Chuyện Phiếm Đạo Đời Tập IV




TRẦN NGỌC MƯỜI HAI





CHUYỆN PHIẾM ĐẠO ĐỜI


TẬP IV





Cùng một người viết




Chuyện Phiếm Đạo Đời 1 – nxb An Phong Sydney 2008
Chuyện Phiếm Đạo Đời II – nxb An Phong Sydney 2009
Chuyện Phiếm Đạo Đời III – nxb An Phong Sydney 2009




L ờ i   b ạ t 







Thưa quý vị và các bạn,

Một lần nữa, tôi lại được tác giả Trần Ngọc Mười Hai ưu ái giao cho việc soạn lời bạt cho CHUYỆN PHIẾM ĐẠO ĐỜI tập 4, thiết nghĩ không gì thích hợp hơn là xin được mở đầu bằng một chuyện vui con nhà đạo sau đây:

“Đức Giáo Hoàng có ý định tân trang tu bổ lại toà lâu đài Castel Gondolfo – thường được dùng làm nơi nghỉ hè của ngài. Ngài nói với viên kiên trúc sư rằng: “Con biết ý của ta rồi đó. Nhớ đừng trưng bày bất cứ cây thánh giá nào trong phòng ngủ, ta không muốn nhớ đến căn phòng làm việc của ta.”

Có một nhà báo nọ nói rằng sau khi đọc một chuyện phiếm nào đó, cái cuối cùng còn lại trong lòng người đọc đó là cái DUYÊN và cái TÂM của người viết. Cái DUYÊN để người ta vui. Để người ta cười. Và khi người ta vui người ta cười, thì cái thông điệp mà người viết muốn gửi đi sẽ được người đọc đón nhận một cách dễ dàng. Còn cái TÂM của người viết, là để khi đọc chuyện phiếm, người ta thấy được cái thiện ý. Cái thành tâm của tác giả. Vì rằng, khi nói đến chuyện phiếm, nguời ta có thể nghĩ ngay đến - bên cạnh chuyện hài hước - chuyện chọc cười hóm hỉnh, thì cũng có thể là chuyện cay cú, đôi khi đi đến chỗ tàn nhẫn. Lối viết đó có thể làm cho người đọc e dè. Thế nhưng, sau khi đọc chuyện phiếm của Trần Ngọc Mười Hai, người đọc không có cảm nghĩ e dè đó, trái lại vẫn tìm ra được cái DUYÊN và cái TÂM, của tác giả.
Nói một cách nào đó, chuyện phiếm muốn đạt đến trình độ nghệ thuật, phải lột tả được những nét tinh tế. Bất ngờ. Và thú vị. Thí dụ như, trong chuyện phiếm với nhan đề: “Lên đến trăm lần, nhất định mình chưa yêu”, có đoạn viết về một cụ bà 84 tuổi, như sau: 

“Hôm ấy, nhóm phóng viên mới vào nghề thử tập tành tìm hiểu tư thế và nhân sinh quan rất cụ thể của một cụ bà tuổi bát tuần, làm sao mà cụ lại có thể cho rằng “lên đến trăm lần, nhất định mình chưa yêu”, nên mới làm cô dâu đến lần thứ tư như sau:
-Xin cụ cho biết cảm nghĩ của cụ về cuộc sống, về những gì giống-như-là-chơi-trò ú tim ở tuổi 84 rồi, mà vẫn cưới.”

Xem ra Trần Ngọc Mười Hai khá thành công trong lãnh vực viết chuyện phiếm … Đạo/đời. Nếu đánh giá bằng cái thước đo thời thượng kỹ thuật tin học, thì cứ xem có bao nhiêu “Hits“ là biết trang mạng đó được khách tứ phương lui tới, như thế nào. Thật ra, chuyện phiếm là những chuyện lông bông, nửa thật nửa ảo, trộn lẫn với tiếng cười. Thế nhưng, chuyện phiếm của Trần Ngọc Mười Hai ngoài dáng dấp viết cho vui, còn khiến người đọc sau khi cười, phải suy nghĩ. Suy và nghĩ có ra hay không, thì đó là chuyện của người đọc, chứ không phải của tác giả nữa. Chuyện phiếm Đạo/đời xuất bản năm 2010 là tập chuyện thứ 4, với nhiều đề tài khác nhau, đề cập đến mọi thứ chuyện trong đạo ngoài đời. 
Thế nhưng, đa phần đó là những đề tài mà con nhà đạo hay thắc mắc. Có khi thắc mắc một mình. Mà cũng có khi đem ra bàn cãi nơi công khai. Tất cả những đề tài đó, là cơ hội để Trần Ngọc Mười Hai trình bày quan điểm của mình dưới ánh sáng đức tin. Qua Tin Mừng. Hoặc, qua giáo huấn của các vị đại diện giáo hội. Thí dụ như bài 16, Trần Ngọc Mười Hai bàn về nghi thức phụng vụ: chủ tế nên quay mặt về phía nào. Xoay lưng lại giáo dân, hay nhìn về phía cộng đoàn:

“Đứng/ngồi buổi tế tự, vẫn là cử chỉ cần rập ràng, cho xứng hợp. Nhưng, đứng/ngồi ở đời thường, là thói quen nay đã đổi, ở vài nơi. Thói quen hay thói tật, của một số người. Ở một số nơi. Đây, vẫn là đề tài của chuyện cười ra nước mắt. Cười không dứt…”  

Để kết luận cho bài viết này, Trần Ngọc Mười Hai gợi ý: 

“Nếu thánh Phao-lô còn sống đến hôm nay, chắc hẳn ngài sẽ  thêm: ‘Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? phải chăng là phương Tây lẫn phương ta, phía trời Đông?’ Quả có thế. Dù là phương Đông, hay cõi trời Tây, ta vẫn chung một nhà. Nhà, Cha ta. Nhà, của ‘tứ hải giai huynh đệ’. Của, con dân Đức Chúa.” 

Ngoài những điểm nêu trên, đọc chuyện phiếm Đạo/Đời của Trần Ngọc Mười Hai, người ta còn tiếp nhận được nhiều kiến thức. Kiến văn của tác giả quả là sâu rộng. Hầu như trong bất cứ chuyện phiếm nào, người đọc cũng có thể học hỏi được đôi điều. Thí dụ vấn đề thế nào là tiền bạc:
  
“Các cụ bảo: có tiền mua tiên cũng được. Được nhà được cửa, nhưng không được mái ấm/cơ ngơi, cho chính mình. 
-Bọn trẻ nói: Tiền là tiên là Phật, lật đật xuống phố mua được đồng hồ, nhưng chẳng mua được thời gian. 
-Và trẻ/già,cứ phán tiếp: Tiền, là sức bật tuổi trẻ, có nó ta mua được cả thuốc men, bon chen nhiều ống chích, nhưng không thể mua lấy sức khoẻ.
Tiền, là sức khoẻ rất tâm linh, có nó người người mua sách mua vở, nào đã mua được kiến thức. Tiếng tăm. Lòng kính trọng. Từ, người khác…” 

Đức Giáo Chủ Biển Đức 16 – khi còn là Hồng Y Ratzinger – đã bắt mạch được tâm tình người thời đại, nhận ra lỗi lầm và đề ra con đường tương lai của giáo hội. Ngài đề cập đến một số vấn đề liên quan đến đức tin gay cấn nhất của thời đại như: tín điều không sai lầm của giáo chủ – vô ngộ - tình trạng độc thân của linh mục, vấn đề ngừa thai hay tái hôn, vv. Trong cuốn: MUỐI CHO ĐỜI, Hồng Y Ratzinger đã trả lời một cách thẳng thắn không che đậy những vấn nạn đó   

Về phần tác giả Trần ngọc Mười Hai - qua chuyện phiếm Đạo Đời - xem ra cũng bắt mạch được những nhịp đập của con tim thời đại qua một số những vấn nạn nhức nhối tiêu biểu của người Kytô hữu như: chuyện sống đạo, đi lễ, đọc kinh, cầu nguyện, ơn nói tiếng lạ, thờ cúng ngẫu tượng, vấn đề phụng vụ: đứng qùy, lễ cưới ngoài nhà thờ, bao cao su, chuyện có con, hoả táng, tai ương và hình phạt, vv…
Người xưa thường nói cứ xem quả thì biết cây. Nếu đọc kỹ các chuyện phiếm Đạo/Đời của Trần Ngọc Mười Hai, người ta thấy phảng phất đâu đó, cả lối văn lẫn ý tứ của các bậc tiền bối trong Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam như LM Nguyễn Thế Thuấn trong lãnh vực kinh thánh, giáo sư Nguyễn Ngọc Lan trong lãnh vực triết học và xã hội, và LM Đinh Khắc Tiệu trong lãnh vực thần học. Đó là những vị thày uyên thâm, đáng kính mà Trần Ngọc Mười Hai có vinh hạnh được học hỏi. 
Về hình thức, một lần nữa, trong chuyện phiếm Đạo Đời tập 4, Trần Ngọc Mười Hai vẫn tiếp tục điểm tô các bài viết của mình bằng những ca khúc quen thuộc, để mở đầu và cũng để kết thúc các câu chuyện, như những nốt ruồi duyên, cần có trên gương mặt người đẹp.
Cuối cùng, đọc chuyện phiếm Đạo/Đời người ta thấy ngay Trần ngọc Mười Hai là một người rất tha thiết với niềm tin, và giáo hội. 
Nếu chúng tôi không lầm, thì Trần Ngọc Mười Hai lúc này viết rất khoẻ. Và rất đều. Cứ nhìn vào 3 trang mạng do  Trần Ngọc Mười Hai phụ trách như: 

www.suyniemloingai.blogspot.com 
www.trangocmuoihai.blogspot.com
www.giadinhanphong.blogspot.com, 

thì cũng rõ. 

Một lần nữa, xin cám ơn tác giả Trần Ngọc Mười Hai và xin nghiêng mình bái phục. Chúc Trần ngọc Mười Hai tiếp tục viết mạnh với hy vọng rằng các câu chuyện phiếm đạo đời sẽ trở thành muối/men để thêm phần tác động vào một thế giới đang có nguy cơ mỏi mệt với tôn giáo. 

Vũ Nhuận
Sydney 2010 
Một ngày chớm thu. 








 1. “Lên đến trăm lần, nhất định mình chưa yêu”
Rồi trách móc trời không gần cho tay với 
Và cả nàng, hư quá sao mà kiêu ...??
(Ngô Thuỵ Miên – Tuổi Mười Ba)

(Mt 20: 1-6)
Tuổi mười ba/mười tám, hay tuổi ba tám/tám ba cũng đều là như thế. Vẫn cứ tưởng mình là hăng say đóng góp công sức suốt cuộc đời, cho Nhà Chúa. Cho Giáo hội. Vẫn nghĩ rằng, mình sẽ được ơn mưa móc, hơn người khác. Chưa hẳn là thế. Nên, vẫn hát được: “lên đến trăm lần, nhất định … mình chưa yêu”. Chưa yêu mình, và yêu Chúa. Chưa thật sự hết lòng, vì Chúa. Vì Giáo hội. Có chăng, cũng chỉ là yêu cái “tôi”, đánh rất bóng, của mình thôi!
Thế nên, mỗi lần mở băng nhạc, để nghe lại giọng hát của người ca sĩ nổi tiếng nhiều thời, hát bài “Tuổi mười ba”, bần đạo có cảm giác, như: người viết đã nhắn nhủ điều gì đó, với mình. Với người. Người nhà Đạo! Chốn dân gian. Nên hôm nay, nhân đọc tuồng tích Forrest Gump trích dẫn trên “Bản Tin” của một giáo xứ nhỏ bé, bần đạo thấy có đôi điều cũng nên chuyển đến bạn bè, để thưởng lãm. Trước tiên, là truyện kể: 

“Phim truyện nhiều tập mang tựa đề “Forrest Gump”, có lúc được kể là ‘niềm hân hoan của người tham chiến’. Vào lúc nào đó, truyện phim nói về sự việc: “sao người chót hết lại có thể về trước nhất”. Câu chuyện trên, rút từ những điều mà nhà làm phim đã để lại trong đầu, người xem.

Forrest Gump rồi cũng chết. Cũng lên thiên đàng. Khi tới nơi, anh đã thấy thánh Phêrô đem đến cho anh 3 câu hỏi thuộc lọai vừa tầm, tuy không khó nhưng buộc anh phải giải mã trước khi bước qua ngưỡng cửa của Thiên đường. Ba câu ấy, là: 
1) Ngày nào trong tuần bắt đầu bằng chữ T? 
2) Một năm có bao nhiêu giây? 
3)Tên cúng cơm của Chúa là gì?
Forrest trả lời trong thoáng chốc: 
-Thưa, 2 ngày trong tuần bắt đầu chữ T là: hôm nay và ngày mai (today, tomorrow).
Thánh Phêrô liền nói ngay: 
-Ta không nghĩ thế, đó là Thứ Ba và Thứ Năm (Tuesday – Thursday) nhưng con vẫn có được điểm cao. Thế còn câu hỏi tiếp, con trả lời ra sao? 
-Con nghĩ, nếu như thế câu trả lời của con là: 12. 
-12 ư? 
-Vâng. Và, thưa, đó là ngày 2 tháng Giêng, ngày 2 tháng Hai, ngày 2 tháng Ba… 
-Khoan cái đã! Ta biết là con đang cò cưa câu trả lời, để lấy lệ. Thế còn, câu hỏi cuối? 
-Dạ, với câu hỏi cuối, trả lời của con: là Andy!
-Andy à? Thôi được, cứ coi như 2 câu đầu con đã biết cách trả lời. Nhưng sao lại đặt tên tục cho Đức Chúa là: Andy?
-Dạ thưa, vì đó là câu trả lời dễ nhất. Con học được điều ấy trong bài ca ANDY đi với tôi, ANDY tới với tôi, ANDY bảo tôi thuộc về Ngài’  
Nghe thấy thế, thánh Phêrô bèn mở cửa ngọc và hối hả nói: “Thôi, con vào đi, hỡi Forrest Andy, vào lẹ đi!” (Richard Leonard, SJ – The Bulletin, Fairfield Parish Church 21.09.2008) 

Thật ra, câu truyện thực sự “không phải là chuyện phiếm” diễn tiến ở trên, đã như thế này:
“Như thế, 
kẻ sau hết sẽ nên trước hết, 
và kẻ trước hết sẽ nên sau hết"  
(Mt 20: 6)
  
Thế đó, là công bình của Đức Chúa. Công bình của Ngài, không đặt nặng vào sự việc đến trước/đến sau. Ai làm nhiều/ai làm ít. Hoặc, có nên gọi các chú chim non thức sớm, vội bay đi kiếm gạo vào đầu giờ, là đàn chim ban sớm, nữa hay chăng? Và, “đàn chim thức sớm” ấy, có hưởng nhiều ân lộc/của thánh, đấy chứ nhỉ? Bởi, đàn chim hôm nay cũng nhận ra một điều, là: chúng có bay đi sớm hay đến trễ, thì cỏ xanh đồng nội vẫn cứ tràn đầy, nhiều giun dế.
Hiểu cùng một kiểu, ta có thể bảo: nếu thế, thì Hội thánh thời tiên khởi, sẽ đạt nhiều ân huệ/đặc sủng từ Trời Cao, hơn giáo-dân-bậc-thứ rất tà tà kiểu “Giô-ni đi tàn tàn” phim dài nhiều tập? Hiểu như thế, ta sẽ đặt mình vào trường hợp của các thợ làm vườn tìm đến trước, chắc rằng rồi ra cũng sẽ ngồi đó mà càm ràm: “Chúa đối xử với tôi, thật chẳng được công minh cho lắm?” 
Tìm hiểu kỹ, bần đạo thấy: truyện kể về “đàn chim thức sớm”, về chàng “Giô-ni đi tàn tàn” hoặc về người làm vườn nho đến đầu giờ, những càm ràm về bất công, là thái độ của mỗi người chúng ta, vào mọi buổi. Càm ràm và bất bình, khi thấy Chúa gọi mời cả những người “ngoài luồng”, rất bạo lọan, rất căn nguyên/triệt để, chỉ đến làm vào giờ cuối, cũng được thụ hưởng ân-huệ nhưng-không ngang bằng, ở Nước Chúa. Như thế, có bất công chăng? 
  Ở đây nữa, hỏi tức đã trả lời. Và trả lời, một cách ỡm ờ. Vu vơ. Lạ kỳ. Trả một lời, như ở trên:

“Trời hôm nay, mưa nhiều hay rất nắng,
Mưa tôi trả về, bong bóng vỡ đầy tay.
Trời nắng ngạt ngào, tôi ở lại đây
Như một buổi hiên, nhà nàng dịu mát.” 
(Ngô Thụy Miên – bđd)

Điều cần nói thêm ở đây, là: khi nghe hát, hoặc khi đọc dụ ngôn/truyện kể về “người làm vườn”, ta há chẳng nhận ra rằng: đó là tính khí thường tình của con người chúng mình, sao? Tính khí, vẫn mang nặng cảm giác hờn giận. Cay cú. Nhất là, khi ta bỏ hết công sức và mỏi mòn ngồi chờ Đấng Mê-sia, đến thưởng công. Nhưng khi Ngài đến thay vì thưởng công, lại làm ta thấy quá nhiều chuyện bất ưng, để càm ràm. Bất ưng nhất, là khi đám “Giô-ni đi tàn tàn”, làm việc ít giờ là thế, nhưng lại được thưởng công, ăn trên ngồi chốc, rất trên cao. Ngay tại phẩm trật triều đình của Giáo Hội. Của cộng đoàn. Còn tôi, tuy đến từ buổi sáng, như “đàn chim thức sớm”, vẫn không được hơn họ.
  Có lẽ vì thế, mà người ca sĩ nổi tiếng mọi thời, lại vẫn hát:
“Trời hôm ấy, mười lăm hay mười tám 
Tuổi của nàng, tôi nhớ chỉ mười ba 
Tôi phải van lơn ngoan nhé! đừng ngờ! 
Tôi phải van lơn ngoan nhé! đừng ngờ!”
(Ngô Thuỵ Miên – bđd)

Chuyện Chúa đối xử, hay chuyện “đừng ngờ!” chính là, công minh Ngài vượt quá tầm tay với, điều mà ta có thể ngờ. Và, có thể kêu cầu. Bởi tự thân, ân huệ của Chúa luôn vượt quá chữ “đừng ngờ!”, ta vẫn có. Nghĩa là, Chúa luôn xử sự cách nghịch lý, khác với thói thường, của ta. Và thông thường, Chúa để lộ phong thái “đừng ngờ!” của Ngài, như sau:

“Này bạn,
Tôi không làm gì thiệt hại đến bạn,
Tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn,
Há nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi sao?” 
(Mt 20: 5)

Và, có một điều dễ hiểu, nhưng người người có lẽ vẫn cứ không chịu hiểu, đó là: dụ ngôn “người làm vườn”, chỉ là truyện kể Chúa dùng để nói về Nước Trời. Nghĩa là, truyện kể chỉ là dụ ngôn để nói lên một điều, rằng: ở Nước Trời, tức chốn cộng đoàn trần gian ta đang sống, vẫn có những “ngoan nhé, đừng ngờ!”, khiến “tôi cứ phải van lơn”; là bởi vì, mọi hành xử Chúa đã và đang làm, đều đảo ngược tư thế “đừng ngờ!”, của người thân. Việc Chúa làm, cũng đảo ngược mọi mơ ước, đợi trông. Cùng, các hãi sợ, viển vông. Đảo luôn mọi đồn đoán khó tin, của người mình.
Quả là, ta vẫn không ngừng tìm Chúa theo tầm nhìn, của riêng ta. Cũng tựa hồ như truyện khoa học giả tưởng, do ta chế. Trong khi đó, Chúa đến hành xử lại như một kẻ bần hàn, đói rét. Trần trụi. Thật không ngờ! Thế đó, là lý do tại sao nhiều người cứ mải quyết đoán: Chúa chỉ hoạt động theo cách thế thân quen. Nơi có con người. Qua con người. Vào thời điểm, mà người thường rất dễ nhận. Và, việc Ngài làm, thường kết thúc chung quanh đường ranh của những khôn ngoan, và tin tưởng. Tin vào Đạo. Tin vào Lời.
Quả là, Chúa vẫn yêu thương đùm bọc Hội thánh. Nhưng dứt khoát, Ngài chẳng bao giờ chịu để cho những qui định  - hoặc còn gọi là luật Hội thánh từng ràng buộc các  hành xử, của Ngài. Ngài chẳng bao giờ bị khống chế bởi công lênh của các thành viên trong Hội thánh, những người vẫn nghĩ rằng mình đã xả thân hăng say vì Chúa, cho Chúa. Sẽ được hơn.
Đây chính là điều, mà Chúa hằng nhắc nhở bạn và tôi hôm nay, những người hay say men chiến thắng, ỷ vào công lênh mình đóng góp, rồi tự cho mình thành quan to chức lớn, rất bệ vệ. Nhìn chung, ta vẫn  thấy nhiều người tự cho mình có công lênh, đã hy sinh thì giờ, công sức và tiền bạc, rất nhiều, để phụng sự, ắt có công. Rồi thì, cậy vào công lênh mình đóng góp, lại dễ cho mình ngang với quyền uy/chức vụ được “tạm thời” đề cử, ở trần gian. Để rồi, cứ ngồi mãi nơi quyền cao chức trọng ấy, không muốn nghĩ đến đổi thay. 
Rồi cũng dễ nổi nóng, chóng bất bình, khi có người góp ý phản hồi. Hệt như người thợ đến-vào-giờ-đầu, vẫn cứ bất bình và càm ràm về cái-gọi-là “bất công” của chủ. Thay vào đó, lẽ đáng ra nên chăm lo cảm tạ hết mình, mới phải. Bởi lẽ, có nhờ Ngài, mình mới nên cao trọng. Có nhờ Ngài, mình mới thành ông trùm, bà chúa, rất cao sang, thôi. 
Khi cảm tạ, mình sẽ không còn thấy bất công, xảy đến ở vườn nho Hội thánh, Nước Trời. Có cảm tạ như thế, mình mới hiểu rõ thế-thái-nhân-tình, hơn. Nắm rõ hơn, Lời vàng Ngài căn dặn hôm trước. Có cảm tạ thật tình, mình mới không còn bất bình, chuyên khiếu kiện. Tốt hơn hết, cứ bắt chước phong thái người nghệ sĩ, luôn vẫn hát: 
“Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc,
Áo nàng xanh, anh đếm lá sân trường.”
 (Ngô Thuỵ Miên – bđd)

Vàng hay xanh, anh vẫn mến. Mến đến độ:

“Sợ thư tình không đủ nghĩa yêu thương     
Anh thay mực cho vừa mầu áo tím.” 
(Ngô Thuỵ Miên - bđd)

Thay mực, cho vừa mầu áo tím của lê dân/bậc thứ, hoặc để đổi thay tâm tính/tính tình, để rồi mình nhận ra điều Chúa nhắn nhủ:
“Phúc cho ai 
nghe lời Thiên Chúa 
và noi giữ.” 
(Lc 11: 28)

Và, Lời Chúa vẫn khuyến khích mọi người trở nên thấp bé, như con trẻ. Bởi lẽ:

  “Cha đã giấu 
không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, 
nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” 
(Mt 11: 25)

Và thay cho vừa mầu áo tím, là làm như truyện kể vui nhẹ về cụ bà 84, ở bên dưới:

“Hôm ấy, nhóm phóng viên mới vào nghề thử tập tành tìm hiểu tư thế và nhân sinh quan rất cụ thể của một cụ bà tuổi bát tuần, làm sao mà cụ lại có thể cho rằng “lên đến trăm lần, nhất định mình chưa yêu”, nên mới làm cô dâu đến lần thứ tư như sau:
-Xin cụ cho biết cảm nghĩ của cụ về cuộc sống, về những gì giống-như-là-chơi-trò ú tim ở tuổi 84 rồi, mà vẫn cưới. Và xin cụ cho biết đức lang quân của cụ lần này, làm nghề gì?
-Thì, cũng chỉ nho nhỏ thôi, đó là nghề … làm chủ nhà quàn.
-Chà! Thưa cụ, nghề này hấp dẫn dữ à.
-Dạ, cụ có thể bật mí cho biết, các vị lang quân trước kia, thì sao ạ?
-Mấy lão trự lúc trước ấy à? Vậy yên, cho tôi nhớ lại cái đã… À qua nhớ ra rồi. Lão đầu tiên hồi qua mới chỉ có đôi mươi là chủ một ngân hàng. Đến năm qua lên 40, thì qua đổi qua một lão khác là chủ một gánh xiếc, đến tuổi lục thập qua bèn cưới vị chủ trì một nhà thờ. Và bây giờ, ở tuổi bát tuần, qua lại muốn làm bạn trăm năm với ông chủ khác. Chủ này là chủ nhà quàn chuyên tổ chức các đám … viễn du miền cực lạc.
-Con dám xin cụ cho con hỏi câu chót nhé. Thưa, lý do nào, hoặc động lực nào thúc đẩy cụ lại làm thân thương yêu đến 4 ông chồng khác nhau, đều làm chủ cả vậy?    
-Chuyện nhỏ, bạn trẻ à. Qua cưới người đầu là vì tiền, người thứ hai là vì muốn… nổ lốp xốp. Tay thứ ba là để lúc nào cũng cảm thấy mình trong tư thế sẵn sàng, và đến người thứ tư là để … đi, thôi.”

Cứ như quan niệm của cụ bà cô-dâu-ở-tuổi-bát-tuần, thì cụ là người đến cả vào giờ đầu lẫn giờ cuối. Ai cũng là chủ. Như thế không còn lý do gì để kêu oan, với càm ràm. Lúc nào cũng sẵn sàng, mà ra đi. Có công lênh sức lực để đóng góp hay không, không thành vấn đề. Có chăng chỉ là phong thái sẵn sàng, để phục vụ. Để yêu thương, rồi sẽ vui hưởng cuộc đời. Dù đời mình, có “mưa nhiều hay rất nắng”. Nắng ngạt ngào hay mưa trả về, mình vẫn “ở lại đây”. Ở nơi dịu mát, có bóng cây. Hoặc, chốn Nước Trời, tràn đầy hạnh phúc.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn nhớ lời dặn 
“sau hết nên đầu hết        
đầu hết nên cuối hết”
của Đức Chúa,
trong cuộc đời.
        



2. “Ai ơi, người về cho ta nhắn với”
Nha Trang quê hương dịu hiền 
Ngàn đời lòng tôi mến yêu.
(Minh Kỳ/Hồ Đình Phương – Nha Trang)

(Mc 10: 35-45)
Còn gì sướng bằng, “buồn ngủ, gặp được chiếu manh”. Manh chiếu, mà bần đạo nay gặp được là nhạc bản cổ xưa, mình vẫn ưa. Nhạc bản này, diễn tả tình người, ở quê nhà. Tình người Nha Thành, êm ấm. Có cát trắng. Trăng thanh. Đề huề, niềm nhung nhớ. Nhớ và thương, hơn cả nỗi niềm nhung nhớ của “người tình không chân dung”, thời trước. Nha Trang, quê nhà thứ hai của bần đạo, rõ ràng là quê hương dịu hiền. Miền nhung nhớ. Với lời lẽ, khi xưa người nghệ sĩ vẫn cứ hát:

“Nha Trang hoà bình vương vương khắp lối,
đêm đêm trăng thanh rạng ngời 
ngày ngày nắng ấm xinh tươi.” 
 (Minh Kỳ/Hồ Đình Phương- bđd)

Nhớ Nha Trang, là nhớ những ngày nắng ấm xinh tươi. Hoà bình. Nhớ trăng thanh. Gió mát. Rất rạng ngời, tình nhớ thương dân con đồ đệ của Đức Chúa. Rạng và ngời, tình thương mến dành trọn cho Hội thánh. Hôm nao. Tình Hội thánh, có giảm suy không, mà sao dân con người người cứ vắng bóng. Thưa thớt. Đi đâu rồi. 
Tình cảm thân thương đó, được tỏ bày với Hội thánh hôm nay, vẫn có lời tả oán, rất ái ngại. Không đứng vững. Vẫn có cái gì đó chưa ổn, ở trời Tây. Trời của Tây, nay thấy xuất hiện những giòng chảy, thê lương. Kiệt xuất. Mê hồn. Như trần tình cảnh báo về số người đi Đạo, rày sa sút.
Cách đây không lâu, vào niên biểu hai nghìn lẻ tám, Tuần báo Newsweek ở Hoa Kỳ, có thực hiện một khảo sát về số Người Mỹ tự nhận mình không tín ngưỡng, có cho biết: năm 1990, số người Mỹ tự nhận không dính dự với tôn giáo, đang có tỷ lệ 8% đã lên đến 15%. Tức, cũng ăn khớp với số người theo Đạo Chúa, đang bớt dần. 
Ở Úc, số người tự cho là mình không dính dự đến tín ngưỡng/tôn giáo ở mức cao. Thống kê năm 1991 cho biết: số người này nay lên đến 12.9% trong tổng số dân Úc. Với thống kê 2006, số  người này đã lên đến 18.7% (xem Peter Kirkwood, The decline of Christianity in Australia and America, Eureka St 12/6/2009)
Nói gì thì nói, chứ tác giả Jon Meachem từng nhận định trong tờ Newsweek vào độ ấy, đã biện luận: số người đi Đạo, vẫn ở mức cũ, nghĩa là: có đến 76% tổng số người Mỹ tự nhận mình theo Đạo Chúa (so với Úc, tỷ lệ này là: 64%). Và phần đông số này, là người Công giáo (tính ra có: 25%, ở Mỹ; và 25.8%, ở Úc). Về chuyện này, có đến 45% tổng số người đi Đạo ở Mỹ (và 34% ở Úc), nói: họ là những người “đã tái sinh”. Và, tác giả Peter Kirkwood kết luận: “Vị thế của Kitô-giáo ở Mỹ đã khác hẳn. Ở Úc, con số ấy không đến nỗi khác lắm.” (x. P,Kirkwood, bđd)            
Vấn đề đặt ra với bà con mình, là: quan ngại như thế có cần thiết lắm không?
Để hồi đáp, có lẽ cũng nên nghe người nghệ sĩ xưa, cứ hát tiếp:

“Nha Trang từ ngày xua tan bóng tối,
mơ say dâng lên bầu trời, 
thề cùng giữ vững tương lai.
Nha Trang, ngày này khách du bước tới  
    không ai quên trao nụ cười, 
để mừng lòng thêm thắm tươi.”
(Minh Kỳ/Hồ Đình Phương- bđd)

Thật cũng đúng. Hãy cứ xua tan bóng tối, những nghi nan vọng về. Để rồi, ta chỉ nghĩ đến tương lai. Thứ tương lai, đặt nặng phẩm chất, hơn là vào số lượng, người đi Đạo.
Chất lượng người đi Đạo và giữ Đạo, còn là chất lượng ta nghe biết và thực hiện Lời Chúa, sống đời thường. Với tâm tư ta vẫn nghĩ, vẫn suy như nghệ sĩ xưa, rày tưởng nhớ:

“Còn đâu những chiều vui xưa? 
Còn đâu những chiều say sưa?
Ngồi nơi biển buồn trông ra khơi, mênh mông…? 
(Minh Kỳ/Hồ Đình Phương- bđd)

Say sưa, không nhìn trời. Chỉ nhìn những biến và đổi. Say sưa. Vui xưa. Là, vui say sống những ngày thân thương có Chúa. Có người anh người chị, cận kề bên nhau, lòng an ủi. Giùm giúp. Thích thú. Nhớ để đời.
Hỏi, là hỏi xem có còn ý nghĩ ưu tư. Viển vông. Lo sợ. Về thiên đàng/hoả ngục, chốn ấy. Rất nhiều bên. Có linh mục nọ, cho rằng Hội thánh cứ giảng và dạy về “hoả ngục”, rất nghĩa đen. Nhưng, chú giải tử tế, ta sẽ thấy bản văn kinh thánh nói về ngục thất đầy những “hoả”, chỉ là ảnh hình mà sách Khải huyền muốn diễn tả về hoàn vũ theo lối nói hùng hồn, biểu tượng. Chứ không mô tả một thực tế, rất nghĩa đen (xem Kevin O’shea, CssR meditation: All saint and all souls, Sunday 1/11/2009).
Thiên đàng, thì khác hẳn. Cũng là loại hình ngôn ngữ đầy biểu tượng. Biểu trưng. Nhưng, thiên đàng không là phỉnh gạt, đánh lừa tâm tưởng chúng ta. Mà là, một xác tín về Thiên Chúa, Đấng tràn đầy tình thương. Hiểu như thế, Thiên Chúa sẽ thực hiện theo kiểu cách riêng tư để đưa ta về với Ngài, một khi ta không còn sống ở thế giới gian trần, này nữa. 
Xem như thế, khi dùng ảnh hình Thánh kinh (đa phần từ các bài trong Khải huyền) để diễn tả trạng thái tốt lành của Thiên Chúa, của Đạo, ta nên biều rằng: ảnh hình ấy, biểu trưng cho điều gì đó, rất cao cả. Cao cả, đến độ không nên dùng nghĩa đen, để đặt tên. Điều, mà ta có thể đặt tên cho, không là nỗi niềm lo sợ của con người. Mà, là Tình Yêu Thiên Chúa, rất đích thực. Và như thế, hình ảnh hoả ngục thực sự đã dẫn đến niềm lo sợ, của chính ta. Trong khi đó, thiên đàng mới dẫn ta về với Tình Yêu Thương cao quý, đích thực của Đức Chúa, đối với ta (x. Kevin O’Shea, CssR – bđd).   
        Như thế, ta sẽ không còn ưu tư lo lắng, nhưng cùng hát với nghệ sĩ khi xưa, rằng:

“Nha Trang, còn tràn hương thơm gió núi, 
hoa xuân trao nhau nụ cười
người người sánh bước chen vai…”
(Minh Kỳ/Hồ Đình Phương- bđd)

Với nhà Đạo, sánh bước chen vai, không phải để mon men về đất miền có biển xanh cát trắng, lấm bụi trần. Mà, để trao cho nhau những nụ cười. Ngõ hầu tìm nguồn vui sống. Sống vui. Sống vững chãi, vì không còn lắng lo cho số lượng người đi nhà thờ/nhà thánh. Chỉ, mỗi ưu tư chăm chút về chất lượng tình Chúa. Tình người. 
Tình người, hôm nay cũng đã khác. Khác ở chỗ, nó không còn tập trung vào chuyện xưa tích cũ. Rất khô khan. Nhàn nhạt, về đủ thứ. Nhưng, đã biết bung ra. Bung nhiều, về xứ miền nhiều phấn chấn. Cội nguồn. Hấp dẫn dân nhà Đạo. Như truyện kể của linh mục nọ, về Châu Phi, ghi ở dưới:

