tôi nghe đời gõ nhịp ca,
            Từ khi em là nguyệt, cho tôi bóng mát thật là.”
            (Trịnh Công Sơn – bđd)

    Tựa “nắng sớm trong những cơn mưa”, “em đã xua tan những nghi ngờ.” Tựa “bông hoa vừa mọc”, em “cho bóng mát thật là”. Bông hoa ấy. Bóng mát nọ. Có là nguyệt? Là trăng? Để rồi, tôi và em sẽ lại hát thêm:

            “Từ khi trăng là nguyệt, vườn xưa lá xanh tươi,
            Đàn chim non lần hạt, cho câu kinh bước tới.
            Từ khi trăng là nguyệt, tôi nghe đời vỗ về tôi.
            Từ khi em là nguyệt, câu kinh đã bước vào đời.”
            (Trịnh Công Sơn – bđd)

    Chim non hôm nay, chưa kịp lọt lòng mẹ để “lần hạt”, “cho câu kinh bước tới”, lại cũng đã bị đời người và người đời tìm khai thác bóp nghẹt cả sự sống, từ trứng nước. Quả là ngày nay, người đời và đời người vẫn cứ bóp nghẹt và bóp chẹt sự sống của con người bằng nhiều cách. Có những cách vẫn nhân danh Khoa học và Sự sống, như lời hỏi của dân thường ở huyện Sydney, sau đây:

“Tôi có người bạn cũng là bà mẹ trẻ như tôi, vừa đưa ra câu hỏi về một vấn đề khá hóc búa. Bạn hỏi rằng: có hợp đạo lý chăng, khi con người tự hào là văn minh hôm nay lại đang khai thác các tế bào phôi nhi rút ra từ bào thai bị nạo phá để làm thuốc chủng ngừa các bệnh tật ở trẻ em. Phải chăng con người đang mạo danh khoa học để làm những việc tày trời, phản đạo đức? Điều này quá mới mẻ, đối với tôi. Vậy xin hỏi linh mục: giáo huấn của Hội thánh có đả động gì đến vấn đề này hay không? (Một người mẹ đang có thắc mắc rất thực xin ghi ơn)

    Cũng chẳng biết, câu hỏi có thật của bà mẹ trẻ ở Sydney hay không? Nhưng thôi, cứ có hỏi là tốt rồi. Bởi, hỏi hay không, đấng bậc nhà Đạo ở Sydney nay lại cũng làm cái công việc rất bình thường của nhà luân lý rất Đạo, để trả lời. Như sau:

“Cũng như chị, có nhiều bạn hiện vẫn không biết là trên thực tế, lâu nay một số thuốc chủng được chế biến từ các giây tế bào sống lấy từ mô động vật ở thai nhi bị nạo phá. Điều này chắc chắn dấy lên nhiều thắc mắc vấn nạn hỏi rằng việc sử dụng các thuốc chủng để chữa bệnh cho trẻ em có hợp đạo lý không?
Thật ra thì, Hội thánh lâu nay cũng đối đầu với nhiều thắc mắc cho rằng ta có thể sử dụng một cách hợp pháp các thuốc chủng như thế với một số điều kiện nào đó. Qui định về những gì được phép hoặc trái phép đã được Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin đề cập đến trong một số vấn đề về đạo đức sinh lý có liên quan đến Phẩm giá Con người, ban hành vào ngày 8/9/2008.
Giáo huấn của Thánh Bộ Giáo lý Đức tin đã phân định rõ thế nào là sử dụng “chất liệu sinh lý” lấy gốc từ các bào thai bị nạo phá được nghiên cứu gia và bậc cha mẹ dùng mà chủng ngừa cho trẻ em .
Theo tiêu chuẩn mà Thánh Bộ dùng để giáo huấn dân con trong Đạo có nhấn mạnh đến “bổn phận phải làm sao tránh hợp tác với ác thần sự dữ cũng như các hành động gây tai tiếng”(#32). Về hợp tác với ác thần/sự dữ, trường hợp này là sự dữ rất nghiêm trọng liên quan đến chuyện nạo phá thai nhi, tức có nối kếp hoặc hợp tác trực tiếp với sự dữ ngay lúc ấy. Trong khi đó, các nhà nghiên cứu chỉ sử dụng các chất liệu sinh lý lấy từ việc nạo phá thai nhi, cũng có thể là hợp tác hợp lực, nhưng ở mức độ rất nhỏ.
Dù sao đi nữa, các nhà nghiên cứu tuy không không dính phần trực tiếp vào chuyện nạo phá thai nhi, họ cũng không hưởng được lợi lộc gì từ việc sử dụng chất liệu lấy từ đó, mà chỉ ngầm hiểu là họ chấp thuận hành động nạo phá thái nhi, thôi. Giáo huấn của Thánh Bộ cũng dạy rằng “điều này “kéo theo mâu thuẫn trong thái độ của người từng quyết đoán là mình không dính dự gì đến chuyện chấp thuận việc bất chính do người khác làm. Nhưng, cùng lúc chấp thuận để cho công việc của chính mình được thành công nhận sử dụng “chất liệu sinh lý” mà người khác đạt được từ phương tiện bất chính như thế”. (#34)
Điều này xem ra, ngay từ đầu, đã bác bỏ việc các nhà nghiên cứu được phép sử dụng các chất liệu này để sản xuất thuốc chủng ngừa. Tuy nhiên, theo Lm John Flemming, trong cuốn “Giải thích Phẩm giá Con người” (Connor Court 2010) ông có viết rằng: “Trong trường hợp các mô được trữ lạnh một thời gian nào đó từ các lần nạo phá thai nhi trong quá khứ, thì cũng có thể được phép sử dụng chất liệu ấy vì tính cách nhỏ nhoi rất xa vời mà các nhà nghiên cứu dính dự vào hành động nạo phá thai nhi bất chính.” (tr. 70-71). Thật thế, các giây tế bào sử dụng để làm thuốc chủng ngừa, đặc biệt để ngừa bệnh đậu mùa, là lấy từ thai nhi bị nạo phá hơn 40 năm trước.
Thế, còn các bậc cha mẹ nào sử dụng thuốc chủng ngừa lấy từ chất liệu này, thì sao? Rõ ràng là, việc cha mẹ hợp tác vào việc nạo phá thai nhi như thế cũng rất nhỏ nhoi/xa vời, với điều kiện là các bậc cha mẹ phải chống đối lại tính cách vô luân của nạo phá thai. Do đó, theo tiêu chuẩn thông thường về chuyện hợp tác với ác thần sự dữ, nếu như việc hợp tác là nhỏ nhoi/xa vời và đương sự chống đối sự dữ ngay tận gốc –tức, việc hợp tác chỉ mang tính chất liệu chứ không công khai- các vị này có thể hợp lực với điều kiện có lý do thật xứng hợp để biện minh.                   
Trường hợp này, có nghĩa là: nhu cầu chủng ngừa cho con trẻ khỏi bị các bệnh có tiềm năng gây nguy cơ cho tính mạng của các em, thì có thể biện minh cho việc sử dụng thuốc chủng làm từ các thai nhi bị nạo phá, nếu như không có sẵn thuốc chủng nào khác hiệu nghiệm. Theo ngôn từ của giáo huấn do Thánh Bộ đưa ra, thì: ”Các lý do nghiêm túc khả dĩ tương xứng về luân lý đạo đức có thể biện minh cho việc sử dụng các “chất liệu sinh lý” như thế. Thành ra, lấy ví dụ như: vì có nguy hiểm đến tính mạng của trẻ bé, thì có thể cho phép bậc cha mẹ sử dụng thuốc chủng ngừa được phát huy từ các giây tế bào có nguồn gốc trái phép, nhưng vẫn phải luôn phải giữ trong đầu để hiểu rõ là ai cũng có bổn phận phải tỏ cho mọi người biết là mình đả phá chuyện nạo thai và cũng đã yêu cầu hệ thống ytế sản xuất các loại thuốc chủng nào khác để sử dụng cho công minh chính trực.” (#34)
Dù mình có thể sử dụng các loại thuốc chủng như thế, các bậc cha mẹ cũng phải nói cho bác sĩ hoặc hãng bảo hiểm y tế của mình biết là mình những muốn chọn thuốc chủng nào không lấy từ thai nhi bị nạo phá trước đó.
Cha mẹ nào không để cho con cái mình được chủng ngừa vì lý do luân lý/đạo đức như thế hoặc vì sợ nguy hiểm đến tính mạng của trẻ do chính thuốc chủng ấy tạo ra, thì các vị này cũng nên biết rằng nguy cơ tử vong về sau do không chủng ngừa, có thể còn cao hơn là không cho chủng. Chí ít, là con em mình có thể tạo lây lan bệnh ngặt nghèo qua các trẻ em hoặc người lớn khác vì quyết định không cho con mình chủng ngừa, cũng rất lớn.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly, 8/5/2011, tr. 12)

    Nói như đấng bậc nhà Đạo ở trên, là như ngồi trên cao mà nói xuống. Tức, nói về giáo huấn của nhà Đạo xuống cho người khác biết thi hành, cho đúng luật. Hay còn gọi, là nói theo cách lý luận về luận lý cũng như luân lý, và giáo luật. Rất khó hiểu. Với dân gian. Nói như dân gian ngoài đời, có thơ và có nhạc, như người nghệ sĩ trích dẫn ở trên có lần cũng có nói bằng tiếng hát, rất như sau:

            “Từ trăng thôi là nguyệt, là trăng với bao la.          
             Từ trăng kia vừa mọc, trong tôi không trí nhớ.
            Từ trăng thôi là nguyệt, hôm nao chợt có lời thưa,
            Rằng em thôi là nguyệt, tôi như đứa bé dại khờ.”
            (Trịng Công Sơn – bđd)

    “Như bé dại khờ”, cũng có thể vì tôi đây bần đạo là người “đi” Đạo, nhưng rất “bần cùng”. Bần thần. Bần đạo, tựa như “bé dại khờ”, nên chẳng dám “có lời thưa” hôm nào khi chợt thấy “trăng thôi là nguyệt”. Thấy, “trăng kia vừa mọc”, đã khiến “trong tôi không trí nhớ”. Nên rất hay quên. Hay quên, đến độ chỉ nhớ đôi truyện kể của em nhỏ, như truyện dưới:   

            Truyện rằng,
            Bé em vì dại khờ, nên hay thắc mắc. Thắc mắc, cả chuyện rắc rối sau đây:
-Mẹ à, Dì Tám “nhiều chuyện” nói với con rằng: sở dĩ Ba mẹ sanh ra con là do “ắc-xi-đăng”, muốn đi bệnh viện để tống khứ, nhưng sợ tội. Thế nên, sau này con lớn khôn có làm gì cũng phải cẩn thận… Dì còn nói nhiều chuyện lắm, nhưng “ắc-xi-đăng” là gì hả mẹ?
-Là, “đụng chuyện” dễ vỡ bể.
-Đụng chuyện là đụng thế nào? Và, vỡ bể là vỡ cái gì vậy mẹ?
-Là vỡ kế hoạch nên đành chịu. Cũng như người bị “ắc-xi-đăng”, lỡ bể đồ rồi đành chịu thôi.
-À thì ra, tại vì ba mẹ “đụng chuyện” nên nay con mới bị rầy là hay “nhiều chuyện”, có phải vậy không?...

    Chưa hẳn là như vậy. Nhiều lúc, thiên hạ dù vẫn “đụng chuyện”, toàn những chuyện không chắc là do “ắc-xi-đăng” gây “vỡ bể”, cũng đâu thành “nhiều chuyện”. Đôi lúc, do có “nhiều chuyện” nên mới thành chuyện. Thành câu chuyện, nên người người mới chịu tìm để hiểu, và nghĩ suy. Nghĩ và suy, như suy về lời khuyên của thánh nhân xưa được coi như Lời của Chúa. Lời ấy, dẫy đầy trong Kinh Sách. Nay, trích dẫn đôi lời để rồi “thành chuyện” ta đề cập, làm kết cục bài phiếm khô khan. Cô đọng. Gây nhức nhối:
     
            “Tiên vàn mọi sự,
hãy có lòng yêu mến nhau khắng khít,
vì đức mến phủ lấp vô vàn tội lỗi…
Mỗi người tuỳ theo ân lộc đã được,
hãy lợi dụng mà phục vụ nhau,
như người quản lý giỏi giang về ân sủng muôn hình vạn trạng của Thiên Chúa.
Ai nói, (hãy nói) như Lời của Thiên Chúa;
ai phục vụ (hãy phục vụ) như do mãnh lực Thiên Chúa cấp cho,
ngõ hầu trong mọi sự, Thiên Chúa được tôn vinh, nhờ Đức Yêsu Kitô.”
(1P 4: 8-11)

    Cuối cùng, chuyện sống Đạo ở đời, không chỉ để phiếm mà thôi. Nhưng còn để, nhân lúc phiếm, bạn và tôi, ta nhớ mà sống cho đúng tinh thần yêu thương và phục vụ, của Hội thánh.

    Trần Ngọc Mười Hai
    Vẫn thường tự kỷ ám thị
    những lập trường
    ra như thế.  

24. “Lời Mẹ ru con đến những khu vườn,”
“Ru con trưa nắng (í a) trong mộng, cười ngon.
Ru mộng con thơm, lời Mẹ ru con nghe ra nỗi niềm.
Ru con nghiêng nằm con ngủ giấc tròn, cho mẹ ngồi trông..”
(Trịnh Công Sơn – Lời Mẹ ru)
(Rm 3: 8)
    Có lẽ cũng phải nói ngay ở đây rằng: ru cho con ngủ, vẫn cứ là chức năng của người mẹ. Và hơn nữa, ru con ngủ đến độ “con ngủ giấc tròn, cho mẹ ngồi trông…” thì chừng như, đó vẫn là đặc trưng/đặc thù riêng của mẹ Việt Nam, mà thôi. Phải thế không bạn? Phải thế không tôi? 
    Thật ra thì, với tác giả họ Trịnh, lời Mẹ Việt Nam ru, còn mang nhiều ý nghĩa khác nữa như:

“Thuở mẹ ru, mẹ ru con ngủ,
Con ngủ trên mây, con ngủ trên mây
Tiếng khóc ban đầu, ban đầu
còn đau, còn đau, còn đau…”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

    Thật sự thì, tiếng “khóc ban đầu, ban đầu”, “còn đau, còn đau”, chắc gì là tiếng của con trẻ, mà có khi còn là tiếng của bà mẹ nữa, chứ không chừng. Như truyện kể, ở ngay dưới:

                “Có chú bé con, cứ lon ton chạy đến bên mẹ rồi lại hỏi:
                -Mẹ ơi, sao mẹ lại cứ khóc hoài khóc mãi thế hả mẹ?
                -Tại vì… ừ, tại vì Mẹ là phụ nữ.
-Con vẫn chưa hiểu ý Mẹ muốn nói gì. Là phụ nữ, sao mẹ lại cứ phải khóc như thế?
-Mẹ có nói nhiều, thì con cũng chẳng bao giờ hiểu được điều ấy đâu. Sự đời là thế đó…
Thời gian trôi nhanh. Người con dấu yêu vẫn không tìm ra được câu giải đáp, chú bé lại lon ton đến hỏi bố:
                -Bố ơi, sao mẹ lại hay khóc thế hả bố?
                -Phụ nữ là thế đấy con à. Khóc, là bản chất của phụ nữ mà!
Chú bé con nay lớn dần thành trai tráng, còn rất trẻ. Dù thế, chú vẫn hỏi mình và hỏi người: sao phụ nữ, lại cứ phải khóc nhỉ?
Cuối cùng, thì người trai trẻ chạy đến bèn nhà hiền triết, rất kinh nghiệm, thì được vị ấy cho biết: “Khi xưa Thượng Đế tạo nên đàn bà, Ngài đã ban cho họ nhiều cung cách đặc biệt, khác hẳn nam nhân. Ở đôi vai, Ngài ban cho họ đủ sức cứng cát, để họ có thể đùm bọc cả và thế giới. Với đôi tay, Ngài tạo cho họ đôi tay mềm mại tươi mát để, họ vỗ về nhiều yêu thương. Nơi tâm can, Ngài còn ban cho họ sức mạnh tiềm ẩn, cộng thêm lòng kiên nhẫn vượt mức chịu đựng, để các bà có thể cưu mang dỗ dành cả đàn con đông đảo. Ngài cũng phú ban cho họ lòng dũng cảm khó sánh vì, để họ có thể chăm lo nuôi nấng gia đình nhỏ dù cũng rất khó.
Khó đây là ở chỗ: họ có thể đùm bọc và phục vụ bạn bè/người thân cả khi người đó có xuôi tay, ngã gục. Có điều tuyệt vời hơn nữa, là: dù nhọc nhằn, mệt mỏi mấy đi nữa, các bà các cô vẫn chẳng khi nào hé miệng để vãn than, nỗi nhục nhằn. Thượng Đế lại cũng ban cho người phụ nữ phụ một tình cảm tươi mát, dễ chịu để các bà có thể thương yêu đàn con đông đảo, ở mọi nơi, suốt đời cả vào lúc đàn con lớn nhỏ cứ hè nhau làm mẹ mình đau khổ.Thượng Đế vẫn ban cho các bà một sức mạnh vô song, để còn nâng đỡ chồng chỏi mọi khuất tất, mỗi khi người chồng của mình vấp ngã. Làm như thế, Thượng Đế tạo dựng phụ nữ từ xương thịt của người nam để bảo vệ con tim của họ.
Không những thế, Ngài còn ban cho các bà tính khôn ngoan, sáng suốt để biết rằng: người chồng tốt, là nguời chẳng bao giờ làm tổn thương danh dự phụ nữ. Không khi nào phụ rẫy vợ mình. Có thế, người người mới thông hiểu được sức chịu đựng vô song, của bất kỳ người nữ nào khác. Chỉ phụ nữ, mới có thể đứng cạnh và đứng sau chồng mình, tạo thuận lợi cho chồng thành công. Nhằm giúp tất cả nữ phụ hoàn thành chức năng, Ngài trao phó, Thượng Đế lại đã ban thêm cho phụ nữ nguồn nước mắt dôi dào, dễ rơi trào. Thế nên, mỗi khi ta thấy người phụ nữ khóc, hãy đem bình an đến với họ, tự thâm tâm. Hãy trân trọng giọt “nước mắt ngà, của phụ nữ…”

    Khóc, vào khi ru con ngủ, các bà mẹ đều có thể khóc bằng tiếng ru vời vợi, như ở dưới:

“Lời mẹ ru đêm vắng ngón tay hồng
Ru con khôn lớn ( .í... ... a) con Rồng
Rồng Tiên con ngủ cho yên.
Một đời ru con nên mắt ưu phiền
đôi khi cũng ưu phiền con ngủ giấc hiền
Mưa nhỏ ngoài đêm lá đổ ngoài sân
Lá đổ ngoài sân để ru mẹ ngủ…”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Khóc, khi nhớ con, mẹ nào mà chẳng khóc bằng nuớc mắt, cũng rất thật. Chí ít, là khi, người mẹ để mất đi đứa con, chưa gặp mặt. Hoặc, khi lòng mình nhiều hối hận, hơn một lần trót dại nghe xúi dại. Và, cứ tưởng Đạo mình sẽ dễ dãi, cũng bỏ qua.
Khóc, nhiều khi, không chỉ là chức năng của riêng người mẹ. Mà là, cung cách diễn tả nỗi niềm chua cay, nghẹn ngào, khó bộc lộ. Khóc, có lúc, là hối hận triền miên, do sai sót nên không nắm rõ tình tiết luật lệ, ở Đạo Chúa. Như, câu hỏi của độc giả nọ gửi về ban biên tập báo The Catholic Weekly ở Sydney, với lời lẽ đơn sơ. Thật thà. Và dễ cảm thông như sau:

“Tôi lấy làm lạ, sao có một số báo Công giáo lại cứ cho rằng: việc nạo giết thai nhi, theo luân lý, chẳng bao giờ được cho phép làm thế, trừ khi sự sống của người mẹ có nguy cơ không cứu nổi, nếu sanh con. Nay, xin mạn phép hỏi linh mục rằng: quyết đoán như thế có đúng không? Trường hợp này là thế nào? (Một giáo dân)

    Với đức thày nhà Đạo ở Sydney vốn rất nghe quen và chuyên trị về thần học/giáo luật, thì câu hỏi đây, tuy đầy thắc mắc, nhưng cũng dễ. Dễ, là vì xưa nay có bao giờ Hội thánh lại ung dung cho phép những chuyện như thế xảy ra đâu. Thế nên, lời bàn của Đức thày, ở đây, vẫn thế này:

“Ông bạn ngạc nhiên là phải. Bởi, có khi nào chuyện nạo phá thai lại được cho phép thực hiện cách dễ dàng như thế đâu. Cả khi sự sống của người mẹ khó có cơ cứu vãn nữa. Nhưng, hãy để tôi có đôi lời giải thích, cho minh bạch. Ngọn ngành.
Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã đề cập rất dài về vấn đề này, trong tông thư có tựa đề là Evangelium Vitae (tức “Lời Sự Sống”) ban hành năm 1995. Nhận thấy có sự mù mờ dễ lẫn llộn trong đầu óc của rất nhiều người về định nghĩa thế nào là phá thai, Chân Phước Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã định nghĩa rất rõ như sau: “Nạo phá thai có suy tính đơn giản vẫn là hành động giết người, cách trực tiếp/có cân nhắc, dù dưới hình thức nào cũng thế. Giết người, ngay giai đoạn đầu bản thể vừa hiện hữu, cho đến khi cưu mang và sinh đẻ.” (x. Tông thư Phúc Âm của Sự Sống #58)        
Sau khi tóm tắt các luận cứ từ luật tự nhiên, ngang qua Kinh thánh, Truyền thống và Giáo huấn của Hội thánh, Chân Phuớc Gioan Phaolô II đã khẳng định với quyền uy đầy đủ của vị Giáo hoàng đương đại bằng ngôn từ không mờ tối, ngài còn nói rất rõ: Hội thánh nghiêm cấm việc phá thai, như sau: “Với quyền uy được Chúa ủy thác cho thánh Phêrô và các vị kế nhiệm của ngài cùng hiệp thông với các Giám mục –là các vị từng lên án việc phá thai trong nhiều trường hợp có hội ý cẩn trọng được lan truyền nhiều nơi trên thế giới, các vị đã đồng chấp thuận về tín lý này-  Tôi tuyên bố rằng việc trực tiếp phá thai, là việc nạo giết thai nhi có ý thức coi đó như mục đích hoặc phương tiện, cốt tạo sự bất ổn nặng về luân lý, bởi đây là hành động giết người có chủ tâm. Rõ ràng là, giết chết đi hữu thể vô tội.” (x. Tông thư Lời của Sự Sống #62)
Và Chân Phước Gioan Phaolô II cũng lặp lại lời khẳng định rằng giáo huấn này không luật trừ: “Không một ai, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, bằng vào bất cứ mục đích gì, ngang qua luật pháp gì lại có thể biến hành động tự nó đã phi pháp, lại trở thành hợp lệ được. Bởi, điều ấy nghịch với Luật của Chúa viết trong tâm khảm mỗi người, được chính lý trí của mình dạy cho mình biết, và cũng được Hội thánh công bố, cách minh nhiên.” (x.Tông Thư Lời Sự Sống như đã dẫn #62)
Qua Giáo huấn không sai sót này, rõ ràng việc nạo giết thai nhi chẳng bao giờ được biện minh, cho phải lẽ. Dù, có để cứu vớt sự sống của người mẹ, đi chăng nữa. Cũng không thể chấp nhận được. Chính Đức Chân Phước Gioan Phaolô II từng nói rõ: “Không hoàn cảnh nào. Cũng chẳng vì mục đích gì hết…” lại có thể biến việc nạo giết thai nhi thành hành động hợp lệ, được hết. Dù cho có sử dụng việc đó như cái cớ để cứu vớt sự sống của người mẹ, nữa.
Nói khác đi, việc này cũng đơn giản như sử dụng nguyên tắc ai cũng biết là cứu cánh biện minh cho phương tiện được. (x. Rm 3: 8). Trực tiếp nạo giết thai nhi, vốn là hành động bất hợp pháp dù để cứu lấy sự sống của chính mình.
Thánh nữ Gianna Beretha Molla còn chỉ dẫn nhiều điều về vấn đề này. Là một bác sĩ khoa nhi người Ý có ba con rất kinh nghiệm về sinh sản, thánh nữ lại được chẩn đoán là ngay vào tháng thứ hai bào thai em bé có xơ bướu ở tử cung. Bác sĩ đề nghị bà hoặc nạo phá, bào thai hoặc cắt khối u độc ấy mới tránh được mọi rắc rối về sau. Bà bèn chọn giải pháp sau. Quyết tâm cứu thai nhi, bằng mọi giá. Cũng may, là vụ giải phẫu thành công cứu được thai nhi dù nguy hiểm cho tính mạng của người mẹ. Và 7 tháng sau, khi phải quyết định, một là sự sống của chính mình hoặc của đứa con, thì bà nói với bác sĩ giải phẫu rằng: “Nếu các ngài phải quyết định chọn lựa chính tôi hoặc đứa bé, thì hãy cứ chọn đứa trẻ, đừng do dự. Tôi nhắc lại, hãy cứu em bé.”
Vào tảng sáng ngày 21/4/1962, Gianna sinh con gái bèn đặt tên cho bé là Gianna Emanuela. Và, bác sĩ làm đủ mọi cũng không cứu sống được cả mẹ lẫn con, nên một tuần lễ sau đó, tức ngày 28/4/1962, trong cơn đau đến cùng cực, bà đã kêu tên cực trọng mà rằng: “Lạy Đức Giêsu, con yêu Chúa hết lòng. Lạy Đức Giêsu, con yêu Chúa hết lòng hết linh hồn con. Con phú hồn con trong tay Chúa.” Và, bà đã trút hơi thở cuối cùng, ngay sau đó. Hưởng dương 39 tuổi. Và, chính Chân Phước Gioan Phaolô II là người đã phong thánh cho Gianna Beretta Molla vào ngày 16/5/2004.
Trong đời mình, thánh nữ Gianna Beretta Molla đã sống đích thực lời dạy của Hội thánh trong việc bảo vệ sự sống của thai nhi, hy sinh chính cuộc đời mình hơn là giết chết chính con mình. Có lần thánh nữ từng quả quyết: “Với tư cách là y sĩ, không ai được phép can thiệp vào sự việc này. Quyền của con trẻ có ngang bằng quyền của người mẹ, phải được sống. Không một y sĩ nào lại có quyền quyết định những việc như thế. Giết bào thai trong bụng mẹ, tức là mang tội tày trời, với nhân thế.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly  20/11/2008, tr. 10)

    Tội tày trời, bao giờ chẳng là thế. Chí ít, là theo luật Đạo. Luật tự nhiên. Luật của lương tâm. Trách nhiệm. Có nhân quyền. Người nhà Đạo, không có gì phải chối cãi. Không giống như người đời, ở ngoài đời, vẫn cứ ru ời ợi, nhưng lời ru còn vang vọng rất nhiều đời. Nhiều kiếp người, như sau:

                    “Lời mẹ ru như tiếng hát trên trời
ru con ru mãi (i...i... a...)
Nên người mẹ vui
Ru bạc tóc thôi
Đời mẹ ru con mây kia cũng buồn
Nên mây xa đường trần
con ngủ giấc hồng
cho mẹ tròn lưng

“Thuở mẹ ru
mẹ ru con ngủ
Con ngủ trên mây
con ngủ trên mây
Tiếng khóc ban đầu
ban đầu
còn đau
còn đau
còn đau…”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

    Cũng một lời lẽ rất tương tự, thánh nhân nhà Đạo vẫn ru dân con trong Giáo hội, để rồi hỏi:

                    "Sao ta không cứ làm điều dữ đi,
để nhờ đó mà được điều lành? "
như có những kẻ vu cho chúng tôi
nói câu đó.
Họ có bị kết tội cũng là đích đáng.”
(Rm 3: 8)

    Cũng trong tình huống rất “ru ời ợi”, thánh nhân còn khẳng định thêm:

                    “Người Do-thái chúng tôi có hơn gì người khác không?
Không hơn gì cả!
Quả thế, chúng ta đã chứng minh rằng
mọi người, Do-thái cũng như Hy-lạp đều bị tội lỗi thống trị.
Như có lời chép rằng:
Không ai là người công chính,
dẫu một người cũng không;
chẳng ai có lương tri,
chẳng ai kiếm tìm Thiên Chúa.
Người người đã lìa xa chính lộ,
chỉ biết theo nhau làm chuyện suy đồi;
chẳng có một ai làm điều thiện,
dẫu một người cũng không.”
(Rm 3: 9-12)

        “Chẳng một ai làm điều thiện”. Phải chăng đó là một nhận định, về cách hành sử của người đời. Xưa cũng như nay. Một hành xử, nhìn theo nhãn giới của nghệ sĩ ở đời, sẽ như sau:

“Rồi một mai con đã lớn khôn rồi
con thôi thơ ấu (... ...a)
Mẹ rời thật mau
Mẹ rời chiêm bao
Đời mẹ ru con bao lâu mỏi mòn
Nên lâu cũng mỏi mòn
Bây giờ mẹ nằm
Lá đổ ngoài sân..”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

        Hẳn bạn cũng như tôi, sống ở đời, chẳng dám quyết đoán những lời như thế. Bản thân tôi, đâu là người lành thánh, nên càng không dám nói. Và, cũng chẳng dám ru. Lâu lâu, giỏi lắm cũng chỉ dám quay về với chuyện vui người đời kể lể, mà nhận ra được chân lý nào đó. Chí ít, là thứ chấn (tình rất có) lý, của cuộc đời, ở phía chân trời nào đó, có những truyện kể rất ngắn để suy tư, như câu truyện ở bên dưới, rất ư là ngắn. Không khó hiểu. Dễ lựa chọn:

                “Truyện rằng:
Ở ngoài toà hôm ấy, vị quan toà chất vấn bị can, bằng ngôn ngữ không mấy khó hiểu, như câu hỏi:
                -Có phải bà là vợ của nạn nhân không?
                -Chính là thế, thưa toà.
                Thế tại sao bà lại dính vào chuyện thúc ép ông nhà tự vẫn?
-Không phải thế đâu, thưa Toà. Tôi nói nhỏ với ông ấy có vài câu rất đơn giản, răng: “Này, tôi bảo cho mà biết: đừng có hòng mà tính chuyện ly hôn với chẳng ly dị. Giữa tôi và đầu xe lửa, ông cứ việc chọn”. Và thế là ông ấy chọn cái đầu tầu khỉ gió kia, đấy chứ…”

        Vâng. Chính thế. Rút cuộc một đời, chuyện gì cũng chỉ là lựa chọn. Lựa chọn sự sống, của riêng mình, hay của ai đó. Chí ít, là con mình dù còn ở trạng thái thai nhi. Chọn ai và chọn gì cũng đều kéo theo một hậu quả. Có khi là sơ xuất, đến chết người. Cuối cùng, cuộc sống nhà Đạo cũng thế. Tức, cũng tùy vào lựa chọn của mỗi người. Bởi thế nên, vấn đề đặt ra hôm nay, chính là: Tôi sẽ chọn thứ gì đây. Niềm vui. Sống ích kỷ. Hay, huấn truyền cùng Lời Vàng của Hội thánh, rất Kitô? Câu trả lời xin dành cho tôi. Cho bạn. Cho mọi người.

        Trần Ngọc Mười Hai
        Chỉ dám chọn cho mình,
một quyết định
liên can đến chính mình mà thôi.
Chẳng dám khuyên,
cũng chẳng chọn
giùm ai.
Bao giờ..


25. “Tình có ghi lên đôi môi,”
“Sầu có phai nhoà cuộc đời
Người vẫn thương yêu loài người
và yên vui cuộc sống vui.
Đời êm như tiếng hát của lứa đôi ...”.
(Cung Tiến – Hương Xưa)
(Mt 5: 44)
    Phải thế không, lời em hát vẫn là quyết tâm, khi anh bảo: “Người vẫn yêu thương loài người”, và “đời êm như tiếng hát của lứa đôi”? Tiếng hát của lứa đôi, hay của những trai tài gái sắc nào đó, có chăng chỉ là: hát rồi lại quên? Nào nhớ chi đâu loài người, mà ân với ái? Yêu với thương?
    “Người vẫn thương yêu loài người”, “và yên vui cuộc sống vui”, hỏi rằng: đó có là thực tế ở đời, hay không đấy? Thực tế đời thường, vẫn có chuyện vui như đoạn tiếu lâm bần đạo vừa bắt gặp, ở đâu đó. Rất “huề vốn”. Rất mặn/nhạt, như được truyền tụng ở bên dưới:

“Tục truyền rằng, thời trước các cụ thường bảo: “chém cha không bằng pha tiếng”.
Thời nay, có bạn lại nói: pha tiếng, đâu nào để chém mấy ông cha, và cụ cố! Mà, dù có chém cha hay chém cố, thì người chém cũng chỉ để mua vui cuộc đời, mà thôi. Chứ, có chết thằng Tây con nào đâu chứ. Quyết là như thế, nay ta theo dõi câu chuyện pha tiếng rất “nẫu” mình, như sau:

Hôm ấy, có chàng trai trẻ thấy đời đáng chán, bèn đi một vòng “thăm dân cho biết sự tình”. Thăm đâu không thăm, lại ghé quán xá chiều hôm, ở kinh làng có “cà phê dê ngỗng” để “lai rai hai ba sợi”, cho vui đời. Chợt nghe cô chủ nói giọng “nẫu” mình, chàng bèn lân la hỏi chuyện bằng dăm ba câu rất vắn, chỉ để nói:
-Chắc em mới đến đây nhận việc?
-Dạ!
-Em tên gì thế?
-Dạ, Tém (Tám).
-Công việc có nhàn hạ lắm không?
-Dạ nhàn!
-Em có số điện thoại đây không? Anh hỏi, là vì có nhỏ em muốn rút kinh nghiệm làm
 việc ấy mà! Số của em là mấy thế?
-Dạ, Hơ ba bữa tém tém một bữa (=237 8817) 
-Không. Anh chỉ muốn biết số điện thoại thôi, chứ không xen vào chuyện đời tư đâu.
-Dạ, em biết!

Ít hôm sau, có dịp trở lại quán, khách hỏi thêm:
-Số em cho, sao gọi hoài không được?
-Dạ, em có số mới “rầu” (=rồi).
-Số mấy dzậy?
-Tém hơi, tém hơi tém hơi không? (=8282 820)
-Không! Anh không thích mấy chuyện tắm với rửa, lăng nhăng thế đâu!
-Cũng không sao!

Ít lâu sau, lại có dịp gặp cô chủ, chàng trai lại trách móc:
-Số em gọi mãi cũng không xong. Thế nghĩa là làm sao?
-Em qua số khác nữa “rầu”! Số mới là: nem xéo bữa hông tắm hông tắm (=567 0808)
-Trời đất! Cái gì mà cứ tắm với táp hoài vậy? Thôi. Anh đành chịu!!!

    Thật cũng ngộ. Đời người, dù có tắm hay không tắm, đâu thành chuyện. Chuyện “êm vui, như tiếng hát của lứa đôi”. Là, nỗi nhớ người nghệ sĩ xưa cứ hát:

        “Người ơi, còn nhớ mãi trưa nào thời nào vàng bướm lên ao.
        Người ơi, còn nghe mãi tiếng ru êm êm buồn trong ca dao.
        Còn đó, tiếng khung quay tơ,
        Còn đó, con diều vật vờ,
Còn đó, nói bao nhiêu lời thương yêu cho đến kiếp nào cho vừa.”
(Cung Tiến – bđd)

    Vâng. Quả có thế. Nghệ sĩ ở đời “nhớ mãi”, “yêu hoài”, vẫn là nỗi nhớ/niềm yêu như nghe mãi “tiếng ru êm êm”. Của, những khung tơ. Con diều vật vờ. Của, những lời yêu muôn kiếp, ở đời. Vẫn khôn nguôi. Với nhà Đạo, cũng thế. Nhớ và yêu hoài và yêu mãi, vẫn là nỗi nhớ/niềm yêu thương hạnh phúc, Chúa ban. Ngài vẫn ban, dù ta có gặp lửa thử thách hay sao đó, như thánh Phêrô dặn: 

        “Anh em đang bị lửa thử thách:
đừng ngạc nhiên mà coi đó như một cái gì khác thường
xảy đến cho anh em.
Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu,
anh em hãy vui mừng bấy nhiêu,
để khi vinh quang Người tỏ hiện,
anh em cùng được vui mừng hoan hỷ.”
(1Phêrô 4: 12-14)

    Cùng được “Vui mừng hoan hỷ” khi gặp “thử thách”, khác nào lời nghệ sĩ xưa vẫn hát:

“Người ơi, môt chiều nắng tơ vàng hiền hòa hồn có mơ xa?
Người ơi, đường xa lắm con đường về làng dìu mấy thuyền đò
Còn đó, tiếng tre êm ru?
Còn đó, bóng đa hẹn hò?
Còn đó, những đêm sao mờ
hồn ta mênh mông nghe sáo vi vu?
(Cung Tiến – bđd)

    Thử thách. Hỷ hoan, còn là kinh nghiệm ở đời thường, mà bạn và có tôi, ta vẫn gặp. Kinh nghiệm, là kinh qua và cảm nghiệm về những gì xảy đến với ta qua cung cách nhận ra được những điều khó hiểu trong thi ca/âm nhạc, như ý/lời gặp ở dưới:

        “Ôi, những đêm dài hồn vẫn mơ hoài một kiếp xa xôi.
        Buồn sớm đưa chân cuộc đời,
lời Đuờng Thi nghe vẫn rền trong sương mưa
dù có bao giờ lắng men đợi chờ…”
(Cung Tiến – bđd)

Đời người cũng thế. Bao giờ mà chả có “những đêm dài, hồn vẫn mơ hoài”! Mơ về “Lời Đường Thi trong mưa”, nói với đời. Cho người. Mơ, là “mơ hoài một kiếp xa xôi” ở nơi đó, có “lời Đường Thi nghe vẫn (cứ) rền trong sương mưa”. Vẫn “lắng men đợi chờ” tưởng chừng như không dứt. Vẫn lắng men đợi chờ lời thơ kia thành hiện thực. Với người. Với mình.
Đời nhà Đạo, cũng vậy! Bao giờ cũng có cảnh Lời Thầy dạy vẫn cứ “rền vang trong mưa”. Đợi chờ. Mà, dân con Đức Chúa nào đã biết đưa vào hiện thực, ngay lập tức! Gia dĩ có làm thế đi nữa, nhưng sao vẫn thấy gượng gạo. Miễn cưỡng. Khó khăn. Chứ đâu ngọt ngào như lời mình đoan quyết trong Tiệc Thánh, có Chúa hiện diện. Đoan quyết chăng, vẫn là những lời cam đoan rất quyết tâm với mỗi người. Và mọi người. Để rồi, khiến nhiều người cứ hình dung nhận định: lối sống của người nhà Đạo, nào khác gì động thái của chính khách, ở nghị trường!
Thực tế cho thấy: sống và làm theo kiểu chính khách ở nghị trường, các nhà hùng biện thường chỉ nói một đằng, làm một nẻo. Bàn dân nghe không sót. Theo không kịp. Ở nhà Đạo, dân con Đạo Chúa nghe Thầy dạy, vẫn quyết tâm sống vui và sống đẹp, mà thực hiện Lời Thầy bảo ban. Dù, Lời ấy thấy rất khó. Tưởng chừng như có cái gì đó nghịch ngạo đời thường. Như Lời dưới đây: 

“Thầy bảo với anh em:
hãy yêu kẻ thù
và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.
Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em,
Đấng ngự trên trời…”
(Mt 5: 44)

“Yêu thương kẻ thù” là một trong những đòi hỏi gắt gao. Cao quý. Người người đều muốn thực hiện. Thông thường, khi nói “yêu thương kẻ thù” ta hiểu ngay đây là lệnh truyền ít nghe thấy. Nếu không muốn nói là nghịch ngạo. Nghịch thường. Thật ít thấy.
Yêu thương kẻ thù, có là yêu mến những người từng khiến ta đau buồn. Tổn hại? Tức, những người chẳng ưa gì ta. Hoặc là, những người mà ta cũng chẳng ưa gì họ. Có thể, đó là người từng đối xử với ta không được lịch lãm và cũng chẳng tốt đẹp. Đây mới là thách thức rất gay, trong thực hiện.
Nhưng, “yêu thương kẻ thù” là yêu như thế nào, mới đúng?
Trước nhất, Lời Chúa ở trên tuyệt nhiên không bắt ta phải “ưa thích” những người khiến ta đau thương, tổn hại. Yêu thương kẻ thù, nên hiểu theo nghĩa: hãy đối xử tử tế với họ. Thực tế, chẳng thấy mấy ai làm được thế. Nói cách khác, thực tế cuộc đời khó có thể thực hiện một đối xử tử tế đối với người từng làm cho mình đau khổ hoặc tổn hại.
Thực ra thì, điều Chúa dạy, chỉ có nghĩa: ta nên cầu nguyện cho họ. Cầu chúc cho họ được mọi sự tốt đẹp. Không gặp chuyện xấu xa. Tai hại. Như các thánh khi xưa từng minh định: “Thương yêu theo đúng nghĩa, là cầu chúc mọi sự tốt đẹp đến với người khác. Tốt hơn mình” (x. Thánh Tôma Akinô I-II, 26,Corp Art; GLHTCG #1766)
Xem như thế, hỏi rằng: có bắt buộc phải xử sự với kẻ thù mình, theo cung cách lịch sự và tôn kính như ta vẫn đối xử với mọi người, không?
Để trả lời, có lẽ cũng nên trở lại với Lời Chúa như sau:

“Nếu anh em yêu thương kẻ yêu thương mình,
thì anh em nào có công chi?
Ngay cả những người thu thuế cũng chẳng làm như thế sao?
Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi,
thì anh em có làm gì lạ thường đâu?
Ngay cả người ngoại cũng chẳng làm như thế sao?
Vậy anh em hãy nên hoàn thiện,
như Cha anh em trên trời
là Đấng hoàn thiện.”
(Mt 5: 45-48)  

Về với thi ca âm nhạc, lại có vấn nạn, hỏi rằng: sống và thực hiện điều Chúa dạy ở trên, khác nào hát lên lời người nghệ sĩ, từng ca và từng hát, rất như sau:

“Tình Nhị Hồ vẫn yêu âm xưa.
Cung Nguyệt Cầm vẫn thương Cô-tô.
Nên hồn tôi vẫn nghe trong mơ tiếng đàn đợi chờ mơ hồ
Vẫn thương muôn đời nàng Quỳnh Như thuở đó.”
(Cung Tiến – bđd)
   
Đời người, sao tránh khỏi những tình tự mà nhà Phật gọi là “tham-sân-si”. Ngũ giới. Với, đủ tình tiết của những đam mê. Dục vọng. Bởi, là người ai cũng thấy buồn bã, tức giận hoặc hãi sợ mỗi khi phải giáp mặt với ác thần/sự dữ, những kẻ thù của con người. Ngược lại, ta sẽ thấy vui tươi mến mộ khi giáp mặt điều tốt, cái đẹp.
Trong sống đời đi đạo, các đam mê/cảm xúc vẫn giúp ích rất nhiều người. Khi có được niềm đam mê sâu lắng trong yêu Chúa, việc ấy giúp ta cầu nguyện và hành thiện, dễ dàng hơn. Ngược lại, không có được cảm xúc mê say yêu thương Chúa đích thực, thì khi gặp cảnh khô khan nguội lạnh, hồn trí mình dễ rời xa Chúa.
Thành thử, muốn thực hiện cuộc sống hài hoà, cả trong Đạo/ngoài đời, người người cần có ý chí cao cả. Có tình yêu mãnh liệt. Có như thế, ta mới thực hiện được quyết tâm yêu thương người khác, theo tinh thần của Tin Mừng. Rất đích thực.
Cũng thế, ai ai cũng đều thấy mình dễ nổi nóng, ghét cay ghét đắng người làm hại mình. Ai ai cũng chỉ muốn đối xử tốt với người mến mộ, thương yêu mình, thôi. Nói như thế e có người phản đối mà bảo rằng: đối xử tốt với kẻ thù từng làm hại mình, có thể chỉ là thái độ của kẻ phô trương, giả hình. Chứ, nào đã yêu thương thật lòng? 
    Đời bạn/đời tôi dù có hát hay không câu “êm như tiếng hát của lứa đôi”, thì xin bạn/xin tôi, ta hãy cứ để đó mọi sự, hạ hồi phân giải. Nay, chỉ nên tính mỗi điều  là: ta cứ nhẹ nhàng bước vào khung trời truyện kể, có những đoạn kể rất “nhẹ”, để cho qua đi moị hờn căm. Giận dữ.
Vậy thì, xin bạn và tôi, ta hãy để lòng mình trùng xuống, mà thư giãn. Bằng một truyện kể, về đôi tân hôn “mới cứng”, nhiều nguồn hứng, như sau:

“Khách khứa ra về hết, trong buồng chỉ còn mỗi đôi vợ chồng trẻ cùng nhau uống ly rượu hợp cẩn.Ngồi nhìn nhau say đắm. Bỗng chú rể hăng hái thúc giục:
-Thôi, ta vào việc đi em!
Cô dâu bẽn lẽn:
-Sao mà vội thế? Còn sớm mà anh!
Chú rể nôn nóng:
-Sớm gì nữa, cũng mười giờ rồi chứ ít gì!
Cô dâu lại xấu hổ, nhỏ nhẹ nói:
-Nhỡ ai gọi cửa thì phiền lắm!
Nghe vậy, chú rể lại càng nôn nóng:
-Giờ này chẳng ai quấy rầy mình nữa đâu. Thôi nhanh lên đi em! Anh chịu không nổi nữa rồi!
Cô dâu rụt rè:
-Thế thì… anh tắt đèn đi vậy. Để đèn sáng, xấu hổ lắm!
-Ơ kìa. Sao lại phải tắt đèn? Tắt đèn thì làm sao… làm sao đếm tiền được cơ chứ?!? 

    “Tắt đèn”, dù chỉ để đếm tiền, thì xin anh/xin chị cũng nhớ cho rằng đừng nên tắt ngọn lửa yêu thương, Chúa vẫn dặn. Bởi, một khi đã tắt đi ngọn lửa ấy rồi, thì dù ta có ca hay có hát nhiều lần những câu hát nghệ sĩ Cung Tiến đã đặt và vẫn viết, thì người người cũng chẳng thể nói lời: “Đời êm như tiếng hát của lứa đôi”, được nữa rồi.
Lứa đôi nào, chứ đôi lứa ở trên, vẫn chỉ muốn tắt đèn/tắt điện, chứ nào muốn tắt lửa “tiền”, tạo êm êm cuộc đời rất vật chất. Rất tất bật?
Tắt một lời, lửa yêu thương vẫn là nền tảng cuộc sống cho mọi người. Ở đời. Dù, đời mình/đời người, có là đời đi Đạo. Hoặc, chỉ mỗi sống ở đời. Với, người thường. Cũng vẫn nên.

    Trần Ngọc Mười Hai     
    Xin được nhớ mãi
    Lời Thầy dặn,
    vẫn như thế.

          

26. “Chiều nay sao dâng nhanh mầu tím
“Và mây, bay theo nhau về bến .
Thuyền cắm tay sào từ cuối thu,
ngoài kia sông nước đón chờ…”
(Đoàn Chuẩn/Từ Linh  - Chuyển Bến)

(Lc 20: 32)
    Cũng một chiều, sao rất “dâng nhanh mầu tím”, bần đạo vội bước lên xe, để “theo nhau bay về bến”. Nhưng, bến ở đây là bến bờ của nhà thờ xứ đạo nhỏ, dự Tiệc Thánh. Điều cần nói, là: bần đạo có thói tật cứ mỗi lần dự Tiệc Thánh là hay lanh chanh/xục xạo tìm bài chú giải kinh thánh của ngày lễ, mà niệm suy. Nhờ xục xạo, bần đạo gặp được mảnh vụn niệm suy do đấng bậc nào đó,  bỏ lại.
    Tuy gọi là mảnh vụn những suy và niệm, nhưng chừng như đấng bậc dẫn giải kinh thánh hôm ấy đã có đoạn nhập mục làm nức lòng người suy, như sau:

“Nhà tỷ phú nọ, có một lần bị lên cơn nhồi máu cơ tim, tưởng đã chết. Khi tỉnh lại, ông được đài truyền hình địa phương mời xuất hiện trong chương trình gọi là “Chuyện Trò Cùng Chúng Dân” để nghe ông kể nỗi niềm của một người vừa trở về từ cõi chết. Có một lúc, phóng viên hỏi: “Ông có kinh nghiệm gì về nỗi chết sau khi lại được sống không, thưa ông?” Nghe hỏi, nhà tỷ phú trên bèn đứng dậy làm động tác đi đi lại lại, rồi nói nhỏ: Theo y học hiện đại, tôi như người đã chết, từng ra đi về phía bên kia cuộc sống, nay trở về phía bên này cuộc đời, để nói với quý vị ở đây một điều, là: ở bên đó, sau cuộc sống, chẳng có gì! Chết, là hết. Hết sống. Hết tương lai. Mai ngày. Chẳng có gì đáng để ta gọi là sự sống mới. Chẳng có gì là sự sống lại, hết!”

    Điều mà nhà tỷ phủ nói, thoạt nghe tưởng như có cái gì đó rất mới lạ. Nghe cho đỡ sầu buồn. Nhưng kỳ thực, ông cũng chỉ lập lại câu nói của ai đó. Chừng như, của phi hành gia Sô Viết Yuri Gagarine hôm trước, cũng phân bua: “Ở trên đó, chốn trời cao, tôi nào thấy có Thiên đường!”      
    Thật ra, làm sao các vị ở trên lại có thể thấy thiên đường hay tiên cảnh tương lai của sự sống, rất mai ngày hay chốn trời cao xanh ấy nếu chẳng có chút gì gọi là có niềm tin vững chãi vào Đấng là Sự Thật, là Đường và là Sự Sống.
    Bởi, nếu đã tin, hẳn các ngài sẽ còn nhớ rất rõ Lời Chúa từng xác quyết là: sự sống vẫn kéo dài, cả khi con người nằm xuống. Lời Ngài rõ như ban ngày:

“Quả thật,
Con người không thể chết nữa,
vì được ngang hàng với các thiên thần.
Họ là con cái Thiên Chúa,
vì là con cái sự sống lại.”
(Lc 20: 32)

    Cũng trong tờ “Bản Tin Giáo Xứ” hôm ấy, bần đạo còn được đọc một mẩu tin hiếm có thấy xuất hiện trên hệ thống truyền thông ở ngoài đời, như sau: “Văn phòng Phụ trách Hôn nhân và Đời sống thuộc Tổng Giáo Phận Sydney vừa cho xuất bản tập sách mỏng có tựa đề “Sống Ngày Của Chúa”. Sách này vừa đến với giáo xứ ta, tuần rồi. Xin bà con đọc kỹ tập sách này rồi tiếp xúc với dân biểu thuộc khu vực bầu cử của mình để phản chống Đảng Xanh vẫn cứ muốn thông qua luật An Tử, ở thượng viện.”
    Về an tử, trợ tử hay quyền tự chọn cho mình cái chết bình thản có sự trợ giúp của y khoa, vẫn là những trăn trở của những người có nếp sống văn minh phương Tây, về sự sống. Những người ấy vẫn mê say cuộc sống rất xô bồ. Ồ ạt. Vô nghĩa.
    Nói như lời của nhà thơ và người đặt nhạc ở trên, hẳn ta sẽ hát:

        “Thuyền ơi! Sao mê say nhiều quá?
        Đường mê, không ai ngăn cản lối.
        Một sớm, thu về chuyển bến xuối,
        Về nơi đâu nữa Trời, bến nao?”
        (Đoàn Chuẩn/Từ Linh – bđd)

    Thuyền và bến, với nhà thơ và người đặt nhạc, thì như thế. Những là bến bờ của đời người. Chí ít, là những người tật nguyền, bệnh tật, rất nan y. Tức, những người đang lo âu. Âu sầu. Khắc khoải. Âu sầu và khắc khoải, rồi tự hỏi: đâu là hành xử đúng với đạo đức/chức năng của con người? Hỏi rồi, lại tự nhắn mình/nhắn người bằng câu hát:

         “Còn đêm nay nữa, ta ngồi với nhau.
        Ngước mắt trông Trời
        Ngày mai anh đã đi xa rồi,
        Tình tan vỡ.
        Chìm trong lãng quên.”
        (Đoàn Chuẩn/Từ Linh – bđd)

    Đời người, tuy dài mà lại vắn. Rồi cũng đến lúc ta sẽ lại “ngước mắt trông Trời”. Cũng đến lúc, tình rồi vỡ tan. Chìm trong lãng quên. Duy có tình người. Và tình Chúa thương yêu, sẽ mãi mãi sống dài, đến vô tận. Thế nhưng, người tật nguyền/bệnh tật rất nan y, có được lòng tự quyết định cuộc đời mình vẫn cứ là vấn đề dù không biết rằng mai ngày người anh/người chị ấy sẽ đi vào chốn lãng quên. Triền miên. Không thao thức. Lãng quên. Để rồi, vẫn níu kéo người ở lại là bọn tôi, hát thêm câu:

         “Thuyền anh, mai ra đi rời bến.
        Mình anh, ra đi nơi Trời Sáng.
        Tìm hướng cho long tìm bến mơ,
        Từ nay xa cách rồi. Bến Xưa.”
        (Đoàn Chuẩn/Từ Linh – bđd)

    Bến cũ. Bến xưa. Hay nay vừa chuyển bến, thì đời mình và đời người vẫn như thế. Vẫn có bến có bờ để ra đi. Và hôm nay, có những tình huống trong đó người anh/người chị của ta có thể là chưa thấy được bến bờ mình sẽ đến, nhưng vẫn ra đi. Ra đi, có sự trợ giúp của xã hội. Luật pháp của người đời. Ra đi, mà lòng rất buồn. Buồn tê tái. Cứ là nghĩ mãi về một bến bờ, rất mơ. Nay cách biệt.
    Bến mơ hay bến xưa, nay là đề tài để những người ở lại như bọn tôi, và bọn mình, cứ thế mà bàn bạc. Tranh cãi. Cãi và bàn xong còn đem nhau ra trước nghị viện, để đấu tranh. Bầu bán. Dù, việc ấy chỉ liên quan đến toà án, rất lương tâm. Mà thôi.
    Về lương tâm, khi định đoạt việc gì cũng đòi bọn tôi với bọn mình, phải suy đi nghĩ lại, cho chín muồi. Vậy thì, đề tài “An tử” hay “Trợ tử”, nay chuẩn chưa? Hay chưa chắc đã hợp lòng Trời. Lòng người?
    Để trả lời, có lẽ cũng chẳng nên tìm đến những bến bờ có cãi tranh. Ngụy biện. Của, các đảng phái chính trị nào đó. Bởi, bến bờ Sự Sống đời này, người ta (tức người và ta) đâu cần cãi vã. Ganh Đua. Cứ, tranh giành xem ai phải, ai trái. Đảng nào thắng, đảng nào thua.
    Hãy tìm đến với tình tự của những người từng được dặn dò bảo ban. Hãy an nhàn tự tại mà tìm hiểu. Hỏi han. Nhận thức. Như, nhận thức của tổng biên tập tờ Disability and Health Journal, bà Suzanne McDermott, giáo sư Đại học Y Khoa Bang South Carolina, đã từng viết.
    Ban đầu, giáo sư McDermott tin rằng các tự sát có trợ giúp như thế, chỉ là vấn đề cá nhân, riêng lẻ. Nhưng cuối cùng, bà nhận định rằng sự việc như thế nằm ngay tâm can của phong trào đòi quyền lợi cho người tật nguyền.
Có lần, bà nói: “Hầu như mọi người khi đạt đến giai đoạn cuối của cuộc đời, đều được liệt kê vào danh sách ‘tật nguyền’. Xem thế thì, thực hiện tự sát có trợ giúp bằng cách nào đó, đã đem lại cái chết cho các vị bị tật nguyền.”
    Sở dĩ tác giả đề cập vấn đề này là để đáp ứng quyết định từng gây tranh cãi năm 2008 do việc Hiệp Hội Y Tế Công Cộng Hoa Kỳ (gọi tắt là APHA) hỗ trợ cho đề tài mà họ gọi “Giúp Cho Chết Dần Chết Mòn” (tức: tự sát có giúp đỡ/tiếp tay). Đề tài này đã đi vào hệ thống bắt sóng của truyền thông đại chúng. Nhưng, điều đó có nghĩa rằng: theo chính sách của các cơ quan “kỳ cựu, to lớn, có tầm hoạt động rộng nhất thế giới về y tế công cộng, và có số thành viên đến 30,000 người, thì an tử là hỗ trợ tự sát có giúp đỡ, rất trọn vẹn. Dân chúng ở bang Oregon gọi đây là “cái chết truyền cho bệnh nhân” hoặc “chết có bác sĩ giúp”.             
     Thay vì cứ lẩn quẩn mãi với từ ngữ do Bộ Y tế của Barack Obama lấy từ tập sách cải tổ y tế viết, bệnh nhân cao niên và các gia đình cũng nên lo ngại về động thái của hơn 30,000 thành viên Hiệp Hội. Họ là những người ngồi đó mà phán xét về “bảng chỉ đường đưa đến cái chết”. Điều, mà giáo sư này quan tâm hơn cả, có thể tóm gọn vào các điểm, sau đây:
Thứ nhất, sự hiện hữu của cái gọi là “tự sát có giúp đỡ” dẫn đến sự việc là: các vị cao niên, tật nguyền, ốm yếu vẫn phải kéo dài cơn sóng gió cuộc đời nay giải quyết sớm hơn một chút để nhẹ nỗi ưu tư đối với người chăm sóc.
         Mối lo của các vị lâu nay vẫn bị người bảo trợ/chăm sóc vẫn riễu cợt. Những người này chủ trương rằng điều họ muốn chỉ là chọn lựa, cuối cuộc đời. Điều đó, còn có nghĩa: kinh nghiệm cả một đời người lấn cấn vì tật nguyền, sẽ khác với kinh nghiệm đớn đau khi thấy sự sống của ai đó tắt ngúm dần. Các vị vẫn nghĩ rằng người biện hộ cho bệnh nhân/tật nguyền chỉ muốn biến các nhóm hội đoàn thể chuyên tranh đấu cho an tử thành thứ người không ra người, quỷ ma không ra quỷ ma.
    Diane Coleman, một thành viên trong nhóm vận động cho an tử có tên là “Vẫn chưa chết” gọi đó là chuyện vô nghĩa. Vô tích sự. Cô từng lên tiếng cảnh báo: lòng thương hại có khi còn nguy hiểm hơn mấy ông y sĩ khùng điên ở viện dưỡng lão. Có lần Diane Coleman nói: “Cũng có lúc ta bị các bác sĩ làm cho mình hoảng sợ. Bởi, bác sĩ là người có ở đó là để giúp đỡ ta, những người coi cuộc đời như một gánh nặng. Thật ra, ta biết rất ít về chọn lựa nào khả dĩ khiến cuộc sống của người bệnh nan y/tật nguyền, giữ được giá trị của nó.”
    Vấn đề tác giả nói trên đặt ra, là: tại sao nguồn tài nguyên giá trị như thế lại bị bỏ phí?
    Có lần Diane Coleman viết:“Hàng tuần, tôi vẫn nghe các cụ bị nan y/tật nguyền cứ phải đấu tranh với bác sĩ, y tá hoặc nhân viên bệnh viện tức những người cứ lập đi lập lại mãi một luận điệu, bảo rằng: cuộc sống mắc nan y/tật nguyền luôn là gánh nặng, mà thôi. Sống, mà tùy thuộc vào đôi tay mệt mỏi của ai đó cho rằng sự sống của con ngưòi chỉ là nỗi bất hạnh, thì còn gì vui thú để sống. Có người còn cho rằng sống như thế, thật bất công. Là, sống đời thảm hại. Đáng chán.”
    Thứ hai, các nhân vật chủ trương bênh vực tự sát có giúp đỡ, mà người ta gọi bằng cụm từ rất đẹp như “an tử”, vẫn cứ tảng lờ kinh nghiệm sống của người bệnh.
    Họ làm thế, vì nghĩ rằng: cụ già 80 đang chết dần chết mòn, thì tình trạng của cụ gì khác một người suốt đời ngồi xe lăn đâu? Diane Coleman từng thách thức: “Hãy cho tôi bằng chứng nói là có khác biệt giữa hai tình trạng tật/bệnh, để xem có đúng thực là như thế, không.”
        Theo Diane Coleman, bất cứ một ai, ở bất cứ giai đoạn nào trong đời, đều có thể học hỏi cách thức đối đầu/chịu đựng tật nguyền hoặc tật bệnh, mình mắc phải. Diane Coleman lại nói:“Có vị chủ trương bỏ những cố gắng đối đầu/chịu đựng và coi đó là chuyện vô bổ, chẳng ích lợi, chỉ với lý do duy nhất là: những người gần kề cõi chết không có kinh nghiệm bản thân nào như thế. Và, có người bệnh đưa ra vấn nạn hỏi rằng: làm sao các vị hỗ trợ cho động thái tự sát có giúp đỡ như thế lại cổ võ người bệnh để họ dám có thái độ tự định đoạt đời mình, được?”
    Ý Diane Coleman muốn nói, là: lời lẽ tuyên truyền của truyền thông/báo chí lâu nay chỉ chuyên chở mỗi lập trường của người cổ võ “tự sát có giúp đỡ” mà thôi. Làm thế, đơn giản chỉ vì họ chẳng cần biết đến các tai hại cùng loại, họ đem đến. Điều họ đem đến, là vận động cho việc “chết trong nhân cách”, sẽ tác hại đến người lâu nay từng chịu cảnh sống tật nguyền vẫn mang suốt đời.
    Và, Diane Coleman cũng mạnh dạn tuyên bố: “Người cổ xuý cho việc “tự sát có luật pháp giúp đỡ” chỉ muốn sự sống của người khác kết thúc bằng những xúc phạm/lạm dụng coi đó như những “mất mát dễ chấp nhận” mỗi khi cân nhắc xem làm thế nào để kết thúc vụ việc ổn thoả cho xong. Nói cách khác, làm thế là để nói lên rằng: mình chẳng muốn chấp nhận tật nguyền, hoặc lãnh trách nhiệm gì khi tự sát.”
    Thứ ba, nguy hiểm ở đây là: người bệnh nan y/tật nguyền dễ dàng đầu hàng chấp nhận cái chết tốt hơn là chịu đựng mãi tật nguyền, khó chữa.
    Bác sĩ Carol J. Gill, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tật nguyền ở Chicago có nói: “Nếu luật pháp được thông qua cho phép người ta được tự sát có sự giúp đỡ/tiếp tay của người khác, thì tôi nghĩ: rồi ra, giới chức ở đây hay ở đó sẽ không còn thấy xấu xa/tội lỗi khi họ hối hả làm cho nhiều người chết sớm. Nghĩa là, họ chỉ việc đứng đó nhìn. Chẳng buồn nhúng tay để chấm dứt tình trạng ấy và còn ủng hộ chính sách cùng thể chế nào khả dĩ xúc tiến những việc như thế. Làm thế, họ cũng không nghĩ họ là quân gian ác và cũng không coi đó là chuyện gian ác, dữ tợn xuất hiện trong nền văn minh/văn hoá của ta nữa. Không chừng họ còn coi việc giúp cho người khác chết, lại là lề thói rất độ lượng, và một lòng tôn kính, nữa cũng nên.”
    Thứ Tư, nhiều tác giả hăng say biện luận rằng Đạo luật “Chết Trong Nhân Cách” của bang Oregon, tức tiểu bang tiên phong cho phép được tự sát có giúp đỡ ở Hoa Kỳ, đang gặp nhiều rạn nứt sâu sắc. Không đầy 15 năm sau khi thực thi luật này, đã có nhiều vấn đề trông thấy. Nhiều vị cho biết đã thấy nhiều vấn đề nảy ra, như: khó kiểm soát được bệnh nhân, thống kê này/khác khó hoàn tất, việc giám sát bị bỏ bê, biện pháp phòng ngừa/chữa trị nay bị lung lạc, các bác sĩ từng làm ăn cẩu thả/tắc trách chẳng bị khiển trách, phạt tù gì hết.
Lại có lời đồn đoán cho rằng tại bang Oregon và Washington, tức các bang tiên phong cho phép tự sát có giúp đỡ/tiếp tay, người ta phát giác ra nhiều trường hợp bệnh nhân chết rất lạ, nhưng được đổ lỗi là do an tử. Có trường hợp, tiểu bang Washington yêu cầu các bác sĩ phải khai man giấy chứng tử bằng cách liệt kê danh sách bệnh nhân chết vì bệnh nan y khó chữa, thay vì đã chích quá nhiều liều lượng thuốc an thần, trợ tử.
    Hầu như mỗi lần đề cập đến an tử hay “tự sát có giúp đỡ”, người ta thường hay tập trung vào người bệnh nan y/tật nguyền vẫn muốn tự chọn cho mình cái chết. Tại sao không hỏi xem những người từng có vấn đề tật nguyền xem có ai là người chọn lựa để được sống? Chính họ, mới là yếu tố quan trọng trong các vụ cá cược lớn trong đời. (x. Michael Cook, MercatorNet 25.10.2010)
    Đọc tới đây, hẳn bạn và tôi, ta đều thấy như đi vào cánh rừng nhiều bóng tối. Nếu không có được niềm tin vững mạnh vào Đấng Tối Cao, Chúa Tể của Sự Sống và Sống lại, chắc cũng khó mà chống đối lại cả một thể chế, rất xã hội. Thể chế có nền y khoa hiện đại. Lại có cả luật pháp rất nhiều kinh nghiệm từng trải, về đời sống xã hội. Thế nhưng, như ai đó có lần từng nhắc nhở, thế giới ngày nay đang đi vào đường hầm tăm tối không thấy có sự hiện diện của toà án lương tâm.
    Vâng. Đúng thế. Lương tâm, có thể không còn là toà án với những phán quyết khác thường, người mình sống. Nhưng, lương tâm sẽ là và vẫn là “tấm bảng chỉ đường rất đáng tin cậy, để người người sống xứng đáng. Sống, trong tinh thần tôn trọng phẩm cách con người.
    Và khi đã theo luật pháp của toà án lương tâm về những gì có liên quan đến chính đời mình, có lẽ cũng chẳng nên sợ gì luật pháp ở đời, dù luật ấy có cổ võ việc “tự sát có giúp đỡ” hay không. Để phần nào làm nhẹ vấn đề mà bạn và tôi, ta đang bàn, cũng nên kể cho nhau nghe một đôi truyện kể thực tế. Hiện thực. Và, gần gủi với cuộc đời của mình, và của người, như sau:

        “Truyện rằng:
-Ăn rau không chú ơi?
Một giọng khàn khàn, run run làm gã giật mình. Trước mắt gã, một cụ bà già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.
- Ăn hộ tôi mớ rau…!
Giọng bà cụ vẫn khẩn khoản. Bà cụ nhìn gã ánh mắt gần như van lơn. Gã cụp mắt, rồi liếc xuống nhìn lại bộ đồ công sở đang khoác trên người, vừa sáng sớm. Bần thần một lát, gã chợt quay đi, đáp nhanh: Dạ cháu không mua đâu bà!
Gã nhấn ga phóng nhanh như kẻ chạy trốn. Gã chợt cảm thấy có lỗi, nhưng rồi cái cảm giác ấy gã quên rất nhanh. “Mình thương người thì ai thương mình” – cái suy nghĩ ích kỷ ấy lại nhen lên trong đầu gã.
- Ăn hộ tôi mớ rau cô ơi! Tiếng bà cụ yếu ớt.
- Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về mà cho lợn!
Tiếng chan chát của một cô gái đáp lại lời bà cụ. Gã ngoái lại, một cô gái cũng tầm tuổi gã. Cau mày đợi cô gái đi khuất, gã đi đến nói với bà:
- Rau này bà bán bao nhiêu?
- Hai nghìn một mớ – Bà cụ mừng rỡ.
Gã rút tờ mười nghìn đưa cho bà cụ.
-Sao chú mua nhiều thế?
-Con mua cho cả bạn con. Bây giờ con phải đi làm, bà cho con gửi đến chiều con về qua con lấy!
Rồi gã cũng nhấn ga lao vút đi như sợ sệt ai nhìn thấy hành động vừa rồi của gã. Nhưng lần này có khác, gã cảm thấy vui vui.
Chiều hôm ấy mưa to, mưa xối xả. Gã đứng trong phòng làm việc ngắm nhìn những hạt mưa lăn qua ô cửa kính và theo đuổi nhưng suy nghĩ mông lung. Gã thích ngắm mưa, gã thích ngắm những tia chớp xé ngang trời, gã thích thả trí tưởng tượng theo những hình thù kỳ quái ấy. Chợt gã nhìn xuống hàng cây đang oằn mình trong gió, gã nghĩ đến những phận người, gã nghĩ đến bà cụ…
-Nghỉ thế đủ rồi đấy!
Giọng người trưởng phòng làm gián đoạn dòng suy tưởng của gã. Gã ngồi xuống, dán mắt vào màn hình máy tính, gã bắt đầu di chuột và quên hẳn bà cụ. Mấy tuần liền gã không thấy bà cụ, gã cũng không để ý lắm. Gã đang bận với những bản thiết kế chưa hoàn thiện, gã đang cuống cuồng lo công trình của gã chậm tiến độ. Gã quên hẳn bà cụ. Chiều chủ nhật gã xách xe máy chạy loanh quanh, gã vẫn thường làm như vậy và có lẽ gã cũng thích thế. Gã ghé qua quán trà đá ven đường, nơi có mấy bà rỗi việc đang buôn chuyện. Chưa kịp châm điếu thuốc, gã chợt giật mình bởi giọng oang oang của một bà béo:
-Bà bán rau chết rồi
-Bà cụ hay đi qua đây hả chị? – chị bán nước khẽ hỏi.
-Tội nghiệp bà cụ! một giọng người đàn bà khác.
-Cách đây mấy tuần bà cụ giở chứng cứ ngồi dưới mưa bên mấy mớ rau. Có người thấy thương hỏi mua giúp nhưng nhất quyết không bán, rồi nghe đâu bà cụ bị cảm lạnh. Nghe đến đây mắt gã chợt nhòa đi, điếu thuốc chợt rơi khỏi môi. Bên tai gã vẫn ù ù giọng người đàn bà béo kia. Gã không ngờ…!”

    Truyện kể ở trên có thể chỉ là truyện hư cấu. Không thật. Cũng có thể là tuyện thật trăm phần trăm, đối với người kể. Nhưng thật hay không, vẫn là chuyện đời của các cụ cao niên, mắc chứng nan y/tật nguyền, nhưng vẫn sống. Vẫn muốn sống đời trung tín với lời hẹn của gã trên, dù đã quên.
    Nhìn lại cuộc đời, hẳn bạn và tôi cùng mọi người khi còn trẻ đều bảo mình không sợ chết. và, sẵn sàng ra đi bất cứ lúc nào, không luyến tiếc. Nhưng vào tuổi già, mấy ai không những sợ chết mà còn ‘ham’ sống nữa, là khác. Vẫn muốn sống, dù đớn đau. Cực nhọc. 
    Cuối cùng thì, dù gì đi nữa, hãy nhớ lời dặn dò của thánh nhân khi trước có nói:

        “Vấn đề là
được biết chính Đức Ki-tô,
nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh,
cùng được thông phần những đau khổ của Người,
nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người,
với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.”
(Phillíp 3: 10-12) 

    Và, khi đã thông phần vào với sự chết và sống lại của Chúa, ta đâu còn sợ nan y/tật nguyền để phải dựa vào luật pháp ở đời, mà “tự sát có giúp đỡ”. Cho dù được luật pháp giúp đỡ, phải chăng đó là hạnh phúc. Ở đời này. Đời sau?

    Trần Ngọc Mười Hai
    Chỉ dám hỏi
    chứ chưa tìm ra câu trả lời,
từ cuộc đời.  

27. “Cho nhau hết những mê say,”
“Cho nhau hết cả chua cay.
Cho nhau chắt hết thơ ngây, trên cánh môi say,
Trên những đôi tay, trên ngón chân bước về tình buồn, tình buồn.”
(Lê Uyên Phương – Vũng Lầy Của Chúng Ta)
(1P 2: 1-3)
    Chắt hết thơ ngây, trên cả tay chân, mà vẫn buồn. Tình buồn thật đấy, nhưng nào đã chắc thế đó là “Vũng Lầy Của Chúng Ta”! Mê say thật đấy, đâu nào ai dám bảo: “cho nhau hết cả chua cay”. Môi say. Vẫn cứ cho? Vẫn cứ coi đó một tình tự của những người/những vị mà thánh cả Phêrô từng có lời khuyên, sau đây:
   
            “Hãy cởi bỏ mọi sự xấu xa,
            mọi thứ gian giảo và giả hình, ghen tương
            và những lời gièm pha hết thảy,
            như trẻ sơ sinh, anh em hãy khát sữa linh thiêng,
            không gian dối, ngõ hầu nhờ đó anh em lớn lên trong ơn cứu rỗi.”
            (1P 2: 1-2)

    Thật ra thì, thi nhân/văn sĩ ngoài đời, đâu nào biết đến “gian giảo”, “giả hình”, hoặc “ghen tương”… như thánh nhân từng dặn. Nhiều lắm, các “cụ” chỉ dám bảo và hát những câu như:

            “Ta sống trong vũng lầy
            một ngày vùi dần, còn vùi dần, còn vùi sâu
            trong ngao ngán, không dứt hết cơn ê chề…”
            (Lê Uyên Phương – bđd)

    “Vũng Lầy” của chúng mình có là thế? Và, “Vũng lầy” của tôi/của bạn/của chúng ta, có thể là: những ganh đua, cãi vã, hoặc bất bình. Vũng lầy của chúng mình, cùng lắm cũng chỉ là:

            “Yêu nhau giữa đám rong rêu,
            theo dòng nước cuốn lêu bêu.
            Đi qua những phố thênh thang, đi qua với trái tim khan
            Đi qua phố bước lang thang, đi qua với trái tim khan…”
            (Lê Uyên Phương – bđd)

    “Lang thang”, “bước thênh thang”, mà lại ngang qua “với trái tim khan”, hẳn là: phải có cái gì đó, khiến người người đã cảm thấy khó. Khó nhận ra. Kho giữ cho riêng mình, lời khuyên thần thánh như:

            “Anh em hãy yêu mến nhau
thật khắng khít,
bởi đã được tái sinh…”
(1P 1: 22)

    Thi sĩ. Nhạc sĩ. Thánh nhân. Mỗi người mỗi cách, vẫn nói và viết về tình yêu. Nói đến “vũng lầy”, gây vỡ đổ giữa người người. Người, trong gia đình. Người, ở cộng đoàn, chòm xóm, xã hội. Những xã của các hội lớn/nhỏ, thời hiện tại. Các hội và xã, đầy những xung và khắc. Cãi rồi vã. Giành rồi giựt. Giành, uy thế, quyền lợi, bổng lộc. Giựt, tình yêu, tiền bạc. Giựt, cả chữ tín của nhau. Đối với nhau. 
    Trong gia đình, thì anh/chị/em cãi nhau/đánh nhau như “mổ bò”. Có khi còn cãi vã cả bố mẹ, ông bà và người lớn. Cãi vã lẫn nhau chưa đủ, còn rủ nhau ra toà mà cãi tiếp. Có lúc, “hận thù đằng đằng” chỉ muốn chém/muốn giết cho hả giận. Sống với nhau, lại chỉ sống với những tình tự của ngục thất. Chiến tranh. Bom nổ.
    Ở cộng đoàn, thì thành viên lại cứ giành. Giành thế lực, quyền hành, giành cả uy tín, với chủ chăn. Giành không được, hoặc chưa thoả mãn, cũng lại tính chuyện “ăn thua đủ”, với bậc trên. Nói tóm lại, vẫn cứ “mặt ngoài đon đả, mặt trong giết người không dao”. Ví dụ cụ thể, vẫn dẫy đầy trong Kinh Sách mọi thời, cả Cựu lẫn Tân Uớc.
    Xem thế, thì: làm sao giải quyết để cuộc sống mọi người thực sự trở nên thiên đàng ở trần gian?          
    Giải quyết ư? Giải quyết gì được và được gì, nếu không trở về nguồn, không tin vào “Lời Thơ” Trong Sáng ở Kinh Sách! Lời Thơ ấy, Ngài đã để lại, trước khi về với Cha Ngài, như sau:

        “Thầy sẽ không để anh em mồ côi.
Thầy đến cùng anh em.”
        (Ga 14: 18)

    Và, nhất là:

        “Thầy để lại bình an cho anh em,
Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.
Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian.
Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.”
        (Ga 14: 27) 

    Mồ côi, là mất đi “bình an” Thầy mình để lại. Vì thế, mới sống như nghệ sĩ, nên mới hát:

        “Ta sống trong vũng lầy,
        một ngày vùi dần, còn vùi sâu, còn vùi sâu
        trong ngao không dứt hết một lần đau.”
        (Lê Uyên Phương – bđd)

    Đi vào thực tế, người ở thế gian cũng đã tìm ra bí kíp để “giải quyết”. Giải quyết, theo hướng “chữa cháy”. Tức, hãy đề nghị những người đang sống trong tranh chấp, hãy đối thoại trong hài hoà, cởi mở và có sự tôn trọng lẫn nhau. Đấng bậc ở trên là những người điều hợp cuộc sống tập thể, hãy đối xứ công bằng và làm gương cho con cái. Cho, người ở dưới. Bề dưới. Cha mẹ, hoặc bậc trên biết lắng nghe và tin tưởng vào tầm nhìn cũng như quan niệm “rất khác” của người khác. Tức, có quan niệm hoặc lối sống hơi khác một chút, nhưng không vì thế mà bị kỳ thị, tách riêng.
    Cha mẹ, hoặc “đấng ở trên” cũng nên biết cách đánh giá tốt tính tình cũng như cung cách sống hơi “bạo” của người trẻ, ở bên dưới. Đồng thời, biết thầm phục hoặc thán phục ra mặt mọi ý tưởng cũng như thành tựu của người trẻ, kẻ ở bên dưới.
Ngược lại, người trẻ/kẻ bề dưới cũng nên học hỏi trở thành người toàn vẹn. Sống, có trên có dưới. Biết bắt chước bậc trên sống yêu thương và hỗ trợ nhau. Biết, mình cũng làm được như thế với anh/chị/em cùng nhà. Với người đồng hành cùng một tập thể. Và, biết để giờ mà gần gũi. Tìm hiểu. Trao đổi thân mật với nhau bằng những lời nhẹ nhàng. Yêu thương. Mẫn cảm.
Đi vào cuộc đời, có những lúc thật ra không suông sẻ, dễ sống được như thế. Vẫn có những ngày buồn, vẫn phải sống. Những “vũng lầy”, buộc ta phải nhảy vọt lên cao, mà tự giáp mặt, giải quyết. Giải quyết, nhưng không sợ sự thật. Giải quyết, bằng cách cùng nhau đặt vấn đề gai góc, gây thắc mắc. Hiểu lầm. Giải quyết, có sự tiếp tay của người trung gian, làm công việc hoà giải. Để, hoà hoãn.
Đi vào giải quyết, cha mẹ hoặc bậc trên cũng nên nhìn nhận thực tế có vỡ đổ. Biết sẵn sàng bỏ thì giờ và công sức mà hàn gắn hố cách biệt, mỗi khi cần. Phải công nhận, đôi khi các đấng bậc cảm thấy khó khi chính mình đang có rạn nứt với nhau, hoặc với các đấng bậc cao hơn. Làm gì thì làm, quý “cụ” cũng chớ kéo bên nào về phe mình, tạo thêm chia rẽ. Đổ vỡ.
Cuộc đời là thế. Gia đình là vậy. Không phải lúc nào, ở đâu cũng thấy toàn là “cơm lành, canh ngọt”. Nhưng, vẫn có những ngày những lúc “bão nổi” ở đâu đó. Vào thời khắc nào đó. Biết nhận chân thực tế với thực tại cuộc sống với tâm tình bình thường. Pha một chút tính khí hài hước, hóm hỉnh, thì sẽ xong ngay thôi. Sẽ giảm bớt những căng thẳng do tranh chấp tạo ra. Và nhất là, phải tin tưởng rằng: thời gian sẽ giúp mọi người quên đi mà sống. Thời gian, là thần dược giúp hàn gắn mọi đớn đau. Vỡ đổ.
Nói cho cùng, trong đời người, chẳng có gì là ghê gớm, dễ sợ cả. Tất cả đều có thể giải quyết tốt đẹp. Với thời gian. Với sự trợ giúp của bậc trên. Của, đấng chủ quản. Nói cho cùng, là cha mẹ/bậc trên hoặc chính đương sự, cũng nên biết rằng: chẳng bao giờ mình có thể biến con cái/người bề dưới thành những thành viên như khuôn đúc. Tức, trở nên “người đẹp như nhau”, sau cuộc giải phẫu thẩm mỹ hoặc, cắt bỏ thứ gì.
Ngay đến nghệ sĩ rất bi quan ở trên, còn viết được những lời lạc quan, để ta hát. Hát rằng:

        “Qua đi, qua đi dứt cơn mê
        Tình buồn, chồng chất lê thê.
        Qua đi, qua đi dứt cơn say.
        Tình này, tình rồi thay.”
        (Lê Uyên Phương – bđd)

Thật ra, điều nghệ sĩ muốn nói và muốn bảo: chẳng là: cứ nhảy ùm xuống “vũng lầy của chúng ta”, rồi tự khắc sẽ thấy “tình buồn chồng chất lê thê”, rồi cũng qua đi. Tình buồn, rồi cũng đổi thay. Nhưng, nghệ sĩ lại sẽ hát và vẫn hát:

        “Yêu nhau giữa đám rong rêu,
        theo dòng nước cuốn lêu bêu…”
        (Lê Uyên Phương – bđd)

Đúng thế. Chỉ có tình yêu mới giải quyết được mọi ghen tương. Tranh chấp. Hận thù. Như đề nghị từ truyện cổ của Trung quốc, thời buổi trước. Rất như sau:

“Ngày xưa ở Trung Hoa, có bác nông dân và người thợ săn nọ là hàng xóm sống với nhau, cũng khá lâu. Người thợ săn tuy sống tử tế nhưng ông lại có nuôi một đàn chó, rất dữ tợn. Là loại chó săn, nên chúng càng khó bảo, cứ đi đi về về, nhảy rào rượt đuổi đàn cừu của người nông dân, chạy có cờ. Nhiều lần thấy bực, nên bác nông dân bèn thân chinh đến thưa chuyện cùng hàng xóm để xin ông hãy trông nom đàn chó của ông cho cẩn thận, kẻo chúng sát hại đàn chiên lành. Nhưng, xem ra mọi yêu cầu của ông đều bị người thợ săn bỏ ngoài tai.

Một hôm, đàn chó dữ của thợ săn lại nhảy rào, chạy đuổi đàn cừu của bác nông dân mà cắn nghiến, kiến nhiều cừu con bị thương tích rất đỗi nặng. Không thể chịu đựng thêm được nữa, bác nông dân nhà tìm đến nhà trị phủ, để báo quan. Vị quan phủ chăm chú lắng nghe bác nông dân trình bày đầu đuôi câu chuyện, rất bình lặng.Nghe xong, ông phán:

-Bổn quan có thể phạt thợ săn kia và bắt anh xích nhốt đàn chó dữ của anh lại. Tuy nhiên, làm như thế sẽ khiến bác mất đi một người bạn, và có thêm một kẻ thù. Bác muốn điều nào đây? Có thêm bạn hữu, hay tạo thêm một kẻ thù là hàng xóm của mình? Bác chọn đàng nào?

Bác nông dân trả lời, anh muốn có thêm người bạn hơn là kẻ thù. Quan phủ nghe vậy, bèn lại phán:
-Được. Bổn quan sẽ bày cho bác một cách để bác vừa bảo toàn đàn cừu, vừa giữ được một người bạn, là hàng xóm láng giềng. Người xưa vẫn bảo: “mua anh em xa không bằng láng giềng”, là thế đấy!

Bác nông dân hứa sẽ nghe theo lời đề nghị của quan phủ.
Về đến nhà, bác thực hiện ngay những gì vị quan phủ khuyên bảo. Anh bắt ba chú cừu non thật béo tốt rồi đem tặng cho ba cậu trai nhỏ của người thợ săn-hàng xóm. Bọn trẻ rất thích lũ chiên con. Cứ quấn quít bên bày cừu, mà vui chơi nhảy nhót. Đổi lại, để bảo vệ cho mấy chú bạn mới của lũ trẻ, người thợ săn đã đóng một cũi thật chắc để nhốt đàn chó săn rất dữ tợn của ông. Kể từ đó, đàn chó săn không còn quấy phá bầy cừu của bác nông dân nữa.

Cảm kích trước thịnh tình của bác nông dân đối với các con nhỏ của mình, người thợ săn đồng thời là hàng xóm thường đem chiến lợp phẩm anh săn bắn mang qua cho bác nông dân. Để đáp lễ, bác nông dân lại cũng đem thịt trừu và “pho-mai” do ta mình làm ra, để biếu khách. Chẳng bao lâu, hàng xóm láng giềng nay trở thành những bạn, ít khi thấy…”

    Chuyện ở trên, chỉ là động thái làm hoà cốt hàn gắn mối xích mích, hiểu lầm giữa người hàng xóm với nhau thôi. Chứ chưa chứa đựng một “kịch tính” như tranh chấp/cãi vã giữa người cùng nhà. Cùng Đạo, trong nhóm hội đoàn thể, mà ta gọi là cộng đoàn dân Chúa. Nhưng ở đây, người kể truyện hôm nay, lại có đôi ba minh hoạ để làm nền cho câu truyện mình kể, có lớp lang. Lời lẽ. Ý nghĩa. Ý của ông muốn chứng minh bằng ngạn ngữ Trung Hoa và thành ngữ bên tiếng Anh như sau:
    Ngạn ngữ Trung Hoa từng nói: “Duy chỉ một người, ta vẫn có thể cảm hoá/thu phục nhân tâm của kẻ khác bằng sự tử tế/tốt bụng và lòng thành của chính mình.” Các cố vấn gia đình còn khuyên nhủ các gia đình/cộng đoàn nào có chuyện hục hặc, rằng: gia đình/cộng đoàn vẫn và sẽ là mỏ vàng/châu báu rất quý giá nếu ta để chúng hoạt động đúng qui cách. Hục hặc chăng, chỉ là khi ta đánh giá thấp các thành viên sống ở đó. Chí ít, là thành viên “cá biệt”. Rất khó bảo!
    Dù gì đi nữa, lời cuối cho tôi và cho bạn, từ các vị ấy vẫn là: hãy nhớ rằng bạn, rằng tôi vẫn có ảnh hưởng rất lớn đối với cuộc sống của anh, chị em mình. Ảnh hưởng do lời ăn tiếng nói của chính mình. Ảnh hưởng, do cả những gì mình không làm hoặc không nói, cũng thế.
    Cuối cùng thì, tất cả là do tương quan ta vẫn sống với mọi người. Tốt/xấu, hay/dở đều tuỳ thuộc vào hành xử của chính ta. Còn nhớ tác giả John Donne có viết ở đâu đó, đôi ba ý tưởng bảo rằng: “Chẳng ai là hải đảo không người sống, hết. Chẳng đất liền nào, là đất miền không người canh tác hết.”
    Tứ hải giai huynh đệ, há chi là anh/em cùng nhà. Chí ít, dân con mang hình hài của Chúa. Vẫn nên nhớ.

    Trần Ngọc Mười Hai
    Nay đã nhớ và quyết tâm.
    Tuy âm thầm, nhưng hy vọng. 
    Rất sáng ngời.             
     

 28. “Người em gái đứng im trong hồi lâu,”
“Tôi ngập ngừng lòng muốn nói đôi câu.”
(Văn Phụng – Suối Tóc)

(Mt 6: 33)
    Những lúc ngồi buồn rảnh rỗi, bần đạo thường hay nghĩ ngợi viển vông, mông lung, thấy rằng mình cũng từng ”ngập ngừng lòng muốn nói đôi câu”, với bầu bạn. Về nhiều thứ. Về cái hay, cũng như cái dở của bần đạo, để bạn bè biết mà xa lánh. Chí ít là dạo gần đây, bần đạo không những chỉ ít nói mà còn hay quay về với tật xưa thói cũ, cứ là truy tầm/lục lọi những tâm tình nhè nhẹ trong xấp dĩa nhạc nằm ẩm mốc trên ngăn kệ. Truy và tầm, để còn tìm ra ba câu hát làm nhẹ mát cõi đời tất bật, rất từ lâu.
Qua truy tầm, bần đạo lại bất chợt nhận được ơn lành ở giòng chảy rất nhẹ của người nghệ sĩ thân thương nay khuất bóng. Thân thương người nghệ sĩ luôn nở nụ cười trong sáng khi ông chơi nhạc đệm cho vợ hiền mình đứng hát khúc nhạc thướt tha một giòng chảy đầy ý nghĩa:

            “Xin cho suối nước non ngàn tìm đến nhau.
                 Như chúng ta đôi lần hàn gắn thương yêu.”
            (văn Phụng – bđd)

    Hôm nay, bần đạo lại cũng “tìm đến nhau” với đám bầu bạn thân quen còn khá ít, không chỉ để “hàn gắn (những) thương yêu”, mà là trao cho nhau những khoảnh khắc rất riêng tây, hầu tiếp nối đôi ba tình tự nghe rất nhẹ như ca từ đầy tình tứ, ở bên dưới:

            “Lòng tôi muốn viết lên đôi vần thơ.
Hay cung đàn cùng nét bút tranh hoa.   
Xin em biết nhé cho tình hai chúng ta.
Trong ý thơ, cung đàn và suối tóc mơ.”
            (Văn Phụng – bđd)

    “Viết lên đôi vần thơ” cho nhiều người trong chúng ta, có nét bút. Cung đàn. Cùng tranh hoa, suối tóc nhẹ và cũng mềm như cuộc tình của đôi lứa, rất riêng tây. Niềm riêng đó có thể là tâm tình của bạn bè từng xa rời tình thơ, nay vẫn thấy dẫy đầy ở ngoài đời hay trong Đạo! Tình thơ người nghệ sĩ viết, có còn thấy ở nơi thiên nhiên êm đềm mà tác giả, từng diễn tả?    

            “Tôi muốn đưa em qua miền giòng núi xanh.
 Chúng ta cùng thăm con suối dịu êm.
 Nhưng thiên nhiên không êm như tóc huyền.
 Nhưng Thu qua không trong như đôi mắt em.” 
            (Văn Phụng – bđd)

    Chao ôi, là đời người. Một đời từng đưa dẫn người em thân yêu đến tận chốn miền vẫn rất xanh, để thăm con suối dịu êm mà chỉ thấy mỗi “Thu không trong như đôi mắt em” hiền hoà, kể cũng lạ. Còn lạ hơn, ở chỗ: người đời hôm nay cũng từng mời bạn và mời tôi, ta hãy về với thiên nhiên mà thưởng thức những giây phút có Trời, có đất có tất cả tình tự ấm êm, dịu hiền như nghệ sĩ bảo:

            “Tìm cho thấy liễu xanh-xanh lả lơi
Hay đi tìm dòng suối tóc trên vai.
Ghi trong khóe mắt u hoài hình bóng ai.
Tôi với em một đêm Thu êm ái…”
            (Văn Phụng – bđd)

    À thì ra, nghệ sĩ nhà mình vẫn muốn “tìm cho thấy liễu xanh xanh lả lơi” nơi thiên nhiên có núi miền đều rất xanh. Hay nơi nào đó, có “hình bóng ai trong khoé mắt rất u hoài người em thương yêu dạt dào suối tóc trong xanh, hiền lành. Óng ả. “Tìm cho thấy Liễu Xanh – Xanh Lả Lơi” là việc của nghệ sĩ ngoài đời. Thế nhà Đạo hôm nay, có “tìm cho thấy Liễu Xanh – Xanh Lả Lơi” ở đâu không? Hay vẫn cứ ngơ ngẩn tìm Người ở chốn Nhà thờ/nhà thánh, đáng kính chăng?
     Xét cho kỹ, hẳn người người rồi cũng thấy dân con Đạo mình vẫn cứ tìm và cứ kiếm “Liễu Xanh – Xanh Lả Lơi” chỉ ở nơi tôn nghiêm chốn Nhà Thờ. Nhà thờ, không nên hiểu theo nghĩa những dinh và thự nguy nga cõi phụng thờ mà thôi, nhưng còn là Hội của các thánh hiền lành, công chính. Thánh thiện.
Còn nhớ, có lần Thày Chí Thánh vẫn nhắc nhở dân con/đồ đệ của Ngài, rằng:

            “Trước hết hãy tìm kiếm Nước
và đức công chính của Người,
còn những thứ khác,
Người sẽ thêm cho.”
                 (Mt 6: 33)

Khẳng định của Đức Chúa từng gợi ý hướng dẫn đoàn người dấn bước thăng trầm theo chân Ngài về muôn lối, chốn thánh thiêng. Hôm nay, lời dặn ấy vẫn vang vọng khắp muôn nơi mà sao thánh Hội Đạo mình vẫn cứ tìm và cứ kiếm “Nước” ở đâu đó trong khi Nước đó cứ sờ sờ ngay trước mắt, mà không thấy. Thời bây giờ, “Liễu Xanh – Xanh Lả Lơi” đâu còn đóng khung cô lập một mình ở khuôn viên phụng thờ, nào đâu nữa mà “tìm cho thấy”. Đấy rồi xem.
Giả như người người có thấy và có gặp, cũng chẳng nhận ra “hình bóng ai” trong khoé mắt u hoài của người em vào những “Đêm thu êm ái”. Dù đàn em người người có tìm đến nhau, có gặp và có thấy “Liễu Xanh – Xanh Lả Lơi” cũng chợt nhận ra rằng;

“Người em gái đứng im trong hồi lâu,
Tôi ngập ngừng lòng muốn nói đôi câu.”
(Văn Phụng – bđd)

    Nói cho cùng, tìm “hình bóng ai” hay đích thực là tìm Hội (rất) thánh dân con của Chúa, tức Hội của Đấng Thánh Nhân Hiền nay không trụ trì ở chốn miền có “suối nước non ngàn”, để “hàn gắn thương yêu”, nữa. Nhưng các đấng bậc hiền lành và rất thánh nay đã bay về chốn thị thành nhiều hơn trước. Bởi thế nên, muốn “tìm cho thấy Liễu Xanh – Xanh Lả Lơi”, người người chớ nên tìm ở chốn miền thờ tự, ở đâu đâu. Bởi, chốn phụng thờ có “giòng núi xanh” hôm nay chỉ còn thấy các đấng cao niên ngoan hiền đà rỗi rảnh, cũng rất thưa. Thưa hơn thời trước, rất nhiều. Hội (của các) thánh nay không còn tụ vào một chỗ, rất khô khan, buồn chán. Thiếu nhựa sống, nữa.
    Còn nhớ, khi xưa chốn miền có “giòng núi xanh”/”suối nước non ngàn” là thánh Hội ở thời đầu, lại đã khác. Khác một điều, như thể khi xưa thánh Phaolô Tông đồ từng bỏ công đến chốn thị thành mà giảng về Đức Kitô, rồi qui tụ các tân tòng gom lại làm thành Thân Mình Chúa, tức Nước trời ở trần gian.
    Khi ấy, thành viên làm thành “Nước” của Thiên Chúa đã tụ hội, đều coi thánh hội như một thế giới mới được Chúa hoá giải, nhờ Đức Kitô Đấng hiền lành, “dịu êm” khuyên mời mọi người đến với Ngài. Và, các thánh như Phaolô Tông đồ đều đã rời xa chốn phồn hoa đô hội để tìm chốn miền có “giòng núi xanh”, chốn đạo lành, mà ủy thác cho lãnh đạo cộng đoàn trông nom chăm sóc, thế giới Nước Trời.
    Thế giới Nước Trời rất mới của các ngài trong Thánh Hội bây giờ, nằm rải rác ở đây đó, chốn đời thường Nước của Chúa ở trần gian, không cứng ngắc đóng trụ ở xứ đạo nghe nhiều kinh kệ, chứ đâu bằng hành động “dịu êm”, có suối mát. Hội (của các) thánh hôm nay lại đã sinh hoạt rải rác ở chốn miền có suối nước. Có “Liễu Xanh – Xanh Lả Lơi”, hằng tỏ hiện. 
    Chẳng thế mà, xã hội trời Tây hôm nay vẫn bình chân như vại khi thấy xứ đạo mình nay cứ thờ ơ, vắng lạnh. Chẳng ai đến. Ở chốn miền nhiều sinh hoạt hấp dẫn, Nước Chúa ở trần gian xem ra muốn đi dần vào chốn dân gian tục trần, hơn là tự đóng khung mình ở chốn vắng xưa cổ. U uẩn. Buồn tẻ.
    Nếu hỏi người trẻ hôm nay, đâu là Nước của Thiên Chúa có niềm vui dân dã chốn Thiên Đường, chắc chắn họ sẽ trỏ cho người hỏi biết chốn/miền sinh hoạt chuyên lôi cuốn đám người thích vui chơi. Hát hò. Nhảy nhót. Chứ đâu nào bó gối ngồi lầm lì ở hàng ghế đứng ngồi có lớp lang. Đàng hoàng. Có quá đáng chăng, nếu cứ bảo: Nhà thờ, Hội thánh hoặc giáo xứ mai ngày lại sẽ xuất hiện ở đâu đó chốn tục trần có niềm vui dân dã, không hề dứt.
    Có kẻ hỏi: phải chăng đó là nhà trường. Người lại bảo: đúng ra, là phố chợ. Nhà hát. Cung thể thao. Nơi bọn trẻ đùa giỡn với trò chơi trên màn hình, hoặc di động. Đó, có thể là trang blogs, Facebook, Twitter. Hay, cùng lắm ở tại nhà. Có bạn bè/người thân, rất quây quần! Nhất nhất, là chốn “êm đềm” để người người già/trẻ trai gái đến đó mà tụ họp, mặt đối mặt. Tay cầm tay. Hay, dắt nhau đi vào “mạng nối kết”. Thứ mạng những móc nối và liên kết nhau bằng thông tin “êm đềm”. Nhiều san sẻ. San cho nhau, tình thương yêu chân chất, rất đùm bọc. Sẻ với nhau, cảnh huống để sống rất hợp thời. San và sẻ, những là của dư/của để, mà cho đi. Cho, cả vật chất. Tài năng. Kiến thức rộng/hẹp. Cho đi và san sẻ, theo đúng ý nghĩa mà Đấng Thánh Nhân Hiền từng nhủ khuyên.
    Thế đó, là tư tưởng bộc phát, khi người nghệ sĩ hát lại ca từ ở đầu bài:

            “Tôi muốn đưa em qua miền giòng núi xanh.
 Chúng ta cùng thăm con suối dịu êm.”
(Văn Phụng – bđd)

    Dĩ nhiên, nghệ sĩ ngoài đời hay đấng bậc trong Đạo, chẳng dám đánh bạo khuyên nhủ người nghe đi vào chốn miền đầy những núi, chẳng thấy được giòng suối róc rách. Chỉ thấy lao xao, rộn rạo những lời và lời khô khan. Cứng ngắc. Rất xin xỏ.
Nếu quan niệm Nước Trời, là chốn miền để dân con Chúa tập họp nguyện cầu, thiết tưởng cũng nên nhớ lại lời dặn dò của Thày Chí Thánh, còn vang vọng mãi hôm nay:

            “Còn các anh,
khi nguyện cầu, hãy vào phòng đóng cửa lại
            và nguyện cùng Cha của các anh,
            Đấng có mặt cả những nơi kín đáo.
            Và Cha của các anh,
Đấng thấu suốt cả nơi kín đáo,
            sẽ hoàn trả cho các anh.”
            (Mt 6: 5-6)

    Nguyện cầu nơi nhà Đạo, muốn tươi vui hấp dẫn tuổi trẻ, cũng nên thêm vào các ý/từ ấy, lời thơ giòng nhạc mà nghệ sĩ trên từng nhắc nhở:

            “Xin em biết nhé cho tình hai chúng ta,
            Trong ý thơ, cung đàn và suối tóc mơ.”
            (Văn Phụng – bđd)

    “Tình hai chúng ta”, hay tình Chúa với tình người, vẫn nằm gọn trong ý thơ. Giòng nhạc có lời cầu. Có cả cung đàn mềm như suối tóc và “suối tóc” xưa mà nhà nghệ sĩ thân thương khi xưa từng trân trọng. Là, “suối nước” cần mang đến cho mọi người. Cả người ngoài, ở đời cũng như trong Đạo.
Để diễn rộng “ý thơ” và giòng chảy có lời cầu tha thiết giống “suối tóc” ở trên, cũng nên minh hoạ thêm bằng đôi ba nhận xét ý nhị. Trong sáng. Không mang tính kể lể nhưng rất dễ nể, sau đây:

“Vào mùa đông, người người thường thấy hàng đàn vịt trời bay thành hình chữ V, xa đến cả trăm dặm từ Bắc xuống Nam, mà không mỏi cánh, cũng chẵng chồn chân.
Tìm hiểu duyên do tại sao lại có chuyện đó, các nhà khoa học mới khám phá ra rằng: vịt trời bay theo đàn là có những qui luật hợp quần rất đáng nể. Nể, về tính tương thân tương trợ của thọ tạo. Nể, về tính chất tập thể rất đỡ nâng của chúng.
Mỗi khi vịt bầy vẫy cánh tung bay, chúng thường tạo thành luồng gió quyện vào nhau và tạo thành hấp lực nâng các chú vịt bay sát cạnh. Xem như thế, khi bay theo đội hình chữ V, con nọ nương vào hấp lực của con kia. Nhờ đó, chúng có thể bay nhẹ nhàng hơn và gia tăng khả năng bay được độ dài gần gấp đôi.
Với loài người, cũng không khác là bao. Nếu người người có cùng chí hướng mà tìm cách hợp quần thành nhóm hội, cộng đoàn để nương nhau mà sống hoặc sinh hoạt, hẳn sẽ đạt được mục tiêu cao hơn.
Thứ đến, khi chú vịt nào rời xa khỏi đội hình mình đang có, nó sẽ thấy đuối sức vì phải tự lực cánh sinh, nên càng phải cố gắng trở lại đội hình mình đang bay, có thế mới nương vào hấp lực của những con bay ở phía trước. Con người cũng thế, nếu người người biết kết đoàn, tay nắm tay thân thương xiết chặt hàng ngũ, không xa rời nhóm hội/cộng đoàn mình hợp tác, vẫn lợi thế hơn mọi cung cách riêng tư, xé lẻ.
Chỉ riêng chú vịt đầu đàn là không hưởng được hấp lực của chúng bạn cùng phi hành, nên nó dễ mệt. Khi nó mệt, lập tức sẽ phải trở xuống nương vào đội hình mình, để con khác khoẻ mạnh hơn sẽ bay vào vị trí dẫn đầu. Cứ như thế, đội hình của chúng sẽ nương nhau mà hợp sức, đâu cũng tới. Trong nhóm hội/cộng đoàn của loài người cũng thế. Vai trò lãnh đạo/quản trị cộng đoàn phải thay luôn, tuỳ tình thế. Có rập theo tinh thần yêu thương nương tựa là đặc trưng của dân con Đạo Chúa, có tương thân tương ái và hợp lực, mới có thể tồn tại lâu dài và sống sót.
Trong hành trình bay theo độ, đàn vịt thường kêu lên thành tiếng kêu oang oác là để thúc giục nhau bay theo một tốc độ, đã định sẵn. Trong nhóm hội, tập thể của loài người cũng thế. Người người phải biết nhắc bảo nhau giữ vững tinh thần hay thắt chặt tình thân người đồng loại. Có thế, mới kéo dài sức lực, mà chống trả mọi buồn chán, ngã lòng. Trong quân ngũ, khi duyệt binh song hành, quân nhân các cấp thường lên tiếng đếm bước một hai hoặc hát lên bài đồng ca nào đó, để đoàn quân đi có thể bước đều theo nhịp quân hành, mà tiếp tục.
Khi có chú vịt trời bị đau ốm hoặc thương tích phải rời đội hình đang bay, sẽ có hai chú vịt đồng hành rời bầy để bay theo mà nâng đỡ, bảo vệ. Hai chú tháp tùng sẽ bay cạnh chú vịt đau yếu cho đến khi chú kia tự bay một mình hoặc rơi xuống đất chết tuột, hai chú tháp tùng kia mới bỏ chú vịt bị nạn, để kịp lướt theo đoàn bay.
Nghĩ về tinh thần đồng đội và qui luật đỡ nâng của đàn vịt, hẳn người người sẽ nhận ra nơi đó một bài học thiên nhiên/đất trời ban tặng mà xử sự với nhau, theo tinh thần mà Đấng Tạo Dựng, từng bảo ban.” (phỏng theo “Chicken Soup for the Soul)

    Nhìn bày vịt trời thao tác thành đội hình có nâng và có đỡ, hẳn là bạn phiếm lại sẽ liên tưởng đến cảnh tình Nước Trời Hội thánh đang cần đỡ nâng, bằng tình yêu. Có như thế, người nhà Đạo rồi cũng tìm ra “Liễu Xanh – Xanh Lả Lơi”, trong đời mình. Bởi, đỡ nâng/giùm giúp luôn là chất keo sơn gắn dính tình cộng đoàn, ở mọi nơi. Chí ít, là nhà Đạo.
Thẩm định như thế, nay mời bạn và mời tôi, ta đi vào kết cục của chuyện phiếm, bằng đề nghị cuối, rằng: dù ở chốn miền có “giòng núi xanh” có “tìm cho thấy Liêu Xanh – Xanh lả lơi” hay không, cũng nhớ “hình bóng ai” mà người người nghĩ đến, sẽ như lời bạt từ nghệ nghĩ:

            “Xin cho suối nước non ngàn tìm đến nhau.
            Như chúng ta đôi lần hàn gắn thương yêu.”
            (Văn Phụng – bđd)

    Một đã hàn gắn thương yêu rồi, thì cũng đâu cần gì khác cho mình và cho người nữa, hỡi bạn hiền!  

    Trần Ngọc Mười Hai
    Không chỉ mong muốn cộng đoàn Nước Trời
sẽ hàn gắn thương yêu chỉ một lần rồi thôi.
Nhưng vẫn làm thế, bây giờ và mãi mãi.
Suốt đời.


29.  “Thôi thì thôi, để mặc mây trôi”
“Ôm trăng đánh giấc, bên đồi dạ lan
Thôi thì thôi chỉ là phù vân.
Thôi thì thôi nhé, có ngần ấy thôi.”
(Phạm Duy – Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng)
(1 Ph 3: 10-12; Dt 1: 1-3)
Ấy chết. Ai lại hát và ca những lời buồn đến là thế. Bởi, dù cho anh/cho em, có kiếm được Động Hoa (rất) Vàng; hoặc, có “ôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lan” cách nào đi nữa, thì mọi sự đâu vì thế mà trở thành phù vân. Mây trôi. Phù vân hay mây trôi, đâu là những sự rất thật, mà nghệ sĩ nhà mình, đến phải hát khúc nghê thường, và rợn rùng với những câu:

“Chim ơi, chết dưới cội hoa.
Tiếng kêu, rơi rụng giữa giang hà
Mai ta chết dưới, cội đào.
Khóc ta xin nhỏ, lệ vào thiên thu. “
(Phạm Duy – bđd)

Thiên thu hay “ngàn thu áo tím”, vẫn còn đó những người hết ỉ ôi ngồi đó cho thêm sầu. Rồi còn “nhỏ lệ vào thiên thu”. “Chết dưới cội đào”. Như một số nhân sĩ trong/ngoài nhà Đạo, tuy không khóc lóc hỡ ôi, nhưng vẫn dùng lời ca rất ư là sướt mướt, mà tả oán như:

“Thôi thì em, chẳng còn yêu tôi.
Leo lên cành bưởi, khóc người rưng rưng
Thôi thì thôi, mộ người tà dương
Thôi thì thôi nhé, đoạn trường thế thôi.”
(Phạm Duy – bđd)

Đoạn trường, dù chỉ thế thôi, xin cũng đừng khóc. Cuộc đời, dù vẫn là như vậy, cũng chớ than. Hãy như đấng bậc vị vọng nào đó trong Đạo, vẫn có nhận định sáng suốt, về đời người. Và người đời. Nhưng Ngài không khóc. Và cũng chẳng than. Bởi, có than hoặc khóc cho lắm cũng chẳng được việc gì. Chi bằng, ta cứ xác quyết một lời ca rất chắc nịch, rằng: “Thôi thì thôi nhé, đoạn trường thế thôi!”
Thông thường, ở vào “đoạn trường” nào đi nữa, bần đạo cũng rất ngại phải lập đi lập lại nhận định của quan chức/bề trên rất cao sang bề thế, ở đâu đó. Nhưng, lại cũng có những nhận định nghe kỹ thấy rất đúng. Vì thế nên hôm nay, bần đạo xin phép được chuyển đến bạn bè người thân, những lời này:

“Năm vừa rồi hay trước đó không lâu, Chúa cứ phải đón nhận những lời rất tiêu cực, từ các mục quảng cáo phổ biến trên truyền thông, nói tiếng Anh. Nói cho cùng, cũng khó mà tấn công và đả kích Đấng Tối Cao, rồi lại bảo Ngài không bao giờ có thật ở trên đời. Thế mà, dân con Đạo Chúa, vẫn cứ là đề tài để những người chống Chúa lấy đó mà đàm tiếu. Lạm dụng. Bản thân tôi, chẳng biết các vị “phản thần” ấy, có đặt Kitô giáo làm đối tượng để họ chống đối liên tục, nhiều hơn đạo Hồi không. Duy, có một điều tôi nắm rất rõ, là: hễ đả kích người Đạo Chúa, bao giờ cũng an toàn hơn đả kích dân con bên đạo Hồi.
Hai vị phản-thần nổi tiếng thế giới là các ông Richard Dawkins và Christopher Hitchens chẳng bao giờ thấy mệt mỏi để ngưng vẽ vời tô thêm sắc mầu tệ hại lên Đạo Chúa. Tuy nhiên, những điều họ đề cập, lại khiến cho Đạo của Chúa càng được chú ý thêm. Càng có thêm sắc thái/sắc mầuqua các cuộc suy tư/thảo luận, ngày một trổi bật.
Nhiều vị, cứ vững tin vào Chúa. Tin có Chúa hiện diện bằng nhiều cung cách. Và, chỉ một số ít chủ trương đích danh chống đối Ngài. Hoặc, đối kháng các hoạt động nơi Hội thánh của Ngài. Trong khi đó, lại có vị khác chưa từng nghe biết Ngài, vẫn mở rộng lòng mình ra với sự huyền diệu của sự sống. Mở lòng với Đấng Siêu Việt Huyền Nhiệm cũng rất nhiều. Còn, mở lòng để lùng tìm một Thiên Chúa mang tính chất triết học, càng ít hơn. Có điều là, những người tìm cách chống Chúa, dễ có khuyến điểm là hay vướng mắc vào những chuyện dị đoan. Ma thuật. (x. George Cardinal Pell, Thư Mục vụ Ngày Lễ Ngũ Tuần năm 2010)

Đó là giòng chảy của đấng bậc rất vị vọng, trong Đạo, ở Sydney. Còn, nhân sĩ ngoài Đạo, cũng đã cảm kích những điều rất “Đạo” của nhà Chúa, nên đã có nhận định khá độc đáo về chất Đạo của Đạo Chúa, như sau:

“Đọc những dòng trong Tin Mừng Mt 5: 1-10 nói về các Mối Phúc Thật, điều đầu tiên khiến tôi nghĩ đến là đoạn văn muốn chỉ về việc những ai muốn dấn thân vào con đường Đạo và chấp nhận những thử thách đau khổ trên con đường Đạo, sẽ nhận được phần thưởng của sự dấn thân đó. Về vấn đề các bản văn giảng dạy lòng khoan dung đòi hỏi các bạn tự do chấp nhận thử thách, sẽ sai lầm nếu coi đó là lời khẳng định rằng đau khổ thì tốt, và tất cả chúng ta phải tìm kiếm khổ đau. Khỏi cần nói, tôi không chủ trương một quan điểm như thế. Tôi nghĩ rằng mục đích của cuộc đời chúng ta, là tìm hạnh phúc, tìm cách để được thoả mãn và sung túc. Tuy nhiên, vì những thử thách và nhọc nhằn là một phần tự nhiên của cuộc sống, nên điều chủ yếu là phải có một quan điểm cho phép chúng ta có thể đề cập một cách hiện thực để có thể rút ra một vài lợi ích.
Khi xem xét bản chất của đau khổ, chúng ta thừa nhận rằng có một số hình thức đau khổ mà người ta có thể tìm ra các giải pháp; và vì vậy, có thể chế ngự được. Một khi người ta có ý thức về đau khổ, người ta phải đi tìm giải pháp và phương tiện để chiến thắng đau khổ. Nhưng, cũng có những loại đau khổ không thể tránh khỏi và chế ngự được, cũng là những sự kiện tự nhiên của cuộc sống. Trong những trường hợp như vậy, điều quan trọng là triển khai một trạng thái tinh thần cho phép tiếp cận sự đau khổ một cách hiện thực. Làm được như vậy, chúng ta có lẽ sẽ đi tới việc chấp nhận những khó khăn ấy một khi chúng xuất hiện. Một thái độ như thế, sẽ bảo vệ các bạn, không chỉ đối với thực tế vật chất của đau khổ, mà còn đối với gánh nặng tâm lý vô ích đi kèm theo, vì phải chiến đấu chống lại khổ đau.” (x. Le Dalai Lama parle de Jésus, Vĩnh An dịch, Thiện Tri Thức xuất bản 2003, tr. 37-39)

Là nhân sĩ rất lành thánh, và là trụ cột của Giáo hội, thánh Phêrô cũng có nhận định rất ư là chí lý, về nỗi sướng vui/hạnh phúc, Chúa chủ trương như:

“Thật thế,
ai là người thiết tha được sống
và ước ao hưởng chuỗi ngày hạnh phúc,
thì phải giữ mồm giữ miệng,
đừng nói lời gian ác điêu ngoa;
người ấy phải làm lành lánh dữ,
tìm kiếm và theo đuổi bình an,
vì Chúa để mắt nhìn người chính trực        
và lắng tai nghe tiếng họ kêu xin,
nhưng Người ngoảnh mặt đi,
không nhìn kẻ làm điều gian ác.”
(1Ph 3: 10-12)

Xem thế thì, nỗi vui mừng hạnh phúc, sướng vui hoặc những đau khổ/cực hình, không ở cùng một tần số diễn tả như người nghệ sĩ già từng ca hát, những là: “để mặc mây trôi”, “chết dưới cội đào”, “lệ vào thiên thu”, vv.. Mà, là: biết làm lành/lánh dữ. Biết nhận ra thông điệp thần thiêng Chúa gửi, mà đeo đuổi. Thông điệp Chúa bảo ban, là bảo và ban ngang qua các sự kiện xuất hiện rất rõ nơi các bậc vĩ nhân/thần thánh, chốn riêng tư.
Hôm nay, thần linh chư thánh vẫn cứ tỏ bày, ở nhiều chốn rất riêng tư. Các ngài vẫn chuyển đạt thông điệp êm ái với mọi người, bằng nhiều cách. Một trong những cách mà người đời nay hay gọi đó là “phép lạ/sự lạ” mà dân con mọi người chấp nhận coi như mạc khải. Về những mạc khải tương tự, có người coi đó như ơn lành Chúa ban, cho riêng mình. Người khác vẫn nghi nan. Cật vấn. Một trong những vấn nạn gửi đến đấng bậc vị vọng ở Sydney, để nhờ đức ngài phụ trách mục hỏi đáp giải thích về những sự (rất) lạ, được tóm gọn bằng những hang bên dưới:

“Tôi có người bạn cũng rất thân, đã hỏi nhiều về một số “phép lạ” Chúa Mẹ gửi đến với các đấng bậc lành thánh, ở khắp nơi. Bản thân tôi chẳng dám phẩm bình, dù một chữ. Nhưng cứ nghe thắc mắc, tôi cũng có lần lòng tự hỏi lòng mình xem có nên thắc mắc hoặc bình phẩm gì về những phép lạ mà có người gọi đó là “mạc khải riêng tư” không? Xin phép hỏi ngài tôi cần có phản ứng như thế nào, mới đúng?

Đã có người hỏi, thì đức thày linh mục John Flader thuộc giòng dõi chính qui Opus Dei cũng đâu thấy ngại ngần gì mà chẳng lên tiếng, giãi bày, như sau:

“Có thể nói, đây là một trong những thắc mắc khá tinh tế, nhưng thú vị. Đây, cũng là câu hỏi, mà nhiều người vẫn hằng đưa ra. Hỏi, là hỏi rằng: người Công giáo ta nên tỏ thái độ như thế nào khi nghe biết có những “sự lạ” xảy ra cùng khắp, chỗ riêng tư?
Trước hết và trên hết, hãy tìm hiểu xem cụm từ “mạc khải riêng tư”, có nghĩa gì? Rồi, cũng nên bắt đầu bằng cách phân biệt các sự kiện ấy với “mạc khải chung cho hết mọi người”, tức: mạc khải Chúa ban qua Kinh thánh và Thánh truyền, gửi đến mọi người, ở trần gian.
Mạc khải, mà mọi người đều nghĩ, là: nó đã kết tận sau cái chết của vị tông đồ cuối cùng còn sống trong Hội thánh. Đàng khác, Hiến Chế Tín Lý về Mạc Khải mang tên “Lời Của Chúa” được các nghị phụ Công Đồng Vatican II bàn luận rất kỹ. Các ngài có nói: “Không có mạc khải mới nào được gửi đến với mọi người sẽ được trông đợi xảy đến trước ngày Chúa lại tỏ hiện trong vinh quang. Ngời sáng.” (x. Hiến Chế Lời Của Chúa #4)
Quả thế. Thiên Chúa gửi đến cho ta, Người Con Duy Nhất của Ngài, tức Ngôi Lời Nhập Thể. Và, Ngài còn chuyển đến ta, tất cả những gì cần thiết để ta hiểu rõ hơn ơn cứu độ. Rõ ràng là, Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã từng viết: “Đức Kitô, Con Thiên Chúa mặc xác thịt làm người, là Con Một của Chúa Cha. Ngài là Ngôi Lời kiện toàn và không gì có thể lướt vượt trên Ngài được. Nơi Ngài, Thiên Chúa đã mạc khải hết mọi điều, để ta hiểu. Và như thế, sẽ không còn lời nào được mạc khải rõ hơn nữa về chính Ngôi Lời của Thiên Chúa.” (x. sách GLHTCG đoạn #65)
Sách Giáo lý Hội thánh còn trích dẫn lời thánh Gioan Thánh Giá, khi thánh nhân giải thích rõ hơn bằng những từ ngữ sinh động như: “Khi ban cho ta Con Một Ngài, là Ngôi Lời Duy Nhất có một không hai, Thiên Chúa đã nói với con người duy nhất chỉ một lần, qua Ngôi Lời -và Chúa không còn gì để nói nữa-bởi, những gì Ngài đã nói ngang qua các ngôn sứ thời trước, thì nay Ngài còn mạc khải chỉ một lần thôi bằng cách ban cho ta trọn vẹn Ngôi Lời là Con Một Ngài. Thế nên, những ai vấn nạn Chúa hoặc ao ước được có thêm điều lạ/thị kiến hoặc mạc khải, đều là phạm lỗi. Lỗi tội, không chỉ một hành vi ngông cuồng/rồ dại màthôi, nhưng còn do mình đã cả gan xúc phạm đến Ngài nữa. Xúc phạm, vì không những ta không ngước mặt nhìn Ngài qua Đức Kitô thì chớ, lại cứ hay thắc mắc/tìm tòi về những sự lạ/phép lạ nào khác, mới mẻ nữa.” (x. Biến hình trên Núi Camel, 2 22, 3-5; và Thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Do Thái 1: 1-2; sách GLHTCG đoạn #65)
Với những lời như thế, thánh Gioan Thánh Giá cũng đã phần nào trả lời cho câu hỏi mà anh/chị nêu ra. Nói tóm lại, các thánh khuyên ta hãy ngước mặt nhìn vào Đức Kitô, cách trọn vẹn. Ngài là Ngôi Lời độc nhất Thiên Chúa mạc khải cho ta. Bởi thế, ta cũng đừng nên đeo đuổi kiếm tìm sự lạ/phép lạ, nào khác.
Nói thế, tức là: mạc khải riêng tư không quan trọng sao? Không phải thế. Trả lời thắc mắc/khiếu nại gì, thì cũng nên nghe lời sách Giáo Lý Hội thánh, vẫn viết tiếp: “Trải qua năm tháng cùng nhiều thế kỷ, một số trường hợp được gọi là mạc khải “riêng tư”, được Hội thánh chuẩn nhận. Tuy nhiên, mạc khải ấy không cốt để củng cố niềm tin. Tức, nói thế không có ý bảo rằng Hội thánh có nhiệm vụ phải cải thiện hoặc hoàn tất Mạc Khải Chúa truyền đạt, nhưng Hội thánh làm thế là để giúp cho thành viên Hội thánh sống trọn vẹn điều Chúa bày tỏ, ở giai đoạn nào đó, trong lịch sử.“ (x. GLHTCG đoạn #67)
Xem như thế, thì “mặc khải riêng tư” không thêm gì vào những điều Chúa đã dạy, mà cốt chỉ để giúp dân con sống trọn vẹn điều Ngài dạy dỗ. Trong các mạc khải riêng tư được Hội thánh công nhận,tức như những điều Chúa tỏ bày cùng thánh nữ Magarét Maria Alacoque về lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa. Hoặc như: ảnh lạ Chúa ban cho thánh nữ Catarina Labôrê; hoặc lời nhắn gửi đến dân con Đạo Chúa hãy chuyên cần lần Chuỗi Mân Côi do Đức Mẹ nhắn gửi các thánh ở Lộ Đức, Fatima. Và thêm nữa, là: mạc khải về việc tôn sùng Lòng Chúa Xót Thương mà thánh nữ Faustina Kowalski nhận được từ Chúa.
Tất cả các mạc khải nói trên, đều giúp dân con nhà Đạo sống trọn vẹn điều Chúa khuyên dạy, từ ngàn xưa.
Mới đây, nhiều bản tường trình đề cập đến các dấu chỉ cũng như sự lạ mà dân con Chúa vẫn nhận được từ nhiều nơi, kể cả Úc, theo đó thì: một số sự lạ, có nguồn gốc siêu nhiên, theo sau là những hiện tượng làm bằng chứng mà cứ sự thường ít có ai giải thích được, bằng lẽ thường.
Nhiều sự kiện khác tuy không xác thực cho lắm, nhưng vẫn bao hàm một sứ điệp rất xứng hợp với giáo huấn của Hội thánh. Các sự kiện như thế vẫn có lợi cho người nhận. Và đôi lúc còn cho cả những người khác nữa.
Dầu sao đi nữa, cũng nên nhớ rằng: qua Hội thánh, Chúa đã tỏ bày những gì ta cần biết, ngõ hầu ta có thể bồi đắp cho ơn cứu độ của mình. Bởi thế nên, hãy tạo cho mình sự an toàn, là: chỉ chấp nhận Sự Thật Chúa mạc khải cho con cái Ngài mà thôi, chứ đừng tìm kiếm phép lạ, hoặc sự lạ rất hi hữu. Bởi,nhiều sự kiện xảy ra chỉ là mánh khoé do kẻ nghịch thù đem đến, thế thôi.
Tắt một lời, cũng chẳng là chuyện hay ho gì, nếu ta cứ mải mê tìm chỗ này nơi nọ yếu tố nào khả dĩ chứng minh rằng mình nhận được “mạc khải riêng tư” rất lạ, một khi Chúa đã đem đến cho hết mọi người những gì mình cần biết, qua cái chết và sự sống lại của Con Một Ngài, là Ngôi Lời Nhập Thể. Như thế, đã là phép lạ/sự lạ lớn nhất rồi, cần gì khác nữa.” (x. Lm John Flader, Question Time The Catholic Weekly 5/9/2010, tr.12)

Hỏi là hỏi như thế. Đáp, là đáp như vậy. Tuy nhiên, sao ta thấy nhiều người vẫn cứ hỏi. Nên, đức thày lại cứ đáp. Đáp/hỏi – hỏi/đáp mãi không thôi. Đó, là cuộc đời. Một đời có nhiều thắc mắc lẫn hỏi han. Đến bận lòng.
Để cho lòng người bớt đi những bận rộn về nhiều thứ, xin đề nghị bạn/đề nghị tôi, ta hãy nên để lòng mình trùng xuống cho thư giãn bằng những giòng chảy của ai đó, rất dễ nghe, như sau:

“Khi kịp có trí khôn, tôi cố gắng học cho xong bậc trung học, để còn bắt đầu học cấp 3. Khi bắt đầu học cấp 3 được ít lâu, tôi lại cứ nhủ lòng mình là phải cố gắng học xong cho sớm để còn kiếm kế sinh nhai. Đi làm rồi, lại tranh thủ lập gia đình, và có con. Và khi đã có con rồi, tôi lại mong cho con hay ăn chóng lớn, để tôi về lại với công việc hằng ngày mà lo lắng. Sau đó, lại cố làm thêm ít năm nữa để rồi mai ngày khi về hưu, sẽ có chút gì trông nom con cháu. Cứ cố gắng hoài, cố mãi để rồi hôm nay đã thấy rằng mình quên mất một chuyện chính yếu, là: hãy lo sống trước đã, mọi việc tính sau.
Cũng thế, nay tôi thấy nhiều người cứ mải kiếm tìm chuyện lạ trong đời, để rồi tin. Và cuối cùng, chuyện lạ đâu không thấy, cứ thấy mình vớ vẩn/lẩn thẩn, luôn xục xạo mà không chịu sống, như vẫn được ông bà tổ tiên răn dạy.
Nay, thì tôi nắm được chân lý cuộc đời, là: những gì gửi đến cho tôi, dù không mới mẻ vẫn cứ là quà tặng không biếu không do Bề Trên gửi để tôi sống. Sống niềm tin an lành, và vui hưởng hạnh phúc.”

Truyện ở trên, thật ra cũng chẳng làm bạn và tôi thư giãn được mấy chốc. Duy có điều khiến bạn và tôi, ta sẽ thấy thoải mái, nếu ta hiểu được câu nói của ai đó, vẫn cứ bảo: “Dưới mặt trời này, chẳng có gì mới lạ, cả đâu.”
Qua các nhận định trên, hẳn bạn và tôi là con dân nhà Đạo, ta cũng nên và cũng phải có lập trường minh định rằng phép mầu rất lạ của Chúa, còn đó nơi Tin Mừng. Phép rất lạ, lớn lao và huyền diệu nhất mà lâu nay ta vẫn nhận được cách nhưng-không là: Chúa đã trao tặng trọn đời Ngài, để dân con mọi người được cứu rỗi.
Và điểm cốt lõi của hiến tặng Chúa gửi, để dân con mọi người được lĩnh nhận Tình thương rất bao la của Thiên Chúa. Chỉ “lạ” một điều, là: ta biết thế, nhưng vẫn ngoảnh mặt, chẳng muốn nghe?
Vậy thì, hãy cùng nghe nghệ sĩ già nhạc Việt, cứ thong thả rong ca câu hát rất nên thơ:

“Rằng xưa có gã từ quan
Lên non tìm động hoa vàng ngủ say
Thôi thì thôi để mặc mây trôi
Ôm trăng đánh giấc bên đồi dạ lan
Thôi thì thôi chỉ là phù vân
Thôi thì thôi nhé có ngần ấy thôi.”
(Phạm Duy ¬– bđd)

Hát như thế, là có ý bảo: có tìm cho lắm những sự lạ hay phép lạ, cũng chỉ là phù vân. “Ngần ấy thôi.” Chi bằng, ta cứ trân quí đón nhận “sự lạ” mà Thiên-Chúa-Là-Tình-Yêu vẫn cứ ban cho ta, mọi ngày và mỗi ngày, rất khôn nguôi.

Trần Ngọc Mười Hai
Nhiều lúc tự thấy mình
chẳng khùng thì cũng điên.
Điên, vì cứ tìm và cứ kiếm
những sự lạ,
rất khó tìm.