“Tôi có quen một linh mục. Ông được mời đến xứ đạo nọ để san sẻ lời Chúa, trong một buổi Tiệc Thánh, rất Châu Phi. Ông là một trong số rất ít những người da trắng, sống chung đụng với hàng trăm giáo dân da mầu, người bản xứ. Đất miền này. Ông thuật lại: khi ông đứng bục để chia sẻ Lời Chúa, thì giáo dân ngồi dưới vừa nghe vừa nhún nhảy. Cười hát vang vang. Vui thú. Nhộn nhịp. Và, mỗi khi ông kể dăm ba câu chuyện hài hước để minh hoạ cho đề tài thần học và Kinh thánh, thì giáo dân ở đó cứ đòi ông kể thêm, nhiều hơn nữa. Và, bài chia sẻ hôm ấy, kéo đến gần 20 phút, mà họ vẫn không thấy là dài. Bởi lẽ, cứ sự thường, thánh lễ ở hầu hết các miền bên Châu Phi, kéo dài hơn hai tiếng đồng hồ. Không thấy ai đi trễ. Chẳng thấy ai vội về. Không càm ràm. Chẳng chê trách, Vẫn vui hát.” (x. Richard Leonard sj Sunday meditation, 18/10/2009)

Nói cách khác, nếu nhìn vào mức suy giảm trong số những người đi nhà thờ, rồi chán nản cho rằng Đạo Chúa đã và đang suy sụp. Cũng không đúng. Như truyện kể ở trên, có người nhìn sự kiện truyền Đạo, nay khác hẳn. Khác, tức là mọi công tác rao truyền Đạo Chúa không còn tập trung vào lục địa già/xưa, cổ lỗ nữa. Nhưng đã chuyển hướng về đất miền trẻ trung, đầy phấn chấn. Nói cách khác, nay là lúc các xứ truyền giáo khi xưa đã khởi sự quay về nguồn cội, để rao truyền Tin Mừng của Chúa, cho các vị từng ngủ vùi trong quên lãng. Khi sự dữ/Ác thần, đã ở trong. Trong Đạo. Trong đời. 
    Nói “các vị”, nhưng là chính ta. Chính là dân con Đạo Chúa, vẫn theo Đạo và giữ Đạo của Chúa, một cách rất “Tây”. Tây, trong suy tư. Tây, cả trong cách hành xử, nhiều khiếm khuyết. Tây, còn theo nghĩa mà đức thày khác, đức thày Dòng Tên ghi danh ở trên, đã có quan niệm rất mới, như sau:

“Rõ ràng là, văn hoá rất “Tây” của chúng ta, dù có đủ tính chất tinh vi phức tạp, công bằng và uyển chuyển, xem ra đang mất đi cái thần hồn và thần tính, của chính mình. Các nước đã phát triển, nay đã nhanh chóng trở thành đất miền truyền giáo rất mới, của thế giới. Mai ngày, các nước còn tiến triển, có lẽ sẽ giúp ta tìm lại diện mạo Đức Kitô, trong nền văn hoá của chính mình. Và như thế, điều này sẽ giúp tìm được con Đường.Sự Thật. Và, sự Sống. Của Tin Mừng.
Các nước đang phát triển,tuy còn kém cỏi rất nhiều thứ, vẫn cho ta thấy được rằng: cả vào khi người người có nhu cầu thiết yếu để mưu cầu cuộc sống hằng ngày. Họ vẫn sống, đúng phẩm giá con người, dù có khó khăn về kinh tế và cuộc sống thường nhật, họ vẫn yêu thương. Vẫn đứng vững trong niềm tin, rất chung thuỷ. Đương nhiên là việc này cũng chẳng làm ta ngạc nhiên hay bị sốc, gì hết. Bởi, như Chúa nói với ta qua Tin Mừng thánh Máccô đoạn 10, câu 35-45, là: không ai, không có gì, và cũng chẳng có nền văn hoá nào, được phép thống trị người khác. Hoặc, trở thành cơ chế độc đoán, với bất cứ người nào, văn hoá nào. Chí ít, là văn hoá khác kiểu “Tây” của mình. Điều, khiến cho cộng đồng dân Chúa khắp nơi trở thành những con người cao cả, là: lòng khiêm nhu, độ lượng, trong phục vụ. Khiêm nhu/khiêm hạ, cả vào lúc được người khác phục vụ mình, đề cao mình nữa…” (x. Richard Leonard sj, bđd)

Tính khiêm nhu độ lượng ấy, nay vẫn thấy ở những đất miền bị mọi người cho là nghèo, là hèn. Đang phát triển. Một Châu Phi. Châu Á. Với, Ấn Độ. Những nơi sản sinh nhiều đấng bậc rất lành tuy chưa được phong thánh, nhưng vẫn nói về Nước Trời ở trần gian, có Chân. Có Thiện. Có Mỹ, như ngài Mahatma Gandhi của Ấn Độ, rất đức độ, như sau:

*Cách hay nhất để tìm lại chính mình, là để mất đi con người mình, bằng việc phục vụ  kẻ khác.”     
*Thiên Chúa nhiều lúc cố tìm ra người để Ngài chúc phúc, nhưng cũng khó.
*Khi chiêm ngưỡng nét diệu kỳ của buổi chiều tà hoặc cái đẹp của mặt trăng, hồn tôi bỗng trải rộng ra hơn, bằng việc phụng thờ Đấng Tạo Hoá.
*Khi ta có được sự hài hoà giữa những gì ta nghĩ, với những gì ta nói và những gì ta làm, đó là lúc ta thực sự có hạnh phúc. 
*Nếu ta thực sự muốn dạy cho thế giới này biết về hoà bình, và dấy lên cuộc đấu tranh chống lại chiến tranh, thì có lẽ ta phải bắt đầu từ nơi con trẻ.
*Với tôi, vẫn là chuyện huyền bí để nghĩ rằng sao mà con người vẫn cứ cho là mình được tuyên dương bằng sự khiêm hạ/nhún nhường của tha nhân.   
*Thật quá dễ để ta có thể làm thân với bạn bè của người khác. Nhưng làm bạn với người mà mình cho là kẻ thù, vẫn là bản chất của tôn giáo đích thực. Ngoài ra, tất cả chỉ là chuyện làm ăn/tầm phào, mà thôi.
*Về nguyện cầu, tốt nhất nên có con tim không lời lẽ, hơn là có lời lẽ mà không con tim.  
*Không có gì làm ta phí phạm thân xác bằng sự lo lắng. Những ai không có niềm tin vào Thiên Chúa sẽ phải xấu hổ mà ưu tư về bất cứ thứ gì, giống như thế.
*Chỉ mỗi phục vụ độc nhất cho một con tim bằng hành động duy nhất nào đó, vẫn tốt hơn là cả ngàn cái đầu cứ co cụm lại cúi rạp, mà cầu kinh.   
*Đừng nên để mất niềm tin vào nhân loại. Bởi, nhân loại là biển cả bao la, nếu chỉ một giọt nước biển bị dơ bẩn, toàn biển cả đâu có bẩn dơ.
*Chính ta phải là sự đổi thay, nếu muốn thế giới này thay đổi.

Trên đây là những lời lẽ nói lên được nhiều điều, chẳng cần phải thêm thắt một lời bàn nào hết. Bởi, càng có lời bàn, ta càng làm cho những lời ấy rối rắm, những ưu tư. Ưu tư – lo lắng, như lời bàn về giảm suy số lượng những người còn niềm tin nơi Đạo. Chí ít, là chất Đạo của niềm tin.

Lời cuối hôm nay, bần đạo xin đề nghị, là: cứ thế mà hát vang câu ca của nghệ sĩ, từng viết:

“Nha Trang lời này mong sao nhắn tới,
tuy xa bao nhiêu ngày rồi, mộng đẹp còn
luôn với tôi.”  
 (Minh Kỳ/Hồ Đình Phương- bđd)

Nếu đồng ý với nghệ sĩ, mộng đẹp hôm nay về niềm tin hay bất cứ thứ gì, vẫn là điều mà bạn và tôi, ta mong ước. Mong ước nhiều, về niềm tin vẫn có trong ta. Nơi ta. Niềm tin của ta và của người, vẫn được Thầy Chí Thánh nhắc nhở, ở Tin Mừng:

“Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống;
Phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu.
Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy,
thì Thầy không có quyền cho,
Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai 
thì kẻ ấy mới được.”   
(Mc 10:  39-40)

Thêm nữa một lời cuối, là một nhắc nhở, rằng: niềm tin cũng là quà tặng, từ Đức Chúa. Chí ít, là số người đi nhà thờ, để kính tôn.

  Trần Ngọc Mười Hai  
vẫn cầu cho mình
đừng quá lo về số lượng,
để rồi nghi ngờ về chất lượng của niềm tin.
Anh em mình. 
       

3. “Thương nhau thật nhiều 
biết mấy tin yêu”
Cho nhau trọn tình dẫu có điêu linh 
Xa nhau trọn đời vẫn nhớ thương nhau
(Nguyễn Trung Cang – Thương nhau ngày mưa)

(Ep 4: 3)
Chừng như, con dân nhà Đạo mình vẫn có lề thói khá quen quen, là: “thích đồ cổ”. Đồ rất cổ, bần đạo muốn nói ở đây, có thể là “truyền thống giáo phụ”. Là, lề lối “bảo thủ”, khó gột bỏ. Gọi đó là tính nệ cổ, cũng rất đặng. Nên vừa rồi, bần đạo có dịp nghe câu hát: “cho nhau trọn tình, dẫu có điêu linh”, và: “xa nhau trọn đời vẫn nhớ thương nhau”, lại thấy nhớ. Thấy rất thấm. Thấm đến độ, bần đạo bèn lại ngẫu hứng phiếm lai rai, cùng  bàu bạn hôm nay.
Ôi thôi chết! Bần đạo nói thế cũng không phải. Thấy mà thương ở đây, chẳng cứ là thương hại. Hay thương tâm. Rất tội nghiệp. Cũng không là, thương cảm, thương “cho roi cho vọt”, lọt tọt chẳng còn gì để thương. Để nhớ. Thương ở đây, là: “thương nhau thật nhiều biết mấy tin yêu”. Nói đúng hơn, thương là: thương và tin trọn đời. Dẫu điêu linh. Mất định hướng. Rất lúng túng.
Quả thật, bần đạo thấy lúng túng khi buộc phải minh định lập trường về những “nệ cổ”/cổ lệ, mà người thời nay, ít để ý. Nhưng vẫn thương. Thương, cho người bận tâm/để ý những chuyện xa vời, ít vấn vương. Không quan trọng. Trong cuộc sống.
Trước khi đi xa hơn, về những chuyện không vương vấn, lấn cấn sự sống, bần đạo mời bạn mời tôi, ta mời mình thử tản mạn qua truyện kể rất lễ mễ, ở bên dưới:

“Thánh lễ vừa xong, bé em chạy đến gần chủ tế 
vừa giảng xong. Bé ngước đầu tuyên bố, rất dõng dạc: 
-Mai ngày khi khôn lớn, con sẽ kiếm thật nhiều tiền, đem đến tặng cha.” 
-Cảm ơn con nhiều. Nhưng sao lại làm thế?
-Bởi vì, mỗi lần ba con đi nhà thờ nghe cha giảng.
Về nhà, Ba cứ bảo: ông cha, dạo này giảng có lẽ nghèo nàn nhất, trong số các cha mà ba vẫn nghe!”  

Câu đó, không chắc có phải vì nghe cha giảng, thấy cha nghèo. Hay, bài giảng của cha bao giờ nghe thấy cũng nghèo, so với các vị khác, không? Chuyện này, bần đạo không dám quyết đoán. Nhưng, mỗi lần nghe cha/thày giảng/giải, cũng nên suy nghĩ, chứ đừng nên có động thái như bé ở trên. Chí ít, là khi ta nghe cha/cố chuyên giảng/giải về những chuyện xa xưa, giống trái đất.
Xưa như đất, là vấn đề thời đại. Lâu nay. Thời buổi này, vẫn còn những hỏi/đáp để giải mã những thắc mắc về nhà thờ, ở bên dưới, nghe cũng ngộ:

“Tôi vẫn nghe nói: ta phải cúi đầu khi đi lễ. Thứ nhất, là cúi đầu khi đọc Kinh Tin Kính, có còn buộc phải làm nữa hay không? Dường như, chẳng còn mấy ai nhớ làm chuyện ấy. Người bước lên đọc Sách thánh, cúi đầu là bái bàn thờ hay bái ông cha chủ tế? Cúi như thế, phải cả người hay chỉ mỗi đầu, mà thôi? Xin cho biết.”

Hỏi và đáp những chuyện cũ xưa /cổ lỗ, vẫn là
“nghề của chàng”. Chí ít, của “chàng trai linh mục”, mà kinh nghiệm giải đáp thuộc cỡ thượng thừa, rất John Flader, nơi tờ The Catholic Weekly, như sau:

“Trước hết, xin dành câu trả lời cho câu hỏi chót hết, dựa trên sách của Gm Peter Elliott có tựa đề: “Các Lễ Nghi trong Nghi tiết Phụng vụ La Mã”. Giám mục Elliott từng nói rõ: có hai loại cúi đầu trong nghi tiết Phụng vụ, là: cúi cả người hoặc cúi rạp mình, và cúi đầu, mà thôi. 
Cúi rạp mình, tức cúi gập ngang lưng nghiêng mình về phía trước,là kiểu cúi trong khi cử hành thánh lễ; cúi trước mặt chủ tế vào trước và sau khi xông hương. Đây cũng là lối cúi mình trước Giám mục, mỗi khi đến gần ngài, từ chỗ ngài mà đi, hoặc mỗi khi đi ngang trước mặt ngài (mục 202).
Viết những điều này, trước tiên, Gm Elliott viết cho các thừa tác viên giúp lễ, chứ không phải cho bổn đạo đừng ngồi dưới bàn quỳ. Cho nên, ta cũng nên thêm một điều nữa là: mọi người chúng ta hãy cúi đầu thật sâu trước khi lĩnh nhận Mình Máu Chúa, nếu như người ấy muốn rước lễ theo tư thế cúi đầu, thay vì bái gối hoặc quỳ mà rước lễ.
Cũng nên thêm một điều, là: việc cúi đầu trong khi đọc Kinh Tin Kính vào lúc đọc câu “và bởi phép Chúa Thánh Thần Ngài đã nhập thể trong cùng lòng Đức Nữ Đồng Trinh Maria, và đã làm người.”
Mỗi năm hai lần, vào dịp lễ Giáng Sinh và lễ Truyền Tin, các tín hữu đều bái gối khi đọc những lời như thế, thay vì chỉ cúi đầu. Quả thật, là ngày nay nhiều người không còn biết cúi đầu nữa, thật đáng buồn. Trước ngày cải tổ phụng vụ hơn 40 năm về trước, toàn thể cộng đoàn đều cùng với vị chủ tế, đều bái gối mỗi khi đọc những lời như thế, trong Kinh Tin Kính. Và lúc đó, chẳng một ai thắc mắc về mầu nhiệm cao cả Con Thiên Chúa Xuống Thể, làm người. Và cũng từ ngày Hội thánh cho phép chỉ cần cúi đầu thay vì bái gối, nhiều người không còn tỏ dấu hiệu gì, để cung kính.
Để trả lời cho câu hỏi thứ hai, Gm Elliott cũng nói: người bước lên bục để đọc sách, trong lúc bước lên cung thánh, cũng cúi đầu trước bàn thờ, sau đó trước vị chủ tế, rồi mới bước lên bục, để đọc (mục 258). Cả hai lối cúi này, đều là cúi sâu từ ngang lưng.
Về cúi đầu trước vị chủ tế, không thấy nói trong sách nghi tiết phục vụ, như nói trong các nghi thức do Đức Giám mục cử hành, làm chủ tế  (mục 76-77), có thể coi như thói quen cung kính diễn tả với vị linh mục. Chính vì lý do này, mà Gm Elliott đã nói đến trong sách của ngài (mục 258).
Một số người có thể thắc mắc hỏi tại sao người bước lên đọc sách không cần bái gối trước nhà tạm, khi bước lên cung thánh. Lý do, là vì Sách Các Lễ Nghi trong Nghi Thức Phụng vụ La Mã có nói là: nếu nhà tạm có Mình thánh Chúa được đặt trên cung thánh, thì “linh mục, phó tế, và các thừa tác viên đều bái gối khi bước lên và khi rời cung thánh, nhưng không phải vào lúc đang cử hành thánh lễ. (sđd mục 274)
Lối cúi khác, tức là chỉ cúi đầu mà thôi, thường đi kèm với cúi nhẹ thân vai. Vị chủ sự nghi thức phụng vụ sẽ làm như thế khi nghe đọc lớn tiếng Tên ba Ngôi cực trọng (tỉ như vào phần đầu kinh Vinh Danh) và vào lúc người đọc cất tên danh thánh Đức Giêsu, Đức Mẹ và các thánh mà buổi lễ hôm đó được cử hành, để mừng kính (m 275).
Nhiều bổn đạo vẫn có thói quen cúi đầu mỗi khi nghe đọc đến tên cực trọng Đức Giêsu hoặc Đức Mẹ. Cũng thế, cũng là thói quen thông thường của nhiều người trước mặt chủ tế mỗi khi bưng khiêng các vật thể trong kiệu rước lễ vật dâng tiến Chúa, và cúi đầu mỗi khi đưa hoặc nhận lễ vật dâng tiến với chủ tế.  
Về việc này, Gm Elliott có nói: Chỉ cúi nhẹ một chút cũng đủ để tỏ lòng cung kính lẫn nhau và biết ơn trước và sau khi nhận vật gì hoặc làm việc gì, theo cách nào đó, vào khi cử hành nghi tiết.” (m 203)
Cùng một lý do như thế, các thừa tác viên Thánh Thể hoặc chú giúp lễ vẫn thường cúi đầu trước và sau khi đưa bình rượu lễ hoặc dĩa rửa tay cho chủ tế. Cả vị chủ tế nữa, cũng có thể cúi đầu đáp lễ. (x. sđd mục 277)
Mọi kiểu cúi đầu như thế, không nên chỉ coi như việc mang nặng hình thức hoặc vô nghĩa, trống rỗng, mà như dấu hiệu căn bản để tỏ lòng cung kính Đức Chúa hoặc đấng bậc vị vọng, dù đó có là Giám mục, linh mục hoặc thừa tác viên, mà thôi.”(bđd, 08/02.2009 tr. 10)

Cúi đầu thờ lạy, hay chào Chúa Mẹ là chuyện đương nhiên, đã đành. Nhưng, hễ gặp cha cố đấng bậc mà lại cứ phải bắt con chiên ngoan đạo gục đầu chào rất kính cẩn, mới thành chuyện. Chuyện, là chuyện dây dưa khi xưa, hôm nay. Ở nhà Đạo. Cũng rất nản. Nản, vì cứ phải nghe, phải biết những chuyện cãi tranh, lanh chanh cùng đố kỵ như chuyện “cũ/mới được giỡ bỏ”. Chẳng hạn như chuyện giỡ bỏ mọi “dứt phép thông công” đối với 4 vị giám mục từng gây tranh luận, nổ như đom đóm. 
Nổ nhiều nhất, là chuyện vừa mới xảy ra có liên quan đến Gm Richard Williamson đã bất chợt công khai có thái độ chống Do thái. Từ dạo ấy, các giới có thẩm quyền trong Giáo hội đều bài bác thái độ báng bổ của vị giám mục này.
Về cung cách cũ/mới cần có khi cử hành nghi tiết phụng vụ, cũng đã thấy xảy ra một vài bất bình trong/ngoài Hội thánh ở Brisbane, Úc. Bất bình, lại rộ lên trong nội bộ Hội thánh khi chính Đức đương kim Giáo Hoàng Biển Đức có quyết định lạ thường, về nghi tiết phụng vụ này khác, theo kiểu cũ hay theo sau Công Đồng Vatican II. Quyết định của ngài giỡ bỏ việc dứt phép thông công đối với 4 vị giám mục, để làm nhẹ đi mọi căng thẳng vốn có trong giáo hội, từ ngày ấy. Nhưng, việc này lại kéo theo những thách thức về sự hiệp nhất trong giáo hội. 
Phiếm luận hôm nay, không phải để nói “ai đúng ai sai”/ai phải ai quấy. Mà chỉ muốn bảo rằng, trong mọi thử thách đối với sự hiệp nhất trong giáo hội, ban ngành, đoàn thể trong xã hội, luôn cần đến thương thảo. Việc thương thảo bao giờ cũng tế nhị. Tế nhị, là vì trong mọi cuộc tranh và cãi, bao giờ cũng có cái giá phải trả đều rất đặt. Cử chỉ hài hoà độ lượng của Đức Giáo hoàng, cùng với việc thừa nhận các cộng đoàn Anh giáo bất phục tùng, luôn đem đến với người trong cuộc, sự thông cảm hiểu biết cần có cho một hiệp nhất.  
Thông cảm cho một hiệp nhất, là luôn nhớ đến lời các thánh viết trong thư, gửi các giáo đoàn, như đoạn bên dưới là một ví dụ cụ thể:
“Anh em 
hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất 
mà Thần Khí đem lại, 
bằng cách ăn ở thuận hoà 
gắn bó với nhau.”
(Ep 4: 3) 

Có thuận hoà gắn bó, mới xứng là nhân chứng cho tình thương yêu của Đức Chúa. Mới là có quan hệ thân thương của dân con nhà Đạo. Của những người hiện đang sống trong Nước Trời, ở trần gian. Quan hệ ấy, dù mang cung cách cũ/mới, dù ở trong hay ở ngoài giới có thẩm quyền, nhà Đạo. Thuận hoà - gắn bó, cả vào khi bạn và tôi, vẫn hát:

“Khi mặt trời vắng bóng,
khi lời nguyền khuất lấp
nghe lạc loài kiếp sống sao mỏi mong..”
 (Nguyễn Trung Cang – bđd)     

Và, thuận hoà – gắn bó, có đoàn kết/hiệp nhất, vào những lúc, có:

“Như giọt buồn nước mắt,
mưa ngại ngùng héo hắt,
thương người về buốt giá, trên đường xa.” 
(Nguyễn Trung Cang – bđd)     

Nói cách khác, dù có buốt giá, xa lạ/cũ mới, ta vẫn cứ: “Thương nhau thật nhiều biết mấy tin yêu”, vẫn cho nhau trọn tình”, trọn nghĩa, trọn chữ thương yêu. Thương cả những người xa lạ, chẳng hề quen. Thương, cả vào khi mình không còn nhớ những ân tình xưa/cũ, để trả nợ. Trả nợ ân tình, dù chỉ là một ngụm sữa nhỏ. Như câu truyện ở bên dưới:
“Một cậu bé nghèo làm nghề bán hàng rong để kiếm tiền học. Một ngày nọ nhận thấy mình chỉ còn mỗi một hào mà bụng đang đói, cậu định bụng sẽ sang nhà kế bên xin một bữa ăn. Một phụ nữ đẹp ra mở cửa. Bối rối trước cuộc gặp gỡ không hẹn trước này thay vì ăn cậu xin uống. Người phụ nữ đoán ra cậu đang đói và mang đến cho cậu một ly sữa lớn. Cậu chầm chậm nhấp từng ngụm sữa rồi hỏi: “Cháu phải trả cho cô bao nhiêu ạ?" Người phụ nữ trả lời: 
-Cháu không nợ cô cái gì cả. Mẹ cô đã dạy không bao giờ nhận tiền trả cho lòng tốt cả.
-Cháu sẽ cám ơn cô từ sâu thẳm trái tim cháu."
Khi ra đi cậu cảm thấy khoẻ khoắn hơn và niềm tin của cậu vào con người cũng mãnh liệt hơn. Trước đó cậu gần như muốn đầu hàng trước số phận.
Nhiều năm sau đó người phụ nữ bị ốm nặng. Các bác sĩ địa phương đều bó tay. Họ chuyển bà đến một thành phố lớn và tiến sĩ Howard Kelly được mời đến tham vấn. Khi ông nghe tên thị trấn nơi người phụ nữ ở, một tia sáng ánh lên trong mắt ông. Ngay lập tức ông khoác áo choàng và đi tới phòng bệnh người phụ nữ ở.
Ông nhận ra được ngay ân nhân của mình năm xưa. Quay về phòng hội chẩn, ông quyết định dốc hết sức để cứu bệnh nhân này. Và cuối cùng nỗ lực của ông đã thành công.
Tiến sĩ Howard Kelly đề nghị phòng y vụ chuyển cho ông hoá đơn viện phí của ân nhân. Ông viết vài chữ bên lề của tờ hoá đơn và cho chuyển nó đến người phụ nữ. Bà nhìn tờ hoá đơn và biết rằng sẽ phải thanh toán nó hết đời mới xong. Bỗng nhiên có cái gì đó khiến bà chú ý và bà đọc những dòng chữ này: "Trị giá hoá đơn bằng một ly sữa." Ký tên: tiến sĩ Howard Kelly

Truyện kể ở trên, chắc nhiều người nghe đã quen. Nhưng, dù quen nghe những truyện kể nhè nhẹ như thế, vẫn nên thêm ở đây lời bàn của người viết, không ký tên: “Hãy mở rộng trái tim với mọi người vì một mai bạn cũng cần người khác mở rộng trái tim, dành cho mình. Do đó, giúp đỡ người khác chính là mục tiêu để được sống hạnh phúc.”
Nói theo kiểu khác, kiểu lạm bàn nhiều phiếm luận, ta có thể bảo: “Thương nhau thật nhiều, biết mấy tin yêu”, chính là biết mở rộng tâm can. Với mọi người. Dù người ấy, chỉ là chú em đi bỏ báo. Không đủ tiền mua nước giải khát, bèn phải xin. Dù chú ấy, nay đã trở thành người nổi tiếng, trong giới y khoa/phẫu thuật, rất Howard Kelly. Howard Kelly hay gì gì đi nữa, ta vẫn cần vòng tay mở rộng. Mở, trái tim. Mở, cho mọi người. Dù, người chỉ mở bằng bát chè xanh. Tươi mát. Đầy hạnh phúc.
Có cởi mở, người người mới đi vào cuộc sống thân thương, thoải mái. Sống hăng say, chẳng câu nệ chuyện cúi gập người. Hoặc, chỉ cúi sơ mỗi cái đầu. Có cởi mở, mới thấy đời đi Đạo của người mình, đâu câu nệ gì chuyện cúi hay không cúi. Nhưng vẫn kính. Vẫn tôn. Vẫn thờ lạy.

Có cởi mở, mới hát rằng:

“Như mưa ngày nào, thấm ướt vai em,
như mưa ngày nào, khuất lấp sao đêm
Thương em ngày nào, khóc ướt môi mềm.”
 (Nguyễn Trung Cang – bđd)     

Có cởi mở, mới lại thấy:

“Thần khí của Đức Chúa ngập tràn cõi đất,
bảo toàn mối hiệp nhất giữa muôn vật muôn loài,
thấu hiểu hết mọi lời mọi tiếng.” 
(Kn 1: 7)

   Và, khi có Thần Khí tràn ngập, thì: dù “Xa nhau trọn đời, vẫn nhớ thương nhau”. Đó là cuộc sống Nước Trời. Đó là tình thân thương cộng đoàn, con cái Chúa. Ở trần gian.

Trần Ngọc Mười Hai
Thêm một lần tự nhủ
về những cúi đầu rất thương yêu.
Trọn đời.


.4. “Gió bay từ muôn phía” 
tới đây ngập hồn anh, rồi tình lên chơi vơi.”
(Đoàn Chuẩn/Từ Linh – Tà Áo Xanh)

(Ga 6: 61)
Tình nghệ sĩ, có là tình chơi vơi, lên như gió. Rất ngập hồn. Hay vẫn là, tà áo xanh. Bay muôn phía. Kín như mây trời. Ngồi chờ sáng?... 
Ngồi tản mạn, bần đạo thường tự hỏi: “tình mình bây giờ”, có là tình của nhà Đạo vẫn được bảo, từ lời kinh chăng? Lời kinh Đạo Chúa rất Phúc Âm, vẫn là tình của Kinh Sách. Không tranh chấp. Chẳng kỳ thị. Rất dễ nhận. Bởi lời kinh Chúa phán, chứ không như ca từ người nghệ sĩ vẫn cứ hỏi:

“Sao mùa xuân, lá vẫn rơi?
Sao mùa xuân, lá vẫn bay?
Em ơi, có hoa nào không tàn?
Có trời nào, không mây?
Có tình nào, không phai? 
(Đoàn Chuẩn/Từ Linh – bđd)

Tình đời là như thế. Còn, tình người đi Đạo chắc sẽ “không nhạt phai”. Bao giờ. Duy, có tình tự mà người tin vào Đạo Chúa, và Đấng Allah, lại thấy có điều khá lạ. Rất nghịch lý. Nghịch thường. Nghịch lý với nghịch thường ở hai Đạo? Nghịch lý là gì? Nghịch thường là sao? Có gì giống nhau giữa hai đạo, về nghịch lý? 
Để hồi đáp, có lẽ cũng nên có một thoáng mạn đàm/định nghĩa về cụm từ này. Theo định nghĩa của tác giả Nguyễn Văn Khôn, trong “Hán Việt từ điển” thì: “nghịch lý” là những gì trái  lý lẽ, thường tình. 
Với nhà Đạo, nghịch lý là những gì khác với lý sự bình thường. Với, những chuyện rất nghịch nhĩ, khi mới nghe. Nhưng, suy cho kỹ, vẫn là sự thật thường tình, trong đời. Một đời rất Đạo. Một sự thật về yêu thương và tha thứ trong đạo, như Lời Chúa nói ở Tin Mừng thánh Máccô, như: 

“Quả thật, 
nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, 
còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu" 
(Mc 10: 31)

hoặc Tin Mừng thánh Mátthêu: 
“Vì kẻ được gọi thì nhiều, 
mà người được chọn thì ít.”
(Mt 22: 14)

Mới đây, một tác giả ở Úc, là Lm Herman Roborgh sj có nghiên cứu về những nghịch lý/nghịch thường nơi Đạo Chúa và Hồi giáo, đã tìm ra 5 nghịch lý/nghịch thường “hơi giống nhau” được liệt kê và mạn bàn, ở bên dưới:    
Nghịch thường thứ nhất: 
Người Đạo Chúa và Hồi giáo, đều coi mình là tôi tớ và bạn của Chúa.
Thánh Kinh nói: Đức Kitô đến, để phục vụ. Chứ, không phải để được phục vụ. Thế nên, người nhà Đạo vẫn coi mình là kẻ tôi đòi. Tức, bày tôi chỉ đòi phục vụ lẫn nhau. Mà thôi. Mặt khác, Đức Giêsu cũng nói: Ngài có quan hệ thân thương/mật thiết với Chúa Cha. Vì thế Ngài gọi:“Abba! Cha ơi!” là như thế. Ngài còn khích lệ những kẻ dấn bước theo Ngài rằng: họ không còn là tôi tớ, nhưng là bạn của Ngài. Ngài muốn dân con/đồ đệ biết đường mà sẻ san tương quan mật thiết với Chúa.  
Cũng thế, Kinh Koran gọi các kẻ tin nơi đạo Hồi là tôi tớ của Thiên Chúa. Tức, những người biết từ bỏ chính mình để thần phục và tuân giữ lệnh truyền của Thiên Chúa. Vì, Ngài là Đấng Quyền năng sáng láng biết rõ tâm can bí ẩn, của con người. Kinh Koran, cũng nói: Thiên Chúa quan hệ với con người qua cung cách hiền từ, xót thương:“Thiên Chúa là Đấng từ bi nhân hậu. Ngài tỏ lòng thương xót, hết mọi người.” Tôi tớ nào vững tin sẽ được gọi mời về với tương quan có Chúa, qua Đấng Quyền năng vẫn gần gũi họ. Gần hơn cả tĩnh mạch đưa vào trong tim.
Xem như thế, ca từ người nghệ sĩ ở trên, nên nghe thêm:

“Em còn nhớ anh nói rằng:
khi nào em đến với anh,
xin đừng quên chiếc áo xanh.” 
(Đoàn Chuẩn/Từ Linh – bđd)

Đến với anh. Với Chúa. Trong tương quan mật thiết, thân thương, cũng đừng nên quên tấm áo của lòng thanh thanh, trong sạch. Chiếc áo xanh hay lời kinh đêm, là chỉ dẫn về một nghịch lý hoặc nghịch thường khác, ở 
bước thứ hai:
Nơi Đạo Chúa và đạo người Hồi, cả hai đều coi niềm tin của con dân mình, là con đường đích thực. Cả hai đều khẳng định về đường lối nhỏ, khác. Nhà Đạo tin Đức Kitô là Con Đường, dẫn đến Chúa. Bởi, chính Chúa đã mặc khải:

“Tôi nói cho các ông hay: 
từ phương đông đến phương tây, 
nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng tổ phụ 
Áp-Ra-Ham”
(Mt 8: 11)

Xem thế, có thể nói: Hội thánh Công giáo, công nhận người ở ngoài cũng có được ơn cứu độ. Hội thánh, công nhận giá trị của đường nhỏ khác, dẫn đến Chúa.
Tợ như thế, kinh Koran nói: Thiên Chúa chọn đạo Hồi làm tôn giáo rất thực:“Hôm nay, Ta hoàn thiện đạo cho các ngươi. Ta hoàn tất mọi chúc lành để gửi đến với các ngươi. Và, Ta chọn tôn giáo cho các người là đạo Hồi.” Đồng thời, kinh Koran thừa nhận niềm tin của người ở ngoài, như sau: ‘người đạo Hồi, đạo Do Thái, Thiên Chúa giáo hay Sa-bian, đều tin vào Chúa. Tin vào ngày Cánh chung. Mọi đạo đều làm điều tốt lành. Đều được Thiên Chúa thưởng công bội hậu.”
Rõ ràng là thế, mà sao nghệ sĩ xưa, vẫn coi đó như nghịch thường, nên mới viết:

“Lúc anh ra đi, lạnh giá tâm hồn
hoa mai rơi, từng cánh trên đường
lạnh lùng mà đi, tiếc nhớ thêm cho
hoa tàn, nhạc bay theo không gian.” 
 (Đoàn Chuẩn/Từ Linh – bđd)
Thật ra, hoa có tàn/nhạc có “bay theo không gian”, thời gian đi nữa, thì niềm tin người Đạo Chúa, nào phai nhạt? Chắc chắn là thế, như lời kể về 
nghịch thường thứ ba, ở hai Đạo:
Điểm thứ ba, mà người Đạo Chúa lẫn đạo Hồi đều công bố sự thật niềm tin của mình, là: vẫn quyết tâm đạt đến đối thoại. 
Cụ thể hơn, Tân Ước nói: Đức Giêsu sai phái con dân/đồ đệ Ngài ra đi mà giảng dạy và làm phép rửa nhân danh Cha, Con và Thánh Thần. Và, vào lúc Chúa sinh, Thần thánh trên thiên cung, đã đồng thanh loan tin vui mà hát rằng: “Bình an cho người được hưởng ân huệ của Chúa”. Công Đồng Vatican II đã khích lệ kẻ tin Chúa hãy sống hài hoà, bình an với đạo Hồi. Có nhiều văn kiện, cũng hỗ trợ cuộc đối thoại giữa các kẻ tin vào cùng một Chúa. Dù khác giáo phái.
Cũng thế, truyền thống đạo đức từng đặt nền tảng trên Kinh Koran và luật Sunna của tiên tri Mohammad cũng khuyến khích người đạo Hồi mời gọi mọi người theo đạo của họ, và dặn rằng: “Không nên cưỡng bức người khác theo tôn giáo mình.” Kinh của đạo Hồi, còn khuyến khích người theo đạo này nên kiếm tìm mẫu số chung giữa họ và các đạo khác. Nên, mới bảo:“Đức Chúa của chúng ta và Thiên Chúa của anh em, cũng là Một. Cùng giống nhau.”
Dựa vào các điểm trên, ta tự hỏi: phải chăng nghệ sĩ xưa đã “ngộ”, nên mới hát:

Biết nhau để mà nhớ
nhớ nhau để sầu dâng
tình trần ôi mong manh…” 
 (Đoàn Chuẩn/Từ Linh – bđd)

Mong manh. Tình sầu dâng. Là bởi, người đời chưa nhận ra nghịch thường/nghịch lý, bước thứ tư:
Nghịch thường bước thứ tư, là: tín hữu hai đạo đều nhận ra phương cách thành kẻ tin: cách bình thường và cách hoàn thiện hơn. Hẳn, kẻ tin chúng ta đều biết: Đức Kitô đến, không phải để phá huỷ lề luật hoặc dẹp bỏ tiên tri. Nhưng, là dạy mọi người biết thực thi phương án tốt nhất. Tức, tuân thủ lề luật, thật đúng cách. 