30. “Khi mặt trời vắng bóng”
“Khi lời nguyền khuất lấp
Nghe lạc loài kiếp sống sao mỏi mong.”
( Nguyễn Trung Cang - Thương Nhau Ngày Mưa)
(Mt 3: 1-12)
Câu chuyện “Khi mặt trời vắng bóng”, “khi lời nguyền khuất lấp” mà bần đạo muốn phiếm, hôm nay, bắt đầu bằng một sự kiện đầy chất thông tin, nóng bỏng. Thông những tin, là thông suốt mọi tin tức…mình nhận được từ nhiều phía. Có những phiá/những điều gồm tóm trong tin…tức mình, được chuyển đạt đến mọi người trong/ngoài nhà Đạo, lẹ như sau:

“Chỉ trong một vài câu nói sắp được chính thức công bố, người đứng đầu Toà thánh Vatican, Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô 16 như đã bắt đầu xoá bỏ giáo điều cấm sử dụng bao cao su mà cho đến gần đây giới lãnh đạo Giáo hội Công giáo vẫn còn cực lực phản đối.
Dù chỉ chấp nhận việc dùng bao cao su trong trường hợp cụ thể là phòng chống SIDA, thay đổi lập trường của Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô 16 đã được nhiều giới hoan nghênh.” (x. Trọng Nghĩa, TAGS. Các vấn đề xã hội-Phân tích-SIDA-VATICAN, tin và ảnh của Reuters 22/11/2010)

Tin và ảnh, từ các nguồn văn bản/báo chí rất khác nhau, loan truyền đến nhiều giới những nhận định của Đấng Bề Trên trong Đạo từng chống lại mọi toan tính sử dụng các “cụ bị” hầu phòng chống căn bệnh nan y, khó chữa. Nhận định của Đức Giáo Hoàng, được ghi rõ qua lời trích và dịch từ bài phỏng vấn bằng tiếng Đức, có lời lẽ như sau:

“Trong một số trường hợp, khi ý định là để giảm nguy cơ lây nhiễm, hành động đó (tức: dùng bao cao su) vẫn có thể là bước khởi đầu để mở đường cho cuộc sống tình dục khác, nhân ái hơn.” (x. bđd)

Và, cơ quan thông tấn nọ còn ghi thêm:

“Để minh hoạ cho nhận xét của mình, Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô 16 đã nêu ra một ví dụ duy nhất, về “người đàn ông hành nghề mại dâm”, cho rằng việc người này dùng bao cao su “có thể là bước đầu tiên hướng tới hành động hợp lý, có trách nhiệm cho phép nhận thức lại rằng không phải mọi thứ đều được phép, và mọi người không thể làm tất cả mọi điều mà mình muốn.” (x. bđd)

“Không phải mọi thứ đều được phép”, phải chăng đây là phán quyết, cũng “vô ngộ”? Hay chỉ là, một trong những lời khuyên từ hôm trước, tuy không mang tính “vô ngộ”, vì không là tín điều và cũng chẳng xuất phát từ “tông toà” của đấng bậc chủ quản Giáo hội La Mã, nhưng đã thay đổi dù một chút, vẫn kéo theo những xáo trộn về uy tín? Uy tín, chứ không phải niềm tin, vào đấng ở trên.
Thật ra, câu hỏi đặt ra như thế, nào ai dám trả lời. Có trả những lời từng hỏi, chỉ là một kiếm tìm nhận định nào đó, rất rập khuôn! Rập khuôn không, cũng khó nói. Bởi, ngay trong nhà Đạo thời nay, cũng đà thấy xuất hiện nhiều chiều hướng tuy là tư duy chính quy, nhưng không cùng văn mạch, thần quyền. Thành thử, vẫn là những kiếm tìm rất kéo dài. Kiếm và tìm ánh sáng soi tỏ mọi ngõ ngách cuộc đời, nhiều lấn cấn. Lấn cấn nhất, là các ý kiến khá đối chọi. Cãi tranh. Giành được bàn.
Một trong những luận bàn khá khúc chiết, tìm được ở Úc, từ đấng bậc tên tuổi, rất Dòng Tên:

“Theo thiển ý, lời Đức Giáo Hoàng thật ra không đáng kể về nội dung cho bằng rất đáng để kể về cung cách. Ý tôi muốn nói, là: ngài cũng đã tham gia chuyện trò cùng nhà báo, về những giá trị luân lý lâu nay tự giam hãm trong nguyên tắc làm nền, nhưng vẫn đi vào với hoàn cảnh của cuộc sống, rất người. Cung cách, là cách thức của một chuyện trò thân mật giữa ngài và giới truyền thông đại chúng. Một chuyện trò, mà lâu nay vắng bóng lời công bố với chúng dân, từ nhà Đạo thời cận đại.
Trong khuôn khổ của suy tư nhà Đạo về bất cứ vấn đề có liên quan đến cuộc sống con người, để người người biết mà sống, vẫn thấy xảy ra hai loại chuyện trò. Một là, lối nói trừu tượng về bậc thang giá trị. Thông thường, nhà Đạo mình khi giáo huấn về dục tính, cung cách phát biểu thường mang dáng dấp của ngôn từ chứa đựng tình thương yêu. Với nhà Đạo, hành động giao hoan tình dục thường vẫn bị cột chặt vào với hôn nhân. Đôi lúc, cũng cởi mở để đi vào cuộc sống. Dục tính mà nhà Đạo hiểu, vẫn nối kết với tình thương yêu và lòng tự trọng. Xem như thế, thì bao cao su đâu nào có chỗ đứng, ở trong đó.
Lối chuyện trò theo kiểu đó, lâu nay chỉ dẫn đến toà cáo giải, hoặc đường hướng thiêng liêng, rất súc tích. Nói thế có nghĩa: dân con mọi người có bổn phận đem nguyên tắc của mọi giáo huấn về luân lý của nhà Đạo vào thực tại cuộc sống, cũng như hành trình của đạo đức. Rồi từ đó, không thoát khỏi vấn đề về niềm tin, luôn đính kèm.
Những năm gần đây, nhiều giới chức trong Đạo (trong đó thất có cả vai trò của Toà thánh) đã nhận ra rằng giá trị luân lý nằm trong giáo huấn của Hội thánh, đặc biệt là những điều có liên quan đến dục tính và giá trị cuộc sống của con người, đang chịu nhiều áp lực từ các nền văn hoá của phương Tây. Bởi lẽ, mọi người đều tin rằng: mọi cố gắng muốn vượt thoát các khó khăn đều bị nghi là chỉ muốn lý sự để tấn công các giá trị ấy.
Vì thế nên, mọi cuộc chuyện trò có tính mục vụ lâu nay vẫn bị quên lãng. Lãng và quên, để hỗ trợ cho một khẳng định đạo đức có nguyên tắc, dù cho nó có quy vào việc sử dụng bao cao su để đối phó với căn bệnh ngặt nghèo là SIDA hoặc có để kéo dài sự sống, hay không. Trao đổi mục vụ lại quên lãng những yếu tố đó, dẫn đến cảm giác tạo cho con người để nghĩ rằng Hội thánh chăm lo bảo vệ nền luân lý trừu tượng, nhiều hơn là chăm sóc con dân của mình. Lại càng khó hơn, khi buộc lòng phải cổ võ nhân sinh quan của nhà Đạo về cuộc sống.
Thế nên, cuộc chuyện trò phỏng vấn giữa Đức Giáo Hoàng và giới truyền thông đại chúng, là việc rất hãn hữu. Đáng kể. Đáng kể, là bởi ở nơi đó, ngài tạo mẫu cho một chuyện trò mục vụ khả dĩ đối đầu một cách có sáng tạo với cảnh tình và hành trình riêng tư của các con người người bình thường, ở đời. Ngài đã đặt mình ứng hợp với sự việc của người đàn ông hành nghề mại dâm bị nhiễm SIDA đã chọn lựa sử dụng bao cao su. Và chính ngài có nói: “Đây có thể là bước đầu hướng tới hành động hợp đạo lý, có trách nhiệm cho phép nhận thức rằng: không phải mọi thứ đều được phép, và mọi người không thể làm tất cả mọi điều mình muốn làm.”
Xem như thế, có nghĩa là: Đức Giáo Hoàng nay đã nhận thức đưọc tầm quan trọng của tình trạng người đàn ông hành nghề mại dâm đã biết định hướng cho hành động của mình. Ngài cũng công nhận rằng hành động của người ấy cần đưa vào bối cảnh một hành trình đạo lý trong đó ngay cả hành xử mơ hồ vẫn có thể có ý nghĩa tích cực.”
Trong tầm nhìn như thế, lời Đức Giáo Hoàng phát biểu không có nghiã đã phác hoạ việc phê chuẩn rất chung chung để sử dụng bao cao su. Điều đó chỉ có nghĩa: ngài đặt nặng ưu tiên lên chiều kích đạo đức trong cuộc sống của con người. Ý nghĩa đáng kể nơi lời ngài, là nhận ra thực tại cho thấy Chúa mời gọi mỗi người đi vào hành trình trong đó có cả những điểm yếu lẫn sơ xuất mà đôi lúc ta vẫn đối đầu, nhất là ở vào hoàn cảnh khó mà khẳng định về luân lý. Tất cả chỉ để nói lên sự cần thiết phải biết phục hồi tính cách mục vụ, cũng như lý thuyết cho ngôn ngữ về đạo đức, mỗi khi ta đề cập đến hành trình này.” (x. Lm Andrew Hamilton sj, Pope models condom conversation, 23/11/2010).

Nói theo bài bản của đấng bậc, thì như thế. Nhưng, nôm na la cà với nghệ sĩ, có lẽ người người sẽ không nói, nhưng lại hát:

“Bao là tình thắm thiết
Cho dài ngày nuối tiếc
Thương nhiều rồi cũng cách xa mà thôi.
Mưa từng ngày thiết tha
Mưa bàng hoàng xót xa
Còn mưa mãi giữa bơ vơ nắng trong mơ.”
(Nguyễn Trung Cang – bđd)

Hát gì thì hát, hát nhiều hát ít đâu có nghĩa sẽ làm vơi đi nỗi ưu tư lắng đọng của những người đang sống trong cảnh tình đôi ngả, như câu nói “tại anh, tại ả, tại cả hai người”. Nói gì thì nói, nói cho nhiều cũng sẽ như “bút sa gà chết”. Chí ít, là bút và lời nói, từ đấng bậc bề trên.
Nếu để mọi người tha hồ được phép nói –chứ, không là “được phép làm mọi sự”, như lời Đức Giáo Hoàng- tưởng cũng nên nghe thêm một ý kiến, từ người khác. Ở truyền thông đại chúng, rất như sau:
 
‘Đầu năm nay, Nicholas Kristof, một ký giả của tờ New York Times được gửi đến vùng sâu vùng xa, xem người người ở đó sống Đạo ra sao. Anh có gửi cảm nghĩ của anh về giáo hội Công giáo mà anh mục kích trong chuyến viễn du này, như sau: “Tôi nhận thấy hiện đang có hai Giáo hội Công giáo, sống ở đây. Một là, hệ cấp rất cứng ngắc của Vatican gồm những vị đàn ông xem ra khó có thể sờ chạm hoặc gặp gỡ, khi các ngài ra lệnh cấm đoán việc sử dụng bao cao su cả với các cặp vợ chồng mà một bên đang bị SIDA-dương tính. Đối với tôi, Giáo hội này đã và đang bị ám ảnh về các tín điều và luật lệ, để rồi bị quẫn trí với nền công lý xã hội. Tất cả những chuyện như thế, là những vang vọng rất hiện đại, là phóng ảnh của nhóm người có tên là Pharisêu mà Đức Kitô vẫn chỉ trích.”
Giáo hội kia, lại làm nhiều điều tốt đẹp hơn cho con người, mà có lẽ từ xưa tới nay chưa từng thấy như thế. Giáo hội này luôn tìm cách hỗ trợ các tổ chức trợ giúp đặc biệt như Cơ Quan Cứu Trợ Công Giáo, Caritas, là những tổ chức từng cứu sống biết bao nhiêu mạng người. Đó là Giáo hội của các linh mục Ba Tây luôn phấn đấu chống chọi căn bệnh hiểm nghèo SIDA. Có một linh mục trong nhóm trên từng thổ lộ với tôi rằng: “Nếu ông là Giáo Hoàng, ông sẽ xây dựng một xưởng máy sản xuất bao cao su ngay bên trong toà thánh Vatican để cứu sống nhiều mạng người”. Buồn thay, thực tế lại không được thế. Có lẽ, cũng tuỳ vào khuynh hướng của mỗi người khi đăng ký gia nhập trường phái giải đoán lý thuyết thần học rất chộn rộn, mới thấy rằng lời phát biểu tung trời của Đức Giáo Chủ Bênêđíchtô 16 với nhà báo Seewald về việc sử dụng bao cao su để phòng chống chuyện lây lan của căn bệnh SIDA, đã tác động như cú “đâm sau lưng chiến sĩ”, đến thế nào.
Nhiều lúc nghĩ mà thấy tội cho các tu sĩ ở tuyến đầu chống bệnh SIDA là các nữ tu làm việc ở bệnh viện lâu lâu cứ phải quỳ mọp xuống đất mà cất lên lời nguyện cầu giản đơn cho các nạn nhân căn bệnh ngặt nghèo ấy, để làm vui lòng Chúa.
Đã nhiều lần tôi cũng dám thách thức Giáo hội Công giáo “phía bên kia” khi thấy sợ trước công việc thường ngày của các nữ tu nơi tuyến đầu của cuộc chiến chống SIDA như thế. Ở các thôn làng Châu Phi tràn ngập những SIDA, thì chính các nữ tu, những vị ẩn mình dưới áo blouse mầu trắng của y tá hoặc cố vấn bệnh viện, là những người buộc phải đưa ra câu trả lời mỗi khi có người hỏi: Tôi phải nói sao đây với vợ tôi/chồng tôi là tôi đã bị “dính chấu”? Làm sao giúp các em bé còn trong bụng mẹ? Ai sẽ là người nuôi gia đình tôi đây? Chính các nữ tu ở tuyến đầu ấy mới là người cho họ thuốc chữa. Cũng là người cầu nguyện hoặc chữa chạy cho họ được khỏi bệnh khi biết chắc là họ chẳng thể nào thoát khỏi lưỡi hái của tử thần. Chính các nữ tu ấy là người ôm xác bệnh nhân khi họ trút hơi thở cuối cùng…
Tôi có dịp nói chuyện với Nữ tu Rose Bernard Groth, nay cũng đã tròm trèm 80 tuổi đời, với 25 năm kinh nghiệm làm việc chống bệnh SIDA, ở tuyến đầu. Có lần sơ nói: ở những làng hẻo lánh vùng sâu/vùng xa bên Châu Phi, nơi nữ tu chúng tôi từng sống và làm việc, thì phụ nữ ở đây không có quyền thương thảo về chuyện ăn nằm với chồng khi biết chồng mình bị SIDA. Cả những lúc các bà dám khất lần chuyện ăn nằm, thì đa phần là vợ bệnh nhân sẽ bị ăn đòn đến gẫy răng hoặc rục xương, ngay tức thời. Và, lúc chị đi nhà thờ dự lễ, cha với cố vẫn cứ đe: “Giáo hội không cho phép con sử dụng bao cao su đâu đấy nhé!” Trong những trường hợp như thế, tôi thường tự hỏi các bà vợ nhà quê ấy làm sao các bà có thể bảo vệ được chính mình …
Có lần tôi được tiếp chuyện với chị Elisabeth Reid, từng là cố vấn cho cựu Thủ tướng Úc Gough Whitlam về các vấn đề phụ nữ, chị là người có 30 năm kinh nghiệm hoạt động cho các cơ sở của Giáo hội Công Giáo ở Papua Tân Ghinê. Trong một buổi mạn đàm về giáo hội và dục tính, chị có nói:
“Ở đây, có hai giáo hội Công giáo. Một, chuyên chú thần học và một về mục vụ. Giáo hội đầu, là giáo hội ta nhận biết trên các trang đầu của truyền thông, là giáo hội tuyên bố rất to rất mạnh về các tín điều. Còn Giáo hội sau, là giáo hội âm thầm, đầy tính chất người hơn cả. Giáo hội sau, chuyên chú về các tương quan trầm lắng giữa nhà cố vấn và người nhận lời khuyên. Ở đây, người ta vẫn còn có đủ khả năng để nhận thức, suy nghĩ và hành động theo tiếng nói của lương tâm. Tôi không là thần học gia, mà chỉ là nhân chứng nay đây mai đó theo nghĩa dám nhận ra là chỉ Giáo hội nào biết chuyên chăm mục vụ, mới là Giáo hội thành công, trong mọi mặt. Thành công theo nghĩa dám thực hiện các chương trình đặc trưng mang tính xót thương và nhân bản, đúng nghĩa của Đạo Công giáo. Họ vẫn tồn tại, dù Giáo hội kia cứ cố thuyết phục họ bằng những luận giải thần học. Nói cách khác, thần học của Giáo hội này dựa trên duy nhất chỉ một tín điều, không sáo ngữ, nhưng theo ngôn từ của nữ tu này, thì đại loại là: “Nếu hôm nay Đức Giêsu có mặt ở đất miền này, thử hỏi Ngài sẽ hành động ra sao? Có lẽ Ngài sẽ đặt chân đến nơi đây để giúp những người bệnh như thế này, chứ nhỉ? Cũng thế, tôi đến đây để giúp những con nguời khốn khổ như thế này đây. Và, đó là công việc tôi đang làm. Chỉ thế thôi.”
Nữ tu Elisabeth nói đúng. Có những vị đích thực là tín hữu Đức Kitô đang sống trong Giáo hội Công giáo, cũng như trong hầu hết các giáo phái hoặc trường phái nào khác. Họ vẫn hiện diện và tồn tại, dù Giáo hội có đưa ra những huấn thị theo kiểu nào cũng mặc. Họ hiện diện trong Hội thánh chẳng vì Hội thánh đưa ra các giáo huấn như thế, nhưng họ vẫn hoạt động như người tốt lành. Nhưng nói về Giáo hội của Đức Giáo Hoàng và các vị dưới trướng của ngài, đâu có thế. Tại sao quý vị lại cứ đi nghe những chuyện khùng điên như thế. Tôi chẳng có ý bài xích gì hết. Nhưng bản chất con người vốn rất lạ. Bởi, cách đây không lâu lắm có những vị không chịu nghe lời Đức Giáo hoàng đều đã bị thiêu sống. Những người thiêu sống các vị này, phải chăng họ cũng đại diện cho Chúa cả đấy chứ? Tôi nào dám nghĩ như thế.” (x. Jo Chandler, Condom conversion validates Catholic action on the front line, 23/11/2010).

Là nữ tu, chị Elisabeth đã trả lời, chỉ như thế. Là nghệ sĩ, chắc bạn bè sẽ chỉ muốn hát:

“Như giọt buồn nước mắt
Mưa ngại ngùng héo hắt
Thương người về buốt giá trên đường xa.”
(Nguyễn Trung Cang – bđd)

“Thương người buốt giá, trên đường xa”. Đúng thế. Rất nhiều vị trong Hội thánh, cũng đang “thương người về buốt giá”, nhưng không cứ là đường xa hay đường gần. Gần nhất, ở nước Úc, nay lại có nữ phụ tên Liz Hannan, cũng thương người như mọi người, chẳng cần biết người ấy là phụ nữ hay nam nhân, qua các ý kiến rất như sau:

“Ý kiến rất mới đây của Đức Giáo Hoàng về việc sử dụng bao cao su, đã dấy lên một làn sóng phản ứng khá dữ dội. Có người không tin đó là chuyện thật. Kẻ lại nổi giận hoặc mừng vui, có đủ cả. Thậm chí nhiều vị còn tung lên các trang mạng đó đây để bầy tỏ ý kiến và lập trường, rất khác biệt. Trong các ý kiến nổi bật, có người hỏi: sao Đức Giáo Hoàng chỉ lấy ví dụ về “người-đàn-ông-hành-nghề-mại-dâm, thôi. Với người phụ nữ làm nghề mãi dâm thì sao? Sao lại cấm gái ăn sương? Sao không hối thúc họ kiêng cữ?”
Và, cũng nên thêm ý kiến của đấng bậc vị vọng, Hồng Y George Pell của Sydney, như sau: “Đây là địa hạt khó khăn và tế nhị, nếu không khéo, sẽ kéo theo những hệ lụy thảm khốc, khó lường. Tôi chưa được đọc văn bản gốc bằng tiếng Đức trích lời Đức Giáo Hoàng, nhưng các trường hợp khó khăn và ngoại lệ có thể sẽ khuyến khích người làm luật đưa ra những đạo luật không mấy tốt đẹp.”
Một phát ngôn viên của Toà thánh, Lm Federico Lombardi, cũng cố gắng chỉnh sửa lối giải thích ý của Đức Giáo Hoàng, nay được phóng đi khắp hoàn cầu, bằng một biện luận bảo rằng: “Không nên coi cung cách lý luận của Đức Giáo Hoàng như đường lối cách mạng, có khúc quanh”.
Và, Paul Collins, cựu linh mục bình luận viên nổi tiếng ở Úc về các vấn đề của Giáo hội Công Giáo cũng có ý kiến như sau: “Những gì Đức Giáo Hoàng muốn nói, Ngài đã nói ra rồi. Còn, việc của Hồng Y Pell và linh mục Lombardi chỉ là tìm cách giới hạn một sụp đổ về lập trường, thôi. Có thể nói, Đức Giáo Hoàng đang tìm cách mở hé cửa thêm một chút và cho thấy là ngài cũng hiểu chút ít vấn đề. Nói thế tức là ngài cũng đã để cho ánh sáng lọt vào rồi đấy.”
Thật ra thì Paul Collins đang muốn cho thần học luân lý nay quay về với thời Trung Cổ, tức: vào thời có tranh chấp, bạn phải chọn lựa sự xấu nào ít tệ hại hơn cả, như việc sử dụng bao cao su tốt hơn là dính vào việc lan truyền bệnh SIDA. Nên Paul Collins nghĩ rằng: khi chỉ lấy ví dụ của người đàn ông hành nghề mại dâm, Đức Giáo Hoàng cũng đã chủ ý nói về trường hợp vợ chồng khác phái ăn nằm với nhau, vẫn có nguy cơ lan truyền mầm bệnh. Và, theo thống kê năm 2006 ở Úc, đã có hơn 5 triệu người Úc nói mình là người Công Giáo. Nhưng không đầy 20% số người này nói là còn đi nhà thờ hàng tuần. Điều đó có nghĩa là: trong số những người ấy cũng không còn ngoan Đạo như thế nữa, do Giáo hội quá bảo thủ về mặt xã hội. Cuối cùng, Paul Collins kết luận: Đối với các nền văn hoá phụ hệ, là những nơi ta thường nghe các linh mục tự hỏi mình: Đức Giáo Hoàng mà còn nghĩ thế, thì linh mục bọn tôi phải làm sao đây? Thành thử, vấn đề quan trọng ở đây, là: có dấu hiệu để nhắn nhủ rằng: ở những nước có vấn đề như thế, có lẽ các giám mục cũng đến phải nhúng tay vào thôi.”
Theo thần học gia luân lý Dòng Tên là Geoff King, thì: việc Đức Giáo Hoàng thay đổi đường hướng một cách bán công khai như thế là cung cách khá cổ điển để nói lên rằng giáo huấn của Hội thánh sẽ đổi thay, một mai thôi. Linh mục G. King có nói với Thông tấn xã Công Giáo rằng: “Đã từ lâu, ta cứ bảo không! Không! Không thể như thế được. Thế rồi, chỉ một luật trừ nho nhỏ xảy đến, và cứ thế luật trừ ấy lan truyền một cách rộng rãi, mãi về sau.”
Nhiều người Công giáo, trong đó có tôi vẫn hy vọng là như thế. Để kết luận, hôm rồi nhân dự lễ phong thánh cho Hồng y John Henry Newman, một nữ tu nhắc lại lời của vị thánh này khi còn sống có nói: “Trên trái đất này, không có gì xấu xí như Giáo hội Công Giáo và cũng chẳng có gì đẹp đẽ bằng Giáo Hội ấy.” Và có lẽ đây là bước khởi đầu, nhè nhẹ, để cất đi cái xấu xí ấy. (x. Liz Hannan, Pope offers lifeline to faithful 23/11/2010)

Về lại với chuyện phiếm nhè nhẹ, hôm nay, có bạn khi nghe tin nóng hổi vừa rồi, lại đề nghị bần đạo cho một lời phiếm nhè nhẹ và văn vắn, về vấn đề này. Bần đạo vẫn cứ im lặng, chẳng dám nói một câu. Dù câu ấy mang dáng dấp của một đồng thuận hoặc bất bình trước các ý kiến trên, mà chỉ dám về lại với lời ca của nghệ sĩ trên mà ngâm nga. Ngâm rằng:

“Thương nhau thật nhiều biết mấy tin yêu
Cho nhau trọn tình dẫu có điêu linh
Xa nhau trọn đời vẫn nhớ thương nhau.”
(Nguyễn Trung Cang – bđd)

Ngâm nga rồi, bần đạo bèn nhớ lại lời của vị thánh Chủ quản Giáo Hội, khi xưa từng dặn dò mọi người trong Hội thánh, rằng:

“Anh em thân mến,
anh em đang bị lửa thử thách:
đừng ngạc nhiên mà coi đó như một cái gì khác thường
xảy đến cho anh em.
Được chia sẻ những đau khổ của Đức Ki-tô bao nhiêu,
anh em hãy vui mừng bấy nhiêu,
để khi vinh quang Người tỏ hiện,
anh em cùng được vui mừng hoan hỷ.
Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Ki-tô,
anh em thật có phúc,
bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền,
là Thần Khí của Thiên Chúa,
ngự trên anh em.”
(1Ph 4: 12-14)

Nếu thế thì, việc gì mà phải hãi sợ, dù đổi thay. Bởi, như lời vị Hồng Y nay thành thánh từng nói: chắc chắn trên cõi đời này không có gì đẹp như Hội thánh của ta. Chí ít, là khi Hội thánh đang có bước chuyển mình nào đó, rất quan trọng.
Vậy thì, hỡi bạn và hỡi tôi, ta vẫn có lý để hy vọng. Và, hãy cứ hy vọng để mà sống. Sống rất đẹp như Hội thánh ở thế trần. Hôm nay.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cứ tin và hy vọng.
Hy vọng rằng:
Rồi ra mọi chuyện sẽ tốt đẹp,
cả thôi.


31. “Từ một nơi xa xôi, cách bao núi rừng suối đồi”
“Anh gởi mấy cánh hoa về người yêu.
(Đoàn Chuẩn & Từ Linh -  Cánh Hoa Duyên Kiếp )
(Mt 28: 20)
 
Rất nhiều lần, bần đạo vẫn cứ thưa và thốt với bạn bè thích phiếm, rằng: bản thân bần đạo sở
hữu  không biết bao nhiêu là cố tật, kể không hết. Nay thấy, đồng hành với các cố tật ấy, còn có cả nỗi buồn hiện hữu của những thiếu sót nhỏ/to, chưa chịu biến.
Hôm nay, ngồi buồn kể lại kể thêm những khuyết tật cùng thiếu sót khác là quên lãng. Lãng rồi quên cả cái hay/cái đẹp nhận từ Bề Trên vẫn là quà tặng gửi đến chính mình. Kể rồi, sẽ xin chịu tội với bà con về những ưu tư/trăn trở lâu nay vẫn còn đó nỗi buồn.
Ôi thôi, nói gần nói xa chẳng qua nói thật, chỉ xin kể thêm rằng: đã hơn một lần, bần đạo được bạn bè viết thư phản hồi, rồi hỏi sao bần đệ cứ mải mê nhặt nhạnh mấy lời ca/tiếng hát của tay du ca Nguyển Đức Quang, để làm gì vậy?
Hôm nay, nhân lúc ngồi rồi, nhận được tin/bài về người nghệ sĩ du ca họ Nguyễn, ở báo điện
có đoạn thư tâm tình để thay cho lời trần tình chứng minh với bạn ở trên, một đôi câu như sau:    

“Tôi không phải là nhà phê bình âm nhạc, nhưng gọi là phiếm luận thì ai cũng có thể.  Xin phiếm như sau:
Trịnh Công Sơn kêu gọi ngồi xuống, thì Nguyễn Đức Quang thôi thúc đứng lên. Cùng trong cuộc chiến, Trịnh Công Sơn than thở, thì Nguyễn Đức Quang chấp nhận. Trịnh Công Sơn nhìn thế giới trong hoàng hôn, thì ánh bình minh lại rọi sáng với Nguyễn Đức Quang. So sánh, cả với du ca Phạm Duy sống trong thế giới mùa thu, thì du ca Nguyễn Đức Quang vĩnh viễn là mùa hè. Nếu Phạm Duy tuyệt vọng trong cuộc chiến bi thảm, thì Nguyễn Đức Quang luôn thấy “hy vọng đã vươn lên”. Nếu Phạm Duy và Trịnh Công Sơn soạn nhạc cho cuộc đời ca hát, thì Nguyễn Đức Quang soạn nhạc để chính mình cùng ca hát với cuộc đời.” (x. Giao Chỉ San Jose, Viết Cho Du Ca Nguyễn Đức Quang, Calitoday 19/02/2011)
Thanh minh lình xình về nghệ sĩ du ca họ Nguyễn như thế, bần đạo chỉ muốn thêm thắt đôi lời ở đây bằng câu hát nhặt được từ nhị vị nghệ sĩ có tên là Đoàn Chuẩn & Từ Linh, như sau:

“Từ một nơi xa xôi, cách bao núi rừng suối đồi
 Anh gởi mấy cánh hoa, về người yêu.
 Hoa lan hương màu trắng, như duyên em thầm kín,
 trong hương thu màu tím buồn.
 Hẹn một ngày nao, khi màu xanh lên tà áo,
 Tình thương lên quầng mắt, anh đón em về thuyền mơ.”
 (Đoàn Chuẩn & Từ Linh – bđd)

 Thưa xong như thế rồi, bây giờ bần đạo lại tiếp tục kể. Trước nhất, xin mượn lời nhận định của bạn viết ký tên Giao Chỉ để kể về người nghệ sĩ hát rong họ Nguyễn, rất như sau:

“Nguyễn Đức Quang, là người viết nhạc hùng với những lời ca lý luận hết sức thực tế. Đó là bài “Không phải là lúc ta ngồi mà đặt vấn đề nữa rồi”.” Hãy đứng dậy đón chào bình minh” với “Hy vọng đã vươn lên trong màn đêm, bao ưu phiền. Hy vọng đã vươn lên trong lo sợ mùa chinh chiến. Hy vọng đã vươn lên trong mồ sâu quá ưu sầu…” 
Và, Nguyễn Đức Quang cũng viết bài tình ca. Bài hát thiết tha, dịu dàng là một bài thơ phổ nhạc. Thi sĩ là ông Nguyễn Ngọc Thạch. Nhà thơ đã viết bài “Bên kia sông” độc đáo. “Núi mừng vì mây đến rồi.” Chàng nói với em rằng “Nói cho vừa mình anh nghe thôi.” Rồi những lời thơ ẩn dụ yêu thương: “Lòng đòi tình vật vã khôn nguôi.” Nhạc sĩ đã dùng lời thơ êm ái đưa vào một điệu nhạc với điều thú vị nhất là hết sức dễ hát.” (x. Giao Chỉ, bđd)
Và, một nhận định khác không kém phần nghiêm chỉnh, rất khách quan như sau:
“Du ca trở thành con đường lý tưởng của thanh niên. Tuổi 20 đi trên “Đường Việt Nam. Đi dựng lấy huy hoàng, giống da vàng này là vua đấu tranh.” Ai cũng có thể vào một buổi sáng thức giấc nghêu  ngao: “Đường Việt Nam ôi vô cùng vô tận, Đường ngang tàng ngoài biển Nam, giữa Trường Sơn”.(x. Giao Chỉ - bđd)
 
Ấy nhưng, trích và dẫn mấy điều kể trên, bần đạo chỉ muốn chứng tỏ rằng: trong đi Đạo giữa đời và với đời, ai cũng có và vẫn có những sai sót, đúng hơn phải nói là “quên sót” cũng khá nặng. Quên và sót, những lời vàng dặn dò của Thày Chí Ái, vào buổi ấy, như sau:
    
“Và này đây,
Thầy ở cùng anh em mọi ngày
cho đến tận thế."
(Mt 28: 20)

Nhưng, trước khi đưa ra một khẳng định là thế, Thày Chí Ái cũng đã khuyên mọi người:

“Vậy anh em hãy đi
mà thâu thập muôn dân thành đồ đệ,
làm phép rửa cho họ
nhân danh Cha, Con và Thánh Thần,
dạy họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.”
(Mt 28: 18-19)

Nghe lời khuyên từ Thày Chí Ái rất như thế, nhiều vị vẫn cứ hỏi han lan man những điều tưởng chừng như chưa biết, sau đây:

“Trước đây, có lần cha từng nói: Anh giáo không là Giáo hội thừa hưởng di sản Chúa để lại, qua việc kế tục vai trò mục vụ. Hôm nay, nhân thấy có sự kiện là Anh giáo đang nườm nượp sát nhập vào với Hội thánh Công giáo, xin cha cho biết di sản thừa kế nói đây là những gì và tại sao lại như thế?”

Thông thường thì, với dân con đi Đạo ở Sydney, đã không có lời hỏi thì cũng chẳng ma nào nhớ tới đức thày chuyên giải toả các thắc mắc ưu tư rất ư là linh đạo. Thế nhưng, hễ có người hỏi, là y như rằng câu hỏi sẽ được chuyển đến đấng bậc rất chính chuyên, chính mạch hoặc chính xác là đức thày linh mục mang họ Flader, tên gọi rất John, như sau:

“Nói một cách đơn giản, có thể bảo rằng việc kế tục công cuộc thừa sai/mục vụ là tiếp nối quyền hành và trọng trách rao giảng Lời Chúa khi xưa được các tông đồ của Chúa chuyên đảm trách. Nay trọng trách này được tiếp tục giao cho đấng bậc kế vị, là các giám mục ở nhiều nơi.
Khi Chúa nói với các thánh tông đồ, rằng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế", là Ngài không chỉ nói với các tông đồ gần gũi Ngài mà thôi, mà cả với các vị kế tục các tông đồ cho đến ngày tận cùng của thế giới nữa.
Mặt khác, giáo huấn Hội thánh cũng dạy rằng: các đấng kế vị các thánh tông đồ thật ra không là ai khác ngoài các Giám mục trong Giáo hội. Công Đồng Vatican II cũng dạy: “Bằng vào thể chế thánh thiêng, các Giám mục là đấng kế thừa công việc của các tông đồ chuyên lo chăn dắt đàn chiên trong Hội thánh.” (x. Hiến chế Ánh Sáng Muôn Dân, #20)
Khi các thánh tông đồ lên đường thiết lập Hội thánh Chúa tại các miền đất khác nhau trên thế giới, các ngài đã ủy thác sứ vụ giảng dạy, thánh hoá và cai quản con dân cho những vị có thẩm quyền. Và, các ngài lại đã đặt tay lên các đấng bậc kế tục để thông truyền quyền bính thánh thiêng này cho các vị ấy.
Thánh Phaolô cũng làm cử chỉ tương tự để khích lệ đệ tử Timôthê hãy tỏ lòng trung kiên với công việc rao giảng mà thánh nhân giao phó, đồng thời phần mình cũng phải làm như thế với đấng bậc khác trong Giáo hội: “Những gì anh đã nghe tôi nói trước mặt nhiều nhân chứng, thì hãy trao lại cho những người tin cẩn, những người sẽ có khả năng dạy cho người khác.I( 2Ti 2: 2)
Cũng nên biết là truớc đó, thánh Phaolô cũng nhắc nhở người đệ tử trung kiên vừa đón nhận quyền do đó, tôi nhắc anh phải khơi dậy đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh. (2Ti 1: 6)

Nếu dùng lời lẽ của thơ văn ngoài đời, có lẽ các bậc trưởng thượng trong Đạo, cũng sẽ hát:

“Đêm hôm nay chợt nhớ tới nơi xa,
lúc anh về nhặt mấy cánh hoa.
Kèm vào thư lá thư xanh màu yêu
cánh hoa duyên kiếp này tìm em trong ý thư.”
(Đoàn Chuẩn & Từ Linh – bđd)

Thật ra thì, trao hay không trao cho nhau quyền bính có trách nhiệm, vẫn là trao “cánh hoa duyên kiếp” rất hồng hào, truyền từ đời này sang đời khác, vẫn vang danh. Truyền, là truyền cho nhau “lá thư xanh màu yêu” có kèm theo “cánh hoa duyên kiếp” anh nhặt về, từ dạo ấy. Hoa đây, chẳng là hoa quyền quí, uy nghi, đáng nể sợ. Mà là hoa Tình yêu, hoa Sự thật được gói bọc bằng những trọng trách các thánh vẫn thủ giữ. Hoa mục vụ hôm nay, được diễn tả bằng ngôn từ chân chất, rất thật, như sau:

“Năm 189, lúc Hội thánh còn ở vào thời tiên khởi, thánh Irênê đã nói đến kế thừa mục vụ như để bảo đảm cho sự thật đã có mặt trong Hội thánh. Thánh nhân dùng lời lẽ như sau: “Có lẽ mọi người trong Giáo hội đều muốn biết sự thật về truyền thống các thánh chuyển giao cho ta lời Chúa dặn dò hãy rao giảng thừa sai /mục vụ cho toàn thể thế giới. Vì thế, hôm nay mọi người đều đã có thể kể tên các đấng được các thánh tông đồ trao cho quyền bính nối tiếp có từ thời của các ngài mãi đến hôm nay…” (x. Adv Haer 3, 3, 1)
Nếu thế, hôm nay, ta gặp ở đâu truyền thống nối tiếp công cuộc thừa sai mục vụ, từ các thánh? Trước nhất, là ở các Giám mục địa phận trong Hội thánh Công giáo là đấng bậc thừa kế công cuộc thừa sai rao giảng xuất từ thời các thánh tông đồ.
Cả các vị thượng phụ thuộc Giáo hội Đông Phương, mà mọi người có thói quen gọi là Đạo Chính thống, nữa. Dù, các thượng phụ này không trực tiếp hiệp thông với Đức Giáo Hoàng, nhưng các ngài cũng thuộc thánh phẩm đúng cách vì am hiểu đúng đắn bí tích nhiệm mầu của chức thánh và cũng lĩnh nhận chức thánh từ các tông đồ.
Việc kế tục công cuộc mục vụ cũng hiện hữu đối với các nhóm giáo hội từng ly khai Hội thánh Công giáo vào thời gian gần đây. Trong số đó, có các vị là Công giáo từng rời bỏ Hội thánh từ năm 1870 do Công Đồng Vatican I tuyên bố về tính vô ngộ của Đức Giáo Hoàng. Đồng thời, còn có nhóm khác mang tên Hiệp Hội Ái Hữu Thánh Piô X do Tổng Giám Mục Marcel Lefèbvre thành lập vào năm 1969. Được biết vào năm 1988 Tổng Giám Mục Lefèbvre đã tấn phong giám mục cho 4 vị mà không được sự chấp thuận của Đức Thánh Cha, để rồi cả năm vị này đều bị dứt phép thông công và Hiệp Hội của các ngài không còn hiệp thông với Hội thánh Công giáo, dù các giám mục cũng như linh mục của Hội vẫn được phong chức theo đúng qui cách .
Với người anh em Anh giáo, năm 1896, Đức Giáo Hoàng Lêô XIII khi trước có ra tông thư mang tên Apostolicae Curae, theo đó các vị này không được công nhận là có chức thánh hợp lệ, là bởi vì ngôn từ sử dụng trong lễ truyền chức cho các ngài đã sai khi thuận theo ý hướng diễn tả trong ngôn từ buổi lễ truyền chức. Đức Giáo Hoàng Lêô đã định ra điều này khi thấy sai lầm của người anh em Thệ Phản được đưa vào nghi thức truyền chức, thời vua Edward VI của Anh quốc.
Dù gì đi nữa, nay có một số giám mục và linh mục Anh giáo, đặc biệt là các vị trước đây thuộc Anh-giáo-nay-trở-thành-Công-giáo có được chức thánh hợp lệ, vì các ngài được vị Thượng phụ Chính thống giáo hoặc Giám mục Công giáo truyền thống cổ xưa truyền chức cùng với giám mục Anh giáo.
Các ngài đã hiểu đúng Chức Thánh, lại có ý hướng tốt. (x. Lm John Flader, Question Time The Catholic Weekly 13/12/2009, t. 14)

Nói cho cùng, theo thiển ý, tiếp tục việc rao giảng Lời Chúa, đó là việc hết sức quan trọng. Còn quan trọng hơn nữa, khi các đấng bậc trong ngoài Hội thánh quan ngại nhiều về sự hấp dẫn ơn gọi thực thi công cuộc mục vụ ấy. Nói về chức năng với chức thánh, là chuyện của đấng bậc cao sang quyền quí, rất ở trên.
Cuối cùng ra, tất cả vẫn là chọn lựa. Lựa, theo Chúa. Chọn thực hiện lời Chúa gọi mời, bấy lâu nay. Nhưng chọn lựa đây, phải là lựa chọn lâu dài có quyết tâm, âm thầm. Bền bỉ. Dù, người đời có chê bai. Bài bác. Cứ dấn bước. Dấn và bước sao cho có sức bật. Rất bền bỉ. Bền, như thép đã tôi luyện trong lửa đỏ. Tôi luyện rồi, nào sợ chi sức đốt toát ra từ cuộc đời. Tất cả là như thế. Mọi sự là như vậy. Vẫn thế vậy, như chuyện đời được kể ở chốn dân gian rất đời, như sau:

“Trên đường về, bà nội trợ nọ bắt gặp một đám tang xem ra có vẻ dị kỳ, bèn đứng lại mà xem xét. Một chiếc quan tài màu đen đi trước. Phía sau, chừng vài bước cũng lại một chiếc xe tương tự. Kế đó, là quả phụ mặc tang phục rất nghiêm trang, dắt theo một con chó ngao rất dữ. Theo sau bà, là cả một hàng người dài có đến 200 phụ nữa khác.
Không nén nổi tò mò, bà nội trợ đến gần quả phụ vận đồ đen kia, hỏi:
-Xin được chia buồn với những mất mát của bà. Tôi biết giờ nàykhông phải lúc để làm phiền, nhưng tôi chưa từng thấy đám tang nào như thế này cả. Đây là đám ma ai thế?
Quả phụ nghe hỏi, bèn đáp:
-Trong chiếc quan tài đầu, là chồng tôi.
-Chuyện gì xảy đến với ông ấy thế?
-Con chó của tôi cắn chết ông ấy!
-Thế còn chiếc quan tài thứ hai, đựng ai vậy?
-Mẹ chồng của tôi. Bà ta tìm cách gỡ con chó khỏi chồng tôi, nó lại quay sang cắn bà ấy chết luôn.

Sau một thoáng yên lặng, bà nội trợ ngớ ngẩn, lại nói tiếp:
-Bà cho tôi thuê con chó của bà nhé!
-Vậy hãy nhập với các bà này xếp hàng mà đi đi…

Chuyện kể đây xem ra chẳng có gì là tiếu lâm, cũng chẳng là bài học để đời gì hết. Thế nhưng, người kể truyện vẫn muốn đính kèm một lời bàn kiểu “Mao Tôn Cương” rất huề vốn, tốn thì giờ, rằng: Trong đời, cũng có nhiều cảnh huống rất trớ trêu. Người thì mải rấp ranh tranh dành nhiều quyền lực, đòi ở trên. Lại quên rằng, giới thấp cổ bé họng tuy chịu đựng, nhưng vẫn muốn thoát khỏi vòng kềm toả của uy quyền. Và, xảy ra sự thể rất khó quên, nhưng dễ hiểu. Đó là lý do xảy đến những cảnh tượng rất tréo cẳng ngỗng của thời hôm nay.
Nghe lời bàn, dĩ nhiên bạn và tôi, ta chẳng muốn lên tiếng đồng thuận hay phản đối. Hãy cứ như tôi, như bạn, vẫn cứ ngâm nga một lời ca của nghệ sĩ viết hôm trước mà rằng:

“Hồng nào xinh không gai
bướm kia đâu ngờ bẽ bàng
yêu một sớm nhớ nhau bao mùa thu
em tôi hay hờn lắm
hay tô thâm quầng mắt
hay mua hoa màu trắng
về tình em như mây
trong mùa thu bay rợp lối rồi tan
trong chiều vắng khi gió mưa về thành mưa.”
(Đoàn Chuẩn & Từ Linh – bđd)
\

Và hát thêm lời thơ yêu làm câu kết. Kết cho chuyện phiếm rất nhạt nhẽo, của bày tôi:

“Đêm hôm nay ngồi dưới ánh trăng thu
Viết tơ lòng gửi tới cho nhau
Rồi ngày mai nhắn mây đưa tờ thư
Tới em đôi mắt sầu kèm theo bao ý thơ.”
(Đoàn Chuẩn & Từ Linh – bđd)

“Dưới ánh trăng thu, viết tơ lòng gửi tới cho nhau”, là những giòng chảy rất mờ nhạt, của đời người. Hay còn gọi là giòng đời có lúc phong ba thét gầm, sóng rất lớn. Cũng có lúc, nhè nhẹ lòng những trĩu nặng, một hư vô.
Trong tâm tình có những hư vô cuộc đời đầy trống vắng, bần đạo xin được gửi đến bạn và đến tôi, một lời vàng được trích dẫn, vẫn ở trên:

“Vậy anh em hãy đi
mà thâu thập muôn dân
thành đồ đệ.”
(Mt 18: 28)

Thế đó là hiệu lệnh. Giống như truyện kể của ai đó. Rất bình thường. Nhưng không lạt. Vẫn thôi thúc, những người có quan tâm, như bạn và như tôi.

Trần Ngọc Mười Hai
vẫn ưu tư lo lắng
về một dặn dò.
từ Đức Chúa.

32.  “Đừng trách người ơi, tội thân em!”
“Làm sao bắt con tim vâng lời,
Làm khổ đời nhau, gì vui đâu,
Một khi thế gian này điên đảo.”
(Lê Hựu Hà – Đừng Trách Người Ơi)
( 1P 4: 12-14)
Đi vào đời, đôi lúc bần đạo cũng nghĩ như thế. Tức, không dông dài kể lể những chuyện trách móc, “tội thân em”. Cả chuyện “làm khổ đời nhau, (có) gì vui đâu”? Bởi, “một khi thế gian này (đã) điên đảo”, thì chuyện trách và móc chỉ lao xao. Ồn ào. Nhiều lý sự. Thứ lý sự, dẫn đến cãi tranh/biện luận để rồi tối tối ngồi nghĩ lại, thấy mình cũng hơi quá. Quá trớn. Quá lời. Và, quá đáng chăng?
Hôm nay, nhớ lại bài hát của nghệ sĩ nhà họ Lê đã bao gồm nhiều ca từ làm ta suy nghĩ:

“Có những điều mà con tim,
Vì say đắm hóa ra yếu mềm
Để bây giờ dù thương đau
Đành im tiếng ...”
(Lê Hựu Hà – bđd)

Những điều khiến con tim hoá “ra yếu mềm”? Phải chăng vì: say đắm? Để rồi đành im hơi, lặng tiếng? Phải chăng, nghệ sĩ mình cũng có nỗi sầu riêng bóng, nên mới nhủ:

“Nỗi đau này, nào riêng ai
Tình kia đã khát khao tháng ngày
Để bây giờ nhìn ngoảnh lại
Chẳng ai còn đây…”
(Lệ Hựu Hà – bđd)

À thì ra, những sự và việc khiến người/khiến mình “nhìn ngoảnh lại” thấy “chẳng ai còn đây”! Chẳng còn ai” và “chẳng ai còn…”, phải chăng là đoạn đường dài đời đi Đạo, người cũng thấy ít hăng say tỏ bày nỗi bất đồng với Hội (rất) thánh trên cao tít, ở Giáo triều? Hoặc, các “Đấng” nay bị chiếu cố. Tố khổ, thế cũng tội!?
Quả là, ở với đời tưởng chừng chiêm bao, vẫn nhiều “cay đắng lẫn ngọt ngào”, và “con tim dại khờ (cứ) nung nấu!” Những tim con hôm nay không chắc đã dại khờ, nhưng vẫn nung nấu một tình thơ, người đều ghi tạc:

“Anh em thân mến, anh em đang bị lửa thử thách:
đừng ngạc nhiên mà coi đó như một cái gì khác thường xảy đến cho anh em.
Được chia sẻ những đau khổ của Đức Kitô bao nhiêu,
anh em hãy vui mừng bấy nhiêu, để khi vinh quang Người tỏ hiện,
anh em cùng được vui mừng hoan hỷ.”
(1P 4: 12-13)

Nghe thánh nhân chịu nhiều chê trách/tố khổ, phải chăng đó cũng là thân phận của đấng bậc ở trên cao, vẫn được gọi là Đầy-Tớ-của-các-đầy-tớ-Chúa? Phải chăng đó còn là ý nghĩa của câu hát:

“Đừng hỏi vì sao mình yêu nhau
Nào ai biết đâu mây xanh mầu
Đừng hỏi tại sao mình xa nhau
Làm sao giữ được làn hư ảo.”
(Lê Hựu Hà – bđd)

Nói gần nói xa chẳng qua nói… liền. Nói lập tức. Tức, nói về sự kiện gây khúc mắc xảy đến với giáo phận Toowoomba, ở Úc. Trước nhất, hãy nói về một tin tức như sau:

“ĐGM Bill Morris, chủ quản giáo phận Toowoomba có ra một thông báo bảo rằng: ngài phải đệ đơn từ chức là vì sức ép của La Mã từng tạo nghiệt ngã cho giáo phận ở đây...
Bày tỏ về tai tiếng trong các vụ ấu dâm và cung cách giải quyết vấn đề không nghiêm túc, khiến Hội thánh Úc bị tê bại, ĐGM Morris cũng đã làm động tác giống nơi khác, tức: làm gương sáng cho nhiều người. Khi xảy ra các vụ phàn nàn về hành xử của một số linh mục ở Úc đã sai trái, GM Morris rất cương nghị. Ngài là một trong các giám mục đầu tiên ở Úc chấp nhận trách nhiệm pháp lý về các “xách nhiễu tình dục” trong giáo hội sở tại.
Rõ ràng là, việc cách chức ĐGM Morris tạo nên những mất mát không nhỏ, không chỉ cho cộng đoàn TooWoomba thôi, mà còn gây “mất đoàn kết” trong Hội thánh nữa…” (x. Lm Andrew Hamilton sj, www.eurekastreet.com.au 02/05/2011)

Hai ngày sau, cũng vị giáo sư thần học nổi tiếng Dòng Tên ở Úc, lại có thêm một giòng chảy:

“Việc ĐGM Morris bị áp lực phải hồi hưu tạo nhiều vấn đề, khá khúc mắc. Rất khó giải. Bởi, chứng cứ đưa ra để chống lại ngài và các ước định xuất phát từ đó, không được phổ biến công khai để mọi người biết.
Thư luân lưu ĐGM Morris gửi cộng đoàn giáo phận Toowoomba trước khi ngài về hưu, đề cập đến vấn đề khá bức bách. Trong tư có đoạn viết: “Tôi chưa được đọc bản cáo trạng cũng như thủ tục tố tụng lẽ đáng ra phải được vị Kinh Lược là TGM Charles Chaput trao cho tôi, nên sự việc này không những không giải quyết được gì mà còn chối bỏ quyền pháp định thông thường khả dĩ cho phép tôi có được người bào chữa chính đáng để biện hộ. Đức Giáo Hoàng cũng xác nhận điều ấy khi ngài nói với tôi: “Giáo luật không trù liệu thủ tục pháp lý nào dành cho giám mục được Đấng Kế vị thánh Phêrô đề cử hoặc cách chức, cả.”
Người ngoài cuộc, thường qui chiếu hệ thống pháp lý của Anh để thấy rằng vụ việc kể trên chừng như vẫn thiếu xót thủ tục pháp lý và công lý rất cần; do đó, có thể coi đây như một vụ tai tiếng khác. Dĩ nhiên, hệ thống pháp lý của Hội thánh không dựa trên luật của Anh, trái lại còn đi xa và đi ngược lại. Cũng có thể, hệ thống này đưa ra một bảo đảm về luật pháp mà người ngoại cuộc không nắm bắt, chăng?
Sự khác biệt giữa hai hệ thống pháp lý trên vẫn khiến cho các quan sát viên Công giáo có thắc mắc: sao Đức Giáo Hoàng lại chối từ một thủ tục pháp lý như thế, cho đúng với cương vị của ngài? Có vị còn nghĩ: có thể mọi người cho là: ở cương vị tối cao của ngài, Đức Giáo Hoàng được miễn không cần theo thủ tục pháp lý thường có, đối với hệ thống pháp luật khác.
Muốn hiểu được quan điểm của Đức Giáo Hoàng, có lẽ cũng nên ngược giòng về với Tin Mừng, để thấy được là vị trí của Đức Giáo Hoàng là dựa trên chức năng của thánh Phêrô đối với 12 Tông đồ, được Chúa chọn. Theo đó, mọi người hiểu là: Đức Giám Mục thành La Mã có quan hệ với các giám mục địa phương cũng tương tự như quan hệ giữa thánh Phêrô và các thánh Tông đồ. Thánh Phêrô là một trong nhóm 12 Tông đồ Chúa, nhưng ngài lại được Chúa chọn làm thủ lãnh các vị ấy. Thánh nhân có trách vụ củng cố anh em đồng môn để chung sống và rao giảng Tin Mừng.
Điểm tương đồng giữa vai trò của Đức Giáo Hoàng và thánh Phêrô đề ra một điều là quyền hạn Đức Giáo Hoàng là quyền riêng của ngài, không cần có sự đồng thuận của các giám mục, khi ngài quyết định việc gì. Qua nhiều thế kỷ, người ta vẫn tìm cách hạn chế quyền của Đức Giáo Hoàng bằng cách đặt quyền hạn ngài dưới quyền của Hoàng Đế và các Hội đồng/Ủy Ban trong Hội thánh, có được sự đồng thuận từ các giám mục. Các hạn chế như thế đã không thành công trong việc đặt nền tảng giảm thiểu tầm mức quan trọng của Đức Kitô trao ban quyền cho thánh Phêrô; và qua đó, cho Đức Giáo Hoàng, để ngài củng cố sự hiệp nhất niềm tin của Hội thánh, trên hoàn vũ.
Việc ĐGH Bênêđíchtô XVI tuyên bố ngài có quyền bổ nhiệm cũng như cách chức bất cứ giám mục nào dưới trướng, mà không qua thủ tục pháp lý, phản ánh sự việc lâu nay Giáo hội Phương Tây cố bảo vệ quyền tối cao của Đức Giáo Hoàng. Đặc trưng về quyền mà thánh Phêrô có, tức: Đức Giáo Hoàng không lệ thuộc vào luật Hội thánh khi ngài sử dụng quyền tài phán. Quan điểm này, quả cũng cứng như kim cương.
Tuy nhiên, dù Đức Giáo Hoàng có quyền cách chức các giám mục trong các trường hợp có thể, cũng vì ích lợi cho ngài và cho Hội thánh do ngài phục vụ. Làm như thế, là để khuyến khích sự hiệp nhất trong lòng tin. Việc khuyến khích, có gia tăng hoặc giảm bớt quyền bính là tuỳ tâm trạng người Công giáo có tin là ngài sử dụng quyền bính một cách khôn ngoan và có trách nhiệm không.” (x. Lm Andrew Hamilton sj 04/05/2011)

Nên chăng, ta hát thêm lời ca làm nhẹ bớt tình trạng gay go/khốn khó, với nghệ sĩ:

“Xin trả lại từng trăng sao
Từng câu nói yêu thương ban đầu
Mơ đã tàn, mộng đã tan
Chẳng ... nợ ... gì ... nhau.”
(Lê Hựu Hà – bđd)

Hát, là hát câu “trả lại trăng sao”, “chẳng nợ gì nhau” như thế. Nhưng thực tế, sự việc đâu nào giản đơn. Chí ít, về “hiệp nhất trong niềm tin”, khi sự tin tưởng bị sứt mẻ, như đấng bậc trên còn viết:

“Phản ứng trước việc toà thánh La Mã thúc ép ĐGM Morris về hưu non, các giám mục ở Úc đã hành xử khá đẹp như mọi người trông chờ. Các vị khẳng định: Đức Giáo Hoàng có quyền cách chức giám mục và nói lên cung cách tư riêng và phẩm chất mục vụ của vị ĐGM Morris. Các ngài đã báo cáo tình trạng xảy đến sau việc cách chức và hứa sẽ nêu vấn đề thủ tục pháp lý với Đức Giáo Hoàng.
Chất giọng trong báo cáo cũng đem lại hy vọng là các Giám mục Úc hứa duy trì quan hệ cá nhân với ĐGM Morris vẫn cần thiết hơn ngôn từ qua lại. Tuy nhiên, trên hết mọi sự, điều quan trọng là nên coi xem giáo phận Toowoomba đặt tin tưởng thế nào vào việc quản cai giáo phận. Một điều ai cũng thấy, là: những đổi thay về văn hoá nói chung, đã ảnh hưởng lên thể chế, cả giới cầm quyền trần thế lẫn giáo hội.
Thực tế cho thấy nhà cầm quyền nào cũng dựa vào sự âm thầm tin tưởng của dân chúng nếu việc quản cai vẫn trôi chảy. Thông suốt. Không có được sự tin tưởng, hẳn là sẽ chẳng ai tuân thủ luật pháp. Một khi không còn ai tin tưởng nữa, thì xã hội sẽ bị đình trệ. Mất ý thức về lợi ích chung. Người người sống lệch hướng và giới cầm quyền sẽ cai trị bằng ức chế. Đàn áp. Thống trị. Và quan chức có trọng trách quản cai lớp người ở dưới sẽ biến chất và mất hứng quản trị.
Vì mất sự tin tưởng, mà các thể chế ở Đông Âu khi trước, và bây giờ là các nước ở Trung Đông, đang bị lật đổ. Lãnh tụ chế độ phải nại vào phương tiện truyền thông tối tân để khai phóng hình ảnh mình và các giá trị mình tiêu biểu. Nhân cách đã trở thành diện mạo của chế độ; và từ đó, đảm bảo có được sự cai trị tốt đẹp.
Trường hợp ĐGM Morris bị ép buộc về hưu non sẽ nhận rõ hơn, nếu ta nhìn vào bối cảnh rộng lớn. Giáo hội Công giáo chịu ảnh hưởng từ các đổi thay về truyền thông. Cách riêng, vào triều đại Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, khi giới chức cầm cân nảy mực đã nhịp nhàng cân nhắc tổ chức các chuyến đi ra nước ngoài cho Đức Giáo Hoàng cốt để thăng hoa hình ảnh của vị Giáo Hoàng đương đại, cũng như đẩy mạnh giá trị lãnh đạo Giáo hội, bằng vào tập trung nhấn mạnh lên nhân cách của ngài.
Tập trung như thế, đương nhiên kéo theo những suy luận và đồn đoán sẽ có sự ăn khớp giữa hình ảnh về Đức Giáo Hoàng và các giám mục. Và làm thế, có thể sẽ nói lên quyết tâm của các ngài về việc trở về với giá trị Tin Mừng mình rao truyền? Và từ đó, hình ảnh giáo hoàng của ngài đã trở nên không thể kềm chế được nữa. Chất xúc tác từng tạo ra cái nhìn trải rộng khắp nơi, cho thấy: hình ảnh về Giáo hội và thực tại cuộc sống đúng Tin Mừng, không còn ăn khớp với nhau nữa. Điều này lại được truyền thông/báo chí khai thác tối đa, qua các vụ tai tiếng liên quan đến “xách nhiễu tình dục” trong Giáo hội, mà một số Giám mục đã xử lý không đúng cách, trong đó phải kể cả Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nữa. Chừng như, hôm nay, Giáo hội đặt trọng tâm khá nhiều không còn vào con người nữa, mà vào lợi ích của thể chế, thì đúng hơn.
Việc Toà thánh La Mã đối xử với ĐGM Morris như vừa kể, đã dẫn đến nguy cơ làm mờ nhạt hình ảnh tốt đẹp mà Giáo hội muốn có. Bởi lẽ, câu chuyện về đấng bậc nhân hiền ở giáo phận quyết tâm khuyến khích Giáo hội hành xử cho đúng đắn và kiên định khi phải đối đầu với tai tiếng, lại bị cấp trên của mình cách chức bằng một thủ tục hành chánh, thiếu trong sáng. Những thứ đó cộng lại, càng làm cho nhiều người mất tin tưởng vào Giáo hội. Và, càng làm cho những người này đi đến kết luận là: Giáo hội nay chọn lựa cung cách đối xử theo kiểu của nhà độc tài, toàn trị.
Rõ ràng là, với phần đông người Công giáo hôm nay, Đức Giáo Hoàng và các giám mục vẫn là trọng tâm để họ đặt tin tưởng. Mọi người vẫn gắn bó với Giáo hội, vì họ đã gặp Chúa khi nối kết thiết thân với Kitô-hữu khác. Những vị như thế, dám có ý nghĩ là toà thánh La Mã và các giám mục địa phương vẫn có cái nhìn tốt về Hội thánh, nhưng họ ít quan tâm đến quan hệ của các đấng bậc ở trên.
Tuy thế, với nhiều người, chí ít là các vị sống tại giáo phận Toowoomba, nhất là những vị có tâm thức cao, thì việc cách chức ĐGM Morris đã và đang xói mòn dần sự tin tưởng vào Đức Giáo Hoàng và các giám mục.
Thật ra, thì các ngài vẫn là hình ảnh của Hội thánh và vẫn quyết tâm gắn bó với Tin Mừng. Nhưng, vấn đề là giá trị của Tin Mừng và của xã hội ta đang sống có phản ánh qua cung cách của những người ở trong đó, đối xử tốt với nhau không? Và, vấn đề còn lại, là: làm sao ta có thể tuyên dương Tin Mừng cũng như đề cao giá trị tốt đẹp của Lời Chúa, khi xã hội ta đang sống vẫn đầy những nghi kỵ. Đã mất tin tưởng về nhiều thứ? (x. Lm Andrew Hamilton www.eurekastreet.com.au 15/5/2011)

Thế đó, là nhận định của đấng bậc giảng dạy thần học tại Đại Học Liên Dòng ở Melbourne, Úc. Ở đây, có lẽ cũng nên thêm đôi điều từ một thông tin về thư mục vụ của ĐGM Morris gửi cộng đoàn trong giáo phận Toowoomba, Úc:

“Thư mục vụ Mùa Vọng 2006 được coi như bước khởi đầu cho cuộc tranh cãi về việc cách chức ĐGM William Morris, trước nhất đề cập đến kế hoạch cung cấp lãnh đạo cho tương lai giáo phận trong tình hình các thánh lễ và số linh mục hiện đang giảm sút.
Qua thư gửi cộng đoàn kẻ tin trong giáo phận, ĐGM Morris thông báo rằng đến năm 2014, giáo phận Toowoomba sẽ chỉ còn 6 linh mục ở độ tuổi 65 hoặc trẻ hơn có địa bàn làm việc ở giáo xứ, và hiện nay chỉ có 3 linh mục tuổi từ 61-65 và tám vị ở độ tuổi 66-70. ĐGM Morris dự kiến đến năm 2014, sẽ chỉ có hai linh mục ở tuổi 65 và trẻ hơn, hai linh mục ở tuổi 66-70 và một giám mục ở độ tuổi 70-75 thôi.
Khi thông báo tình hình khá bi đát như thế, ĐGM Morris đã viết một đoạn thư ngắn, và có lẽ đoạn này đã làm ngài mất chức. Đoạn ấy như sau: “Tuy chúng ta vẫn tin vào tính ưu việt của Tiệc Thánh Thể cũng như sự liên tục và sống còn của cộng đoàn giáo xứ, có lẽ ta cũng nên cởi mở hơn, với các giải pháp chọn lựa khác, để đảm bảo rằng Tiệc Thánh vẫn được tiếp tục cử hành như xưa. Ý kiến mà cộng đoàn thế giới cũng như trong nước và tại khu vực đã đề cập, có thể ta cũng nên nghĩ đến việc: phong chức cho các nam nhân nào đã có gia đình, còn độc thân hay goá vợ, đã được cộng đoàn giáo xứ tuyển chọn và xác chứng. Cũng nên tiếp nhận các cựu linh mục hồi tục, đã có vợ hoặc còn độc thân, để họ quay về làm mục vụ. Nên phong chức cho phụ nữ đã lập gia đình hoặc còn độc thân; và cũng nên công nhận các dòng tu của Giáo hội Anh giáo, Thệ phản Luther và Giáo hội Hiệp nhất. Ta nên đẩy mạnh một cách chủ động việc đề cao bậc độc thân của chức linh mục; và mở rộng tay mời đón các linh mục từ nước ngoài đến công tác mục vụ, ở giáo phận.”
Trong buổi phỏng vấn khác có thu hình, ĐGM Morris công nhận là thư Mục vụ 2006 của ngài nói hơi mạnh như thể ngài “ôm đồm nhiều quá”, khi đề nghị Toà thánh nên phong chức cho phụ nữ và nam nhân nào đã có vợ, mới có lợi. Nhưng, ngài vẫn cương quyết nói: “dù sao, ta vẫn phải sống trung thực với chính mình.”
Ngoài ra, khi được hỏi có thể nào Toà thánh sẽ dành cho ngài một thủ tục pháp lý để khiếu kiện chuyện thúc ép về hưu non chăng? thì ĐGM Morris trả lời: “Đến lúc này, đa số các giám mục chúng tôi mới được bảo cho biết là không có thủ tục nào như thế cho các giám mục. Trước đây, chúng tôi không hề tưởng tượng có những chuyện như thế hết.” Và, ĐGM Morris cũng cho biết là ngài cũng đã có buổi gặp Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô XVI trong vòng riêng tư, nhưng không kết quả. Đại để, câu nói của ngài là thế này: “Mình cũng chẳng tranh luận được gì. ĐGH có lập trường của ngài, mình lại có lập trường của mình. Cũng như thể, lập trường của ai người nấy giữ.” Trong một lần khác, ngày 3/5/2011, ĐGM Morris có nói với phóng viên báo chí rằng: Toà thánh có điều tra việc ngài “quá cởi mở” và “ôm đồm nhiều thứ” khi viết thư luân lưu cho giáo phận mình. Và ngài có nói là: ngài cũng không quá gắn bó với các đề nghị ghi trong thư luân lưu, mà chỉ muốn bà con lưu ý về các tranh luận diễn ra trong Hội thánh, thôi.” (x. Tom Roberts & Joshua J. McElwee, GM Morris: Sống Trung Thực Với Chính Mìnhwww.ncronline 05/05/2011)

Quả là, thế giới bao giờ cũng có lời ra tiếng vào về những quyết định hoặc hành xử của Toà thánh. Trong số các điều tiếng ấy, phải kể đến ý kiến của đấng bậc khác cũng trên báo điện NCR ngày 06/06/2011, như sau:

“Trên thế giới, nhiều nguời Công giáo vẫn cứ tin là Đức Giáo Hoàng Bênêđíchtô XVI, với tư cách là Giám Mục thành La Mã, đã được Chúa trao cho quyền được phép không chỉ đề cử thôi mà còn có quyền cách chức các giám mục trong Giáo hội La Mã nữa. Đây là nhận định sai. Việc cách chức GM Morris cho ta cơ hội để tìm hiểu thêm về cơ chế của Hội thánh. Ngay từ buổi đầu lịch sử Giáo hội, các giám mục là đấng chủ quản do hàng giáo sĩ và giáo dân bầu ra, cho giáo phận. Trong đó, phải kể cả Giám mục thành La Mã, tức Đức Giáo Hoàng. Thế kỷ thứ 3, thánh Cyprianô lúc ấy là Giám mục thành Carthage miền Bắc Phi Châu, đã làm chứng cho việc bầu cử như thế.
Năm 325, Công Đồng đại kết đầu tiên họp tại Nicê, đã thấy có khác biệt giữa Giáo hội Đông Phương và phuơng Tây. Ở phương Tây, tiếng nói và ước muốn của hàng giáo sĩ và giáo dân mang tính qui tắc, đúng luật. Nhưng càng về sau, các giám mục ở địa phận kế cận, lại đưa thêm vào đó, nhiều dự liệu. Ở phương Đông, từ ngày Hoàng đế Constantine đưa giáo đô La Mã về lại Constantinople, thì quyền lực của giáo sĩ và giáo dân được chuyển qua cho giám mục. Nhất là các vị tổng giám mục chính toà.
Giữa thế kỷ thứ 5, ĐGH Lêô Cả, có đề ra nguyên tắc sau đây: “Đấng bậc nào quản cai mọi người đều phải do mọi người bầu lên.” Nhưng, vì lý do chính trị, vai trò của hàng giáo sĩ và giáo dân trong việc bầu giám mục sở tại, đã chấm dứt, cuối ngàn năm thứ I.
Đến thế kỷ 11, là thời có cuộc Cải cách do ĐGH Grêgôriô Cả thiết lập, đó là lúc mọi quyền lực đều tập trung vào Giáo hoàng. Lúc ấy, cũng có nhiều vận động nhằm tái tạo thực quyền của giáo dân như khi trước, nhưng không thành. Đằng khác, thời bấy giờ các giám mục chung quanh đóng vai trò khá trọng yếu trong việc bầu giám mục. Và thực tế, quyền hành đã chuyển về Giáo Hoàng và vua quan hoặc các ông hoàng, rồi.
Kịp đến đầu thế kỷ 19, theo giao ước được ký kết giữa Hoàng đế Napôlêon của Pháp và ĐGH Piô VII, thì chỉ Đức Giáo hoàng mới có trọn quyền đề cử hoặc cách chức giám mục thuộc Hội thánh Công giáo, mà thôi. Hệ thống này vẫn tồn tại đến hôm nay, nhất là từ niên biểu 1917, năm Hội thánh ban hành Bộ Giáo Luật (x. Gl 329, điều 2).
Ngoại trừ một số ngoại lệ, còn thì các giám mục đều được chỉ định, do các giám mục địa phương đề nghị đưa tên tuổi cho Sứ thần Toà thánh để rồi vị này chuyển về Giám-mục-đoàn kèm theo đề nghị cuối của vị ấy, mà trình lên Đức Giáo Hoàng để ngài có quyết định chung cuộc. Nói cho cùng, nhiều vị nghĩ rằng: thể thức chỉ định và cách chức giám mục trong Giáo hội là do ý Chúa. Nhưng thực sự không phải thế. Sự việc cách chức ĐGM Morris ở Úc, phần lớn là sản phẩm của giao ước đạo ký vào năm 1801 giữa Hoàng đế Napolêon và ĐGH Piô VII. Chúa không nhúng tay vào các chuyện này.
Có lần ĐHY Leo-Jozef Suenens, là vị Giám mục tên tuổi rất sáng chói thời Công đồng Vatican II có viết: “Xin mọi người nhớ cho rằng Chúa Thánh Thần vẫn hiện diện không sai sót trong Hội thánh, qua sự lần mò, yếu kém của con người. Và Ngài vẫn tạo sinh khí cho con người ngay trong Giáo hội, để Giáo hội nhận được luồng gió mát Ngài thổi, nhân lễ Ngũ Tuần, ngay từ đầu.” Và đó cũng là lời nguyện ước của mọi người: “Lạy Thần Khí Chúa xin hãy đến!” (x. Lm Richard McBrien www.ncronline.org 06/06/2011)

Nói chung, thì đúng là Thần Khí vẫn làm việc. Và, việc Ngài làm, nhiều lúc con người khó cảm thông, hoặc đồng ý. Vấn đề còn lại, là: tôi và bạn có tin thế không mà thôi. Cuối cùng, có lẽ cũng nên qui về lời của vị thánh cả của Hội thánh, vẫn dặn dò:

“Nếu bị sỉ nhục vì danh Đức Kitô, anh em thật có phúc,
bởi lẽ Thần Khí vinh hiển và uy quyền,
là Thần Khí của Thiên Chúa, ngự trên anh em.”
(1P 4: 14)

Xem thế thì, cả ĐGM Bill Morris lẫn Hội thánh ta đều “có phúc có phần, chẳng cần gì lo”. Chí ít, là “lo con bò trắng răng”! Vẫn muôn năm.

Trần Ngọc Mười Hai
Hằng tâm niệm
một điều
ra như thế.


33. “Tôi kể người nghe đời Lan và Điệp,”
“Một chuyện tình cay đắng…
(Mạc Phong Linh – Chuyện Tình Lan và Điệp)

(2Cr  12: 3b-4)
    Kể cho người nghe, mà sao chị cứ kể mỗi chuyện tình Lan và Điệp? Giảng cho người hiểu, mà sao anh cứ giảng và giải rất dài. Cũng rất dai. Chẳng ai hiểu? Chẳng kể gì người nghe có muốn nghe về “chuyện tình (rất) cay đắng”. “Lúc tuổi mộng mơ”, “đem viết thành bài ca”, ca về nhà Đạo?
    Sống đời nhà Đạo, lại có những truyện kể về tình đời. Giống ở đời. Nghĩa là, tôi và bạn, lại cứ kể lể rồi còn giảng giải nhiều chuyện. Cả những chuyện, như đời “Lan và Điệp”, có những câu:

            “Lan như bông hoa ngàn,
            thương yêu vô vàn,
            nguyện thề non nước,
sẽ không hề lìa tan.”
            (Mạc Phong Linh – bde9d)

    Sống Đạo giữa đời, người đi Đạo cũng từng sống, giống như thế. Tức, vẫn nhiều chuyện để kể. Cứ lễ mễ mà kể lể. Hết chuyện này chuyện khác. Kể, từ đầu đời đến cuối đời, vẫn không hết.
    Trong chuyến ghé thăm đất miền Mễ Tây (rất căn) Cơ, bần đạo học được nhiều điều. Không phải để giảng Đạo, mà để kể về dân gian. Có vua quan cùng lãnh chúa. Rất bí nhiệm. Chuyện, của bậc vị vọng ở chốn trên cao chót vót, rất vua chúa. Chuyện vua quan lãnh chúa, không kể bằng miệng, suốt thế hệ này qua thế hệ khác. Nhưng, bằng hoạ đồ khắc trên đá, mà bộ tộc giống giòng Maya, đã tô vẽ từ nhiều thế kỷ, mà không cần chữ viết khiến người người cứ cảm kích. Thán phục.
    Điều mà nền văn minh Maya xứ miền rất Mễ chú trọng nhiều đến quyền của vua quan chốn cao tít mù tắp, rất uy lực, nay được một số đấng bấc ở thế kỷ 21, còn thực hiện.
    Điều, mà nhà Đạo ở trên cao đang hiện thực, nay quên hết tình tiết xưa như nghệ sĩ từng viết:
       
            “Chuông đổ chùa xa, chiều tan trường về,
            Điệp cùng Lan chung bước.
            Cuối nẻo đường đi, đôi bóng hẹn mùa thi
            Lan khóc đợi người đi.”
            (Mạc Phong Linh – bđd)

    Nhà Đạo hôm nay, không còn thấy cảnh tình sánh bước giữa “Lan và Điệp”, dù hiu hắt. Mà, chỉ là cảnh “chia ly”, “khóc đợi người đi”, chẳng thi vị. Nhưng ê chề. Tham vọng nhiều, như người trong truyện kể dân gian rất phàm trần, lếu láo, như sau:

“Có một người đến nhà thờ xin Chúa cho 3 điều ước nguyện. Chúa thầm hỏi:
-Con nguyện và ước điều gì mà “căng” thế?     
-Thưa Chúa, điều con nguyện ước chẳng có gì quá sức Ngài đâu! Con chỉ xin Chúa ban cho con 3 điều ước nguyện vỏn vẹn mỗi thế này: Điều một: Con ước mình được quyền “ăn trên ngồi chốc” giống các cha trong nhà thờ, hễ cứ phán bảo điều gì giáo dân nghe răm rắp thôi!
-Thế cũng được, Ta cho con ngay đây! Thế điều kế tiếp là những gì?
-Dạ thưa Chúa, điều kế tiếp con xin được giàu sang phú quí, chẳng làm gì, chỉ quát tháo doạ nạt đủ điều mà con chiên già trẻ lớn bé, vẫn cứ phục rồi dâng cúng
-Điều này không có gì khó, Ta sẽ ban cho con. Thế còn nguyện ước cuối?
-Điều cuối cùng, thì con muốn được mọi sự, cả những điều ước ở trên, lâu nay..
Chúa nhìn người đàn ông đang nài xin, mà tội nghiệp bảo:
-Con có thấy chân ta đang bị gì không?
-Dạ, chân của Chúa bị đóng đinh vào thập giá…
-Đúng! Chân ta mà không bị đóng đinh, thì Ta sẽ cho tất cả một đạp… Bọn con chỉ tham lam quyền bính với giàu sang thôi, chẳng được tích sự gì!...”

    Truyện kể trên, chỉ là truyện tào lao, chẳng đáng cười. Bởi, Chúa nào lại làm thế. Có chăng, chỉ là phản ảnh của dân gian, dùng tiếu lâm nhạt để nói cạnh, nói xéo đấng vị vọng nhiều tham vọng. Lại hay lắm chuyện. Những chuyện không mang tính thiêng liêng, đạo đức gì hết.
    Lắm chuyện hay không, thật ra cũng chả là chuyện có thật, ở nhà Đạo thời bây giờ. Thế nhưng, nhà Đạo hôm nay, cũng có một đôi “chuyện”, tức vấn đề làm người người cứ bứt rứt thao thức đến nản lòng. Tựa hồ vấn đề/truyện kể của đấng-bậc-không-còn-được-trọng-vọng nhưng vẫn muốn bày tỏ đôi sự thật thấy rất rõ, ở nhà Đạo, như sau:

“Tính đến nay, cũng đếm được 30 năm, kể từ ngày có những chuyện bê bối về xách nhiễu tình dục đối với con trẻ do một số linh mục vấp phạm. Nhưng vấn đề hôm nay hỏi rằng: lâu nay việc bứng tận gốc căn bệnh ung bướu loại này, đi tới đâu rồi? Ta học được gì, từ những bài học ấy?
Dù ngôn ngữ chọn lựa có xứng hợp hay không thuận lợi, vẫn có lời xin lỗi được đưa ra. Các thủ tục thực hiện nhằm giúp nhiều người hiểu được vấn đề, cũng đã có một số người tìm cách tự chữa lành. Và, nhiều dấu hiệu cho thấy vấn đề đã cải thiện cũng rất nhiều. Các vi phạm theo hình thức mới mẻ cũng đã suy giảm. Và, dù không phải là do có gia tăng lòng đạo đức, thì ít ra cũng vì một số người cũng đã biết sợ, bị bắt gặp.
Đàng khác, nhiều nạn nhân trên toàn quốc chưa cảm thấy thoải mái để kể lại chuyện riêng tư của mình và/hoặc chưa hài lòng về những giải pháp này khác hay không, nhiều nơi, nhiều nước vẫn chưa công khai phải đối phó với vấn đề. Cũng như, Hội thánh vẫn gặp nguy cơ bị cắt đứt, chia lìa đến nỗi chết xảy đến vào các thập niên tới.
Dù có thế, vấn đề chính vẫn còn mang tính đậm sâu hơn. Vẫn còn một số yếu tố thông thường khiến kẻ phạm pháp dễ tạo xách nhiễu. Và cũng có những vấn đề khác mang tính cách đặc biệt đối với cá nhân mỗi tội phạm. Giữa hai yếu tố ấy, hiện có những chuyện không lành mạnh đang xảy đến với một vài tổ chức hoặc xã hội mang tính riêng biệt khả dĩ khích lệ sự tăng trưởng một thứ văn hoá qua đó việc lạm dụng xách nhiễu càng có cơ xảy đến dễ dàng hơn. Hoặc cùng lắm, vẫn có thể làm ngơ trước vấn đề bằng cách đưa ra một đáp trả khá nghèo nàn.
Xách nhiễu lạm dụng chừng như dễ xảy đến khi cả ba yếu tố bao gồm một tâm lý không lành mạnh, những ý kiến bệnh hoạn và môi trường sống rất yếu kém cộng chung lại; đồng thời, việc đáp trả lại nghèo nàn khi những gì nằm trong nền văn hoá ấy lại khơi mào điều lợi cho người trong cuộc làm đối tượng cho lợi thế của cơ chế ấy.                     
Tôi nghĩ rằng, cho đến nay, sai lầm chính nơi đáp trả của Hội thánh đối vấn đề này là ở chỗ Hội thánh không chịu nhìn vào bất kỳ giáo huấn, lề luật, cung cách thực hiện hoặc động thái của chính mình trong chiều hướng đóng góp bất cứ thứ gì để sửa sai.
Hội thánh lại không thấy rằng có thể có những yếu tố trong “nền văn hoá của Đạo Công giáo” mình từng đóng góp vào việc xách nhiễu/lạm dụng hoặc đã đáp trả cách nghèo nàn đối với vấn đề xách nhiễu như thế. Tôi nghĩ có tất cả 7 yếu tố trong nền văn hoá Công giáo đã tạo nên xách nhiễu/lạm dụng và 5 yếu tố góp phần vào việc đáp trả khá nghèo nàn.
Bảy yếu tố góp phần vào hành vi xách nhiễu lạm dụng, phải kể đến, là:
1.    Chỉ tôn thờ một Đức Chúa rất giận dữ, nay không còn tác dụng;
2.    Nhiều yếu tố cho thấy hành vi xách nhiễu đều do nam nhân vướng mắc. Và, hầu như mọi chuyện lâu nay vẫn nằm trong tay người đàn ông, trong khi giới nữ ít quyền ăn nói;
3.    Rất nhiều linh mục sống đời độc thân cách miễn cưỡng. Không ưa thích cũng chẳng vui lòng chọn lựa và không phải ai cũng cũng ở độc thân như thế. Thứ độc thân không ôm trọn tình yêu;
4.    Thiếu trưởng thành về đạo đức, cứ tưởng rằng mọi tốt lành về mặt đạo đức chỉ nằm ở việc tuân phục một Đức Chúa mà họ nghĩ Ngài chuyên luận phạt thôi. Thêm vào đó, là quan điểm chỉ biết vâng lời Hội thánh mà không biết tự mình nhận lãnh trách nhiệm;
5.    Luôn có ý tưởng cho rằng nội việc nghĩ đến chuyện tình dục thôi, cũng đã là mắc tội trọng rồi. Và, đáng bị Chúa đời đời giáng phạt. Nói tóm lại, lúc nào cũng cho rằng đạo lý về dục tình đặt cơ sở trên luật tự nhiên hoặc trái với thiên nhiên, hơn là chú trọng đến những điều mà Tin Mừng của Chúa khuyên dạy;
6.    Chủ nghĩa phò giáo sĩ hoặc đặc tính bí ẩn về chức linh mục
7.    Cuộc sống linh mục và tu sĩ thiếu chuyên nghiệp thực thụ.

Năm yếu tố khiến hệ cấp giáo triều ứng đáp với sự việc cách nghèo nàn,là:

1.    Chuyên ưa chuộng tính chính thống (tức: cho rằng niềm tin của mình là đúng) hơn là tạo thói quen công chính và trung thực (tức: phải có hành xử cho đúng). Bởi thế nên, mỗi khi nghe mọi người xầm xì về chuyện nên truyền chức cho nữ giới, là quyết thẳng tay lên án không thương xót. Ngược lại, hễ thấy linh mục xách nhiễu tình dục trẻ con lại dễ thứ tha;
2.    Cho rằng Đức Giáo Tông là đấng bậc không thể nào sai lầm đuợc, dù việc ấy không thuộc phạm vi tín điều “vô ngộ”. Tức là: những gì dính dấp đến uy quyền của ngài, cũng đều “vô ngộ”;
3.    Sự kiện Đức Gioan Phaolô II im hơi lặng tiếng của suốt hơn 25 năm về chuyện xách nhiễu tình dục trẻ em;
4.    Văn hoá lặng thinh đã hằn sâu trong Giáo triều La Mã đến mức thâm căn;
5.    Luôn ngăn chặn gạt ý hướng trung thực mỗi khi bàn luận về qui cách ứng đáp với cáo buộc về xách nhiễu tình dục.
Chính ra, Đức Giáo Tông cũng nên chủ động hướng dẫn giáo triều khai triển cách ngăn ngừa và đáp ứng các trường hợp như thế. Nhưng, ta cũng không nên chờ ngài có những quyết định như thế. Tôi thấy không có lý do gì khiến Hội Đồng Toàn Quốc Giáo Sĩ lại không chịu đưa vào nghị trình thảo luận hàng năm của mình để bàn về những gì liên quan đến hàng giáo sĩ, ra như thế.
Chẳng hạn, ta có thể nhìn vào cung cách xem ta có chủ trương giáo sĩ trị đang thể hiện trong cuộc sống của ta, trên toàn quốc hay không. Và, hãy nhìn vào cung cách hành xử để xem ta có thật sự thiếu ý thức chuyên nghiệp khi suy tư và hành xử, không.
Cũng nên nhìn vào cách ứng xử của hàng linh mục mình khi đất nước mình đang có những “phát giác kinh khủng”; nghĩa là, hãy tự hỏi xem mình có đứng về phe linh mục - phạm pháp hoặc cảm thông bước về phía nạn nhân bị xách nhiễu tình dục, là con trẻ? Các linh mục của mình có là thành viên theo phe của mình không, trong khi đó, các nạn nhân bị họ lạm dụng, giờ này ra sao? Ta có đến với các nạn nhân bị lạm dụng nhiều hơn với linh mục phạm pháp chứ? Hay, cả ta nữa, vẫn dễ dàng cho mình vô tội? Phải chăng ta ứng đáp chỉ đơn giản bằng cách mong cho vấn đề xách nhiễu tình dục/ấu dâm nơi hàng ngũ linh mục được xếp xó, để khỏi bận tâm, không? Các giám mục nhà mình có thành “địch thù” xử bất công với các linh mục mỗi khi đáp ứng trước những cáo buộc về xách nhiễu tình dục, nơi đàn em đệ tử mình?

    Các câu hỏi của đấng bậc không-còn-là-chủ-quản nữa, có lẽ đẽ khiến tôi và bạn, lại nhớ đến ca từ của nghệ sĩ ngoài đời, rất hay hát:

            “Bao nhiêu niềm vui cũng chôn vùi từ đây,
            vùi chôn từ đây!...
            Lỡ một cung đàn,
            phải chăng tình đời là vòng giây oan trái?”
            (Mạc Phong Linh – bđd)

    Nghệ sĩ đời gặp chuyện ngang trái lại hỏi thế. Đấng bậc nhà Đạo, nhận định sự kiện “không phải”, ở trong Đạo, lại nghĩ khác. Khác, nhưng rất thực tiễn, như sau:

“Để hành xử của mình được lành mạnh, tưởng cũng nên đề cập đến những điểm gây bén nhạy, như hỏi rằng:
*Phải chăng hàng ngũ linh mục ở quanh ta đang sống cuộc đời độc thân mà không thích. Hoặc, không chứa đựng một tình yêu, mình đã chọn? Ta quan niệm thế nào về chuyện ấy? Hãy đưa vấn đề ra mà bàn thảo, cho nghiêm chỉnh.
*Ngày nay, ta có thực sự tin vào luân lý dục tình không? Phải chăng mỗi khi tưởng nghĩ đến chuyện tình dục, là mắc tội? Ta vẫn cho rằng mọi sa ngã về tình dục là trọng tội có thể dẫn đến nỗi chết, chứ? Ta vẫn coi động thái tự nhiên và phản thiên nhiên như nền tảng của đạo lý về tình dục chứ?  Nếu không, ta tìm ra được nền tảng nào khác không?
*Ở giáo xứ, ta có thực sự lắng nghe tiếng nói của chị em giáo dân không? Các vị ấy có hoàn toàn đồng ý với câu đáp trả ta đưa ra không?
*Ta có còn quan niệm về Thiên Chúa chuyện giận dữ, trong đời mình không? Quan niệm như thế có còn ảnh hưởng lên ta không? Để ý lắng nghe cả trăm linh mục chia sẻ Lời Chúa vào ngày Chủ nhật, thông thường khi ra về ta mang theo ý nghĩ về Thiên Chúa như thế nào?
*Trong hành trình đời sống, ta đã bỏ đi ý tưởng về chuyện giáo hội dạy ta phải sống thế nào để làm hài lòng một Thiên Chúa chuyện luận phạt chưa? Trong cuộc sống, ta đạt mức độ trưởng thành về luân lý, đến cỡ nào?
*Ý hướng về luân lý đạo đức của ta là thế nào? Nhận thức của ta ra sao khi bị xã hội lên án, dẫu biết rằng ta là người vô tội? Ta đối đầu thế nào với thái độ của Hội thánh khi ứng đáp một cách nghèo nàn đối với các cáo buộc xách nhiễu tình dục, nói ở trên?
Những phát giác kinh khủng về xách nhiễu tình dục nơi hàng giáo sĩ lâu nay quả là một kinh nghiệm thương đau cho đội ngũ linh mục của ta. Nỗi lo ngại của tôi là nhiều người đã khoá sổ chỉ giữ cho mình những tư tưởng tiêu cực thôi. Và, xách nhiễu tình dục đã trở thành chuyện “khủng long chui tọt vào phòng”, mỗi khi các linh mục tụ tập.
Tôi khẩn thiết yêu cầu Hội Đồng Linh Mục Toàn Quốc hãy đóng vai trò đúng đắn để có được những trao đổi mang tính dựng xây về mọi khía cạnh của vấn đề này. Lâu nay, ta có quá đủ nỗi hãi sợ, chối bỏ, chạy trốn hoặc yếu kém rồi. Đã đến lúc, ta cần sống thực sự cởi mở, chính trực và xây dựng trong vấn đề này.” (x. Gm Geoffrey Robinson, The Elephant in the Room, rút từ The Swag  16/7/2011)

    Như mọi lần, mỗi khi gặp các vấn đề gay góc xảy đến với người và với mình, chí ít là người mình ở nhà Đạo, bần đạo lại chạy đến với Lời của các thánh viết ở Tin Mừng. Hôm nay, bần đạo nhận được ân huệ “bắt gặp” một đoạn thơ có lời lẽ, xin san sẻ với bạn và với tôi, rất như sau:

                “Đức Kitô, Người không nhu nhược đối với anh em đâu,
nhưng Người đầy uy quyền giữa anh em.
Thật vậy, Người đã chịu đóng đinh vì mang thân phận yếu hèn,
nhưng nay Người đang sống nhờ quyền năng của Thiên Chúa.
Cả chúng tôi nữa, trong Đức Kitô,
chúng tôi cũng mang thân phận yếu hèn,
nhưng cùng với Người,
chúng tôi sống nhờ quyền năng của Thiên Chúa
để xử sự với anh em.”
(2Cr 13: 3b-4)
 
    Nhớ lời “thơ” của thánh nhân nhà Đạo, nay lại nhớ thơ lời của người đời, cũngnhư sau:

“Người ta nói yêu là ngốc,
Bởi chữ tình là nguồn gốc chữ ngu ...
Đôi khi con người ta cần dừng lại..
Dừng lại để rồi bước nhanh hơn.. ....
Đôi khi con người ta cần buông tay..
Cần cho đi để rồi có nhiều hơn.. ...
Đôi khi con người ta cần khóc..
Khóc thật lớn để rồi cười thật to.. ...
Đôi khi con người ta cần một mình..
Một mình là để biết có nhau quan trọng như thế nào.”

    Đã nhớ lời “thơ” Đạo cũng như đời rồi, nay lại tưởng nhớ chuyện của Lan và Điệp, cũng có những tình tiết như sau:

                Nếu vì tình yêu,
Lan có tội gì đâu sao vướng vào sầu đau.
Nàng sống mà tim như đã chết
Riêng bóng cô đơn đôi môi xing phai tàn
Thương thay cho nàng
buồn xa nhân thế náu thân cửa Từ Bi.”
(Mạc Phong Linh – bđd)      

    Bần đạo thiết nghĩ: câu thơ trên, đâu chỉ áp dụng cho các vị nương náu cửa Phật hay nhà Đạo, đang “có vấn đề”, mà thôi. Nhưng, có lẽ, cũng áp dụng cho cả nạn nhân tội phạm xách nhiễu, hoặc sai lầm nhiều sơ xuất. Ở bất cứ nơi đâu. Thời nào. Như hôm nay.

    Trần Ngọc Mười Hai
    vẫn cứ thương và nhớ
    hết tất cả.  
    Trong Đạo. Ngoài đời.
             

34. “Sàigòn bây giờ trời mưa hay nắng?”
“Sàigòn bây giờ ai khóc thương ai?”
(Lê Uyên Phương – Khi Xa Sài Gòn)
(Ga 12: 7-8)
    Mưa hay nắng, có là giọt nhớ/khóc thương ai? Nhớ và khóc, có là khóc tình mình bây giờ. Là, thương vay khóc mướn. Tình đời ai oán. Như, lời lẽ rất nức nở người nhạc sĩ vẫn kể lể, ở bên dưới:

            “Sàigòn giới nghiêm, che kín đêm dài,
            Sàigòn khói bay, Sàigòn nắng đổ,
            Sàigòn đã buồn như trời sớm mai…”
            (Lê Uyên Phương – bđd)

    Sàigòn ấy. Tiếng khóc này. Vẫn là tâm tình khóc thương tựa hồ truyện kể, như ở dưới:
 
            “Truyện rằng:
Đấng bậc tâm linh nọ, một hôm mon men đến trước lâu đài vua quan kia, mà chiêm ngắm.Vốn dĩ là bậc thày nổi tiếng khôn ngoan/nhân hậu, đi đâu cũng được mọi người kính nể, nên quan viên canh giữ đền/đài vẫn để mặc thày tiến thẳng đến trước mặt vua quan đang ngự triều ở chốn cao, để đưa ra vài câu mà lĩnh ý. Vua quan thoạt nhìn thấy, bèn quắc mắt, giựt giọng hỏi:
-Khanh kia, chừng như khanh muốn tâu lên trẫm điều gì đấy chăng?
-Thưa bệ hạ, thần đây chẳng có gì để thưa gửi, chỉ xin bệ hạ một chỗ trú chân nơi quán trọ này thôi.
-Ngươi bảo sao? Đây, mà là quán trọ ư? Ngươi có biết: đây là lâu đài quyền quý của ta không?
-Thưa bệ hạ, nơi này trước giờ vẫn là nơi nghỉ chân của mọi người dù giàu sang, cợ cực hay sung túc, vẫn đến đây để dừng chân dưỡng sức. Nhưng, ngài thấy đẹp nên mới sai ba quân chiếm nó rồi biến thành của riêng. Nay, nhân danh những con người tuy thấp cổ bé họng nhưng là chủ nhân ông khi trước, thần đây yêu cầu bệ hạ hãy trao trả tài sản này lại, để không chỉ một mình thần mà mọi người dân đen nghèo hèn đều được hưởng…

    Truyện kể tưởng chừng như hư cấu, nhưng vẫn là sự thật, còn lập lại ở nhiều nơi. Truyện đưa ra những mẩu đối đáp/đấu đá rất khó lòng. Và cuối cùng, phần thắng vẫn về tay kẻ mạnh. Tài sản ấy, lâu đài nọ vẫn thuộc về kẻ có của lại đủ quyền để duy trì. Mọi dân đen nghèo hèn có kiện thưa, cũng chỉ như “con kiến mà kiện củ khoai”, làm sao thốt nên lời.
    Nhưng, hôm nay, vẫn có chuyện thưa cùng thốt của người nhà Đạo, rất đáng trọng. Thưa, là thưa gửi với cha. Thốt, là thốt lên lời thỉnh nguyện xuất từ một giáo dân hạng thứ, như sau:
       
            “Thưa cha,
Con có một người bạn khá thân, chị vẫn hằng tâm sự với con khá đủ điều, từ dân gian chuyện Đạo cho chí chuyện đời, không thiếu điều gì. Vừa qua, chị bảo với con, là: chị thấy xấu hổ và bực tức khi thấy nhiều cao ốc và di sản có giá trị rải rác khắp thế giới vẫn tập trung tại Bảo tảng viện và nhà thờ của Công giáo. Chị còn nói: Nếu Giáo hội mình đích thực là Hội thánh nghèo và là Giáo hội của người nghèo, thì hãy lập tức bán ngay các thứ ấy đi lấy tiền mà giúp đỡ những ai còn đang túng bấn, rất cần tiền. Cha nghĩ sao về lập trường này?” (Một người hỏi không buồn ký tên).

    Đụng vào đề tài “Giáo hội nghèo”, hay còn gọi là Hội thánh của người nghèo cũng tựa như đụng phải bức tường thành kiên cố khá vững chắc. Khó lòng mà hy vọng có đổi thay. Trong lúc này. Chẳng thế mà, đức ngài thuộc “trường phái” Opus Dei, là vị “anh lờ em mờ” (Lm) John Flader ở Sydney đã có ngay một “lời đáp” khá quen quen, để giải trừ mọi thắc mắc cũng như cật vấn như sau:

“Như chị biết đó, chuyện mà người bạn của chị đề cập ở trên, tôi nghĩ đó là chuyện dài lịch sử, vẫn nổi lên các ý kiến phản chứng như thế. Ngay khi Maria, người chị của Mác-Ta và La-da-rô lấy dầu thơm đắt giá rưới vào chân Chúa, lập tức Giu-Đa Is-ca-riốt thấy ngứa mắt, đã buông ngay câu nói đi vào lịch sử, rằng: ” Sao không bán dầu thơm đó lấy ba trăm quan tiền mà cho người nghèo?"?” (Ga 12: 5).
Ở đây, ta nên nhớ: một đề-na-ri lúc ấy tương đương với một ngày lương của dân lao động bình thường. Xem thế thì, lọ dầu thơm mà Maria rưới vào chân Chúa tương đương cả một năm lao động, tức món đồ rất đắt giá, dưới cái nhìn của một nhà kinh doanh, hạch toán như Giu-đa.
Ghi lại Tin Mừng cho người về sau đọc, thánh Gioan đã có lời bình để nói thêm, rằng: thật ra, Giu-đa Is-ca-riốt cũng chẳng quan tâm đến cảnh tình của người nghèo gì hết. Và, thánh nhân viết: “Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung.” (Ga 12: 6)
Và theo hình thái nào đó, chính Đức Giêsu đã trả lời cho vấn nạn của bạn chị, ngay ở Tin Mừng: “Đức Giêsu phán: ‘Hãy để cô ấy yên. Cô đã giữ dầu thơm này là có ý dành cho ngày mai táng Thầy. Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có; còn Thầy, anh em không có mãi đâu." (Ga 12: 7-8)
Trên đời này, nếu có người biết quan tâm đến người nghèo hơn ai hết, thì người ấy ắt là Đức Giêsu. Theo nghĩa rất đúng, Ngài là người nghèo đích thực lại xuất thân từ một gia đình nghèo, và chính Ngài cũng hạ sinh trong chuồng bò. Rồi còn, chịu đói chịu khát, rất nhiều năm. Thậm chí, không có chốn để tựa đầu, nữa.
Quả thật, với hơn 300 tiền đê-na-ri, người thời bấy giờ có thể làm được nhiều việc hơn để giúp đỡ người nghèo. Hoặc, cả việc giúp đỡ môn đồ của Ngài độ nhật vào lúc ấy. Nhưng, Chúa vẫn không phản đối Maria đã phung phí của Trời, mà rửa lau chân Ngài bằng thứ dầu thơm thượng hảo hạng như thế. Ngài còn nói:” Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em lúc nào cũng có; còn Thầy, anh em không có mãi đâu."." (Ga 12: 8)                  
Thành thử, trước nhất, những gì gắn liền với việc phụng thờ Chúa, ta vẫn nên rộng lượng như Maria. Quả thật thế, Hội thánh lâu nay vẫn làm như vậy, suốt mọi thời. Thế nên, khi thấy các ngôi thánh đường và đền đài của Hội thánh trên thế giới, tựa như Đền thánh Phêrô chẳng hạn, ta đều thấy là Hội thánh không hề hà tiện khi phải rút hầu bao chi tiêu xây cất công thự này khác để biến chúng thành “Nhà của Chúa”.
Tinh thần này luôn gắn liền với thánh sử ở Cựu Ước khi vua Đavít chỉ thị cho con trai mình là Salômôn hãy bỏ công xây cất Đền Giêrusalem để Chúa ngự. Dĩ nhiên, Đền thánh vua Salômôn xây, cũng gồm vật liệu tinh tế, khá đắt tiền. (x. 1Ký sự 22: 6-16; 1V 6: 8). Giả như Đền Thờ Chúa ngự được dùng vào việc phụng thờ Đức Chúa lại gồm các vật dụng đắt tiền, thì cũng nên xây những nơi những chốn trang trọng đắt giá để Chúa ngự cho xứng đáng.
Từ nhận định ấy, ta có thể nhìn vào các vật dụng gồm những lụa là/châu báu hầu trang hoàng Nhà Tạm hoặc để cử hành Tiệc Thánh Thể cho uy nghi xứng hợp, thì cũng nên biết rằng: Hội thánh lâu nay luôn rộng lượng. Theo quan niệm này, thì từ Nhà Tạm, cho chí Chén thánh, Hào Quang, đều được làm bằng những thứ đắt tiền như vàng, bạc mà không tiếc. Nói cho cùng, chẳng vật dụng nào hoặc tài nghệ khéo tay nào khả dĩ giúp ta vinh danh Đấng Chúa Tể càn khôn cho đủ. Cho xứng đáng.
Thánh Gioan Vianney, chánh xứ thành Ars, là đấng bậc chẳng bao giờ chịu tốn tiền để tu bổ thân xác phàm trần của mình, nhưng thánh nhân lại sử dụng những nào lụa là/nhung gấm hoặc những thứ đắt tiền để việc cử hành Thánh lễ cho xứng đáng.
Thật ra, thì tất cả chỉ là vấn đề mình chuyện có thương yêu thực sự hay không mà thôi. Tựa hồ như các người trẻ chẳng hạn, một khi họ bị đánh động bởi tình yêu rồi, họ sẽ chẳng kể gì đến chuyện bỏ tiền bạc/của cải và công sức ra cho người mình yêu, như mua sắm vàng bạc/đá quý cho hôn thê hoặc người tình mình. Hội thánh cũng thế, Hội thánh không ngại tỏ ra rộng lượng đối với “Người Tình của Mọi Tình Yêu” ở trần thế, là như thế.
Hơn nữa, cũng nên nhìn mọi châu báu quý giá của Toà Thánh và/hoặc coi các Thánh đường trên thế giới như di sản kế thừa của chung hết mọi người. Cho toàn thể con cái Chúa, kể cả những người nghèo đói túng thiếu nữa. Di sản kế thừa của Toà thánh không là tài sản tư riêng của một Giáo Hoàng hoặc phẩm trật Giáo hội nào như Hồng Y, Giám mục, dù các đấng là chủ quản Giáo phận ở trên cao, như Giáo phận La Mã, đi nữa.
Thật tình mà nói, mọi tài sản của Hội thánh, phần lớn là tặng vật do dân chúng dâng cúng lên Hội thánh, trong đó cũng có phần của người nghèo nữa. Đây là chuyện bình thường. Rất thường xảy đến cả vào thời hôm nay, mỗi khi giáo xứ hoặc giáo phận cần trùng tu/xây cất thánh đường này khác, mọi giáo dân giàu/nghèo đều cộng tác đóng góp như thế hế. Và khi công việc trùng tu/xây cất hoàn tất, thì không chỉ mỗi đấng chủ quản là Giám mục hay linh mục mới là người có công hoặc tự hào về thành quả ấy, mà là tất cả mọi người. Bởi, mọi người đều đã đóng góp tiền bạc, công sức hoặc tham gia bằng lời cầu. Tất cả đã gom góp những gì mình có, ngõ hầu làm sáng danh Chúa, để phụng thờ Chúa, mà thôi.
Hơn nữa, đây chính là nguồn vui cho dân con Chúa, kể cả những người nghèo, mỗi khi họ đặt chân đến viếng thăm toà thánh La Mã. Cả bảo tàng viện Vatican, cũng như các thánh đường, nguyện đường hoặc đền đài lớn nhỏ trên khắp thế giới. Đến, để thấy tận mắt những gì chính mình và con cháu mình đã đóng góp vào việc làm sáng danh/phụng thờ Chúa.
Đàng khác, phần lớn các tài sản và di tích lịch sử của Hội thánh vẫn nằm trong “kho báu” ấy, dù các đấng chủ quản quyết định bán đi cho tổ chức hoặc người nào khác, các di sản ấy vẫn không mất đi phần quan trọng của mọi người chúng ta, là những người thân của Giáo hội. Là chính Giáo hội.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 28/11/2010 tr. 12)

    Thế đấy, là giải đáp của đấng bậc vị vọng, rất bài bản. Thế nhưng, bảo rằng: “Hội thánh đã và đang là thánh hội nghèo, của người nghèo”, ta nên hiểu đó là khẳng định chắc nịch, không cần bàn cãi gì cho nhiêu khê. Lễ mễ. Rất mất giờ. Chuyện nên bàn và cần nhắc ở đây, là chuyện: phải quan niệm Hội thánh, không chỉ và không như thánh hội của các đấng bậc cầm cân nảy mực, một thể chế rất giáo triều. Nhưng, chính là tôi/là bạn, là các thành viên Nước Trời, ở trần gian.
    Thành thử, câu hỏi ở trên có thể và nên là câu hỏi mình/hỏi người, rằng: với tư cách là thành viên, là Hội thánh bằng xương bằng thịt, tôi và bạn, ta có sống nghèo hoặc sống giống như người nghèo, theo lời Chúa khuyên không?
Vậy thì, hỡ bạn và hỡi tôi, ta cứ tự hỏi xem mình có sống rủng rỉnh đến độ vẫn giàu và có, đủ mọi thứ? Đủ, từ vật dụng, tài sản cho đến tiền bạc, chỉ trừ mỗi một thứ cần có hơn cả, là: “tình thương” không? Và, của cải này, tiền bạc kia, có là “của“ tôi, mà thôi không? Nếu không thế, thì: của cải ấy là “của” ai? Của chùa hay của Chúa?
Để đầu óc bạn và tôi không quá bận về những thắc mắc nêu trên, cũng nên kể ở đây đôi ba giòng truyện kể để tôi và bạn được thư giãn, như câu truyện nhè nhẹ ở bên dưới:

            “Truyện rằng:
“Vị Phật tử nọ, sau một tai nạn xe cộ khá nặng khiến thân thể anh bị dập nát, cũng mất mát nhiều. Duy có đôi chân của anh là được ghép bằng cái chân mới, của người khác. Tức, lấy từ di hài một người chết đã hiến tặng cho người còn sống, vẫn rất cần.
Không bị tàn tật, anh cũng mừng. Nhưng đêm đêm nhìn cái chân của người khác ghép vào người mình, anh không khỏi rùng mình và luôn nghĩ đến người đã tặng hiện giờ đang nằm dưới mộ phần xa vắng.
Một hôm, chịu không nổi nỗi day dứt ấy, anh bèn chạy lên chùa thăm sư phụ mình là một thiền sư để vấn kế và cũng để kể lại những ưu tư trăn trở của mình, cho bớt sầu. Vị hoà thượng nghe kể xong, bèn nhìn anh một hồi lâu, rồi mỉm cười và nói:
-Con sợ cái chân đó vì cho rằng nó không phải là của con ư? Nhưng con hãy tự hỏi, cái-chân-xưa-giờ-theo-con-từ-bé có đúng là của con không?
Từ lúc nghe sư phụ mình hỏi, người phật tử đã ngủ ngon hơn, không còn vương vấn nỗi sợ về những “của nợ” vẫn cứ dính theo mình, từ hồi bé.
Và, từ lúc biết được như thế, anh đem câu chuyện này kể hết cho bạn bè mình nghe, ngõ hầu mọi người cảm thông và hiểu được những gì là “của cải”, dù là của ai, nhà Đạo hay nhà Phật, vẫn thấy vui..
Và, người kể lại thêm một lời kết, rằng: kể từ đó, mình hiểu rõ chữ CỦA trong cụm từ  “của cải”, với bạc tiền của mình. Và, của người. Dù, “mình” đó/người đó, có là Giáo Hội Phật giáo hay Hội thánh Công giáo, Chính thống, với Tin Lành. Và, cũng từ đó, mỗi người nghiệm ra điều này: ở đời này, dù chỉ một chữ thôi cũng đã là một trời, để ta suy tư. Huống chi là “của cải” châu báu “của” Nước Trời, là Hội rất thánh “của” Đức Chúa.

    Lời cuối “của” tôi và “của” bạn, những người đang ngồi phiếm hôm nay, lại sẽ là thắc mắc/hỏi han “của” người nghệ sĩ trích dẫn ở trên, như sau:

            “Sàigòn bây giờ trời mưa hay nắng
Sàigòn bây giờ cúi mặt xa nhau
Sàigòn bước ai gõ xuống đêm sầu
Sàigòn bóng nghiêng, Sài-gòn đứng đợi
Sàigòn bây giờ cúi mặt xa nhau.”
(Lê Uyên Phương – bđd)

    Hỏi rằng “Sàigòn bây giờ, trời mưa hay nắng”, hoặc cũng hỏi: “Hội thánh ngày nay, vẫn nghèo như trước” có hay không? đó vẫn là những câu để hỏi, chỉ cho có. Có, người hỏi. Có, người trả lời, là vui rồi. 
    Bởi thế nên, nếu có bạn và tôi, ta hỏi ít nhiều gì, thì cũng chỉ nên hỏi, rằng: Sàigòn/Hội thánh, có còn tình người nữa chăng? Có còn nhiều người vẫn yêu nhau da diết nữa hay không? mà thôi. Và hôm nay, hỏi tức đã trả lời phần nào rồi. Trả (những) lời “của” bạn và “của” tôi, rất ý nghĩa. Rất phấn khởi. Dù lời trả ấy, chẳng là “của” tôi, hay “của” bạn, một chút nào.

    Trần Ngọc Mười Hai
    vẫn sống mà không hỏi
    dù chỉ hỏi: Sàigòn/Hội thánh có giàu/nghèo-mưa/nắng,
như trước chăng?


35. “Hà Nội ơi, những ngày vui đã ra đi,”
“Biết người có nhớ nhung chi,
Hết rồi giây phút phân ly…”
(Hoàng Dương – Hướng Về Hà Nội)
(1Pe 2: 17)
    Nói về Hà Nội, như thành phố của cách xa, lưu luyến để hướng mắt, là nói như thế. Nhưng nếu lại nói về một Hà Nội nay đã đổi thay từ ngày trước, giờ đây chỉ còn lại trong ký ức của người đã ra đi, thì cũng nên nói như người trẻ vào buổi “Hát Cho Nhau Nghe” ở Sydney hôm ấy 5/3/2011, như sau:

“Theo em, nếu muốn tìm hiểu thêm về quá trình đổi thay, hay biến dạng; thậm chí là tiến trình qua đó có sự việc một thành phố bị xoá tên trên bản đồ thế giới đến thế nào, thì không gì bằng lắng nghe bản nhạc Việt viết về Sàigòn, Hà Nội. Một trong các bài nhạc tiêu biểu cho cung cách ấy là bài “Hướng Về Hà Nội” do nhạc sĩ Hoàng Dương sáng tác từ những năm trước 1954. Lúc ấy, Hà Nội của ông đã bắt đầu có dấu hiểu đổi thay, và ông kịp ghi lại hình ảnh đổi thay qua âm thanh và ca từ, trước khi nó chỉ là một hoài niệm. 
Giống nhiều thành phố lớn trên thế giới, Hà Nội là thành phố cổ xưa có cả nghìn năm tên tuổi. Thế nhưng, khi nghe lại bài này, ta thấy nó không xưa cổ chút nào mà còn hiện đại nữa là đằng khác. Bởi, mỗi lần nghe các ca sĩ cất lên ca từ của bài này, ta càng nhận ra sự kết hợp hài hoà giữa hai khung cảnh cũ/mới vô cùng quyến rũ của Hà Nội thời tiền chiến. Nơi đây, cổ kính và hiện đại, tượng trưng cho quá khứ với tương lai, luôn bổ sung cho nhau. Bàng bạc trong ca từ của bài hát, là hình ảnh của một thời vàng son đã qua, xen kẽ với nét tân kỳ của người dân thành phố, lớp người luôn theo kịp nếp sống văn minh thế giới. Đó là những tà áo màu tung bay khắp phố, rồi lại đến ‘ánh đèn giăng mắc muôn nơi’, toả ánh văn minh đến khắp mọi miền.
Thì ra, linh hồn của một thành phố cổ xưa không toát ra từ những mái tường rêu phong đổ nát, hay từ các ‘quán cóc liêu xiêu’ nghèo nàn, như một số ca khúc sau này viết về Hà Nội. Mà nó được hun đúc từ vô số âm thanh được thể hiện qua cung cách sinh hoạt hiện đại của người dân thị thành. Chính điều này đã tạo nên sinh khí cho thành phố. Thiếu nó, thành phố cổ chỉ là bảo tàng viện không sức sống, cứ thoi thóp chờ ngày bị đào thải khỏi cuộc chơi. Với ý nghĩ ấy, tác giả thầm tiếc cho một giá trị tinh thần sắp sửa biến mất, một giai cấp tiểu tư sản, đại diện cho thế hệ con dân ưu tú nhất của đất nước, đã lũ lượt bỏ đi không hẹn ngày trở lại. Bài hát của ông đã phác hoạ tuyệt vời cảnh Hà Nội bị giằng xé giữa những dằn vặt nội tâm của hai lớp người đi và ở, giữa cũ và mới. Hà Nội trong tâm tưởng của ông tuy thật gần mà cũng thật xa cách, tách rời. Nó luôn ẩn chứa cái ngọt ngào của bản tình ca, lẫn cái não nùng của sự chia lìa đến vĩnh viễn. Người ở lại phải giấu nó xuống tận đáy lòng, người ra đi cứ phải hát mãi những lời réo gọi tháng ngày đã lùi dần vào dĩ vãng.
Cuối cùng, ông chọn ở lại, bám lấy mảnh đất thân yêu cho đến hơi thở cuối cùng. Từ đó đến nay, suốt hơn 60 năm dài đằng đẵng, ông đã ẩn mình dạy hồ cầm trong nhạc viện Hà Nội, chưa từng rời xa Hà Nội. Và, người yêu nhạc, vì thế, sẽ mãi mãi được thưởng lãm bài “Hướng về Hà Nội”, để người mình tự hào về một Hà Nội với bề dày cả ngàn năm văn hiến. Đồng thời, sẽ khiêm tốn đón nhận và dung hoà với các luồng văn hoá khác trên thế giới, để Hà Nội có thể đứng vững hơn, trước ngưỡng cửa của thiên niên kỷ mới. Đáng tiếc thay, Hà Nội nay đã thay hình đổi dạng, không còn chút gì giống với Hà Nội trong bài nhạc của Hoàng Dương nữa. Vậy thì, có gì bền vững với thời gian không? Chỉ tiếng guốc khua thôi cũng chắng bao hàm một nghĩa lý gì? Vậy thì tại sao người người vẫn lấy làm buồn mỗi khi nghe lại ca khúc ấy?” (trích lời giới thiệu bài “Hướng Về Hà Nội” của Anthony Việt Quốc đêm nhạc “Hát Cho Nhau” với chủ đề “Muôn thuở còn yêu”)

Nếu bạn và tôi, ta những nói về Hà Nội hay nơi nào, như khung trời thời buổi trước, chắc hẳn người người sẽ còn nói và hát nhiều hơn nữa, để coi đó như một phấn chấn, bổn phận, cần gìn giữ. Thế thì, mời bạn và mời tôi, ta cứ nghe và cứ nói thoải mái, vô tư. Hiền từ. Như thường lệ. Nói và hát, một đôi câu còn vương vấn ở đâu đó:

        “Hà Nội ơi, nước hồ là ánh gương soi,
        Nắng hè tô thắm lên môi, thanh bình theo guốc reo vui.
        Hà Nội ơi, kiếp đời muôn hướng buông trôi,
        Nhớ về người những đêm rơi,
        Nhắn theo ngàn cánh chim trời…”
        (Hoàng Dương – bđd)

“Kiếp đời muôn hướng”, “Nhớ về người những đêm rơi”, “theo cánh chim trời”, vẫn là tình tự thân thương của mọi người, ở đời thường. Những người, vẫn chú trọng vào cái hay/đẹp của mọi thời, rất muôn thuở. Với nhà Đạo, “Nắng hè tô thắm lên môi”, “nước hồ là ánh gương soi”, là tâm tư lập trường, về cuộc sống. Sống gắn bó, với thời buổi như chưa một lần rời bỏ. Rời, thành phố. Xa, thánh Hội vì lãng quên. Bất đồng. Phẫn uất?    
Vì gì đi nữa, vẫn là những tình tự mà người nghệ sĩ trên từng nhớ đến, nên đã hát:

        “Hà Nội ơi, hướng về thành phố xa xưa,
        mắt buồn lồng những đêm mưa,
        Não nùng mây gió đong đưa.
        Hà Nội ơi, nỗi lòng gởi gấm cho nhau,
        nhớ hoài chỉ biết thương đau,
        đắng cay chờ những kiếp sau.”
        (Hoàng Dương – bđd)

Nơi Hội thánh, có người vẫn nhớ và cứ thương, nên đã “hướng về thành phố xa xưa”, có “mắt buồn lồng những đêm mưa.” Mưa trong mắt, vì vẫn còn đó tâm tình của “mây gió đong đưa”, “Não nùng mây gió” ở đâu đó. Nơi, từng quan niệm về một Thánh hội có động thái không hài lòng. Đến độ thốt lên:

“’Luật lệ ở Anh nay không còn dành chỗ cho niềm tin Kitô-giáo nữa, dù Đạo này từng có mặt nhiều thế kỷ, ở đây’, đó là khẳng định của hai thẩm phán khi đưa ra phán quyết không cho phép vợ chồng Eunice và Owen Johns được quyền bảo dưỡng trẻ có tuổi từ 5 đến 10 nữa, chỉ vì lý do hai người “không đề cao lối sống đồng tính luyến ái” cho con trẻ.
Trước phán quyết này, hai vợ chồng chỉ nói: ‘Thật ra, điều chúng tôi muốn làm là tình nguyện giúp trẻ em cần bảo dưỡng, có được cơ ngơi tình người, nhiều xót thương. Hồ sơ của chúng tôi đầy đủ các đặc trưng kinh nghiệm làm cha mẹ bảo dưỡng đúng qui cách. Thế nhưng, lý do dẫn đến việc này, là bởi sự việc chúng tôi là Kitô hữu vốn có cái nhìn chính đáng của Đạo về chức năng tình dục, thế nên rõ ràng là bọn tôi không còn thích hợp với vai trò làm cha làm mẹ bảo dưỡng như thế nữa. Các vị chánh án đây lại cứ nghĩ rằng lập trường sống của chúng tôi có thể gây hại cho con trẻ. Thêm vào đó, Ủy Ban Bảo Vệ Nhân Quyền và Cơ Hội Đồng Đều bảo cho chúng tôi biết là: lập trường đạo đức của chúng tôi có thể gây ‘độc hại’ cho con trẻ. Chúng tôi không tin như thế. Chúng tôi lâu rày được chuẩn bị để yêu thương và đón nhận bất cứ mọi bé. Điều mà chúng tôi không muốn làm là cứ buộc phải nói cho trẻ biết chuyện sống đồng tính luyến ái là điều tốt, không sao hết. Chúng tôi không đồng ý chuyện ấy.”
Hai vị thẩm phán ở Toà Thượng Thẩm nước Anh có nói: nước Anh là một xã hội đa-văn hoá và ‘trần tục’, trong đó luật lệ của vương quốc này không bao hàm một sinh hoạt Kitô giáo nào hết. Hai vị nhấn mạnh rằng: nhiều người ‘không hiểu’ là xã hội Anh thực sự không còn dành chỗ cho Kitô-giáo’ nữa. Dù rằng lịch sử từng chứng mình rằng nước này thuộc thành phần Kitô giáo phương Tây, và dù họ từng có giáo hội là Kitô giáo được thiết lập từ lâu, nay có nhiều đổi thay trong đời sống tôn giáo và xã hội, ở thế kỷ vừa qua.” (x. Michael Kirke, Christianity is so yesterday, says UK high court, MercatorNet 02/3/2011)

    Thật chẳng rõ, nhạc sĩ Hoàng Dương có là Kitô hữu, hay không. Và, cũng chẳng hiểu: ông có lòng mộ Đạo nhiều hay ít. Nhưng, nếu ông còn sống đến hôm nay, lại nghe được lời nhận định rặt như thế, hẳn ông sẽ thêm vào câu hát trên, chỉ một chữ Kitô giáo thay vì Hà Nội, rồi mới hát:

            “Một ngày, mùa chinh chiến ấy,
            Chim đã xa bầy mịt mờ bên trời bay
            Một ngày tả tơi hoa lá, ngóng trông về xa,
luyến thương hình bóng qua.”
        (Hoàng Dương – bđd)

“Luyến thương hình bóng qua”, chỉ là những luyến và thương những tháng ngày Hội thánh từng sống ở đời nhưng chưa là và vẫn không là “hình bóng”, để người nhạc sĩ đây, vị chánh án ấy, phải kêu lên như thế. Tuy không hề “ngóng trông về xa”, mà “luyến thương hình bóng qua”, nhưng không là sự thật rất thực, mà chỉ là:

        “Một ngày, tàn cơn chinh chiến,
        lửa khói lăn chìm, tìm về nơi bờ bến
        một ngày hồng tươi hoa lá,
        hát câu tình ca nói lên lời thiết tha.”
        (Hoàng Dương – bđd)

“Nói lời thiết tha”/tha thiết, tức: phải nói đúng, nói thật, những sự thật từng phơi bày trước mắt. Nói thật, là nói: Hội thánh lâu nay vẫn cứ là cái bung xung để mọi người nhắm vào đó mà tranh chấp, úy kỵ. Kỳ thực, Hội thánh Chúa vẫn là thánh hội đứng vững sau bao thăng trầm của sự sống.   
Thế giới, có nhìn Hội thánh bằng ánh nhìn khác biệt, thì ánh mắt và tầm nhìn của thế giới, nay vẫn mang tính úy kỵ Uý và kỵ, là bởi Hội thánh trước sau vẫn cứ nhìn thế giới bằng ánh nhìn thiếu thiện cảm. Mất cảm thông. Thế nên, luôn có sự căng thẳng, giằng co, tranh đấu từ hai phía. Căng thẳng, vì Hội thánh không yêu thế giới như Thiên Chúa thương yêu loài, từ muôn đời. Chẳng thế mà, thành viên nọ của thánh hội Đức Kitô nay nhận định về sự căng thẳng ở trên, nên mới bảo:

“Nhờ Công Đồng Vatican II, Hội thánh không còn công khai lên án thế giới nữa. Hội thánh đã tự mở lòng mình, ít ra là trên nguyên tắc, để đi vào cuộc đối thoại với thế giới nhân trần. Tuy là thế, Hội thánh hôm nay có nhiều khuynh hướng cho thấy còn đó khía cạnh tiêu cực đối với nhân trần. Khuynh hướng nhìn thế giới hiện tại như một thảm bại không thể hàn gắn. Khuynh hướng này, muốn tái tạo một Đạo giáo mới của Đức Kitô, trong đó Hội thánh mới sẽ sống các khía cạnh của đời người nhưng lại không muốn dính dự vào thế giới quanh mình. Trong khi đó, có những người -trong số này có cả tôi- vẫn tin vào lời mời gọi Hội thánh sống như men trong bột, là thế giới. Có như thế, Hội thánh mới hoạt động hữu hiệu trong lòng thế giới ngõ hầu tạo dựng không phải Hội thánh mới mà là xã hội mới. Xã hội của thiên niên kỷ thứ ba, đã diễn ra.” (Armand Vielleux, đan sĩ Xitô Scourmont, Bỉ)

    Vị nào tìm cách sống “ngoài thế giới” lại nghĩ là mình đang ở trong ‘thế giới đặc biệt của Chúa’ sẽ thấy rằng mình đang tìm kiếm Chúa. Điều đó có nghĩa: tìm Chúa ở đâu đó, nên chưa gặp. Họ vẫn tìm Chúa ở nơi xa, nên khó lòng. Điều lạ kỳ hôm nay, là: người người chấp nhận rằng: không nên kiếm tìm Chúa làm gì, bởi có tìm cũng chẳng gặp. Bởi Chúa đã tìm ra mình rồi. Đã gặp mình, ngay trong cuộc sống thường nhật, mà người đời gọi đó là “thế giới” nhân trần.
    Quả thế. Chúa vẫn tìm ta và Ngài đã gặp. Ngài gặp ta, trong công việc hằng ngày, ở huyện. Có gặp ta, Chúa mới tỏ cho ta biết nhiều sự việc ở đời thường, trong đó có chuyện về Chúa. Nói về Chúa. Cả những chuyện thời đại, ta đang sống nữa. Những chuyện và những sự, mà chẳng ai hỏi hoặc lên kế hoạch để gặp Chúa. Dù không lên kế hoạch, nhưng người người chắc vẫn nhận và vẫn biết rằng: Chúa vẫn tìm, và vẫn gặp.
    Người người đều biết Thiên Chúa là Chúa của niềm vui tươi, kỳ diệu. Điều lạ này, khác với những gì ta nghe biết, từ thuở trước. Nghe rằng: Chúa chỉ yêu nếu ta chứng tỏ mình là người tốt. Nghe và biết, rằng: Thiên Chúa cao xa vời vợi thật khó đạt. Ta chỉ đạt đến Ngài sau khi chết, mà thôi.
Mặc dù thế, điều mới lạ ở đây, hôm nay, là: Chúa đến với ta trong khuôn khổ hạn hẹp cuộc đời, là thế giới. Thế giới, có đủ niềm vui/nỗi buồn, thật không thiếu. Vẫn không ngờ. Không thiếu và cũng chẳng ngờ rằng: những chuyện khiến ta thay đổi lối nhìn về Hội thánh và thế giới, là ngày nay nếu muốn gặp Chúa, vẫn nên đi vào cuộc đời, mà tìm kiếm. Thay và đổi, còn ở chỗ: Chúa tìm gặp người đời không chỉ trong Hội thánh thôi, mà cả ở ngoài đời. Nơi thế giới. Thay và đổi, để rồi sẽ nghe lời thánh nhân, vẫn thường nói:   
                  
          “Hãy tôn trọng mọi người;
        Hãy yêu mến anh em;
        Hãy kính sợ Thiên Chúa,
hãy tôn trọng vua.”
        (1Pe 2: 17)

    Nếu thánh Phêrô còn sống đến hôm nay, hẳn ngài sẽ không còn khuyên bảo mọi người trong Hội thánh hôm nay: hãy tôn trọng không chỉ mình vua thôi, mà là tôn và trọng cả thế giới. Từ trên xuống dưới. Tôn trọng mọi người trong thế giới và coi họ như có Chúa ở bên trong, rồi cứ thế mà vui sống. Vui mà sống, như truyện kể nhè nhẹ ở bên dưới để minh hoạ một sự thật rất thực, như sau:

“Ngày nọ, có một đan viện phụ Dòng Khổ tu tìm đến một vị tu sĩ Ấn Giáo tại chân núi  Himalaya. Với tất cả ưu tư phiền muộn, vị đan viện phụ trình bày về tình trạng bi đát của tu viện do ông chủ trì. Khi trước, tu viện này là một trong những trung tâm thu hút không biết bao nhiêu khách hành hương. Nhà nguyện lúc nào cũng vang tiếng hát của các tu sĩ và giáo dân đến từ khắp nơi. Các căn phòng lúc nào cũng có người ở... Nay tu viện trở thành một ngôi chùa trống vắng. Làn sóng những người trẻ tìm đến tu viện hầu như tắt lịm. Nhà nguyện vắng kẻ ra người vào. Một số tu sĩ còn lại sống uể oải buông thả... Vị viện phụ muốn hỏi tu sĩ Ấn Giáo: đâu là nguyên nhân đã đưa đến tình trạng này? Phải chăng vì tội lỗi tày đình nào đó mà bàn tay Chúa đè nặng lên cộng đoàn?
Sau khi nghe đức viện phụ kể, vị tu sĩ Ấn Giáo ôn tồn nói: "Cái điểm yếu của cộng đoàn: đó là sự vô tình". Vị tu sĩ Ấn Giáo giải thích như sau: "Ðấng Cứu Thế đã cải trang thành một người phàm ở giữa chư vị, nhưng chư vị vô tình không nhận ra Ngài".
Nghe tu sĩ Ấn Giáo giải thích, đức viện phụ bèn hối hả trở về tu viện, lòng ông miên man tự hỏi: "Ai là người được Ðấng Cứu Thế đang mượn hình dáng để trở lại với loài người?" Cả tu viện có không đầy mười người. Ðấng Cứu Thế không thể là chính ông, vì ông tự biết mình là con người tội lỗi yếu hèn. Nhưng ông cũng biết rõ các tu sĩ khác trong tu viện: có người nào toàn vẹn để Ðấng Cứu Thế mượn hình dáng? Nhưng, ông vẫn tin lời của vị tu sĩ Ấn Giáo xác quyết rằng Ðấng Cứu Thế đang cải trang thành người nào đó sống trong cộng đoàn...
Với niềm xác tín ấy, ông quy tu tất cả các tu sĩ lại và loan báo cho mọi người biết rằng Ðấng Cứu Thế đang cải trang thành một người trong nhà mình. Ðôi mắt của mỗi người mở to và ai cũng bắt đầu dò xét từng người trong nhà. Có điều chắc chắn là: vì Ðấng Cứu Thế đã cải trang, nên không ai nhận ra Ngài được. Thành ra mỗi người trong nhà đều có thể là Ðấng Cứu Thế... Từ đó, ai ai cũng đối xử với nhau như với chính Ðấng Cứu Thế. Chẳng mấy chốc, bầu khí yêu thương, huynh đệ đã trở lại với tu viện. Sự thánh thiện ấy chẳng mấy chốc lan đi khắp nơi. Các tín hữu từ khắp nơi trở lại tu viện để tĩnh tâm và cầu nguyện. Nhiều người trẻ cũng đến gõ cửa Nhà Dòng...
Nếu mọi người, ai cũng nhìn nhau và đối xử với nhau như với chính Chúa Giêsu, thì chiến tranh hận thù sẽ không có lý do tồn tại trên mặt đất này. Sự vắng bóng của Thiên Chúa trong xã hội, hay đúng hơn sự vô tình của con người không nhận ra Thiên Chúa trong cuộc sống: đó là đầu mối của mọi thứ bất hòa, chiến tranh, xáo trộn trong xã hội.
Chối bỏ Chúa cũng có nghĩa là chối bỏ con người. Sự băng hoại của xã hội xây dựng trên chủ thuyết vô thần là một bằng chứng hùng hồn về hậu quả của sự chối bỏ Thiên Chúa. Khi con người chối bỏ Thiên Chúa, con người cũng chà đạp con người.”

    Người kể truyện hôm nay lại rút ra bài học cho cuộc sống, ở thế giới nhân trần. Bài học ấy, người nghệ sĩ trên từng viết thành giòng chảy âm nhạc, rất nghe quen, rằng:

            “Hà Nội ơi, biết người còn có trông mong,
            Hướng về ai nữa hay không
những ngày xa vắng bên sông.
            Hà Nội ơi, những chiều sương gió dâng khơi
            Có người lặng ngắm mây trôi,
            Biết bao là nhớ tơi bời.”
            (Hoàng Dương – bđd)

    Nhớ Hà Nội, là nhớ Hội thánh và nhớ thế giới của một thời. Thời, có những giòng chảy yêu thương, đầm ấm rất tình người. Ở muôn nơi.

        Trần Ngọc Mười Hai
        vẫn nhớ Hà Nội quê mình
        như Hội thánh, rất yêu đời.
        Yêu thế giới cũng rất người.


36.  “Em còn nhớ hay em đã quên,”
“Nhớ Sài gòn mưa rồi chợt nắng
Nhớ phố xưa quen biết tên bàn chân…”
(Trịnh Công Sơn – Em Còn Nhớ Hay Em Đã Quên)
(2Ti 2: 8-9)
Đành rằng, khi sáng tác nhạc bản này, nghệ sĩ họ Trịnh chỉ muốn nhắc đến người Em thân yêu của mình, từng rời bỏ khung trời Sàigòn để ra đi biền biệt. Nhắc, là nhắc đôi điều để Em nhớ mà thương Sàigòn thời đó, có “phố xưa quen biết tên bàn chân”. Có “đèn đường từng đêm thao thức.” Nhắc khá nhiều, nhưng chẳng biết em có nhớ hay không.
Ở đời thường, hôm nay, có nhiều điều cũng được nhắc nhớ, từ người vợ hiền, mà sao anh chồng nọ chẳng còn nhớ, như truyện nhỏ ở bên dưới:

“Truyện rằng:
Vợ chồng nhà nọ, ít khi có chuyện cãi cọ. Rất im lìm. Suốt cả năm. Nhưng một hôm, người vợ ghen tức chịu không nổi bèn vào phòng kéo cổ ông chồng ra khỏi cửa mà nói những lời tuy nhẹ nhưng thấm thía, rằng:
-Sao cả ngày anh cứ chúi đầu vào mấy cuốn sách mà không nhớ gì đến ai cả? Suốt ngày, không thấy anh mở miệng nói với em đến nửa lời, là làm sao?
-Hôm nay có chuyện gì mà em “làm ầm” lên thế? Vách tường có tai đấy!
-Anh cứ nhìn mà xem! Quanh anh toàn là sách với sách không à! Anh không thèm biết vợ con sống chết ra sao ư? Giá như em là cuốn sách có khi còn hay hơn. Còn được anh đầu ôm tay ấp chứ thế này, thật rõ chán!
-Đừng nghĩ thế, tội anh em ơi! Em là tất cả của đời anh mà! Mấy sách này, mỗi cuốn anh chỉ đọc có vài ngày rồi đem đổi lấy cuốn mới. Em có chịu đổi chác như vậy không?...
-Ừ nhỉ… Cũng có lý, đấy chứ!”