Ngài vẫn dẫn dụ: ‘đó là cửa hẹp. Là, con đường gồ ghề dẫn đến sự sống’. Ngài đã chẳng khuyên răn người thanh niên giàu có, trong Tin Mừng, là: 

“Nếu anh muốn trở nên hoàn thiện, 
hãy bán tài sản của anh đi 
mà đem cho người nghèo, 
anh sẽ được một kho tàng trên trời. 
Rồi đến theo tôi." 
(Mt 19: 21)

Tựa như thế, kinh Koran cũng chuyển đến người người đi theo đạo Hồi, cũng một thông điệp có lời dạy về niềm tin được các ngôn sứ phổ biến từ thời Abraham: 

“Người dẫn dắt tôi vào nơi thẳng tắp, chính trực, 
vào với niềm tin của Abraham, đấng công chính, 
với niềm tin trinh trong, 
không phải là đa thần.”        

Kinh Koran công nhận mức độ khác nhau để giúp người theo đạo mình, biết đường mà gần gũi đấng Allah. Biết, nói về ‘con đường thẳng tắp’ tạo nhiều thứ; hơn là đòi hỏi qui cách bình thường, nơi kẻ tin. Người đi đạo Sufi, tức đạo có mặt ở trần gian, trước đạo Hồi, cũng đã triển khai ‘con đường’ và ‘trạm dừng chân’,  tương tự. Nơi, qua đó kẻ theo đạo Hồi có những bước tiến dài, trong sống đạo.

Có thể là, vì nhớ những chuyện tương tự, nên nghệ sĩ xưa vẫn hát:

“Em còn nhớ anh nói rằng 
tâm hồn anh dễ chóng quên
tâm tình anh dễ chóng phai.
Em ơi, có đâu ngờ đến rằng
có tình nào không phai
như tình anh với em.” 
(Đoàn Chuẩn/Từ Linh – bđd)

Nghịch lý/nghịch thường, là ở chỗ: tuy được dạy rằng “tâm hồn anh/tâm em dễ chóng quên”. Tâm hồn anh và mối tình cũng em, cũng dễ phai. Phai hay nhạt, còn tuỳ thuộc cố gắng của kẻ tin. Vẫn cố gắng chống lại sự dữ/ác thần. Để rồi, cầu Chúa ban ơn thứ tha cho riêng mình. Bước thứ năm:
Thứ tha/hoà giải, là những nghịch lý/nghịch thường bước thứ năm. Ở hai đạo.
Nghịch thường ở đây rất dễ thấy. Nhất là khi, ta nghe Chúa nói: 
“Thầy đến 
không phải để đem bình an, 
nhưng để đem gươm giáo.” 
(Mt 10: 34)

Ngài nói thế, để chỉ trích các nhà lĩnh đạo tôn giáo, chỉ biết sống như người giả hình. Và, Ngài từng đuổi đám người buôn thần bán thánh ra khỏi đền thờ, là vì thế. Ngược lại, Ngài còn dạy con dân/đồ đệ biết thứ tha cho kẻ địch thù. Bởi, chính Ngài đã tha cho những kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá. Hạ nhục Ngài.
Kinh Koran cũng cho phép người theo đạo Hồi, ‘tranh đấu tuân theo đường lối của Thiên Chúa’, và tuyệt đối ngăn cấm họ gây hấn. Trái lại, Kinh này còn khuyên họ biết hối lỗi và thứ tha. Coi đó, như chọn lựa phải lẽ. Đấu tranh, bao giờ cũng phải được cân bằng với tha thứ. Hối tội.
Nói cách khác, dân con Đạo Chúa lẫn người đi theo đạo Hồi đều thấy chuyện nghịch lý/nghịch thường ở quá trình truyền thống, của đạo mình. Chối bỏ, hoặc tránh né các thực tại nghịch thường/nghịch lý, cũng chẳng lợi ích gì. Trái lại, tất cả những nghịch ngạo ấy đều đi vào cuộc sống của kẻ tin. Nhờ đó, cho ta biết đến sự cao cả của Thiên Chúa. Vẫn luôn hiện diện. Trong trần thế. Nơi ta. (x. Herman Roborgh, Eureka Street 25/6/2009)
Cảm nghiệm điều này, hẳn nghệ sĩ nhà mình đi dần vào kết luận, rất thực tiễn? 

“Rồi chiều nào băng giá
tâm hồn tìm đến nhau
Em mơ trong tiếng hát
Anh mơ trong nét bút, đa tình sao.” 
(Đoàn Chuẩn/Từ Linh – bđd)

Đa tình sao? Là bởi, “nhạc đời còn ghi những nét thương yêu”, nên người người vẫn mãi ghi đậm các nghịch lý/nghịch thường ở lời dạy, nơi nhà Đạo. Nghịch thường trong cách diễn tả. Nhưng, không nghịch ngạo, trong cuộc sống. Bởi, sống Đạo là sống chung cùng với những nghịch lý/nghịch thường. Của nhiều thứ. Các thứ và những sự, cứ diễn ra hằng ngày, chốn nhân gian. Trần thế.   Suy cho cùng, dù gặp nhiều nghịch thường trong cuộc sống, ta vẫn nhớ lời nhắn nhủ từ Đức Chúa, ở Tin Mừng:

“Thần Khí mới làm cho sống, 
chứ xác thịt chẳng có ích gì. 
Lời Thầy nói với anh em 
chính là Thần Khí và là Sự Sống.”
(Ga 6: 61)  

Nhờ Thần Khí là Lời, ta hiểu được thế nào là nghịch thường/nghịch lý, trong cuộc sống. Những chuyện rất nghịch và rất thường, vẫn xảy đến. Với ta. Ở đời thường. 

Để minh hoạ cho chuyện phiếm hôm nay, mời bạn mời tôi, ta nghe thêm một truyện kể, khá nghịch nhĩ, mà người thường ở huyện vẫn cứ gặp. Trong cuộc đời. Như sau:

“Hai vị cao niên sống ở viện, cứ nhìn trời nhìn đất rồi nhìn nhau, thấy hoài cũng chán. Các cụ rủ nhau ra ghế đá công viên ngồi một chốc, xem trời đất thiên hạ có còn xoay vần theo kiểu nghịch ngạo như trước không. Trong khoảng thời gian rất phút chốc, hai cụ hỏi nhau:
-Này ông bạn, tôi nay 83 cái xuân tròn. Cũng biết khá nhiều chuyện. Chuyện không xuôi rót, trót lọt hoặc chuyện rất bình thường. Nhưng sao dạo này, bọn trẻ cứ làm nhiều chuyện ngược đời, rất khó coi? Còn cụ, cụ có nhận xét gì về những lý lẽ rất nghịch ngạo ấy không? Có khác xưa, không? Tôi thấy nhiều cái ngược đời, nữa đấy cụ.
-Chẳng giấu gì cụ, tuổi tôi đây không bằng tuổi cụ, nhưng cũng thấy mình bây giờ như con nít.    
-Con nít nghĩa là làm sao, tôi chẳng hiểu?
-Thưa cụ, tôi có cái cố tật, là: xưa kia, cái gì cũng chơi, cũng thử hết. Vì thế, giờ này mới ra nông nỗi này. Nghĩa là, già đầu mà như con nít. Người thì to lớn. Mà, ăn với uống chỉ tí chút, như trẻ con. Xử sự thì không còn giống như người lớn, vẫn hệt như con trẻ. Muốn ăn là ăn. Muốn ngủ là ngủ. Chẳng giờ giấc. Chẳng nghe ai. Bởi thế nên, các cụ ta hồi xưa nói có lý, chứ đâu nào nghịch ngạo: “một già một trẻ, ngang nhau.” 

Già trẻ ngang nhau, có thể là nghịch lý, ở đời thường. Bởi vậy, nên người thường hễ gặp người già hay bọn trẻ, đều “kính nhi viễn chi”. Vẫn đưa các cụ vào viện, như đưa con trẻ vào chốn ‘ký nhi’, để khỏi gặp nghịch cảnh, trong đời mình.
Sống đời nghịch cảnh, có những chuyện nghịch ý, vẫn là chuyện thường rất ngỗ, mà không nghịch. Bởi, có nghịch ngạo hay nghịch biện, nhưng không nghịch luân nghịch đức, là tốt rồi. 
Thế nên, lời cuối gửi đến tôi/đến bạn, là ta cứ thế mà sống. Cứ thế, nghe lời giảng dạy của đấng bậc rất cao, nhưng không nghịch. Dù, nghịch biện, nghịch giải. Dù, nghịch liệu, nghịch thuyết. Rất thường tình. Ở trần thế.

Trần Ngọc Mười Hai
mong quen dần 
với các nghịch biến của đời thường.
Ở huyện. 



5. “Mời người lên xe về miền quá khứ” 
Mời người đem theo toàn vẹn thương yêu.”
(Phạm Duy- Nghìn trùng xa cách)

(Ga 6: 56)
Về miền quá khứ, phải chăng là về với tình của Chúa. Thân thương. Trìu mến. Nguyên vẹn. Về, là về với những ảnh hình khó quên, thời ấu thơ. Đơn sơ. Vô tư lự. Về, là về với quê miền Chúa nhắc nhở, rất nhiều lần.
Được nhắc nhở, cũng như được nghe đi nghe lại nhiều lần, những nhạc bản tương tợ tình tự “nghìn trùng xa cách”, mà bần đạo thấy giống như nhiều người. Thấy, lòng mình dâng cao một cảm tính. Tình tự. Khó tả. Khó, cả vào khi nguyện cầu. Lúc dâng lễ. Có linh mục.
Nếu gọi đó là, “nghìn trùng cách xa”, cũng không đúng. Gọi bằng lời ca ở dưới, chắc phải hơn:

“Đứng tiễn người vào, dĩ vãng nhạt mầu
sẽ có chẳng nhiều, đớn đau.”
(Phạm Duy – bđd)

Gọi gì đi nữa, hôm nay đi vào “dĩ vãng nhạt mầu”, lòng người thấy mình lâng lâng khác nào tình tự của những người kể truyện xưa, có “dĩ vãng nhiệm mầu”, có “tình mình bây giờ”, ở dưới:

“Người mẹ trẻ, đang bận nấu nướng với sắp đặt đĩa bánh bông lan thơm phức, mừng ngày người con nhỏ rước lễ lần đầu. Vui với bạn. Bà bỗng thấy hai con, đứa anh tên Bình, đứa em tên An, rõ ràng là thế mà sao vẫn nhanh chân, dành phần, đòi ăn trước. Mẹ hiền, nhân cơ hội, liền dạy cho các con thêm một bài luân lý để đời, rất  “công dân giáo dục”, rằng:

-Ví thử hôm nay Chúa đến mừng lễ; cùng ngồi ăn với các con. Chắc, Chúa sẽ ngồi chỗ đó, hai con thì ngồi ở đây. Chúa làm phép, Ngài cầm bánh lên, rồi nói: “Này là bánh tình thương, có giao ước.” Con chắc sẽ xin nhường phần ăn trước, cho người anh em, đang ngồi chờ. Còn con, xin dùng sau!... Thế, còn các con, bây giờ các con sẽ xử sự như thế nào?
Thằng em dành nói trước:
-Con, thì con nói với anh: Anh Hai à! Bữa nay anh làm Chúa Giêsu, nhe. Đồng ý nhé?
-Không. Anh không đồng ý tí nào. Em làm Chúa Hài Đồng. Mới giống.”

Làm Chúa Hài Đồng, hay làm Đức Chúa buổi Tạ Từ, vẫn là làm Kitô-khác. Làm Kitô-khác, là thực hiện sống đời phụng vụ, toàn cả năm. Sống Phụng vụ Lời Chúa, trước ngày Ngài ra đi thực hiện công trình cứu độ. Để rồi, Ngài gửi Thần Khí đến với anh em ta, hết mọi người. Sống Phụng vụ, còn là thực hiện cuộc sống sinh động, buổi Tiệc Thánh. 
Thời xưa, khi dự Tiệc Thánh, người dân đi Đạo ít khi được rước Chúa vào lòng, khá thường nhật. Ít, vì luật Hội thánh có những điều khoản, khiến giáo dân khi đi lễ, phải chuẩn bị lòng trí rất nhiều điều. Những là: phải xưng tội để lòng thanh sạch. Sốt sắng. Phải, kiêng nhịn rất nhiều thứ. Kiêng, ít nhất một tiếng trước giờ lễ. Phải, là con nhà đạo đức. Không rối rắm. Lắm chuyên chăm. 
Ngày nay, đặc biệt sau Công Đồng Vatican II, chư thánh ở cộng đoàn được miễn chuẩn khá nhiều. Được rước Chúa vào lòng, cả hai hình thức. Tiệc Thánh hôm nay, được hiểu là Tiệc Lòng Mến, có sẻ san. Sẻ san Mình Chúa. San sẻ, tình người. Nếu ngoài đời, người nghệ sĩ sẽ còn hát:

“Trả hết về người, chuyện cũ đẹp ngời
Chuyện đôi ta, buồn ít hơn vui
Lời nói, lời cười
Chuyện ngắn, chuyện dài…” 
 (Phạm Duy – bđd)

Vâng. Chuyện ngắn, chuyện dài. Vẫn là chuyện hôm nay. Đầy đặn. Ý nhị. Đẹp đẽ. 
Chuyện hôm nay, về Tiệc Thánh/Lòng Mến, mang nhiều ý nghĩa bổ dưỡng cho hành trình, ta vẫn sống. Tiệc Thánh/Lòng Mến hôm nay, là tiệc thức ăn bồi bổ. Củng cố quãng ngày dài, trong đời. Ngày, rao truyền tình yêu thánh thiêng, ta nhận lãnh. Từ cộng đoàn. Cho cộng đoàn. Tính thánh thiêng của Tiệc Thánh/Lòng Mến, gói ghém sâu sắc trọn Con Người Đức Kitô. Chứ, không chỉ là Mình và Máu Thánh, ta rước vào. Mà là, trọn vẹn Con người Đức Kitô. Rất thánh. Rất “người”.
Sâu sắc, trọn vẹn là thế; nhưng, hôm nay, vẫn còn có người cứ thư-từ gạn hỏi ý nghĩa của Hiệp thông/Rước Chúa có là rước đón trọn vẹn Đức Chúa, chứ không chỉ những Mình và Máu Thánh, khi lĩnh nhận. Chính vì thế, đức thày John Flader, ở Sydney đã lại có những giòng chảy chính mạch. Súc tích. Gọn nhẹ, như đã đăng trong The Catholic Weekly, hôm 09/8/2009, tr.10:
“Ông/bạn nói rất đúng. Thật sự, còn đúng hơn bản thân mình nghĩ, nữa. Như tôi có lần nói trong mục/cột này về “Rước lễ theo hai dạng thức”, Hội thánh luôn hiểu rằng: dù ở dạng thức nào, chỉ mỗi Bánh hoặc cả Bánh và Rượu thánh, chúng ta vẫn đón nhận không chỉ Thân Mình hoặc Máu Thánh Chúa thôi, nhưng là trọn vẹn Đức Kitô.
Đây là tín lý về sự kiện mà truyền thống Giáo hội gọi là: Hai việc đi đôi, cùng một lúc. Bởi, ta không thể tách ly Thân Mình Chúa, phân làm hai dạng thức được. Ngài hiện diện theo cách trọn vẹn, dù phần cực nhỏ ở Bánh Thánh hoặc chỉ một giọt Máu Thánh Châu Báu của Chúa.
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, có viết:“Trọn vẹn Đức Kitô hiện diện cách toàn hảo trong mỗi phần, dù rất nhỏ, của Mình Máu Chúa. Xem thế, khi bẻ Bánh, ta không phân xẻ Đức Chúa, bao giờ.” (x.GLHTCG #1377)
Dù, thừa tác viên cầm Mình Thánh Chúa, đưa lên cao và nói: “Mình Thánh Chúa Kitô”, thì Đấng mà ta rước vào lòng, không chỉ là Mình Thánh Chúa thôi, mà trọn Mình và Máu Thánh Chúa. Trọn vẹn Đức Kitô, cách toàn hảo.
Cụm từ “Mình Máu Chúa” có thể làm ta dễ ngộ nhận, lầm lẫn. Lầm và lẫn, ở chỗ: ta cứ tưởng mình đang rước vào lòng, chỉ một phần thân thể Đức Kitô, tựa như có người lầm tưởng rằng Tiệc Thánh Thể là một “sự việc”; hoặc tệ hơn nữa, chỉ đón nhận vào lòng mỗi Thân xác Đức Kitô, Đấng đã chết.”

Nói theo ngôn từ ngoài đời, nếu quan niệm Mình và Máu Chúa theo hai hình dạng tách bạch, há nào, người đời vẫn cứ hát lời của nghệ sĩ, cứ chẳng tin:

“Nối gót người vào dĩ vãng nhiệm mầu
có lũ kỷ niệm trước sau
vài cánh xương hoa nằm ép trong thơ
rồi sẽ tan đi, mịt mù…” 
 (Phạm Duy – bđd)

Không. Không phải thế. Mình Máu Chúa, trước sau không là “kỷ niệm cũ”, cũng chẳng là “vài cánh xương hoa”, như sự vật. Bởi sự vật, sẽ tan đi. Mịt mù. Xa cách. Tách bạch. Đằng này, Thân Mình Đức Kitô, có Mình và máu Thánh, rất trọn vẹn. Hoà hợp. Sống động. Phục Sinh. Như đức thày, nay giải thích tiếp:  
“Thế nhưng, không phải ta nhận vào lòng mình một “sự vật”, mà là rước đón vào trong ta một nhân vật – Nhân vật Sống động đã Phục sinh, là chính Đức Giêsu Kitô. Chẳng thế mà, sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, lại giải thích: “Dưới dạng thức bánh – rượu được thánh hoá, chính Đức Kitô rất sống động và vinh hiển, đang hiện diện theo cung cách rất phải lẽ, rất đích thật và quan trọng.”(x.GLHTCG #1415)
Đó là như thể, khi bước chậm xuống lòng nguyện đường, để đón Ngài vào lòng, ta gặp ngay chính Đức Giêsu sống thực đang từ từ đến ôm chầm lấy ta, và Ngài hiến trọn mình Ngài cho ta. Với trọn niềm tin – yêu như thế, ta sẽ đón nhận chính mình Ngài.
Tuy nhiên, trong Hiệp thông Rước lễ, ta không chỉ đón nhận Ngài mà thôi, mà còn trở nên kết hợp mật thiết với Ngài nữa. Như Chúa đã nói tại nguyện đường Ca-pha-na-um: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy.” (Ga 6: 56)
Ngài hiến tặng chính mình Ngài cho ta trong tương quan thần thánh có Giao ước. Và, ta trở nên ‘một xác phàm” với Ngài. Về sự thật rành rành này, thánh Phaolô tông đồ có thư cho cộng đoàn, khi thánh nhân áp dụng việc Hiệp thông Rước lễ, bằng những lời lẽ như: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.” (Gal 2: 20)
Thánh Thể thực sự là một ân huệ Chúa tặng ban, rất quý. Trái đất này, không có kết hợp nào mật thiết hơn với Đức Kitô, cho bằng Hiệp thông Rước Chúa. Khi đã kết hợp nên một với Đức Kitô theo cung cách này, ta chẳng thể quay về với thói quen của cuộc sống thường nhật, mà lại không thấy có gì đó đặc biệt, vừa xảy ra.
Ngay kìa, thánh nữ Faustina đã ghi nhận những lời lẽ thân mật của Chúa, như sau: “Khi Ta thân hành ngự vào lòng con người vào buổi Hiệp Lễ, thì Tay ta tràn đầy đủ mọi ân huệ lành thánh Ta muốn phú ban cho các linh hồn, nhưng linh hồn chẳng màng để ý. Họ bỏ Ta đó một mình, cứ mải mê làm chuyện khác… Họ lại đối xử với Ta như món đồ chết cứng.” (Nhật ký #1447)
Không. Mình Thánh Chúa không là đồ vật đã chết. Ngài là một nhân vật sống động, là Bản thể Sinh động Đức Giêsu, Đấng hiến trọn Thân Mình Ngài cho chúng ta. Để trở nên một, với ta. 
Hơn nữa. Đức Giêsu không đến một mình. Ngài luôn kết hợp với Chúa Cha và Chúa Con, cùng đến với Ngài. Từ cõi miên viễn, Ba ngôi thần thánh luôn kết hợp trở nên Một. Một Thiên Chúa. Một Thân Mình. Ba ngôi Thiên Chúa không thể tách rời. Đức Giêsu từng bảo: Tôi ở trong Cha và Cha ở trong Tôi.” (Ga 14: 10)
Vì thế, khi đón rước Đức Giêsu, Ngôi Hai trong Ba ngôi Thiên Chúa vào lòng, ta đón nhận trọn vẹn cả Ba ngôi Thiên Chúa, cùng một lúc. Ta thực sự trở thành đền thờ cho Ba Ngôi rất thánh. Như thế là, toàn bộ Thiên Đàng đang ở trong hồn ta.

Thánh nữ Têrêxa thành Lisieux đã có kinh nghiệm về việc này khi thánh nữ đón Chúa lần đầu vào những ngày tháng sau khi thân mẫu của thánh nữ vừa qua đời. Lúc ấy, thánh nữ xúc động đến độ nước mắt tuôn trào, nhưng chẳng phải bởi vì, như thánh nữ có bày tỏ, thân mẫu của thánh nữ không có mặt ở đó.  
Thánh nữ từng viết: “Tựa như sự vắng mặt của mẹ thân yêu đã có thể làm con mất đi niềm hạnh phúc vào ngày con rước Chúa lần đầu! Chừng như toàn thể thiên đường đang đi vào hồn con thoạt vào lúc con đón rước Đức Giêsu vào lòng, cả thân mẫu của con cũng đến với con nữa.” (Chuyện Một Tâm Hồn). 

Tâm hồn trinh trong đón Chúa, là trạng thái tâm hồn hạnh phúc nhất. Hạnh phúc, cả với nghệ sĩ ngoài đời lẫn các vị lành thánh, trong Đạo. Chẳng thế mà, nghệ sĩ vẫn hát câu “nghìn trùng”, như:
“Nghìn trùng xa cách, người cuối chân trời,
Đường dài hạnh phúc, cầu chúc cho người.”  
(Phạm Duy – bđd)

Hạnh phúc, không chỉ là chuyện mình cầu chúc, cho mình và cho người. Hạnh phúc, luôn có đó. Vẫn còn đó. Có và còn, khi mọi người, cả đời lẫn Đạo, đón nhận Chúa ở trong lòng. Nhè nhẹ. Thân thương. Êm ái. Như ý tưởng truyện kể ở bên dưới, để minh hoạ:

“Vợ chồng trẻ mới cưới, chưa kịp thu xếp, vẫn phải ngủ gần phòng của bố mẹ. Có một đêm, anh chồng thấy hạnh phúc dâng cao, bèn thủ thỉ với vợ mới cưới, rằng:
-Em à, anh cảm tạ Chúa đã gửi em đến cho anh. Anh quan niệm rằng em chính là hạnh phúc, là lửa ngọn đời anh. Em là ánh sáng tình yêu. Là, ngọn đèn trái tim anh… 
Bỗng từ phòng bên, có tiếng người mẹ hiền, thúc giục:
-Khuya rồi, tắt đèn mà đi ngủ, hỡi các con…

Nhưng đèn hạnh phúc, một khi đã ngự vào lòng, làm sao tắt?  Thân Mình Chúa, cũng thế. Khi Tình Chúa ở với mọi người, qua dạng thức toàn hảo, thì nỗi niềm hạnh phúc ấy, sẽ là hạnh phúc miên trường. Ấm êm. Chan chứa. Không hề tắt. 

Đó, là ý nghĩa của Thánh Thể. Của Tiệc Lòng Mến. Rất thân quen.

Trần Ngọc Mười Hai
Những mong bạn và mình
        ta luôn trân trọng 
tâm tình này.    










6. “Trầm trầm êm êm thánh thót”
Nhịp nhàng khoan thai thắm thiết 
Nhạc lòng đưa câu luyến tiếc 
Người ơi còn nhớ?..
(Văn Phụng – Tiếng Dương Cầm)

(Rm 10: 15-16)
Với nghệ sĩ hôm xưa, câu hỏi đời thường vẫn đặt, có là: anh nhớ chăng anh, người nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng xứ Ba Lan? Chopin, là tên người. Với nhà Đạo hôm nay, câu hỏi thường đời vẫn hỏi có lẽ là: anh nhớ chăng anh, bổn phận Chúa nhắc nhở, còn là: hãy học hỏi về niềm tin? Tin, là yêu Chúa, đó môn học.
Thú thật với bạn và với tôi, những người đang đọc và viết những giòng này, thì bình thường, người đời thích đọc hơn thích học. Chí ít, là đọc những truyện cười rất vắn. Chẳng chết ai. Như câu truyện văn vắn ở bên dưới:

“Vào lúc cơm lành canh ngọt, hai vợ chồng ngồi nói chuyện đời, với nhau. Chồng hỏi:
-Khi anh nổi giận, la mắng dữ dội, mà sao chẳng bao giờ thấy em có phản ứng gì hết? Em có bí kíp kềm chế cơn nóng giận, hay thế ư?
-Có gì đâu anh. Em chỉ làm mỗi việc, chùi rửa kỳ cọ là xong ngay, hết giận!
-Ngộ nhỉ! Làm mỗi việc chùi rửa kỳ cọ thôi cũng nén cơn tức giận được cơ à?
-Đúng thế. Em cọ rửa bằng bàn chải đánh răng của anh, có vậy thôi!...

Thật chẳng biết, quyết hạ cơn giận bằng những việc làm như thế, có là bí kíp ở đời thường không. Nhất thứ, là bí kíp của thứ tha. Bỏ dồn nén. Bớt tức giận. Hoặc, học hỏi nơi người đồng Đạo, phương cách áp dụng những gì được khuyên dạy, để còn tin?
Thông thường, nhiều người cứ tưởng: muốn trau dồi niềm tin yêu trong Đạo, chỉ cần dõi theo lời răn dạy của các đấng vị vọng, ở nơi cao. Cao ngất, tựa lời dạy ngày thứ Tư ở quảng trường thánh Phêrô, Rôma. Chứ đâu hiểu rằng hiện giờ, tại các trường trung/tiểu học công lập, ở phương Tây, cũng vẫn thấy các buổi dạy về niềm tin, cho con trẻ. 
Đó mới chỉ là một trong nhiều phương cách, rất dễ làm. Trang trọng. Nghiêm chỉnh. Không thua chuyện nguyện cầu, ở tại nhà. Tham dự nghi lễ. Hoặc, ngồi lại mà nói chuyện với con cái, cả vào lúc các cháu còn nằm nôi. Dỗ dạy bằng ảnh hình, ở trong nhà. Bằng, gương sáng ba/mẹ sống, vẫn đối xử với nhau, hiền hoà. Khiêm hạ. Tóm lại, kiểu nào cũng để thuận theo lời dạy, của các thánh.
Như thánh Phaolô từng có lời khuyên, như sau:

“Phàm ai tin vào Người, sẽ không phải hổ thẹn…
Làm sao tin Đấng mà ta không hề nghe biết?
Làm sao nghe biết, nếu không có người giảng rao?
Làm sao rao giảng, nếu không có người được sai đi?..”
(Rm 10: 11-16)

Cũng thế. Tựa như câu hát ở đầu đề, làm sao trả lời câu hỏi “người ơi còn nhớ?” nếu ta không nghe và hát tiếp:

“Chopin ngày xưa vì ai dệt nên câu nhạc lâm ly
cho đời, say trong tiếng tơ,
cho tình, dâng muôn ý thơ…”
(Văn Phụng – bđd)

Chopin ngày xưa, hay câu nhạc hôm nay, có ai hay biết mà nhớ được. Nếu không có người chỉ bảo, dỗ dạy. Chí ít, là ở trường lớp, có thơ và nhạc. Hệt như thế, niềm tin hôm nay, cũng nên điều nghiên, dỗ dạy, cả ở tại nhà hay ngay trường lớp. Không nhất thiết phải ở nhà thờ. Bởi, nhà thờ bây giờ, nào có còn nhiều đám “trẻ người non dạ” ham thích mà lui tới! 
Xưa kia, tại trường lớp các em đến, còn được học đôi bài sách bổn, giáo lý, sách phần. Nay không biết ở trường/nhà Việt Nam, quê hương mình, có còn thế nữa không? Thành thử, cũng nên đặt vấn đề, để tìm hiểu.