Nhà Đạo mình, cũng có lời nhắc nhở, để người người tạc ghi suốt đời, một lời thơ như sau:

“Anh hãy nhớ đến Đức Giê-su Kitô, sống lại từ cõi chết,
(sinh) bởi dòng giống Đa-vít.
chiếu theo Tin Mừng của tôi,
vì đó tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi.
Nhưng lời Thiên Chúa đâu bị xiềng xích!”
(2Ti 2: 8-9)

Còn ngoài đời, nghệ sĩ nhắc nhớ là nhắc để ta nhớ những dòng chảy như thế này:

“Em ra đi, nơi này vẫn thế
Vẫn có em trong tim của Mẹ
Thành phố vẫn có những giấc mơ
Vẫn sống thiết tha
Vẫn lấp lánh hoa trên đường đi.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Phải chăng, nơi này vẫn thế. Vẫn “có em trong tim của Mẹ”, “vẫn sống thiết tha”, “lấp lánh hoa trên đường đi”?
Thế còn, Hội thánh thì sao? Hội thánh mình, có còn nhớ những người thường xót quên một bổn phận của dân con mình ở đời? Bởi, dân con Hội thánh sống ở đời, vẫn bị cuốn hút vào dòng đời bon chen, lo lắng, nên quên hết chuyện Đạo? Chí ít, là chuyện nhà thờ nhà thánh, ngày chủ nhật?
Còn nhớ, có lần tân chức nọ đến nhà thờ họ đạo nhỏ ở trời Tây làm lễ mở tay đã giảng và thuyết lời lẽ như sau: “Thánh lễ là trọng tâm cuộc sống của người tín hữu. Có thể nói mà không sợ ngượng miệng rằng: Không có thánh lễ, th́ vai tṛ của vị linh mục không cần thiết nữa. Và, giáo dân mà không đi lễ mỗi ngày Chúa Nhật, thì sẽ không nên gọi mình là tín hữu được nũa.”
Bỏ qua một bên, để xem lời “đức thày” mới tấn phong, đúng hoặc sai. Cứ để một chỗ, lập trường của người anh em vừa được phong chức, còn mới chớm. Cứ rồi xem, hai chục năm sau đức thày nhà Đạo có còn nói thế nữa hay không? Chí ít, là nói với đồng Đạo ở trời Tây. Nơi mình phục vụ.
Nay chỉ xét, tại sao trẻ nhỏ ở trời Tây, lại cứ hay thắc mắc hỏi cha mẹ những câu lẩn thẩn chỉ thấy có ở trời Tây, thôi. Hỏi, là hỏi rằng: “Tại sao ta cứ phải đi lễ ngày Chúa nhật, thế hả mẹ”? Nghe trẻ hỏi, chắc hẳn có vị sẽ chột dạ mà tìm hiểu xem thực chất của tình trạng giữ đạo, ở bên này, rày ra sao. Còn nhớ, cách đây không lâu, Lm Andrew Hamilton sj ở Úc cũng đã nhận định về chuyện này:

“Đây là câu hỏi không chỉ riêng mỗi người trẻ mới hỏi, thôi. Cả người lớn cũng thế. Đó là thắc mắc cũng rất cũ giống như câu nói của ai đó: thánh lễ vẫn thế, nhưng Ngày của Chúa rày đã đổi thay.
Vào niên biểu 1954, ở Úc, có khoảng 80% số người Công giáo vẫn thường xuyên đi lễ ngày Chúa nhật. Rất đều đặn. Dạo đó, thánh lễ nào cũng đầy đủ cả người trẻ lẫn cụ già. Ngày nay, chỉ còn thấy độ 20% số người Công giáo Úc là chịu đi lễ, thôi. Và, con số này ngày một giảm sút. Nhiều cộng đoàn vẫn cử hành thánh lễ, nhưng chỉ lác đác một vài người đến dự thôi. Người trẻ càng ít thấy. Chừng như người Công giáo hôm nay đã trở thành đám người thiểu số ngay trong lòng dân tộc, vẫn theo Kitô giáo.
Các Giáo hội khác cũng trải nghiệm một sút giảm tương tự. Ngày của Chúa hôm nay, đã bị trần-tục-hoá rất nhiều. Khi xưa, ít có người chịu làm việc vào ngày của Chúa. Lúc bấy giờ, làm gì có các trận bóng bầu dục! Làm gì có truyền hình tràn lan nhiều chương trình! Ngay đến báo chí, phim ảnh cũng chỉ rải rác ở một vài nơi, thôi. Chỉ mỗi tiệm bán sữa là mở cửa vào những ngày này. Thăm viếng bạn bè, cũng đã là chuyện hiếm khó vì khi ấy người dân ở đây không có nhiều xe cộ, hoặc phương tiện di chuyển như bây giờ. Người người gặp nhau ở nhà thờ, vào các giờ lễ Chúa nhật. Các giáo hội khi ấy tài trợ rất nhiều sự kiện thể thao, giải trí như quần vợt, khiêu vũ, vui chơi ngoài trời, có nơi tổ chức các lễ hội vui chung nữa. Người người đến nhà thờ là để gặp gỡ, hàn huyên nguyện cầu. Rất thoải mái.
So với ngày nay, mọi người đều đi làm cả vào ngày dành cho Chúa. Có người, lại ngủ bù vào ngày của Chúa, hoặc lo mua sắm. Chuyện đi nhà thờ nhà thánh hôm nay đã phải cạnh tranh ganh đua với chương trình thi đấu thể thao, phim ảnh, truyền hình, chơi games, sinh hoạt ở trường hoặc ra ngoài dạo mát với mẹ cha…” (x. Lm Andrew Hamilton, www.eurekastreet.com.au )

Với nhà Đạo ở phương Tây, hôm nay, vấn đề không còn là thế. Tức, bàn dân thiên hạ không còn ngồi đó trông mong người đi Đạo trở vềi với thánh đường để đi lễ. Nhưng đã nghĩ ra nhiều cách để lôi cuốn mọi người nhớ đến Chúa, và Hội thánh. Cũng tốt thôi. Nhớ dự lễ, có thể là nhớ cách nào đó, cho hấp dẫn. Có thể, là làm sao tạo cho thánh lễ hoặc buổi diễn giảng ở đâu đó ở phố chợ. Tại trung tâm thương mại. Hoặc trên truyền hình. Thế nhưng nơi nào, kiểu nào cũng có khó khăn của nó.
Với thánh lễ truyền hình, khó khăn xảy đến cũng rất nhiều. Một trong những vấn đề khiến dân con nhà Đạo để tâm đến, là như mắc của độc giả nọ đã có thư lên đấng bậc vị vọng ở Sydney, để hỏi như sau:

“Con có người bạn nghe tin ở đâu đó nói rằng: nếu anh/chị chỉ xem lễ trên truyền hình vào ngày của Chúa thôi, cũng đủ. Câu hỏi của con hôm nay gửi đến với cha, là: có thật thế không? Trường hợp người đau yếu hoặc ngã bệnh không đến nhà thờ được, hoặc không có khả năng đến dự thánh lễ cho Giới Trẻ ở trường đua Randwick, Sydney được thì sao? Xin cha giúp lời chỉ giáo. Rất biết ơn.” (Một giáo dân ở Sydney)

Một lần nữa, chừng như đấng bậc đây vẫn chờ mong những câu hỏi tương tự, để có dịp mà trả lời/trả vốn, rất như sau:

“Tôi thiết nghĩ, những gì chị nghe được từ cô bạn nọ, cũng không đúng. Thế nhưng, câu hỏi của chị ở đây, hôm nay, đã hàm ngụ một số điều trong đó có kể đến thánh lễ bế mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Sydney, nên tôi xin phép được giải thích một số nguyên tắc nền tảng như sau:
Những ai có khả năng đến nhà thờ dự lễ, nghĩa là không đau ốm, hoặc thánh lễ được cử hành ở một nơi không xa chỗ mình ở, vv. thì phải đến nhà thờ để dự lễ ngày Chúa nhật.
Điều này cũng dễ hiểu thôi. Đức Giêsu đã hy sinh cả đời Ngài cho chúng ta. Vì thế, chúng ta cũng nên đáp trả sao cho phải phép. Nghĩa là, cũng nên hy sinh cách nào đó, để đi lễ. Và điều này, ta cũng đừng nên quên, là: làm như thế là để việc Ngài hy sinh trên đồi Calvariô, trở thành hiện thực đối với ta, ở nhà thờ.
Nếu có ai ban cho ta một ân huệ nào đó thật cao cả, thì ta cũng nên tỏ lòng cảm kích biết ơn, dù phải đi xa cách mấy cũng chẳng sao. Xa thì xa, vẫn nên đi thăm viếng; và nếu được cũng nên đem theo quà đáp lễ để tặng và có khi còn phải cúi gập mình mà tỏ lòng tri ân nữa không chừng. Chẳng ai trên đời này lại ban cho ta ơn huệ cao cả bằng Chúa. Ngài là Đấng dựng nên ta, cứu chuộc và tỏ cho ta biết ơn quan phòng triền miên yêu mến, đối với ta. Ngài còn kêu mời ta cùng Ngài đi vào cuộc sống vĩnh cửu, và bao điều tốt lành khác, Chỉ bấy nhiêu thôi, cũng đủ để ta hăng hái tỏ bày lòng biết ơn đối với Ngài, theo cách của riêng mình.
Cách tốt đẹp nhất Ngài thiết lập nên để ta chu toàn là giữa các ngày Sabát, rất thánh thiêng. Đối với người Công giáo, đó là đến nhà thờ dự lễ, ngày của Chúa. Nếu có khả năng đến nhà thờ đuợc thì “xem” lễ trên truyền hình là việc không phải phép, và cũng không đủ. Xem lễ kiểu đó, chứng tỏ rằng tình yêu thương ta có với Chúa, cũng quá nhỏ. Về điều này, sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có đoạn nói rất rõ: “Vào các ngày Chúa nhật và các ngày lễ buộc, tín hữu có bổn phận phải tham dự thánh lễ. ” (x. GLHTCG #2180)
Hơn thế nữa, đích thân đến nhà thờ dự lễ, ta mới có thể rước Mình Thánh Chúa vào lòng được mà thôi.Và rước Mình Thánh Chúa, là cung cách giúp ta san sẻ sự hy sinh của Chúa. Thêm vào đó, hiện diện ở nhà thờ, là ta gia nhập cộng đoàn dân Chúa với giáo xứ để thờ phụng Chúa, qua tư cách thành viên cộng đoàn Nước Trời. Nói cho cùng, Hội thánh không là nhóm hội gồm các cá nhân riêng lẻ, mà là toàn thể dân Chúa kết hiệp làm một với nhau, nơi Thân Mình rất Thánh của Đức Chúa. Ta là dân Chúa chọn lựa. Là, Thân Xác Nhiệm Mầu của Đức Kitô. Là, Hội thánh rất thông công. Có mặt bên nhau, thì ta mới có thể hỗ trợ cho nhau được.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo còn nói rõ: “Cùng tham gia cử hành Tiệc thánh vào ngày của Chúa là bằng chứng nói lên rằng ta thuộc về Chúa và là kẻ tin vào Đức Kitô và Hội thánh của Ngài. Tín hữu Đức Kitô làm chứng cho điều đó qua việc hiệp thông trong lòng tin và đức bác ái. Cùng nhau ta chứng minh tính thánh thiêng của Chúa và có như thế, mới nói lên niềm hy vọng của mình vào ơn cứu độ. Làm như thế, mỗi người mới củng cố cho nhau dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần.” (x. GLHTCG # 2182)
Thế còn người đau yếu bệnh tật đang nhập viện hoặc đang nằm nhà dưỡng bệnh thì sao? Bởi, những người bị bệnh không làm sao đích thân đến nhà thờ được, nên họ được miễn chuẩn không buộc phải đến nhà thờ như người khoẻ, được. Nếu người bệnh có thể tham dự thánh lễ qua truyền hình, vẫn được phép. Dù, họ không buộc phải làm thế. Vào lúc rước lễ, người bệnh có thể thông công hiệp lễ cách thiêng liêng.
Tôi biết nhiều người buộc phải ở nhà và vẫn dự lễ mỗi ngày qua truyền hình và được nhiều ơn lành thiêng liêng, rất đặc biệt. Về sự kiện đặc biệt như thánh lễ bế mạc Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, nhiều người muốn đích thân đến tham dự, nhưng không được vì nhiều lý do, thì họ vẫn có thể làm tròn nhiệm vụ ngày Chúa nhật hôm đó, qua truyền hình.
Có trường hợp khá đặc biệt, là người tham dự thánh lễ thì đông, mà nhà thờ lại không đủ sức chứa, nên nhiều người vẫn cố gắng hết mình để cùng tham dự thánh lễ với người khác, tuy không sốt sắng, bằng cách đứng ngoài hiên hoặc trong sân nhà thờ. Chuyện này thường diễn ra, nhất là vào dịp nghỉ hè ở các khu thị tứ, hay du lịch. Những người đứng ngoài như thế, vẫn làm tròn bổn phận, ngày của Chúa; và vẫn có thể rước Chúa vào lòng, dù mắt mình không thấy vị linh mục chủ tế bẻ bánh hoặc truyền phép, trên bàn thờ. Đó là những trường hợp ngoại lệ, có thể châm chước. “ (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 6/7/2008, tr. 18)

Về với ý kiến của Lm Andrew Hamilton, sj về vấn đề nói trên, thì ông cũng đề cập đến trường hợp tại sao thánh lễ ngày của Chúa rất cần thiết đối với tín hữu thời Giáo hội tiên khởi. Đây, còn là việc bắt buộc đối với tín hữu thời Trung Cổ. Đến hôm nay, ta đã trở về với thời điểm giống hệt tín hữu thời ban đầu, đã trở thành nhóm thiểu số khác người ngoài Đạo, ở niềm tin và cung cách sử dụng ngày của Chúa. Giống cộng đoàn thời tiên khởi, vấn đề thâm sâu không phải là: có đến nhà thờ đích thân dự lễ hay không. Mà là, có còn thuộc về Hội thánh nữa hay không thôi. Trước hết và trên hết, cần có lý để chứng tỏ mình là người Công giáo, trước đã. Chỉ khi đó, mới nói được là việc đến nhà thờ dự lễ hay không, thôi.
Với Hội thánh thời tiên khởi, muốn chứng tỏ mình là Kitô-hữu, đã là một chọn lựa khó khăn rồi. Bởi, làm thế rất dễ bị cha mẹ hoặc gia đình ruồng bỏ. Chính quyền cũng bách hại hoặc giết chết. Và, khi tham gia Tiệc thánh, là ta mừng Chúa trỗi dậy từ nỗi chết. Điều này đem đến cho ta hy vọng phải giáp mặt với cái chết, đang trờ đến. Ta tin rằng Đức Kitô sống lại từ cõi chết, rất thật sự. Ngài đang thực sự hiện diện với ta, qua Hội thánh.
Thế giới hôm nay, một số người không tham dự Tiệc thánh nữa vì lý do đơn giản là họ được người khác bảo cho biết mình không có bổn phận “phải” làm thế. Nhưng kỳ thực, sự thật lại khác. Là, thành viên công đoàn Kitô-hữu và thành phần chủ chốt của Tiệc thánh, hai việc vẫn đi đôi với nhau. Ngày của Chúa, dân con nhà Đạo sống thực thụ niềm tin của mình qua tư cách cộng đoàn tình thương, rất Nước Trời.
Nói cho cùng, thì thế giới ta sống hôm nay cũng giống hệt như thời tiên khởi của Hội thánh. Thời, mà các thánh sống đích thực niềm tin đi Đạo đã biến mình thành con người rất đặc biệt. Thế giới hôm nay, đặt nặng lên chủ nghĩa cá nhân riêng lẻ. Vẫn cứ suốt ngày bận rộn với công kia việc nọ, khiến ta khó lòng mà theo chân Chúa. Vì thế nên, tín hữu Đạo Chúa cần đến cộng đoàn cùng tháp tùng, chung sống. Cùng hỗ trợ cho nhau, để tồn tại.
Tiệc thánh, là thời khắc giúp ta nguyện cầu, lắng nghe. Là, lúc để ta cùng nhau nói tiếng “cảm ơn” về quà tặng Chúa trao ban. Thế giới hôm nay, con người lúc nào cũng bận rộn. Thế nên, hãy biến ngày của Chúa, thành ngày thư giãn, rất buông lỏng để mình có thể cùng nhau nguyện cầu. Và, trao cho nhau thời gian và không gian, mà gặp gỡ. Gặp, để tiếp cận nhau bằng phần sâu thẳm của cuộc sống.
Có làm thế, mới chứng tỏ là mình biết quan tâm đến người khác. Chí ít, là những người còn nghè túng. Thiếu thốn. Có nhu cầu. Thế giới hôm nay, con người thấy mình cô đơn, lẻ bóng hơn bao giờ. Bởi, họ không có thì giờ để tiếp cận, gặp gỡ. Không có thời gian để gần nhau. Gặp gỡ.
Bởi thế nên, đây là thời khắc giúp ta thực hiện điều cần thiết chứng tỏ rằng thế giới của nhà Đạo, không như thế. Nhà Đạo, là nhà của thành viên vẫn có nhau vào những lúc rất cần. Vào cả giờ phút hiếm quý, ngày cuối tuần. Nhà Đạo, là nhà của những con người và người con biết tìm đến nhau. Dù, chỉ để hỏi han, san sẻ một nỗi niềm, rất riêng tây. Gặp nhau, không chỉ để giùm giúp lẫn nhau. Ở bên nhau. Mà còn để cảm tạ những ơn lành mình đã có và đang có. Cái mình có chắc chắn nhất, đó là niềm tin. Tình yêu thương. Và, niềm hy vọng. Hy vọng có mãi bên nhau. Có nhau, thật dài lâu.
Thế đó, là tình yêu thương. Bằng hữu. Tính hiếu khách. Thế đó, là đối thoại. Mở lòng. Là, khát vọng biến đổi thế giới thành nơi chốn bình an. Công chính. Có làm thế, ta mời có thể đi theo đường lối Chúa vạch ra, cho cộng đoàn Nước Trời. Là Hội thánh.
Nói gì thì nói. Hát gì thì hát. Cũng nên nói và hát, như người nghệ sĩ ngoài đời, vẫn hôm nào. Vẫn cứ hát, những lời ca, như sau:

“Em còn nhớ hay em đã quên,
Nhớ Sàigòn mỗi chiều gặp gỡ,
nhớ món ăn quen nhớ ly chè thơm,
Nhớ bạn bè chào nhau quen tiếng,
Phố em qua, gạch ngói quen tên…”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Nhà Đạo hôm nay, có hát bài này cũng nên thay lời ca “Sàigòn” bằng ca từ “dự thánh lễ”, cũng sẽ thấy rằng Hội thánh, vẫn cứ bảo:

“Em ra đi, nơi này vẫn thế.
Vẫn có em trong tim của Mẹ
Thành phố vẫn có những giấc mơ,
vẫn sống thiết tha, vẫn lấp lánh hoa trên đường đi .”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Quả đúng thế, có dự tiệc thánh ở nhà thờ hay qua truyền hình, thì hỡi bạn và tôi, ta hãy nhớ: Hội thánh vẫn còn đó ngóng chờ. Chờ bạn và chờ tôi. Mọi ngõ ngách, của con tim.

Trần Ngọc Mười Hai
vẫn cứ nhắn và cứ nhủ
chính mình và bầu bạn
chỉ một lời
rất như thế.

 

37. “Có phải em, mùa Thu Hà Nội?”
“Tuổi phong sương, ta cũng gắng đi tìm.
Có phải em, mùa Thu xưa?
Có bong mùa Thu, thức ta lòng son muộn?”
(Trần Quang Lộc – Có Phải Em Mùa Thu Hà Nội)
(Mt 22: 18, 29-30)
    Âu cũng là chuyện bình thường. Ở đời. Khi, người người vẫn cứ vấp phải đôi ba lỗi lầm lớn/nhỏ, trong quan hệ với người đời. Để rồi, cũng có lúc ta sẽ hối tiếc, mà thốt lên câu: “Thật không có cái dại nào như dại nào.”
    Bần đạo đây, đôi lúc cũng rơi vào tình huống khá “lấn cấn”, gần như thế. Gần nhất, là như trong chuyến Mỹ du tháng 6/2011 vừa qua, bần đạo đã khám phá ra được sự thật rất chết người. Sự thật, ấy là: hơn 3 năm về hưu nằm nhà, mà sao bần đạo nào thấy dài! Bởi, có ra đi mà kết thân với người ngoài  -ngoài Đạo/ngoài đời- thì người người mới thấy mình đôi khi cũng lung túng không ít với các chức sắc hoặc đấng bậc, ở cơ quan.
    Thấy họ làm việc tất bật, vật vã đã không thương thì thôi, lại cứ hỏi những câu dư thừa, như: “Busy, busy?” (tức, bận nhỉ?) Để rồi, người đối tác, đã không trả lời/trả vốn thôi, còn hỏi lại: “Phải ông ở Sydney không? Qua đây lâu chưa? Mới có 2 chục năm tức hơn hai thập niên mà không biết là: phi trường Ascot Sydney này cũng bận rộn không kém gì nơi khác như New York, Paris, London hay sao mà còn hỏi? Đúng là câu hỏi thuộc loại vớ vẩn. Không hay lắm!...”
    Hú vía! Đó là bần đạo chỉ máy miệng, hỏi có bốn chữ thôi, cũng đã được lời gấp trăm, liên tu hồ điệp tràng pháo tung trời, nổ lốp đốp. Và, lộp độp. Bất chợt nhìn lại sắc da mầu áo của chức sắc ở cơ quan di trú phi trường mới biết: ngài không phải người Tây, mà là “thầy người”, tức bậc thầy Án Độ, rất “fakir”! Thế mới biết, sống ở đời mà cứ lân la chuyện vãn với người “ngoài luồng”, cũng nên nhìn trước nhìn sau mà đoán chừng, đừng tính toán qua loa. Sơ xài. E sẽ hớ!
    Chẳng thế mà, nghệ sĩ họ Trần ở trên vẫn hỏi và hát, những câu ngớ ngẩn, mà đâu sao:
            “Có phải em là mùa thu Hà Nội
Ngày sang thu anh lót lá em nằm
Bên trời xa sương tóc bay.
Thôi thì có em đời ta hy vọng
Thôi thì có em sương khói môi mềm.”
(Trần Quang Lộc – bđd)

    Về hỏi han, dù chỉ sơ qua dăm ba câu chuyện hỏi làm quà, nhiều lúc cũng làm ta rối rắm, rất không ít. Có khi, cũng phức tạp cho người hỏi lẫn người trả lời như cuộc hỏi/đáp dưới đây:

“-Đúng thế không? Cuộc tình của anh chị kéo dài những 15 năm sau đó mới đi đến hôn nhân?
-Điều này không sai. Nhưng, trước khi đi đến hôn nhân, bọn tôi vẫn có một cuộc tình với nhau kéo dài những 15 năm 2 tháng và 1 ngày.
-Thế, anh chị làm gì trong thời gian chờ đợi dài như thế?
-Đơn giản là: trong thời gian đó, chúng tôi đều có gia đình riêng...”
 
    Về đáp trả, đôi lúc dù chẳng giản đơn như hỏi đáp ghi trên; chí ít, là hỏi và đáp về hôn nhân, tức: được hôn (người có lòng) nhân, lại có nhân (duyên cũng dễ) hôn. Hôn nhân/nhân hôn ở đời, toàn những thế. Những chuyện rất ư là rắc rối. Có ở đời.
    Nơi nhà Đạo, cũng không tránh khỏi cảnh rối rắm thường dẫn đến nhiều chuyện khá phức tạp khác. Tức những chuyện rắc rối, tối nằm không. Chí ít là khi: cả hai bên đã yêu nhau thật tình, quyết thể hiện tình yêu ấy suốt đời; mà vẫn gặp nhiều vụ việc khá phiền phức về giáo luật, đáng kể như sau:
    Đáng kể, là đáng để kể lể và hỏi han có mỗi chuyện như thế này:


“Tụi con yêu nhau và chịu cưới nhau đã là điều tốt rồi, nhưng sao lại cứ phải đưa nhau vào nhà thờ mới được phép làm lễ cưới theo đúng qui cách của Đạo Công giáo. Như thế nghĩa là sao? Các cặp vợ chồng cưới nhau “ngoài nhà thờ” còn có ý nghĩa gì? Xin giải thích cho biết. (Ký tên một người Công giáo hay thắc mắc).
    Giả như người hỏi gửi các câu thắc mắc đến đấng bậc phụ trách mục gỡ rối tơ lòng về Đạo hạnh, thì chẳng có gì đáng gọi là “một người Công giáo hay thắc mắc” hết. Bởi, cha cố ở nhà Đạo luôn cần những người cứ thắc mắc những chuyện đại loại như thế, để có cơ mà giải thích. Chứ, bằng không, chẳng lẽ lại treo văn bằng cử nhân thần học lên tường gạch cho con trẻ nó ngắm nghía sao? Bởi thế nên, đấng bậc ở Sydney luôn sốt sắng trả lời/thời trả cả vốn, như sau:

“Câu hỏi của cô (xin phép được gọi bằng “cô” cho thân mật), là điều rất hệ trọng. Ngày nay, nhiều bạn vẫn đi nhà thờ giữ Đạo, nhưng lại không mấy am tường qui định của Hội thánh liên quan chuyện cưới hỏi. Thậm chí có vị từng làm đám cưới “ngoài nhà thờ” mà không hay biết hậu quả có thể xảy ra, nữa.      
 
Trước hết, xin bắt đầu bằng một giải thích xem thế nào là “đám cưới ngoài nhà thờ”. Cụm từ này, dù gì đi nữa, cũng không là danh từ chuyên môn gì cho cam, mà chỉ muốn nói đến cung cách tổ chức đám cưới đã được Hội thánh chuẩn nhận, cho làm “trong nhà thờ”, vậy thôi.

Điều 1108 nơi Giáo luật đòi rằng: đám cưới giữa người theo Đạo Công giáo chỉ hiệu lực nếu thuận theo qui định của Hội thánh, tức: phải có sự hiện diện của ít là một linh mục, hoặc vị phó tế; và thêm vào đó, là hai người chứng, như thế mới thành. Trong lễ cưới như thế, vị linh mục hoặc phó tế phải yêu cầu cả hai cô dâu chú rể phải bày tỏ sự đồng thuận, rất rõ ràng.

Có làm như thế, thì hai vợ chồng mới được coi là đã làm đám cưới “trong nhà thờ”, theo phép Đạo. Và, đám cưới của hai người mới hợp lệ được. Về đòi hỏi phải có sự chứng giám của một linh mục hoặc phó tế và hai người chứng được gọi là “đám cưới theo khuôn phép rất đúng” như luật định.

Trong một số trường hợp, Hội thánh có thể châm chước chuẩn miễn để hai người không buộc phải theo khuôn khổ như luật định. Chẳng hạn như: nếu một bên là người Công giáo đi cưới một người không phải Công giáo nhưng đã được rửa tội (theo Đạo Chúa như bên Tin Lành) thì hai người có thể yêu cầu được phép làm đám cưới “trong nhà thờ” của người bên Đạo Chúa Kitô mà không phải là Công giáo. Làm như thế, là để trân trọng quan hệ đặc biệt hai người vẫn có với chức sắc của Giáo hội ấy. Hoặc, để khỏi bị gia đình ly cách. Trường hợp này, hai người vẫn có thể hoàn tất chuẩn bị đám cưới thông thường theo Công giáo; và, chỉ có vị linh mục mới có thể xin Đức Giám Mục chủ quản của ngài miễn cho việc rập theo khuôn phép ở giáo luật (x. Giáo luật 1127, #2)

Ở vào tình huống này, bởi hai người đã được Hội thánh Công giáo cho phép, nên mới có thể làm đám cưới tại nhà thờ thuộc giáo phái. Và, đám cưới của hai người khi đó mới được coi là hợp lẽ Đạo. Và mới thành.

Nếu người Công giáo cưới một người theo đạo Chính Thống làm phép tại nhà thờ Đạo Chính Thống trước sự hiện diện của vị chức sắc thuộc giáo phái ấy, mà không có sự chuẩn chước của vị Giám mục chủ quản Công giáo, thì đám cưới ấy vẫn không thành. Đó là nhìn sự kiện theo cung cách hiểu rằng cả người Công giáo và người theo Chính Thống giáo lâu nay san sẻ cùng một cảm thông chung về hôn phối. (x. Giáo luật điều 1127, #1)

Sao phải làm đám cưới “trong nhà thờ” như thế? Có gì quan trọng đến vậy?
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo đã liệt kê những điều hay, lẽ phải của đám cưới có sự hiện diện của linh mục và hai người chứng, như sau:

-Bí tích hôn phối là việc làm có tính cách phụng vụ. Vì thế nên, cần phải cử hành theo qui cách phụng tự của Hội thánh.
-Hôn nhân đưa dắt con người đi vào khuôn khổ có trật tự như Giáo luật dạy. Như thế mới đem lại quyền lợi cũng như bổn phận trong Hội thánh giữa hai người phối ngẫu, để rồi hai người cùng nhau hướng về con cái của mình.
-Hôn nhân là sức sống của Hội thánh, đó là điều hệ trọng. Và, cũng là lý do bắt buộc phải có sự chứng kiến của hai người chứng.
-Tính công khai nơi việc chứng giám/đồng thuận là để bảo vệ lời thề và quyết tâm của hai người giữa nhà thờ, có Chúa hiện diện. Có thế, cả hai mới thực hiện được sự chung thủy cần có. (GLHTCG #1631)

Để tóm tắt, khi cử hành đám cưới có sự chứng giám của Hội thánh như thế thì nhiệm tích hôn phối mới giúp hai người trung thành với điều mình quyết thề hứa mà tiến đến hôn nhân. Việc này cũng giúp hai người chuẩn bị hôn nhân cho phải phép; có như thế, mới tạo sự bền đỗ của hôn phối cũng như củng cố được hôn nhân giữa hai người, qua sự đồng thuận được tuyên bố trang trọng trước mặt Chúa và cộng đoàn Hội thánh.           

Giả như hai người cưới nhau “ngoài nhà thờ” trước mặt người chứng hoặc trước mặt mục sư mà không có phép chuẩn của Hội thánh, thì đám cưới của họ không được coi là thành, trong nhà Chúa, dù vẫn hiệu lực với luật đời. Với luật Đạo, thì hai người có sống với nhau vẫn ở trong tình trạng gọi là “rối”, cũng giống như hai người sống đời đôi lứa ở với nhau không phép cưới. Và như thế, cả hai đều không được phép rước Chúa vào lòng.

Dù sao đi nữa, cũng nên biết: cả hai người đều có tư cách để lấy nhau -nghĩa là trước đó chưa bên nào từng làm đám cưới hoặc đã từng ly dị-  trường hợp này, cả hai đều có thể tương đối dễ dàng xin Hội thánh hợp thức hoá sự kết hợp sống chung của mình theo một trong hai cách: hoặc trao nhau lời thề nguyền có sự hiện diện của một linh mục và hai người chứng, dù chỉ bằng buổi lễ riêng tư thầm lặng, nếu họ muốn. Hoặc, cả hai cùng xin Đức Giám Mục chủ quản cho phép hợp thức hoá hồi tố, nghĩa là được ngài tuyên bố rằng: hôn nhân của hai người được coi như hợp lệ kể từ ngày tháng hôm trước trong đó họ có trao nhau lời thề nguyền không hợp lệ. (x. Giáo luật điều 1160-1161). Nếu họ làm thế, cả hai đều có thể quay về với Hội thánh, mà rước Chúa. (x. Lm John Flader, Question Time, Connorcourt publishing 2008, tr. 180-182)

    Theo bài bản, ở luật Đạo, thì như thế. Thế nhưng, vấn đề là: người thời nay, ở nước ngoài, có làm thế nữa hay không? Đó là vấn đề. Và luật lệ có nên du di, luật trừ một chút chăng? Và hôm nay, người trẻ ở đời lại những muốn đôi điều lạ, là: làm đám cưới ở bãi biển, công viên, chứ không phải “trong nhà thờ” như trước, thì sao? Đại để, như người nghệ sĩ ở đời vẫn có giòng nhạc hỏi rằng:

            “Tháng tám mùa thu lá rơi vàng chưa nhỉ?
Từ độ người đi thương nhớ âm thầm
Có phải em là mùa thu Hà Nội
Tuổi phong sương ta cũng gắng đi tìm
Có phải em mùa thu xưa?”
(Trần Quang Lộc – bđd)

     Nơi thi ca hay trong cuộc đời, có người vẫn cứ hỏi. Bạn và tôi, có trả lời hay không, thì người người vẫn cứ sống. Sống cuộc đời người. Với người đời có thi ca, âm nhạc, như còn hát:

            “Thôi thì có em đời ta hy vọng
Thôi thì có em sương khói môi mềm
Có phải em là mùa thu Hà Nội
Nghe đâu đây lá úa và mi xanh
Nghe đâu đây hồn Trưng Vương sông Hát.”
(Trần Quang Lộc – bđd)

    Trả một lời như thế, phải chăng nhà thơ đã trả lời trả vốn, cho mọi người. Bằng nhiều cách? Còn nhà Đạo, cũng có người đến hỏi những câu rất tương tự, để người người lại học được một chân lý, rất tự nhiên:

            “Vậy, trong ngày sống lại,
bà ấy sẽ là vợ ai trong số bảy người,
vì tất cả đều đã lấy bà?"
(Mt 22: 18)

    Và câu trả lời đích đáng hơn cả, vẫn là:

            “Đức Giê-su trả lời họ:
"Các ông lầm, vì không biết Kinh Thánh,
cũng chẳng biết quyền năng Thiên Chúa.
Quả thế, trong ngày sống lại,
người ta chẳng lấy vợ lấy chồng,
nhưng sẽ giống như các thiên thần trên trời.”
(Mt 22: 29-30)

    Sống lại với Nước Trời, người người sống với nhau không bằng luật lệ, của Môsê hay ai đó, mà là sống có tình với nhau. Luật hay lệ, vẫn chỉ là chữ viết, vẫn o ép. Bức bách. Bức bách hay o ép, đến chỗ chết, hãy như người nữ phụ trong truyện kể ở dưới, cứ thấy vui mà kể lể:

            “Truyện kể rằng:
            Sau khi chẩn đoàn rất kỹ lưỡng, vị bác sĩ bèn nói với bệnh nhân rằng:
-Dù là tin buồn, nhưng tôi vẫn phải nói để bà còn thu xếp mọi chuyện cho chu đáo. Bà bị ung thư gan, giai đoạn cuối. Thế nên, tôi đề nghị khi về nhà, bà sắp xếp mọi chuyện với chồng con, sao cho phải lẽ. Có như thế, khi ra đi, bà mới cảm thấy thanh thoát. Nhẹ nhàng.
Tuy sững sờ, nhưng bà bệnh nhân kịp lấy lại sự bình tĩnh, rồi ra ngoài nói với người con gái đang chờ, ở phòng đợi:
-Con à, là phụ nữ, mẹ con mình vẫn có thói quen là sự thể dù có thế nào đi nữa, vẫn bình tĩnh. Cứ ăn mừng. Cả khi có tin dữ lẫn tin vui. Và tin hôm nay là tin không được vui cho lắm: mẹ được bác sĩ cho biết, đã ung thư. Bởi thế nên, nay mẹ con mình ra câu lạc bạ uống đôi ba ly, cho đỡ buồn.
Uống xong hai ba ly martini, cả hai mẹ con đã bớt buồn. Người mẹ còn cười cười nói nói, rất liên hồi. Cuối cùng có vài người bạn đến gần hỏi:
-Này cho mình hỏi lý do sao mà bà cứ là vui như Tết chẳng lo gì hết vậy?
-Tôi nói thật với các bà điều này: Bác sĩ vừa bảo tôi bị bệnh Siđa, đấy!
Ai nghe thế, đều hú vía bịt mồm bịt miệng chạy cho mau về nhà, kẻo lây. Khi mọi người đi hết, người con gái bèn hỏi mẹ:
-Mẹ này. Sao lúc nãy mẹ bảo với con rằng bác sĩ nói mẹ bị ung thư, giờ thì mẹ lại nói Siđa, là sao con chẳng hiểu gì cả?
-Ngốc ơi là ngốc. Nếu mẹ không nói thế, thì sau khi mẹ chết đi, mấy mụ này sẽ lại tằng tịu lăng nhăng với bố mày, thôi.     
-À ra thế. Nay con mới hiểu lời bác sĩ nói: để bà còn thu xếp mọi chuyện cho chu đáo! Đúng là cuộc đời. Giời ơi là giời…”

    Truyện kể chỉ là truyện hư cấu, ở trời Tây. Giữa người đời. Nhưng nếu người người vẫn cứ ưu tư thắc mắc chuyện người đời những muốn “thu xếp mọi chuyện cho chu đáo” cả lúc sống cũng như khi chết, thì truyện kể ở bên trên có xảy ra ở đâu đi chăng nữa, vẫn là chuyện dài ở huyện. Cả huyện nhà Đạo, cũng không chừng.
    Thế nên, lời cuối phiếm loạn hôm nay, lại là câu hát có ý tứ cũng rất lạ như sau:

            “Có chắc mùa Thu, lá rơi vàng tiếng gọi
            Lệ mừng gặp nhau, xôn xao phím dương cầm.
            Có phải em là mùa Thu Hà Nội?
            Nghìn năm sau, ta níu bóng quay về?
            Ôi mùa thu của ước mơ…”
(Trần Quang Lộc – bđd)

    Thế thì, mùa Thu Hà Nội, hay mùa Xuân của Sàigòn vẫn cứ nên gọi đó, mùa của hy vọng. Có những tình tự rất thân thương. Ưu ái, một kiếp người. Ở muôn nơi.

    Trần Ngọc Mười Hai
    Hỏi thì vẫn hỏi
    nhưng đâu nào có gọi
    người em mình
là mùa Thu Hà Nội hay Sàigòn.
Mà: Xuân nhà Đạo
có nở rộ khắp nơi nơi?

    
    
   
  




38.  “Rồi đây, mây xám bay qua rồi.”
“Trong gió reo hẹn ước, không thôi”
Là lúc, tin yêu lên ngôi
Ta hát, khúc chung đôi.”
(Lê Trọng Nguyễn – Chiều Bên Giáo Đường)

(1Cr 10: 25-27)

    Bên giáo đường, vào buổi chiều, mà lại thấy “mây xám bay qua rồi”, và những là: “tình yêu lên ngôi”, “ta hát khúc chung đôi”, thì ôi thôi, thật quá đẹp! Tuy là thế, nét đẹp ấy còn nhân lên thêm rất nhiều lần, khi người người hát câu tiếp:

            “Vàng rơi, bên gót chân son mềm,
Trên lối đi về xứ hoa duyên
Tà áo trinh nguyên tung bay, nụ cười thân ái.”
(Lê Trọng Nguyễn – bđd)

    “Nụ cười thân ái” ấy, hôm nay đây, không chỉ thấy có ở giáo đường, vào buổi chiều. Nhưng, sẽ còn thấy dài dài, khi “tà áo trinh nguyên tung bay’, “trên lối đi về xứ hoa duyên”, có “gót chân son mềm”, ánh vàng rơi.
    Phải thế không anh? Có đúng không chị? Hỡi người anh/người chị của tôi và của bạn, vẫn cứ lân la bên giáo đường, những buổi chiều? Hỏi là hỏi thế, chứ bần đạo đây, nay biết chắc một điều, là: nhiều người/nhiều vị, dù đã có tuổi hay chỉ mới có tên ở xứ đạo lền khên bên nhà, vẫn thích mục “khi-ly-khi-tô” ở nơi nào, hơn là đến “bên giáo đường”, mà nguyện cầu!
    Dĩ nhiên, đây chẳng là xác quyết của một ai. Nên, cũng không cần bằng chứng. Bởi, tìm bằng chứng mà làm gì, khi trên trang mạng ngày nay vẫn thấy đầy những truyện kể rất dễ nể, như sau:

            “Truyện rằng:
Có cô vợ trẻ, thường đi làm về trễ, nên chồng ở nhà cũng không thấy có gì để lo lắng. Nhưng một hôm, cô về trễ hơn mọi ngày nên nghĩ rằng chồng mình ở nhà sẽ rất lo, bèn vội báo cáo ngay khi vào tới cửa:
-Hú hồn! Thoát rồi anh ạ!
-Thoát, là thoát gì thế, em?
-Thoát chết đấy! Tối nay trên đường về, em gặp một tên vô lại nó dí dao vào cổ em rồi quát tháo: Yêu thì tha, kêu la thì chết!
-Trời ơi! Thế rồi làm sao? Em giải quyết thế nào?
-Em xin tha. Thế là nó tha, chẳng cần yêu iếc gì hết….”

    “Chẳng cần yêu”, ý nghĩa câu nói ở trên là thế nào, làm sao biết? Chỉ biết mỗi điều, là: chắc cô vợ và tay tệ nạn cũng chỉ hiểu ý nghĩa chữ “yêu”, không theo lẽ Đạo, nên mới thế? Chắc, người người ở đời vẫn hiểu tình yêu theo nghĩa chữ, ở bên dưới:

            “Theo hoá học, tình yêu là phản ứng hoá học sinh ra axít.
            Theo vật lý, tình yêu là lực hút mạnh hơn lực của trái đất, vẫn cứ hút.
Theo toán học, thì tình yêu là phép trừ của túi tiền, phép chia của trái tim, phép nhân của cộng đồng nhân loại, và phép cộng của rắc rối, trong cuộc đời.
Theo văn học, thì tình yêu là cuốn sách dầy đọc từ đầu trang đến cuối trang, vẫn không hiểu gì cả!…”

    Vâng “yêu” là như thế. Cả người nói lẫn người nghe vẫn chẳng hiểu gì, như ca từ ta cứ hát:

            “Hồi chuông thiêng sức loang mây trời
Rung nắng Xuân chiều xuống chơi vơi
Lời hát vang đưa cô liêu bên giáo đường yêu.”
(Lê Trọng Nguyễn – bđd)

    Không hiểu gì, là bởi: làm gì có chuyện “đưa cô liêu bên giáo đường yêu.” Giáo đường bao giờ mà chẳng rất “yêu”, chứ nào có cô liêu. Cô đơn. Hay cô độc! Có cô liêu chăng, chỉ gồm những bạn gặp phải tình buồn, chốn yêu đương thần thánh, có giáo đường thần thiêng đồng đạo vẫn yêu Chúa. Yêu người. Nên, đâu dám hát lời ca buồn, sau đây:

            “Nguyện cầu gục đầu bên hoa mắt, ướt nhòa
Hồn anh buồn trống duyên anh còn sống đời bềnh bồng
Nguyện cầu gục đầu bên nhau mắt, ráo sầu
Xa dần đen tối tìm màu Xuân mới, trên làn môi.”
(Lê Trọng Nguyễn – bđd)

    Mắt em và mắt tôi, dù có “ướt nhoà”, “sầu buồn”, “hồn anh (có) buồn trống”, “sống đời bềnh bồng” gì đi nữa, thì “màu Xuân mới” vẫn cứ đến “trên làn môi” của anh và của tôi, vẫn đang cười. Rất nở rộ. Và, hồn anh/hồn tôi, cũng như hồn mọi người dù khô cứng, đọng ngưng, vẫn hy vọng tình Chúa đỡ đần. Giùm giúp. Cũng chóng thôi.
    Hồn khô cứng, rất ngưng đọng, là tâm trạng của dân con đi Đạo vào mọi thời. Chí ít, là thời có nhiều thứ hấp dẫn hơn chuyện “Chiều bên giáo đường”, kể ở trên. Giáo đường hôm nay, còn nhiều người vẫn ưu tư/thắc mắc về động thái/hành xử ở giáo đường, mỗi sáng chiều. Vì ưu tư/thắc mắc, nên có vị đã phải chạy đến với đấng bậc để hỏi han, lan man một tình tiết rất như sau:

“Thưa cha. Con cũng chẳng biết những gì đang xảy đến với con vào lúc này. Nhưng, sao con cứ thấy tâm hồn khô khan, nguội lạnh mỗi khi đọc kinh cầu nguyện không giống như dạo trước. Tức là, độ này con không còn thấy sốt sắng đi nhà thờ đọc kinh, hoặc chầu Mình Thánh Chúa nữa. Và, con cảm thấy như Chúa đang ở nơi nào đó, rất xa vời đối với con. Nhiều lúc, con lại nghĩ là: không biết mình có nên tiếp tục đọc kinh cầu nguyện không, khi lòng mình ra chai đá, cả vào lúc này. Theo cha nghĩ thì con nên làm gì đây, bây giờ? (Một giáo dân thắc mắc rất nhiều điều)

    “Thắc mắc rất nhiều điều”, đâu có là tâm trạng của anh/của chị, rất hôm nay. Không thắc mắc, mới là chuyện lạ. Bởi, bình thường thì đấng bậc nhà mình đâu còn gì để làm, hoặc để phán nếu chẳng có ma nào thắc mắc, với hỏi han! Cụ thể như đấng bậc ở Sydney này những mong và đợi xem có người anh/người chị nào thắc mắc rất như thế, để còn thưa. Và đấng bậc, nay thưa rằng:

“Có thể nói, chị là người thứ hai trong vòng có một tháng trời, vẫn hỏi tôi những câu như thế. Và, tôi tin chắc rằng còn nhiều người khác nữa, cũng thắc mắc những điều tương tự, do bối rối. Bởi thế nên, chúng tôi mới có mục giải đáp các thắc mắc cho bà con, ở cột này.
Điều mà chị hoặc ai đó đang kinh qua cảm nghiệm này, là điều mà nhiều người từng trải, mà chúng ta có thói quen gọi đó là sự khô khan, nguội lạnh về đàng thiêng liêng, đạo đức. Bởi, hay rơi vào trạng huống này, người người đều thấy rằng mình ít sốt sắng hoặc chẳng sốt sắng chút nào hết. Vẫn cứ lo ra/chia trí cách nào đó, không còn thấy mình gần gũi Chúa nữa.    
Nhìn vào thời xưa cũ, nhiều người thấy mình không còn như trước nữa. Tức, không dễ dàng tập trung nguyện cầu, gần gũi Chúa. Nay thì khác. Người người vẫn tự hỏi: không biết ta có nên cầu nguyện nữa hay không? Bởi, có nguyện cầu cho lắm, thì cũng đâu làm Chúa hài lòng được nữa.
Thật ra, đây là tâm trạng chung mà nhiều người đang mắc phải. Ngay đến các thánh cũng thấy những trường hợp tương tự. Ai cũng biết, Mẹ Têrêxa thành Calcutta cũng từng kinh qua điều mà mẹ gọi là “những đêm tối trời của linh hồn”, vào những lúc như thế, mẹ Têrêxa thấy như Chúa đang xa rời mình, quá đỗi.
Hệt như thế, thánh nữ Têrêxa thành Avila cũng từng mô tả thời gian dài đằng đẵng, khi đó thánh nữ như cảm thấy rất đau khổ vì sự khô khan/nguội lạnh, khi nguyện cầu. Thánh nữ viết: “Tôi nghĩ, với tôi, thật khó lòng bền đỗ suốt 18 năm liền, phải chịu thử thách như thế. Vẫn cứng lòng tin, là do tôi không thể tập trung suy tư, được. Trong thời gian này, ngoại trừ những lúc rước Mình Thánh Chúa vào lòng, còn ngoài ra, tôi chẳng thể nào dám cầu nguyện mà lại không dùng đến sách kinh. Linh hồn tôi lúc ấy thật đáng khiếp sợ chả dám cầu điều gì nếu; không sao đánh đuổi lũ quỷ cứ chực rình rập mình sơ hở. Bởi, thông thường thì, tôi ít khi gặp phải nỗi khổ chịu cảnh khô kha/nguội lạnh. Điều này chỉ xảy đến, khi tôi không có sách kinh, ở trong tay. Khi ấy, lập tức hồn tôi đâm bối rối; và đầu óc tôi cứ thế rong chơi. Kịp đến khi tôi bắt đầu đọc kinh, thì mọi tư tưởng mới tụ hội trở lại. Như thế, sách kinh đóng vai trò móc mồi câu linh hồn của mình.” (x. Cuộc đời #4)
Khô khan nguội lạnh về đường thiêng liêng/đạo đức có thể chỉ kéo dài một thời gian ngắn thôi. Có thể chỉ vài ngày. Hay vài tuần. Cũng có thể kéo dài cả tháng hoặc nhiều năm. Nếu phải kinh qua tình huống ngặt như thế, ta nên làm gì?
Trước tiên, là nên tiếp tục cuộc sống chuyên chăm nguyện cầu, chẳng cần biết mình thấy lòng trí ra sao. Bởi, ác thần/sự dữ vẫn muốn ta suy nghĩ rằng: nếu thấy mình không còn gần Chúa được nữa, thì cầu nguyện làm gì cho mệt xác. Nếu thế, ta lại càng không nên chào thua để chúng tung hoành mà phá phách.
Từ đó, phải nhận rằng: lời cầu nguyện của ta càng làm đẹp lòng Chúa hơn nếu ta cầu nguyện mà lòng trí lại thấy khô khan, nguội lạnh. Chúa ban cho ta lòng trí sốt sắng để thấy mình gần gũi Ngài như thể Ngài đang đoái hoài nhìn xuống mà cứu giúp, thì khi ấy việc cầu nguyện lại càng dễ hơn. Trường hợp này, ai cũng có thể làm được.
Thế nhưng, khi thấy mình khô khan, khó có thể gần gũi Chúa, thì mình càng phải cố gắng cầu nguyện hơn. Có như thế, càng quý giá trước mặt Ngài. Khi đó, có cầu nguyện cho lung, ta càng làm đẹp lòng Chúa chứ chẳng phải để làm vui lòng mình đâu chứ.
Ta biết chắc một điều, là: Chúa vẫn đánh giá cao động thái nguyện cầu như thế. Nếu ta có khuynh hướng nói rằng mình cũng chẳng muốn cầu nguyện vì thấy khô khan/nguội lạnh và không làm sao thoát khỏi tình huống này, thì khi ấy Chúa sẽ phán: “Ta không đánh giá lời cầu của con bằng cách xem con có ra khỏi cảnh khô khan/nguội lạnh được hay không, mà chỉ xem con có cố gắng đưa vào đó những gì của phần mình, thôi.”
Quả thế. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cho biết là cầu nguyện bao giờ cũng đòi hỏi phấn đấu: “Cầu nguyện vừa là quà tặng/ân huệ, vừa là quyết tâm đáp trả, từ nơi ta. Cầu nguyện bao giờ cũng cần cố gắng. Các hình ảnh về việc nguyện cầu trong sách Cựu Ước, trước thời Chúa xuống thế làm người, cũng như lời cầu nguyện của Mẹ Đức Chúa và các thánh, và của chính Đức Giêsu, đều dạy ta điều này: cầu nguyện quả là sự phấn đấu. Phấn đấu kình chống ai? Chống lại mình! Chống mọi chước cám dỗ nào khiến ta xa rời việc cầu nguyện và rời xa, không còn hiệp thông với Chúa nữa.” (x GLHTCG #2725)
Cuối cùng thì, khi thấy mình ra khô khan/nguội lạnh, là lúc ta có dịp tập dượt lại niềm tin trong nguyện cầu. Sách Giáo Lý cũng viết: “Khô khan nguội lạnh, là cung cách chiêm niệm nguyện cầu khi lòng trí ta xa vời Chúa, không cò vị ngọt của tư tưởng, ký ức và cảm xúc. Cả đến xúc cảm thiêng liêng, đạo đức nữa. Đây là thời khắc có niềm tin gắn bó với Chúa khi Ngài ở trong cơn hấp hối, với mộ phần. Thấy khô khan, là do ta thiếu bám rễ sâu. Là, do lời cầu của ta đã rơi xuống đá sỏi, nên cuộc chiến đấu đòi ta hồi hướng trở về.” (x.GLHTCG #2731)
Tóm lại, khô khan/nguội lạnh về đường thiêng liêng, đạo đức có thể có điều lợi là ta dễ đặt mình vào tình huống có ân huệ Chúa ban. Và, có thể có lợi về đường thiêng liêng, đạo đức do sự việc như thế đem đến. Cuối cùng, thì điều quan trọng vẫn là: chớ nên ngưng nguyện cầu bao giờ, dù thấy khó” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 05/6/2011, tr. 10)

     Nghe lời khuyên răn/tâm sự từ đấng bậc vị vọng ở trên, tựa như nghe bài giảng thuyết, cũng rất quen. Quen từ hồi, tôi và bạn, ta học giáo lý ở nhà thờ. Rất chuyên chăm. Thầm lặng. Nghe và học như thế, có nghĩa là mình cũng từng nghe, nhưng quên lãng. Thế thì, những người chưa từng nghe và học biết, thì sao? Làm thế nào hiểu được những lời cao siêu/mầu nhiệm, rất cô đọng? Câu trrả lời, có lẽ nên để các thánh nam nữ của Giáo hội, vẫn có thừa phương cách để trả lời, và trả vốn. 
    Bần đạo đây, vốn đã bần và phần đạo lại lạo xạo chỉ được dăm ba chữ, nên chẳng dám có ý kiến/“ý cò” gì. Chỉ dám trích câu Kinh (rất) thánh qua đó, thánh Gioan từng có thị kiến rất “Khải huyền”, như sau:

            “Phần Ta, mọi kẻ Ta yêu mến,
thì Ta răn bảo dạy dỗ.
Vậy, hãy nhiệt thành và hối cải ăn năn!
Này đây Ta đứng trước cửa và gõ.
Ai nghe tiếng Ta và mở cửa,
thì Ta sẽ vào nhà người ấy,
sẽ dùng bữa với người ấy,
và người ấy sẽ dùng bữa với Ta.”
(Kh 3: 19-20)

    Về với thói quen rất cố hữu khi có những lời hỏi han khá “hóc búa” như trên, bần đạo lại cứ từ từ trở về với ca từ của nghệ sĩ trên để hát thêm lới ca cuối, có đoạn kết, rằng:

            “Rồi đây mây xám bay qua rồi,
            trong gió reo hẹn ước không thôi.
            Là lúc tin yêu lên ngôi,
            ta hát khúc chung đôi.”
(Lê Trọng Nguyễn – bđd)
    Khúc chung đôi, là khúc hát của tôi, chứ không hẳn bạn, vẫn muốn hát. Vào lúc này.

    Trần Ngọc Mưới Hai
    nhiều lúc vẫn muốn hát
    vì hát là nhân đôi lời nguyện cầu.
    Ở bất cứ nơi đâu.
 

39. “Gọi thầm tên em,”
Khi nắng chiều nhạt ngoài sân
(Đức Huy – Để Quên Con Tim)
(Mt 28: 19-20a/Ga 6: 18))
    Đã gọi thầm, thì có là tên em hay tên của ai đi chăng nữa, “khi nắng chiều nhạt ngoài sân”, sao còn bảo: “anh đã để quên con tim”. Thật rõ chán! Ấy chết, nói “chán” đây là chán cái cung cách những gọi và nói của người nghệ sĩ đã một thời chuyên viết nhạc trẻ. Và làm thơ. Chứ chẳng phải chán đời hay chán người hay chán cả người tu đâu, hỡi bà con. Nghệ sĩ đời, có gọi tên em hay tên ai đi nữa, cũng chỉ muốn nói rằng mình vừa “để quên (mất) con tim”, thôi. Với nhà Đạo, thì tên em/tên anh có bị réo gọi to cách mấy đi nữa, cũng hãy xem người gọi mình là ai? Gọi ai? Gọi mà làm gì?
    Về chữ “gọi”, kể ra cũng khá ư lẩm cẩm.. Ấy quên. Lỉnh kỉnh, mới đúng chứ không lẩm cẩm đâu. Bởi, nếu người gọi lại là Đấng Thánh-Hiền-ở-Bên-Trên, thì lời gọi ấy cũng chẳng là “lời gọi chân mây”, của ai đó chốn thơ và nhạc, mà đích thị là lời gọi, rất “ơn gọi”, của mọi thời. Trên đời.
    Nói dông nói dài, chỉ để nói lại rằng: lâu nay bà con thuộc diện giáo dân hạng thứ như bần đạo, cứ là hay hiểu nhầm (í quên) hiểu lầm ba chữ “ơn kêu gọi”, lắm lắm. “Ơn Kêu Gọi” là ơn gì vậy? Gọi thầm tên Em, sao lại cứ bảo đó là “ơn”? Mà không là “huệ”?  Thôi thì, “ơn” hay “huệ” cũng là huệ ân/ân huệ của Bề Trên, rất nên nghe. Nên hiện thực.
    Nói tắt một lời, là cốt nói rằng: muốn gọi đó là “ơn” hay “huệ”, những lời gọi từ trên cao hay nhà Đạo, vẫn là lời “thì thầm” như ca từ của bài hát, rất ở trên, rằng:

            “Gọi thầm tên em,
khi nắng chiều nhạt ngoài sân,
            Trở về Cali,
anh nghe nhớ nhung giăng sầu
            Từ ngày xa em,
anh bỗng trở thành lặng câm,
            Ngày rời Paris,
anh hứa sẽ quay trở lại.”
            (Đức Huy – bđd)   

    Rời Paris, thì bần đạo đây cũng đã rời tới hai lần. Nhưng, đâu có hẹn và cũng chẳng hứa điều gì, đâu. Chí ít, là những hứa và hẹn với người “Em” không nhỏ, ở quê người. Thật ra, thì một khi đã đặt chân đến Paris rồi, mà lại hứa hẹn điều gì, thì đánh chết người ấy cũng sẽ quay trở lại, thôi. Bởi, Paris đẹp thật! Đẹp, đến độ không quay về cũng chẳng xong. Thế nhưng, những hứa và hẹn với nhà Đạo, cũng đẹp chẳng thua gì Paris, mà sao nhiều người vẫn đâu quay về chốn cũ, rất đời tu! Đó là vấn đề. Rất nên phiếm ở đây. Hôm nay.
    Nếy vậy thì, mời bạn và mời tôi, ta mạnh dạn đi thẳng vào vấn đề, để phiếm. Chữ “gọi/mời”.
    Ấy chết. (Lại chết chóc gì nữa đây?) Ấy, chỉ cái tội là: trước khi đi vào vấn đề, theo thói quen, bần đạo vẫn mời bạn mời tôi, ta ngâm nga hát đôi vần thi ca, tức: vừa thi vừa ca, giòng nhạc nhẹ:

            “Anh đi về anh nhớ
            bóng dáng ở lại.
            Paris em yêu ơi.
            Anh nhớ Em thật nhiều.
            Anh nhớ Em thật nhiều,
            người yêu ơi.”
            (Đức Huy – bđd)

    Bần đạo đây, chẳng có tài ăn nói hoặc hát ca gì ráo trọi. Dù khi xưa cũng có hát ở nhà thờ nhà thánh, nhưng rất dở. Cứ cái tật  là chỉ hát nhại hoặc hát nhái, rồi đề nghị đổi lời, cho khang khác,thế thôi. Và hôm nay, nếu bần đạo đề nghị đổi chữ Paris và/hoặc “Em” thành Hội thánh, thì người người sẽ thấy nhà Đạo mình, nghe thầm gọi cũng rất nhiều, nhưng nào có nhớ người “Em”/Hội thánh, những là Paris, Luân Đôn, Niu Yọc, là “người yêu” đâu đấy nhỉ? Bởi nếu không, chắc sẽ khác!
    Thật ra, có khác chăng, cũng đề nghị bạn và tôi, ta hát nốt câu thơ người nghệ sĩ viết như sau:   

            “Buổi chiều sông Seine,
            có gió lạnh về lập đông.
            Buổi chiều Cali,
            cô đơn từng cơn rã rời.
            Từ ngày xa Em,
            thao thức trằn trọc từng đêm.
            Ngày rời Paris,
            Anh đã để quên con tim.”
            (Đức Huy – bđd)

    Với người đời, “Ngày rời Paris” còn có nghĩa, là: “từ ngày xa Em, (anh) thao thức trằn trọc từng đêm”. Với nhà Đạo, lời mời gọi như thế, cũng ý nói: cả anh và “Em” sẽ mãi mãi “để quên con tim”, đầy nhung nhớ. Tiếc nuối. Ân hận. Bằng chứng ư? Đây, mời bạn mời tôi, ta thử nghe lập luận, Ngài vẫn bảo:

“Vậy anh em hãy đi
và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
làm phép rửa cho họ…
            (Mt 28: 19)

    Thời đại này, những ơn và huệ ở ca từ “thầm gọi tên Em”, không chỉ là lời xưa cũ, của thánh sử, những là: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít” (Mt 9: 37). Thì hôm nay, “gọi thầm” ấy, lại là lời: “Hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…”(Mt 28: 19) Làm môn đệ, đây đâu chỉ là linh mục/tu sĩ, thôi. Nhưng còn “để con tim” ở lại với Paris. Luân Đôn. Với, Hội thánh khắp năm châu, bốn bể, tức toàn thể nhà Đạo. Của Chúa tể tình thương yêu. Vỗ về. Chiều chuộng. 
    Nhà Đạo hôm nay, có những lời “thầm gọi tên Em” vào giở Lễ, nay cũng đổi. Thay và đổi, để thích hợp với văn bản tiếng Latinh xưa cổ, của sách lễ. Bởi thế nên, “thầm gọi tên Em” lại được đấng bậc và giáo dân hỏi/đáp rất kỹ như sau:

“Hôm nay con muốn đề cập đến một trong các khía cạnh của bản dịch mới trong thánh lễ, mà con thấy “hơi lạ” ở câu đáp lại lời vị linh mục chủ tế chúc: Chúa ở cùng anh chị em”, nay được giáo dân đáp lại là: “Và ở cùng Thần khí cha/thày”. Sao ta lại sử dụng cụm từ nghe không mấy quen tại bằng câu “và ở cùng cha/thày”, như trước đây.”

    Quả tình, đấng bậc vị vọng thuộc giống giòng Opus Dei rất “Công trình của Đức Chúa”, nay lại méo mó nghề nghiệp quan chức chủ trì rất chễm chệ ở trên cao, bằng những phán đoán “rất bênh nhau”, như sau:

“Thành ngữ này, thật ra có cả quá trình lịch sử rất dài dòng, được nhắc đi nhắc lại những 5 lần khác nhau trong thánh lễ. Ở đầu lễ, trước khi đọc Phúc Âm, trước kinh Tiền Tụng, lúc dâng chúc Bình an cho nhau và trước khi ra về.

Các cụ cha bác thuộc lớp tuổi cao niên hẳn còn nhớ thời xưa khi thánh lễ đọc bằng tiếng La tinh, vị chủ tế có lời chúc bổn đạo rằng: “Dominus vobiscum” (tức là: Chúa ở cùng anh chị em), thì mọi người đều trả lời là “et cum spiritu tuo” (tức: và ở cùng thần khí Cha). Rồi sau Công Đồng Vatican II, khi thánh lễ tiếng La tinh được dịch ra ngôn ngữ của mỗi dân tộc bản xứ, thì hầu hết đều theo đúng nghĩa bên tiếng La tinh, ngoại trừ một vài văn bản tiếng như tiếng Anh và/hoặc tiếng Việt, còn thì mọi thứ tiếng đều cùng ý hướng đó. Nay thì các ngôn ngữ trên thế giới rồi cũng sẽ theo sát nghĩa từ bản gốc tiếng La tinh, thôi.

Thế nhưng, hỏi rằng sao lại có thành ngữ không mấy thông dụng như thế? Thì câu trả lời hay nhất ta nên về với các bản văn thời Cựu Ước như ở sách Ruth, Boa nói với thợ gặt bằng lời chúc: Đức Chúa ở cùng bà con anh em”. Nghe vậy, họ liền thưa: “Đức Chúa chúc lành cho chị.” Đây là lời chúc mang tính cách thiêng liêng, lời chúc mừng là Chúa sẽ ở với người khác.

Tại thủ phủ Bavaria, nước Đức, dân chúng có thói quen chào hỏi chúc mừng nhau ngay ngoài đường bằng cụm từ “Grũss Gott”, nếu dịch từng chữ sẽ là “Chúc tụng Chúa”, hoặc “Chúa mừng chúc anh/chị”. Lời cầu chúc ấy mang tính cách linh đạo hơn chỉ mỗi tiếng “Hello” hoặc “G’day” bên tiếng Anh.

Còn thành ngữ “Và ở cùng thần khí ngài” còn gặp thấy ở một số thư do thánh Phaolô viết, chẳng hạn như: “Chúa ở cùng thần khí anh em” (2Tm 4: 22) và ở thư khác thánh nhân viết cho giáo đoàn Galata, thánh nhân cũng lại kết thúc bằng lời chúc: “Hỡi anh chị em, ân sủng của Chúa chúng ta, Đức Yêsu Kitô, ở cùng thần khí anh chị em.” (Ga 6: 18)

Rõ ràng là, các giáo dân thời tiên khởi cũng đã sử dụng thành ngữ này. Chẳng hạn như, ở bài đọc 2 lễ Vọng Phục Sinh, Phụng Vụ Giờ thánh cũng được trích từ bài giảng mô tả Đức Kitô đến với các tổ phụ, trong đó có nói đến cả Ađam, khi Ngài nói: “Đức Chúa ngự đến với tất cả mọi người.” Và Đức Giêsu cũng đáp lại: “Và ở cùng thần khí Ngài.”

Cụm từ “Và ở cùng thần khí Ngài” được qui về linh đạo, để từ đó công nhận rằng con người không chỉ là bản thể vật chất nhưng còn có thần linh, tức linh hồn bất diệt. Đó là điều chứng thực phẩm cách của nhân vị được dựng nên theo theo hình ảnh giống Thiên Chúa. Và, đó còn là lời chúc mừng có Chúa ở trong hồn của người kia.

Khi ta sử dụng lời chúc như thế trong thánh lễ, là ta nhận rằng ta đang hiệp thông làm một với Hội thánh vào thời tiên khởi. Ta rời nơi chốn và thời gian mình đang sống để đi vào chốn không có thời gian là Phụng vụ thánh, ở đó ta hoà mình cùng thần thánh với thiên thần trên thiên cung mà phụng thờ Chúa.

Mặc dù cụm từ “Và ở cùng thần khí ngài” có thể hướng về bất cứ ai, như đã thấy trong các thư do thánh Phaolô viết và trong lời đáp của Đức Kitô với Ađam, vào thời tiên khởi, các thánh tổ phụ trong Giáo hội cũng áp dũng chuyện đó với ơn lành của Chúa Thánh Thần vẫn hiện diện nơi thừa tác viên bằng cách giơ tay đặt lên trên người ấy.

Chính vì thế, thánh Chrisostom ở thế kỷ thứ tư có nói trong một bài giảng của ngài rằng: “Giả như Chúa Thánh Thần không ở với các Giám mục khi các ngài rời cung thánh xuống, thì anh chị em cũng chẳng thể nào cùng nhau đáp lại bằng lời chúc tụng: Và ở cùng thần khí ngài” . Đây chính là lý do khiến anh chị em đáp lại bằng thành ngữ này không phải chỉ khi ngài rời cung thánh xuống mà thôi, cũng không phải chỉ khi ngài giảng cho anh chị em nghe, cũng chẳng vào lúc ngài cầu nguyện cho anh chị em, nhưng là khi ngài đứng trên bàn thờ mà dâng của lễ thánh hiến này. Anh chị em không san sẻ việc dâng tiến lễ cho đến khi ngài đọc lời nguyện để cho anh chị em nhận được ơn thánh từ Đức Chúa, và khi ấy anh chị em sẽ đáp lại bằng câu: Và ở cùng thần khí ngài”, là để nhắc anh chị em nhớ rằng qua lời đáp như thế ngài không có mặt ở đó chẳng làm điều gì theo uy lực của chính ngài; cũng chẳng để dâng lễ vật là hoa quả công việc làm của người phàm, mà là ơn thánh hoá của Chúa Thánh Thần đang hiện diện nơi đó và đang lơ lững trên mọi sự vật được chuẩn bị cho công việc thánh tiến đầy mầu nhiệm ấy.” (Bài Giảng Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống).

Chính vì lý do này mà từ thế kỷ đầu thời tiên khởi, chỉ các thừa tác viên có chức thánh  -như giám mục, linh mục và phó tế-  mới được có lời chúc gửi đến giáo dân bằng lời cầu chúc nói rất rõ: “Chúa ở cùng anh chị em”.

Để đáp lại lời cầu và chúc của thừa tác viên, chúc mừng thần dân là Đức Chúa sẽ ở với họ, thì khi ấy tất cả sẽ đáp lại bằng lời chúc tụng cũng như thế. Đáp lại, là cách thức ngay lúc ấy mình tuyên xưng niềm tin theo cung cách ân huệ đặc biệt do Chúa Thánh Thần ban cho mình nhận được vào nghi lễ truyền chức cho thừa tác viên thành người của Chúa.

Thành thử, điều mà tôi nói ở đây là chuỗi dài lịch sử gồm tóm đầy đủ ý nghĩa chỉ trong lời chúc mừng giản đơn như câu: “Và ở cùng thần khí ngài.” (x. John Flader, Question time, The Catholic Weekly 10/7/2011, tr. 10)

    Bên tiếng Việt, ta không có và không cần có thay đổi nào để hợp với lệnh của Thánh bộ Phụng Vụ Toà thánh La Mã, như bên tiếng Anh. Nhưng nếu có, chắc bà con mình cũng lúng túng không ít khi phải thưa “Và ở cùng Cha/Thầy” hoặc “Và ở cùng thần khí Thầy/Cha, Đức Cha”, vv… Thế mới biết, ngôn ngữ con người càng dồi dào càng rắc rối. Lắm chuyện. Khiến cả người nói lẫn người thưa đều thấy ngại. Ngại hơn nữa, nếu một mai Hội thánh cho phép nữ giới được làm phó tế, linh mục như bên Anh Giáo, thì lúc ấy không biết thưa thớt với cô Sáu, chị Sáu hay bà Sáu/Linh mục như thế nào đây.
    Thưa gì thì thưa, tưởng cũng nên thưa và hát như ca từ ở bài hát trích bên trfên mà rằng:

            “Anh đi về thương nhớ bóng dáng người ở lại,
            Paris em yêu ơi.
            Anh nhớ em thật nhiều,
            Anh nhớ em thật nhiều,
Người yêu ơi!”
(Đức huy – bđd)

    Đấy, với một thị thành vật chất rất sự vật thôi mà nghệ sĩ đã dám gọi những nào “Anh anh/em em” cứ là ngọt sớt. Nói gì đến các ngài cụ sáu hay thầy cả, cả đến đấng bậc chủ quản  một giáo phận mà hát câu này, chắc cũng lúng túng không ít?
    Theo thói thường, mỗi khi phiếm chuyện gì hơi nghiêm túc, cứng đọng, là bần đạo hay đề nghị bạn bè nghe đôi ba truyện kể nhè nhẹ để mà nhớ. Nhớ rằng, cũng có lần người người từng kể cho nhau nghe những chuyện rất ư là tình cảm, dù tầm phào. Không ướt át. Chỉ để vui. Và quên sự đời, nhiều rắc rối. Vậy thì, mời bạn mời tôi, ta nghe thêm một câu truyện chỉ để kể, như sau:

        “Truyện rằng:
Chiều hôm ấy, người nữ phụ cao niên ngổi nhâm nhi ly rượu trắng trong mùi nho chín, cạnh ông chồng cũng cao niên không kém nhưng hiền từ lại ít nói. Hai cụ ngồi hồi lâu bên khung trời mở ngỏ, có làn gió hiu hiu tươi mát ru hồn người vào cõi tiên, chẳng nói nên lời. Bỗng, cụ bà nổi hứng hôn vào ly rượu nhiều nụ hôn nồng, rồi thì thào nói:
-Tôi yêu Bạn mình biết chừng nào. Cứ ở mãi bên nhau nhé bạn mình. Bỏ bạn mình, tôi nào sống nổi…
-Này, thế nghĩa là miệng bà nói ra điều đó, hay rượu nói thế?
-Chính đó là tôi, đang nói với hồn thiêng sông núi, là rượu mùi, thân thương của tôi mà!    

    Rượu, mà cũng thân thương, đòi ở cùng và ở với mãi làm sao hiểu nổi! Huống hồ là tình tự của người được Chúa thương yêu, nay thấy mến chuộng nên luôn miệng chúc mừng có Chúa ở cùng.
    Ở cùng hay ở với, vẫn là tâm tình mà người người sống ở Nước Trời cần biểu tỏ, hơn bao giờ. Tâm tình ấy. Biểu tỏ này, muốn diễn tả hoặc dịch cho thoát hay dịch cho sát, vẫn là vấn đề của tôi, của bạn. Của Hội thánh, ở khắp nơi. Muôn đời.

    Trần Ngọc Mười Hai
    Vẫn chỉ muốn diễn tả
    Bằng tâm tình từ tâm can
    chứ không bằng lời dịch thuật.                   

        
 40. “Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn Người,”
“Tạ ơn đời, ta ơn ai, đã đưa em về chốn này”
“Tôi xây mãi cuộc vui.”
(Trịnh Công Sơn – Tạ Ơn)
(1P 2: 9-10)
    Tạ ơn người. Tạ ơn đời. Tạ ơn người đời, hay tạ ơn cả đời người, cũng là tạ rất nhiều ơn. Tạ ơn, cả những người đã cho tôi trọn cuộc đời, luôn có Chúa. Đó, là ý nghĩa của cụm từ bên tiếng Anh, tiếng của Em, đúng hơn cả tiếng của người rất Mỹ, có chữ “Thanksgiving”, cũng từng hát:

                “Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn Người
tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi
còn thấy những ngày ngồi mơ ước, cùng Người.
(Trịnh Công Sơn – bđd)

    Tạ ơn Người. Tạ ơn đời. Còn, là tiếng phát xuất từ tâm hồn của người Mễ (tức Maya) có gốc nguồn từ một văn minh xưa cũ, mà người xưa dám dùng từ rất lếu láo gọi họ là “Mọi Da Đỏ”, rất chói tai. Bởi, da họ đâu mầu đỏ. Và, người họ đâu là “Mọi”. Vẫn văn minh, còn hơn nhiều giòng giống. Giống nòi Maya, không chỉ sở đắc hoặc hiện hữu mỗi 4 ngàn năm văn vật, như tộc Việt người nhà mình và họ còn là bộ tộc rất văn minh từng xây dựng Kim Tự Tháp rất đặc biệt ở xứ Mỹ (chứ không hẳn Hoa Kỳ), vì nước này “cầm nhầm” danh xưng “Mỹ” của người Mễ, rất Maya. Hoặc “Americano”, thật tiêu biểu.
    Nói dông nói dài (không hẳn nói dai) là để nói lên những điểm nhỏ về nền văn minh/văn hiến cả ngàn năm có lẻ, của người dân bộ tộc rất “Mỹ-mà-không-Bông-Kỳ” (xứ Mễ-Tây-Cơ rất Maya), là ở chỗ: luôn biết tạ ơn Người. Tạ ơn đời. Tạ ơn người đời, luôn có nhau. Cũng vì tinh thần cảm kích, biết mà tạ ơn ấy, nên hầu hết các bộ tộc Aztec, Olmec, Yaqui, Trique, Maya, Tarahumara… xứ này có tập tục dâng lên thần thánh của mình toàn thân thể của kẻ chiến thắng trong giác đấu, hoặc song đấu để tạ ơn ngay trên nóc “kinh tự tháp” của tộc mình.
    Tạ ơn đây, còn là điểm tương đồng Tây/Ta, giữa tà thần và Đạo Chúa. Nhà Đạo mình, cũng có tục dâng tiến Giavê, người con độc nhất, làm của lễ rất “tạ ơn”, như ở Cựu Ước, có Abraham, Isaac, Yacob… vẫn giữ tinh thần rất “thanksgiving”, kiểu của bộ tộc da-không-đỏ, rất Maya đất Mễ.
    Về lại nhân loại, đôi lúc có người hỏi tinh thần “tạ ơn” là tinh thần gì, thì đây câu đáp ở bài hát:

“Dù đến rồi đi, tôi cũng xin: tạ ơn Người
tạ ơn đời, tạ ơn ai, đã cho tôi
còn những ngày quên kiếp sống, lẻ loi.
Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn Người
tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi
tình sáng ngời như sao xuống, từ Trời.”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

“Tình sáng ngời”, Trời ban cho tôi, “như sao xuống”, có thể là nhiều thứ. Những thứ thông thường như: tài năng, kiến thức, sắc đẹp, tình yêu. Có thể, là thứ đặc biệt, rất hiếm, là niềm tin vào Chúa Trên Cao. Mà, người đời gọi đó là “tín ngưỡng”.
Duy có điều, là: niềm tin rất “tín và ngưỡng” hôm nay, đã có dấu hiệu lạ thường, ở nhiều nhóm. Nhóm tiêu biểu nhất lá nhóm trẻ, ở nhiều chốn. Nơi và chốn, dễ thấy nhất là đất tự do con cái Chúa. Vì tự do, nên người con của Chúa nay đã có tín hiệu hiểu biết tính tự do, theo kiểu khác. Khác người. Khác đời. Khác cả người đời thuở xa xưa.
Về niềm tin vẫn trụ nơi tâm can nhóm người trẻ tuổi nay đã thấy xuất hiện nhiều hiện tượng cùng tư tưởng dám cho rằng tín ngưỡng/niềm tin vào Đạo, nay đang “nát” nơi đầu óc của thế hệ trẻ vào tuổi “tin”. Như bản tường trình do tác giả Denyse O’Leary viết trên báo điện “MercatorNet hôm 25/7/11 như sau:

“Vừa rồi đây, chúng tôi có dịp để mắt nhìn vào khẳng định được đăng tải trên tờ báo khoa học khá nghiêm chỉnh mang tên “Intelligence” cho rằng niềm tin vào Thiên Chúa có tương quan rộng lớn với “hệ số thông minh” khá thấp.
Cũng trên báo này, trong cùng năm, chúng tôi được người viết bảo cho biết là: với tuổi “teen” ở Hoa Kỳ, thì giữa tôn giáo và nhóm tuổi “teen” có hệ số thông minh thấp, luôn có tương quan mật thiết. Thử nghĩ xem, tuổi “teen” đây lớn lên với niềm tin tưởng rằng: trước kia các hành xử không nghiêm chỉnh làm tan nát đầu óc của họ thế nào, thì nay, đối với người trẻ sùng đạo, nay lại là: tôn giáo!
Helmuth Nyborg, một cây viết ở Mỹ từng thực hiện cuộc điều tra để xem thực hư thế nào đối với người trưởng thành, đã để lại một báo cáo như sau: “Hiện nay đã có khảo sát nghiên cứu xem Hệ số thông minh (gọi là IQ) có gì liên hệ đến hệ thống xếp loại theo mẫu số chung và lợi nhuận trong cùng một khuôn khổ quan hệ với “mầm gien”, vốn sử dụng các dữ liệu đại diện lấy từ Nghiên Cứu Khảo Sát Toàn Quốc Theo Chiều Dọc Về Tổi Trẻ (NLSY97). Theo khảo sát này, nhóm Vô thần có 1.95 điểm IQ cao hơn nhóm Ngộ Đạo, và 3.82 điểm IQ cao hơn nhóm Thệ Phản Phóng Khoáng và 5.89 điểm IQ của nhóm chủ trương chuyên vào Giáo điều. Nói chung, các giáo phái khác biệt chỉ là do hệ số thông minh và lợi tức, thôi. Lòng tin vào Đạo đang giảm sút ở tuổi từ 12 đến 17.”
Điều thấy rõ, là: hệ số thông minh (IQ)khiến các cá thể ra như đang bị hút xuống đáy vực theo giáo phái và mức độ thành tựu nào thích hợp với trình độ riêng rẽ của hệ thức phức tạp về hiểu biết. Và, nói theo hệ thức phát triển cá thể, thì điều này có nghĩa: các giáo phái hiện thời được xếp hạng theo thứ tự “gien” di truyền về trí tuệ, tức hệ số IQ. Về mặt tiến hoá, các nhà vô thần hiện đại đang phản ứng một cách có lý với các thách thức về tầm hiểu biết và cảm xúc. Trong đó, giới Thệ Phản Phóng khoáng và đặc biệt là nhóm chủ trương Giáo điều vẫn còn tuỳ thuộc vào tư duy xưa cổ, tiền sử, siêu nhiên và mơ tưởng.” (x. Denyse O’Leary, MercatoNet 25/07/2011)

    Nói gì thì nói. Bảo gì thì bảo. Nếu cứ nhận định theo sách vở với điều tra, nghiên cứu kiểu “chẻ từng chữ”, thì nhiều người đọc cứ tưởng như có thật. Mà sự thực, thì các nhà khảo sát/nghiên cứu kiểu “phóng đãng” trên lại căn cứ trên thống kê lập với một số người, rất thiên vị. Chẳng thế mà, tác giả Denyhse O’Leary, đã nhận định ngay rằng:

“Hẳn rằng khảo sát viên Nyborg chắc không bị tật nguyền khập khiễng với bệnh thiếu khách quan. Xem ra Ông này không am tường về các nhánh giáo hội vẫn ăn khớp với nhau, khá chặt chẽ. Chẳng hạn, ông liệt vào nhóm giáo phái “Phóng khoáng”, gồm những vị thuộc Giáo hội Anh Giáo, Do thái giáo, Tin Lành MêthôĐi, Giáo phái Tin Lành thuộc nhóm Calvin, Luther và các nhóm Thệ Phản khác. Sự thật, tất cả các phe nhóm giáo hội từ cánh cực-phóng khoáng cho chí cổ truyền vẫn có khuynh hướng bám sát nhóm tuổi “teen” theo đuôi họ ngang qua các câu lạc bộ tuổi trẻ, ở nhiều nơi. Bởi, các nhóm mà tác giả này gọi là Thệ Phản khác, có khi còn khắt khe hơn Giáo hội nói chung chung của mình nữa.
Và, ông lại còn xếp hạng cùng với nhóm “Giáo điều”, là nhóm Đồ đệ Đức Kitô, Hội thánh hiệp nhất Đức Kitô, Công giáo La Mã, Mormon, Giáo hội Kinh Điển, Hồi giáo, Giáo hội Báptít, Phong trào Chúa Thánh Thần Hiện Xuống. Có điều chắc chắn là tác giả đã lầm lẫn giữa nhóm Đồ Đệ Đức Kitô với Giáo hội Hiệp nhất của Đức Chúa và coi họ như một giáo phái đại đồng. Sự thật thì những người được thanh tẩy đều là con cái Chúa, đang ở rải rác khắp nơi trên bản đồ của thế giới. Tác giả lại chắc mẫm rằng những vị thuộc Giáo hội Công giáo, Mormon, và Hồi giáo theo nghĩa họ có niềm tin cốt lõi, không thể đổi thay. Trong khi đó, người Công giáo không thường xuyên đi nhà thờ giữ đạo, lại sống rời rạc, không sinh hoạt tập thể, vẫn còn rất đông, đếm không xuể. Và, không hiểu tác giả nói chữ “giáo điều” đây, theo nghĩa nào. Nói chung, thì Helmuth Nyborg đã tạo thứ ấn tượng tách bạch mà lại không có chiều sâu hậu cảnh cần thiết để thiết lập danh bạ mang tính thông tin hơn.
Tắt một lời, tác giả Helmuth Nyborg đã thất bại khi tìm cách xếp loại giáo phái theo quan điểm chọn lựa hoặc quyết tâm làm thành viên của mỗi nhóm, mà lại không đánh bật được ý nghĩa của mỗi chọn lựa, nơi họ. Thật sự thì điều mà tác giả Nyborg cũng như Lynn nói đến, lại chỉ chứng minh được một điều là: sự tự do về trí tuệ đều tương quan với hệ số thông minh cao và với quan điểm khác biệt về niềm tin vào Thiên Chúa, chỉ cốt để chiếu dọi chút ánh sáng khi trắc nghiệm về điểm IQ, thế thôi.” (x. Denyse O’Leary, bđd)

    Nói cho cùng, có phân tách và so sánh niềm tin tôn giáo với trí thông minh sáng láng, vẫn là những chuyện nghe qua rồi quên đi. Bởi, người trẻ hay ai đó, có đưa ra những phát giác mới, rất kinh khủng, cũng chỉ là để đánh bóng tư tuởng hoặc lập trường, tưởng-như-là-mới-keng của mình, mà thôi.
    Về những “phát giác kinh khủng” liên quan đến niềm tin và sự khâm phục lời dạy của bậc thày, trong ngoài Đạo, có những truyện kể rất dễ nể, để minh hoạ cho các luận chứng nói ở trên, có thể đề ra, như sau:

“Bậc thày Hasan rất nhân hiền của Đạo Hồi, được đệ tử mình hỏi: thầy có bao nhiêu bậc thày cả thảy, thì hiền nhân Hasan đáp:                      
-Những người thầy của ta nhiều vô kể. Nếu điểm lại tên tuổi của các vị ấy hẳn sẽ mất hàng tháng, hàng năm, và như thế lại quá trễ vì thời gian của ta còn rất ít. Nhưng ta có thể kể về ba người thầy sau của ta.
Người đầu tiên là một tên trộm. Có một lần ta đi lạc trong sa mạc, khi ta tìm đến được một khu làng thì trời đã rất khuya, mọi nhà đều đi ngủ cả. Nhưng cuối cùng ta cũng tìm thấy một người, ông ta đang khoét vách một căn nhà trong làng. Ta hỏi ông ta xem có thể tá túc ở đâu, ông ta trả lời:"Khuya khoắt thế này thật khó tìm chỗ nghỉ chân, ông có thể đến ở chỗ tôi nếu ông không ngại ở chung với một tên trộm."
Người đàn ông ấy thật tuyệt vời. Ta đã nán lại đấy hẳn một tháng! Cứ mỗi đêm ông ta lại bảo: "Tôi đi làm đây. Ông ở nhà và cầu nguyện cho tôi nhé!" Mỗi khi ông ta trở về ta đều hỏi: "Có trộm được gì không?" và ông ta đều đáp: "Hôm nay thì chưa, nhưng ngày mai tôi sẽ cố, có thể lắm chứ". Ta chưa bao giờ thấy ông ta trong tình trạng tuyệt vọng, ông ta luôn hạnh phúc.
Có lần ta đã suy ngẫm và suy ngẫm trong nhiều năm ròng để rồi không ngộ ra được một chân lý nào. Ta đã rơi vào tình trạng tuyệt vọng, tuyệt vọng đến nỗi ta nghĩ mình phải chấm dứt tất cả những điều vô nghĩa này. Ngay sau đấy ta chợt nhớ đến tên trộm, kẻ hằng đêm vẫn quả quyết: “Ngày mai tôi sẽ làm được, có thể lắm chứ!”
Người thầy thứ hai là một con chó. Khi ta ra bờ sông uống nước, có một con chó xuất hiện. Nó cũng khát nước. Nhưng khi nhìn xuống dòng sông, nó thấy cái bóng của mình nhưng lại tưởng đó là một con chó khác. Hoảng sợ, nó tru lên và bỏ chạy. Nhưng rồi khát quá nó bèn quay trở lại. Cuối cùng, mặc nỗi sợ hãi trong lòng, nó nhảy xuống sông và cái bóng biến mất. Ta hiểu đây là một thông điệp đã được gửi đến cho ta: “Con người phải biết chiến thắng nỗi sợ trong lòng, bằng hành động.”
Người thầy cuối cùng là một đứa bé. Ta đến một thành phố nọ và thấy một đứa bé trên tay cầm một cây nến đã thắp sáng để đặt trong đền thờ. Ta hỏi đứa bé: "Con tự thắp cây nến này phải không?" Đứa bé đáp: "Thưa phải." Đoạn ta hỏi: "Lúc nãy nến chưa thắp sáng, nhưng chỉ một thoáng sau đã cháy sáng. Vậy con có biết ánh sáng từ đâu đến không?"
Đứa bé cười to, thổi phụt ngọn nến và nói: "Ngài thấy ánh sáng đã biến mất, vậy ngài bảo ánh sáng đã đi đâu?" Cái tôi ngạo nghễ của ta hoàn toàn sụp đổ, pho kiến thức kim cổ của ta cũng sụp đổ theo. Lúc ấy ta nghiệm ra sự dốt nát của bản thân. Và từ đó ta vất đi tất cả những tự hào về kiến thức của mình.
Đúng là có thể nói ta không có một ai là thầy, nhưng điều này không có nghĩa ta không phải là một học trò. Ta xem vạn vật là thầy. Tinh thần học hỏi của ta luôn rộng mở hơn tất cả các người. Ta học hỏi từ tất cả mọi vật, từ cành cây ngọn cỏ đến đám mây trên trời kia. Ta không có một người thầy vì ta có hàng triệu triệu người thầy mà ta đã học được mỗi khi có thể. Điều thiết yếu trong cuộc sống là luôn làm một học trò. Điều này có nghĩa là gì? Nghĩa là có khả năng học hỏi, luôn sẵn sàng học để biết chấp nhận ý nghĩa của vạn vật.”

    Nói gì thì nói. Kể gì thì kể, dù kể về bậc thày-nhân-hiền ở nhiều nơi, vẫn là nói và kể về những điều rất đáng nể. Để thực hiện trong cuộc đời. Duy có một chân lý được đấng bậc hiền nhân quân tử xưa từng quả quyết:

“Anh em là giống nòi được tuyển chọn,
là hàng tư tế vương giả,
là dân thánh,
dân riêng của Thiên Chúa,
để loan truyền những kỳ công của Người,
Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối,
vào nơi đầy ánh sáng diệu huyền.
Xưa anh em chưa phải là một dân,
nay anh em đã là Dân của Thiên Chúa;
xưa anh em chưa được hưởng lòng thương xót,
nay anh em đã được xót thương.”
(1P 2: 9-10)

    Là dân con được Chúa tuyển chọn, được hưởng lòng xót thương từ Đức Chúa, hẳn bạn và tôi ta càng có lý để hát lên những lời mà người nghệ sĩ ngoài Đạo vẫn còn hát:

            “Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn Người
tạ ơn đời, tạ ơn ai đã cho tôi
còn thấy những ngày ngồi mơ ước, cùng Người.
(Trịnh Công Sơn – bđd)

    Hãy cứ tạ ơn Người. Dù Người đã đến, rồi lại đi. Người có đi, nhưng Người sẽ về lại cùng Thánh Thần Người để ở mãi mãi với con người. Hãy cứ tạ ơn nhé anh, nhé em. Ơn người. Ơn đời.

    Trần Ngọc Mười Hai
    những quyết tâm và tụng niệm
    sẽ mãi mãi tạ ơn Người.
Tạ ơn mọi người.

41. “Đưa em về dưới mưa, nói năng chi cũng thừa”
“Như mưa đời phất phơ, chắc ta gần nhau chưa?”
(Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – Em HIền Như Ma Soeur)

(Mc 6: 3/Mt 27: 56; 28: 1)
    Mới chỉ đưa em đi hay dắt em về dưới mưa thôi, mà nhà thơ đã lơ mơ cùng nghệ sĩ lại cứ bảo “nói năng chi cũng thừa”, thế là sao? Phải chăng, vì “cơn mưa đời phất phơ”, vẫn làm em hát mãi câu ca đầy thách thức: “chắc ta gần nhau chưa?”
    Sự đời, kể cũng lạ. Lạ, đến hết biết. Và, hết hiểu nổi. Hiểu và biết, tâm hồn người nghệ sĩ cùng thi nhân, vẫn cứ lon ton/đon đả những đưa cùng đón em về dưới mưa, mà lòng thấy chưa gần. Để rồi lại bảo: “Em hiền như‘ma soeur”, giống hệt như: “Anh lành như mon frère”.
    Thật ra, khi diễn tả đức tính thùy mị, dịu dàng của “người em” mà tác giả mô tả là “hiền như ma soeur”, thì không chắc đây có là cụm từ chỉ rõ nhân vật ấy là tu sĩ nam/nữ ở Đạo mình hay không! Bởi, bạn và tôi, hẳn ta vẫn nhớ ảnh hình người nữ tu chuyên trách chức giám thị của các trường tiểu học (còn gọi là “soeur surveillante”) với chiếc roi mây hay cây thước dài trong tay cứ đập xuống bàn, thì bầy em thơ có dạn dĩ cách mấy cũng phát khiếp, sẽ không còn cho bà là bậc nữ lưu hiền hoà nữa. Hoạ chăng, tác giả gọi “ma soeur” ở đây, là gọi và nói về người em nhỏ, đã ướt thấm đôi vai “ưu tình”, ở dưới mưa, vừa mới hát:

                   “Vai em tròn dưới mưa, ướt bao nhiêu cũng vừa
Như ưu tình đã xa, thấm linh hồn em yêu...”
            (Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – bđd)

    Thật ra, thì: khi hát câu “em hiền như ma soeur” là hát và nói về người em nhỏ có hiền hay dữ cũng chẳng thành vấn đề. Vấn đề chỉ thành, khi người ca sĩ lại cứ gào thêm ngôn từ nghe đến sợ, như:

            “Em hiền như ‘ma soeur’, vết thương ta bốn mùa
Trái tim ta bệnh hoạn, em yêu này em yêu..
Ta nhờ em ru ta, hãy ru tên vô đạo,
Hãy ru tên khờ khạo, em yêu này em yêu...”
(Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – bđd)

    Nói làm sao đây, khi người em nhỏ rất ‘ma soeur’ ấy vẫn không hiền như nhà thơ hay nghệ sĩ vẫn nghĩ? Hoặc, giả như người nhà Đạo lại cho rằng chính mình mới đích thực là đấng hiền lành, chân chất, rất đáng yêu, thì thế nào?
    Nói thế, tức vấn đề sẽ đi vào ngõ cụt, thật khó rút. Bởi, nếu nhận định như trên, cần phải xét lại hoặc nghiên cứu cho kỹ mới được. Thôi thì, hôm nay, mời bạn và mời tôi, ta đi vào nghiên cứu với sưu tra, xem ý lực nào thực chính đáng. Trước khi đi vào chi tiết, tưởng cũng nên nghe truyện kể nhè nhẹ về bé em ở huyện nhà, đã thổ lộ:

“Sáng hôm ấy, bố mẹ thấy bé Bính tự dưng sách cặp về nhà dõng dạc tuyên bố một câu rất thực về sự thật, rằng:
-Ba me đừng hỏi sao hôm nay con lại quay về nhà, chẳng chịu học. Con có phép có tắc đàng hoàng hẳn hoi đấy!
-Thế cơ đấy, phép tắc là phép gì vậy?
-Dạ, con đã thưa với bà thầy rằng: nhà con vừa có thêm một em bé, ngay tức khắc bà thày bảo là: con có thể về nghỉ để vui niềm vui chung với gia đình mình…
-Ấy, mẹ mình sinh một lúc những hai em sinh đôi cơ! Con có nói với cô như thế không?
-Con có ngu gì đâu bố. Cái đó, con để dành cho tuần tới mới tuyến bố… hì hì.

    Sinh đôi hay sinh ba, bé em vẫn là người em nhỏ Chúa tặng ban cho gia đình mình vui. Chả thế mà, hồi còn trẻ nhiều bé em thường vui hát bài ca sinh hoạt có câu thơ rất ư là ồn, rằng: “Càng đông, chúng ta càng vui nhiều. Càng vui nhiều càng thú nhiều. Càng đông, chúng ta càng vui nhiều, càng vui nhiều càng yêu…” 
Vâng. Đúng như thế. Càng vui nhiều, ta lại càng yêu. Yêu, như yêu người em nhỏ “hiền như ma soeur”, hay “lành như mon frère” ở Nước Trời nhà Đạo rất tôn kính vẫn có câu Kinh Sách từng xác quyết, về anh/chị hoặc em của Chúa, như sau:

“Ông ấy không phải là bác thợ,
con bà Maria,
và anh em với Giacôbê, Giôsê, Giuđa và Simôn đó ư?
Và, các chị em của ông,
lại không ở giữa ta đây sao? "
(Mc 6: 3)

    Được làm anh chị em của Đức Giêsu ở Nước Trời, hẳn đó phải là ân huệ từ trời ban cho mới được. Ân huệ ấy, nhà Đạo mình đều cảm nghiệm một cách thân thương. Bởi, có cảm nghiệm rất thân và rất thương như thế, nên các người anh/người chị trong cộng đoàn Hội thánh, đôi lúc cũng có những ưu tư nhè nhẹ, khá thắc mắc. Ưu tư, là ưu phiền tạo tâm tư sầu lắng như câu hát, ở dưới:

            “Em mang hồn vô tội, đeo thánh giá huy hoàng
Còn ta nhiều sám hối mà sao vẫn hoang đàng..
Đưa em về dưới mưa, nói năng chi cũng thừa
Đưa em về dưới mưa, có nhau mà như xa...”
(Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – bđd)

    Ưu tư của nghệ sĩ/thi nhân ngoài Đạo khi xưa có thể là như thế. Tức, “có nhau mà như xa”. Còn ở đây, thắc mắc của bà con thành viên Hội thánh ở Nước Trời, lại khác hẳn. Khác, như lời hỏi han với han hỏi, lâu nay rày vẫn thấy:
   
“Mới đây, con có xem một cuốn phim tài liệu trên truyền hình thấy người thuyết minh đã nói như đinh đóng cột, về chuyện Đạo bảo rằng: Mẹ Maria có đến 5 người con. Đọc Kinh thánh, con thấy thánh Mác-cô cũng nói đến “anh em/chị em của Chúa Giêsu”. Không hiểu sao mấy người đi Đạo bạn con, lại vẫn bảo: Chúa Giêsu là Con Duy Nhất của Đức Mẹ. Trường hợp này, Cha giải thích sao đây? (Người hỏi là cư dân ở Sydney, lại vẫn không ghi tên mình)

    Ghi hay không ghi tên tuổi ở thư từ, cũng chẳng thành chuyện. Bởi, hễ cứ hỏi là sẽ được đấng bậc phụ trách mục hỏi/đáp sẽ có lời giải mã. Và, đấng bậc giải mã hôm nay sẵn sàng đáp trả bất cứ lời nào có liên quan đến thần học Kinh thánh, như sau:

“Như anh/chị nói đó, trong Tân Ước cũng có một vài đoạn nói về các người anh hoặc chị em của Đức Giêsu, hoặc chỉ đơn giản nói về anh/em hoặc “các anh em của Chúa”. Nay, ta hãy xem xét về chuyện này, để không bị kết tội là nhắm mắt mà làm ngơ, không cứu xét.
Thánh Mátthêu kể lại rằng khi Đức Giêsu đang giảng dạy tại Hội đường “ở xứ sở” của Ngài, thì dân chúng nói: “Ông không phải là con bác thợ sao? Mẹ của ông không phải là bà Ma-ri-a; anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn và Giu-đa sao? Và chị em của ông không phải đều là bà con lối xóm với chúng ta sao? Vậy bởi đâu ông ta được như thế?"  (Mt 13: 55; Mc 6: 3; Mc 6: 1-3)
Rõ ràng, là: điều mà dân chúng nói đến không hẳn chỉ là anh em hoặc chị em của Đức Giêsu theo nghĩa rộng trong đó kể cả các tông đồ cũng được coi là anh em của Ngài, nhưng đúng hơn chính là bà con thân thuộc theo đúng nghĩa.
Về sau, khi doãn lại cảnh trí diễn ra trên thập giá, thánh Matthêu nói có nhiều phụ nữ có mặt ở đó, trong số này có “bà Ma-ri-a Mác-đa-la, bà Ma-ri-a mẹ các ông Gia-cô-bê và Giô-xếp, và bà mẹ các con ông Dê-bê-đê.” (Mt 27: 56). Như thế, rõ ràng điều này có nghĩa là thánh Giacôbê, Josê không phải là anh em của Đức Giêsu, đúng hơn là con của nữ phụ khác có tên là Maria.
Thánh Gioan tiếp thêm chút ánh sáng cho vấn đề này. Mô tả cảnh trí nơi thập giá có Chúa, thánh sử viết: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Cơlôpát, cùng với bà Maria Mácđala.” (Ga 19: 25)
Rất có thể là bà Maria này, vợ ông Clôpát, cũng vẫn là bà Maria, Mẹ của thánh Giacôbê và Jôsê. Như thánh sử Gioan có nói: Bà là chị của Mẹ Maria, thân mẫu của Chúa.
Điều này chứng minh tại sao thánh Giacôbê và Jôsê được biết là “anh/em” hoặc “các anh em” của Đức Giêsu. Như thế, các ngài là anh/em họ hoặc ít ra cũng là bà con gần nhất với Đức Chúa.
Bản dịch tiếng Anh qui về thánh Giacôbê và Jôsê là “anh/em” đúng hơn là “các anh em”. Xem thế thì đã rõ, đoạn Kinh thánh đây cho biết các vị này không phải là anh/em cho bằng là họ hàng gần với Đức Giêsu, thôi. Và, cụm từ “Các anh em” đã được Văn Bản Chuẩn Mực của Ấn Phẩm Công Giáo có Sửa Sang đã sử dụng là bản văn chính xác.
Cùng một ý hướng như thế, cụm từ “chị/em” được dùng để chỉ về bà Maria, vợ của Clôpát, trong quan hệ với Đức Mẹ không thể coi là chị/em ruột nhưng chỉ là người chị hoặc em theo nghĩa rộng của người bà con hoặc họ hàng rất gần, thôi.                 
Xem như thế, thì thánh Giacôbê và Jôsê không thể là anh em họ với Đức Giêsu cho bằng là bà con họ hàng thuộc nhánh nào đó. Cũng như khi thánh sử Mátthêu nói đến ông Simôn và Giuđa là các anh em của Đức Giêsu, phải hiểu rằng có thể các ngài là bà con họ hàng với Chúa, thôi. Cũng như thế, khi Tân Ước qui chiếu nói về các người “chị/em” của Đức Giêsu, người đọc phải hiểu các vị này theo nghĩa như thế.
Để tóm kết, cũng nên qui chiếu sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng có viết: “Hội thánh luôn hiểu rằng các đoạn sách thánh đây không dẫn về những người con nào khác của Đức Mẹ Đồng Trinh Maria. Thật ra, thì thánh Giacôbê và Jôsê , “anh/em của Đức Giêsu” là con của bà Maria khác, cũng là đồ đệ theo Chúa, mà thánh Mátthêu nói rõ: “Và, một bà khác cũng tên là Maria”  (x. Mt: 27: 56; 28: 1). Tức các bà là họ hàng rất gần với Đức Giêsu, hiểu theo nghĩa của Cựu Ước .” (x. Sáng Thế Ký 13: 8; 14: 16; GLHTCG #500)
Ngoài các văn bản Kinh thánh như ta vừa xem xét, lý do rất vững chãi cho thấy tại sao Hội thánh lại dạy con dân mình rằng Đức Giêsu không có anh/em hoặc chị/em là lấy từ Thánh Truyền mà ra.   
Ngay từ đầu, Hội thánh luôn tin tưởng và dạy dỗ con dân mình rằng Đức Maria đồng trinh vẹn toàn không chỉ vì Mẹ sinh ra Đức Giêsu thôi mà vì suốt đời Mẹ, Mẹ vẫn sống như thế. Mẹ không có quan hệ xác thịt với thánh cả Giuse vào lúc nào hết. Vì thế nên, Mẹ không có người con nào khác.
Chuyện này cũng rất ăn khớp với điều mà các nhà viết sách tu đức từng bày tỏ rằng nếu không, thì chuyện Mẹ có nhiều con khác sẽ không xứng hợp với cung lòng tinh tuyền vô nhiễm tội truyền của Đức Mẹ, tức cung lòng thánh thiêng được Chúa chọn làm nơi trú ngụ trong suốt thời gian Mẹ cưu mang.
Trong số các thánh Giáo phụ của Hội thánh, thánh Ambrôsiô , thánh Giêrônimô, thánh Âu Tinh, Êpiphanô và thánh Basiliô hoặc một số thánh cả khác đều đã quả quyết rằng tính chất đồng trinh của Đức Mẹ là điều xảy ra vĩnh viễn, suốt đời Mẹ. Thánh Basiliô có nói: “Bạn bè Đức Kitô không thể nào nhân nhượng được nếu như các ngài nghe được rằng Mẹ của Thiên Chúa lại chấm dứt không còn đồng trinh sạch sẽ nữa.” (x. Bài Giảng về Thế Hệ Đức Kitô Rất Thánh, #5).
Cũng theo Thánh truyền, thì Công Đồng Chung thứ 5 về Đại Kết tổ chức tại Constantinople năm 553 sau Công nguyên, đã tặng ban cho Đức Mẹ Maria tước hiệu là “Mẹ Đồng trinh vĩnh hằng”, tiếng Hy Lạp gọi là “Aeiparthenos. Và, đây là tín điều buộc mọi người Công giáo chúng ta phải tin thôi. (x. Lm John Flader, Question time, The Catholic Weekly 10/4/2011, tr. 10)

    Đụng vào vấn đề của niềm tin, mà lại phiếm, thật ra cũng không phải phép cho lắm. Nhưng phiếm ở đây, không có nghĩa là bàn chuyền “bá láp bá xàm” nhưng là dám bàn cả chuyện đứng đắn, nhưng theo hình thức lai rai, nhè nhẹ. Trong khuôn khổ thâm thấp của nhà Đạo ở chốn dân gian, rất không trang trọng. Không vụ hình thức. Thế mới gọi là phiếm. Là, một chút mạn đàm, chốn bình dân.
    Bình dân đây, hoàn toàn không có nghĩa thấp hèn hoặc lèm bèm như trong buổi “khilikhitô” cũng năng nổ, có luận và có bàn, nhưng không đưa đến một phản bác, xét lại hoặc ưu tư. Luận và bàn, ở đây, theo tính cách dân gian cho dễ hiểu, để còn tin và yêu, rất trân trọng. Có ý thức. Thanh minh, minh định và rào đón thế xong, nay xin mời bạn và mời tôi, ta đi vào địa hạt thơ văn người đời có những lời na ná của nghệ sĩ, từng khuyến khích: 
              
 “Đưa em về dưới mưa, chiếc xe lăn dốc già
Đưa em về dưới mưa, áo em bùn lưa thưa
Đưa em về dưới mưa, hỡi cô em bé nhỏ
ôi duyên tình đã qua, có bao giờ không xưa?”
(Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – bđd)

    Với thi nhân họ Nguyễn và nghệ sĩ lão gia họ Phạm, thì khi gọi “cô em bé nhỏ”, nào những “ma soeur, này ma soeur”, là các vị chỉ muốn nói về những “duyên tình nào đã qua”, có chuyện tình “nào (lại) không xưa”. Chuyện tình xưa, như chuyện dưới mưa. Cũng là “đeo thánh giá huy hoàng”, còn bản thân ta “nhiều sám hối”, mà “sao vẫn hoang đàng?”
Ngồi buồn phiếm “loạn” hôm nay, chắc bạn và tôi, ta không phải là thi nhân “hoang đàng” hoặc “sao đó”, nhưng chỉ là những người vẫn “đeo thánh giá huy hoàng”, rất “sám hối”, dù “vô tội” hay vô số tội, vẫn cứ hát:

    “Đưa em về dưới mưa,
    nói năng chi cũng thừa.
    Như mưa đời phất phơ,
    chắc ta gần nhau chưa?”
    (Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – bđd)

“Đưa nhau về dưới mưa”, dù mưa đó có lưa thưa, phất phơ như cuộc đời của ai đó, hẳn người người sẽ nhắn nhau chỉ đôi câu, rất “không thừa”, nhưng tràn đầy ý nghĩa, đó là: “chắc ta gần nhau chưa”.
Đúng thế, trong cuộc đời của người và của nhà Đạo, vấn đề quan trọng cần lưu tâm /lưu ý hết mọi vị, vẫn luôn là “chắc ta gần nhau chưa”. “Gần” ở đây, chưa hẳn là gần gũi theo diện họ hàng/hang hốc, rất bà con. Mà, chữ “Gần” ở đây, vẫn có thể là sự “cận kề” rất thân quen, mật thiết. Như lời Thầy Chí Ái từng nhắc nhở, ở thánh kinh, rằng:

        Có kẻ thưa Người rằng:
"Thưa Thầy, có mẹ và anh em Thầy đang đứng ngoài kia,
tìm cách nói chuyện với Thầy."
Người bảo kẻ ấy rằng:
"Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?"
Rồi Người giơ tay chỉ các môn đệ và nói:
"Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi.
V́ phàm ai thi hành ư muốn của Cha tôi,
Đấng ngự trên trời,
người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi."
(Mt 12: 47-48)

Và hôm nay, qua luận phiếm về tính cách bà con/họ hàng của Chúa, “những người thi hành ý muốn của Cha”, vẫn còn đó câu hát của thi nhân ngoài Đạo cũng rất buồn: “Chắc ta gần nhau chưa?” Nói nôm na, thì sẽ bảo: nếu ta vẫn tự hào là người Công giáo, mà sao chưa xác tín lời dặn của Chúa, trích ở trên. Hay, ta cũng đã xác tín, nhưng vẫn hỏi một câu để đời, rằng: “Chắc ta gần nhau chưa?”  Tức, chắc gì ta đã là “anh em của Đức Chúa”? Hỏi ở đây, hôm nay phải chăng là đã trả lời rồi, hỡi bạn và hỡi tôi, những người anh/người chị cũng “hiền như ma soeur”, hay rất “lành như mon frère”, của chúng mình!     
    Bần đạo nay không tin rằng: hỏi tức đã trả lời rồi. Bởi, nếu quả có thế, thì sao nhiều vị vẫn thích nghe nhạc bản có lời cứ ê a, mà rằng:

    “Em hiền như ma soeur,
    vết thương ta bốn mùa,
        rái tim ta bệnh hoạn,
    ma soeur này ma soeur”…
    (Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – bđd)

Hát thì hát thế, nhưng vẫn cứ mong sự thật không phải thế hỡi bạn hiền, những “mes soeurs” hoặc “mes frères”, của tôi và của bạn, ở ngoài đời. Hoặc trong Đạo.

Trần Ngọc Mười Hai
Cũng ít hát câu
“em hiền như ma soeur”
vì rất sợ và không tin
em hiền như thế.

42.  “Non nước u buồn nào”
“Đâu bóng cố nhân lòng xót xa tình xưa.”
(Minh Trang/Dương Tiệu Tước - Bóng Chiều Xưa)
(2Tx 2: 15-17)
“Bóng chiều xưa”. Đâu cứ là bóng xót xa. U buồn. Nguồn non nước. “Chiều gió mưa”. Cũng có thể là mưa gió. Bão bùng. Nhiều sầu não. Với đất trời, là môi trường toàn cầu!?
Về đất trời nhiều âu sầu, rầu não bộ thần kinh, bần đạo nhớ nhiều về buổi mạn đàm bỏ túi, mang tính chất rất “khilykhitô”. Có tâm tình bầu bạn, kể cho nhau nghe những “khuôn trăng đáy nước, bên đồi dạ lan”… lan man nhiều chuyện. Lan man buổi chiều ấy, có bạn hiền dõng dạc tuyên bố: “Tôi nay thuộc thế hệ gần đất xa trời, nhưng vẫn nhớ tên tuổi từng bạn cũng đã gần trời, nhưng xa đất…”
“Gần đất xa trời”, ý bạn hiền của bần đạo, không cốt bảo rằng: anh nay rắp ranh đi dần về với chuỗi ngày chuẩn bị chầu Chúa. Cho bằng, anh vẫn cảm kích lập trường của vị Phật sống, Giáo hội Tây Tạng, mới đây từng tuyên bố:

“Những nhân tố nào đã làm cho người Tây Tạng bình lặng và thân mật tự nhiên? Người ta luôn luôn tìm kiếm một câu trả lời trong tôn giáo của chúng tôi, nó đặc thù, mà quên đi rằng môi trường của chúng tôi cũng không là ngoại lệ.
Sự bảo tồn thiên nhiên không cần thiết là một hành vi thiêng liêng, và nó không luôn luôn đòi hỏi từ bi. Như những Phật tử, chúng tôi từ bi với tất cả chúng sinh, nhưng không cần thiết với mỗi hòn đá, cây cối, hay nơi cư ngụ. Hầu hết mọi người chúng tôi chăm sóc ngôi nhà của chúng tôi mà không cần cảm nhận bất cứ sự từ bi nào về nó.
Tương tự thế, hành tinh của ta là ngôi nhà của mình. Và, ta phải duy trì nó với sự cẩn trọng, để bảo đảm hạnh phúc của ta và niềm hạnh phúc của bạn bè, con cháu, và của toàn thể chúng sinh, tức những ai chia sẻ nơi cư trú vĩ đại này. Nếu ta nghĩ về hành tinh của ta như ngôi nhà hay “bà mẹ” của mình, là Bà Mẹ Đất thì ta sẽ cần phải chăm sóc nó.
Ngày nay ta hiểu rằng tương lai nhân loại tùy thuộc vào tinh của ta. Tương lai của nó tùy thuộc trên nhân loại. Nhưng điều ấy không phải lúc nào cũng rõ ràng. Cho đến bây giờ, Bà Mẹ Đất đã bao dung sự vô tình của ta. Tuy thế, ngày nay, thái độ của nhân loại, dân số và kỹ thuật đã đạt đến mức độ mà Bà Mẹ Đất của ta không còn có thể chấp nhận nó nữa, trong im lặng. “Những đứa con của mẹ đang cư xử một cách tệ hại,” bà đã cảnh cáo để ta nhận ra rằng có những giới hạn mà ta không thể vượt qua được.” (x. huffingtonpost.com Dalai Lama Book: My Spirit 11.10.2010)

Nói theo kiểu người nghệ sĩ viết nhạc bản ở trên, thì “Bóng Chiều Xưa” phải là buổi chiều trong đó con người vẫn hoà mình với “Bà Mẹ Đất”, rất trân trọng nên mới hát:

“Mây vương sầu lan,
Gió ơi đưa hồn về làng cũ
nhắn thầm lời nguyện ước trong chiều xưa.”
(Minh Trang/Dương Thiệu Tước – bđd)

Nguyện ước của nhị vị uyên ương thơ nhạc ở trên, còn là ước nguyện của những ngày xưa cũ, còn đó một tình tự, như:

“Ngạt ngào sắc hương
tay cầm tay luyến thương.
Đôi mắt em nhìn càng say đắm mơ màng nào
thấy đâu sầu vương.”
(Minh Trang/Dương Thiệu Tước – bđd)

Đã hẳn, đôi uyên ương nào mà chẳng “đắm say tình ngất ngây”, khi “đôi mắt em nhìn” sẽ cứ là “mơ màng, thấy sầu vương”. Hôm nay đây, mắt biếc ấy vẫn ngất ngây một chất tình, đã cảm hoá tâm tình đầy ngấn lệ khi chàng và nàng biết hát những ý từ như:

“Thương nhau làm chi
âm thầm lệ vương khi biệt ly.
Xa xôi còn chi
vô tình em nhớ mối duyên hờ…
(Minh Trang/Dương Thiệu Tước – bđd)

“Lệ vương âm thầm”, đã bộc phát từ lúc thấy biệt ly. “Thương nhau làm chi”, là dấu hằn đã in vào cả đời người. Một đời, có những giòng lệ vơi/đầy, khi người đời quên mất lời dặn dò hôm trước, của thánh nhân:

“Hỡi anh em,
hãy đứng vững và nắm giữ các truyền thống
anh em đã thụ giáo với chúng tôi
hoặc nhờ lời nói, hay bằng thư từ.
Nguyện xin Chúa chúng ta, Đức Giêsu Kitô
Đấng đã yêu mến ta và đã ban cho ta niềm an ủi hằng có
và mối hy vọng tốt lành bởi ơn Người,
làm cho lòng anh em được phấn khởi và kiên vững
trong mọi việc làm và lời lành.”
(2Tx 2: 15-17)

‘Đứng vững và nắm giữ các truyền thống’, chắc hẳn trong đó có cả cung cách tuân giữ luật tự nhiên, rất an nhiên tự tại. ’Phấn khởi và kiên vững trong mọi việc làm và lời lành’, đương nhiên là quyết tâm ăn ở hiền lành, với mọi người, không riêng gì dân mình.
‘Phấn khởi và kiên vững’, cả khi biết dân con Đạo mình, vẫn thổn thức. Như Cha Nhân Hiền từng thao thức, khi Ngài nói: “Ta đã nghe tiếng chúng kêu than”. (Xh 3: 7)
Chúng dân than, vì nhiều lẽ. Không chỉ là lẽ ưu phiền do thiên tai, động đất, lũ lụt thời suy thoái. Có thể, vẫn là những uẩn khúc của một thời. Và một đời, mà người người không nương tay. Uẩn khúc hay kêu van, vẫn còn đó hy vọng cho một ngày mai tươi sáng, nếu người người biết tin vào lời ngôn sứ, khi xưa từng nói:

“Ta sẽ đổi tan tác của chúng
thành hoan lạc,
Ta sẽ ủi an,
Ta sẽ xuống cho chúng
niềm vui giải sầu.”
(Yr 31: 13)

“Niềm vui giải sầu”. Đó, là hy vọng. Là, sự khác biệt giữa các niềm tin tôn giáo. Tin, vào lời Cha Nhân Hiền, hoặc vị Phật sống. Hoặc, vào lời ngôn sứ xưa đã khuất. Cũng vẫn là tin. Là, hy vọng. Bởi, tin là tự khắc đem lại cho mình niềm hy vọng. Và, còn hy vọng, tức vẫn còn tin. Cứ tin. Dù, trạng huống con người sống sẽ ra tồi tệ thế nào cũng mặc. Vẫn kiên trì một niềm tin. Cứ, loé sáng một hy vọng.
Hy vọng, cụm từ gồm chỉ hai chữ, nhưng ôm gọn cả một vũ trụ/bầu trời, rất nguy nga. Hoành tráng. Tàn tạ, có là cụm từ chỉ về Bà Mẹ Đất, rất ưu phiền vì loài người đang giết Mẹ. Nhưng cuối cùng rồi ra hy vọng sẽ bức phá mọi tàn tạ ; để rồi sẽ đưa con người về với ánh sáng, của niềm tin.
Đức Chúa của Đất Trời, vẫn làm những chuyện lạ, miễn là vũ trụ/loài người mãi còn tin. Còn hy vọng vào Ngài, Đấng Thánh Hiền là Mẫu mực cho niềm tin linh thánh. Mẫu mực, của một hy vọng rất lành, để ta sống. Sống mà không có niềm tin, và hy vọng, thì cũng chỉ như người đã và đang chết. Một thứ chết dần chết mòn, chẳng ai tin. Và cũng chẳng ai còn hy vọng.
Vậy thì, hỡi bạn và hỡi tôi, ta cứ hy vọng và cứ tin. Tin, và hy vọng để sống tỉnh táo như những nhân vật được kể trong truyện ở dưới, quyết tự tạo cho mình niềm hưng phấn, để sống.

« Chuyện rằng,
Lúc ban đầu, đoàn làm phim Titanic định quay ở VN. Đêm. Đại dương đen ngòm. Bầu trời đầy sao. Trên chòi cao, người hoa tiêu của tàu Titanic chăm chú nhìn về phía trước. Bỗng anh hốt hoảng:
- Có một núi băng phía trước tàu khoảng 10 cây số.
Tin đó lập tức được gửi tới phòng hoa tiêu trưởng. Ông này bận dự lễ cắt băng khánh thành câu lạc bộ bida trên tàu. Nhận được tin, ông lắc đầu:
- Phải mang ra phường xác nhận xem núi băng đó thuộc về ai thì tôi mới có hướng giải quyết.
Một bức điện cấp tốc được gửi về phường xin xác nhận ngay, nhưng cô văn thư giữ con dấu lại nghỉ vì nhà có đám giỗ, còn chủ tịch phường thì hiện đang đi nghỉ mát theo lời mời của Ban quản lý dự án giải phóng mặt bằng.
- Núi băng còn cách tàu 5 cây số, Viên hoa tiêu lại báo xuống.
Tin được chuyển ngay xuống thuyền phó. Ông ta vội vã triệu tập một cuộc hội thảo với chủ đề Băng trôi - Thực trạng và giải pháp. Giấy mời hội thảo đề 3giờ sáng, nhưng đến 4 giờ sáng vẫn chưa đủ số đại biểu vì không rõ là có tiền ăn sáng hay không, đồng thời nhân viên cũng báo cáo lại là một số đại biểu đang mải chơi tú Strip nên không thèm nhận giấy mời. Cuối cùng thì buổi hội thảo cũng vẫn được tổ chức lúc 4 rưỡi sáng sau khi Chủ tọa tuyên bố có tiệc đứng sau buổi họp. Các tham luận đều không đưa ra hướng cụ thể gì, chỉ nhấn mạnh là cần phối hợp giải quyết nhịp nhàng và đây là trách nhiệm của tất cả các ban ngành. Cuối buổi, Chủ tọa kết luận dõng dạc:
- Cuộc họp hôm nay chúng ta đã được nghe nhiều ý kiến phát biểu có giá trị cao về cả lý thuyết lẫn thực tế. Các ý kiến đã chỉ ra được tầm nguy hiểm của hiện tượng băng trôi và đưa ra một số giải pháp giải quyết. Các giải pháp tuy còn nhiều tính chất "trừu tượng" và đôi chỗ mâu thuẫn với nhau, nhưng thật khó để có thể kết luận ý kiến nào đúng, ý kiến nào sai. Đây chính là tiền đề để chúng tôi sẽ tiếp tục tổ chức một buổi Hội thảo nữa vào ngày này năm sau. Xin cám ơn quý vị và mời quý vị dùng tiệc. (clap clap)
- Băng còn cách tàu 100mét, viên hoa tiêu hét lên.
Tin này đến tai thuyền trưởng. Ông vội vã ra lệnh:
- Lái tàu, lùi lại.
- Dạ báo cáo anh, em chưa học lái tàu đi lùi ạ.
- Thế sao bảo có bằng lái tàu thủy ???
- Dạ, thú thiệt là bằng này em... "mua" ạ.
- Hả ???... RẦM!!!
Sườn tàu va vào núi băng. Nước ào ào chảy vào các phòng. Trên giường ngủ, diễn viên nam do DiCaprio thủ vai thức dậy trước tiên. Anh lay những người xung quanh:
- Dậy mau lên, nước ngập.
Mọi người ngái ngủ ngó xuống rồi càu nhàu:
- Mưa thì nước ngập, có chi đâu.
- Nhưng mà ngập đến đầu gối rồi!
- Bực quá, khu phố tôi ở mỗi khi mưa dù là mưa nhỏ mà đều ngập đến bụng cơ, thế này nhằm nhò gì - Rồi họ ngủ tiếp.
Hốt hoảng, Di aprio rút điện thoại di động gọi cho diễn viên nữ Kate Winslet để báo tin. Trong máy vang lên một giọng ngọt ngào: "Thuê bao quí khách vừa gọi hiện đang ngoài vùng phủ sóng hoặc tắt máy, xin vui lòng liên lạc lại sau. The number you've called...".
Kêu trời vì thất vọng, DiCapio chạy ào lên phòng người yêu, kéo cô chạy lên bong. Đôi tình nhân dìu nhau lên những bậc thang chật hẹp. Lúc này trong tàu đã nhốn nháo vô cùng. Dòng người đang xô đẩy bỗng chựng lại.
- Kẹt xe.
DiCaprio cáu:
- Trong tàu thuỷ làm sau kẹt xe được?
Bà con giải thích:
- Được. Xe mấy ông thuỷ thủ nhập lậu giấu kỹ, bây giờ nước ngập ai cũng lôi ra nên kẹt cứng rồi. Đôi uyên ương lao tới chỗ để xuồng cấp cứu. Còn rất nhiều chỗ trống. Hai người định nhảy xuống xuồng thì một nhân viên chặn lại:
- Yêu cầu anh chị mua vé.
- Chúng tôi mua vé tàu rồi mà? - Winslet kêu to.
- Vé tàu khác, vé xuồng khác - Anh nhân viên giải thích - Y như ở công viên, vé vào cửa đâu kèm vé trò chơi!
DiCaprio đành thò tay vào túi, rút ra tờ 100 USD. Người bán vé cầm lấy, điện thoại vào đất liền hỏi tỉ giá chính thức. Cô trực tổng đài cho biết là 8 giờ sáng mới có giá mới, còn nếu tính theo giá hôm qua thì DiCaprio bị thiệt 2 chục ngàn. Đang giằng co thì có một bà béo chạy lại đon đả:
- Anh giai để em đổi theo giá ngoài, vừa nhanh vừa cao hơn. Tính ra theo cái "giá ngoài" đó thì DiCaprio chỉ bị thiệt có 18 ngàn mà thôi.
Đúng lúc nguy cấp thì điện tắt phụt. Thiên hạ la rầm trời đất. Thuyền trưởng chạy tới quay điện thoại hỏi lý do. Suốt tiếng đồng hồ máy bên kia cứ bận liên tục, cuối cùng thuyền trưởng phải cử thuyền phó xuống tận nơi thì được thông báo:
- Một con chuột chạy lụt mắc kẹt ở đường dây và đã bị nướng chín vàng khiến đường dây chập mạch. Phải tìm ngay một con mèo.
Lúc này mối nguy hiểm đã cận kề. Tàu Titanic kêu răng rắc như răng bà lão và gãy làm đôi. Tất cả tranh nhau xuống xuồng và tranh nhau phao cấp cứu. Lượng phao ít hơn lượng người nên đôi tình nhân chỉ được có một chiếc. Họ cứ nhường nhau, nước mắt đầm đìa rất cảm động. Âm nhạc nổi lên tha thiết. Hơn một ngàn rưởi hành khách sắp chết đuối vì thiếu phao. Tàu sắp chìm sâu xuống đại dương. Bỗng nhiên thuyền trưởng vụt nhớ lại kỳ thi tốt nghiệp THPT của mình. Ông cởi chiếc phao trên thân, đưa vào máy Photocopy nhanh chóng in ra hàng ngàn chiếc. Thế là hành khách ai cũng có đủ, thậm chí một người được dăm bảy loại phao. Một điều lạ là trên các loại phao này lại ghi chi chít những công thức toán học, các bài văn mẫu. Nhưng lúc nước sôi lửa bỏng thế này, có phao là tốt rồi nên cũng không ai để ý mà đều ôm phao nhảy ào xuống biển.
Titanic chìm xuống. Tất cả mọi người đều nổi lên. Pháo bông bắn rực trời. Trên nền trời đêm hiện lên dòng chữ: Tỷ lệ "nổi" đạt 100%. Caprio và Winslet ôm nhau hôn thắm thiết! (Vô danh thị).

Truyện kể của tác giả Vô Danh Thị, đích thị từ người Việt, hoàn toàn mang tính hư cấu. Nhưng có hậu. Hư cấu, vì bôi bác những người con của “Bà Mẹ Đất” chẳng lý gì đến Đất Mẹ. Rất có hậu, là bởi đọc hết truyện rồi mà chẳng thấy “chết ba thằng Tây’ nào hết ráo. Bởi, truyện kể chỉ cốt kể lể và minh hoạ, rằng: nếu không cẩn thận trân quý đất, thì rồi ra đất cũng chẳng lý gì đến cuộc sống của ta.
Về với nhà Đạo mình, cũng nên trân trọng và nhớ lời dạy của các thánh trong/ngoài Đạo, để rồi bạn và tôi, ta sẽ lại có những ý nghĩ, hành xử, rất phải lẽ. Với cả đất lẫn trời. Đồng thuận rồi, hỡi tôi và bạn, ta sẽ lại hát nốt câu ca ở trên, làm kết đoạn:

“Một chiều gió mưa
Anh về thăm chốn xưa.
Non nước u buồn nào đâu bóng cố nhân
lòng xót xa tình xưa.”
(Minh Trang/Dương Thiệu Tước – bđd)

Quả là thế. Non nước u buồn. Cố nhân, có về thăm chốn xưa cũ, thì Bà Mẹ Đất cũng xót xa tình xưa, mà bỏ lỗi. Để rồi, sẽ đưa đàn con yêu dấu vào vòng tay yêu thương/tình ái, rất ôm ấp. Vỗ về. Đầy hy vọng.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cứ hy vọng rất nhiều
Dù đất trời đổi thay
Loay hoay nhiều trăn trở.