Tìm và hiểu, để rồi cùng tiếng dương cầm người nghệ sĩ nổi danh xưa, ta thơ thới:

“Tiếng dương cầm còn vang thiết tha
riêng mình ta đây với ta
chìm đắm trong một giấc mơ…” 
(Văn Phụng – bđd)

Tiếng thơ xưa. Giấc mơ nay. Phải chăng tất cả đều là bận tâm của nhà trường? 
Một số trường ở nước ngoài, khi xưa vẫn có thói quen cho trẻ nhỏ đọc hoặc hát kinh, trước buổi học. Đọc/hát kinh, không có nghĩa chỉ ê a ba câu kinh kệ, do các vị thừa sai khi xưa để lại, bằng thuật ngữ ít người hiểu. Mà là, đọc các ý/đoạn Tin Mừng, qua đó thày/cô vẫn thêm thắt bằng lời giải thích về bí tích. Với lẽ Đạo. Bằng câu hỏi/giải đáp, rất đời thường. Tựu trung, cốt để các em vẫn cứ êm ả mà gói mình trong tình thương yêu của Đạo Chúa.
Ngoài trường lớp, các em cũng có thể học hỏi chung cùng với cha/mẹ bằng cách theo chân các ngài bước vào chốn vắng, rất nguyện cầu. Ở nơi đó, không chỉ có đọc kinh, linh tinh chuyện nghi lễ, tế tự. Mà, bằng lời ca tiếng nhạc. Bằng cả vào thời khắc ba/mẹ gặp gỡ cộng đoàn chuyên chăm, sau nghi thức. Những nói cười. Chào hỏi. 
Bằng vào những thứ ấy, để rồi các em quen dần với tập quán tiếp cận môi trường lành thánh, những tin yêu. Để rồi, từ đó, các em sẽ dần quen với đường lối giải thích mang tính chuyên môn, có chủ đề. Đẹp hơn nữa, là khi bạn trẻ, dù mới lớn, nhưng đã có đôi chút kinh nghiệm chuyện trò không theo hình thức khô cứng. Bắt buộc. Nhưng, dám nói chuyện với người lớn. Không chỉ là chuyện “chó cắn xe/xe cán chó”, ở bên đường. Ngỗ nghịch. Trẻ con. Nhưng quan trọng hơn, vẫn là: biết nghe. Nghe, cả những chuyện tưởng rằng rất khô, và rất khó.
Nói chuyện bàn thảo/thắc mắc, còn là phương cách học hỏi rất hữu hiệu. Kết quả. Hữu hiệu ở chỗ, các em nay biết mình thuộc cùng cộng đoàn niềm tin. Chung nơi ở. Ở nơi, có người để mình tỏ bày niềm tâm sự. Và hiểu biết về niềm tin, qua Kinh Sách. Bởi, qua chuyện trò nhè nhẹ, các bạn có thêm nhiều viễn ảnh. Thêm sâu sắc về nhiều điều. Những điều thiết yếu. Tốt đẹp. Rồi từ đó, các bạn sẽ dàn trải mọi tương quan hiểu biết và tin-yêu với bạn bè cùng nhóm. Cùng sở. Suốt cuộc đời.
Kịp khi nên người trưởng thành, các bạn sẽ còn học nhiều hơn. Bằng sách vở. Suy tư. Nghiềm ngẫm. Làm thế, dân con Đạo Chúa sẽ thẩm định được mọi vấn đề trong đời. Chín chắn. Chững chạc. Dù rằng vấn đế ấy, quan niệm nọ, có được biện bạch/tranh luận ở đâu đó. Dù ở trường ốc/cơ sở, hoặc báo/đài. Có làm thế, các bạn mới bị đánh động. Quan tâm nhiều đến tư tưởng/bài vở của các bậc vị vọng, ở trên cao. Cao, như tầm cỡ Giám Mục, Hồng Y, Đức Cha rất thánh, là Giáo Hoàng.
Học về niềm tin, không chỉ học bằng mắt. Bằng tai. Nhưng, bằng kinh nghiệm sống. Các vị cao tuổi, hẳn còn nhớ những buổi giảng. Hoặc, tuần Đại Phước. Hành hương. Tĩnh tâm. Những kinh nghiệm hiếm quý ấy, ít khi gặp. Nhất nhất đều bổ ích. Bổ, cho người học. Có ích, cho cả các vị giảng. Nhiều vị còn bày cho nhau kinh nghiệm từng trải về những bách hại ở đâu đó. Trực tiếp hay gián tiếp. Các ngài sống sót được, là nhờ cùng nhau hỗ trợ. Và kinh qua mọi nguy nan hiểm nghèo bằng việc sẻ san kinh nghiệm. Nguyện cầu. Hiệp thông. 
Trả lời câu hỏi ở trên:“người ơi còn nhớ?”, chắc bạn và tôi, ta rồi cũng có kinh nghiệm để hồi đáp. Kinh nghiệm, như chuyện hành hương/hành trình đi Jerash, Nêbô, Madaba về đất miền những đá và sỏi xứ Gio-đan. Kinh nghiệm, bầu bạn có lần cho biết: nhìn những gạch vụn nát đổ, ta nhớ nhiều về các giai thoại được kể, ở Cựu Ước. Với bạn, với anh thì hành hương miền sỏi đá còn là kinh nghiệm học hỏi về niềm tin, rất giá trị.
Nghe đến đây, chắc bạn và tôi, ta sẽ cho rằng kinh nghiệm của bạn bè ở ngoài nước, không chỉ đáng giá hoặc quý giá, thôi. Nhưng, còn đắt giá, nữa. Bởi, chúng tôi đây, cơm cháo gạo tiền còn chẳng đủ, nói gì hành hương, với hương hành, một nhập thế? Thế nhưng, giả như người vừa hồi đáp lại là đạo hữu tin vào Đấng Allah quyền thế, vẫn cứ được yêu cầu: ới hỡi bạn mình, hãy nên tìm đến Mecca, một lần trong đời, để tỏ bày niềm tin, nơi đấng thánh. Thế còn người mình, thì sao?. Thế thì, mình nghĩ sao?            
Nói cho cùng, nghĩ sao thì cứ nghĩ, hãy như nghệ sĩ năm xưa, ưa đàn hát:

“Nhớ đêm nào tình xuân ngất ngây
mưa phùn rơi rơi ướt vai
đi mãi tìm ai yêu đàn…” 
(Văn Phụng – bđd)

Có lẽ, nghệ sĩ Văn Phụng dám để “mưa phùn rơi rơi ướt vai”, rồi cứ đi mãi “tìm ai yêu đàn.” Rất trữ tình. Lãng mạn. Ngất ngây. Thế, nhưng tác giả “Tiếng Dương Cầm” có biết rằng: nhiều lần, bọn tôi là những người tin yêu Đức Chúa, Đấng từng đặt chiên con lên vai, chỉ để đi tìm chỉ một chiên nhỏ lạc đàn, thì mưa phùn có “rơi rơi ướt vai”, nào sá gì. Đức Chúa còn chấp nhận chịu đòn, rồi chết nhục, chỉ vì bọn này, rày vẫn cứng tin?
Thành thử, cứng tin hay mềm tin, có lẽ đã đến lúc, tôi cũng như bạn, ta suy tư về phương cách: không chỉ học về niềm tin, cho riêng mình. Mà còn, tìm cách chuyển đạt niềm tin ấy, cho mọi người. Chuyển, không chỉ bằng phương pháp dạy dỗ, giáo dục. Hoặc, giảng giải. Cho ai. Chuyển, là đạt đến, bằng cách chứng tỏ và nói lên niềm tin ấy, cho nhiều người. Và, mọi người. 
Chứng tỏ bằng cách nào, đó là vấn đề. Vấn đề là, bạn và tôi, ta có thể theo phương sách của các thánh, ở trên. Hoặc theo phương pháp tư riêng. Ít thấy. Nhưng dễ làm. Ở đây nữa, tôi và bạn, chắc rằng mình cũng đừng dài giòng kể lể, về chuyện mình. Tốt hơn, hãy kể bằng cuộc sống. Nói, bằng lập trường. Bằng, gương sáng cuộc đời. Nụ cười thân thương. Hiếm quý. Ta gửi đến với muôn người. Mọi người. Bởi, những người có niềm tin vào Đấng dạy ta tin, mới có được hạnh phúc. Có hạnh phúc, rồi sẽ biết cười. 
Vậy thì, hỡi bạn và tôi, ta hãy cười. Cười, là đã tin. Tin rồi, vẫn cứ cười. Cười như nhiều người. Cười như mọi người. Với mọi người. Cười, để chứng tỏ: mình đang tin và rất yêu. Cười, như người người ở truyện kể ngay bên dưới:

“Ngày đầu học Cao Đẳng, vị phụ giảng tự giới thiệu mình trước nhất, rồi sau đó yêu cầu học viên tìm đến với nhau mà chào hỏi. Chí ít, là những bạn bè, mình chưa quen. Tôi sắp đứng dậy, thì chợt thấy có bàn tay của ai đó đặt nhẹ lên vai. Quay lại, bèn thấy cụ bà khá cao niên, gửi đến cho tôi nụ cười rất tự hào, rồi vội nói:
-Chào bạn trẻ đẹp trai, cao ráo. Tên goa là Hồng. Năm nay, goa mới có 87 cái xuân nồng. Có thể nào bạn cho goa áp má hôn hoà bình, được hông?
-Dạ được. Sao tuổi này, mà bác còn đến lớp để làm gì?
-Để tìm chồng. Chỉ muốn tìm người nào giàu, tốt mã một chút sinh con đẻ cháu cho vui cửa vui nhà, một chút có được không?
-Thật thế không, thưa đồng môn?
-Nói chơi vậy thôi chứ, chả giấu gì bạn, đã
từ lâu, goa chỉ ao ước đến trường để học, dù chỉ một lần trong đời. Nay được phép, là mãn nguyện!
Thế là, sau đó, hôm nào tôi cũng tháp tùng cụ đi dọc hành lang khu học vụ, nói chuyện với cụ, không biết mệt. Tôi học hỏi nơi cụ, rất nhiều điều. Đặc biệt là cụ ăn vận rất lịch lãm. Sang trọng. Chẳng mấy chốc, đến cuối học kỳ, bạn bè liền ngỏ ý mời cụ phát biểu cảm tưởng về đường lối giáo dục của trường, tổ chức nơi sân vận động. Cụ nhận lời ngay. Cụ sửa soạn thật kỹ, chăm chút ghi vào 5 tấm bìa tóm lược, vì quá hồi hộp phải nói trước đám đông. Nhưng có 5 tấm bìa, cụ lại để rơi mất 3. Cuối cùng, cụ cũng lên khán đài, cầm chặt máy vi âm, phát biểu:
-Trước hết tôi xin lỗi mọi người. Vì hồi hộp,nên tôi bỏ đâu mất mấy tấm bìa ghi chú, nay có thế nào xin nói như thế. 
Mọi người cười ồ, nhưng cụ bà cứ tiếp tục:
-Ta ngừng chơi bóng không phải vì tuổi ta xế bóng, về già. Nhưng, ta già là vì ngưng chơi bóng. Trong đời, có 4 điều giúp ta trẻ mãi: +hãy lo mà tận hưởng giây phút hiện tại, +quẳng gánh lo đi, rồi sẽ thành công. +Mỗi ngày trong đời, hãy cố mà cười và nhìn mọi chuyện trong chiều hướng tươi vui. +Phải biết mộng và mơ. Vì một khi đã hết mơ và hết mộng, ta chỉ còn nước chờ chết. 
Trên đời, hiện có quá nhiều người đang sống nhưng dường như đã chết. Nhưng, không họ biết mình đã chết từ lâu. 
Trong đời, có 2 chuyện khác nhau một trời một vực, là: chóng già và chóng lớn. Nếu bạn mới có 19 cái xuân xanh, mà suốt ngày chỉ biết nằm dài, chẳng làm nên tích sự gì. Thì bạn cũng sẽ bước qua tuổi 20, thật mau chóng. Như tôi đây, nay đã 87, chỉ cần nằm dài một năm thôi, cũng sẽ bước qua tuổi 88, rất dễ. Chóng già, là việc chẳng cần tài ba. Năng khiếu. Nhưng, muốn chóng lớn, phải biết nắm bắt cơ hội. Không nuối tiếc thời gian, hoặc bất cứ thứ gì. Ở tuổi già, ta không chỉ hối hận về những điều mình đã làm. Nhưng tiếc rằng, mình đã không làm được nhiều điều, cho đích đáng. Thế nên, trong đời, hãy tìm cơ hội để học và hỏi. Dù học chỉ rất ít. 
Phát biểu của cụ bà tên Hồng cứ tiếp tục trong khí thế khích lệ người người nên học và nên hỏi. Đủ thứ điều..

Truyện kể trên, hao hao giống bài phát biểu vào lễ mãn khoá niên học. Nhưng điểm son trong truyện, là câu cuối. Lúc nào, ta cũng nên học. Học, mọi lúc. Hỏi, mọi tuổi. Chí ít, là những điều cần cho sự sống. Rất tâm linh.
Lời cuối hôm nay, bần đạo xin góp ý một điều, người xưa vẫn nói “học thày không tày học bạn”, quả rất đúng. Nhất thứ: chuyện học và hỏi ấy, là chuyện Đạo. Tức, những chuyện cốt thiết nhất cho mọi người. Ở nhà Đạo. Nhưng, học gì thì học, hãy như người nghệ sĩ vẫn cứ hát:               

“Trầm trầm…êm êm…thánh thót..”
Nhịp nhàng khoan thai, thắm thiết..” 
(Văn Phụng – bđd)

Có như thế, chuyện mình học và hỏi, mới khắc sâu trong tâm khảm. Cả cuộc đời.

Trần Ngọc Muời Hai
Vẫn muốn học và học.
Học mãi
Suốt cuộc đời.
      

7. “Anh đưa em đi về.Về quê hương ta đó”
Anh xin đưa em về. Về quê hương tuyệt vời.”
(Hoàng Thi Thơ – Rước tình về với quê hương)

(Mt 18: 3)
Có những chuyện trong đời, rất tuyệt vời. Nhưng người đời thường chẳng dám. Chẳng dám ăn. Chẳng dám nói. Cũng chẳng dám làm. Nhưng cứ nghe. Nghe đi nghe lại, mãi không chán. Ấy đó, chuyện đời thường. “Về quê hương ta đó”. Ấy đó, chuyện người đời. “Về quê hương tuyệt vời”. Chuyện Nước Trời. Của người anh hùng tuổi nhỏ. Rất hay ho. Như truyện kể ở bên dưới, mà rằng:

“Lễ hội ngày ấy, bé Bình chạy đến ôm chầm lấy chân mẹ, đưa ra một yêu cầu lâu nay bé vẫn thích. Nhẹ nhàng. Gọn nhẹ. Bé hỏi nhỏ người mẹ hiền, chỉ một câu: “Mẹ ơi, hôm nao đi chợ, mẹ nhớ mua cho con chiếc xe đạp nhỏ, nhé mẹ! Tụi bạn con, đứa nào cũng có, hết trơn đó.” Nghe hỏi, mẹ hiền giật mình đến thót, thấu tim gan. Vẫn ôn tồn nói: “Con à, nhà mình nghèo lắm, e rằng mẹ không đủ sức mua xe cho con, đâu. Hay, con ra nhà thờ cầu Chúa xem sao, nhe con.”
Thoạt nghe xong, bé Bình thay vì chạy đến nhà thờ cầu Chúa, cho đạt ước mơ, bé lại nắn nót ngồi viết thư, cho Chúa. Lời thư tuy rất ngắn, nhưng dạt dào niềm ao ước: “Chúa yêu, con biết mình phải rất ngoan mới mong được Chúa đoái nhận lời cho quà. Nhưng, con vẫn muốn xin Chúa cho mẹ con được giàu hơn chút xíu, để mẹ mua chiếc xe đạp, cho con. Con xin điều này, Chúa ráng nhớ. Ký tên, Bình.” 
Viết xong, thấy không được. Bé Bình sửa lại:  “Chúa dấu yêu, suốt năm rồi, con là đưa bé ngoan nhất nhà. Con xin Chúa món quà, để còn tin. Chúa nhớ cho con. Ký tên, bé Bình của Chúa.” 
Một lần nữa, thấy không được. Bé Bình lại xé đi, viết thư khác: “Chúa thân mến, xưa rày con nghĩ: con là đứa bé không đến nỗi tệ. Bởi thế nên, nay xin Chúa cho con một chiếc xe đạp được không, Chúa? Con vẫn chờ Chúa. Ký tên: bé Bình, là con đó.” 
Đọc lại, vẫn thấy chưa hay. Bé Bình nghĩ ra một diệu kế, bèn chạy một mạch đến nhà thờ, vào tận trong. Nhìn trước ngó sau, không thấy ai quanh đó, bèn bưng đại bức tượng nhỏ, về nhà. Giấu cạnh giường. Không cho người lớn thấy. Rồi, bé viết thư ngắn, rất gẫy gọn: “Chúa mến, con vừa thực hiện một việc lớn. Là, đem tượng Mẹ của Chúa về nhà đặt ở nơi kín đáo, không ai biết. Nếu Chúa muốn nhìn lại mặt người Mẹ của mình, thì Chúa phải biết điều mà cho con một chiếc xe. Bằng không, Chúa biết rõ chuyện gì sẽ xảy ra. Con tên Bình, Chúa há biết!” 

Truyện ở trên, có thể chỉ hư cấu. Kể cho vui. Cũng có thể, là minh hoạ cho sự việc xảy đến trong cuộc đời. Một đời, có quá nhiều thứ. Những, viển vông. Không tưởng. Trẻ con. Nhưng, trẻ hay không, vẫn là chuyện khuyên can/răn dạy, Chúa từng bảo. Ở đâu đó. Nơi Kinh Sách:
                   
"Thầy bảo thật anh em:
nếu anh em không trở lại 
mà nên như trẻ nhỏ, 
sẽ chẳng được vào Nước Trời.”
(Mt 18: 3)

Vào Nước Trời, là quê hương ta đó. Có “gió mát trăng thanh”. Đồng xanh xôn xao chào đón. Hữu tình. Đậm đà. Hương hoa (Hoàng Thi Thơ - bđd). Nhưng xem ra, lời thơ/tiếng nhạc người nghệ sĩ  vẫn chưa nói hết nhu cầu cần có, để vào được Nước Trời, như đã viết. Nói cách khác, khung trời tuổi nhỏ, xem ra chưa thấy có đàn trẻ tung tăng, lời nguyện cầu, cần thiết. Để dâng lên. Nước Trời hôm nay, có bao gồm đàn trẻ bé, vẫn tâm tình nguyện cầu và suy gẫm. Suy rất đậm. Gẫm rất sâu. Như lời Ngài, thường nhắc nhở:

“Như trẻ thơ đặt hết niềm tin nơi Chúa”    
(Tv 131: 1) 

Và:

“Đức Giê-su đáp: các ông chưa bao giờ đọc sao: 
Ta sẽ cho miệng con thơ trẻ nhỏ 
cất tiếng ngợi khen?"
(Mt 21: 16) 

Vào Nước Trời, nhiều người ít khi thấy trẻ nhỏ cất tiếng ngợi khen. Nguyện cầu. Suy gẫm. Nước Trời hôm nay, còn vắng thấy bậc ông bà/cha bác truyền đạt niềm tin nơi Chúa, với trẻ em. Dù, con trẻ vẫn thường có năng khiếu tự nhiên dấy tràn niềm vô tư, mở ra với không gian linh ứng. Đấy là điều, mà các nhà tâm lý đã xác chứng rằng con trẻ luôn có trong mình một tâm thức, rất thiêng liêng. 
Điều mà nhiều người vẫn thấy, là: con trẻ thời nào cũng có kinh nghiệm đậm sâu đâu kết với các nhiệm mầu của Thiên Chúa. Cả vào khi, các em cùng với người lớn sống trong môi trường mà mọi người đều trân quý vật chất, xác thể. Trong khi đó, mọi sự thật thiêng liêng cao cả, đã mất giá. Mất tự tạo. Mất, trong đau buồn. Tự ý.
Thời thế hôm nay, mang nhiều dáng vẻ lâm nguy. Lo ngại. Lo và ngại, khi con trẻ của chúng ta không được dẫn dụ, để suy gẫm, nguyện cầu. Tự thân, con trẻ có thói quen ngay từ hồi nhỏ đã biết hướng lòng về với Chúa. Với Cha. Trong âm thầm, chuyện vãn. Rất ngây thơ. Tự nhiên. Lành thánh. 
Còn nhớ,Kinh Sách xưa, Chúa chẳng bảo: 

“Hãy để các trẻ nhỏ đến với Thầy, 
đừng ngăn cấm chúng".       
(Mt 19: 14)

Để con trẻ đến với Chúa, là dẫn dắt các cháu biết chuyện trò với Ngài, trong thinh lặng. Để chúng đến với Người, vì con trẻ là chính là sự lành thánh thơ ngây, rất tích thiện. Vì thơ ngây trong trắng, trẻ nhỏ dễ mở ngỏ lòng mình, để đón Chúa hiện diện, ở với mình. Vì hồn nhiên giấy trắng, trẻ thơ luôn sẵn sàng nghe người lớn hướng dẫn, cứ nguyện cầu. Làm thân. Với Chúa. Với mọi người.
Bậc ông bà/cha bác nên dẫn dắt trẻ tập nguyện cầu, ngay tại nhà. Tìm nơi yên tịnh, để gẫm suy. Suy, trong êm ắng. Gẫm nơi yên ổn. Là chốn, không thấy có giòng đời tranh đấu, có truyền thông chế ngự. Chỉ thắp lên, ngọn nến nhỏ, leo lét cha bác/ông bà đã tạo cho trẻ dấu hiệu của lặng thinh. Rồi từ đó, đọc cho bé đôi ba giòng Sách ngắn, là trẻ đã thăng hoa. Trầm lắng. Quyết dõi theo. Đôi lúc, cũng nên mở nhạc nhẹ; hoặc bảo bé, nói chuyện với Chúa Mẹ, qua hơi thở. Nhè nhẹ. Hài hòa. Không khó.
Khi làm thế, sẽ thấy trẻ hằn sâu một quyết định:
“Em theo anh đi về
Về quê hương ta sống
Em theo anh đi về
Về quê hương hữu tình…”
 (Hoàng Thi Thơ – bđd)

Hữu tình là quê hương,  

“Có con chim sâu chỉ lối,
vườn cao thơm ngát hương hoa…”
 (Hoàng Thi Thơ – bđd)

Chim sâu chỉ lối, là chỉ cho bé em cách thức mà nguyện cầu. Không bằng lời lẽ bật thành tiếng. Nhưng cứ để bé em nhắm nghiền đôi mắt. Môi không mấp máy. Nhưng vẫn như thầm thì lời kinh câu hát, rất lặng thinh. Im ắng. Ngẫm nghiền.
Trẻ bé sẽ thấy đó là phương cách dễ làm. Dù đôi lúc, bé có lo ra chia trí, bằng những tư tưởng bất chợt về. Cứ từ từ mà khuyên bé, ta quay về với lề lối bình thường. Cứ thầm thì lời kinh đêm. Nhè nhẹ. Be bé. Rất thánh kinh. Lời, như mời gọi Chúa hãy đến. Hỡi Chúa, hãy ma-ra-na-tha, mà đến với con đây. Lạy Chúa của con, xin hãy đến (1 Cr 16: 22/Kh 22: 20)
Dạy cho bé biết cầu nguyện, cũng đừng nên kéo dài, quá lâu. Như thế sẽ chóng chán. Chỉ cần kéo dài chừng mỗi phút, cho mỗi tuổi. Như thế, cũng đã đủ. Năm tuổi, thầm thì cầu trong 5 phút. Em nào bé hơn, cứ cùng cha cùng mẹ mà nguyện ngắm với cầu xin. Cho quen dần. Cần nhất là để các em quen dần với không khí tĩnh mịch, để Chúa hiện diện, đến với em. Trong tâm can. Thầm lắng. Ấm êm.
Chẳng cần biện luận, ai cũng biết. Trẻ bé rất thích nguyện cầu, chuyện vãn với Chúa, trong lặng thinh. Nhưng vấn đề là, làm sao tạo được bầu khí thinh lặng, ngay ở nhà. Bởi, lặng thinh là tình đầm ấm. Rất tĩnh. Và, tâm cũng tịnh. Chừng như Chúa Thần Thần chỉ hoạt động qua bầu khí lắng đọng. Tịnh tâm. Cả thân xác. Lẫn môi trường.
  Không có môi trường nào na ná tương tự như Thiên Chúa, bằng lặng thinh. Bên ngoài. Và ở trong. Và, tâm tình trong trắng rất ngây thơ, của trẻ nhỏ. Chính là tình tự Chúa đến với mọi người. Bởi thế, các thánh sử vẫn cứ viết: 
“Ai không đón nhận Nước Trời 
với tâm hồn một trẻ em, 
thì sẽ chẳng vào được trong đó."      
(Mc 10: 14)

Vào được Nước Trời, ở trần gian, là phải như trẻ nhỏ. Sống như trẻ nhỏ. Biết thinh lặng nguyện cấu. Dù ngắn gọn. Chẳng kéo dài, thời gian. Đó là thông điệp Chúa gửi. Từ ngàn xưa. Mãi đến ngàn sau, không phai nhạt. Bao lâu mặt trời còn chiếu sáng không gian, Lời của Chúa vẫn tồn tại. Với mọi người. Ở thế gian.
Để minh xác những điều nêu trên trên, cũng nên nghe thêm đôi lời nhận định của các em nhỏ về “thế giới quanh ta”, có những mùi vị, thật tinh tế. Dễ chịu. Bình dị. Như ở buổi học, lớp nhi đồng:
“Bắt đầu buổi học , thầy giáo chuẩn bị đồ nghề cho học trò nhỏ, theo kịp lớp. Cũng chẳng có gì là nghiêm trọng, hoặc ghê gớm. Chỉ vài cục kẹo nhỏ với mùi vị, rất khác nhau. Thầy đến từng bàn, phát cho mỗi em một cục kẹo, rồi nhè nhẹ bảo:
-Các em cầm lấy mà ăn thử, rồi nói cho thầy biết, thức vừa ăn , có mùi gì, và mầu gì?
Các em đua nhau nói:
-Kẹo của em mầu đỏ, mùi mận chát.
-Của em lại mầu vàng, mùi trái chanh
-Còn của em mầu xanh lục, mùi chua chua.
-Kẹo của em ấy à? Chỉ là mầu hườm, mùi cam chín…
-Các em đều giỏi. Câu nào nói cũng đúng. Bây giờ ta thử  một thứ khác, đố các em nhận ra, là loại gì, mùi vị ra sao. Thế mới khó. Ai nói được, thầy sẽ cho điểm rất cao.

Chờ mãi chẳng thấy em nào lên tiếng, đoán ra được.Thầybèn gợi ý mách giúp bảo rằng:
-Đó là thứ, mà má em ở nhà thường gọi tên ba là như thế.
Tức thì một bé gái vội vàng phun nhổ ngay ra ngoài, bèn la lớn:
-Thôi chết! Mấy thứ này, má em vẫn gọi là: Đồ chết tiệt…
Chết tiệt, hay chưa chết, nào đã tiếp xúc với thần linh, đầy tình Chúa. Là, giây phút quý báu, vẫn rất cần. Cần, không chỉ riêng cho người lớn. Vẫn cần, cho cả trẻ thơ. Là tạo vật, rất quen nguyện cầu, trong im ắng. Lắng đọng. Những tâm tình con cái Chúa.

Trần Ngọc Mười Hai
Đôi lúc thấy
rất thiếu xót phút thần tiên
yên lặng mà nguyện cầu.  
               
.8. “Thuở ấy tôi như con chim
lạc đàn”
Xoải cánh cô đơn, bay trong chiều vàng
(Trần Trịnh – Lệ đá)

(Ga 21: 15-19)
Nghe nghệ sĩ, ví mình như “chim con lạc đàn”, bần đạo lại nhớ đến thời vàng tu thân, dạo ấy. Nhớ, hồi thập niên ’60, có đàn trẻ nhỏ ở Đa Thành - Đà lạt, cứ ví von các thày trẻ, như chim con lạc bày, là như thế. Như thế đó, là khi thấy nhóm thày trẻ súng sính trong bộ áo thâm chùng ra ngoài viện, để “thăm dân cho biết sự tình”, thì đám trẻ nhỏ lại cứ lẽo đẽo theo sau, kêu inh ỏi:“Ra mà xem! Mấy thầy một bầy quạ đen. Áo đen áo đen trong tù, giống bày chim cú. Chim cú sống gông tù, giống bày quạ đen.” 
Hôm nay, nghe người nghệ sĩ hát câu: “xoải cánh cô đơn bay trong chiều vàng”, bần đạo thấy đời linh mục thật tội nghiệp, hết bị gọi là “quạ đen/chim cú”, rồi lại bảo: sống đời “bão tố”/“cô đơn”, thấy mà thương. Quả là thương, rõ một đời tu trì đạo hạnh. Hết gặp “trời đày bão tố”, lại “xoải cánh cô đơn“ chốn đoạ đày, thật rõ chán. 
Của đáng tội, nếu gạn hỏi: sao các cha/thày dạo ấy lại đã không mặc áo chùng nào sắc mầu nhè nhẹ rất ngọc ngà toàn là trắng. Như loài bồ câu, tượng trưng cho hoà bình, có hơn không? Bởi, mầu trắng chim câu hay chim két, là mầu hoà bình rất trong. Và rất trắng. Trắng như chim, nghe ở bài hát xa xả suốt ngày trên loa kèn cột đèn dạo ấy, năm một chín bẩy lăm:

“Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng,
nếu là hoa, tôi sẽ là một đoá hướng dương…”

Không. Trăm lần không. Ngàn lần không. Dù có chủ trương hoà bình đến cỡ nào đi nữa,  thì “chùng thâm” bọn tôi thời ấy vẫn nhất quyết không khoác lên người mầu trắng trinh trong của chim câu/chim két”. Dù mầu này rất hiếm, ở loài chim. Không khoác mầu trắng xoá, những ưu tư. Nhưng nhóm thày trẻ bọn tôi vẫn ê a, ba câu hát:

“Và, ước mơ sao trời đừng bão tố,
để yêu thương càng nhiều gắn bó,
tháng ngày men say nguồn thơ.” 
 (Trần Trịnh – Lệ đá)

Hát thế, là bởi vẫn cứ ước và mơ “trời đừng bão tố”, thế nên cuộc đời của đám người trẻ chuẩn-bị-làm-linh-mục bọn tôi, vẫn cứ “yêu thương gắn bó”, với mọi người. Cả những người, dám gọi mình là chim cú/chim quạ, rất đen ngòm. Gắn bó, có yêu thương, để rồi tháng ngày mê say “nguồn thơ”, vẫn là phương châm đời sống dành cho những người được Đấng Chúa Tể của Lời Thơ vẫn thường mời gọi sống đời có mục và có tử, như linh mục.    
  Nói đi thì lại nói lại: tu trì một chốn, mà lại bảo là: cô đơn/hiu quạnh, kể cũng tội. Tội cho người. Tội cho mình. Nhưng, sau nhiều năm chung đụng chốn đời thường, có gọi nhau là cú là quạ, cũng đâu có sao. Chỉ có sao, khi bà con quên mất chức năng người mục tử, là chỉ muốn tử mà không mục. Trinh trong. Chân chất. Tốt đẹp. Tốt và đẹp, nên có vị anh tài nổi cồn dòng Đa Minh áo trắng ngà, là đức thày Timothy Radcliffe, đà nhận định:

“Có nhiều lý do để thấy rằng: ngày nay, sở dĩ một số linh mục hơi bị xuống tinh thần, vì nhiều lý do. Có lý do sáng tỏ như ban ngày, là: vì bối cảnh của thế giới bao quanh, mang cốt cách rất trần tục. Có thể vì, có thiếu hụt trầm trọng, trong ơn gọi. Cũng có thể, do lẫn lộn về chức năng người mục tử. Chính vì thế, dễ mất đi lòng tôn kính gắn liền với ơn gọi. Cũng có thể, do tai tiếng dục tình nổi trôi nhiều chốn. Hoặc vì, số lượng giới trẻ ngày nay biến mất nơi nhà đạo, ít thấy hiện diện ở giáo xứ/nhà thờ như khi trước. Và cứ thế, nhiều nguyên do khác cứ thế được liệt kê.. ” (Gm Peter Ingham, The Year For Priests, The Catholic Weekly 26/7/2009, tr. 36)

Ở ngoài Đạo, như bao nghệ sĩ viết nhạc khác, nhiều người sẽ hát thêm, ca từ của Trần Trịnh:

“Tình yêu đã vỗ cánh rồi,
là hoa rót mật cho đời
chắt chiu kỷ niệm, dĩ vãng.
Em nhớ gì, không em ơi!”  
(Trần Trịnh – Lệ đá)

Thế đấy. Trọng tâm của vấn đề đặt ra hôm nay, có thể là: “tình yêu đã vỗ cánh rồi”. Tình yêu vỗ cánh bay đi, cũng là tình người mục tử, vốn kính Chúa. Yêu người. Ở huyện. Phải chăng, đó là dấu hiệu nhà Đạo mình nay nhắc nhở về tâm tính của thánh nhân nọ, tuy kém cỏi về nhiều thứ, nhưng lại nổi danh về nhiều mặt. Nhất là mặt yêu Chúa, yêu người đồng loại tuy chất phác, chốn làng quê. Nhưng, là chất xúc tác thúc đẩy các đấng bậc “thế đó” dám sống đời mục tử đích thực. Đâu có sợ.  
Còn nhớ, vị chủ chăn giáo phận “đàng ngoài” Wollongong, là đức ngài giám mục Peter Ingham đã tha thiết mô tả tính chất lành thánh của đấng bậc linh mục chân chất ấy, như sau:

“Chàng trai Jean Vianney khởi đầu cuộc sống, không hứa hẹn cho lắm. Làm thân con trai một nông dân sống ở trang trại, học hành không gì nhiều, thời niên thiếu. Trông coi việc chăn dê chăn cừu, là chính. Cũng đăng cai đi lính khá nhiều năm, sau đó là thời gian sống đời chủng sinh chầm chậm chạp, không đạt nhiều kỳ vọng của bề trên, nhưng người trẻ Jean Marie Vianney vẫn hành trình xuyên suốt chốn đào tạo, để rồi trở thành linh mục nổi danh về lòng đạo hạnh. Lành thánh.” (Gm Peter Ingham, The Year For Priests, The Catholic Weekly 26/7/2009, tr. 36)

Lòng đạo hạnh/thánh thiện, mà vị chủ chăn giáo phận Wollongong-Sydney vừa nói, có phải là tình thương mến Thầy Chí Ái, như thánh Phêrô đã diễn tả ở Tin Mừng thánh Gioan:“Thưa Thầy, Thầy biết rõ tôi mến Thầy!” (Ga 21: 15) hay không? Là, người chăn dắt đàn chiên con ở giáo xứ, mục tử nhân hiền có trả lời được câu mà Thầy Chí Ái vẫn hỏi đấy chứ?  
Năm Thánh Linh Mục, là năm kỷ niệm lần thứ 150 ngày vị mục tử nhân hiền ở giáo xứ tên Ars, nước Pháp đã chứng minh câu ứng đáp tự hào, của vị thánh. Và chủ chăn trên, còn nhấn mạnh:
“Mừng kỷ niệm Năm thánh linh mục năm nay, Giáo hội kêu gọi bản thân tôi, cũng như các mục tử, hãy xem xét lại mức độ yêu thương, ta dành cho Chúa. Tự xét, để xem anh em cũng như tôi, ta đã đáp ứng tình thương yêu Chúa dành cho mình, đến thế nào. Tự xét, để xem mình có triển khai tình thương yêu, qua lối sống mỗi ngày, hay không. Như Chúa nói: “Cứ xem quả, ta sẽ nhận biết cây.” (Gm Peter Ingham, bđd)

Xem quả biết cây ở đây, như vị chủ chăn nhấn mạnh, là coi xem cây “mục tử” Đạo mình có cho “hoa quả” là tình thương mến, đối với Chúa. Với đàn chiên mình chăn dắt không. Về thương và mến, vị chủ chăn đã cân nhắc cụm từ “thương” - “mến” theo nghĩa chữ Hy Lạp, viết trong Tin Mừng. 
Thương và mến, ở bản 70 tiếng Hy Lạp, tương đương với từ “philia” và “agapè”. Philia, là sự thân thương gần gũi. Và, agapè là trọn vẹn cho đi, mà không giữ lại gì cho riêng mình. Khi Chúa hỏi thánh Phêrô: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không?", bản dịch HyLạp dùng từ “agapè”. Và, câu trả lời của thánh Phêrô, Tin Mừng 70 dùng từ “philia”, nghĩa là gần gũi. Thân thương. Thân thiện. 
Khi Chúa hỏi đến lần thứ hai, thánh Phêrô vẫn trả lời hai ba lần bằng cụm từ “philia” (tức: thân thương/thân thiện). Và sau đó, thánh nhân đã “trọn vẹn cho đi chính mình”, theo nghĩa chữ “agapè”. Cuối cùng, thánh nhân xác chứng “tình mình bây giờ’ với Chúa, qua nỗi chết thập giá, như Thầy.
Nhưng, câu hỏi đặt ra, là: hôm nay, các vị chủ chăn/mục tử, là những vị có phẩm trật/chức vụ trong Hội thánh, có bị hoặc được Hội thánh đòi phải xả thân “cho đi” đến độ như thánh Phêrô, không? Nói cách khác, các vị có buộc phải hành xử như Thầy Chí Ái đòi hỏi không?                     
Để trả lời, theo thiển ý, cũng nên đọc tiếp câu nói của Chúa trong đoạn hỏi/đáp giữa Thầy trò ở Tin Mừng hôm ấy, để xem Chúa muốn đồ đệ/mục tử của Ngài, làm những gì: 

“Ngài bảo: "Hãy chăn dắt chiên của Thầy."
Ngài lại hỏi đến lần thứ ba: 
"Này anh Si-môn, con ông Gio-an, 
anh có yêu mến Thầy không?" 
Phê-rô buồn vì Ngài hỏi đến ba lần: 
"Anh có yêu mến Thầy không? " 
Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; 
Thầy biết con yêu mến Thầy." 
Đức Giê-su phán bảo: 
"Hãy chăm sóc chiên của Thầy.”
(Ga 21: 18-19)

Đồ đệ Chúa, khi nói “Con yêu mến Thầy” thì cụm từ này dù mang ý nghĩa “thương mến”, hay chỉ là tình thân thương “cho đi”, cho đi trọn vẹn con người mình, đều là: “hãy chăn dắt”/”chăm sóc” chiên con của Thầy. Rõ ràng, ý nghĩa của sự thân thương. Yêu mến. Rất thân tình. Để, cho đi trọn vẹn cuộc đời, đều nằm trong cụm từ ngắn gọn nghĩa: chăn dắt. Chăm sóc. 
“Chiên con của Thầy”, thật ra không là ai khác ngoài kẻ bơ vơ. Lưu lạc. Chốn chợ đời. Đầy nhiễu nhương. Ở nơi đó, thường thấy bầy lang sói chực rình, mà hãm hại. Sói thời xưa, là ác thần/sự dữ cứ quanh quẩn bên chiên hiền. Sói ngày nay, đâu phải đám vô thần/ngoài Đạo, chẳng đếm xỉa đến ai. Kỳ thực, lang sói hiện tại, là hờn ghen. Tranh chấp. Ngay bên trong. 
Tranh và chấp, là bởi: cả chiên con lẫn người chăn dắt, đâu để ý đến chuyện đùm bọc. Chăm sóc. Nhưng, chỉ cốt chăm lo chuyện quyền hành. Quyền được hành. Quyền để hành. Chứ có là quyền được chăm sóc/giúp đỡ mọi người. Về nhiều mặt, đâu.
Có chút tâm hồn thi nhân/nghệ sĩ, cả chiên con/đấng bậc, hẳn sẽ gạn hỏi lớp đá rêu xanh ở đời, rằng:   
   
“Hỏi đá xanh rêu bao nhiêu tuổi đời
Hỏi gió phiêu du qua bao đỉnh trời
Hỏi những đêm sâu đèn vàng héo hắt
Ái ân,bây giờ là nước mắt
Cuối hồn, một thoáng nhớ mong manh.” 
 (Trần Trịnh – Lệ đá)

Ái ân. Cuối hồn. Những thương và mến, sao lại là nước mắt? Nước mắt của mục tử? Nước mắt cho mục tử, sao?
Không. Đức ngài Peter Ingham đã quả quyết trong lời trần tình hôm khai mạc Năm Thánh Cho Linh Mục, ở giáo phận “đàng ngoài” Wollongong, đã minh định:

“Năm thánh Linh mục, là năm ta cùng hướng về phía trước. Hướng về trước, vì linh mục có vai trò/trọng trách sống còn trong Hội thánh. Sống còn, không vì ta thực hiện nhiệm tích Chúa giao, cách lành thánh. Đầy tính mục vụ. Nhưng, vì tất cả chúng ta là những người sống giữa chiên đàn của Chúa, có trọng trách “ở cùng” và “ở với”, nhờ thanh tẩy. (x. Giáo luật #208).

Tựa như bài hịch trước toàn quân và toàn dân ở giáo phận “đang ngoài”, chốn Wollongong, vị chủ chăn giáo phận đã nhấn mạnh đến giới tự “cho”, tức dành cho linh mục. Chứ không phải, giới tự “của” hoặc “về”. Của linh mục. Về linh mục. Bởi, Hội thánh dành để nguyên một năm để cho nguyện cầu và suy xét. Xét về những điều như sau: 
 
Năm thánh Linh mục, là năm ta chú trọng nhiều đến nguyện cầu. Là năm, để ta đổi mới chức năng thiên triệu Chúa phú ban. Đổi mới cuộc sống linh đạo, ta tiếp tục. Bằng vào Tiệc thánh, ta cử hành. Mọi ngày. Mọi tuần. Với cộng đoàn. 

Năm thánh Linh mục, là năm dành để cho ta biết mà triển khai, gia tăng hiệp thông nguyện cầu. Gia tăng tình thân thiện/thân thương giữa ta với cộng đoàn, uỷ thác cho ta. Bởi lẽ, công tác mà người mục tử chúng ta đang thực hiện, có tương quan mật thiết với Chúa. Với cộng đoàn dân con  của Chúa, ta có trọng trách trách chăm lo. Cộng đoàn ta cưu mang, hiện đang ở trong tình huống bối rối, rất ưu tư. Thế nên, ta cần đi bước trước mà chạy đến với họ, như thánh Luca diễn tả trong câu truyện người con lãng tử (Lc 15: 20). Và, để ta có quyết tâm ôm trọn vào lòng tâm can đầy thương mến của Chúa Chiên, như thánh Gioan ghi lại ở chương 10, trong thánh sử.

Dù gì đi nữa, như nhiều người nhận định, linh mục hay giám mục, đều không là đấng bậc tự phát, mà là được mời gọi và sai đi. Là, ơn gọi cao quý. Là, thiên chức đích thực của vị mục tử, luôn chăm lo săn sóc đàn chiên, sau nhiều ngày được giáo dục, đào tạo và trui luyện trong kỷ luật. Rất liên tục.

Xây dựng năm thánh “dành cho” linh mục hoặc “về” linh mục, Hội thánh vẫn muốn con dân của mình nhớ về thiên chức lành và thánh, trong tư cách của người hầu hạ, phục vụ. Phục vụ và hầu hạ, như Đức Chúa vẫn căn dặn hết mọi người con, không chỉ riêng đấng bậc được gọi là “Đầy tớ của các tôi tớ” Chúa. Bởi lẽ, chức năng “chăn dắt” và “chăm sóc” được thánh Gioan ghi chú lệnh truyền của Chúa.
Chăn chiên, khác với chăn trâu chăn trâu, chăn bò, hoặc lừa, ngựa. Chăn trâu/bò, chú bé ngồi chăn dù nhỏ thó, vẫn có quyền. Có cả uy. Uy quyền, là quyền uy thúc giục trâu/bò theo ý mình, bằng roi mây. Gậy nhỏ. Chăn chiên thì khác. Khác ở chỗ, nhiều lúc chiên con dở chứng chạy lăng xăng, không tuân lệnh, nhưng mục tử/kẻ chăn có khi nào dùng giây roi/cây gậy mà đánh đâu, để bắt phải tuân theo ý của chủ. Trái lại, nhiều lúc kẻ chăn còn thương tình, ôm chiên vào lòng như con đẻ, mà nuông chiều. Khi gặp lại. 
Trở lại bài hát “nếu là chim” trích ở đầu, nếu được phép sửa một chút, có lẽ nên sửa chữ “chim” thành chữ “chiên”, để ta có nhiều lý do và thì giờ mà chăm sóc. Hơn là, chỉ hát với ước nguyện. Dù là nguyện ước gì đi nữa, cũng nên hát thêm câu cuối của tác giả quên đề tên, như sau:

“Nếu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm
Nếu là người, tôi sẽ chết cho quê hương.” 

Một lần nữa, nếu hiểu “quê hương là chùm khế ngọt”, hoặc là đàn chim hay đàn chiên ta chăm sóc, hãy cứ hát thêm:

“Là chim, tôi sẽ cất cao đôi cánh liền
Từ nam ra ngoài bắc báo tin rất hiền
Là hoa, tôi nở tình yêu ban sớm,
Cùng muôn trái tim ngất ngây hoà bình.” 
Là chim, là chiên hay mục tử, thiết nghĩ cũng đều là thọ tạo của Thiên Chúa, Đấng luôn chăn dắt ta vào đồng cỏ xanh tươi. Ở nơi đó, có quê hương rất hiền. Ở nơi đó, có những tin vui hiền lành. Thông thoáng. Ta gọi là Tin Mừng. Mừng vui nhân hiền, đều là mục đích của chim vui, của chiên hiền hay mục tử. Bởi, dù có là gì đi nữa, tất cả mọi tạo vật cũng sẽ bay và quay về trong vòng tay ôm hiền dịu của Chủ Chăn, là Chúa Chiên Hiền. Rất thân thương. Độ lượng. Có khi nào như người cha, người bố ở truyện kể vui vui, nhè nhẹ để thư giãn:

“Alô ! Con chim nhỏ của anh đấy à?
-Không ! chim bố đây.
-Ấy chết ! Cháu xin lỗi bác! Bác có khỏe không ạ?
-Khỏe để đánh nhau với ai ?
-Dạ ... cho cháu hỏi Trang có nhà không ạ ?
-Nó không có nhà thì là dân vô gia cư à?
-Dạ, dạ ... ý cháu là Trang có ở nhà không ạ?
-Nếu không thì sao?
-Thế ... Trang đi đâu ạ?
-Ðến cơ quan rồi.
-Bác cho cháu số điện thoại của Trang được không ạ?
-Nó có nhiều số lắm !
-Bác cho cháu xin một số thôi ạ !
-8...
-8 rồ i... mấy nữa ạ?
-Thì cậu bảo chỉ cần một số thôi mà .....
-Dạ bác cho cháu xin nốt mấy số còn lại luôn ạ
-5 7 3 6 8 2, còn sắp xếp sao thì tùy cậu.”

Nói cho cùng, bạn của con ông/con bác có gọi nhau là chim, hay chiên hay hoa, hay người, hoặc gì gì đi nữa, cũng cứ nên tỏ bày tình thân thương mà chăm sóc, và đùm bọc. Ai nỡ lòng nào, ơ hờ chỉ cho có một con số để trao đổi tình thân thương. Dù ngoài nhà. Dù trong Đạo. Dù ở đâu đó, chốn Nước Trời cộng đoàn thân thương hay ngục tù, nhiều ghen ghét.

Bởi đã là con cùng một Cha trên trời, ta vẫn là chiên con, con chim, con người. Rất hiền lành. Chân chất. Rất thân thương.       

Trần Ngọc Mười Hai
vẫn cứ mong 
  sống đời hiền lành, chân chất
người con Chúa.    

            
 
9. “Chiều chưa đi màn đêm
rơi xuống”
Đâu đấy buông lững lờ tiếng chuông,
đôi cánh chim bâng khuân rã rời
cùng mấy xám về ngang lưng trời.”
(Nguyễn Văn Thương – Đêm đông)

(Galát 5: 22-23)
Rất nhiều người, sao vẫn rất sợ, màn đêm. Màn đêm, từng rơi xuống. Cùng mây xám về ngang lưng trời. Sợ nhất, là những đêm không trăng, có tiếng chuông, buông rơi. Lững lờ. Sợ nữa, là “màn đêm cuộc đời”. Lờ lững trôi. Sợ, như truyện hài được kể bên dưới, giữa hai cụ:

“Truyện rằng: 
Có hai cụ Việt kiều, khá móm mém, nói chuyện với nhau, ra chiều ăn ý lắm:
-Ông nghĩ thế nào mà lại rước con bé chưa tròn hai mươi, về làm vợ?
-Nó thật thà lắm ông ạ. Chính vì tánh này, tôi mới cưới, đấy!
-Làm sao ông biết tánh nó thật thà?
-Chả là, trước khi lấy, tôi có hỏi: ‘Sao em chỉ bằng tuổi cháu nội qua, mà em lại chịu lấy qua? Nó nói, nhà nó nghèo quá, nên lấy tụi cho đỡ khổ. Lấy về, có thể nuôi được cả nhà, cũng hay.
-À thì ra, chỉ vì nó than nghèo, mà ông cho là nó thật thà sao?
-Tui cũng có thử lòng nó thêm, nên mới hỏi: Nếu đưa em qua bên bễn, lỡ em bỏ qua đi lấy đứa nào trẻ hơn, cỡ bằng tuổi em thì sao? 
Nó trả lời vầy chứ: 
-Em đợi được mà. Sức ông giỏi lắm chỉ sống chừng 6, 7 năm nữa là cùng. 
Tui mới gặng hỏi: Lỡ 5 năm sau em vô quốc tịch, rồi thì không chịu đợi cho qua chết, em bỏ qua thì sao? 
Nó suy nghĩ một hồi, rồi nói: 
-Em nói ông đừng giận em nhe. Sức của ông ở một mình, thì còn sống thêm được 6, 7 năm. Chứ, sống chung với em, giỏi lắm ông cũng chỉ thọ thêm chừng một năm thôi, là nhiều….

Chừng như, ngày nay người ta hiểu quá sơ sài về hình dung từ “thật thà như đếm”. Cụ cao niên ở trên chỉ mới đếm được tới con số 6 hoặc 7 niên, đã vội gọi người vợ hiền mới cưới là “thật thà như đếm”, kể cũng lạ. 
Một điều lạ không kém, là: năm nay, Năm Thánh Linh Mục, có nhiều vị cũng đã bàn rất nhiều. Nhưng hôm nay, có bàn thêm về bản chất hiền lành/thật thà, thật cũng nên. Nói cho vui, khi xưa các cụ nhà ta, thường có câu: “thật thà, là cha thiên hạ”. Linh mục nhà mình, lâu nay vẫn được gọi là cha. Không là cha bầy trẻ. Nhưng, vẫn được coi như các vị cha/bác, thiên hạ vẫn kính trọng. 
Năm Thánh cho linh mục, có người sẽ hỏi: nên chăng, mạn đàm về tính thánh thiêng rất thật thà của các vị cha “thiên hạ”, như “thày cả” Gioan Vianney được cả Giáo hội coi là “thánh quan thầy” của các linh mục không? Như câu hỏi của ai đó trên The Catholic Weekly,ngày 2/8/2009, như sau:

“Đức giáo Hoàng Biển Đức thứ XVI đã chính thức tuyên bố: năm nay, 2009 được chọn là Năm Thánh Cho Linh Mục, nhân kỷ niệm lần thứ 150 ngày chết của thánh linh mục Gioan Vianney, họ Ars, xứ đạo nhỏ bên Pháp. Nói chuyện với bạn bè, tôi khám phá ra rằng, phần đông nhiều người chẳng biết thánh này là ai, mà sao Giáo hội lại tôn ngài làm quan thày các linh mục, các vị ngồi toà cáo giải? Có phải vì tính thật thà lành thánh, của ngài hay không? Xin linh mục cho biết đôi nét về tâm tánh của vị thánh này. Rất biết ơn.”

Vốn là linh mục “triều”, lại được hỏi về đấng quan thày của mình, vẫn là chuyện quá thường ngày ở huyện. Nên chi, đức thày John Flader của ta nay có đôi giòng chảy giải đáp rất “thật thà”, như sau:

“Thánh Gioan Vianney, có tên cúng cơm rất thật đầy, là: Gioan Baotixita Maria Vianney. Ngài là linh mục thuộc giáo phận ở Pháp, sống vào thế kỷ thứ 19, rất nổi tiếng về lòng đạo hạnh. Thật thà. Chất phác. Đặc biệt, ngài đã để hết tâm trí vào Bí tích Giao Hoà, toà cáo giải. Nói nôm na, là bí tích giải tội.
Là con thứ ba của một gia đình gồm sáu người con, chuyên sống bằng nghề nông ở thôn vùng Dardilly gần Lyons, miền Nam nước Pháp. Thánh Gioan Vianney sanh ngày 8 tháng Năm, năm 1786. Ông bà thân sinh ra ngài, là người chân chất. Thật thà. Rất độ lượng với người nghèo. Ở quanh vùng.     
Thoạt khi Cách mạng Pháp 1789 bùng nổ, các linh mục ở vùng quê buộc phải lui vào chốn âm thầm đầy bóng tối, gia đình thánh Gioan Vianney vẫn tiếp tục tham dự thánh lễ ở nhà riêng. Dù biết làm như thế là không phải. 
Bị đánh động bởi lòng thương yêu độ lượng của các linh mục dám liều mình hy sinh cuộc sống riêng tư, để phục vụ người dân trong cảnh nghèo túng, người trẻ Gioan Vianney nhìn các ngài như những anh hùng cái thế đích thực, của thời đại.
Ngày từ năm 19 tuổi, thánh nhân đã đạt ước nguyện được phép lên đường học tập sống đời đạo đức của người mục tử, tại nơi đào tạo do linh mục Balley, chánh xứ Ecully phụ trách thành lập. Ngặt một nỗi, tài trí kiến thức của Gioan Vianney thuộc loại bình thường bậc trung, lại mất đi căn bản giáo dục vào mấy năm loạn lạc, nên thánh nhân đã vất vả với các môn học khó như La Ngữ. May nhờ lòng khao khát quyết tâm làm linh mục của Chúa, cộng thêm sự cảm thông kiên nhẫn của linh mục Balley, nên cuối cùng, thánh nhân cũng bền đỗ, với ơn gọi.
Năm 1815, vừa tròn 29 tuổi, Gioan Vianney được thụ phong và trở thành linh mục phụ tá cho cha Balley, lúc bấy giờ. Và rồi, được chuyển về làm chánh xứ họ đạo nghèo, gồm 40 gia đình ở Ars. Đa số giáo dân ở đây, chỉ lo uống rượu và mải miết làm việc đồng áng cả vào ngày của Chúa. Nên cũng khó. 
Trước hoàn cảnh khó khăn ấy, cha xứ Vianney chỉ biết nguyện cầu cùng Chúa, với lời khấn: “Chúa cứ thêm sức cho con, để con cải tạo được giáo xứ, thì rồi có khổ cực đến mấy con cũng cam chịu, suốt đời!” Những ngày đầu đời linh mục, vị thánh trẻ suốt ngày nguyện cầu ở nhà thờ, nên ai tìm đến, cũng dễ gặp.
Nhờ chú tâm vào việc nguyện cầu không ngơi nghỉ, linh mục Vianney còn quyết tâm đền bù lỗi lầm của giáo dân, kể cả việc nhịn ăn bớt ngủ, sống phạt xác rất nhiệm nhặt. Nhiều khi, thánh nhân còn quyết chí: ra việc đền tội ít đi cho những người phạm lỗi; để thay vào đó, tự mình nhận lãnh khó khăn do lỗi phạm của họ đem đến.
Ngoài những quyết tâm như thế, thánh nhân đối xử tử tế với người nghèo, quyết không tiêu pha phung phí điều gì, cho bản thân. Thế nên, khi xứ đạo Ars đã đi vào ổn định, thánh nhân bèn thành lập nhà trú ẩn cho phụ nữ tuyệt vọng/đau khổ, mà ngài đặt tên nơi ấy thành “Chốn An bài” của Chúa. Kể từ đó, các nhà trú ẩn tương tự đã trở thành cơ ngơi cho người cùng khốn, trên khắp nước. Ở nơi đó, thánh nhân có cơ hội giáo huấn người tuyệt vọng/khổ đau có được niềm tin yêu, sống với Chúa.          
Cũng từ đó, linh mục chánh xứ Ars đã nổi danh trong việc dẫn dắt linh hồn về với toà cáo giải. Từ khắp nơi, người người đổ dồn đến với thánh nhân xếp hàng trước toà cáo giải, mà thú lỗi với Chúa. Đến năm 1855, số người hành hương tìm đến xứ họ Ars đã lên đến 2 chục ngàn người. Vào cuối đời, thánh nhân còn bỏ ra mỗi ngày 16 đến 18 tiếng để giải hoà người phạm lỗi, đến từ khắp chốn.
Thánh Gioan Vianney qua đời ngày 4/8/1859, thọ 73 tuổi. Năm 1874, Đức Giáo Hoàng Piô IX đã phong Chân Phước cho ngài. Và, năm 1925, Đức Giáo Hoàng Piô XI phong cho ngài làm hiển thánh, quan thầy các linh mục chánh xứ, giải tội.”

Sử hạnh một linh mục nghèo, đơn giản chỉ bấy nhiêu. Nhưng, vấn đề là: ta học gì ở sử hạnh của vị thánh linh mục này? Tính thật thà/chân chất, sống nghèo với người nghèo chăng? Người sống ở chốn phồn hoa/đô hội, thì sao? Hoặc, lớp nghèo thành thị bây giờ, người là ai? Có cần bắt chước thánh Vianney không?    

Ôi. Hỏi thì nhiều lắm. Có trả lời, cũng chẳng trả được nhiều …lời. Đó mới thành chuyện. Và, chuyện ở đây, hôm nay lại cũng giản đơn như nhận định của một linh mục thật thà, chân chất, rất như sau:

“Ngày hôm nay, người ta bỏ ra quá nhiều thì giờ hơn mình tưởng, để ngồi trước màn ảnh truyền thông/truyền hình, mà phung phí. Nếu tính thời gian trung bình mỗi người xem truyền hình là 3 tiếng/một ngày, thì đến năm tròn 40, thời gian ấy đã là 5 năm, trong đời. Chỉ ngồi chơi. Nếu người xem như thế sống đến 80 tuổi, thì thời gian xem truyền hình, đến 10 năm. Người xem ít, kẻ xem nhiều. Nhưng tựu trung là thế.” (Lm Patrick Kearney, CssR The Majellan Apr-Jun/09 t.19)

Gọi họ, là lớp nghèo thị thành ư? Việc ấy còn tuỳ. Tuỳ ý. Tuỳ hỷ. Nhưng, với vị linh mục hiền lành/chân chất, hôm nay ghi ở trên, thì vấn đề còn đi xa hơn. Linh mục bảo:

“Có lẽ, tôi hơi khó với truyền hình. Thế còn phim ảnh, sách báo, phim nhựa. băng diã DVD, thì sao? Vâng. Tất cả thứ ấy, nay gây ảnh hưởng quá nhiều lên người sống ở nơi nào có các phương tiên truyền thông ấy. Thông thường, với phương tiện này, người người đều có thể có chọn lựa nào thích hợp với quan điểm tư riêng của mình. 

Truyền hình, nay có tiềm năng về toàn bộ mọi giải trí tốt xấu, cũng như giáo dục và làm giàu cho người xem nó. Kinh nghiệm riêng cho ta thấy, quả là chuyện thương tình khi ta nhận ra rằng, nay nó đã chễm chệ làm bớt đi giá trị và giảm sút trí tuệ người xem, và nhất là làm suy thoái khả năng định hướng/định hình cho xã hội, được tốt hơn.” (Lm Patrick Kearney, CssR bđd, tr.20)                      

Thật tình mà nói, xã hội hôm nay đã được định đoạt, cả về hướng lẫn hình. Định và đoạt, đến độ cách đây nhiều năm, nghệ sĩ Nguyễn Văn Thương đã phải kêu lên bằng tiếng hát:

“Thời gian như ngừng trong tê tái
cây trút lá cuốn theo chiều mây
mưa giăng mắc nhớ nhung, tiêu điều
Sương thướt tha bay, ôi! đìu hiu.” 
(Nguyễn Văn Thương – Đêm Đông)

Tiêu điều. Mưa giăng mắc. Tê tái. Ôi! Đìu hiu. Không hẳn, đời người thị thành, là như vậy. Thế nhưng, nỗi sợ cho người thành thị hôm nay, là: tuy xem cũng nhiều đấy; nhưng nghe lại chẳng được là bao. Nhất thứ, là nghe lời thành thật/chân chất, rất yêu thương của Đấng Hiền Lành, như: 

“Hãy thụ giáo với Tôi,
vì Tôi hiền lành
và khiêm hạ trong lòng.”
(Mt 11: 29)

Sống khiêm hạ và hiền lành, ở thị thành, không có nghĩa là sống tiêu cực. Buồn bực. Nhiều xa cách. Xa bạn bè. Cách chia cộng đoàn đầy tình thương yêu trìu mến, ở khắp chốn. Dù chẳng là linh mục, chỉ lèng quèn, dân con hạng thứ. 
Sống hiền lành và khiêm hạ, ở mọi chốn, là hoà mình với Chúa, với mọi người. Cứ chân chất, rất thật tình như Thầy mình, xưa vẫn sống. Thầy sống với mọi người. Sống san sẻ mọi tình huống có hỉ nộ ái ố, đầy đủ cả.
Sống làm sao, để mọi người thấy được, dù mình là thầy cả, hoặc chỉ là giáo dân, vẫn cứ vui tươi, năng động. Vẫn dấn thân về với người nghèo. Chân chất. Thật thà. Vào mọi tuổi. Ở mọi nơi. Bởi  qua đó, mọi người sẽ thấy ta là hoa quả của Thần Khí Chúa, như thánh Phaolô từng quả quyết:

“Hoa quả của Thần Khí
là: mến yêu, vui mừng, bình an,
rộng rãi, tốt lành, tín trực, hiền từ, tiết độ.
Không có luật nào chống lại các điều ấy..
Sống bởi Thần Khí,
thì ta cũng cứ hướng theo Thần Khí mà tiến bước.”
(Galát 5: 22-23)  

Nói cho cùng, là kẻ rao truyền Lời Chúa qua tư cách linh mục hoặc giáo dân, mà không diễn lộ được những đặc tính như trên, thì Đức Giáo Hoàng mình có lập nhiều năm thánh linh mục, hoặc năm thánh giáo dân, e rằng kết quả đạt được, chẳng là gì. cũng chỉ mất công. Và mất của, thôi.  

Trần Ngọc Mười Hai
vẫn cầu và cứ mong,
đời hồn nhiên,hiền lành và khiêm hạ.       
Cho mọi người.  




.10. “Ta gặp nhau, yêu chẳng hạn kỳ” 
Mây ngàn gió núi đọng trên mi 
Áo bay, mở khép niềm tâm sự 
Hò hẹn lâu rồi - em nói đi 
(Phạm Đình Chương/ Đinh Hùng – Mộng dưới hoa)

(Mt 11: 15)
Vừa gặp nhau, sao cứ bảo “yêu chẳng hạn kỳ”. Yêu nhau rồi, sao vẫn còn “mở khép niềm tâm sự”. Những hẹn hò. Mãi từ lâu. Phải chăng, ấy đó là chơi trò yêu đương/giận hờn, của người đương yêu, mà không biết? 
Yêu đương hay đương yêu, vẫn là chuyện dài nhiều tập. Suốt mọi thời. Ở khắp chốn. Chí ít, là chốn dân gian mộng mơ. Có thơ văn. Âm nhạc. Của người yêu đâu đó quanh ta. Cả nhà Đạo. 
Yêu đương chuyện nhà Đạo, tựa việc mặt trời chiếu sáng, ban mai. Rất dài dài. Bởi, nhà Đạo là Nước Trời ở trần gian. Ở đây, dân con Đạo Chúa, vẫn yêu thương nhau da diết. Mật thiết. Có khi, quá da diết đến độ “trì chiết”, dễ ngộ nhận. Cứ, tranh tụng và chấp nê nhau từng hành vi. Câu nói. 
Có lẽ vì thế, mà nghệ sĩ thơ văn/âm nhạc, lại cũng nói:

“Chưa gặp em, tôi vẫn nghĩ rằng:
có nàng thiếu nữ, đẹp như trăng.
Mắt xanh, là bóng dừa hoang dại,
âu yếm nhìn tôi, không nói năng.”
(Phạm Đình Chương/ Đinh Hùng  – bđd)

Đúng thế, “ta gặp nhau, yêu chẳng hạn kỳ”. Yêu nhau, như Thầy từng căn dặn. Yêu, tốt nhất và hay nhất là: cứ mải “nhìn nhau, không nói năng”. Bởi, ở đâu cũng thế. Hễ, cứ nói năng, lăng nhăng nói “trại”, thể nào cũng có lúc ta sơ hở. Kể cũng lạ, Hoá Công tạo nên ta chỉ một miệng, một lưỡi, những hai tai. Mà sao, ai cũng thích nói, chẳng buồn nghe. Nói nhiều hơn nghe, sẽ có ngày ta nói nhịu. Nói bậy. Tức, nói ngược nói ngạo, vượt phạm vi chức năng/thiên chức, người được nói.

Nói gần nói xa, chẳng qua nói thật, dân con nhà Đạo, ta nghe Chúa nói rất nhiều điều, nhưng chưa hiểu. Điều Chúa nói, vỏn vẹn chỉ bây nhiêu: 

“Ai có tai thì nghe.”
(Mt 11: 15/13: 9/Lc 8: 8)       

Là, môn đệ theo chân Chúa truyền rao Tin mừng, bằng lời nói cụ thể, cụ sáu/thày cả, phải là những người thực hiện điều Chúa dạy, hơn ai hết. Nhưng, nhiều cụ quá bận rộn với “việc của Chúa” (chứ không phải việc chùa), lại hay dính đôi chút chuyện trần gian, nên quên lãng. Vì quên, nên có đức thày cứ trộm nghĩ mình là mục tử, hẳn đương nhiên có thêm chức năng của vị chủ chăn, là  đấng bậc ở trên trông nom các mục tử trong giáo phận. Nên, có mục tử tự phát kỹ năng riêng biệt mà Hội thánh chưa kịp ban, cho mình.  
Có đức thày, lại đã phóng tay có câu phán rất ư là “Chủ chăn” trước cộng đoàn giáo xứ, mà bần đạo tình cờ được đọc, như:

“Căn cứ vào thời gian xảy ra sự việc…, căn cứ vào biên bản cuộc họp các ban ngành…, căn cứ vào lời kêu gọi ăn năn sám hối của Cha quản xứ và những người khôn ngoan đạo đức có uy tín trong Giáo xứ. Xét theo thời gian gia ân, nhưng thương ôi, các tội nhân không vâng lời chịu ăn năn sám hối , để được tha thứ …, Với chức vụ và quyền hạn của linh mục quản xứ, nay tôi quyết định ba điều sau:
Điều một: Cắt đứt mọi quyền lợi và loại khỏi giáo xứ, đối với những người sau đây: ô/bà A,B,C;
Điều hai:Tạm dừng mọi chức vụ và những người chưa… giám định trong Giáo hội;
Điều ba: Mọi tín hữu trong giáo xứ …., không ai được giao lưu với những người trên, kể cả chết không được đưa tang, đám cưới không được tham dự;
Điều bốn: Quyết định này có hiệu lực VÀO ngày ký. 
Ngày… tháng… năm 2009. 
Lm …, quản xứ XYZ 

Đức thày còn thêm lời giải thích, rất như sau: 

‘Từ ngày hôm nay trở đi, tôi và giáo xứ không có trách nhiệm gì đối với các người này, COI NHƯ QUÝ VỊ ĐÃ CHẾT TRONG ĐỨC TIN, CHẾT VỚI CHÚA NHƯNG QUÝ VỊ KHÔNG ĐƯỢC SỐNG LẠI VÀ CHẾT CHO RỒI.” (Trích điện thư 7/09, gửi từ quê nhà Hội thánh Chúa)

Đọc phán quyết của vị mục tử/tử mục chuyên chăn dắt đàn chiên nhỏ ở giáo xứ, bần đạo tưởng mình đang lội ngược giòng lịch sử, bơi về thời trước. Lội và xem, nhưng chẳng dám có lời thanh minh hay góp ý gì hết, chỉ biết ngân nga, ba câu thơ thẩn một lời hát. Hát rằng:

“Ôi, hoa kề vai, hương ngát mái đầu
đêm nào, nghe bước mộng trôi mau.
Gió ơi, gửi gió lời tâm niệm,
Và, nguyện muôn chiều, ta có nhau.” 
(Phạm Đình Chương/ Đinh Hùng  – bđd)

Ngâm nga xong, rồi lại mộng ước. Ước nguyện muôn chiều, ta có nhau. Có nhau, trong Nước Trời, Nhà Đạo. Có nhau, ngày của Chúa. Chốn cầu kinh. Như Ngài dặn: 

“Ở đâu có hai ba người họp lại 
nhân danh Thầy, 
thì có Thầy ở đấy, 
giữa họ."
(Mt 18: 20)

Bần đạo trộm nghĩ, hội họp ở nhà thờ/nhà xứ để gọi là kính Chúa với cầu kinh, mà lại không để cho người khác cùng tham gia -dù người ấy có sai sót/quấy quậy điều gì đi chăng nữa- hẳn, cũng là chuyện không phải. Thiếu sót. Đó là, chưa nói về chuyện đức thày mục tử, sử dụng quyền hành-xử với bổn đạo dưới trướng, có phù hợp với chức năng rất thánh, của mình hay không.
Về chức năng/quyền hạn, đức thày làm chủ giáo xứ có tương đương ngang bằng hạn quyền của vị “chủ chăn” giáo phận hay không. Thậm chí, các vị chủ chăn có quyền vô ngộ, không sai sót như Đức Giáo Hoàng, không? Bần đạo còn nhớ lại câu hỏi của độc giả nọ, cũng đại loại như thế. Hỏi, và bảo rằng:

“Con nhớ có lần đã từng đọc được ở đâu đó, hoặc nghe có người bảo: trong chừng mực nào đó, Đức Giám Mục địa phận có quyền phán quyết cũng “vô ngộ”, tức không sai sót, như Đức Giáo Hoàng. Điều đó, có đúng không? Nếu đúng, thì đúng trong trường hợp/điều kiện nào? Và vai trò của Giám mục và/hoặc Tổng giám mục khi ấy, sẽ ra sao?”

Thắc mắc/gạn hỏi, có lẽ được gửi từ một độc giả khá chuyên chăm -bởi có chuyên chăm cho lắm, mới bận tâm như thế. Và, nơi tiếp nhận thắc mắc/gạn hỏi, vẫn là đức thày rất chăm và rất chuyên về giải đáp, tức đức thày John Flader, rất linh mục, ở Sydney, như sau:

“Có hai chuyện cần làm sáng tỏ. Trước hết, quả quyết ở câu hỏi đầu, rất đúng. Đúng, không ở điều bảo rằng: mỗi giám mục, trên cương vị và tư thế của mình, đều vô ngộ. Dĩ nhiên, không phải thế. Lịch sử Hội thánh, dẫy đầy những trường hợp các giám mục đi chệch đường, có khi các ngài giảng giải cho mọi người tin, rặt những điều sai trái ấy. Nhưng giám mục, cùng với Đức Giáo Hoàng, nhìn tổng thể, cũng mang tính “vô ngộ”, ở một số hoàn cảnh.
Công Đồng Vatican II, trong Hiến Chế “Lumen Gentium (Ánh Sáng Muôn Dân)”, đã có phán quyết như sau:”Dù các giám mục, đứng riêng rẽ, không hưởng đặc quyền vô ngộ được. Tuy nhiên, các ngài vẫn có được đặc tính ấy, khi tuyên bố tính vô ngộ trong giáo lý của Đức Kitô, theo các điều kiện sau đây: cụ thể là, khi dù tản mác nhiều nơi trên thế giới, nhưng vẫn duy trì sự hiệp thông với nhau giữa các ngài và với Đức Giáo Hoàng, trong cung cách giảng dạy về những điều có liên quan đến đức tin và luân lý, các ngài đồng thuận rằng: có điều được giảng dạy riêng biệt phải được coi là rạch ròi, tuyệt đối. Rõ hơn nữa, là trường hợp khi các ngài tụ tập trong hội đồng đại kết, thì các ngài đều là các bậc giảng dạy hoặc đấng bậc phân xử, cho Hội thánh toàn cầu, về các vấn đề có liên quan đến giáo điều và luân lý; và, quyết định của các ngài, phải được đính kết có sự thuận thảo trung kiên tuân phục, về đức tin.” (Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, số 25).