 


43. “Hồn cầm phong sương, hình dáng xuân tàn.”
”Ngày dần buông trôi, sầu vắng cung đàn.”
(Văn Cao – Cung Đàn Xưa)
(1Cr 11: 23)
    Có đôi lần, bầu bạn ở Sydney có ngỏ ý muốn đóng góp đôi chút cho việc in ấn, khi bần đạo biếu tăng sách Phiếm, thì được bần đạo thưa ngay rằng:“Sách Phiếm ký tặng, là để bạn bè nghe và đọc, chứ nào dám động đến bạc tiền đâu. Anh chị thương, thì cứ nguyện cầu cho bọn mình một kinh cũng đủ Sáng Danh Chúa!” Bạn hiền thấy lạ, bèn hỏi: “Sao lại Sáng Danh, chứ không Lạy Cha hoặc Kính Mừng?” Bần đạo bèn tỏ lộ ý mọn mà rằng:“Ở kinh Sáng Danh, bần đạo không thấy ngữ từ mang ý nghĩa cứ “xin” cho mình cả, mà chỉ để Sáng Danh Chúa, mà thôi!
    Hôm nay, một lần nữa, bần đạo lại được nghe bạn bè luận bàn về kinh kệ trong thánh lễ rất “Mi-sa”, nên lại đã quay về với phiếm và luận cùng vài đấng bậc có kinh nghiệm về lời cầu đọc ở Tiệc Thánh, rất agapè.
    Sở dĩ bần đạo không dùng danh xưng “Misa, thánh lễ” hoặc “Lễ tiến dâng Cha” như hồi nào, là bởi: nay, dân con Đạo Chúa đã và đang hiện thực lời khuyên của Phaolô thánh nhân, hơn một lần từng lập đi lập lại yêu cầu được Chúa nhủ khuyên vào thời trước:  
   
“Thật vậy, điều tôi đã lĩnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em:
trong đêm bị nộp, Chúa Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi bẻ ra và nói:
"Anh em cầm lấy mà ăn, đây là Mình Thầy, hiến tế vì anh em;
anh em hãy làm như Thầy vừa làm để tưởng nhớ đến Thầy."
(1 Cr 11: 23-24)

    Trong bài viết ngắn gọn xuất hiện trên tuần báo The Catholic Weekly ngày 27/2/2011, tác giả Don Richardson, linh mục Giám Đốc Uỷ Ban Phụng Vụ thuộc Tổng Giáo Phận Sydney, đã có lời bàn về sách lễ Missale Romanum, bản tiếng Anh như sau:

“Cử hành “thánh lễ Misa” thời buổi này, là dịp để ta hiện thực lời kinh và những động thái được truyền tụng từ trước đến bây giờ. Truyền và tụng, không như báu vật thời đã qua, nhưng vẫn là thực tại sống động. Động thái nói đây, là điều hệ trọng với Kitô-hữu, ở mọi thời.
Thánh Phaolô xưa, khi mô tả nguồn gốc của Tiệc Thánh, cũng đã xác nhận một điều, rằng: “Điều tôi nhận lãnh nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bị nộp, Đức Giê-su cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, rồi Ngài bẻ ra và nói…”
     ời ở đây, ta cũng nên chú ý đến những điều được thánh Phaolô khi xưa viết: “Điều tôi lĩnh nhận từ Chúa”, và “Tôi xin truyền lại cho anh em”. Xem như thế, thì phụng vụ ta cử hành –có Lời của Chúa, có động thái này khác, có lời cầu cùng dấu hiệu– là cách thức qua đó Tiệc Thánh được truyền đến với ta cả vào thời Chúa sống, qua Hội thánh. Lời kinh ấy, vẫn trải dài ngang qua bao thời đại, để rồi lan rộng khắp thế giới cho đến hôm nay. Nhờ vào đó, ta sẽ rao truyền về sự chết của Chúa và lĩnh nhận Thân Mình cùng Máu rất thánh của Ngài.” (x. Don Richardson ‘Handing on’ prayers and actions of the Mass as ‘lively present realities’, The Catholic Weekly 27.02.2011, tr.24)  

    Nói theo bài/theo bản từ bậc trưởng thượng Ủy Ban Phụng Vụ Tổng Giáo Phận, đương nhiên là sẽ nói thế. Nhưng, vấn đề là: giáo dân bình thường và đấng bậc vị vọng chốn không cao, nghĩ sao về chuyện ta cứ dịch đi dịch lại văn bản Phụng Vụ, mà tự bản chất, có “biên” hay có “dịch” cho nhiều, thì việc ấy vẫn là cố gắng rất “bội phản” văn bản gốc; như ai đó ở trời Tây, vẫn từng bảo:“Traduire, c’est trahir” (Dịch là phản)
    Hỏi, tức đã trả lời cách nào đó, vẫn từ lâu. Và hôm nay, nếu có ai lại hỏi thêm đôi điều gì, thì bần đạo sẽ cứ xin bạn/xin tôi, ta chớ vội mà trả lời/trả vốn rất tốn thì giờ của mọi người. Chi bằng, thay vào đó, ta cứ hát. Hát, lời ca của thi nhân/nghệ sĩ khi xưa vẫn coi lời thơ/ý nhạc người đời, rất như sau:

            “Cung thương là tiếng đàn
Cung nam là tiếng người.
Ai oán, khúc ca cầm châu rơi
Tình duyên lãng đãng, nhớ thương dần pha phôi.”
(Văn Cao – bđd)

    Thật ra thì, có trả lời câu trên bằng lời ca “phôi pha”, “lãng đãng”, cũng không phải. Không phải, là bởi: câu ca/lời cầu ở phụng vụ dù bằng tiếng nước nào đi nữa, có sâu/có sát với La-ngữ hay không, vẫn chẳng là “ai oán, khúc ca cầm” và “châu rơi”, hết! Tuyệt nhiên, đây chẳng là: “khúc cầm ca châu rơi”; hoặc: ”nhớ thương dần pha phôi” gì hết. Sở dĩ nghệ sĩ nay viết thế, là ý bảo:  

            “Cung đàn ngân,
buồn xa vắng trong tiếng thầm.
Buồn tê tái trong tiếng ngân,
buồn như lúc xuân sắp tàn.
Ơi đàn xưa, còn vang nhắc chi tới người
Lòng ta tắt, bao thắm tươi u hoài duyên đưa.”
(Văn Cao – bđd)

    Vâng. Đúng là thế. Nghệ sĩ ngoài đời, đâu là thánh nhân nhà Đạo! Vẫn là dân con sống ở trần thế rất lễ mễ, thế thôi. Bởi thế nên, lời người hát có ca/có hát kỹ đi nữa, cũng chỉ như một “tán thán”. Hỏi han. Nhắc nhớ. Nhắc, để nhà Đạo nhớ rằng: nhiều vị từng “tán” nhưng không thán. Từng “hỏi” mà chẳng “than”, như người nghệ sĩ đã lại hát tiếp:

“Giờ còn mong chi, người hát theo đàn
Giờ còn mong chi, hợp cánh hoa tàn.
Lời đàn năm xưa se kết đôi lòng
Lời đàn năm nay đôi lứa xa vời.”
(Văn Cao – bđd)

    Nói cho cùng, “đôi lứa xa vời” dù có hỏi han hay ta thán, vẫn là nhận định đáng ta quan tâm cho thật kỹ. Tựa hồ nhận định của đấng bậc khác, cũng về dịch-nhưng-không-phản, như sau:

            Kính thưa các Đức Hồng Y, các Giám Mục rất quí mến,
Vốn nặng lòng với Hội thánh, nên mới đây tôi vừa đưa ra một quyết định rất khó khăn có liên quan đến bản dịch sách lễ Rôma bằng tiếng La-tinh sang tiếng Anh. Nay, tôi suy nghĩ kỹ nên rút lại lời đồng thuận mà tôi từng tỏ bày vào lần trước, về chuyện dịch sách lễ Rôma sang tiếng Anh, để phổ biến tại các giáo phận trên toàn nước Mỹ. Sau khi đã hầu chuyện lâu giờ với vị cha già giải tội của mình, và sau nhiều buổi cầu nguyện liên lỉ, nay có quyết định là: tôi không đề bạt/thăng tiến bản dịch tiếng Anh với sự chính trực mình từng có, nữa.      
Tôi yêu mến Giáo Hội và yêu thích phụng vụ của hội thánh, có lời ca câu hát bằng tiếng La-tinh và Anh ngữ, và tôi cũng hãnh diện đã có chân trong nhóm sáng tác/dịch thuật này qua tư cách là đan sĩ, linh mục. Thật là vinh dự lớn đối với tôi được phục vụ đến ngày nay với tư cách là chủ tịch phân ban thánh nhạc Uỷ Ban Quốc Tế Dịch thuật sang tiếng Anh và phục vụ soạn thảo các nhạc bản cho sách lễ mới này. Tuy nhiên, tôi vốn tham gia tiến trình này với thiện chí lâu nay mình sẵn có, nhưng sau khi thấy Đức Thánh Cha giải quyết các vụ tai tiếng lớn trong Giáo hội, đã khiến tôi dần dà mở to con mắt biết được rằng vấn đề còn thâm sâu hơn ở cấu trúc tạo quyền trong Giáo hội.
Sách lễ mới bằng tiếng Anh, sắp được đem sử dụng đại trà, là một trong các mô hình lớn nói lên sự áp đặt từ trên do việc tập trung quyền hành, vốn không còn coi mình có trách nhiệm đối với quảng đại quần chúng là thành viên trong hội thánh. Thêm vào đó, khi suy xét công việc dịch thuật quan trọng như thế mà lại giữ kín, không hội ý với các linh mục hoặc tầng lớp giáo dân một cách công khai. Và nhất là, thấy Đức Thánh Cha cho phép một nhóm người rất ít ỏi được phép cướp tay trên quyền phiên dịch hoặc biên soạn ở giai đoạn cuối, đồng thời thấy rằng: bản văn cuối không thoả mãn được nhiều người và: văn bản dịch thuật này lại đã áp đặt lên hội đồng giám mục ở các nước, đến độ vi phạm thẩm quyền chính đáng của các chủ chăn địa phương; đồng thời, khi thấy biết bao đấng bậc chủ quản rất thiện chí nay nản lòng đến bất hoà về điểm đặc trưng của tiến trình dịch thuật, khiến tôi nghĩ ngay đến giáo huấn của Chúa về phục vụ, yêu thương và hợp nhất… Từ lúc đó, tôi đã bật lên thành tiếng khóc, rất chân tình.
Nay, thấy tâm trạng vỡ mộng của một số chức sắc đối với Hội thánh, cũng như tâm tình của bạn bè người thân ở các cấp mà tôi quen biết, một số vị đã rời bỏ Giáo hội, không còn tin vào Hội thánh mình nữa. Một số người khác, dần dà bị cuốn hút theo các vị ấy, cũng đã ra đi. Một số vị nay gia nhập giáo phái khác, Giáo hội khác. Có vị, tuy vẫn ở lại với Hội thánh, nhưng đã gặp khó khăn rất nhiều. Vì vậy, nay tôi quyết định là vẫn ở lại với Hội thánh và làm hết sức mình để phục vụ Hội thánh, nhưng tôi hy vọng rằng: bằng vào việc này, tức nói lên sự thực mà tôi nhận thức; nói lên bằng tất cả tình thương yêu tôn kính tôi vẫn có, tôi sẵn sàng tham gia mọi công tác phụng vụ thực hiện trong mai ngày trong tư thế thoải mái, dễ chịu hơn.
Tôi thấy có lỗi nếu đã tạo rắc rối cho một số vị, qua quyết định rút lại sự đồng thuận này, nhưng tôi vẫn nhận ra rằng: việc tôi đang rút lại sự đồng thuận, là rất đúng. Và, phải làm. Tôi hứa sẽ cầu nguyện cho các ngài và các thủ lĩnh của Giáo hội ta.
Kính chúc các ngài sự bình an trong Đức Kitô,
Lm Anthony Ruff, O.S.B

    Thế đó, là lời lẽ chân tình, của một đấng bậc vị vọng trong Đạo dám nói lên những điều phải nói với nhà Đạo. Còn đây, lại là lời ca rất đáng nói của nghệ sĩ ngoài đời khiến ta cứ ca và hát mãi:

    “Khi hôn hoàng xuống dần
Trăng lên vàng mái lầu,
Nghe thoáng tiếng kinh cầu xa xa,
Ngàn lau thấp thoáng, bóng kinh kỳ sầu bao la.”
(Văn Cao – bđd)

    Ca từ hay lời kinh, dù xuất từ miệng ai đó, vẫn là lời trần tình người trong cuộc. Tức, các vị có kinh nghiệm từng trải rất chung đụng, cùng hiện tượng. Hiện tượng này. Sự kiện ấy, là những gì mà thành viên Hội thánh, nay trăn trở. Trăn và trở như hơi thở, của nghệ sĩ nay vẫn hát: 

             “Từ người ra đi, chờ vắng tin người
Từ người ra đi, là hết mơ rồi…”
(Văn Cao – bđd)

    Và, ưu tư/uẩn khúc vẫn lẩn quẩn đâu đây, chốn đời này, như tác giả Paul Philibert, linh mục Dòng từng có lời trần tình ở trên báo điện tử từ Mỹ Quốc rất America, The National Catholic Weekly đề ngày 3/1/2011, như sau:

“37 năm trôi qua, giới Công giáo nói tiếng Anh đã nghe quen hoặc đọc quen bản dịch lời kinh tiếng La tinh khi tham dự thánh lễ. Lời kinh ấy, là: “Tất cả các con hãy cầm lấy mà uống, này là máu Ta, máu giáo ước mới và vĩnh cửu sẽ đổ ra cho các con và mọi người được tha tội.”
Từ 1985, cụm từ “các con” bên tiếng Anh đã bị loại bỏ, nhưng nhóm chữ “tất cả”, vẫn được giữ. Nay, các giám mục ở nhiều nơi trên thế giới đang ràng buộc ban phụng vụ thuộc quyền mình nên có tư thế chuẩn bị cho các giáo sĩ bản quyền sử dụng bản dịch sách lễ Rôma, mà trước đây vẫn được coi là Sách Các Phép, và: các linh mục nay được lệnh thay và bỏ cụm từ “tất cả” đó. Trong số những điều gọi được là “bất hạnh” ở bản mới tiếng Anh, có việc thay cụm từ tiếng Latinh “pro vobis et pro multis” mà kể từ năm 1973 mọi người đều vẫn nghe/vẫn biết những lời dịch như: “cho các con và mọi người” nay bản dịch mới đề nghi là “cho các con và số đông”.
Sao lại có chuyện như thế?
Mới đây, tôi được vinh hạnh đi Rôma phó hội quốc tế của bổn Dòng là Tổng Công Hội Dòng Đa Minh. Hôm ấy, Tiệc Thánh được cử hành bằng nhiều thứ tiếng để các vị tham dự đều hiểu được. Cũng vào buổi Tiệc Thánh ấy, tôi chú ý cách đặc biết đến cụm từ “pro multis” được dịch rất kỹ. Nói tóm lại, điều tôi khám phá ra, là: với tiếng Đức, vị chủ tế đọc là: “cho các con và cho tất cả” (“fũr euch und fũr alle”); trong khi đó, bản tiếng Tây Ban Nha được dịch là: “cho các con và cho mọi người” (“por vosotros y por todos los hombres”). Ở tiếng Ý, lại thấy viết “cho các con và cho tất cả” (“per voi e per tutti”). Tiếng Pháp, cũng thấy dịch: “cho các con và cho đám đông” (“pour vous et pour la multitude”), tức ý chỉ về “đoàn lũ đông đảo”, một cụm từ được nhắc đến ở sách Khải Huyền đoạn 7 câu 9 hoặc đoạn 19 câu 6. Nhưng, không một bản mới nào trong các bản có dịch chữ “pro multis”của tiếng La-tinh thấy ở đó, lại bao hàm ý nghĩa của di chúc cứu độ mà lại dành cho một số người ít-hơn-là-toàn-thể-vũ-trụ nhờ nhiệm tích chết đi và sống lại của Đức Kitô, như bản tiếng Anh trước đây dịch không sai thành: “for many”. Dĩ nhiên, các bản dịch ấy đều đã hoàn tất trước lúc có tông huấn Liturgiam Authenticam được Thánh Bộ Phụng Vụ ban hành vào năm 2001.
Thêm nữa, từ tháng Chín năm 2010, Hội Đồng Giám Mục Đức cũng bác bỏ yêu cầu của La Mã buộc áp dụng bản dịch mới. Hội Đồng Giám Mục Đức lấy cớ rằng Sách Các Phép lâu nay vẫn được cả hàng giáo sĩ lẫn cộng đồng giáo dân chấp nhận, và đây là một sự kiện hiếm quý. Vì hiếm quý, nên không thể một sớm một chiều dễ thay “bản văn tiếng Đức rất đúng” bằng “những giải thích mới nhưng không quen thuộc” này.
Đặc biệt, văn phạm La-ngữ không có mạo từ, nên cụm từ “pro multis” có thể dịch hoặc “cho một số rất nhiều người” (“for the many”) hoặc “cho nhiều người” (“for many”). Bên tiếng Anh, nếu không đặt mạo từ “the” ở trước “many”, thì tính từ “nhiều” lại là từ ngữ có ý nghĩa co cụm vào một dúm người tuy nhiều, nhưng không mang ý nghĩa của “mọi-người-trên-thế-giới”, tức ám chỉ một số -có thể là một dúm, có thể cả ngàn người- nhưng tuyệt nhiên không phải là đa số, lại càng không thể là toàn thể loài người được.
Về Sách Lễ mới, nhiều vị giám mục người Mỹ đã bày tỏ quan điểm cho rằng một bản dịch sát từng chữ có gốc tự tiếng La-tinh lại có thể tái tạo được chiều sâu ý nghĩa văn bản gốc của Sách Lễ hơn. Có thật như thế không? Nếu vậy, thì dịch tiếng La-tinh một cách mù quáng rất sát nghĩa như thế khác nào người dịch cũng lại sai phạm những lỗi về qui tắc mà các thày cô dạy tiếng La-tinh xưa vẫn sửa lưng học sinh trung học theo môn cổ ngữ, bảo rằng: “Các em đừng ngại thêm mạo-từ hạn-định vào trước chữ nếu như các chữ ấy không rõ nghĩa”. Đấy, dịch tức bội phản có nghĩa là như thế.
Chữ nghĩa con người thật ra không mang ý nghĩa nhiều cho lắm. Nó đi ngược truyền thống trước-sau-như-một của Hội thánh về lời trối trăn rất cứu độ mang tính cách rộng rãi, phổ cập với toàn thể loài người, như vậy mới đúng.”

    Trần tình và giải thích sự việc theo hướng nhà Đạo, thì như thế. Còn tình trần, chẳng bao giờ giải thích kiểu người đời, lại không thế. Vẫn chỉ giải bằng lời ca như thế này:
                        
    “Chiều năm xưa, gót hài khai hoa,
Mắt huyền lưu xuân, dáng hồng thơm hương.
Chiều năm nay, bóng người khơi thương
tiếng đàn gieo oan giấc mộng chàng Trương.”
(Văn Cao – bđd)

    “Tiếng đàn gieo oan” của Trương Chi với giấc mộng, đương nhiên là phải khác tiếng cầu kinh của nhà Đạo, là như thế. Khác hơn, khi các chuyên gia nguyện cầu như vị sĩ tử Dòng Đa Minh tiếp tục phân tích như sau:

“Các bản văn phụng vụ vừa được dịch sang tiếng Anh mà các chức sắc cho là chính xác hơn, hợp niềm tin hơn, thật ra lại được diễn tả bằng thứ tiếng Anh cứng ngắc, giả tạo và dông dài. Và ở đây, trong trường hợp này, không xứng với thần học Đạo Chúa. Không xứng, là vì thiếu tính chất giảng rao Lời Chúa. Cử hành thánh lễ Chúa nhật, là chuyên chở Lời của Chúa một cách hiệu quả nhất cho quần chúng đông đảo trong cuộc sống. Đó là cơ hội hiếm có để Hội thánh đến mà thức tỉnh niềm tin của họ. Phải chăng các lãnh tụ Hội thánh muốn ra dấu bảo rằng: ân sủng Đức Kitô chỉ dành cho một số người thường xuyên đi nhà thờ, theo truyền thống chăng? Phải chăng các lĩnh tụ ấy có ý hướng muốn quên số người còn lại? Càng ngày ta càng thấy như thể thông điệp ẩn tàng bên dưới bản văn viết là một trong các động thái muốn loại bỏ một cách hữu hiệu hơn là thái độ như trước đây quyết gom toàn thể nhân loại vào lời trăn trối của Chúa để được hưởng ơn cứu độ Đức Kitô ban. Nói tóm lại, ngôn ngữ mới của Sách Lễ đây không giúp ích được gì.” (x. Paul Philibert, For You and Who Else, America The National Catholic Weekly 3/1/2011)

    Nói gì thì nói, ta cứ phiếm. Phiếm gì thì phiếm, ta cứ hát và cứ ca. Hát và ca những truyện kể rất dễ hiểu hơn lời kinh, để minh hoạ, như bên dưới:

        “Truyện kể rằng:
Một trai nam nhi chí khí nọ, đến gặp vị bác sĩ thân quen để nói và kể hết chuyện của vợ mình, rằng:            
-Bác sĩ này, tôi e vợ tôi nay điếc nặng. Tôi nói rất nhiều, nhắc đi nhắc lại cũng không thiếu, mà sao cô ấy cứ như không nghe gì hết, thế có chết không cơ chứ!
-Thôi được rồi, không việc mà ầm ĩ thế. Ông cứ nghe tôi. Tôi này về nhà, ông cứ đứng cách vợ mình chừng 6 thước rồi nói điều gì đó thật lớn. Nếu bà nhà không trả lời, thì đứng lại gần 2 thước, và nhắc lại cũng một câu như thế. Cứ tiếp tục làm thế, để xem mức độ nghễnh ngãng của bà nhà nặng đến cỡ nào.
Anh chồng về, tức tốc thực hiện lời bác sĩ dặn kỹ, đứng cách xa vợ đến 6 thước trong lúc bà vợ còn đang chặt thái khúc thịt ở trong bếp, mà hỏi:
-Cưng à! Tối nay mình ăn gì thế?
Không nghe thấy vợ mình trả lời, anh lại đến gần 2 thước nữa, rồi hỏi lại cũng một câu như lúc nãy. Vẫn chẳng nghe thấy vợ trả lời trả vốn đến một câu, anh bèn đến gần thêm 2 thước nữa. Cũng chẳng thấy động tĩnh gì, lời của vợ. Cuối cùng, anh tiến sát đến đằng sau vợ, sợ xảy ra sự cố, và hỏi:
-Em yêu dấu, tôi nay mình ăn gì thế?
Người vợ trả lời ngay tức khắc:
-Đây là lần thứ tư tôi trả lời rồi đấy nhá: thịt bò hầm chứ ăn gì nữa!!!

    Truyện kể chỉ mỗi thế. Không thêm không bớt một điều gì. Chỉ thêm mỗi lời bàn của người kể truyện, là: trong cuộc sống, nhiều người vẫn cứ nói và cứ hỏi. Nói và hỏi mãi một điều. Hỏi rồi nói, lại tưởng rằng chẳng ai nghe. Thực sự, thì có khi chính mình là người có nghe, nhưng không hỏi. Chí ít, là hỏi han hoặc han hỏi.
    Và, nếu người kể hôm nay là người nhà Đạo rất đạo đức, lại ít thích mạn đàm chuyện dịch với phản, tức dịch sách/dịch kinh mà không cần phản hồi, chắc sẽ thêm chỉ một đề nghị, rằng: lời có nói, kinh có đọc cũng nên chú ý đến người nghe, hơn người nói và đọc. Chí ít, là nói và đọc lời kinh xem có thích hợp người nghe chăng. Nghe, là nghe một Lời:

“Anh em hãy làm như Thầy vừa làm
để tưởng nhớ đến Thầy."
(1 Cr 11: 24)

    Và, đề nghị cuối: nghe và làm, vẫn là: dâng lời chúc tụng tạ ơn và bẻ bánh, ấy mới cần. Cần , hơn chuyện giải thích với phân tích một bản dịch. Của ai đó. Nhà Đạo, hay người đời.

    Trần Ngọc Mười Hai
    vẫn lòng nhủ lòng mình
từ nay chỉ nghe và thực hiện Lời Thày
hơn nói hoặc hỏi.
   
44.  “Rồi đây một mai lối xưa tôi về”
“Kể chuyện buồn vui hai đứa mình nghe.
Một gian nhà tranh giấc mơ đềm êm
lắng nghe tiếng nhịp con tim,
hai người gọi chung một tên…”
(Minh Kỳ/Hoài Linh – Nếu Một Mai Anh Biệt Kinh Kỳ)
(Cv 1: 8-9)
Thời buổi này, làm gì còn có giấc mơ xưa, những là “một gian nhà tranh giấc mơ đềm êm”, “lắng nghe tiếng nhịp con tim” để rồi ta cứ ngồi đó mà “kể chuyện buồn vui”, “hai đứa mình nghe”, thôi. Quả thế! Một đứa nghe thôi, cũng đã chết. Huống hồ là, những hai người đều nghe thì làm sao nuốt nổi những tư tưởng rất “tưng bừng”, nhiều sáng kiến. Vâng. Đây, chỉ là những giấc mơ lờ mờ, một giấc mộng rất “xưa rồi Diễm”, của “Diểm Xưa”, mà người anh “biệt kinh kỳ”, đã rồi đây “một mai”, hay mai một, đến như thế?
Ngay cả cụm từ “biệt kinh kỳ” do hai tác giả Minh Kỳ và Hoài Linh sáng chế, tuổi trẻ hôm nay làm sao hiểu nổi, nếu không tra cứu thêm từ điển? “Kinh kỳ” đây, dù người em ở lại dù có hiểu rõ đi nũa, cũng đâu là những kỳ đọc kinh/ngắm kệ hay kể lể về những gì kỳ lạ, của vị kinh sư, rất khiếp kinh ở Israel vào thời ấy. Cũng chẳng là bài thuyết pháp/giảng giải ở nhà thờ về các chi tiết liên quan đến người đời, sống cuộc đời người, ở đâu đó.
“Biệt kinh kỳ”, hay còn là giã biệt kinh đô rất lạ kỳ, chỉ là lời nhắn gửi người anh/người chị thân thương trước khi anh/chị về chốn hoàng hôn chốn lính trận, tìm “tình nào hơn nước non”, thời đó thôi. Kinh kỳ hôm nay, đâu ai chịu giã biệt, lại cứ ùn ùn kéo về thủ đô nước Việt ở phiá Nam, để dân số hôm nay lên những hai chân số, hơn 10 triệu!
Với người đời, “kinh kỳ” (hay còn gọi là “cố đô”) của tâm hồn đã giã biệt, lại là những tính chất “cá biệt” trong nếp sống xưa, cần khai tỏ. “Kinh kỳ” ấy, “cố đô” này, vẫn có thể là như ý nghĩa của truyện kể rất nhẹ nhàng, ở bên dưới:

“Chuyện kể rằng,
có vị vua nọ ngày đêm lo lắng về sự an nguy cho vương quốc mình về những kho báu cũng như ngai vàng của mình, nên nhà vua không còn thấy bình an trong cuộc sống. Ông lại nghi ngờ các vị quan/dân các cấp. Và, tương lai trở thành nỗi hãi sợ, ám ảnh ông.
Từ cung điện cao sang nhìn xuống lớp dân đen/nghèo hèn ồm yếu nhưng hạnh phúc, nhà vua thấy mình thèm được như họ. Thấy nơi họ, toát lên nỗi đơn sơ, chân chất, không lo lắng điều gì về tương lai, mai ngày. Vốn dĩ luôn thắc mắc, với nghi ngờ, nên vua tò mò quyết cải trang thành người hành khất để tìm hiểu xem do đâu mà lớp dân nghèo của nước mình lại bình an, không lo lắng đến tương lai.
Một ngày kia, vua giả dạng người ăn mày gõ cửa nhà một người nghèo để xin ăn. Người nghèo mời ăn mày vào nhà và cùng sẻ san ổ bánh mì với thái độ hân hoan, rất yêu đời. Vua hỏi:
-Điều gì làm ông sung sướng đến như vậy?”
Người nghèo đáp:
-Tôi hân hoan sung sướng vì có được một ngày đẹp. Tôi sửa giày chữa dép chỉ cần kiếm đủ tiền mua ổ bánh cho buổi cơm tối nay, thế là đủ.
Vua hỏi tiếp:
-Thế, chuyện gì xảy đến, nếu mai ngày ông không kiếm đủ tiền mua bánh thì sao?
-Tôi có niềm tin vào mọi ngày. Ngày qua ngày, mọi chuyện cũng sẽ tốt đẹp thôi.
Sau khi ra về, vua muốn thử lại niềm tin của người thợ giày, hôm ấy, bèn ra lệnh cấm tất cả mọi người sửa giày dép không được hành nghề này trong vương quốc của ông nữa. Thoạt khi biết rằng nghề của mình bị cấm đoán, người thợ giày bèn nhủ thầm: “Ngày qua ngày, rồi ra thì mọi chuyện cũng sẽ tốt đẹp thôi”. Lập tức, ông thấy có vài phụ nữ gánh nước ra chợ để tưới rau bán, ông bèn xin được làm chân gánh nước thuê cho họ. Và hôm đó, ông kiếm đủ tiền để mua bánh mì cho buổi tối, thế cũng xong. Tối về, vua ông lại giả dạng người hành khất lại đến thăm người gánh nước nghèo. Gặp vua-giả-dạng-làm-hành khất, người nghèo gánh nước vẫn giữ thái độ ung dung, thư thái với ổ bánh mì đạm bạc, đang nhai, kể lại chuyện gánh nước mướn hôm ấy.
Một lần nữa, để thử thách niềm tin của người nghèo gánh nước mướn, vua lại ra lệnh cấm không ai được phép hành nghề gánh nước mướn trong vương quốc của mình, nữa. Và cứ thế, người nghèo nói trên thay đổi rất nhiều nghề, rất khác biệt. Nhưng, ở nơi ông, vẫn luôn có sự bình an và tin tưởng vào triết lý sống “ngày qua ngày” của mình. Còn vua, vẫn không thể nào hiểu được làm sao người nghèo nước ông lại có được sự bình an và niềm tin chân chất, giản đơn đến thế. Rồi cứ thế, mỗi lần bị cấm hành nghề, người nghèo kia lại cứ thản nhiên tin rằng, “Ngày qua ngày, mọi chuyện rồi ra cũng tốt đẹp, thôi.”
Quá tò mò trước triết lý sống giản dị của người dân nghèo hèn, vua lại ra lệnh cho các quan văn võ trong nước sắp xếp sao để buộc tất cả mọi người nghèo trong nước phải trở thành lính kiểng trông nom canh gác cho cung điện của mình. Thật tội nghiệp cho người nghèo kia, từ nay không được lãnh lương tiền hằng ngày để mua bánh mì mà sống, phải đợi đến cuối tháng mới có. Tính sao đây? Dù vậy, anh ta cũng lại tìm ra cách thức bán gươm đao do trên cấp phát, để có tiền mua bánh mì cho nguyên cả tháng.
Tối về nhà, thế là anh ta lại có bánh mì để ăn, nên vẫn hạnh phúc với triết lý sống “ngày qua ngày, mọi việc rồi cũng tốt thôi.” Vua nghe thế, lại giả dạng dân thường, đến thăm ông và hỏi:
-Lâu nay, ông làm nghề gì để kiếm tiền mua bánh ăn độ nhật, thế?
-Tôi, nay được cất nhắc làm lính hầu ở dinh vua, cũng thấy sướng. Có dư tiền độ nhật.
Rồi, anh đơn sơ kể thật chuyện làm lính hầu ở dinh vua, chỉ lãnh lương lương tiền vào cuối tháng mà thôi, nên đã bán gươm thật đi, đổi lại, anh lấy tiền mua đủ bánh mì cho nguyên một tháng. Để rồi đến ngày lãnh lương, anh sẽ chuộc lại chiếc gươm thật và như thế, có thể tiếp tục được cuộc sống “ngày qua ngày”, tuy đạm, bạc, nhưng rồi cuộc sống cũng tốt đẹp cả thôi”. Không bon chen, giựt giành với người khác. Vua lại hỏi:
-Không có gươm thật, làm sao canh giữ được dinh thự của vua quan?
Anh bèn bật mí cho khách biết:
-Hiện thời, chiếc gươm tôi sử dụng chỉ là gươm giả bằng gỗ, cũng không sao.
Vua hỏi tiếp:
-Nhưng nếu anh bị cấp trên bắt buộc phải rút gươm thật cho họ xem xét thì sao?
-Ngày qua ngày, mọi chuyện rồi cũng tốt đẹp cả thôi.
Quả là, hôm sau người ta bắt được một tên trộm khét tiếng cấp trên quyết định xử chém. Vua quan yêu cầu người nghèo được tuyển làm lính canh kia phải ra tay thực hiện vai trò của tên đồ tể chém đầu tay ăn trộm. Bởi lẽ, vua thừa biết: với chiếc gươm bằng gỗ, người-nghèo-được-làm-lính kia dẫu có ba đầu sáu tay, cũng không thể tuân được lệnh vua ban. Và như thế, xem niềm tin vào triết lý sống “ngày qua ngày, mọi sự rồi ra cũng tốt đẹp cả thôi,” của anh sẽ ra sao. Khi tên tử tội vừa quì mọp dưới chân anh lính nghèo thống thiết nài van anh tha mạng, vì y ta còn vợ còn con nhỏ, phải nuôi dưỡng. Anh lính nghèo nhìn đám đông xung quanh một hồi, rồi hô lớn:
-Lạy Đấng Tối Cao, nếu người này có tội thực, thì xin cho con được phép thi hành lệnh của vua quan ban. Nếu anh vô tội, xin Ngài biến gươm này thành gươm gỗ, để cứu hắn.
Ngay tức thì, anh rút gươm ra chém đầu tên tử tội. Nhưng vì chiếc gươm anh cầm chỉ là gươm gỗ nên tên tử tội không bị giết. Đám đông chứng kiến sự thật như trên, bèn la lên: “Phéo lạ! Quả, đây là phép lạ!” Và, trước cảnh tượng hỡi ôi là như thế, vua bèn truyền lệnh tha cho tên trộm khỏi chết, đồng thời tiến đến người lính nghèo thú thật:
-Trẫm đây, là người giả làm hành khất cứ đêm đêm tới hỏi chuyện ngươi. Từ nay, trẫm muốn anh là bạn và là quân sư cho trẫm.”

Truyện kể rất nhẹ nhàng. Đơn giản. Hơi mang chút ít tích cổ. Nhưng trong phiếm luận đường dài rất lai rai, thì cổ hay tân không là điều quan trọng. Quan trọng là lời bàn của người kể, hôm nay lại dẫn đưa một lời bàn về triết lý của cuộc sống “Ngày qua ngày” có lời lẽ như sau:

“Cuộc sống chỉ quan trọng nhất thời hiện tại. Dù có cả quá khứ lẫn tương lai. Triết lý của thanh niên nghèo kia, là triết lý thực đặt giá trị thực tiễn lên trên tiền bạc, danh chức, sắc dục và quyền lực. Cứ cho đi người đời chỉ quí trọng giàu sang, quyền thế đến thế nào đi nữa, nếu người người hôm nay không sống chân phương/trung thực, thì chẳng thể nào cảm nhận được giá trị của chính cuộc sống ấy. Nếu người người không sống giây phút hiện tại, thì cuộc đời mình cũng chỉ là chuỗi ngày tìm bắt cái bóng hình của “bình an, hạnh phúc”, rất vô vọng.

Hiểu như thế, thì “kinh kỳ” của người đời, chừng như vẫn còn mang tính không gian và thời gian, để lưu luyến. Chẳng thế mà, người đời cứ theo chân nghệ sĩ vẫn hát lời ca thẫn thờ, rất luyến nhớ, rằng:

“Tám hướng bốn phương trời mây
thôi nhé anh đi từ đây
Kỷ niệm nào không có vui hay buồn
chiều nào không có hoàng hôn
tình nào hơn nước non…”
(Minh Kỳ/Hoài Linh – bđd)\

Với nhà Đạo, “kinh kỳ” mà Thầy Chi Ái giã biệt, không phải là chốn miền xảy đến ở không gian có thương đau. Xao xuyến, Có nỗi niềm đầy luyến lưu. Rõ ràng tình huống “kinh kỳ” Thầy giã biệt, là thế này:

“Nói xong,
Người được cất lên ngay trước mắt các ông,
và có đám mây quyện lấy Người,
khiến các ông không còn thấy Người nữa.”
(Cv 1: 9)

Xem như thế, “kinh kỳ” Thầy giã biệt, không là không gian hay thời gian của trần thế, mà là trạng huống qua đó Thầy có rời-nhưng-không-bỏ. Thầy về với Cha, nhưng không quên nhắn nhủ dân con ở lại, bằng những Lời đầy xác quyết:

“Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần
khi Người ngự xuống trên anh em.
Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy
tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari
và cho đến tận cùng trái đất."
(Cv 1: 8)

Xem như thế, thì “kinh kỳ” Thầy giã biệt, là tình huống có sức mạnh của Thánh Thần Chúa ở với dân con, để mọi người rồi sẽ làm nên tất cả. Sẽ, sống hạnh phúc rất đích thực. Không chỉ như quan niệm của thanh niên nghèo hèn vẫn cứ sống “ngày qua ngày”, chẳng lo gì quá khứ lẫn vị lai. Nhưng, tất cả sẽ là nét đặc trưng của cộng đoàn Nước Trời, luôn trông cậy vào Thánh Thần Chúa, đến với mình.
Có thể, có người sẽ ngược giòng lịch sử rồi cho rằng Hội thánh thời tiên khởi cũng hoang mang khi Thầy Chí Thánh về với Cha. Rất có thể, lúc đầu chỉ là những tình cảm sướt mướt, khi không thấy Thầy ở cạnh nữa. Nhưng tình cảm uỷ mị ấy đã được cất đi, để nhường cho những quyết tâm được Thầy dặn dò, một chúc thư:

“Đức Giê-su đến gần, nói với các ông:
"Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.
Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
làm phép rửa cho họ nhân danh
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần,
dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.
Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế."
(Mt 28: 19-20)

Đồ đệ Chúa hôm nay, trong nhiều hoàn cảnh thực tế, hẳn sẽ có vị còn duy trì thái độ ủy mị, khi Chúa “được cất về trời”. Nhưng, cũng có nhiều vị vẫn hiên ngang nhớ lời Thầy dặn dò, để mà sống. Sống oai hung, chỉ biết và nhớ những điều ấy. Mặc cho ai có phê bình chỉ trích mình là người sao, cũng vẫn mặc.
Người đời hôm nay, cũng thế. Có người, cũng liên tưởng đến buổi “Biệt kinh kỳ” của Chúa, để rồi, lúc này hay lúc khác, quyết thực hiện điều Chúa dặn dò bằng phương cách này khác, như giùm giúp cả người dưng khách lạ, dù chỉ một ý kiến nhỏ nhoi, dù cho người đời có coi mình chẳng ra gì, như truyện kể để minh hoạ ở bên dưới:

“Một anh tài xế xe tải làm công việc thường ngày giao hàng cho một bệnh viện tâm thần, đang đậu xe bên cạnh một ống cống nước.
Lúc chuẩn bị rời bệnh viện, anh nhận thấy có một bánh xe bị xì hơi. Anh kích chiếc xe tải lên và tháo bánh xe xì hơi để thay vào đó một bánh xe dự phòng. Lúc sắp sửa gắn bánh xe mới vào, đột nhiên anh làm rơi cả bốn chiếc bù lon xuống ống cống nước. Anh không thể nào vớt những chiếc bù lon ra khỏi ống cống được, và bắt đầu hoảng lên vì không biết phải làm gì. Ngay lúc đó, một bệnh nhân đi ngang qua và hỏi anh tài xế tại sao trông anh có vẻ hốt hoảng như vậy. Người tài xế tự nghĩ, bởi vì mình mà còn không làm được huống gì cái gả điên này, nên để gã ta đi cho khuất mắt, người tài xế xe tải nói sơ qua tình hình và đưa một cái nhìn thất vọng. Người bệnh nhân cười anh tài xế và nói:
-Chỉ mỗi cái việc đơn giản như vậy mà anh còn không cách nào làm được. Không lạ gì anh sinh ra chỉ còn cái nghề tài xế xe tải để sống". Người tài xế lấy làm ngạc nhiên khi nghe lời nhận xét như vậy từ một gã tâm thần. "Đây là cái anh có thể làm", gã tâm thần nói.."tháo một cái bù lon từ mỗi trong ba bánh xe kia và gắn vô cái bánh xe này. Rồi lái xe xuống cửa tiệm gần nhất và thay những cái bù lon còn thiếu vô. Đơn giản quá phải không anh bạn?"
Người tài xế quá cảm kích với lối giải quyết nhanh chóng này liền hỏi người bệnh:
-Anh giỏi và thông minh như vậy sao lại có mặt ở bệnh viện tâm thần này thế?
Người bệnh trả lời:
"Anh bạn ạ! Tôi ở đây bởi vì tôi khùng chứ không phải tôi ngu"…

Quả là, trong cuộc sống đời thường, người nhà Đạo đôi khi cũng bị cho là điên khùng điên khi vẫn hiên ngang sống thực hiện điều Thầy dặn dò, trước khi Ngài “biệt kinh kỳ”, khỏi trần thế. Hôm nay, có lẽ cũng nên liên tưởng đến lời của người khùng nhưng không ngu ở bệnh viện tâm thần, khi anh dám giùm giúp người dưng khách lạ, đang gặp nạn.
Có bị coi là khùng hay điên vì tin vào Lời Thầy sống đúng mực, hẳn bạn và tôi ta đừng sợ. Chí ít, là nỗi sợ bị người người chê bai này khác. Bởi, Thầy đã xa rời đồ đệ là ta, để ra đi về với Cha. Nhưng, Thầy quyết không bỏ mọi người ở lại, dù chốn khùng điên bệnh tâm thần. Thầy không bỏ, nhưng vẫn giữ Lời dặn dò hôm ấy:

“Và đây,
Thầy ở cùng anh em mọi ngày
cho đến tận thế."
(Mt 28: 20)

Quyết như thế, ta sẽ cùng người nghệ sĩ cứ lan man và vui hát lời ca rất kết hậu, rằng:

“Rồi đây một mai lối xưa tôi về”
Kể chuyện buồn vui hai đứa mình nghe.
Một gian nhà tranh giấc mơ đềm êm
lắng nghe tiếng nhịp con tim,
\hai người gọi chung một tên.”
(Minh Kỳ/Hoài Linh – bđd)

Có Thầy và có Chúa ở cùng rồi, thì không chỉ hai người mà tất cả mọi người sẽ cùng “gọi chung một tên.” Tên ấy hôm nay, bây giờ và mãi mãi sẽ là tên và tuổi của người đồ đệ Chúa, rất Giêsu.

Trần Ngọc Mười Hai
Cứ nhớ mãi Lời Thầy dặn dò
Để có cuộc sống yên vui
An bình
Hạnh phúc.


45. “Đường đi đã tới! Lòng dân đã nối!”
“Người tạm dừng bước chân vui, người ơi!”
(Phạm Duy – Con Đường Cái Quan)
(Mt 28: 19-20/Ga 14: 5-14)
Đã lâu lắm, bần đạo mới lại có dịp-nói đúng hơn, mới có thì giờ-mở băng/dĩa ra nghe lại bản trường ca “Con Đường Cái Quan”, của Phạm Duy.
Về bản trường ca này, bạn trẻ Anthony Trần đã có đôi lời giới thiệu tác giả và trích đoạn trường ca “Con Đường Cái Quan” trong buổi trình tấu nhạc thính phòng “Hát Cho Nhau Nghe” ở Sydney hôm 4/6/11 như sau:

“Theo em thì, “Con Đường Cái Quan” là bản trường ca đắc ý nhất của nhạc sĩ Phạm Duy, trong đó ông đưa ra ý tưởng về “Tình Mẹ Việt Nam” như một giòng sông bắt nguồn từ miến Bắc, chảy chầm chậm ngang qua vùng đồi núi nhấp nhô miền Thượng du chập chùng, để rồi đến tận miền Trung, dạt dào chảy về sông Cửu Long và ào ạt tuôn ra biển, mang theo tình tự của Con Đường Cái Quan nay đã tới! Lòng dân đã nối...”

Nói về “Con Đường Cái Quan”, không chỉ là nói và hát về những con đường đất nước “Nối liền lòng dân”, thôi. Nhưng, còn nói và hát về “Con Đường” của dân tộc. Nên, nghệ sĩ họ Phạm đã mời bạn và mời tôi, ta “dừng chân đứng lại”, để nghe người em “xin than đôi lời!” “Đi đâu vội (thế) mấy anh ơi!”
Hát về “Con Đường Cái Quan”, không chỉ là hát và nói về đường đời của mọi người. Ở quê mẹ. Mọi thời. Mà, người ấy/thời ấy vẫn luôn thấy những lời, nghe như sau:

“Người mơ ước tới,
Đường tan ranh giới.
Để người được mãi
Đi trong một duyên tình dài!”
(Phạm Duy – bđd)

Về “Duyên tình dài”, với “Đường Cái Quan”, vẫn là thế. Vậy mà trước đó, bần đạo lại những tưởng: văn chương/ngôn ngữ người đời vẫn nói lên tình tự của đời người. Một đời, có ước mơ của người con đất nước những mong được đi trên “Đường (rất) Cái Quan”, để mà tới. Và, sẽ thấy “đường tan ranh giới”, người người “được mãi đi (và đi mãi) trong một duyên tình dài!” Nay, ngồi nghĩ lại ca từ tràn đầy thi tứ ấy, rày đã hỏi: phải thế không em? Thật thế không anh? Hay, đó chỉ là văn chương thời cổ, vẫn hồi nào? Xưa cổ một thời, như lời người nghệ sĩ rày kết đoạn bài thơ:

“Con đường thế giới xa xôi,
Trong lòng dân chúng nơi nơi!”
(Phạm Duy – bđd)

Với người đời, thì “con đường” thế giới có xa xôi, vẫn ở “trong lòng dân chúng nơi nơi”. Thế còn, con đường nhà Đạo có hằn in như thế không?
Như mọi lần, mỗi khi gặp phải câu hỏi “hơi” gay go, bần đạo lại chọn tư thế cũng rất dễ để rồi sẽ bảo:”Hỏi, tức đã trả lời”, rồi. Nay, sau chuyến công du đường dài xuyên qua gần phân nửa địa cầu, từ Sydney đến xứ Mễ-si-tình...(rất nhiều) cô, rồi bay về đất miền U-ét-A, rất ư là Hoa kỳ, bần đạo đã bắt đầu thấy ngại ngần, rất lần thần. Nên, cứ lửng lơ con cá (rất) vàng, đang bơi lội. Chứ, không còn bạo miệng nói nhanh và nói mạnh như ngày nào nữa. Chí ít, là khi gặp phải lời quả quyết cũng khá “căng” của ai đó, cứ bảo:“Không ăn cắp, không phải người Mễ, không đi trễ cũng chẳng phải ...người Dziệc mình!” để rồi dám tỏ bày sự bất đồng nho nhỏ, để bác bỏ.
Bác và bỏ, là vì bần đạo nay nhận ra rằng: điều này không còn đúng với tình hình thực tế rất chung chung, ở nhiều nơi trên thế giới. Với thời buổi, nơi nào cũng có kẻ cắp ê hề, mà chẳng gặp bà già. Chỗ nào, cũng tràn đầy những người cứ luôn muộn màng, trễ nải cả giờ lễ. Thành thử, bần đạo nay dám mạnh miệng hỏi người/hỏi mình rằng: nên chăng nói lên điều nghịch chống, khi bàn và hát “Con Đường Cái (rất) Quan”, toàn nhà Chúa?
Các “Đường Cái (rất) Quan (lại)” ở nhà Chúa, vẫn thấy khó để có thể hát mãi ca từ được nghệ sĩ già họ Phạm viết ở đoạn cuối, hát rằng: “Đường đi đã tới!”, “Lòng dân đã nối!” Tức, một khi đã quyết dấn bước, thì “Đường Cái Quan (lại)” nhà Đạo mình, có đi hoài và đi mãi, cũng chẳng tới. Và, lòng người đi Đạo, có nối hoài và nối mãi, cũng khó mà “đạt” được điều mình ước nguyện.
Một trong những điều mà dân con nhà Đạo vẫn cứ ước và nguyện, là: có dư và có đủ mọi đấng bậc chức sắc, hoặc đức thày, ngõ hầu người người có thể tiếp tục phục vụ thánh hội rất kết hợp của Đức Chúa, trong tinh thần hiền hoà. Bình yên. Bình bình và yên vui, theo tinh thần noi theo lời Thầy khuyên nhủ ở đoạn cuối Tin Mừng theo thánh Mát-thêu:

“Vậy anh em hãy đi
và làm cho muôn dân trở thành môn đệ,
(Mt 28: 19)

Lời nhủ khuyên “Anh em hãy đi” được trích ở đây, là bước thăng trầm hãnh tiến trên “Đường” đời cũng rất Đạo, quyết qui tụ muôn dân trong họ ngòai làng, thành đồ đệ. Tức, thành những Kitô khác, rất Nước Trời. “Anh em hãy đi và làm”, là đi mà thực hiện ý định của Cha để dân con nhà Đạo mình ở khắp nơi sẽ trở thành đồ đệ thứ thiệt, như Ngài muốn.
Kể cũng lạ! Hôm trước ngày chịu nạn, Thầy cứ bảo: “Ai có tai để nghe, hãy nghe!” Thật ra, tai thì ai mà chẳng có. Nhưng, “có tai để nghe” lại thấy rất ít. Rất ít và cũng hiếm, cả những người có được bộ phận “để nghe, hãy nghe”, rất như thế. Trong khi đó, miệng để nói, lại thấy rất nhiều. Và rồi, sau ngày Thầy sống lại về với Cha, Thầy còn nhủ: “Anh em hãy đi và làm...” Kể cũng vui!
Ai mà chả có chân để đi. Nhưng, có chân thật đấy, mà sao người người vẫn sử dụng nó chỉ để đi chơi. Dạo phố. Hoặc, đi rất mạnh bạo vào chốn chết người. Nơi, có những thú vui xác phàm, rất tầm thường. Vật chất. Thế nên, đã mấy ai trong đời những “đi và làm”, cốt để bàn dân thiên hạ thành đồ đệ Chúa, rất hăng say?
Kể cũng hay! Người thời nay, vẫn cứ đi. Nhưng, họ có đi nơi này/chốn khác, cũng chỉ để giúp mình trở thành “Giáo hoàng tự phát”, có quyền sinh quyền sát lên hết mọi người, ở trong làng hoặc dưới huyện. Nào đã mấy ai rất muốn “đi và làm” cho mọi người thành đồ đệ Chúa. Hăng say. Mọi ngày. Hầu, trở thành Đấng đầy tớ của tớ đầy của Chúa. Thực là thế.
Lại, nhìn vào thực tế nhà Đạo, hẳn người người cũng đều thấy đã có tín hiệu không mấy lạc quan về tình trạng dân con muốn thực thi lời trăn trối của Thầy bằng hành xử, rất quyết tâm. Hành xử, không như lời nghệ sĩ họ Phạm từng khẳng định điểm tới của “Con Đường (rất) Cái Quan” bằng ca từ được hát đi hát lại, nhiều lần:

“Đường đi đã tới! Lòng dân đã nối.
Người tạm dừng bước chân vui, người ơi!
Đường đi đã tới! Lòng dân đã nối.
Người tạm dừng bước chân vui, người ơi!”
(Phạm Duy – bđd)

Quả là thế. Một khi đã dấn bước lên đường để “đi và làm” cho người người trở thành đồ đệ Chúa, thì lúc ấy mọi người đều thấy “đường (hãy đi và làm) đã tới”, “lòng dân đã nối!”. Nối kết, một phấn khởi. Và, người người “tạm dừng bước chân vui”, không biết mỏi. Và, sẽ mãi tươi vui, với “Đường” nhà Đạo, đích thực là Đường Chúa định.
Còn nhớ, về “Con Đường” thực tế ở nhà Đạo, bạn bè thân quen trong giới đấng bậc ở Úc, có lần từng lên tiếng:

“Đường là phương tiện giao thông để ta đến với nhau. Nếu không có “Con đường” thì không ai đến được với ai. Hoặc, nếu con đường nào cũng bị hư hỏng, tắc nghẽn thì việc đến với nhau có thể cũng sẽ gặp gian truân, trắc trở. Tuy nhiên “Con Đường” càng thênh thang rộng mở, thì cạm bẫy càng nhiều. Bạn không tin cứ nhấn hết chân ga trên những con đường siêu tốc, sẽ thấy ngay hiệu quả!
Dĩ nhiên, nói đến “Con đường” thì không phải chỉ là những con đường bằng đất, tráng nhựa, hay xi măng, bê tông cốt sắt. Cũng không chỉ là những con đường ở mặt đất, trên sông biển, hoặc nơi vòm trời, mà phải kể đến những con đường quan trọng hơn như: đường tình, đường thiêng liêng. Và, như anh chị em biết, trên con đường tình ta đi, anh chị và các bạn cũng cần vượt qua mọi gian nan trở ngại để đến với nhau. Và, ta thường nghe: "Yêu nhau, mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua". Trái lại, khi “con đường tình ta đi” bị cách trở, đó là lúc đôi tình nhân lại sẽ ủi an nhau bằng ca từ: ‘tình chỉ đẹp khi còn dở dang’, thôi.
Đường đời có những chỗ quẹo, khúc quanh rất bất ngờ mà ít ai trong chúng ta lại mong nó xẩy đến. Đó có thể là những thất bại trong công chuyện làm ăn. Con cái tự nhiên nổi chứng: đứa này hư hỏng, đứa kia nghiện ngập, đứa khác bỏ học, v.v.. khiến mình phải đối diện với thực tế những phản bội hay lừa dối người thân. Hoặc, người thân của mình lạị mắc phải các chứng bịnh hiểm nghèo, Hoặc, gặp khó khăn trắc trở đủ loại dù chỉ xẩy ra trong thời gian rất ngắn, nhưng mức tàn phá của nó lại rất dễ sợ. Nó làm ta mất đi niềm tin; và ở vào tình huống tương tự, ta lại phải tìm phương thế khác nhanh gọn để giải quyết: như tìm quên lãng trong men rượu, hoặc, quay về với cờ bạc, ma tuý còn tệ hại hơn thú vui thân xác để giải sầu và trốn chạy mọi khó khăn. Để rồi, cuối cùng tất cả mọi phương thức theo “con đường” tắt đó, đều dẫn họ đến ngõ cụt; và để lại một hậu quả có sức tàn phá đậm sâu, lâu dài lên cuộc sống của ta. (x.Lm Mai Văn Thịnh,CSsR Chúa là Đường cho ai? DIA số 74 ngày 01/06/2011 www.giadinhanphong.com)

Lại nhớ, vào những năm sau 1975, bần đạo được xem cuốn phim mang tên “sám hối” của xã hội chủ nghĩa, trong đó có đoạn chiếu một cụ bà đứng giữa ngã ba đường hỏi người qua lại rằng: “con đường cụ đang đứng, có dẫn đến nhà thờ không?” Và khi cụ nhận được câu trả lời là “Không!”, cụ bèn nói: “Đường mà không dẫn đến “nhà thờ”, thì để làm gì? Và bần đạo cũng nhớ lời phẩm bình của cố Gs Nguyễn Ngọc Lan lúc ấy cũng có lời phê, rằng: “Cả cuốn phim mang tên “Sám hối”, có mỗi câu này là giá trị nhất!”. Cũng nên hiểu chữ “nhà thờ” đây không chỉ theo nghĩa đen, mà còn là cung cách sống đạo. Là, trở thành Kitô-khác.
Nay nghĩ lại, bần đạo thấy rất đúng. Sự thực ở đời thường, mọi sự có là “Con Đường Cái Quan” hay “Con Đường (Bố) Cái (Đại) Quan” đi nữa, mà không dẫn về với Nước Trời/Nhà của Chúa, cũng chỉ là con đường một mai sẽ tuột dốc, không “phanh”. Tức, không bố thắng. Chẳng còn cần thiết cho ai hết. Nói gì đến “lòng dân đã nối” kết, yên vui, người ơi!.
Và ở đây, một lần nữa, lại xin dẫn thêm lời bàn cuối của người anh em đấng bậc nhà mình, rất như sau:

“Chúng ta đươc mời gọi cùng đi con đường của Chúa. Đó là bài học Chúa dạy. Ngài là Đường. Là, Sự Thật. Và, là Sự Sống. Ngài là Con Đường Duy Nhất dẫn ta về nhà Cha. Ai muốn đến với Cha phải qua Ngài. Trước thách đố quyết liệt của Tin Mừng như thế, Thánh Philiphê cũng không hơn gì Tôma, dù đã ở với Đức Giêsu, nhưng các thánh vẫn không nhìn ra Chúa là Con Đường Sư Sống dẫn ta vào Cuộc Sống viên mãn của Thiên Chúa. Bởi, như Tin Mừng thánh Gioan vẫn nói: “Ai thấy Đức Giêsu là thấy Cha. (Ga 14: 5-14) (x. Lm Mai Văn Thinh CSsR, bđd)

Cuối cùng là như thế. Sự thật là như vậy. Những cái thế vậy, của cuộc đời. Đời thực tế rất thật, Như mọi sự thật trong đời. Của mọi người.
Để minh hoạ cho khám phá khá xưa này, cũng nên về với truyện kể sau đây:

“Ngày nọ, có gia đình bác nông dân kia gồm hai vợ chồng và một con trai, quyết định cùng nhau lên đường về quê thăm dân cho biết sự tình. Họ thuê một chú lừa con để đi đường, cho tiện.
Thoạt vừa đến ngôi làng đầu tiên, đã thấy dân làng bàn tán rất xôn xao:
-Coi kìa! Nhìn gia đình thiếu văn hoá kia, họ để đứa trai trẻ là thế ngồi chễm chệ trên lưng lừa. Trong khi bố mẹ thì già mà cứ là còm cõi kéo lừa nặng. Nghe lời đàm tiếu khó nghe, người vợ bèn nói với chồng mình:
-Tốt hơn, không nên để thiên hạ đàm tiếu về con trai yêu dấu của mình, e rằng con mình sẽ mang tiếng suốt đời.
Thế là, người chồng đỡ con xuống, rồi chính mình ngồi lên lưng lừa cho đỡ miệng tiếng. Kịp đến làng thứ hai, lại nghe thiên hạ dị nghị:
-Kìa xem! Cái tay dẫn lừa bần tiện kia. Ai đời, lại cứ để vợ con mình è cổ kéo lừa cho mình sung sướng, ngồi chễm trệ ngang nhiên như thế chứ!
Nghe vậy, toàn gia quyết định để người vợ ngồi lên lừa đi một quãng khá dài, còn hai cha con chịu khó kéo lừa đi thăm làng khác. Đến nơi, lại nghe thiên hạ phẩm bình:
-Thật tội! Đám này chắc suốt cả ngày làm việc cặm cụi đến quên cả thở nên mới phải cuốc bộ để cho vợ ngồi không, sung sướng! Đúng là kiếp đàn ông tối ngày ở đợ, cũng rất hèn. Sao mà họ lại có thể chịu nổi người đàn bà biếng nhác, đến là thế.
Cuối cùng, họ quyết định cả ba đều ngồi trên lưng lừa, tiếp tục đi. Đến làng kế cận, lại thấy người trong làng cứ thế bàn tán:
-Trông kìa! Đám người này chắc thuộc loại biếng nhác tệ hơn cả loài thú. Không chừng, chú lừa con này sẽ gãy xương, chỉ vì họ…
Sau hết, cả ba quyết định xuống lừa, cùng đi chung với loài thú, cho đỡ bị nói. Tới làng khác, cũng lại nghe:
-Bà con cô bác lại đây mà xem, đám người ngu si đần độn này, có lừa mà không biết hưởng, cứ là phải cuốc bộ để lừa vinh thân!…
Và, cả nhà đều nghĩ: sao mình làm gì cũng bị người đời chê bai bình phẩm đến thế. Bộ, họ không có việc gì để làm hay sao thế? Sao cứ suốt ngày ngồi bình phẩm lẫn chê bai người khác, không vậy?.”

Nghe hỏi, hẳn bạn và tôi, ta cũng thấy ở đâu đó một lời bàn. Từ người kể. Để rồi, nghĩ lại, mới thấy triết lý dấn bước lên đường vào đời, dù có đi trên “Con đường cái quan” hay “đường đời đi Đạo” hay chăng nữa, cũng chẳng làm sao tránh khỏi thói đời miệng tiếng, rất thị phi.
Tựu trung thì, sống ở đời, dù đi theo con đường nào đi nữa, chỉ nên theo lập trường mình đã chọn. Cứ hành xử theo lương tâm chỉ dẫn. Hoặc cứ cảm nhận thỏai mái, theo ý mình. Cũng như vậy, ta nên nhường đường, nhịn lối cho người khác được đi. Giúp họ “đi tới” bằng những chọn lựa, chứ không chỉ theo đúng con đường mình đã lỡ chọn.
Bởi, “đường đời” ta đi, cuộc đời ta sống, luôn là bi kịch không cho phép ta lập lại một điều gì. Dù đó có là sơ hở nhỏ. Thế nên, hãy cứ hát cười. Cứ, yêu thương và cứ sống sao cho trọn mọi thời khắc cuộc đời. Sống từng công đoạn của “đường đời”. Dù, đường ấy có là “con đường cái quan”, hay chỉ là đê làng bé nhỏ. Cũng thế.
Và hạnh phúc trên đường đời đi Đạo, của bạn và của tôi, cũng tuỳ vào chọn lựa của mỗi người. Có thế thôi.

Trần Ngọc Mười Hai
Nay học được nhiều điều
từ “Con Đường Cái Quan”.
Của đời mình.
























MỤC  LỤC
Lời Bạt
1. “Mắt đã một chiều thu hoen lệ sầu” ………………………………………………..       
2.”Kẻ thù ta đâu có phải là người” …………………………………………………….
3. “Năm xưa khi tôi bước chân ra đi” ………………………………………………….
4. “Kể từ em đem cô đơn” ………………………………………………………………
5. “Một ngày như mọi ngày” …………………………………………………………….
6. “Bài thánh ca đó còn nhớ không em?” ……………………………………………..
7. “Ừ thôi em về!” ………………………………………………………………………….
8. “Sao không thấy em lại?” …………………………………………………………….
9. “Yêu người như suối cuộn rừng sâu”………………………………………………..
10. “Ta vẫn thương người yêu dấu cũ” …………………………………………………
11. “Không! Không! Đến với tôi nữa làm gì!” …………………………………………..
12. “Về đây nghe em!” …………………………………………………………………..
13. “Có lứa đôi yêu nhau rồi”…………………………………………………………….
14. Đừng, lừa dối nhau”………………………………………………………………….
15. “Thời gian nào trôi bền bồng?” ………………………………………………………
16. “Anh ơi có bao nhiêu? 60 năm cuộc đời”……………………………………………
17. “Mây có bay và em có hay”…………………………………………………………..
18. “Áo nàng vàng anh về yêu hoa cúc”………………………………………………..
19. “Nếu, nếu một ngày không có em”……………………………………………………
20. “Ơn em thơ dại từ trời”……………………………………………………………..
21. “Chiều đi về đâu?” ………………………………………………………………………
22. “Sợi buồn con nhện giăng mau”…………………………………………………….
23. “Từ khi trăng là nguyệt”………………………………………………………………..
24. “Lời mẹ ru con đến những khu vườn” …………………………………………….
25. “Tình có ghi lên đôi môi”………………………………………………………………..
26. “Chiều nay sao dâng nhanh mầu tím?” ……………………………………………..
27. “Cho nhau hết những mê say”…………………………………………………………..
28. “Người em gái đứng im trong hồi lâu” ………………………………………………..
29. “Thôi thì thôi, để mặc mây trôi”………………………………………………………….
30. “Khi mặt trời vắng bóng”………………………………………………………………..
31. “Từ một nơi xa xôi”………………………………………………………………………
32. “Đừng trách người ơi, tội thân em”……………………………………………………
33. “Tôi kể người nghe đòi Lan và Điệp”…………………………………………………..
34. “Sàigòn bây giờ trời mưa hay nắng?” …………………………………………………
35. “Hà Nội ơi! Những ngày vui đã qua đi”…………………………………………………
36. “Em còn nhớ hay em đã quên?” …………………………………………………………
37. “Nghe tiếng thời gian êm đềm trôi”……………………………………………………
38. “Rồi đây, mây xám bay qua rồi”………………………………………………………….
39. “Lìa nhau cho tim bốc cháy”……………………………………………………………..
40. “Dù đến rồi đi, tôi cũng xin tạ ơn người” …………………………………………………
41. “Đưa em về dưới mưa”………………………………………………………………………
42. “Non nước u buồn nào”……………………………………………………………………….
43. “Hồn cầm phong sương hình dáng xuân tàn”………………………………………………..
44. “Rồi đây một mai lối xưa tôi về”……………………………………………………………..
45. “Đường đi đã tới! Lòng dân đã nối”…………………………………………………………















PHỤ  LỤC

















TRAO ĐỔI TÂM TÌNH GIỮA NGƯỜI ĐỌC VÀ NGƯỜI VIẾT:


Nguyễn Minh & Hoàng Thị Thuyết, Sydney
16/10/2009

Anh chị thân mến, 
Chân thành cám ơn cuốn sách quý báu của anh gửi cho chúng em. Những chia sẻ về kiến thức cùng qua kinh nghiệm trong cuộc sống giữa "Đạo & Đời" được anh ghi lại là những món ăn tinh thần và những món quà rất quý báu trong đời sống người Kitô-hữu. Được thực sự tiếp xúc với anh chị thì khi đọc sách càng hiểu thêm về đức tin trong cuộc sống hiện  thực.... Lòng chân thành của chúng em không biết diễn tả thế nào để anh chị hiều, nhưng chắc chắn là tất cả những chia sẻ và tình thương mến của anh chị dành cho chúng em và các cháu sẽ luôn được ghi khắc và trân quý.
Chúc anh chị và gia đình được mọi sự tốt đẹp nhất. Xin Chúa chúc lành cho anh chị và các con cháu.
Thân quý
 MT

Hồi đáp của Trần Ngọc Mười Hai:

Thăm anh chị Minh-Thuyết,
Cám ơn anh chị đã có lời hỗ trợ và khuyến khích, thật ra đây chỉ là những san sẻ tâm tình thân mến gửi đến anh chị & gia đình.
Thân mến 
MaiTá   

Nguyễn Hùng Cường, Cựu Đệ Tử DCCT Nam Cali
21.10.09

Thưa anh Tá kính mến,
Chưa đọc xong tập 1 và 2, lại nhận được tập 3. Chân thành cảm ơn anh, vì với khả năng Chúa ban cho anh, anh đã không giữ lại cho riêng mình. Rõ ràng anh đã quan tâm và quảng đại chia sẻ tâm tình đạo & đời với mọi người.

Đọc vài chục trang ở tập 1 và tập 2, Cường thấy anh đã nêu gương cho anh em Cựu đệ Tử và thân hữu tinh thần Duc In Altum  giữa đời. Dĩ nhiên, anh em mình đang sống giữa đời. Cường nghĩ viết PHIẾM cũng dễ mà cũng khó. Dễ vì nhìn thấy sự việc xảy ra hằng ngày thế nào trong cuộc sống đời thường, rồi viết xuống, là điều cũng nhiều người làm được và đã làm. Nhưng khó là ở chỗ mình suy nghĩ ra sao về những sự kiện đó cho đúng để có được một ‘nhân sinh quan’ thích ứng với Lời Chúa, để rồi có thể chuyên chở cảm thức đó vào trong cảm nghĩ và tâm thức của người đọc.

Mà nói đến tâm thức là nói đến cái gì thật riêng tây nơi mỗi người, dễ gì mà xâm nhập vào được nếu chính chủ nhân của tâm-thức đó không sẵn sàng mở ra và đón nhận. Anh Tá đã làm được việc vừa dễ vừa khó đó. Cái hay nữa là chuyện PHIẾM của anh “xâm nhập” một cách nhẹ nhàng nhưng không gây “rộn ràng và xáo trộn” gì cho đến khi người bị xâm nhập nhận ra tâm thức mình ‘thấm nhập’ (chứ không còn bị xâm nhập nữa) và chấp nhận một cách thoải mái. Đọc không thấy chán và còn muốn đọc thêm. Đó là thành công của người viết, nếu hiểu theo bình diện thông thường của bất cứ một cuốn sách nào, không kể đạo đời. Trong khi đó, PHIẾM của anh lại mang trách nhiệm đưa đời vào đạo  thì lại có ý nghĩa hơn ở khía cạnh thành công. 

Xin Chúa chúc lành.
Chúc anh trung thành với ‘ơn gọi chia sẻ’ này.
Mến

Lm Giuse Châu Xuân Báu, CSsR Nam Cali:
5.11.2009

Nhận được thư hồi âm anh gửi, biết anh vẫn mạnh và hăng say làm việc tông đồ bằng ngòi bút: mừng ơi là mừng. Cám ơn anh đã gửi cho “ Chuyện Phiếm Đạo Đời” cuốn 1 và 2, đã đọc xong? Rất hay và bổ ích... mình có “muợn tạm” nhiều ý tưởng trong “chuyện phiếm” rồi biến chế để dùng cho các bài chia sẻ với anh chị em giáo dân bên này... xin anh tha cho cái tội “ presumitur phép tắc” này!

Nếu anh thương tình cho đọc cuốn 3 nữa thì tuyệt vời.
Việc Cha Trường Luân qua Úc: Mình có giới thiệu Anh và các Anh Chị Cựu Đệ Tử và một ít thân hữu khác ở Sydney cũng như ở Melbourne... rồi để tuỳ ngài xếp đặt sao cho phù hợp với thời giờ và công việc ngài đã dự tính thực hiện. Có thể chuyến đi này sẽ không được nhiều ngày vì ngài rất ư là bận rộn. Xin các anh các chị và các Cháu giúp lời cầu nguyện cho công việc chung.

Các Anh Em Cựu Đệ Tử miền Nam Cali cũng đang trên đà phát triển về mặt tinh thần. Mình tuy đã cao tuổi nhưng cũng cảm thấy vui vì được các Anh Chị Em quí mến cho được đồng hành và tham dự mọi sinh hoạt đều đặn hàng tháng.

Cha Giám Tỉnh VN Phạm Trung Thành cũng đã đến dự Mừng Ngân Khánh Phụ Tỉnh hải Ngoại và Lễ Thánh Hiến Đền Đức Mẹ HCG tại Nhà Dòng Houston trước khi đi dự Tổng Công Hội ở Roma. Lần sau khi đến USA mời anh quá bước tới Texas thăm Đền Đức Mẹ tại Houston và Nhà Dự Tu tại Dallas nhé.

Nhớ nhau trong JMJA
T.B. Anh (xin được xưng hô như vậy cho thân mật trong tình gia thất) ở Seattle về lại Long Beach chiều Thứ Hai, ngày Lễ Các Đẳng Linh Hồn. Vừa vào phòng thì CPDD 3 (Em tặng cho, gửi hỏa tốc) đã nằm trên bàn từ bao giờ...Mừng ơi là mừng.
Cám ơn Em nhiều lắm.

Anh đã đọc “tắt”, i.e. lật trang đầu đọc Lời Bạt (của Chú Vũ Nhuận) rồi lật đến trang cuối, Phụ Lục (của nhiều Anh Chị Em): lời nào cũng hay vì chân tình: Tạ Ơn Chúa cũng tạ ơn Tất Cả các Anh các Chị nữa (Còn các đoạn giữa Anh sẽ từ từ đọc tiếp ... và rồi chắc chắn cũng sẽ phải xin được “praesumitur” phép của Em Mười Hai... như đã thư lần trước...)

Xin Chúa chúc lành cho những dự tính của Em và gia đình trong những năm tháng sắp tới cách riêng trong năm 2010.
Thân ái,
Oremus pro Invicem,
CXB.

Phúc đáp của người viết:
06.11.09

Thăm đàn anh rất kính mến,
Được anh chiếu cố đọc cho mấy trang sách vụn vặt nhưng tình tiết lung tung như CPDD là cả một hân hạnh rất đáng quý. Những lời khích lệ của ông Anh rất đáng được đàn em trân trọng. Xin Anh cứ việc sử dụng các nội dung hoặc hình thức của bài viết ....Đó cũng là dụng đích của đàn em khi viết những giòng chảy linh tinh ấy, thôi.
Chắc chắn là trong những giòng ấy, cũng có nhiều tư tưởng không được “rập khuôn”, “đúng luồng” cho lắm. Xin Anh cho vài lời giáo huấn để đàn em biết mà noi theo.
Ngoài ”chuyenphiemdaodoi” và “ suyniemloingai” được lên trang blog (Anh cứ vào Google đánh mấy chữ dính liền ấy, sẽ thấy các trang của đàn em) tụi em còn đưa  ra những bài viết, những tinh hoa của Dòng mình, trên trang mạng www.giadinhanphong.com hoặc www.giadinhanphong.blogspot.com, xin mời anh có dịp vào thưởng ngoạn nhé. Tất cả cũng chỉ để làm sáng Danh Chúa và phục vụ Giáo Hội và Dòng Thánh mà thôi.

Xin Anh Báu chúc lành và thêm lời nguyện cầu cho đàn em với.
Sở dĩ nói “đàn em” là vì trong công việc này có rất nhiều bàn tay đóng góp từ gia đình An Phong như Vũ Đức Nhuận, Nguyễn Duy Lâm, và MaiTá (Mai là tên gọi của bà xã chuyên edit các bài viết mỗi tuần của bọn em)

Cám ơn anh Báu đã có giòng chảy phản hồi rất thân tình.

Lm Nguyễn Văn Viên, Đại Chủng Viện Vinh-Thanh, Việt Nam:
7.11.09

Thầy Tá kính quí,
Xin lỗi thầy, mấy hôm nay em không có dịp tiếp cận Internet. Em vừa đi tĩnh tâm về.
Cám ơn sự quảng đại của thầy trong việc gửi tặng tài liệu quí báu mà thầy đã dày công soạn thảo nhiều năm. Chắc chắn rằng nhiều người trong giáo phận Vinh và các nơi khác sẽ được hưởng công lao khó nhọc của thầy. Nếu được phép thầy, em sẽ nhờ đưa lên trang web của giáo phận (giaophanvinh.net).

Em đang cố gắng dùng chương trình phù hợp để mở tài liệu. Hiện tại, máy em chưa mở được các files có đuôi là “txt”. Nếu có gì không ổn. Em sẽ nhờ thầy định dạng các files có đuôi là “.doc” để em mở ngay tại máy của em.

Em đã được báo tin là có số tiền 1000 AUD từ nhóm Nhớ Bạn Nghèo của thầy tặng làng Kinh Thanh, miền núi Quảng Bình. Có lẽ hôm nay em sẽ nhận được. Khi nào nhận được, em sẽ tin thầy biết.
Em,
Nguyễn Văn Viên

Hồ Kim Sơn, Biên Hoà VN:
13.11.09
Em đã nhận đươc 8 đĩa (5,6,7,8,9,10,11,12).
Buổi tối nghe thấm lắm. Dung lượng vừa đủ. Giọng đọc truyền cảm và rất chuẩn. Nhạc nền và nhạc minh họa chừng mực. Cám ơn anh và cả nhóm nhiều.
Hồ Kim Sơn
Cựu Đệ Tử DCCT, Biên Hoà

Nguyễn Thiện Bản, Illinois Hoa Kỳ
18.11.09

Chào anh MaiTá,
2 tuần vừa rồi bị bệnh cảm cúm, hôm nay vẫn chưa khỏi, nhưng cố gắng viết cho anh đôi giòng. Bài “Hãy Nói về Cuộc Đời” anh viết thật công phu. Chứng tỏ sức sáng tác của anh vẫn còn dồi dào, chưa cần đến sự tiếp tay cầu nguyện của bạn bè.
2 CDs của anh, em đã nghe nhiều lần và sẽ còn nghe nhiều lần nữa. Nói chung thiệt hay. Chẳng những ý tưởng câu văn mà còn giọng đọc thật quyến rũ, diễn tả được cái ý của người viết. Khi nào trong người khỏe hẳn, tâm hồn thơ thới sẽ viết tiếp cho anh.
Thân ái
Thiện Bản

Phúc đáp của người viết:
19.11.09

Anh Thiện Bản thân mến,
Nghe anh nói là bị cảm cúm, cũng mong là đó không phải là cúm heo, cúm gà, thì tốt quá. Bên Úc này, họ đang cho chích ngừa cúm heo miễn phí. Thế mà bọn tôi vẫn lười chưa chịu đi.

Về CDs, anh nhận được tới số mấy rồi? Vũ Nhuận vừa hoàn thành xong thêm CD số 14, hay hơn mấy CD kia, trong đó có bài tôi đọc xong bà xã nghe rất ưng ý, vì truyền cảm và truyền được ý nghĩa chính của bài viết. Cũng xin anh cho tôi biết ngay anh có được bao nhiêu CD rồi, tới số mấy, để tôi gửi tặng anh thêm như quà Giáng Sinh, nhé. Tiền gửi chỉ mất một hai đô, nên anh đừng ngại. Cảm ơn anh đã có “phản hồi” rất cảm kích, khích lệ tôi viết tiếp và đọc tiếp. Cầu mong anh được mau khoẻ. Về việc in sách, tôi đã viết xong đủ 45 bài cho cuốn 4 rồi. Chắc cũng phải ra Giêng mới tính chuyện in ấn được.
Cũng xin Anh cầu nguyện thêm cho tôi được ơn Chúa Thánh Thần soi sáng nhé.
MaiTá

Phạm Quỳnh Tín – Hoàng Dung, Louisiana Hoa Kỳ
1.12.09

Anh chị Tá thân kính,
Tín và Dung đã nhận được quà của anh chị- rất cảm động về sự ưu ái của anh chị- Tín Dung không có gì đáp lễ - chỉ biết nghe CD và cầu nguyện Chúa ban nhiều hồng ân cho anh chị và gia đình.
Xin chúc anh chị và gia đình một Mùa Giáng Sinh tràn đầy hạnh phúc.
Tín sẽ copy gởi tặng vài người bạn để mở nghe trong lúc lái xe- anh cho phép nhé!!!
Rất thân kính
Tín Dung

Trần Ngọc Báu, Thuỵ Sỹ
2.12.09

Tá thân mến,
Mình chờ đến hôm nay nhận được báo Mục Vụ trong hộp thư nhà mình, mở ra xem, và thấy đúng là có bài Thánh Ca Buồn của Tá (do mình gọt lại cho vừa khuôn khổ của tờ báo nhỏ này), và còn mở lại máy điện toán dò xem “người ta” in có hoàn toàn văn vẻ của “bọn mình” không, rồi mới tường trình cho Tá hay rằng: Quả là bạn đã cứu bồ, đúng lúc rồi!!!!
Đây, Tá mở bài đính kèm và xem tài gọt dũa của mình, có sai trái với ý của Tá nhiều quá không?! Thì ra, bài Noel là để nhắc lại ý nghĩa của Thánh lễ: Vui lên đi, ta cùng nhau nhập tiệc thánh mà. Làm gì có “Thánh ca buồn”!
Cám ơn Tá đã cứu bồ thật đó, vì mình lúc này lười viết bài, đến khi “người ta” đòi thì chạy vắt giò lên cổ tìm....
Báu.

Lm Nguyễn Văn Viên, Đại Chủng Viện Vinh-Thanh VN
4.12.09

Thầy Tá kính quí,
3 tài liệu của thầy đã nằm ở Server của giáo phận. Cho đến lúc này (9am, giờ Việt Nam), số người tải tập 1 là 60, tập 2 là 37, và tập 3 là 34.
Thầy vào trang http://giaophanvinh.net/, sau đó vào mục Thư Viện Tài Liệu (bên trái màn hình). Ba cuốn sách của thầy đã có ở đó. Muốn download thì nhấn vào tiêu đề của bài, sau đó về cuối trang màn hình nhìn vào dãy số ở Mã Kiểm Tra, rồi lặp Lại Mã Kiểm tra đó (tức dùng bàn phím nhập vào dãy số giống như ở Mã Kiểm Tra), kế đến nhấn Download. Tài liệu sẽ được mở ra để xem hoặc tải về lưu trữ.
Nếu có gì không ổn, thầy cho em biết.

Em cũng rất mừng khi được tin Chuyện Phiếm Đạo Đời được phổ biến tại Trung Tâm Mục Vụ Sàigòn.
Mừng Chúa Giáng Sinh, em xin gửi đến gia đình thầy lời cầu chúc sức khỏe và bình an. Xin Chúa Giáng Sinh luôn nâng đỡ thầy cô và con cháu.
Trong tâm tình yêu mến và biết ơn
Em
Nguyễn Văn Viên

Nguyễn Minh Vọng, Sydney
14.12.09

Chú Mai Tá rất kính mến,
Con gửi email cho chú đã từ lâu rồi, từ khi nhận được cuốn sách của chú, nhưng khi coi lại địa chỉ email của chú con thấy đã gửi không đúng địa chỉ.
Gia đình chúng con cảm ơn chú thật nhiều đã gửi cho cuốn sách do chú viết. đây là cuốn sách rất thú vị.

Nhân dịp Giáng Sinh và Năm Mới, gia đình con xin kính chúc cô chú và gia đình nhiều niềm vui và hạnh phúc. Nguyện xin Thiên Chúa ban cho cô chú và gia đình nhiều ơn lành trong mùa GS và Năm mới này.
Kính
Minh Vọng Nguyễn & Hương và các cháu.

Người viết gửi Nguyễn Thiện Bản, Illinois Hoa Kỳ
15.12.09

Thiện Bản ơi,
Mình vừa nhận được 3 CDs anh gửi tặng vào sáng nay. Đang thưởng thức. Cám ơn anh rất nhiều. Thì ra Thiện Bản cũng là dân Bắc kỳ di cư, như bọn mình? Như thế là, ta “cùng một thuyền” nên dễ cảm thông. Cảm thông nhất là: mỗi người một kiểu, anh em mình phổ biến chuyên rao giảng theo cung cách khác nhau, nhưng cũng là Bắc kỳ di cư cả? Nói Bắc kỳ di cư, tức là nói mình cũng có nhiều kinh nghiệm và cảm xúc về mục vụ. Về cung cách chuyển tải thực chất của Tin Mừng, cho người khác.
Kinh nghiệm và cảm xúc của riêng mình, là lo tìm những gì mới lạ cả về tư tưởng lẫn phương cách. Làm việc này, không phải lúc nào cũng trơn tru, xuôi sắn. Chính vì thế, mà mình rất cảm kích khi nghe các bản nhạc do anh Thiện Bản sáng tác. Hy vọng, tâm tình các cảm xúc ấy sẽ thấm dần trong người mình.
Cảm ơn anh Thiện Bản rất nhiều.
Cứ thế mà suy tư và sáng tác nhé....để lập lại tư tưởng của Thiện Bản: Chúa có được bao nhiêu người  ... hiến thân cho Ngài trong ...mục vụ, như Thiện Bản?
Xin cám ơn trời.
Cám ơn đời , là vì thế.
Đừng quên cầu nguyện cho nhau.
MaiTá

Kim Ngân, Sydney
30.01.10

Hello Cô Mai & ChúTá,
Dạo này Cô & Chú có khoẻ không?
Mới đầu năm mà đã lu bu quá...con cứ định email cho Cô Chú mãi đến giờ mới góp ý kiến được. Con thấy CDs Chuyện Phiếm Đạo Đời hay ở chỗ:
1.    Đề tài rất thực tế nên người nghe rất dễ gần gũi và liên tưởng đến
2.    Có xen lẫn nhiều bài hát rất hợp với chủ đề
3.    Thay đổi cách trình bày – khi thì một người, lúc khác hai người theo kiểu đàm thoại
           nên không khí được thay đổi và luôn hấp dẫn người nghe v.v...

Con nghĩ lúc nào thích hợp Cô Chú cho thêm nhạc đệm làm “background” có lẽ cũng hay.
Mến chúc Chú & Cô thành công trong việc xuất bản Tập 3.
K imNgân

Trần Kim Phụng, Sydney:
01.02.10

Anh Tá,
Thật tình mà nói thì em có cái thú là thích đọc sách, những lúc rảnh rỗi em cứ đọc hết thứ này đến thứ kia, đọc rồi quên và rồi đọc lại...gần đây mấy quyển sách “Chuyện Phiếm Đạo Đời” của anh là một trong những quyển sách mà em hằng thích đọc. Đọc đi và đọc lại mới cảm nghiệm được sự trân quý của nó.

Cám ơn anh đã rất nhọc công viết và dẫn giải từng chữ từng câu, thận trọng từng câu từng ý hầu dẫn dắt người đọc nhìn thấy trước mắt mình một đáp số cho những gút mắt của mình, trong chuyện đời chuyện đạo và là những chuyện thường ngày nhìn thấy... và rồi đi loanh quanh vẫn về chốn cũ là chuyện của những Phúc Âm, Thánh Vịnh...và rồi thì lời Chúa dạy thế này thế kia... vì em thì hạn hẹp chữ nghĩa nên vợ chồng em nhất trí cho rằng ...đó là Thần Học. Chẳng biết dùng chữ như thế có chính xác không nhưng chúng em thì nhất trí như vậy. Bởi vì có những lúc đi nhà thờ Cha trên bục cứ giảng hăng lắm.. mà em thì chẳng hiểu và chẳng thấm gì, sau cùng thì “Cha giảng chẳng có Thần Học gì hết trơn”. Tuy rằng em cũng chẳng hiểu Thần Học là gì?

Thật đó anh Tá, em phải cám ơn anh đã giúp cho em hiểu rõ hơn về đạo, bởi vì bản thân em là đạo theo, từ đầu đến với Thiên Chúa qua lòng mến vì đó là đạo của anh Dũng, sau đó cũng có được đức tin vì em cũng may mắn được học đạo với các thầy đầy tâm huyết và được chỉ bảo do ông bố của một người bạn thân, ông chỉ là một ông già người Bắc di cư, vợ mất sớm, ở vậy đạp xích lô nuôi 3 đứa con ăn học, nhưng ông sống rất thanh sạch, giỏi chữ nho, đọc sách xưa tu thân, viết những lời răn của thánh hiền bằng chữ thư pháp trên vải lụa để răn con cháu, dạy lời Chúa cho con cháu, trong đó có em, bằng lời nói và bằng chính đời sống thanh bạch và thấy đủ hằng ngày. Không vì  đạp xích lô  mà không có được sự kính trọng của những người chung quanh.

Trở lại chuyện phiếm đạo đời, anh đã cho em biết và hiểu thêm rất nhiều chẳng hạn như tiến trình của chuyện phong Thánh, chuyện ăn hay không những thức ăn cúng kiến của người ngoài đạo...tóm lại có nhiều cái mà người đạo theo như em không biết và không thông giáo ly hay giáo luật của đạo mình.

Em có con nhỏ bạn rất thân từ còn VN, 3 chị em nó sống độc thân từ trước đến giờ, từ trước 75 đến giờ lúc nào cũng chỉ biết góp công góp của cho công việc của giáo hội, sống khắc khổ còn hơn các bà Sơ, nó hay thường nói “ông Dũng mày ăn cơm nhà Chúa là phải trả đó nghe, nhớ nhắc ổng vậy...” anh Dũng thì chưa thấy nhưng em thì thấy anh trả lại rất nhiều qua các bài viết mỗi chủ nhật và qua 3 quyển sách phiếm này đó anh Tá.

Tóm lại, mục đích chính là cám ơn anh đã có công viết lách, sách hay lắm và chúc anh nhiều sức khỏe để phụng vụ Chúa qua những chuyện phiếm như vậy.

Kính
Tkp- Nguyễn Phụng

Hồi đáp của người viết

Phụng ơi,
Rất cám ơn Phụng đã viết lời phản hồi khá dài và tâm đắc nữa. Nhưng, tôi không dám nhận những lời khen như thế đâu. Tổn thọ và rất dễ mất ân huệ. Vì đã được nhiều rồi, từ mọi nơi. Chỉ dám nói thế này thôi, là: mình ăn cơm nhà Chúa nên múa tối ngày, là vậy đó.

Thật ra, tất cả cũng chỉ là một cố gắng nho nhỏ trong hành trình kiếm tìm Chúa, thế thôi. Bản thân tôi, chỉ dám tự nhủ rằng mình chưa hiểu hết được những gì mình đọc và viết nữa thì làm sao mà hướng dẫn người khác được chứ? Chỉ là: có một lúc nào đó tự nhiên thấy mình rung đùi cảm kích được những vần thơ/câu nhạc và thấy là: hình như có cái gì trùng hợp, quen quen khi mình và người đều nói đến tình yêu. Bởi Đức Giáo Hoàng còn dám gọi “Thiên Chúa là Tình yêu”, thì tôi đây nhiều lúc cũng dám nghĩ “tình yêu không là Thiên Chúa”, nhưng chắc cũng phải là một thứ ma lực nào đó, một thứ thánh thiêng nào đó thúc đẩy mình đến với Chúa thôi. Chị Mai cũng là đạo theo, từ ngày lấy chồng nhưng nay cũng cảm nghiệm được nhiều điều còn hơn người đạo gốc nữa.

Phụng và Dũng thương tình thì thêm cho tôi vài lời nguyện cầu. Chỉ mong có thế. chứ không dám nhận cho mình những lời khen ngợi hay như thế. Cám ơn chị Phụng một lần nữa.
MaiTá
 
Nguyễn Đức Tuyên, Phong Trào Cursillos Nam Cali
13.02.2010

Anh Tá,
Tôi đã nhận được CD anh gửi cho. Tôi để trong xe và nghe rất thích thú. Xin cám ơn anh rất nhiều. Nhân dịp Năm Mới, kính chúc anh chị và gia đình được mọi sự Tốt Lành.
Tuyên

Phạm Quỳnh Tín & Hoàng Dung, Louisiana Hoa Kỳ:
25.02.2010

Cám ơn huynh nhiều lắm
Cứ theo như sự tự thú trong các bài phiếm thì huynh chắc chắn là người bước vào đời trước đệ- tuy nhiên huynh còn “sung“ lắm.  Đệ gởi đến huynh tấm hình “không hẹn mà gặp” (hai ông kẹ tay xỏ túi quần đầu cũng đội bérét) để thấy đệ đến sau nhưng xem ra lăn lóc rãnh mương thế trần hơi nhiều nên sương trắng bọc phủ cả mái đầu....

Đệ nghe CD của huynh nhiều lần và RẤT thích...cách dung từ RẤT của huynh.
Huynh thâu CD trong phòng thâu đó hả? Ngầu ghê.
Đệ có giới thiệu về huynh với một ông anh ở Michigan, tên là Nguyễn Phúc Lộc khoảng 71, 72 gì đó- nếu không trở ngại vì anh thích nghe CD của anh.

Xin chúc anh chị an khang- khỏe mạnh để sản xuất thêm nhiều con tinh thần.
Thân kính
Quỳnh Tín

Hồi đáp của người viết:

Anh Tín ơi,
Tuy anh thua tôi chừng 1, 2 tuổi nhưng phải tôn anh làm sư phụ mới đúng. Vì, anh vừa có tài cắt dán hình (may mà không dán hình tôi với cô đào “núi lửa” nào đó thì bỏ mẹ tôi rồi!). Vừa nhận định không thua ai. Những từ ngữ tôi sử dụng chỉ là bắt chước một vài bậc tiền bối mà tôi không còn nhớ tên, thôi. Tôi nhớ, có lần một linh mục trẻ là du học sinh đến Úc học lấy tiến sĩ (nay đã về rồi, tên anh ấy là Peter Nguyễn Văn Viên, Phó Giám đốc chủng viện Vinh-Thanh) có nói: đọc bài của “Thầy” Tá nghe như có chất giọng của Cha Nguyễn Thế Thuấn và Thầy Nguyễn Ngọc Lan...Tôi bèn trả lời: “Không dám đâu!”. Các vị đó là bậc thầy của tôi đấy. Tôi chỉ muốn ghi lại cho thế hệ đàn em những tư tưởng mà tôi được hấp thụ, còn các em thì không có được cơ duyên và bầu khí ấy. 

Thành thử, bào đệ ơi, bào đệ sẽ thấy trong các bài của tôi viết thế nào cũng có nhiều chữ “RẤT” như sau này...
Cám ơn anh.
Cầu nguyện cho nhau là hay nhất, chứ đừng quá khen nhau nhé.
MaiTa

Hồi đáp của anh Phạm Quỳnh Tín, thêm lần nữa:
25.02.10

Cám ơn huynh, đệ rất thẳng, chưa hề biết nịnh ai. Nhờ có dịp nghe và nghiền ngẫm mới thấy cái tuyệt của nó- thích thì nói thích, chứ đệ không quá khen đâu- huynh chuyển CD cho đệ là để nghe, nghe đi nghe lại và thích- có những bài phiếm vừa nghe vừa cười ... thế thôi-
Chúc huynh tỷ khang an
Quỳnh Tín

Lm Yuse Tiến Lộc CSsR, thời gian ở Mỹ:
13.03.10

Anh chị Mai Tá thân mến,
Đến Mỹ được gần hai tuần rồi. Sang đây Giảng Mùa Chay tổng cộng 7 xứ đạo tất cả. Tuần vừa rồi ở San Diego, tuần này ở Nhà Thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm Orange County.
Những tuần còn lại cho đến Lễ Phục Sinh 5 xứ tại Seattle.
Cũng may nhờ mấy bài Suy Niệm của Trần Ngọc Mười Hai mà mình có thêm chất liệu để giảng.
Thanks.
Sau Phục Sinh mình còn ở lại  thêm mấy tuần nữa để làm Trại Huấn luyện cho Hướng Đạo và Thiếu Nhi Thánh Thể.
Rất cám ơn anh chị.
Hôm nay giảng ở nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm có gặp anh Cử, chị Oanh, chị Dung, Chị Chi... em Phú (sinh hoạt của nhóm The Knights of Columbus, mình cũng mới gia nhập!)
Còn ngày mai nữa
Thân ái in JMJAQ
Yuse Tiến Lộc CSsR

T.B. Anh Cử dặn tuần lễ trước khi về lại VN phải dành cho anh chị và gia đình một ngày.

Phạm Quỳnh Tín, Cursillos Louisiana Hoa Kỳ:
15.03.10

Huynh kính,
Huynh có tấm hình chụp nguyên Ban Thâu Âm gởi cho đệ một tấm nhé- Mấy tuần nay nghe  CD của huynh thấy tâm hồn nhẹ nhõm và nhiều lúc cười tủm tỉm một mình trên xe, people thought I was crazy.
Chúc huynh và gia đình khang an
Đệ
QT

Chị Têrêsa Nguyễn Thị Phượng, trong GĐAP của cha Louis Qui:
14.03.10

Thân gửi anh Tá,
Tôi đã nhận được đầy đủ tất cả số báo Anh gửi hai lần. Cám ơn anh rất nhiều.
Vâng, thưa Anh tôi sống trong “gia đình gió lành” của cha Louis Qui gần 18 năm, căn nhà nghèo nhưng giàu tình thương đã tiếp đón rất nhiều khách quí từ bốn phương đặc biệt các cha, các thày và các anh cựu đệ tử DCCT.

Cách nay đã 20 năm, tôi có đươc theo Cha sang Úc dịp Cha giảng Noel,  tôi ở nhà bác Kim (nay đã mất), đến thăm anh chị Phước, nhưng chưa được hân hạnh biết Anh, nhưng văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình, tôi rất vui thích đọc các bài Anh viết và nghe bộ CD Anh gửi qua Pháp.
Các nội san anh gửi cho tôi, sau khi đọc xong tôi sẽ đưa cho các anh cựu đệ tử ở đây như anh Phạm Long, Anh Trần Quang Phục, trước đây tôi liên lạc thường xuyên với Bác Cẩn và anh Triệu Ngọc Toàn, và như anh đã biết, bác Cẩn đã về quê hương sống, và Anh Toàn đã về quê hương thật. Tôi đã chứng kiến trước khi hạ huyệt các anh hát bài O! Ma Mère.
Tôi thật khâm phục tinh thần đoàn kết nhớ về nguồn của các Anh, mà không phải Dòng nào cũng được vậy.

Tôi sẽ rất sung sướng, trân trọng nhận được nội san trong tương lai của Anh. Xin Chúa – Mẹ Hằng Cứu Giúp – Thánh An Phong chúc phúc cho tất cả gia đình các anh, những người đã dùng lời văn tiếng nói đem niềm vui cho người khác
Chào anh
Phượng

Đinh Hồng Thắng – Hồng Anh, Sydney:
26.03.10

Kính thăm Anh chị,
Cám ơn anh chị đã gởi rất nhiều CD cho Thắng và Hồng Anh, cũng như những cuốn sách Chuyện Phiếm Đạo Đời của Anh trước đây, Thắng và Hồng Anh rất trân trọng, một lần nữa cám ơn anh chị rất nhiều.
Dường như những bài viết, những CD càng về sau này, càng hấp dẫn, khiến người nghe cứ phải nghe tiếp, nghe tiếp .... để biết kết cuộc ra sao! Anh đã làm môt công việc rất ý ngĩa, ước mong Anh luôn thành công trong việc viết lách, hầu phục vụ người khác và ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống mai sau của những thế hệ đi sau.
Gần Phục Sinh, Thắng và Hồng Anh cầu chúc gia đình Anh chị luôn vui vẻ, khỏe mạnh, hiệp nhất trong ngày vui Chúa sống lại (kèm đây Thắng gửi Anh 1 money order, gọi là tiền chi phí bưu phẩm)
Kính
Nguyễn Hồng Thắng

Đặng Văn Tuế, Melbourne:
30.03.10

Em đã nhận được những CD từ số 10-18 về Chuyện Phiếm Đạo Đời của anh gởi. Các anh chị đọc hay quá, em rất thích. Có audio book thì ”đọc” khi nào cũng được: đang lái xe, đang nồi computer.v.v...
Cám ơn anh rất nhiều về món quà đặc biệt này.
Thân mến
Tuế

Hồng Tuấn Minh, Louisiana, Hoa Kỳ:
8.04.10

Gửi tác giả Trần Ngọc Mười Hai,
Xin được gửi vào Dũng Lạc, cuốn sách “Chuyện Phiếm Đạo Đời” tập II, còn tập I có đăng rồi. Xin cám ơn  anh Mười Hai.
Hồng Minh Tuấn

Lm Andy Trần Cao Tường, Louisiana, Hoa Kỳ:
9.04.10

Cám ơn tác giả Trần Ngọc Mười Hai với những Chuyện Phiếm Đạo Đời dí dỏm ý nghĩa. Mạng Lưới Dũng Lạc xin chân thành ghi nhận, và xin tiếp tục gửi những bài hoặc sách khác nữa, để có thể làm một trang riêng với tên TNMuoi Hai.
Xin Chúa chúc lành
Lm Trần Cao Tường
 
10.04.10
Cám ơn đã gửi Chuyện Phiếm DD 3.

Xin hỏi thêm Trần Ngọc Mười Hai là linh mục, tu sĩ hay giáo dân và cỡ tuổi nào để biết đường mà xưng hô cho phải phép. Vì Trần Ngọc Mười Hai gửi sách và bài là một đóng góp lớn cho Tủ Sách Dũng Lạc, và cho nhiều người được nhờ.
Xin tạ ơn Chúa và xin Chúa chúc lành.
Andytuong@gmail.com
Mạng Lưới Dũng Lạc

Hồi đáp của người viết:
11.04.10

Anh Tường thân mến,
Trước hết cho gọi nhau như thế cho nó đúng tinh thần của Tin Mừng. Về tuổi tác của mình ngang cỡ tuổi của Nguyễn Hoàng Đoan sj và chỉ dưới Khuất Duy Linh sj có vài tuổi thôi.

Về quá khứ của mình, đã có nói trong phần phụ lục của sách “Chuyện Phiếm Đạo Đời” tập II, tức: chẳng là gì cả. Không phải linh mục, tu sĩ hoặc Giám mục gì hết, mà chỉ là một phó thường dân Nam Bộ, hay còn gọi là giáo dân hạng thứ, hạng chót thì đúng hơn, vì sau 13 năm sống cuộc đời tu trì, sắp sửa chịu chức 5, 6 và linh mục thì thằng bé tên là Trần Ngọc Tá (Mười Hai tức là Tá) bèn xin thôi, để làm kiếp phận nghèo của một giáo dân. Cũng mới chỉ học được 2 năm thần học, nên không dám để danh xưng nào hết. Bản thân thì “bần đạo” là học trò của Lm Hoàng Diệp CSsR hồi mới vào lớp “sixième”, học trò của Lm Chân Tín, Lm Nguyễn Thế Thuấn và Anh Nguyễn Ngọc Lan hồi còn ở Học Viện DCCT, dưới anh Trần Ngọc Báu (có tên trong gia trang Dũng Lạc) đến gần 10 lớp và trên Ls Nguyễn Công Bình (cũng có tên trong Dũng Lạc) một lớp thôi.

Nay, thấy đời mình không còn bao lăm (vì cũng xấp xỉ thất thập rồi còn gì), nên muốn để lại chút gì cho thế hệ đàn em linh mục và giáo dân đôi ba ý tưởng mà mình thụ giáo từ các bậc thầy thân thương, thuở trước mà các em không có cơ hội hưởng “luồng gió mới” ấy mà thôi.
Vẫn rất mong được đóng góp đôi giòng với tủ sách và trang mạng Dũng Lạc và một vài trang báo khác, để bà con sống Đạo cho vui, cho hợp tinh thần của Tin “Mừng” (chứ không phải Tin Buồn hoặc “Thánh Ca Buồn”), nếu anh Cao Tường có thì giờ đọc một vài trang “Phiếm” sẽ thấy rải rác các dự định này trên trang viết thôi.

Vài lời cũng để làm thân và hiệp thông cộng tác với nhau trong chương trình “rao truyền Lời Chúa”, nên rất mong được anh em trong nhóm Dũng Lạc hỗ trợ.
Bọn này cần được anh Cao Tường chúc lành và nguyện cầu cho.
Thân mến
Mai Tá hay Trần Ngọc Mười Hai cũng chỉ là một

Lm Trần Cao Tường, Louisiana Hoa Kỳ:
13.04.10

Cuối tuần có đại hội Lòng Thương Xót Chúa nên hôm nay mới gửi email lại bái kiến “đại ca” là vừa. Gọi là đại ca vì tuổi chắc chắn là hơn rồi.
Cám ơn anh đã cho biết kỹ lưỡng về gốc gác như vậy. Như thế thì mới hiều 12 là gì = Tá (dozen). Không phải là phó thường dân đâu mà là cỡ đại ca rồi đó, vì cũng đã ăn nhiều bao gạo trong nhà Chúa.
Sẽ làm một trang riêng để giữ những bài viết và sách của anh.
Tôi thì học ở tiểu chủng viện Phú Nhuận Sàigòn, rồi từ năm 1967 đi học ở Rome, như vậy đa số thời gian cũng như cả đời Lm là ở ngoại quốc! Vì thế mà cố gắng làm được cái gì mong phục vụ được.
Xin Chúa chúc lành bình an và niềm vui trong Chúa Phục Sinh tràn trề nhựa sống
Trần Cao Tường

Hồi đáp của người viết:

Anh Tường thân mến,
Tôi thuộc nhóm An Phong, tức con cháu thánh An-Phong-sô, cũng là người Ý....như thế là anh em mình có duyên với nhau rồi đấy. Anh học ở Roma từ 1967, nếu theo nhóm Opus Dei thì lúc này cũng phải lên tới Hồng y hoặc Đức ông chứ chẳng chơi. Tôi đoán thì ngài cũng chỉ xấp xỉ lục tuần thôi, nhưng cứ gọi nhau bằng đại ca/tiểu ca cho nó tiện. Và đừng bái nhau mà làm gì, bởi tuổi trẻ bây giờ tài cao lắm, còn tôi đang đi dần vào bóng tối cuộc đời. Cũng chỉ lai rai viết vài bài để lại cho hậu duệ nào mất cơ hội từ khoảng thời gian 1975 - 1984 không được tự do tiếp cận nguồn tư tưởng thời thượng. Cũng chỉ là ao ước nhỏ muốn chuyển đạt tới các em lớp dưới một ít tư tưởng của bậc thầy là các Linh mục Nguyễn Thế Thuấn, Đinh Khắc Tiệu (một trong những người khai phá phong trào Chúa Thánh Linh ở VN), Chân Tín, và cựu Lm Nguyễn Ngọc Lan,  tất cả đều cùng một lò Cứu Thế cả.

Bản thân tôi mới chỉ ra nước ngoài từ 1991 thôi, mặc dù vẫn ao ước được đi du học ngay từ hồi mới vào Đệ tử viện năm 1956.

Hỏi nhỏ anh Cao Tường là: anh có quen biết Dòng Tên ở VN nhiều hay không mà làm sao kiếm được bài viết của các ông này nhiều thế? Tôi vẫn coi Lm Hoàng Sĩ Quý sj và Kim Định là thầy mình dù chưa một lần giáp mặt.

Thôi, vài hàng tâm sự với anh cho đỡ tủi thân của một kẻ gọi là “trâu chậm uống nước đục’ ở ngoại quốc.
Anh Tường chúc lành và thêm lời nguyện cầu cho tôi với nhé.
Cám ơn anh đã hồi âm thư của tôi.
MaiTa

Hồi đáp của Lm Trần Cao Tường, người sáng lập trang Dũng Lạc, ở Hoa Kỳ:
16.04.10

Thăm anh 12
Tôi vừa tạo gia trang riêng mang tên để dễ tìm, ở cột trái mục Văn Học Nghệ Thuật cũng đang đưa tập Chuyện Phiếm 3:
http:// www.dunglac.org/index.php?m=module2&id=633
trong đó hiện mới có một bài viết. Hôm rồi anh có gửi mấy bài liền mà nó chạy đâu mất rồi! Vậy xin gửi lại một số bài ngay để đưa lên cho ra một gia trang.
Rất cần những bài viết giá trị và tác phẩm để Tủ Sách thêm phong phú.
Xin Chúa chúc lành cho anh.
Trần Cao Tường
Về Cha Tiệu:
Cha Tiệu mới mở lớp Kinh Thánh cầu nguyện 18 tuần ở đây, ngài đang ở Houston từ VN qua giúp các khóa. Tôi dự từ đầu đến cuối, rất hay và tác động. Vùng này cũng đang rất mạnh về Thánh Linh.
Tôi đã trên 60 rồi đó, không còn trẻ gì, cố mà làm được chuyện gì thì làm kẻo không kịp. Con cháu thánh Anphong thì càng phải chạy nhiều hơn.

Anh Nguyễn Phúc Lộc, Hoa Kỳ :
16.04.10 

Cám ơn Cụ TRẦN NGỌC MƯỜI HAI và cũng cám ơn anh QUỲNH TÍN  đã cho tôi cơ hội gặp Cụ qua 18 CD với những chia sẻ chân tình hữu ích, những chuyện phiếm đạo & đời là những bài học, những đoạn Thánh kinh nhắc nhở, những đoạn nhạc chọn lọc rất đúng chỗ, đúng lúc làm người nghe không nhàm chán. Đồng hành trên đoạn xe dài với bà xã là những cơ hội rất tốt để mở CD nầy bởi vì nhiều lần nghe, bà xã tôi đã bật cười thành tiếng và rồi góp phần chia sẻ thảo luận tay đôi lan man ra nhiều vấn đề hữu ích khác, đoạn đường đi ngắn lại, tới đích lúc nào không hay.
Trước đây, chúng tôi đã chỉ biết TRẦN NGỌC MƯỜI HAI qua DIỄN ĐÀN GIÁO DÂN, nay thì hình dung biết được nhiều về cụ. Những người ở lớp tuổi 75 như tôi, ở tận miền Bắc hẻo lánh nước Mỹ, bận rộn nhiều thứ lỉnh kỉnh mà đã nghe qua được bộ CD 18 dĩa ắt hẳn phải có gì đặc biệt lôi cuốn đáng ghi nhận. Công lao TRẦN NGỌC MƯỜI HAI thật đáng hoan nghênh.
Cám ơn cụ TRẦN NGỌC MƯỜI HAI
Cám ơn anh Quỳnh Tín
Nguyễn  Phúc Lộc

Nguyễn Như Bá & Thanh Nghị, San Jose Hoa Kỳ:
8.05.10

Anh chị Tá thân,
Cảm ơn Anh chị thật nhiều đã gửi bộ 18 dĩa CD Chuyện phiếm đạo đời cho Nghị Bá.
Bộ CD thật ý nghĩa và dầy công biên soạn, cập nhật chuyện đạo, đời thật hay mà lại thể hiện lời Chúa qua Kinh Thánh... nghe là phải “nhìn trước ngó sau” và nhất là nhìn vào tâm hồn mình ...
Lại học được thêm nhiều điều mới...
Cảm tạ Chúa đã cho Anh sức khỏe, khả năng kiến thức, tâm huyết và sự kiên trì để thực hiện bộ CD nầy. Nghị Bá đang hỏi cách để cà phê cà pháo trái cây đến phụ Anh chút đỉnh để lấy lại sức mà làm tiếp.
Cảm ơn Anh chị lần nữa.
In His Love
Như Bá -Thanh Nghị Nguyễn

Nguyễn Duy Lâm, Cựu Đệ Tử DCCT, Sydney:
20.05.10

Anh Tá ơi,
Tin nóng....
Lời Bạt CPDD 4 đã được đưa lên www.tranngocmuoihai.blogspot.com
Luôn tiện xin mời bà con vào download mp3 (tên bài đọc sẽ tu bổ) – có gì trở ngại cho em biết.
-eLam

Lm Mai Văn Thịnh, CSsR Úc:
20.05.10

Anh chị Mai Tá và Vũ Nhuận ơi,
Chúc mừng cả người viết chuyện phiếm cũng như người viết tựa. Thật tuyệt diệu.
Không quảng cáo rầm rộ, nhưng cũng đánh vào lòng người nghe những điểm then chốt. Không dài lắm nhưng đủ tập trung để khỏi mất thời gian của bạn đọc.
Chúc mừng anh Nhuận.
Gừng vẫn còn cay.
Hy vọng với đà này anh mà viết thì cũng không thua anh 12 bao xa. Mỗi người một góc độ để nhìn và để nhắm. Nói chung ngẫm và nhìn rồi xoáy vào lòng người đọc, để cho họ phải có thái độ là “ơn gọi” của anh em mình .
Chúc mừng quí anh chị.
Thân ái
Mai Văn Thịnh, CSsR
Kew, Melbourne
21.05.10

Mõ Làng Gia Đình An Phong, ở Sydney:
Allo Allo

Mõ làng Sydney xin gõ mõ mà thông báo rằng thì là: Chi Hội trưởng GDAP Sydney là Nguyễn Duy Lâm vừa hoàn thành xong MP3 gồm 18 CDs có tác giả đọc các bài Chuyện Phiếm Đạo Đời tập I và II và bài “lời bạt” cuốn CPDD số 4 lên trang blog
www.chuyenphiemdaodoi.blogspot.com hoặc www.tranngocmuoihai.blogspot.com còn nóng hổi vừa thổi vừa ...nghe.
Xin mời xin mời
Cũng nên giới thiệu bà con bạn bè trang này vì là một thành phẩm tập thể do nhiều người anh em thực hiện.
Mõ Làng Sydney xin gõ mõ

Trần Kim Phụng, Sydney:
22.05.10

Anh Tá, Chị Mai ơi,
Đặc biệt cám ơn anh đã cho em biết thêm những điều em chưa được biết qua.
Anh có lối viết để đặt vấn đề dễ hiều, nhưng rất lôi cuốn, bài viết của anh nhìn chung có thể ví như là giòng thác đang chảy, nhìn từ xa thì sẽ thấy nó mềm mại như giải lụa nhưng khi đến gần thì sẽ gặp ... ào ào của giòng thác đó, mạnh mẽ, rất ngạc nhiên. Giòng nước đó len lỏi qua nhiều ghềnh đá, khi mạnh mẽ khi êm dịu và rồi cũng đến được nơi chốn bình yên mà anh muốn nói đến... Thiên Chúa và tình yêu của Ngài.

Khi đọc những  bài viết của anh, lúc nào em cũng cảm thấy là phải đọc thật nhanh ...cho mau hết, không hiểu gì thì sẽ đọc lại không sao, xin thưa vì em muốn đọc mau xem coi anh sẽ kết thúc như thế nào, em vẫn thích nhất những câu kết cứ như là tự nhủ hoặc tự thú của anh, chẳng hạn như:
“Trần ngọc Mười Hai
Vẫn cứ chờ
để nghe mùa thu tới 
Mùa yêu thương
của Đạo trong đời..”
lúc nào cũng làm cho người đọc ngạc nhiên và thích thú,
cám ơn anh lần nữa
Thân mến
Tkp

Trần Quang Phục, Cựu Đệ Tử DCCT Nam Cali
25.05.10

Xin chúc mừng Tá, và đồng chí Lâm thật nhiều .....
Sau này có để lên mạng các bài nhạc nữa không ????
Cha Phụng & Cha Tiến Lộc có thực hiện ở VN nhiều bài thánh ca (hợp ca) rất hay đó ....
Tqphuc

Hồng Tuấn Minh, Louisiana Hoa Kỳ:
28.05.10

Xin lỗi cho em/con hỏi về tên tác giả: Mai Tá và Trần Ngọc Mười Hai là 1 người hay hai. Bên Thanhlinh.net đề tên cả 2 người. Hiện tại em/con để tất cả bài viết dưới tên Trần Ngọc Mười Hai... Xin cho biết, phải để tên làm sao.
Xin cám ơn tác giả
Tuấn Minh (post bài lên Mạng Lưới Dũng Lạc)

Lm Trần Cao Tường, Mạng Lưới Dũng Lạc:
29.05.10

Báo cáo với đại ca là đã nhận được gói CD Đại ca gửi rồii.
Đa tạ,
Sẽ mở ra tuần tới để xem sẽ đưa lên bằng cách nào.
Xin Chúa chúc lành cho đại ca
Trần Cao Tường

Nguyễn Thiện Bản, Illinois Hoa Kỳ:
7.06.10

Thân ái chào anh Mai Tá,
Thật có lỗi với anh vì lâu nay hơi vắng email cho anh.
Hôm nay, chiều Chúa Nhật, ngồi đọc 2 bài cùa anh “Nếu anh còn trẻ...” và “Em đến thăm anh..”. Cả 2 bài thật tuyệt sắc. Em đọc một lèo rất say mê. Hi vọng nhiều độc giả khác cũng được hưởng những ơn phước như em khi đọc bài của anh.
Chúc anh một tuần thật đẹp và ý nghĩa.
Thân
Thiện Bản

Lm Anthony Nguyễn Hữu Quảng, Phó Giám Đốc VietCatholic:
7.06.10

Cám ơn anh. Đêm qua tôi về tới nhà gần 1 giờ sáng vì đi chuyến bay cuối, nên sáng nay mới vào net và đưa bài anh lên Vietcatholic rồi, anh vào vietcatholic.net để đọc.
Cám ơn những tác phẩm của anh và suy tư của anh dành cho Dân Chúa và vietcatholic nhe
Chân thành
Anthony Quang SDB

Hồi đáp gửi Giám Đốc báo Dân Chúa Úc Châu:
7.06.10

Anh Quảng thân,
Như đã bàn, xin gửi anh một số bài đã viết và đặc biệt 3 cuốn Chuyện Phiếm Đạo Đời đã từng tải lên hai trang www.dunglac.org và www.giaophanvinh.net. Riêng cuồn số 4 chưa đưa cho website nào để upload, ngoại trừ gửi về Dòng Chúa Cứu Thế là gốc gác của tôi, để nhờ in. Anh cứ toàn quyền sử dụng, để làm sáng Danh Chúa. Từ nay về sau, Dân Chúa Úc Châu hoặc bất cứ truyền thông nào có anh trong đó cần đến (như VietCatholics chẳng hạn), qua anh, đều cứ tự do sử dụng tác quyền hoặc bài viết hàng tuần của tôi. Ngoài ra, tôi cũng xin đính kèm một vài bài có tính cách thời sự đối với Giáo hội nói chung.
Chỉ xin anh một phép lành với tư cách là linh mục và lời cầu nguyện cho tôi còn sức để tiếp tục công cuộc tông đồ bằng truyền thông, thôi.
Cám  ơn anh. Đừng phiền khi tôi gọi bằng Anh nhé. Như thế mới thân mật. Chứ ai mà tôi gọi bằng Cha, là tôi không thân.
Mai Tá

Nguyễn Minh Tâm, Sydney:
8.06.10

Ông Nội Alistair ơi,
(Hồi sáng sớm ngồi máy đước một tí thì bị “XỈN” luôn cho tới giờ....chắc là suốt ngày nay rồi)!
Vừa mở Vietcatholic lên thì thấy ngay bài của Trần Ngọc Mười Hai liền, bài đầu tiên và mới nhất.
Tôi đọc một mạch cho đến hết luôn. Đây phải nói là một trong một số những bài tâm đắc nhất có chiều sâu về nội dung của Đạo và thông tin thời sự, mặc dù không cần phải nói rõ về chi tiết thời sự hiện nay của giáo hội VN.

Tôi rất là thích những bài viết như loại này. Cám ơn ông nội Ali.
Bây giờ đã ra mắt public rộng lớn hơn, dĩ nhiên sẽ là động cơ để tư duy nhiều hơn để viết sâu hơn.
I am very proud of you to be my “anh suôi” !
Tâm
Tái bút: Bị “XỈN” nhưng cũng có viết ít hàng để vận động trí óc 1 tí kẻo để nó bị “ frozen” mất.

John Trần Chung, Mạng Lưới Cầu Nguyện,Nam Cali:
8.06.10

Cám ơn anh Tá đã gởi bài.
Đã nhận được CD anh gửi.
Cám ơn anh nhiều đã luôn nghĩ tới Chung. Xin Chúa chúc lành cho anh chị và gia đình.
Chung

Hồi đáp của người viết:
9.06.10

Anh Chung ơi,
Tôi cám ơn anh mới phải chứ. Vì anh là người đầu tiên tôi gặp trong chuyến Mỹ du năm 2007, tôi tìm được nguồn hứng (chắc chắn nhờ Chúa Thánh Linh) để viết. Và từ đó đến nay, tôi vẫn nhớ ơn trang mạng www.thanhlinh.net và vẫn quyết tâm gửi bài cho anh đầu tiên, để khỏi quên những hứng thú mình nhận được từ người anh em của thanlinhnet.
Thành thử, nếu anh thấy tôi thường xuyên gửi bài, gửi CDs MP3 hoặc sách tôi viết, thì cứ nhận nơi đây tấm lòng thành của tôi.
Tôi vẫn có quyết tâm cảm tạ và ghi ơn những người đã tạo cho tôi được nguồn hứng, trong sống Đạo.
Anh Chung ơi,
Anh có thương thì xin cho tôi đôi lời cầu nguyện để tôi dừng ỷ lại vào mình mà đi trệch đường mà Chúa Thánh Linh vạch sẵn cho tôi.
Trên đường đời tôi gặp nhiều người như thế, nên rất sợ.
Cám ơn anh lần nữa và xin cứ tiếp tục hiệp thông với nhau, dù chỉ 1 hàng ngắn gọn, anh Chung nhé.
MaiTa

Khổng Đức Nhuận, trang net TâmLinhVàoĐời:
14.06.10

Trước hết xin báo cáo cho anh tin vui là bài của anh thiên hạ đọc nhiều hơn những bài khác những bài thuộc Tâm Linh nơi báo của mình khó gặm qua, rất ít người chịu vào cánh cổng tường nặng nề này.
Còn môt cách khác nữa
Nhuận sẽ gởi qua thơ điện tử..
Chắc chắn sẽ có nhiều người đọc hơn nữa
Mến
Khổng Nhuận

Nguyễn Thị Bạch Huệ, Sydney
25.06.10

Thưa Chú,
Em thật cảm động khi nhận được package do chú  gởi với các CD (có nét chữ viết tay thật đẹp của chú). Cám ơn chú đã gởi đến em của ăn tinh thần. Em đang nghe bài “Giờ mình có nhau rồi – chuyện phiếm đạo đời 18”. Em đã nghe và thích giọng đọc của anh Vũ Nhuận, không ngờ giọng đọc của chú cũng truyền cảm nhẹ nhàng như vậy.
Cám ơn chú một lần nữa.
Như vậy thì em có thể an tâm cất CD của chú vào trong audio collection của em để dành sau nầy về hưu em từ từ có giờ thưởng thức những tác phẩm giá trị mà em collect nhưng không có thời gian đọc.
Vài hàng em kính thăm cô chú
Bạch Huệ

Lm Tiến Lộc CSsR:
28.06.10

Dear MaiTa,
Tuy rất bận những mỗi lần check mail thấy bài của Tá, mình cũng cố gắng đọc qua một lần, chỉ tiếc là không có phương tiện Print ngay tại chỗ, vì mình check mail trên cả chục computer khác nhau ở khắp mọi nơi “trên đường trường rong ruổi”.
Càng ngày càng cảm thấy ông bạn cố tri của mình viết HAY QUÁ! Càng viết càng hay! Đó là lẽ thường ...nhưng đàng này lại có thêm Lý tưởng Tông đồ DCCT, con cái thánh An Phong, mà là ‘CON CƯNG’ mang tên Anphongso nữa nên việc rao giảng bằng media ‘chuyện phiếm đạo đời’ được Thánh thần thổi mạnh là chuyện tất nhiên thôi.

Nhiều người trong số bạn bè của mình rất tâm đắc với cách viết của bồ. Thùng sách sau cùng Bạn Khuê đem sang Mai Thôn, vì mình đi vắng xa, nên có nhờ Cha Phó của mình (JB Nguyễn Công Nghiêm) phổ biến giùm ....

Hẹn thư sau
Thân ái In JMJA
Yuse Tiến Lộc CSsR

Phạm Văn Phúc, Tin và Sống, Sydney:
8.07.10

Nhận được 2 CD, xin cám ơn
Anh chị Mai & Tá thân,
(Also to: Anh Kim Linh)
Cám ơn anh Tá vì tôi nhận được 2 CD anh gửi qua đường Bưu điện.
Có nhiều điều thú vị giữa ĐẠO & ĐỜI!
Mến
Phúc, Sydney

Lm Trần Cao Tường, Mạng Lưới DũngLạc:
8.07.10

Chúc mừng đại ca đã “phi lạc” sang Tây mẫu quốc để học một sàng khôn đưa về mà chia cho thiên hạ. Đang kiếm người để giúp đưa MP3 lên. Xin cứ gửi, rồi xếp dặt đưa lên.
Xin Chúa chúc lành cho đại ca.

10.07.10
Cám ơn đại ca lại đã gửi thêm cho một CD mới nhận được nữa. Đại ca làm việc tối đa như vậy chắc khi về với Chúa thì ông thánh Phêrô hết đường làm ăn.
Bài viết cho Chúa nhật tuần tới, thì để khỏi lẫn lộn xin đại ca gửi vào thứ Hai hoặc thứ Ba, như vậy sẽ đưa lên ngay được, kẻo để rồi lại quên luôn.
Xin Chúa chúc lành cho đại ca.
Andy Tường –Mạng Lưới Dũng Lạc

Phạm Quỳnh Tín, Cursillos Hoa Kỳ:
12.07.10

Kính chào Sư huynh
Cám ơn huynh rất nhiều vẫn luôn nghĩ đến đệ. Đệ đã nhận được CD của huynh. Đệ chẳng có gì để đáp lễ chỉ biết xin Chúa ban cho huynh tỉ và gia quyến khang an hạnh phúc tràn đầy hồng ân.
Sao cuộc sống của huynh và sức khỏe kỳ này ra sao? Vẫn có thể vật trâu được đấy chứ? Đệ mới về VN sau 30 năm – chỉ toàn thấy người là người- cafe và bia rượu tối ngày- thấy họ nhàn nhã hơn mình nhiều –nhà thờ thánh đường thì quá nguy nga to lớn- hơn Mỹ nhiều.
Vài hàng thăm huynh
Chúc huynh tỉ vui khỏe
Đệ
Phạm Quỳnh Tín

Đôi hàng phản hồi của người không đề tên:
28.07.10
Phản hồi – ẩn danh:
Tuyệt vời.
Xin cám ơn Cha Trần Ngọc Mười Hai.
Tôi download rất nhiều chuyện của Cha và hầu như đêm nào cũng mở nghe.
Rất  thích và học hỏi nhiều.
Xin cám ơn
Xin Cha tiếp tục
God Bless

Trần Lệ Mai, Sydney
17/8/2010

Anh Tá thân kính, Cám ơn anh đã gửi Chuyện Phiếm Đạo Đời.
Chúc mừng anh đã xuất bản CPDD đến quyển thứ tư. Phải thành thực mà nói, em rất khâm phục sức sáng tác của anh. Chắc chắn một điều là Chúa Thánh Linh luôn luôn đồng hành cùng anh, nên lúc nào văn phong của anh cũng sắc bén, gẫy gọn như… một con dao lợi hại nhất!
Dù mỗi tuần đều theo dõi bài anh trên Đạo Binh Đức Mẹ, nhưng khi có quyển sách trên tay, vẫn thấy thích và vẫn muốn đọc ngay lập tức, nhưng lúc này bận rộn đủ thứ việc… Nhưng chắc chắn sẽ đọc, không thể nào bỏ qua đâu, anh Tá ạ!
Vài hàng thăm anh, cho em gửi lời thăm chị Mai.
Chúc anh chị vui, khỏe, tràn đầy tình yêu Chúa!
Quý mến,
Lệ Mai
 
Nguyễn Thiện Bản, Chủ quán nhạc Thiện Bản, trên mạng:
25/8/2010

Thân ái chào anh Mai Tá,
Cảm ơn anh thật nhiều về món quà rất quí hoá. Lời tựa cuốn sách do anh Vũ Nhuận viết rất hay. Em sẽ copy thành nhiều CDs để tặng bạn bè cuối tuần này.
Em cũng đã đọc anh gửi tuần vừa rồi. Lần này anh có đề cập đến lai lịch của nhạc bản và bài thơ “Lệ Đá Xanh” làm người đọc mở thêm kiến thức.
Một lần nữa, xin cảm ơn anh và cầu chúc anh luôn có cảm hứng để tiếp tục giúp nhiều người gần gũi Chúa hơn, qua những câu chuyện phiếm Đạo đời của anh.
Thân ái,
Nguyễn Thiện Bản

Lm Dương Thanh Liêm, Sydney:
27/8/2010

Cám ơn Bác Tá rất nhiều luôn gửi bài cho con, hình như con bị “nhiễm” cách chia sẻ của bác trên Chuyện Phiếm Đạo Đời, rồi đó.
Cám ơn bác
Liêm

Nguyễn Văn Thành (tự Thông), Cựu Đệ Tử DCCT, Sydney:
28/8/2010

Cảm ơn anh đã tặng sách có kèm CD, đáng để trong xe nghe cho dễ. Có một đề nghị với anh là: CD MP3 thì chứa được dung lượng nhiều và tiết kiệm được không phải dàn trải ra thành nhiều CD, nhưng cũng có chút bất lợi là còn nhiều xe đời cũ có gắn CD Player nhưng lại không có MP3 nên không nghe được, mà bây giờ thiên hạ lại thích nghe trong lúc lái xe như kiểu truyện đọc của Nguyễn Ngọc Ngạn (chắc là Nguyễn Duy Lâm không để ý tới điều này vì cứ nghĩ xe nào hoặc CD player nào cũng đều chạy được MP3). Tuy nhiên, làm được thế này là hay lắm rồi, rất đáng khuyến khích.

Có một chi tiết nhỏ, khi đọc CPĐĐ của anh, truyện số 8 trang 65 dòng cuối khi trích câu nhạc “Nếu là chim…” và ghi là của tác giả Trần Trịnh, em nghĩ chắc là do nhà in hoặc do hiệu đính sai lầm. Nếu em nhớ không lầm thì bài này là của Trịnh Thế Mỹ, thuộc loại nhạc đấu tranh khi xưa sinh viên thường hay hát và sau năm 1975 được hát khá nhiều. Mong anh coi lại nhé.
Thân,
Nguyễn Văn Thành

Hồi đáp của người viết:

Thành ơi,
Cảm ơn Thành đã có thư phản hồi về lời trích câu hát “Nếu là chim…”
Thành nói đúng. Lỗi này là của hiệu đính viên khi làm công việc “cắt dán” và để dưới câu trích dẫn. Thôi để rồi anh sẽ tìm cách đính chính hoặc sửa trên bản in giấy.
Hôm nào rảnh, anh em mình chắc cũng nên ngồi lại bàn định xem có thêm giúp nhau làm điều gì thêm cho công tác rao giảng bằng truyền thông không chứ nhỉ?
Cảm ơn Thành một lần nữa nhé.
Mai Tá

Lm Vinh Sơn Phạm Trung Thành DCCT VN:
Anh Mai Tá thân mến,

Ngày hôm qua, kết thúc tuần lễ thường huấn của Tỉnh Dòng VN, 4 cuốn “Chuyện Phiếm Đạo Đời” của anh được trình làng, chủ đề khoá thường huấn là “Truyền Thông”, nên trình làng CPĐĐ rất thích hợp, mỗi anh em một bộ, hơn 200 bộ bay cái vèo! Kêu gọi mỗi người hãy đọc một kinh để cầu cho anh và gia đình.
Chủ nhật thứ hai tháng 9 này sẽ trình làng với anh em Cựu Đệ Tử Sàigòn.
Anh cho em biết địa chỉ của anh để gửi hàng đi ngay, 100 bộ phải không?
Thân mến,
Vinh Sơn Phạm Trung Thành, DCCT

Phạm Quỳnh Tín, Cursillos Hoa Kỳ:
29/8/2010

Kính chào huynh, Thật là có lỗi với huynh, nhận được quà của huynh lâu rồi mà hôm nay mới có giờ viết lời cám ơn-Dung nhắc nhở hai lần lại là những lúc không ngồi bên máy vi tính- và rồi lại quên-thật sực thì cũng có lý do –chẳng là đệ mới đi dự một khóa hội thảo gần hết một tuần ở San Antonio, Texas. Lại nhận được việc edit các bài nói để đưa lên mạng cho anh chị em có thể download và nghe lại- it kept me busy all the time!
Một lần nữa cám ơn huynh tỉ dành cho Tín Dung sự ưu ái.
Dung gửi lời cám ơn huynh vì thích đọc sách của huynh.
Nếu huynh thich nghe về Cursillo mời huynh ghé vào:
http://cursillovietnam/media/decursillo.htm
Thân kính
Tín Dung

Hồi đáp của người viết:

Tín huynh ơi,
Tạ lỗi gì mà tạ lỗi hoài dzậy. Có một điều mà huynh lại quên nữa rồi. Bần đạo đây xin phép huynh được kể lại câu chuyện trao đổi giữa huynh và ông bạn bác sĩ gia đình về chuyện kiêng khem… xin cho bần đạo được phép đưa chuyện ấy lên “ Chuyện Phiếm Đạo Đòi” vào kỳ tới. Im lặng là đồng thuận phải không? Nếu thế thì bần đạo ra tay đây. Và huynh sẽ thấy xuất hiện trên email cho phong trào vào các lần tới. Phi trừ huynh kêu xì stop thôi.  Nói đi thì lại nói lại, bần đạo lúc này cũng đã thấy cạn đề tài, câu truyện kể để dẫn nhập rồi, nên mạn phép mạn phép, mạn mạn phép nhé. Có thế nào, huynh phải cho hay gấp mới được.
Cám ơn huynh rất nhiều.
Mai Tá

Hồi đáp:
Huynh mến,
Huynh cứ tự nhiên
Chúc huynh càng già càng sản xuất nhiều….văn chương
Rất thân mến
QT
 
Trần Kim Phụng, con dâu thánh tổ An Phong, Sydney:
07/9/2010

Anh Tá ơi,
Đã đọc sách, có nghe qua CD và gần đây thì được anh gởi tặng dĩa MP3 mới thực hiện, thú thật đối với em thì đây là những món ăn tinh thần mà em trân quý nhất.
Bởi vì, qua những giòng chữ tuôn chảy của anh, đã cho em người mà chẳng có qua được bao nhiêu trường lớp Giáo lý, ít có dịp để tiếp xúc với các Cha…, hiểu biết nhiều về Đạo của chúng ta- không phải hiểu hiểu thêm mà hiểu biết nhiều vì trước đó có nghe mà đôi lúc chẳng hiểu gì cả…. Và bây giờ, lại được hiểu rõ thêm về chức năng “vô ngộ” của Ngài Tổng, của Giám mục… và rồi nào là những vấn nạn anh đưa ra hay của ai đó đưa ra mà được các ngài ở báo “The Catholic Weekly” trả lời cùng kèm theo chú ít giảng dạy…nhiều lắm…những lời những chữ, những tư tưởng, những giảng dạy đó nó như là hương thơm…mình chẳng thấy được nó, chẳng sờ được nó nhưng mình đã chiếm hữu được nó từ lúc nào mình cũng chẳng biết, chỉ biết thơm ơi là thơm, hay ơi là hay…ở quanh mình.
Hoan hô anh, nhất là những bài sau này…
Mở đầu bằng lời nhạc, hay thơ gì nghe rất trữ tình, làm cho người đọc hay người nghe thêm háo hức và thắc mắc để rồi cứ ngấu nghiến mà đọc…cứ vểnh tai mà nghe…Và rồi chờ ở vài câu cuối kết luận của Trần Ngọc Mười Hai…thật thú vị.

Phản hồi ở đây bởi vì qua bài phỏng vấn, nghe được tâm huyết, ưu tư cùng hoài bão của anh mới thấy được sự thiếu sót của mình, kẻ chỉ biết nhận mà chưa biết cho, giống như có bài nào đó anh viết bốn phép tính cộng trừ nhân chia, thì hình như em chưa biết làm toán chia thì phải? Thế thì… “Giữ Đạo bơ bơ, chết mơ Thiên Đàng” rồi còn gì…

Chúc anh và chúc tất cả bạn anh cùng Bạn Đời của anh có nhiều sức khoẻ , nghị lực. Cho em hỏi nhỏ: Nếu anh nói là “Xin Chúa Thánh Thần soi sáng và giúp cho anh trong lúc anh viết…” thì có gì sai không vậy? Nếu không sai, thì em chúc như vậy đó, còn nếu mà có phạm gì thì…ý em chỉ muốn chúc anh luôn minh mẫn để mà viết sách thôi chứ hoàn toàn không có ý gì khác. Em nói thế là vì đang tập bắt chước giọng nói của người Đạo gốc mà…RUN…hihihi.
Thân mến,
Trần Kim Phụng (người Đạo theo)

Hồi đáp của người viết:

Phụng ơi,
Câu đầu tiên của tôi là: “Không dám đâu”. Những nhận định của chị, có lẽ phải chuyển cho các “đấng bậc” vị vọng, chứ riêng tôi chỉ là người có đôi chút thì giờ đọc các bài báo ngăn ngắn, suy tư đôi phút rồi chuyển đến bạn bè, người thân để tất cả cùng nhau nguyện cầu mà thấu hiểu.
Về câu hỏi: “Xin Chúa Thánh Thần soi sáng….”,  thì xin nói “Rất cám ơn Chúa Thánh Thần”. Bởi, nói cho cùng, tôi hoặc ai đó cũng chẳng là gì cả, nên đâu dám viết những gìong chảy suy tư có tính cách cô đọng những thần học, tu đức. Có chăng chỉ là “ân huệ” của Chúa thúc bách, đưa đẩy…để mình làm một cái gì đó. Có thể là viết những điều mà anh Khổng Nhuận trong www.TamLinhVaoDoi.net gọi là “Đoản khúc suy tư”, tức những mảnh vụn nho nhỏ chứa đựng vài tư tưởng cũng rất nho nhỏ,  thôi.

Trong bài trả lời phỏng vấn, tôi đã xin mọi người thêm cho tôi đôi lời nguyện cầu, bây giờ và mai sau… Đó vẫn là ao ước của tôi, và của anh em trong nhóm thực hiện những gìong chảy có chất “phiếm”, rất Đạo và cũng rất đời. Và cũng xin thêm một đại xá, nếu trong quá trình viết và lách như thế, có những điều ra như “hơi phàm tục”, tỉ như các truyện kể, câu thơ, đoạn nhạc hơi “trữ tình” quá đi chăng?

Cuối cùng, cũng vẫn là lời cảm kích biết ơn, gửi đến Phụng cách riêng và tất cả bà con anh em, đã dành cho tôi một ân huệ đặc biệt là để mắt cũng như để tai nghe nhìn và đọc những điều mà tôi cho là “chỉ để phiếm ho vui”. Vui đời đi Đạo. Vui, việc sống Đạo trong đời. Và, có người đời, cùng vui.

Cám ơn. Cám ơn. Rất cám ơn. May Mà Có Chị, có Anh, đời còn dễ thương. Tôi vẫn còn được thương, tuy không dễ.
Cầu Chúa chúc lành cho chị, cho tôi. Cho tất cả mọi người.
In Christo
MaiTa

Phạm Quỳnh Tín, Cursillos Hoa Kỳ:
13/9/2010

Huynh thân mến
Đệ mới nhận được một số CD của huynh, mở ra nhưng không thầy có cái note nào cả- nên không biết mình phải làm gì????
Sau vài ngày suy nghĩ, một sáng ý chợt lóe lên, à, có lẽ huynh muốn đệ chia sẻ với bạn bè thì phải- hy vọng ý nghĩ này đúng. Cám ơn huynh
Chúc huynh tỉ khang an
Đệ
Quỳnh Tín
 
Hồi đáp của người viết:

Nhị ca Quách …Tín thân mến,
Đúng là “ chí lớn gặp nhau”. Đúng thế. Trên mỗi CDs mình có ghi “ Trần ngọc Mười Hai” thân tặng, là để Nhị Ca tha hồ mà tặng ai thì tặng. Cho tới bây giờ, ban thu âm mới chỉ thực hiện được có 3 cuốn sách đọc ra CDs thôi. Tam ca Vũ Nhuận rất bận rộn, nhất là vừa thực hiện xong bài phỏng vấn bỏ túi tác giả/tác thiệt Trần Ngọc Mười Hai trên www.giadinhanphong.com và www.giadinhanphong.blogspot.com” rồi, nay đang túi bụi làm MC cho các đám cưới,mỗi tuần vào thứ Bảy. Nên đành hẹn cuốn số 4 vào một ngày đẹp trời nào đó. Nhị Ca vào thử  xem bài phỏng vấn này sẽ thấy dung nhan mùa hạ của đệ đang đi dần vào ngõ nhỏ như thế nào: miệng thì móm mém, nói thì như “chó hóc” chẳng ra làm sao. Đã dặn với ban “truyền thông” là cứ giữ đó, khi nào đệ “nằm xuống” rồi thì mình làm một thứ gọi là “posthume” cũng được. Ai dè Vũ Nhuận chơi luôn.
Nhị Ca nhận được là mình vui rồi. Cứ thế phổ biến nhé.
Cho đệ gửi lời kính thăm Hoàng Dung của Nhị Ca nhé. Chúc mọi người vẫn cứ dồi dào ơn Chúa Thánh Thần.
MaiTa













































(trang bìa 4)

“Chuyện Phiếm Đạo Đời rất hay và bổ ích. Mình xin “mượn tạm” đôi ý để dùng cho các bài chia sẻ với anh chị em giáo dân… Mình đã đọc từ trang đầu Lời Bạt đến trang cuối là Phụ Lục, lời nào cũng hay vì chân tình. Tạ ơn Chúa. Tạ ơn tất cả các anh các chị nữa.” (Lm Giuse Châu Xuân Báu, DCCT )

“Chuyện Phiếm Đạo Đời là những đóng góp rất có ích cho nhiều người ở Việt Nam. Cũng rất mừng khi được tin Chuyện Phiếm Đạo Đời được phổ biến tại Trung Tâm Mục Vụ Sàigòn…” (Lm Nguyễn Văn Viên, Tổng Đại Diện Giáo Phận Vinh)

“Chúc mừng cả người viết Chuyện Phiếm Đạo Đời cũng như người viết Lời Bạt. Thật tuyệt diệu. Không quảng cáo rầm rộ, nhưng cũng đánh vào lòng người nghe những điểm then chốt. Nói chung ngẫm và nhìn rồi xoáy vào lòng người đọc, để cho họ phải có thái độ là “ơn gọi” của anh em mình...” (Lm Giuse Mai Văn Thịnh, DCCT Úc)

“Càng ngày càng thấy Trần Ngọc Mười Hai bạn mình viết hay quá. Càng viết càng hay. Đó là lẽ thường…nhưng đàng này lại có thêm lý tưởng tông đồ DCTT, con cái thánh An Phong mà là “Con Cưng” mang tên Anphongsô nữa nên việc rao giảng bằng media “Chuyện Phiếm Đạo Đời” được Thánh Thần thổi mạnh là chuyện tqất nhiên rồi… Nhiều người trong số bạn bè của mình rất tâm đắc với cách viết của Trần Ngọc Mười Hai đó…” (Lm Yusze Tiến Lộc DCCT)


  





 


 

 




Comments