Đấng chủ quản cả giáo phận, mà còn phải hợp lòng/hợp ý với Đức Giáo Chủ/Giáo Tông, mỗi khi phán quyết điều gì. Chí ít, là quyết phán “vạ tuyệt thông”, với giáo dân. Chứ đâu đứng trước mặt bá quan giáo họ, mà căn cứ vào cái-gọi-là “biên bản buổi hội họp” của ban hành-giáo, hay hành (hạ) người Công giáo, để tuyên sấm, gây sấm sét.
Chẳng thế mà, nhà thơ cùng người nghệ sĩ âm nhạc, cứ dệt mộng “dưới hoa” với lời ca:

“Bước khẽ, cho lòng (anh) nói nhỏ
bao nhiêu mộng ước phù du;
ta xây thành mộng nghìn thu,
núi biếc, sông dài ghi nhớ.” 
(Phạm Đình Chương/ Đinh Hùng  –bđd, lời 2)

Vốn dĩ xây mộng nghìn thu, cho Nước Trời ở trần gian, người đi Đạo ở vùng sâu vùng xa, vẫn bị hành và hạ như trên, hẳn sẽ hát thêm:  

“Tôi cùng em, mơ những chốn nào
Ước nguyện chung giấc mộng trăng sao..”
(Phạm Đình Chương/ Đinh Hùng  – bđd)


Mơ những chốn nào, để đi đến. Hoặc, chung giấc mộng trăng sao, có thể là ước nguyện của các vị thấp cổ bé miệng ở đâu đó, nay quyết chí. Quyết, tìm hiểu chức năng/vai trò của đấng bậc, tựa người nước ngoài dám công khai hỏi, như lời ghi trên báo, ở trên. Và, “đức thày” nhẹ nhàng trả lời:

“Chức thánh Giám mục (cũng như linh mục và phó tế) qua đó, vị thừa-tác-viên đến để san sẻ công cuộc thừa tác với Đức Kitô, theo cung cách đặc biệt. Chức thánh, định nghĩa như nhiệm tích được ban cho vị nào đó, có ơn Chúa Thánh Thần kèm theo, là cốt để giúp vị ấy thực hiện một cách xứng đáng và có hiệu lực, các vai trò thánh thiêng như: chức phó tế, linh mục, hoặc giám mục.
Giám mục là chức lớn nhất trong ba chức thánh, vừa kể. Như thế, vị giám mục trở thành người kế vị các thánh Tông đồ và là thành viên của Giám mục đoàn, có trọng trách không chỉ trong giáo phận hoặc trong công cuộc thừa tác mình nhận lãnh, với toàn thể Giáo hội hoàn vũ. 
Khi được tấn phong, các giám mục có trọng trách giúp Đức Thánh Cha trong việc quản cai toàn thể Giáo hội hoàn vũ. Các ngài còn lĩnh nhận quyền uy để tấn phong cho các phó tế, linh mục và các giám mục khác. Và các đức giám mục còn được quyền ban phép Thêm sức như một thừa tác viên bình thường. 
Các giám mục, có thể phục vụ tại địa phương, ở giáo phận mình với tư cách Chủ chăn một giáo phận, hoặc là phụ tá, chuyên phụ giúp đức giám mục sở quản. Giám mục nào được Đức Thánh Cha ban cho quyền kế vị đức giám mục chủ quản của giáo phận, thì khi vị này rời chức vụ, thì giám mục phụ giúp kia được gọi là Giám mục phó. Nhưng vai trò của Giám mục phó, vẫn như các giám mục phụ tá, mà thôi.
Ở một số quốc gia, vì tầm quan trọng của giáo phận nào đó ở trong nước, các giám mục được cất nhắc gọi là Tổng Giám mục, nhưng quyền hạn và chức vụ vẫn không hơn các giám mục ở các giáo phận khác. Ví dụ, như ở Việt Nam, có các Tổng giáo phận Hà Nội, Huế và Sàigòn.         
Một số Tổng giáo phận là giáo phận chính trong một nhóm giáo phận, lập thành Giáo tỉnh. Vị Tổng giám mục của các tổng giáo phận này được nhận danh xưng Tổng giám mục chính toà. Vị này có quyền hạn trông nom bao quát nhiều giáo phận khác, vẫn thường gọi là giám mục thuộc hạt.
Vị Tổng giám mục chính toà không có quyền hạn trông coi trên các các giáo phận thuộc hạt. Bởi lẽ, các giáo phận thuộc hạt, được đặt dưới quyền của chính giám mục chủ quản của các ngài. Vai trò của ngài chỉ là coi sóc bên trên, coi xem niềm tin và kỷ luật giáo triều có được tuân thủ trong khắp toàn giáo tỉnh của ngài hay không, mà thôi. (x. Giáo luật số 436)

Xét từ trên xuống dưới, các câu giải đáp của đức thày không thấy chức năng, hoặc vô ngộ hoặc có quyền hạn đưa ra “vạ tuyệt thông” đối với giáo dân, dưới trướng. Cũng nào thấy “ghế tông toà” (ex cathedra) để mà phán quyết, những “dứt phép thông công”. Thành thử, nhiều đức thày hành xử xem ra có vẻ theo luật pháp giáo hội, nhưng lại vượt quá quyền giáo hội ban cho. Có lẽ nên gọi các đức thày này, là đức cha tự sinh ra, hoặc Giáo hoàng tự phát. Nên chăng? 
Nên hay không nên, thì trong hệ cấp điều hành của Giáo hội, nay vẫn chỉ như thế. Còn lại, nếu có vị nào vẫn nguyện và vẫn ước chuyện đổi thay, hãy cứ ngồi dưới cây sung già, mà khấn nguyện. Một đổi thay. Loay hoay hoài, không thấy. 
Chẳng cần thấy và cũng không tìm đâu cho thấy. Chỉ cần trở về với nguồn cội của Lời, sẽ thấy ngay. Thấy ngay rằng, khi xưa cho đến “bi chừ”, Chúa vẫn khuyên từ dân con cho đến mục tử hoặc Chủ chăn, trong ngoài huyện dân gian cùng nhà, rằng:

“Vậy anh em hãy đi 
và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, 
làm phép rửa cho họ, nhân danh 
Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, 
dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho 
anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày 
cho đến tận thế."
(Mt 28: 19)

Ở đây, không thấy Chúa bảo: cứ thấy tay nào khó dạy, cứ hay “quậy”, là đuổi ra. Ra khỏi cộng đoàn môn đệ, nhà Hội thánh. Ra khỏi Nước Trời, ở đó có Thầy ở “cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” Xem như thế, là con dân đồ đệ, đích thật “người” của Chúa, tưởng cũng nên đón chào các người anh/người chị vào với Nước Trời, là Hội thánh. Là, cộng đoàn tình thương, nơi giáo xứ/họ đạo mình, dù lớn nhỏ. Dù, ở đó, có cha sở rất khó tính. Dù, ở đó, ở đàn con rất bướng bỉnh. Khó dạy. Hay “quậy”.
Để minh hoạ, cho những lời bàn ở trên, tưởng cũng nên tìm đến những truyện kể nhè nhẹ. Êm êm. Thánh thót, rất như sau:
Truyện rằng:
“Ba em cùng trường, chuyện trò với nhau ở ngoài sân. Vào giờ chơi. Chơi hết mọi trò, đà thấy chán, bèn nghĩ ra trò mới: hãy khoe nhau xem bà con nhà mình ai tài. Ai giỏi. Ai hơn ai. Đứa thứ nhất, vội khoe:
-Tớ đây, chẳng biết gọi đó là trò gì, mà sao cứ thấy bố mình lấy giấy bút ra viết nguệch ngoạc vài hàng, rồi gọi đó là “thơ”, thế mà tờ báo nọ cũng tặng ỗng, những 5 chục đô.
Đứa thứ hai nghe thế, thấy nóng mặt, bèn nổ “lốp bốp”, to hơn:
-Còn ông chú của tớ ấy à! Ỗng cũng lấy giấy viết ra, kẻ chỉ vài giòng, rồi chấm chấm phết phết, gọi đó là nhạc bản. Thế mà, cũng có người khùng điên, tặng cụ đến năm trăm.
Đứa thứ ba, vội vàng nói nhanh:
-Ông cậu của mình, chẳng biết có tài giỏi gì hơn ai không, mà sao ông ấy quyền thế đến là như thế…
Bạn bè nghe thế, thấy sốt ruột, bèn thúc bạn mình bật mí để xem cái nghề gì mà ghê đến thế:
-Sao cậu không nói nhanh cho rồi, còn úp úp mở mở làm gì, bọn này chờ đợi hơi bị mệt đấy!
-Có gì đâu. Nghe bảo rằng, cậu tớ làm tới chức “ông cha”, ở nhà thờ. Làm gì thì không biết, nhưng mỗi tuần ông viết vỏn vẹn không đầy một trang giấy, rồi lên bục nói rất lớn. Nói những gì tớ nào có hiểu, thế mà mọi người lớn bé già trẻ ngồi nghe, cứ thế mà gật gù, tán thưởng. Sau đó, còn gom tiền bỏ vào rổ mang lên đưa cho ỗng, có đến bạc ngàn. Có lần, nhiều người nghe xong còn bỏ về, khóc lóc thảm thiết ghê lắm.”

Dưới tầm nhìn của giới thâm thấp/nhỏ nhỏ, thì làm vị mục tử giảng giải ở nhà thờ là làm lớn ghê lắm. Lớn đến độ, nói gì người nghe cũng đều “gật gù”, tán thưởng. Thưởng bằng tiền. Tán và thán, bằng những cử chỉ khóc lóc, và bỏ đi. Tán thán hoặc bỏ đi như thế, tức đi ngược lời dạy của Đức Chúa, Đấng chỉ muốn cho “muôn dân trở thành đồ đệ”. Để, Ngài ở với, ở 
cùng mọi người. Mọi ngày cho đến trần thế. 
Cuối cùng vấn đề còn lại, là: hỡi bạn và tôi, cứ tự kiểm xem mình ta biết nghe Lời Ngài nhủ khuyên mà nạp thâu môn đệ cho Chúa, đã đủ chưa. Hay, ta lại xua đuổi người người khỏi cộng đoàn tình thương, của Đức Chúa. 

Tự kiểm để học hỏi. Học và hỏi, không chỉ ở đây. Bây giờ. Mà, cứ thế mãi. Rất về sau.                      

Trần Ngọc Muời Hai
Nghĩ mình vẫn cần học và hỏi.
Học thật nhiều.
Hỏi không thiếu.
Suốt cuộc đời.
            
11. Rồi mai, tôi đưa em, xa kỷ niệm,”
xin lời cuối, không dối gian, trong mắt em. 
Tình yêu, cho thương đau, nghe buồn thêm . 
Gác vắng, mưa gợi niềm chăn chiếu.” 
(Trường Sa – Rồi mai tôi đưa em) 

(Mt 25: 45) 
Đưa em, xa vùng trời kỷ niệm. Không dối gian. Nghe
buồn thêm.  Buồn thật, nhưng có buồn nào bằng cái buồn của những “ngày mai tôi đưa em/đưa anh” xa vùng trời yêu thương. Nhung nhớ. Vùng trời đầy nhung nhớ ấy, cũng chẳng ở làng Nazarét, chốn quê nghèo. Cũng chẳng là, hang Bê-lem, thôn làng nhỏ bé. Nhưng lại là, thành thánh Giêrusalem, đầy nhớ thương. Nhớ và thương vùng trời Giêrusalem ấy, chốn tôn nghiêm. Yêu thương, tình Đại kết. 
Thành thánh Salem lần đầu ghé viếng, người người 
đều thấy  rõ tình  đại kết, rất mến thương. Tình, của các phe phái nơi Đạo Chúa, vẫn chung phần nối kết, một lịch sử. Một di tích tưởng niệm, có những chặng đàng khổ giá, có khóc than. Có bái lạy, sì sụp. Mà người người đinh ninh rằng: Hài Cốt Chúa được lưu giữ ở đâu đó, ngay bên dưới. Có nhà mồ, kiên cố. Có nến đèn thắp sáng, quanh năm. 
Điều trớ trêu mọi người đều thấy, là: di tích lịch sử
của những  “chặng đàng thánh giá” ở Giêrusalem, nay thuộc phần sở hữu của dân con, người Hồi giáo. Là, người giữ chìa khóa, và thu tiền. Thu tiền thuê, là để các phe phái nhà Đạo mình làm nơi phượng thờ, để du khách đến thưởng lãm/bái lạy, không cãi tranh. Các giáo phái đóng tiền như thế, bần đạo thấy có: Công giáo La mã. Chính Thống Hy Lạp. Chính tông Đạo Chúa xứ Ác-mê-ni-a, Ai Cập, Ê-ti-ô-pi-a và Xy-ri-a. Nhất nhất, mọi giáo phái đều có thói quen hiệp thông/đối 
thoại, giữ di tích. 
Về hiệp thông/đối thoại, thế giới hôm nay có
thói quen gọi là  “truyền thông” hay “thông đạt”. Tức, những cử chỉ thân tình ta vẫn có, khi đổi trao. Đối thoại. Truyền đạt. Truyền thông hôm nay, đã thành chuyện rõ như ban ngày. Chẳng có gì phải ưu tư, thắc mắc. Truyền thông như thế, có là truyền đạt và đả thông như nghệ sĩ nhà mình, vẫn ca Và vẫn hát, nhiều hôm trước: 

“Ngồi nghe yêu thương đi, 
Xa tầm tay, giữa tiếng ru trầm vào, cơn mê này.” 
(Trường Sa – bđd) 

Ru trầm vào truyền thông/cơn mê này, là ru như 
người xưa  vẫn cứ  coi đó như bộ môn khoa học/kỹ thuật được sử dụng để người người xích lại gần nhau. Chứ không phải, để cùng nhau kéo ra bãi tha ma, mà tranh chấp đất đai. Quyền lợi. Người người hôm nay, sống là sống có truyền và có thông. Có đối thoại. Truyền đạt. Truyền và thông, là để đả thông tư tưởng. Là, chung lòng kết hiệp, vì mục đích cao cả. Là, dẫn đưa mọi người đến với Nước Trời, ở trần thế. Ở nơi đó,có tương quan dào dạt thân thương, tình đại kết. 
Truyền thông đây, không là phương tiện của báo
đài, chuyên  nối kết  với người nghe nhìn và đọc. Để rồi, cùng nhau ta đi vào nơi chết chóc, có tin buồn. Truyền thông đây, là truyền đạt một thông điệp đầy cảm tính giữa người cùng nhà. “Tứ hải giai huynh đệ” dấu yêu. Là, tình cảm thân thương của người cùng chiến tuyến/mục tiêu. Đến với Chúa. Nói như thế, là nói: chính Đức Chúa đã truyền đạt cuộc sống của Ngài, qua năng lực hỗ tương/đa dạng, từ thiên nhiên. 
Thế giới hôm nay, nhìn tổng thể, là thực tại trong đó
mọi thành  phần được đính kết vào nhau, người với người. Thế giới nhân trần, nay có quá nhiều thứ để tỏ cho mọi người thấy rõ Đức Chúa vẫn truyền đạt/đả thông với ta, qua nét vẻ của thiên nhiên. Con người. 
Chính vì thế mới có lời, rằng: 

“Quả thật, 
Ta bảo các ngươi: 
những gì các ngươi đã không làm 
cho người nào 
trong các kẻ hèn mọn nhất này 
là các ngươi đã 
không làm cho chính Ta.” 
(Mt 25: 45) 

Đức Chúa truyền đạt/đả thông với thiên nhiên/con  người, qua tương quan phức hợp, khiến ta trở thành người con.  Thành, con của Người. Con của Chúa. Tương quan ấy, bao gồm mọi ước vọng, có vấn nạn. Bao và gồm, cả những ao ước thầm kín, qua giao du mật thiết với bạn bè/người thân. Với xã hội nhân quần, nhiều hình thức. 
Cựu Ước xưa, diễn tả tương quan/truyền thông ấy, 
ngang qua dân  con Do Thái. Tức, dân con được Chúa hứa hẹn, chọn lựa. Tân Ước nay, lại tập trung nhấn mạnh đến chiều sâu quan hệ, giữa ta và Chúa. Giao ước Tân/Cựu khi trước cho thấy tính tham lam/vị kỷ gây cản trở làm muôn dân không đến được với nhau, ngõ hầu thực hiện ước mơ ấy. Nói theo kiểu nhân gian nghệ sĩ, là nói và hát như thế này: 

“Còn đây, không gian xưa quen gót lầy. 
Bên hè phố, cây lá thưa, chim đã bay.” 
 (Trường Sa – bđd) 

Gót lầy không gian, nay vấy bẩn một môi trường, là 
cảnh huống tương quan được nhắc đến: 

“Rồi mai, chân hoang vu lên phố gầy, 
Tôi về nhớ, trong mắt môi đã đắng cay.” 
 (Trường Sa – bđd) 

Cứ thế, không gian xưa/nay vẫn về lại với nhớ 
nhung, có mắt  môi, phố gầy. Rất đắng cay. Đắng và cay, vì mọi tương quan hệ trọng khi trước, nay đà: 

“Đành đoạn, rồi những lần chiều hẹn ước.” 
 (Trường Sa – bđd) 

Hẹn, là những hẹn và ước có buổi chiều. Hẹn, là
ước và mơ,  ở buổi chiều vàng, chưa đứt đoạn. Hẹn, là tương quan hệ trọng người người, có đứt đoạn hay không, đó mới là vấn đề. Vấn đề, của mọi người. Của đôi nam nữ rất “tương quan”. Như câu truyện, ở bên dưới: 

“Có cô gái, rất hận đời vì chứng mù loà, cả hai mắt. Cô thù ghét hết mọi người. Chỉ trừ mỗi người bạn trai, của cô. Anh luôn ở bên cạnh, chăm sóc/hầu hạ cô. Nói tóm, là: có quan hệ rất chu đáo. Với cô gái.  Có lần, cô nói với anh: 
-Nếu được sáng mắt, em sẽ lấy anh làm chồng, ngay lập tức. 
Một ngày kia, có người tặng cho cô đôi mắt sáng, để thấy đời. Sau ngày chuyển vận quà tặng, bác sĩ cho phép cắt chỉ, bỏ lớp băng che đôi mắt loà. Và, cô thấy được đủ mọi thứ. Thấy, cả người bạn đời yêu dấu, vẫn ở cạnh. 
Thấy bạn hiền sung sướng có cặp mắt để nhìn, anh bạn bèn hỏi: 
-Bây giờ nhìn thấy rồi, em có còn muốn lấy anh làm chồng, nữa hay không?
Cô gái nhìn người bạn từng ở gần mình bấy lâu nay, phút chốc đã bàng hoàng. Bàng hoàng, thấy anh bạn mù loà kia lại đã dám ngỏ lời cầu hôn, với cô. Đó là chuyện, hẳn là cô chẳng bao giờ nghĩ đến. Không nghĩ, nên mới hứa. Bỗng tự dưng, cô thấy hãi sợ. Rất sợ, khi nghĩ cảnh tình buộc phải sống chung đụng cùng kẻ mù loà, có đôi mắt hõm, thật đáng ghê. Khiếp sợ hơn, về quãng đời còn lại của mình, đang khởi sắc. Vì thế nên, cô đã thất hứa. 
Người bạn trai buồn rầu, bỏ đi nơi khác, không một lời giã từ. Ít ngày sau, cô gái nay đã sáng mắt, nhận được đôi giòng chữ cay đắng, rất tâm tình. Giòng thư đau khổ của bạn hiền hôm trước, nay có lời ngỏ rất thương, một dặn dò: 
-Em yêu dấu. Em nhớ chăm sóc cặp mắt mà em vừa mới nhận, cho thật kỹ, em nhé. Bởi lẽ, trước khi cặp mắt đó được tặng trao cho em, nó là của anh. Một người vẫn thương em dù giờ đây không còn cặp mắt nào, để nhìn em. 
Nhớ em nhiều trong yêu thương.” 

Đành rằng, trong tương quan giữa người với người, 
có nhiều cảnh trong đó con người từng thất hứa. Chấm hết mọi tương quan dù rất đẹp, vào ngày trưóc. Những ngày, cả hai phiá từng có những lời thề non hẹn biển. Với nhau. Trước mặt Chúa. Bởi thế nên, trong tương quan mật thiết với Chúa và với người, dù có là người nhà hay người dưng nước lã. Ta vẫn cứ nhớ lời dặn dò của bạn bè người xưa. Những lời chưa nghe quen, hay đã rành. Những dặn dò của ngày trước, rất nhè nhẹ một nhắn nhủ. Như lời nhắn nhủ ở bên dưới: 

“Đời là quà tặng. Hãy biết ơn đời. Biết ơn người. Biết ơn, và nhớ đến người. Nhớ cả những người từng lên án mình. Và nhớ rằng, khi có tư tưởng yếm thế chợt đến khiến mình chán ngán chỉ muốn bỏ đi, thì hãy cứ tươi lên mà suy nghĩ. Suy và nghĩ, rằng dù vậy mình hạnh phúc/được ơn, vẫn đang sống. Nên, hãy sống vững vàng. Sống vui tươi như không gì xảy đến.” 
Lời nhắn ở đây, mang máng một giòng chảy suy tư về truyền thông/đối thoại, trong đời. Về những nhắn nhủ của người thân yêu, trước khi ra đi, cũng có lời nhắn rất “truyền và thông”, 

Như sau: 

               “Anh yêu, 
               Em cấm anh không được cho cái con mẹ T. đầu ngõ ấy đến nhà quàn, mà làm chi. Em ghét cái bản mặt dẻo quẹo của mẹ ấy lắm lắm. Không chịu nổi. Nó mà dẫn xác đến, là em sẽ phùng mang trợn mắt, rồi lè lưỡi ra là nó đứng tim ngay. Chết ngay tại chỗ không trối trăn cho mà xem. Lo cho đám tang của em xong, là anh phải bán nhà mà đi nơi khác, đó nhe. Đi, khỏi chòm xóm mình đang ở, nhé. Em không muốn anh tiếp tục sống cạnh bên nhà cái con mẹ B., kia nữa đó. Em thấy con mẹ này gian khủng khiếp lắm đấy. Mỗi lần nó thấy em đi ngang qua, là nó nhổ nước bọt/thọt nước miếng xuống đất. Rồi ngoăn ngoắt quay vào nhà trong. Còn, hễ thấy anh là nó cười ngỏn ngoẻn nhe đủ hết hàm răng cỏ trắng phau như ngựa vía ấy. Trong khi, em có làm tình làm tội, gì nó đâu mà sao nó lại xử với em như thế ? 
Chỉ sau ba năm mà thôi, anh muốn lấy ai thì lấy, em không cấm. Nhưng tuyệt nhiên, anh không được lấy cái con mẹ N., con mẹ L., con mẹ C kia nữa. Dứt khoát, anh mà lấy một trong mấy cái con mẹ đó đó, thì chắc chắn em sẽ hiện hồn về, bóp cổ anh, ngay thôi. Em sẽ xé xác mấy mụ voi dầy/ngựa xéo ấy ra làm nhiều mảnh, chứ đừng có mà trêu ngươi em, đâu nhé. Quần áo của em, anh cứ đem cho hội từ thiện. Hoặc là Salvation Army hay Vincent de Paul, hay gì gì cũng được. Miễn là, em cấm anh không được để cho mấy cái con chằng ăn/trăn quấn ấy đụng tới là được rồi. Còn mấy đồ nữ trang của em, thì anh hãy đeo hết cho em, rồi mới chôn, nhe ! 
Ấy chết ! Cái hộp bích-qui em cất giữ trong ga-ra, để  phía dưới thùng  bột giặt, bọc bằng bao ny-lông, thì anh đem đi mà đốt sạch cho em. Cấm anh không được mở nó ra mà coi, đâu nhé. Anh mà không nghe em, đêm đêm em hiện về, em sẽ lấy dây điện xiết cổ anh, cho mà coi. Trong đó, chỉ có một đống hình chụp và mấy lá thư của mấy con bạn nạ dòng của anh thôi, chứ chẳng có gì đâu. Anh đừng thắc mắc, bận tâm. Anh cũng không cần phải xem mấy thứ đó mà làm gì. Chỉ là, những bức ảnh của mấy con quỷ ấy. Bọn chúng nó đều bị vẽ râu ria và chọc thủng mắt hết trơn rồi. Xem làm gì nữa. Cả cuốn sổ điện thoại mà anh cứ tưởng là bị lạc đâu mất, kiếm cả tháng không ra. Tất cả đều ở trong đó hết trơn. Hơn nữa, mấy con mẹ đó đâu còn giữ số điện thoại nữa, kiếm làm gì. 
Bây giờ em ra đi, anh muốn làm gì với người nào em không quen không biết thì cũng chẳng can hệ gì. Nhưng, em cấm anh không được lạng quạng quay lại với mấy nhỏ kia. Cứ nghĩ tới bọn nó là em đã thấy lộn ruột rồi. Tụi nó, có đứa dám gọi em là sư tử Hà Đông, có láo toét không. Nó còn viết ngay trong thư gửi cho anh, vô phúc cho nó là em đã bắt chộp kịp. Chúng nó hỗn láo như thế, mà sao anh chịu được nhỉ. 
Anh nhớ nghe lời em dặn: chủ nhật là phải đi nhà thờ. Xong rồi, ra mộ mà thăm em. Anh có đi, thì cũng chỉ đi một mình thôi, không được hẹn hò với đứa nào vào ngày ấy, đấy. Có đi chơi với ai, thì nhớ không được đeo bất cứ cà-vạt nào em mua cho anh. Cả, áo sơ mi, giầy dép, hoặc mấy áo lạnh, áo vét em chọn cho anh, hồi đó đó. 
Em thiêng lắm đó. Nói cho anh biết để anh dè chừng. Đừng có mà chọc tức em cho em điên tiết lên, anh nghe chửa? 
Ký tên 
Người vợ chung-tình của anh, cả đời này lẫn đời sau. 

Truyền thông là như thế. Truyền và thông, cả khi 
chết. Hết còn sống. Cả đời này, hay đời sau. Truyền, bằng thư từ. Thông, bằng di chúc. Những là, khói hương ví vút, trọn tâm tình. Bằng, những lối mòn suy tư rất nhận định. Cả vào đời sau. 
Tựu trung, lối mòn đường đời, bao giờ cũng có
những tương quan hệ trọng, mà người đời gọi đó là truyền thông/đối thoại. Hay, đả thông/truyền đạt. Nhất nhất, đều là những cái “có” trong đời. Có tương quan. Có truyền thông đối thoại. Với Chúa. Vấn đề còn lại, là: ta truyền và thông, là thông và truyền với Chúa đến thế nào? Đối thoại và cảm thông với bạn bè/người thân, ra sao? 
Về với truyền thông, trong ca nhạc, người nghệ sĩ
chắc sẽ lại hát với ta lời cuối. Cho nhau: 

“Còn ai mơ trên tay, khi hoàng hôn! 
Vỗ giấc xuân muộn về, trên môi hồng.” 
(Trường Sa – bđd) 

Xem như thế, nghĩa là: Xuân có muộn về trên môi 
hồng hay  môi trắng, ta vẫn có thể “vỗ giấc” trên tầm tay. Khi hoàng hôn. Hoàng hôn buổi xế bóng. Hay, hôn hoàng một cuộc đời. Duy có điều, là: sẽ không có hôn hoàng của niềm tin. Bởi, về niềm tin và yêu, các thánh từng quả quyết: 
“dân thánh được chuẩn bị 
để làm công việc phục vụ, 
là xây dựng thân thể Đức Ki-tô, 
cho đến khi 
tất cả chúng ta đạt tới sự hiệp nhất 
trong đức tin 
và trong sự nhận biết Con Thiên Chúa, 
tới tình trạng con người trưởng thành, 
tới tầm vóc viên mãn của Đức Ki-tô. 
(Ep 4: 13) 

Và như thế, dân con mọi nơi/mọi thời sẽ chuẩn bị phục vụ, qua truyền thông/đối thoại, để ta đạt được cùng đích, tức: tin yêu, nhận biết Con Thiên Chúa. Và, khi nhận biết tiếp nhận niềm tin Con của Ngài rồi, tất cả sẽ tốt đẹp. Sẽ thông đạt trong trưởng thành. Có sự viên mãn của Đức Chúa. Đấng vẫn ở với và ở cùng ta. Và, mọi người. Trong Nước Trời. 

Chính đó là mục tiêu. Là, cùng đích của truyền thông
/truyền đạt. Đối thoại. Trao đổi. Ở mọi thời. 

Trần Ngọc Mười Hai 
vẫn muốn truyền thông/thông đạt
với Chúa. Với mọi người.






12. “Tình vui, trong phút giây thôi” 
Ý sầu nuôi suốt đời 
Thì xin, giữ lấy niềm tin, dẫu mộng không đền.”
(Vũ Thành An/ Nguyễn Đình Toàn- Tình khúc thứ nhất)

(Giáo luật số 276)
Tình khúc thứ nhất, có là nhạc bản phổ từ thơ chất chồng những tình vui, vẫn là một trong các “bài không tên”, mang nhiều số hiệu của nhạc sĩ Vũ Thành An và nhà thơ Nguyễn Đình Toàn. Toàn, những bài ca thân thương. Trìu mến. Vào độ trước. Nhạc sĩ họ Vũ ngoài luồng độ trước, nay đã là Phó tế, trong Đạo. Trong cộng đoàn nhà Đạo. Vẫn miên man viết nhạc Đạo. Cũng nhiều tình tự, vui  không kém.
Tình tự thơ/nhạc của các nghệ sĩ Nguyễn và Vũ là tình vui, nhưng vẫn mang mác một nỗi buồn. Buồn một nỗi, không da diết lắm nhưng vẫn khiến người ca sĩ phải kêu lên:

“Có biết đâu niềm vui, 
đã nằm trong thiên tai;
những cánh dơi lẻ loi, 
mù, trong bóng đêm dài.” 
(Vũ Thành An/ Nguyễn Đình Toàn – bđd)

Đêm dài lẻ bóng, những cánh dơi. Và, niềm vui hàm ẩn một thiên tai. Mai ngày. Nhiều thương tiếc. Thương và tiếc, để rồi người viết xin cho “niềm tin (được) giữ lấy”, “dẫu mộng không đền”. Tiếc thương, nay là lập trường của các đấng bậc nhà Đạo. Thương tiếc, giòng đời đổi thay. Tiếc thương, phút vui “sum vầy”, rày rất hiếm. Hiếm, như ý từ của câu ca, bên dưới:     

“Ngày thần tiên, em bước lên ngôi
đã nghe son vàng tả tơi.
Trầm mình, trong hương đốt hơi bay,
mong tìm ra phút sum vầy.” 
 (Vũ Thành An/ Nguyễn Đình Toàn – bđd)

Tiếc, là tiếc cho ngôi cao nhà Đạo, nay tơi tả một đời. Đời linh mục. Đời của các đấng bậc, nay bay về nhiều nhận định làm nức lòng người nghe. Đầy dẫy những ưu tư, lo lắng. Lo cho tương lai của Giáo hội, nay thiếu linh mục. Lo, như lời lẽ trải dàn nơi bài viết, ở báo/đài. Khắp đó đây: 

“Lm Darrell Venters ở giáo phận Owensboro, Kentucky đã bỏ nhiều thì giờ ra để tuyển mộ linh mục ngoại quốc, đến phục vụ tại thị trấn nhỏ, giáo phận mình. Bằng vào kinh nghiệm tư riêng trong quá khứ, ông lên tiếng phát biểu: “Nếu chúng tôi không tuyển dụng các linh mục từ nước ngoài đến Hoa Kỳ phục vụ, thì tương lai các chàng trai linh mục của chúng tôi, sẽ quá tải mà lãnh nhận trọng trách cùng lúc coi sóc những 5 giáo xứ. Không ít. Và thêm nữa, nếu một trong các vị trẻ ấy phải bỏ rời nhiệm sở; hoặc, bị Giáo hội can ngăn không cho thi hành sứ vụ mục tử. Hoặc tệ hơn, trường hợp các vị quá vãng/già bệnh, biết lấy ai mà thay thế.” 
Từ 6 năm qua, nội giáo phận Owensboro này thôi, chúng tôi cũng đã hân hạnh đón tiếp 12 linh mục đến từ Châu Phi, Châu Á và Châu Mỹ la tinh, phục vụ phần ba đất miền vắng vẻ còn lại ở phía Tây. Nơi đây, đa số là người da trắng. 
Vị quản hạt, nổi tiếng với sứ vụ “nhập” linh mục từ nước ngoài, cho biết: đây là phương cách tốt nhất để bù trừ tình trạng thiếu hụt linh mục tại Mỹ quốc. Phương cách đích đáng, hầu tái tạo Hội thánh Chúa, ở Hoa Kỳ.
Bằng những kinh nghiệm riêng tư có giới hạn, Lm Venters còn nhận định:‘Thường thì, giáo phận ta dễ làm việc với các linh mục đến từ nước ngoài, hơn là các vị xuất thân từ các địa phận ở quê nhà. Bởi, dù các linh mục “nhập cảng”, nếu có bê tha/cẩu thả hoặc gì đi nữa, mình chỉ cần nói câu: ‘Xin cảm ơn cha, ta hẹn ngày tái ngộ’, là xong. Cứ chấm dứt quyền thường trú, không cho họ ở lại lâu hơn, là thành công ngay thôi.” (Laurie Goodstein, A growing American diocese, short of priest, recruits overseas, International Herald tribune 29/12/2008 tr. 5)     

“Nhập” linh mục từ nước ngoài, hay trao trọng trách coi thêm nhiều giáo xứ cho các linh mục chấp nhận ở lại với Hội thánh, vẫn là quyết định của đấng bậc có thẩm quyền. Không riêng gì Hoa Kỳ, Pháp quốc, hay Sydney. Ý kiến của các đấng bậc, thật đa dạng. Nhiều lý chứng. Rất hợp tình. Trong số ấy, cũng nên kể ra đây, ý kiến của Đức Hồng Y Carlo Maria Martini SJ, hôm trước. Rất như sau:

“Thiếu hụt linh mục, nếu chỉ thêm việc cho các linh mục đang có sẵn, tức: giao trọng trách coi thêm giáo xứ cho vị nào mới chỉ chăm lo duy nhất mỗi một giáo xứ; hoặc, nhập thêm linh mục từ nước ngoài vào, thật ra, cũng chẳng giải quyết được nhiều nhặn gì. Khi trước, Hội thánh ta cũng đã tính đến khả năng phong chức cho một số giáo dân, gọi là chức thánh để thử nghiệm (còn gọi là ‘viri probati’). Có một điều, là: Kinh thánh Tân Ước có đề cập đến vai trò của các ‘nữ phó tế’, vào thời trước…” 
(Chú thích của Parco Politi: Đức Hồng Y Martini gợi nhớ cuộc nói chuyện với Tổng Giám Mục Canterbury là Gm George Carey, khi ngài nghe tin Giáo Hội Anh Giáo phong chức linh mục cho phụ nữ, ngài có nói với Tổng Giám Mục Carey, là: quý vị cứ can đảm lên, mà tiến bước. Ngài cũng tỏ bày niềm tri ân gửi đến Tổng giám Mục Anh giáo đã giúp đỡ Hội thánh Công giáo bằng những điều mà Giáo hội bạn vừa thực hiện. Giúp, là giúp ta biết định giá lại lập trường về công cuộc thừa tác mục vụ của phụ nữ. Và, ngài còn cảm tạ giáo hội bạn đã giúp nắm vững vấn đề, để ta tiếp tục mà tiến bước.” (Marco Politi, Tóm tắt buổi nói chuyện về đêm giữa Hồng Y Martini và Georg Sporschill, SJ, laRepubblica.it 19/5/2008)           

Nói gì thì nói, nghệ sĩ họ Vũ cũng đã viết lên những lời lẽ bình dị, nhưng sâu sắc, như:

“Dù trời đem cay đắng gieo thêm
cũng xin đón chờ bình yên.
Vì còn đây, câu nói yêu em
Âm thầm, soi lối vui tìm đến.”
 (Vũ Thành An/ Nguyễn Đình Toàn – bđd)

Chờ “Bình yên” cho nhà Đạo, hoặc “âm thầm soi lối vui, tìm đến”, là lời trấn an đi bước trước, của người nay-cùng-chung-một-Đạo, ta luôn tiến. Đặc biệt hơn, còn là lời nhắc nhở/gọi mời từ vị Chủ Chăn trên các chủ chăn, ở nơi cao chốn ấy, như sau:

“Trong năm thánh Linh mục, chúng ta mở rộng không gian nguyện cầu, Chầu Thánh Thể, để lắng nghe Lời Chúa. Để, tiếng của Ngài được nhiều người trẻ nghe biết đến, mà đón nhận…”   
Đức Giáo Hoàng không quên nhắc đến tình trạng khan hiếm linh mục ở một số nơi. Và, ngài mời gọi tín hữu đừng nản chí trước tình trạng thiếu hụt ấy. Trái laị, phải gia tăng môi trường lặng thinh, lĩnh nhận bí tích giải tội, để tiếng Chúa được nhiều người trẻ nghe biết và đáp ứng. Bởi, Chúa luôn tiếp tục kêu gọi và củng cố.” (x. Lm Trần Đức Anh O.P. VietCatholic News 02/7/2009)   

Với đấng bậc có trọng trách đào tạo/tuyển mộ linh mục đến từ nước ngoài, thì lại khác. Chẳng hạn như ý kiến của Lm Dennis Holly, thuộc Hội Thừa Sai Glenmary, Kentucky Hoa Kỳ, sau đây:
Quả là, ta đang có vấn đề thiếu linh mục. Thế nhưng, thay vì ngồi đó hỏi hoài hỏi mãi lý do tại sao lại như thế, chúng tôi đành quyết định “nhập” một số linh mục ngoại quốc về đây để sinh hoạt. Coi như, thực tế không có vấn đề gì xảy ra, cho đến khi ta trực diện giải quyết các vấn đề: linh mục độc thân, phụ nữ làm linh mục, vv.. nếu không, cũng chẳng giải quyết vấn đề ơn gọi linh mục.” (x.Laurie Goodstein, bđd)

Và tác giả bài báo, kết thúc bằng lời lẽ khá thực tiễn:

“Tất cả vấn đề nêu trên, đều cần thiết. Rất có lý. Nhưng, trong khi chờ đợi có được giải pháp về lâu về dài, hẳn quý vị cũng như chúng tôi, ta vẫn phải tính chuyện đáp ứng nhu cầu của bà con trong Đạo, chứ!” (Laurie Goodstein, bđd)

Nói gì đi nữa, vấn đề con số linh mục còn thiếu hụt, không đáng ta lưu tâm bằng đạo đức/chức năng và vai trò/trọng trách của các vị mục tử, ngày hôm nay. Về chuyện này, vẫn vang vọng nhiều ý kiến. Một trong những ý kiến rõ nhất, là thắc mắc của bạn đạo, trên The Catholic Weekly, Sydney hôm 05/07/2009, như sau:

“Tôi thường nghe nhiều linh mục ở đây vẫn nói: khi đi nghỉ, các ngài không buộc phải làm lễ, chỉ cần cùng cộng đoàn tham dự thánh lễ, thế là đủ. Vào ngày nghỉ trong tuần, có vị còn chẳng buồn cử hành thánh lễ tại giáo xứ mình, nữa là. Vậy, câu hỏi của tôi hôm nay, chỉ thế này: là linh mục, hẳn là các vị đều phải cử hành thánh lễ mỗi ngày, như thế mới đúng, chứ. Bởi, đó là đạo đức/chức năng của chính mình. Xin cha giải thích thêm cho biết những điều vừa kể, để tránh tư duy thiếu bác ái, với các ngài.”

Câu hỏi mà người bạn nào đó đặt ra, là cho người Sydney. Chuyển đến đấng bậc vị vọng ở đây, thật đúng cách. Thế nên, đức thày John Flader của Sydney lại được vời đến, ngõ hầu ta có được một giải đáp, thật chính xác:

“Ngay từ đầu, các linh mục được khích lệ nên cử hành thánh lễ mỗi ngày. Nhưng, có luật nào gắt đến độ bắt các ngài phải làm việc ấy, mỗi ngày và mọi ngày, đâu! Luật Hội thánh, chương đặc biệt buộc hàng giáo sĩ ta phải tạo cho cuộc sống của mình được thánh thiện. Trong luật, có viết: “Các ngài phải nuôi dưỡng đời sống tâm linh của mình, thật sốt sắng. Nuôi, bằng Kinh thánh. Dưỡng, bằng Tiệc Thánh Thể. Các linh mục, ngay từ thời mới thành lập chức vụ này, đều được kêu mời hy sinh làm lễ mỗi ngày. Và, các phó tế cũng như trợ phó tế, cũng nên hợp tác dâng lễ, hằng ngày với linh mục.”(Giáo luật số 276, điều #2, câu 2)       
Lời khích lệ này, đối chọi với luật buộc các linh mục phải cầu nguyện bằng các Phụng Vụ Giờ Kinh, còn gọi là Kinh Nhật Tụng đọc hằng ngày, phù hợp với sách lễ của các vị, đã được phép.” (Giáo luật chương 276 #2, 3)
Lý do tại sao các linh mục được yêu cầu cầu nguyện theo Phụng Vụ Giờ Kinh, mà không phải làm lễ, khi thánh lễ xem ra đã trở thành việc quan trọng? Để trả lời, có lẽ lý do chính đáng nằm trong khác biệt này, có bản chất thực tiễn. Muốn làm lễ, vị linh mục cần nhiều thứ, như: bánh và rượu, chén thánh, chai đựng rượu/nước, áo lễ, dây khăn thánh, sách lễ, giá sách, lễ phục, vv.
Có nhiều khi, các thứ ấy không có sẵn. Đặc biệt, là khi vị linh mục trên đường di chuyển đi đây đó, lại không có nguyện đường Công giáo trong khu vực mình đến. Chính vì lý do này, mà Hội thánh đã miễn chước không đòi hỏi linh mục phải đến miền nào xa xôi khó kiếm để dâng lễ. 
Trong khi đó, để có thể cầu nguyện theo Phụng Vụ Giờ Kinh, linh mục chỉ cần đem theo cuốn Kinh Nhật Tụng, là đủ. Sách này được coi như “cẩm nang” cho linh mục, ai cũng có. Điều này, không hề làm mất đi tính chất quan trọng rất lớn lao của Thánh lễ, nơi đời sống của linh mục, và Hội thánh. 
Một chương-đoạn khác trong Giáo luật, cũng có viết: Hãy luôn nhớ rằng, nơi nhiệm tích Hy sinh của Tiệc Thánh Thể, công cuộc cứu rỗi vẫn còn đang tiếp diễn. Vì thế, linh mục phải thường xuyên dâng lễ. Thật thế, khi xưa, Hội thánh vẫn khuyến khích các linh mục nên dâng lễ hằng ngày. Bởi lẽ, dù có hay không có giáo dân tham dự, đây là hoạt động của Đức Kitô và Hội thánh, qua đó vị linh mục được uỷ thác thực hiện vai trò chính yếu của mình.” (Giáo luật số 904)
Công Đồng Chung Vatican II cũng nói về Tiệc Thánh Thể như “nguồn cội và chóp đỉnh của đời sống Kitô hữu.” (Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân, 11). Và, Thánh Công Đồng cũng còn viết: “nhiệm tích Hy Sinh của Tiệc Thánh Thể là ‘trọng tâm và nguồn cội’ của toàn bộ đời sống linh mục. Thế nên, các linh mục phải cố gắng sống cuộc đời mình một cách trọn vẹn , như tất những gì được diễn bày nơi bàn tiệc thánh hy sinh.” (Tông Huấn Presbytorum Ordinis, 14)
Chính vì thế, mà phần lớn các linh mục ngày nay vẫn coi việc cử hành thánh lễ như sinh hoạt quan trọng, trong công việc hằng ngày. Đức Giáo Hoàng Gio-an Phaolô Đệ Nhị, có viết trong cuốn “Quà Tặng và Nhiệm Tích”, rằng: “Chức linh mục, trong thực tại đậm sâu của nó, là thiên chức của Đức Kitô.” (x.John Flader, The Catholic Weekly, 05/7/2009, tr.10)

Nếu dùng lời lẽ của người thường ở đời, thì chắc bạn và tôi, ta sẽ lại dùng ca từ của nghệ sĩ ở trên mà hát:

“Thần tiên gẫy cánh đêm xuân,
bước lạc sa xuống trần
thành tình nhân đứng giữa trời không
khóc mộng thiên đường…”
 (Vũ Thành An/ Nguyễn Đình Toàn – bđd)

Cũng chả chắc gì, Hội thánh hôm nay đang ngồi khóc khi thấy nhiều “thần tiên đang gẫy cánh” giữa đêm xuân lồng lộng, nhiều ân sủng. Nhưng, “mộng thiên đường” vẫn còn đó, chờ đợi tình nhân của Đức Chúa đứng giữa trời không, mà khóc lóc. 
Nói cho cùng, Hội thánh hôm nay có khóc lóc hay vẫn cười trước tình thế người người có “giữ lấy niềm tin” hay không, dẫu cho “mộng thiên đường” vẫn “không đền”. Chả ai chắc. Có điều chắc, là thời hôm nay có quá nhiều vấn đề vẫn chờ Hội thánh giải quyết. Chờ mọi người. Và chắc chắn một điều, là Thần Khí Chúa vẫn ở bên ta. Bên Hội thánh. Ở trần gian.

Dù gì đi nữa, hãy nói như nhà mô phạm ở đâu đó, trong trường lớp. Xã hội. Giáo hội. Có những lời bàn, rất thân, như sau:
“Có lẽ phải nghĩ đến chuyện “hãy ngưng thôi, đừng làm cuộc đời mình thêm rắc rối.
Bởi, đời người rất vắn vỏi.
Hãy phá lệ,
Thứ tha nhanh
Yêu thật tình, ôm hôn hoà bình thật đúng cách
Và, cứ cười nhiều, không dứt.
Nhất là, đừng bao giờ tắt ngúm nụ cười mỉm
Dù cuộc sống có xa lạ, nhiều trắc trở.
Vì, đời người đâu phải lúc nào cũng vui như ngày Tết,
Nhưng bao lâu ta còn có mặt trên đời này
Hãy cứ mỉm cười và vui sống.”

Và lời cuối, ta cùng người nghệ sĩ, hãy hát thêm câu:      
      
“Ngày về quê xa lắc lê thê
trót nghe theo lời u mê
Làm tình yêu nuôi cánh bay đi
Nhưng còn dăm phút vui trần thế.” 
 (Vũ Thành An/ Nguyễn Đình Toàn – bđd)

Phút vui trần thế, vẫn còn đó nỗi buồn. Phút vui thiên đường, đâu chỉ ngắn thế. Bởi thế, cứ vui lên mà hy vọng. Cứ hy vọng để sống vui. Sống hùng. Sống hạnh phúc.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn nhắc nhở chính mình
Những lời như thế. 





13. “Ngọc Lan, giòng suối tơ vương” 
mắt thu hồ dịu ánh vàng.
(Dương thiệu Tước – Ngọc Lan)

(Mc 9: 35)
Nếu ta gọi, các đấng bậc ở trên cao, bằng tên hoa Ngọc Lan, như thế có quá quắt chăng? Bởi, Ngọc Lan là loài hoa thơm ngát. Suối tơ vương. Mắt hồ thu. Ánh dịu vàng. Trong khi đó, đấng bậc Đạo mình cứ lạnh lùng sương gió, dù có mặc áo tím áo đỏ, khí thế. Hào hùng. Oai nghi.
Gọi gì đi nữa, Ngọc Lan hay tím/đỏ đấng rất hiền, ta cứ hát:
“Ngọc Lan, nhành liễu nghiêng nghiêng
tà mấy cánh phong, nắng thơm ngoài song.”  
(Dương thiệu Tước – Ngọc Lan)

Ca từ, của người nghệ sĩ thế kỷ trước, xem ra cũng thướt tha. Dịu huyền. Dù, chỉ để hình dung nhân vật trọng yếu. Yêu thương. Cảm mến. Cũng và mến, như người nghệ sĩ hôm nay ở “Quán Nhạc Thiện Bản” đã trình bày có hơi khác. Khác, ca từ. Khác, phối khí. Khác, cả nhịp điệu. Nhưng tựu trung, cũng nói về đấng bậc hoặc phó thường dân nào đó, rất quyết tâm. Theo Ngài. Đến cùng:

“Chúa đã có rất nhiều người yêu mến Ngài
Chúa đã có rất nhiều người theo Ngài xin hạnh phúc.
Nhưng Chúa được có mấy người đem Lời Ngài tới muôn dân?
Nhưng Chúa được có mấy người chia tình Ngài với tha nhân?”
(Bosco Thiện Bản- Chúa Đã Có Rất Nhiều Người)

Chỉ mới nghe, hẳn bạn và tôi, ta thấy: Ngọc Lan thơm ngát. Có, “nhành liễu nghiêng nghiêng”, cũng phần nào giông giống người công chính san sẻ tình Ngài với tha nhân. “Người thế đó”, khoác áo “chiến y”/“long bào”, mầu tím/đỏ, trắng đen, thì làm sao ta theo kịp. Được theo Ngài về muôn lối. Tới muôn dân. Vậy thì, mời bạn mời tôi, ta nghe tiếp:

“Chúa đã có rất nhiều người khen chúc Ngài,
Chúa đã có rất nhiều người theo Ngài lúc hạnh phúc
Nhưng Chúa được có mấy người tiếp nhận Ngài lúc bỏ rơi?
Nhưng Chúa được có mấy người giúp đỡ Ngài lúc tả tơi?” 
(Bosco Thiện Bản-bđd)

Tả tơi. Bỏ rơi, quả là, tình huống rất bình thường. Tình huống, người trong cuộc nhà Đạo, vẫn được nghe Lời Vàng, như hôm trước:

“Ai muốn làm người đứng đầu, 
thì phải làm người rốt hết, 
và làm người phục vụ mọi người."
(Mc 9: 35)

Và, “người thế đó”, phải thế này:

"Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, 
là tiếp đón chính Thầy; 
và ai tiếp đón Thầy, 
thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Đấng đã sai Thầy." 
(Mc 9: 36) 
     
Đứng đầu. Kẻ rốt hết. Làm lớn. Người phục vụ. Ôi chao, là lời lẽ nghe quen quen, mọi buổi! Và tự hỏi, đã mấy người thấy quen quen, trên thực tế? Nếu chưa, có lẽ xin thêm một lần, hãy lắng nghe lời người trẻ vừa viết nhạc. Hôm nay. Những lời này:

“Con đây, tuy hèn mọn muốn yếu hèn
Con muốn trở thành cụ khí của Ngài.
Xin cho con trở thành đôi tay của Ngài
Xin cho con trở thành tiếng nói của Ngài
Xin cho con trở thành tình yêu của Ngài
Xin cho con trở thành bình an của Ngài.” 
(Bosco Thiện Bản – bđd)

Trở thành khí cụ. Đôi tay. Tiếng nói và bình an. Và gì nữa? Thế đó, là tiếng/giọng quen quen ta vẫn thấy? Ở đời thường? Vẫn gặp, và cứ nghe “đôi điều”, còn phải hỏi. Như lời hỏi, của dân thường huyện Sydney ghi ở dưới:

“Tôi không quen lắm với những cụm từ hoặc danh xưng trong Đạo. Xin cho biết tước hiệu “Hồng y” có nghĩa gì? Có khác chăng, là những gì nghe được qua danh xưng khác như Giám mục, Tổng Giám mục? Xin dạy cho biết, giáo hội Công giáo Tin Lành/Anh giáo đã có tước hiệu và danh xưng này từ bao lâu? Xin được cảm kích biết ơn, nếu ngài dành một giải đáp.

Và đây là giải đáp. Ngay tức thì. Chẳng cần bạn có là người hỏi đã biết ơn, hay cảm kích. Vì, giải đáp cho một hay nhiều thắc mắc về danh xưng hay xưng danh, nhân vật nào, vẫn là “nghề của chàng”. Chàng trai ở huyện nhà Đạo, gọi là “đức thày” John Flader miệt ” Sydney, sau đây:

“Nói chung, và chỉ nói chung thôi, các vị Hồng y thường là Linh mục hoặc Giám mục, vai vế đứng thứ hai sau Đức Giáo Hoàng. Các ngài có vai trò phụ giúp Đức Giáo Hoàng trong việc quản cai Hội Thánh Chúa, khắp hoàn cầu. Các ngài có vai trò quan trọng khác trong việc bầu chọn Giáo Hoàng mới, khi đức đương kim Giáo Hoàng thoạt băng hà.
Dù các ngài không thuộc thành phần hiến pháp thánh thiêng của Giáo hội do Chúa lập, thì nguồn gốc của chức tước này đã có từ Hội thánh thời tiên khởi.
Từ thế kỷ đầu, Đức Giáo Hoàng Clêtô, hoặc Anaclêtô (76-88 sau công nguyên), tuân theo chỉ thị của thánh Phêrô, đã tấn phong cho 25 linh mục phụ giúp ngài ở khu vực Rôma, trong công tác mục vụ của giáo phận.
Thế kỷ sau đó, các ngài được bổ nhiệm vào chức vụ gọi là “tước hiệu của Giáo hội” được thiết lập theo danh tánh của các thánh. Và, các ngài có bổn phận giúp đỡ Đức Giáo Hoàng phụ trách phụng vụ tại Vương cung Thánh đường chính là thánh đường Gioan Latêrô, tức Nhà thờ chánh toà của Đức Giáo Hoàng, thánh Phêrô, Phaolô, Đức Bà Cả và nhà thờ thánh Laurenxô.
Cộng với các linh mục, có bẩy giám mục thuộc các giáo phận quanh Rôma, được coi là giáo phận vùng phụ cận, để giúp Đức Giáo Hoàng đặc trách phụng vụ tại Thánh Đường Latêrô cũng như giúp ý kiến về nhiều vấn đề khác. 
Trong các văn kiện chính thức của toà thánh, lần đầu tiên tước hiệu “Hồng y” được nói đến là vào thế kỷ thứ 8, trong Liber Pontificalis (tức Chiếu Chỉ Giáo Hoàng) dưới triều Đức Stêphanô III (768-772). Theo tài liệu này, các giám mục thuộc giáo phận phụ cận được gọi là Hồng y Giám mục.
Vào cùng thời, Thượng Hội Đồng Rôma năm 769 quyết định là Đức Giáo Hoàng ở Lamã phải do các Phó tế và Linh mục hồng y có chức tước của Giáo hội bầu ra. Các Phó tế chính của Rôma lúc ấy được coi là Phó tế hồng y.
Bởi thế nên, ngay từ đầu, các Hồng y tập trung sống ở Rôma và công tác chính của các ngài là phụ giúp Đức Giáo Hoàng trong công việc có liên quan đến giáo phận Rôma. Mãi về sau, các ngài mới phụ Đức Giáo Hoàng trong những việc của Giáo hội khắp hoàn vũ.  
Năm 1059, Đức Nicôla II ra chỉ thị quyết rằng chỉ mỗi các Giám mục hồng y mới có quyền bầu Giáo Hoàng, thôi.
Hồng Y Đoàn theo cung cách hiện tại, cùng các Giám mục hồng y, Linh mục mục hồng y và Phó tế hồng y do Đức Eugiênô III (1145-53), cùng Đức Giám Mục trưởng tràng của Ostia thành lập. Các Hồng y lúc ấy, được yêu cầu nên sống ở Rôma.
Từ thế kỷ 12 mãi về sau, các Hồng y mới được phép sống ở giáo phận riêng của mỗi vị. Và từ đó, các ngài được trao tước hiệu mục tử Giáo hội LaMã. Thói quen này được giữ mãi, đến ngày nay.
Ngày hôm nay, các Hồng y được đích danh bổ nhiệm khắp nơi trên hoàn vũ, là do Đức Giáo Hoàng đề bạt. Các ngài “phải trổi trang về tín lý, lòng đạo đức, sốt mến, có đức khôn ngoan” trong các vấn đề về thực tế. Vị nào chưa có chức Giám mục đều được Đức Giáo Hoàng phong cho chức thánh ấy.” (Giáo luật #351, @1)
Các Hồng Y lập thành Hồng y Đoàn, có vai trò trọng yếu là bầu Giáo Hoàng, ở Rôma. Các ngài phụ Đức Giáo Hoàng trong việc quản cai giáo hội hoàn vũ, qua tư cách tập thể của Hồng Y Đoàn. Khi các ngài được triệu tập theo điều gọi là Mật Hội Hồng Y để đảm trách các vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu, hoặc vấn đề cá nhân thuộc quyền của các ngài (x. Giáo luật #349)
Qua vai trò vừa kể, nhiều hồng y được đề bạt làm thành viên nhiều Thánh bộ, Hội đồng Toà thánh, và Uỷ ban khác nhau, thuộc giáo triều LaMã.
Theo truyền thống, các hồng y được bổ nhiệm từ phẩm trật phó tế, linh mục hoặc giám mục. Các vị được đề cử làm việc trong giáo triều LaMã, theo phẩm trật phó tế, linh mục có chức năng toàn cầu. Các Hồng y có chức Giám mục, đều được Đức Giáo Hoàng tấn phong tước hiệu và trách vụ làm việc tại sáu giáo phận, miền phụ cận. Các vị Thượng phụ thuộc Giáo hội Đông phương cũng được nâng lên hàng Hồng y. Chủ tịch Hồng Y Đoàn còn có thêm tước hiệu riêng vị Chủ Quản Giáo phận Ostia.  
Hồng y nào là Giám mục giáo phận đều không có quyền nào khác đặc biệt hơn các giám mục địa phận. Các ngài có quyền chủ toạ khi các giám mục được mời đến dự hội nghị. 
Một số các giám mục tại các nước có số giáo dân khá đông, theo truyền thống, sẽ được Đức Giáo Hoàng tấn phong làm Hồng y. Tỉ như, Đức Tổng Giám Mục Sydney, Wellington, Sàigòn, vv.

Tóm lại, “Chúa được có rất nhiều người”, Ngài có cả những nhân vật nổi danh, lanh chanh như truyện kể, của một vị quên đề tên, ở dưới. Như sau:

“Chuyện người hoạ sĩ vẽ bức tranh nổi tiếng hoàn cầu “Tiệc Ly”, có giai thoại rất ly kỳ: 
Leonardo da Vinci tìm người mẫu để vẽ bức tranh này, rất công phu. Trong số hàng ngàn người, ông chỉ kiếm được có mỗi thanh niên 19 tuổi. Anh có gương mặt lành thánh, thanh trong, nên hoạ sĩ Da Vinci dùng anh để vẽ diện mạo Đức Giêsu. Ông làm việc suốt 6 tháng trời. Không mệt mỏi. Sau đó, ông lần lượt vẽ xong 11 tông đồ khác, không mấy khó khăn. Duy có Giuđa là kẻ bán Chúa, phải có khuôn mặt đạo đức, nhưng tráo trở, lừa lọc. Thật rất khó. 
Một hôm ông được giới thiệu một người có đủ đức tính và nét vẻ, khả dĩ đáp ứng đưọc yêu cầu mà ông tìm kiếm bấy lâu. Ngặt một nỗi, người ấy là tay tội phạm tày trời, đang bị giam giữ trong tù, ở Rôma. Sau nhiều ngày ngoại giao khôn khéo, ông được phép cho gọi người ấy đến để hoàn tất bức tranh. 
Ngày ngày, tay tội phạm ngồi đó trước mặt hoạ sĩ đại tài, cho ông vẽ. Thâm trầm. Bình tĩnh. Cho đến lúc, Leonardo Da Vinci mệt mỏi, nản lòng vì phải chứng kiến diện mạo hung ác trong quá trình dài dằng dặc bèn, cho anh về. Không vẽ nữa. Tay tội phạm, thấy thế bèn quỳ xuống dưới chân ông, mà xin:
-Thưa ngài Da Vinci, xin ngài tiếp tục vẽ như thế để con được ở đây lâu hơn, như lần trước. Ngài không nhận ra con sao?
-Quả thật tôi chưa từng vẽ cho ai có khuôn mặt xấu xa/hung bạo như anh. Anh là ai?
-Thưa, xin ngài nhìn cho kỹ. Con là người mà bảy năm trước, ngài chọn làm mẫu để vẽ dung mạo Đức Giêsu đó…”

Và lời bàn của người kể hay người dịch, nay thêm: “Chàng trai từng được chọn làm người mẫu để vẽ dung mạo Đức Giêsu, chỉ sau có hơn 2000 ngày, nay biến thành hình tượng của kẻ bội phản, gớm ghê nhất trong lịch sử. Tương lai con người, không ai định trước được. Chính ta là người quyết định cho số phận của mình.”
Nói cho cùng, ai được người viết nhạc kể trên gọi là “đấng bậc” hay “nhân vật”, nhân sĩ bậc vị vọng rất cao trọng hoặc chỉ là phó thường dân mà Chúa “đã có” và “được có”, cũng chỉ là những cánh tay nối dài, trên “con đường” rong ruổi. Truyền Đạo. Truyền, tinh thần sống Đạo rất âm thầm. Trầm tĩnh. An vui. 

Lời cuối hôm nay, là lời cầu mong Chúa vẫn còn có những “nhân vật” rất hy sinh. Hiền hoà. Mê say. Và quyết tâm, như thế. Với chuyện chung. Chuyện, là chuyện của tôi. Của bạn. Của nhiều người. Ở huyện dân gian. Cõi đời này.


        Trần Ngọc Mười Hai
cũng cầu và mong
nói được những lời như thế
với chính tôi.
Với bạn hiền.
 


.14. “Ngày đó có ta, mơ ân tình dài”
buồn thắm nét môi, duyên chưa thành lời 
một thoáng mơ rồi, 
người về khôn nguôi! 
người về khôn nguôi!...
(Thanh Trang – Duyên Thề)

(Kh 7: 9)
Nếu bảo rằng, “ngày đó có ta”, thì “mơ ân tình” của người nghèo cũng dài thêm. Rất nhiều. Quả thật, đây cũng là câu nói không đến nỗi quá đáng. Bởi, mơ ân tình của sơ/của Mẹ Têrêxa thành Calcutta được người người cho là rất dài. Quảng đại. Lại rất lớn lao. Cần lưu ý.   
Trong đời người, có những sự kiện tưởng như đơn giản, nhưng đã làm nhiều người phấn khởi. Cộng thêm vào việc làm “cần lưu ý”, là những hành xử và lời nói của vị nữ tu mọn hèn ở Calcutta, đã làm “trời đất nổi cơn ghen tức”, những bứt rứt. Bằng vào việc làm đơn lẻ, nhẹ nhàng, Mẹ Têrêxa đã thuyết phục mọi người. Bằng câu truyện nhỏ, kể như sau: 

“Đêm nọ, ở Calcutta, chúng tôi bảo nhau ra đường để lượm lặt những hình hài gầy guộc, mà người ta bỏ rơi bên hè phố. Hôm ấy, tôi gặp một phụ nữ đang trong tình trạng nguy cập, sắp chết rồi. Tôi nói với các nữ tu cùng đi, hãy để tôi chăm sóc cho bà ấy, cho hết tình đồng loại. Khi đặt nằm, bà đã nắm chặt lấy tay tôi, mở một nụ cười rất tươi mà tôi chưa bao giờ được thấy trên khuôn mặt của ai khác. Nụ cười tinh tế. Nhẹ nhàng. Vời vợi. Cười với tôi, bà cất lên lời thì thào chỉ một tiếng “cảm ơn.” Xong đâu đó, bà trút hơi thở cuối cùng, bên tay tôi.”(Labastida, One Heart Full Of Love, Servant Books Michigan)

Truyện kể, về công việc của các nữ tu hèn mọn, như Mẹ Têrêxa Calcutta, ta nghe rất nhiều. Truyện nào cũng nhẹ. Cũng có khuyên răn. Kể lể. Nhưng, vẫn thu hút người nghe. Rất nhiều. Như:
“Ta hãy cho đi. Hãy ban phát tình yêu, mình đã lãnh nhận rồi cho mọi người xung quanh. Hãy cứ cho đi. Cho mãi, để việc cho đi như thế sẽ trở thành động tác hy sinh. Cho, là vì tình yêu đích thực luôn đòi hỏi chúng ta, ra như thế.” (Labastida, sđd)

Và, thêm một truyện khác, để minh xác điều mà Mẹ Têrêxa Calcutta muốn khích lệ mọi người:

“Ngày nọ, có cậu bé chừng 4 tuổi, ở Ấn Độ. Cậu cùng với bố mẹ đến đem cho tôi một tách uống nước gồm toàn đường cát trắng. Cậu đưa tách cho tôi, rồi nói: ‘Em nhịn miệng số đường này, đã 3 ngày. Xin Bà hãy lấy phần đường của em, mà mang cho các em nhỏ của Bà, đang thiếu thốn.” (Labastida, sđd)

Những truyện kể nhè nhẹ như thế, vẫn phản ánh được điều mà nghệ sĩ ở trên, đã từng viết:

“Một vì sao sáng, trong đêm lặng lẽ
nhạc buồn sao vắng mênh mông trần thế
ánh mắt sáng ngời, lòng trời u tối
không gian xa vời…” 
(Thanh Trang – bđd)

Không gian và thời gian của những người tất bạt/bần hàn, chừng như vẫn còn rời xa/xa vời, ghê gớm lắm. Hoạ chăng, cũng “năm thì mười hoạ” chỉ mới được có cậu bé nhỏ, lo nhớ đến. Nhớ đến, để rồi nhịn miệng cho đi, chỉ một tách chén ngọt ngào những đường phèn. Vị ngọt của đường, vẫn là sự ngọt ngào thân thương đem đến cho bạn nghèo, những buồn xa vắng. Mênh mông. Trần thế. Bởi thế nên, mới có giòng nhạc chân tình, rày vẫn gửi:
“Tìm đến với nhau, cho quên hận sầu
Ngày đó lứa đôi, vui duyên tình đầu
mộng ước tan rồi, để buồn mai sau…
để buồn mai sau!” 
 (Thanh Trang – bđd)

Buồn mai sau. Hay, buồn dài dài hôm nay, chốn mai ngày, vẫn là nỗi buồn không tên. Không tuổi. Rất lai láng. Lai và láng, trong/ngoài nhà Đạo, rất Hội thánh. Lai và láng, vẫn như ước nguyện của đấng bậc lành thánh, từng kêu lên:

“Xin quý vị và các bạn hãy nguyện cầu cho chúng tôi, để chúng tôi không làm hỏng việc của Thiên Chúa giao. Để, chúng tôi sẽ cùng với quý vị và các bạn, cứ tiến thẳng về phía trước, cho công cuộc này. Bởi, Thiên Chúa vẫn giao cho tôi -cho quý vị, và các bạn-  cũng một việc như thế. Bởi thế nên, xin tất cả mọi người, hãy cùng với chúng tôi, ta cùng nhau làm một cái gì đó, cho Thiên Chúa.” (Labastida, sđd)

Trích dẫn mẫu truyện nho nhỏ trên đây, là để muốn nói với bạn và với tôi, rằng: thế gian này, ngày hôm nay, vẫn có những “vì sao sáng” le lói trong đêm lạnh giá, đời nghèo/buồn. Một đời, cần đến tình thương. Cần đến, những vì sao sáng. Rất thánh. Như đấng-bậc-lành-thánh, rất Têrêxa, ở Calcutta. Bên ta. 
Trích và dẫn, để còn được hỏi. Hỏi rằng, đấng bậc rất lành và thánh ấy, có còn nhiều? Các đấng bậc tốt lành, được phong thánh, từ hồi nào? Ra sao? Kể, để học hỏi, như thắc mắc của độc giả nọ không biết có lành và thánh không, nhưng cứ hỏi. Hỏi, và được trả lời cũng nhè nhẹ, như sau:
“Tôi vẫn biết vào lễ “Tất cả các thánh” ta vẫn có thói quen cử hành mừng kính tất cả mọi đấng, ở trên trời. Nhưng, có thể nào, xin kể cho chúng tôi nghe, đôi điều, về lịch sử của ngày lễ? Lễ như thế, được mừng được kính lâu mau? Hồi nào? Xin cho biết. Rất biết ơn.”

Hôm nay, câu hỏi này, lại được gửi đến đấng bậc hiền lành, của Hội thánh Sydney, là đấng bậc vị vọng rất John Flader, của tờ The Catholic Weekly, có câu trả lời rất nhanh và gọn, như sau:
“Lễ Các Thánh, có bề dày lịch sử, rất sâu. Dày và sâu, nên đã hớp hồn lòng người từng chiêm ngắm, khi về với Giáo Hội, thời tiên khởi.

Theo phụng vụ, vị thánh đầu tiên được Giáo hội mừng kính, là các vị tử đạo. Trong đó, phải kể đến các thánh Tông đồ, tử vì Đạo. Thế kỷ đầu, ta thấy Giáo Hội mừng kính ngày giỗ các thánh tử đạo tại chính nơi các vị, bị tuẫn tiết. Thế nhưng, bốn thế kỷ sau, giáo phận khác cũng san sẻ niềm vinh danh tôn kính hài cốt các vị tử đạo cùng với giáo phận khác. Và việc mừng được tổ chức chung một ngày ta mừng kính các vị tử đạo.      
Dù không có hài cốt của các vị tử đạo khi mừng kính, các giám mục địa phận hồi đó cũng đã cho phép mừng lễ thánh tử đạo nào đó, tại giáo phận riêng của các ngài.
Thời bách hại, dưới chế độ hà khắc của Hoàng đế Điôclêtô hồi đầu thế kỷ thứ Tư, con số các vị tử đạo lên quá cao, nên không thể mừng mỗi vị riêng từng ngày được, Giáo hội đành thiết lập ngày lễ chung cho thánh tử đạo nào không có ngày mừng riêng.
Ở Antiôka, lễ này được mừng kính vào Chúa Nhật ngay sau lễ Hiện Xuống, tức sau lễ Ngũ Tuần. Cuối thế kỷ thứ Tư, thánh Êphrêm và thánh Gioan Krizốttômô cũng nhắc đến lễ kính này. Ở phương Tây, hồi thế kỷ thứ V, thánh Maximus thành Turinô cũng đã vinh danh các thánh tử đạo vào ngày Chúa Nhật sau lễ Hiện Xuống.
Lúc đầu, chỉ các thánh tử đạo và thánh Gioan Tẩy Giả, là những vị được minh chứng lòng đạo rất thánh, mới được mừng kính vào những ngày lễ riêng biệt, như thế. Nhưng về sau, các thánh khác cũng dần dà được thêm tên vào danh sách của các thánh. Đặc biệt, là các vị thánh hiển tu thuộc Giáo hội Đông phương lẫn Tây phương, được mừng kính. Từ đó, danh xưng “hiển thánh” được đặt ra để gọi bất cứ vị thánh nào không là tử đạo, theo nghĩa rộng.
Với Giáo hội Đông phương, các thánh tiên khởi được công chúng mừng kính và liệt vào bậc “hiển thánh” sau thời kỳ Giáo hội bị bách hại, có thánh Antôn (chết vào năm 356), thánh Hilariô (chết năm 371), thánh Athanasiô (chết năm 373).
Ở phương Tây, các vị hiển thánh tiên khởi gồm có thánh Sylvétơ (chết năm 355), thánh Matinô thành Tua (năm 397), thánh Sêvêrô (năm 397), thánh Âu-tinh (năm 430) và thánh Apôlinariô (thế kỷ thứ V). Cũng từ đó, con số các thánh hiển tu tăng nhanh đến năm 411 đến độ Giáo hội đã mừng kính toàn thể các thánh chung vào một ngày theo lịch phụng vụ Cađê, là ngày Thứ Sáu sau Phục Sinh.
Lần đầu tiên phụng vụ đề cập đến việc mừng kính các thánh hiển tu vào ngày 1 tháng 11 dường như được công bố vào thời Đức Grêgôriô III (731-741). Vào năm 732, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô III cung hiến nguyện đường tại Đền Thánh Phêrô dâng lên “các thánh Tông đồ, tử đạo, hiển tu và toàn thể các người công chính, thánh thiện đã an nghỉ trên khắp thế giới”. Đồng thời định ra lễ tưởng kính vào ngày 1 tháng 11. Lễ kính vào ngày này, đã được phổ biến qua nước Anh và nước Đức, ngay sau đó.
Thế kỷ sau, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô IV (827-844) đã mở rộng cho Giáo hội khắp hoàn vũ để mừng kính các thánh vào cũng ngày 1 tháng 11, mỗi năm. Vào thế kỷ thứ IX và X, lễ Các Thánh được đưa vào “Sách các Phép” với tên gọi bằng tiếng Latinh Natale Omnium Sanctorium, coi như Sinh nhật của toàn thể các thánh Nam nữ.
Lễ này long trọng đến độ được bắt đầu bằng một nghi thức gọi là Buổi Lễ Vọng, khởi từ thời Đức Giáo Hoàng Sixtô IV (1471-1484) có tuần bát nhật hẳn hòi. Buổi lễ Vọng, hoặc nghi thức cử hành phụng vụ vào trước ngày lễ chính, sau này được mọi người nhớ đến bằng tên gọi rất quen thuộc là Halloween, tức tập tục cho giới trẻ vào ngày 30/10 trước đó, có đốt pháo, có hoá trang mặt nạ áo phủ mang hình thù quỷ ma, xương cốt, có lồng đèn bằng “bí ngô”, rất vui và rất nhộn, chiều hôm trước.
Cả nghi thức Lễ Vọng và Bát nhật Các thánh đều bị huỷ bỏ từ năm 1955. Thành thử, truy tầm lịch sử, ta thấy Lễ các thánh quả là có bề dày sâu lắng từ thế kỷ thứ VIII, trở về đây.
Ngày nay, Giáo hội cử hành mừng kính lễ này, là để ứng đáp lại lòng ao ước của mọi người được mừng và được kính toàn thể các thánh nam nữ trên trời. Nhất là các vị hiển thánh không có ngày riêng biệt để mừng kính. 
Lễ hội này, mừng kính “triều thần đông đúc không biết cơ man nào mà kể” (Kh 7: 9), về các vị hiển thánh trên Thiên quốc. Và cũng để nhắc nhở con dân nhà Đạo, rằng: tất cả những ai được thanh tẩy trong Thánh Thần, đều được mời gọi sống lành thánh, đầy tràn yêu thương. Lành thánh. Rất khuyến khích.” (John Flader, The Catholic Weekly 1/11/2009 tr. 10)          

Yêu thương. Lành thánh. Như đấng bậc nữ lưu Têrêxa Calcutta rất lành và rất thánh, từng kêu gọi mọi người, ở đâu đó. Ở cả, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, với những lời và những lẽ, rất đáng yêu. Như sau:

“Xin các bạn, hãy cứ nguyện cầu cho chị em chúng tôi đừng bao giờ làm hỏng công cuộc. Hỏng công cuộc, mà Thiên Chúa đã giao phó cho chúng tôi, cho cả chúng ta nữa. Xin nguyện cầu, để các bạn cũng như tôi, ta không dùng đến những quả bom/quả pháo thuần thục không gian, cùng trái đất. Nhưng, hãy dùng tình yêu thương để thắng thế gian, thắng trái đất. Ngõ hầu đưa thế gian về với Tin Mừng của Đức Kitô. Mỗi người, hãy đứng lên mà công bố với hết mọi người trên thế gian, rằng: Thiên Chúa vẫn hằng yêu mến thế gian. Đến muôn đời.” (Labastida, sđd)

Làm được như Mẹ Têrêxa thành Calcutta yêu cầu, những bạn và tôi, ta cũng sẽ trở thành người lành và cũng thánh, không kém ai. Bởi, chỉ có thể gọi các đấng bậc mọi người là lành và thánh, là khi tôi và bạn, khi ta trải dàn được Tình Yêu Thiên Chúa, cho mọi người. Trong thế gian. Chốn điạ cầu. Ở đây. Lúc này. Mãi về sau.    

Trần Ngọc Mười Hai  
vẫn hằng cầu cho bạn 
cho tôi
có quyết tâm
yêu thương ấy.




15. “Về đây, nhìn mây nước bơ vơ”
Về đây, nhìn cây lá xác xơ
(Châu Kỳ - Trở về)

(Mt 6: 5)
Chủ nhật hôm ấy, ngày dài một đại lễ Giáng Sinh cho  Đạo, lại là Hiển Linh cho đời, bần đạo có cơ hội được trở về quê nhà của Chúa, ở Bét-lê-hem. Về, để được nhìn mây nước bơ vơ. Để thoáng thấy cây lá xác xơ. Bơ phờ. Tiều tụy. Nơi thôn miền lành thánh, đất Bê-lem. Nơi đây, hôm ấy, cộng đoàn cùng Đạo khác phái, đã trở về cùng vui chung ngày Chúa Giáng Trần, rất lễ hội. Ở nguyện đường sát cạnh, hợp hoan mừng Chúa hiển hiện với con dân. Thân thiết. Kết đoàn.
May cho bần Đạo, bước chân về quê nhà của Chúa, không phải nghe đến lời buồn, khi xưa:

“Nơi xưa, ôi giờ đây nát tan,
đò vắng không người sang,
thôn xóm trông điêu tàn.
Xa xa, nghe tiếng chim gọi đàn
Nghe suối reo bên ngàn
Dường như oán, như than.”
(Châu Kỳ - bđd)

Làm sao có thể như oán với như than được, bởi khi đặt chân đến đây người người đều đã thấy tinh thần đại kết giữa giáo phái, đã về lại. Về lại, qua nghi thức phụng thờ, ngày lễ lớn. Về lại, vào ngày 7 tháng Giêng, khi cả Giáo hội bạn lẫn Hội thánh ta mừng Chúa, thể hiện cuộc sống phàm trần, với toàn dân. Về lại, để cùng với Giáo hội, ta mừng Chúa hiển vinh với dân ngoại, ở trời Đông. 
Ở trời Đông hay phương Tây, nay người người vẫn thể hiện một thế đứng, khi nguyện cầu. Mà mừng lễ. Chẳng thế mà, hầu hết các nghi tiết phụng thờ, ở nơi đó, người người thường hay chọn thế đứng nguyện cầu, rất xứng hợp. Tư thế này, thánh Mát-thêu mô tả như cách thức nguyện cầu hiên ngang, người của Chúa: 

“Họ thích đứng mà nguyện cầu 
trong hội đường.” 
(Mt 6: 5)    

Thật ra, nguyện cầu theo thế đứng hay quỳ, không là vấn đề cần bàn cãi. Bàn hay không, đó vẫn là tư thế chọn lựa, của riêng mình. Nhưng, với cộng đoàn hiện diện trong tiệc thánh, tư thế cùng đứng và cùng cầu, mới thành chuyện. Thành chuyện, là thắc mắc của một số bạn Đạo ở trời Tây, vẫn hay hỏi. Hỏi rồi, thắc mắc và vấn nạn như đọc được ở đâu đó:

“Vừa rồi tham dự thánh lễ ở họ đạo khác nhau, tôi thấy có nhiều nơi đứng ngồi không đồng bộ, gây chia trí. Như, vào lúc bắt đầu lễ, khi sửa soạn của lễ để dâng lên, và khi chiêm niệm nguyện cầu, sau hiệp lễ. Xin ngài cho biết để còn dạy dỗ đám trẻ, khi nào ta buộc phải đứng mà cầu nguyện? Và tại sao lại làm thế?”

Thắc mắc và giải đáp vấn nạn, cho mọi người, vẫn là thói quen của đấng bậc nhà Đạo, ở Sydney. Hỏi/đáp, cả vào khi không có người hỏi; hoặc cũng chẳng cần có người giải. Nghĩa là, mỗi khi đấng bậc thấy cần nhắc nhở bà con Đạo mình phải để ý, mỗi khi đến nhà thờ, cùng dâng tiến của lễ hiệp thông. 
Nói cách khác, giải và đáp vẫn là “nghề của chàng”, chàng trai không trẻ ở giáo phận lớn, cỡ Sydney:

“Ngay từ đầu, khi vào lễ, cộng đoàn dân Chúa cùng đứng dậy để chào đón chủ toạ đoàn, vào dâng lễ. Cử chỉ này, là để tỏ lòng cung kính chào đón Đức Kitô, hiện thân nơi linh mục hoặc Giám mục đang bước vào, chủ trì buổi Tiệc Thánh.  
Ngoài đời cũng thế, dân chúng cùng đứng dậy chào đón, mỗi khi có nhân vật vị vọng bước vào phòng, dù chỉ để cùng dự tiệc, bắt đầu nghi thức gì đó, hoặc cùng khởi sự một nghi tiết. Thấy nhân vật lỗi lạc xuất hiện ở ngưỡng cửa, mà ngồi ỳ, thì há nào muốn bày tỏ sự bất kính coi thường nhân vật ấy!
Ở một số nhà thờ, còn có thói quen rung chuông khi vị chủ tế bắt đầu rời phòng thánh, là để báo cho cử toạ biết rằng đoàn tuỳ tùng đã bắt đầu tiến bước, để mọi người còn đứng dậy cung nghinh đón chào, Đức Chúa của mình.
Làm như thể, dân con đón mừng Đức Giêsu tiến vào đền thánh Giêrusalem, ngày lễ Lá. Đứng, là tư thế thích hợp hơn cả để khởi đầu phần Phụng vụ, là Thánh Lễ.
Trong tư thế đón chào đoàn tuỳ tùng bước vào khởi sự thánh lễ, cộng đoàn ta cứ đứng như thế, cho đến hết phần nghi thức xưng thú mọi lỗi lầm. Đây là lúc, dân con nhà Đạo, lọc sàng lương tâm đạo đức hầu sẵn sàng mà khởi hành thánh lễ. Tới kinh Vinh Danh, lời kinh xưa để tôn vinh Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh thần. Và cuối cùng, cũng đứng yên như thế cho đến hết kinh Nhập lễ hoặc kinh tiền lễ, là một trong ba kinh được gọi là “Kinh dành cho vị Chủ tế”, tức linh mục hoặc vị Giám mục chủ trì đọc thay cho toàn thể mọi người, đến tham dự.
Cộng đoàn sẽ lại đứng để hát bài kinh “Allêluya” hoặc “kinh Suy tôn Tin Mừng”; đồng thời cứ đứng như thế mãi trong thời gian đọc Tin Mừng. Ở đây nữa, đứng ở đây, là tư thế diễn tả cả hai việc: thứ nhất, là: tôn kính Đức Giêsu, Đấng đang dùng Lời Chúa để khuyên dạy con dân của Ngài; và: đứng như thế chứng tỏ dân con Chúa đã sẵn sàng để nghe và thực hiện những điều Chúa dạy bảo.
Sau bài chú giải sẻ san, cộng đoàn dự Tiệc thánh cũng lại đứng lên để lập lại lời tuyên xưng niềm tin, hoặc đọc kinh Tin Kính, là kinh được đặt từ thế kỷ thứ Tư. Khi đứng để nghe Chúa nói chuyện với con dân của Ngài, qua Phúc Âm, nay cộng đoàn lại đứng để ứng đáp lời “tuyên tín” đáp trả những gì mình mình nghe biết.
Cộng đoàn vẫn cứ đứng khi đọc lời Nguyện Giáo dân, qua đó cộng đoàn ứng đáp qua niềm tin về những gì mình nghe biết trong các bài đọc bằng lời kêu cầu Chúa hãy đoái nhậm lời thỉnh cầu của mình để cầu cho Giáo hội và thế giới.
Sau khi đã ngồi để sửa soạn của lễ dâng lên bàn thờ, cộng đoàn niềm tin đứng dậy khi vị chủ tế kết thúc lời cầu :”Anh chị em hãy cầu nguyện để lễ vật của tôi và của anh chị em được Chúa là Cha Toàn Năng đoái nhận”, nghe xong lời ấy, cộng đoàn sẽ đứng để đáp ứng bằng lời khẩn cầu: “Xin Chúa nhận Lễ vật bởi tay cha…” Bằng tư thế đứng thẳng, cộng đoàn xác định mình ưng thuận trong phụng thờ.
Đến đây, có vài vài khúc mắc hỗn độn không biết khi nào thì cộng đoàn nên đứng. Thế nhưng, theo sách Những Chỉ dẫn Thông Thường trong Thánh Lễ theo nghi thức La Mã (số 43) có nói đến những điều vừa kể, ở bên trên. Tức là, cộng đoàn tiếp tục đứng khi chủ tế dâng của lễ, khi vị này đọc lời nguyện thứ hai, tức là: một lần nữa chủ tế cầu nguyện thay cho cho cộng đoàn đạo đạt lên Chúa Cha. Chính vì thế, cộng đoàn nên cùng đứng với chủ tế, trong tư thế chuyển đạt lời cầu lên Cha.
Ở kinh Tiền Tụng và lời xưng tụng Thánh Thánh Thánh, là kinh tung hô Chúa theo dáng dấp của của cộng đoàn truyền thống khi xưa, tức vẫn đứng. Ở đây nữa, sách Những Chỉ Dẫn Thông Thường trong Thánh Lễ theo nghi thức La mã, còn nói: cộng đoàn có thể đứng khi dâng lời cầu Thánh Thể, trừ phi cộng đoàn được Hội Đồng Giám Mục quyết định nên ở tư thế nào cho thích hợp, đối với tập tục của xứ sở mình.
Theo ấn bản 2007 nơi sách Những Chỉ Dẫn Thông Thường trong thánh Lễ theo nghi tiết La Mã, các Giám mục Úc có lời khuyên giáo dân ở đất nước mình: “hãy nên quỳ gối từ lúc đọc xong lời tung hô Thánh Thánh Thánh! cho đến lúc thưa Amen thật lớn, và sau đó sẽ đứng vào lúc chủ tế bắt đầu mời cộng đoàn xướng hát kinh Lạy Cha, cho đến khi kết thúc kinh Lạy Chiên Thiên Chúa, thì tất cả cùng quỳ lần nữa cho đến khi rước Chúa vào lòng.” (sđd, số 43)
Sau Hiệp lễ, cộng đoàn lại đứng dậy để đọc lời nguyện cầu lần thứ ba, tức Kinh Hiệp Lễ, lúc ấy vị chủ tế lại kêu cầu cùng Cha, ngang qua Đức Giêsu, Con Chúa, Chúa chúng ta. 
Và như thế, cộng đoàn cũng sẽ đứng cho đến khi nhận phép lành và lời cầu chúc ra đi rao truyền Lời Chúa, vào cuối lễ. Vào lúc này, cộng đoàn sẽ trong tư thế sẵn sàng ra đi, mà phục vụ rao giảng Lời Chúa. Và rồi, mọi người sẽ ra về để tháp tùng Đức Giêsu, thể hiện ngang qua vị chủ tế, để rồi sẽ ra đi khắp thế gian mà đại diện Chúa, đến với mọi người.”(Lm John Flader, The Catholic Weekly 26-4-2009, tr. 10)

Chỉ dẫn vẫn là thế. Chỉ và dẫn, về tư thế đứng ngồi nơi thánh lễ. Đứng/ngồi buổi tế tự, vẫn là cử chỉ cần rập ràng, cho xứng hợp. Nhưng, đứng/ngồi ở đời thường, là thói quen nay đã đổi ở vài nơi. Thói quen hay thói tật, của một số người. Ở một số nơi. Đây, vẫn là đề tài của chuyện cười ra nước mắt. Cười không dứt. Chuyện rất buồn mà cứ cười. Buồn cười. Buồn là thế đó. Cười là ấy vậy. Như dưới đây, là chuyện rất buồn, mà vẫn cười. Cười, là bởi người người vẫn cứ hát:

“Về đây, buồn trông cánh chim bay
về đây, buồn nghe gió heo may
về đây, đâu còn phút sum vầy
đâu còn thắm niềm say
lạnh lùng ngắm trời mây.”
(Châu Kỳ - bđd)

Lạnh lùng ngắm trời mây, cả vào khi tham dự thánh lễ. Lúc chia sẻ. Lạnh lùng ngồi đứng ngoài trời. Trên Honda hai bánh. Với thuốc lá phì phà, trên môi. Lạnh lùng, khi thiên hạ mang rổ mời ta sẻ san niềm thương đau người nghèo, mà bố thí. Lạnh lùng, khi bạn Đạo quay sang chúc bình an, rất chân phương. Thương tình. Mình vẫn lạnh. Lạnh lùng, là tư thế của người vẫn sống “một ngày như mọi ngày”, ở dương gian chốn thế trần. Nhiều hệ luỵ. Những hệ rất luỵ phiền, như truyện kể sau đây:
“Nhóm trẻ nọ, vẫn muốn tìm hiểu xem, lý do từ đâu, mà dạo này ít người chịu đi lễ, thế. Chí ít, là có đi nhưng cứ đứng ngồi chẳng đồng bộ/rập khuôn, đúng lễ nghi quân cách. Nhóm này, bèn tìm đến đấng bậc đạo mạo nọ, thuộc bậc thày, ở nhà trường. Sau lúc hàn huyên, trong nhóm trẻ ấy, có người bèn thổ lộ: làm gì cũng được, nhưng nếu làm mà chẳng vui thích, sẽ bị căng thẳng, trầm mặc, dễ ưu tư. Bậc thày thấy vậy, bèn mời nhóm trẻ quá bộ bước vào phòng ăn để thưởng thức tách cà-phê, do ông chế. Từ bếp bưng ra, những là ly tách và nước nóng để pha chế. Thày mời nhóm học trò cũ, cứ tự tiện chọn ly tách, mà thưởng thức. 
Khi mọi người đâu đấy ổn định ly tách trên tay, thày ôn tồn bảo:
-Để ý một chút, bạn sẽ thấy người nào cũng chọn ly tách gọn/đẹp, bỏ tách ly nào xấu xí. Nặng nề. Rẻ tiền. Thường thì, ai cũng muốn điều hay, món lạ. Cứ thích những gì tốt nhất, cho riêng mình. Đó, là cội nguồn của mọi vấn đề. Của những căng thẳng. Ưu tư. Trầm mặc. Tuy nhiên, điều bạn vẫn muốn, chỉ là cà-phê ngon, chứ đâu phải ly hoặc tách? Ấy vậy, tại sao ai cũng chọn tách ly đẹp nhất? Rồi còn đảo mắt nhìn quanh xem ly của người khác, có đẹp bằng mình không. Cho nên, nếu ta coi cuộc sống ngoài đời, hay trong Đạo, như ly cà phê ngon, hẳn mọi thứ khác như tiền bạc, công việc, chức vụ.. chỉ là những ly cùng tách, thôi. Tất cả, chỉ là dụng cụ hay công cụ hào nhoáng bên ngoài, để chứa đựng sự sống, ta trân trọng. Nhưng phẩm chất cuộc sống, nào đổi thay? Thành thử, đôi lúc ta thấy người người tập trung vào ly tách, tức những gì bề ngoài, không quan trọng. Tất cả sẽ thất bại. Không thưởng thức được chất lượng ngon/đẹp, ở bên trong.”

Truyện kể ở trên, có kèm lời bàn của người kể, rằng: mọi việc, nếu chỉ để ý đến động tác thứ yếu/bên ngoài thôi, ta sẽ thất bại. Thất bại, gọi là: căng thẳng. Chán ngán. Lặng câm.
Áp dụng chuyện đứng ngồi, ở nhà thờ. Tưởng, cũng nên mời bạn, mời tôi, ta thử suy xem đâu là điều chính yếu, trong phụng thờ. Khi đã tìm được rồi, người người sẽ hân hoan thực hiện. Thực hiện trong phấn khởi. Vui mừng. Đồng loạt. Thực hiện rất lớp lang. Trật tự. 

Trần Ngọc Mười Hai
Từng đứng ngồi nhiều giờ  nào đã nản.
Chỉ mỗi nản, chỉ là khi để luột mất tương quan. 
Với mình và với bạn, thôi.
        

16. “Xưa em là kiếp chim, chết mục trên đường nhỏ”
Anh làm cội băng mai, để tang em, chờ mấy thuở
Xưa em làm kiếp lá, rụng xuống lòng suối thu
Anh làm mưa tháng bẩy, đôi hàng lệ ướt tương tư
(Phạm Duy – Pháp thân)

(Đn 6: 10)
Một hôm nọ, bần đạo líu tíu theo đám bạn, ghé chùa Vạn Hạnh ở Canberra, làm màn thăm dân/quan nho nhỏ, bỏ túi. Vãn cảnh chùa, có tăng ni/nhân sự. Có báo chí/sách đọc chốn thiền môn. Vãn và thăm, bần đạo mới gặp được cuốn sách mỏng của “thiền sư” có tựa đề  bằng Anh ngữ “A guide to walking meditation” (tạm dịch là: “Vào Chốn Thiền Hành”). Sách nhẹ mỏng, nhưng bắt mắt, rất dễ đọc. Đọc  tại chỗ, cho bõ công đường dài rong ruổi “tội lắm anh ơi!” Tiếc một điều, là: sách của sư/tăng hôm ấy, không có bản tiếng Việt, dễ nuốt  trôi. Duy, mỗi bản dịch qua Anh ngữ của Ánh Hương. Thôi thì thôi nhé, cũng đành tự chuyển ý/chuyển lời của tăng sư nhà Phật, bằng  ngôn ngữ nhà Đạo. Hầu xem sao. 
Ở cuối sách, bần đạo được đọc một đoạn viết, chỉ 
thoáng nhìn đã thấy hay. Hay và thích, ở chỗ: nó hao hao giống những điều mà bạn  và tôi, ta từng nghe/biết, rất nhiều lần. Nay, mạn phép tăng/ni nhà Phật, cho bần đạo chuyển đạt ý/lời qua thơ văn nhà Đạo, rất xôn xao, như sau: 

“Hãy cảm tạ, những người làm bạn gục ngã, và đớn đau 
bởi điều đó, sẽ giúp bạn có thêm nhiều quyết tâm. 
- Hãy cảm tạ, những người từng lừa phỉnh bạn bè, 
bởi có thế, bạn mới đào sâu được ý nghĩa, của sự việc. 
-Hãy cảm tạ, những người từng làm đớn đau, 
bởi có thế, bạn mới thấy bớt những cản trở của nghiệp chướng. 
-Hãy cảm tạ, những người bỏ bạn lại một mình, 
bởi có như thế, bạn mới học hỏi cách sống âm thầm, tư riêng. 
- Hãy cảm tạ, những người từng làm bạn vấp ngã, 
bởi có thế, mới giúp bạn tăng cường khả năng của chính mình. 
-Hãy cảm tạ, những người từng lăng nhục bạn, 
bởi nhờ thế, bạn mới tỏ ra uyên bác và tập trung mọi quan năng. 
Và cuối cùng, 
-Hãy biết ơn những ai làm bạn vững lòng và cứng 
cỏi, cả những ai đã giúp mình đạt đến thành công.” 
(lời Huyền tăng Chin Kung) 

Vẫn biết rằng, trích dẫn lời bàn từ chốn tăng ni nhà 
Phật  rất ư  là “sắc sắc không không”, về những chuyện mà bạn và tôi, ta không chuyên. Nhưng trích và dẫn ở đây, là để nói lên một gặp gỡ rất Đông-Tây. Gặp, về đạo lý. Gặp cả, về những chuyện “thần”, để học. Học, về đạo của tôn giáo ở đất trời về hướng Đông. Nhè nhẹ. Xuyên suốt. Âm thầm. Dù, sắc sắc không không, với nhà Đạo mình, đó có là tư tưởng gây ưu tư, khắc khoải? Có, làm mình bận tâm? Bận đến tâm, vì tư tưởng nhà Đạo, vẫn không là lời bàn vu vơ. Lơ mơ. Có đó, rồi mất đó. Nhưng, rất chắc nịch. Rất tin yêu. Mỹ miều. 
Hôm nay, kể chuyện Đông-Tây, ta lại nhớ đến
truyện kể, về thời trước. Thời, mà Công Đồng Chung Vatican II đã bàn. Bàn, về chuyện xoay chuyển bàn thờ, sao cho đúng. Sao cho thích hợp với “Đông Tây/kim cổ”. 
Vừa qua, ở Sydney, có một bạn đọc rất đạo mạo, 
dám mạo muội gửi thư lên “đức thày” tên gọi là John, giòng họ Flader, để hỏi. Hỏi, là hỏi về lý sự vì sao ta cứ xoay chuyển bàn thờ, hết “Tây Phương Cực Lạc’, rồi phía Đông. Bạn, tuy gọi là bạn đọc, có lẽ còn hơi trẻ, nên mới dám chuyển ngỏ đôi lời, thành thư viết, như sau: 

“Tôi có người bạn thường thích dự nghi tiết tế tự theo hình thức của Công Đồng Triđentinô. Là, Công Đồng Chung xưa cũ, không hợp thời. Bạn, vẫn dùng vài chứng cứ thực tế để đưa ra điều hay/cái lợi của thánh lễ có bàn thờ và vị chủ tế quay lưng về phía bổn đạo, mà họ gọi, là: “hướng phía Đông”. Bản thân tôi, lâu nay chỉ biết có thánh lễ trong đó tôi thấy vị linh mục chủ tế toàn quay về phía giáo dân, mà thôi. Không hiểu sao, bạn tôi lại cứ thích kiểu cách rất khác biệt. Có thể nào, xin linh mục ban cho vài tia sáng chỉ dẫn để ta thấy rõ vấn đề này, hơn?” 

Chẳng cần nói, bạn cũng như tôi, ta khá hiểu tâm trạng của các đấng bậc “nhà báo”, vốn vẫn chờ độc giả đến hỏi, rồi sẽ thưa. Thưa, như lời thưa hôm nay, rất chính mạch. Chính xác, một nguồn mạch, như sau: 

“Theo truyền thống, việc quay tầm mắt nhìn về một phía để mà nguyện cầu, là một phần trong quá trình hành xử của một số tôn giáo lớn trên thế giới. Như ta biết, Hồi giáo là đạo chủ trương ta phải quay hướng tầm nhìn về phía Mecca, thánh địa của họ. Người Do Thái, trong khi đó, lại hướng tầm nhìn về với đền thánh Giêrusalem, của mọi thời. Thời Cựu Ước, rõ ràng là họ chỉ hướng về nơi nào có sự hiện diện của Thiên Chúa; tức: có Đền Thờ. Điều này, có thể nhận thấy nơi sách tiên tri Đanien, đoạn 6 câu 10. 
Vào năm 70 Công nguyên, sau khi Đền Thờ Chúa bị phá huỷ, người Do Thái có thói quen hay quay hướng tầm nhìn về với Thành Thánh Giêrusalem, nơi có nền phụng vụ tổ chức tại hội đường. Theo cách này, các vị tỏ bày niềm hy vọng, rằng: vào khi Đức Mêsia đến lại, Ngài sẽ xây dựng Đền Thánh Chúa trở lại, ngõ hầu tập họp dân con Đạo Chúa đến từ khắp nơi, cả bốn phương trời, lành lặn. 
Tín hữu Đạo Chúa thời tiên khởi, thay vì hướng về với Đền thánh Giêrusalem ở dưới đất, lại quay về với Giêrusalem rất mới, ở trên trời. Ai nấy tin tưởng rằng: khi Chúa trỗi dậy từ cõi chết, Ngài sẽ ngự đến trong vinh quang, mừng vui. Ngài sẽ tập họp những kẻ tin vào Ngài, để cùng thiết lập một Giêrusalem mới. Họ làm thế, vì nhận thấy nơi mặt trời đang mọc, một biểu tượng minh chứng Chúa Phục Sinh và Ngài sẽ lại đến lại. Chính vì thế, với họ, nguyện cầu quay hướng về phía Đông, mới là việc tự nhiên. Sự việc này, có chứng cứ cho thấy: phần đông tín hữu trên thế giới đều cùng quay về hướng Đông, phía có mặt trời mọc, để nguyện cầu. Và việc ấy khởi sự từ thế kỷ thứ 2, trở về đây. 
Thật ra, khó mà tìm được chương đoạn nào trong Tân Ước nói rõ về việc tín hữu quay hướng về phiá Đông, để làm bằng, mà cử hành nghi tiết phụng thờ. Trong khi đó, truyền thống Giáo hội cũng tìm ra vài văn đoạn của sách thánh, diễn bày tính biểu trưng nơi “mặt trời đức nghĩa” nói trong sách tiên tri Malaki, đoạn 3 câu 20. Đằng khác, Tin Mừng thánh Luca ở đoạn 1 câu 78, cũng nói đến điều mà thánh sử gia gọi đó là “Thái dương, từ nơi cao xanh khấng viếng”. Và, sách Khải Huyền cũng đề cập đến điều mà thánh Gio-an Tông đồ khẳng định: “Tôi đã thấy thiên thần khác từ phía mặt trời mọc, mà lên”. Và, Tin Mừng thánh Matthêu ở đoạn 24, cũng có nhắc: “Như chớp chói loà ở bên Đông rạng bên Đoài, thì cuộc Quang lâm của Con Người cũng sẽ như thế.” Nói như thế, là nói đến dấu chỉ Con Người sẽ đến trong vinh quang, rọi sáng. Rất ngời Ngài sẽ xuất hiện như sấm chớp, từ trời Đông sáng rực hừng hực, mãi tận cõi trời Tây. Tức,thập giá Đức Kitô. 
Quả thật, có việc nối kết chặt chẽ giữa trạng thái nguyện cầu trong thế hướng lòng mình về với trời Đông, có thập giá Chúa. Ít nhất, là đến thế kỷ thứ IV, chuyện này mới trở thành thói lệ mọi người đều làm; ngõ hầu đánh dấu phương hướng cho mọi người biết mà nguyện cầu tại nơi chốn có thập giá Chúa đặt trên tường, đặt ở hướng Đông của Vương Cung Thánh Đường. Cũng như, tại phòng riêng các thày dòng. Hoặc, các bậc thày khắc kỷ/khổ tu. 
Mãi đến cuối thiên niên kỷ thứ nhất, nhiều nhà thần học thuộc truyền thống khác nhau, cũng có nói đến việc nguyện cầu có việc hướng lòng mình, quay về phía Đông. Các ngài coi đây như truyền thống từng được thực hiện. Từng có khác biệt trong thờ kính, giữa Đạo Chúa và tôn giáo khác, ở cận Đông. Người Do Thái, có thói quen hướng lòng mình về với đền thánh Giêrusalem. Còn người đạo Hồi, lại quay về phía Mecca, là thánh địa của Mohammed, Giáo chủ của đạo. Cũng từ đó, mọi người đều có thói quen nguyện cầu quay về hướng Đông, nơi mặt trời trong tư thế đang mọc lên. 
Ở thế kỷ đầu, tại các nguyện đường dành cho người Đạo Chúa, được dựng xây có phương có hướng trực chỉ phía Đông. Tức, nhằm tạo điều kiện để mọi người thấy dễ dàng theo thói lệ này. Chính vì thế, ngày nay cụm từ “quay về hướng Đông” được sử dụng theo nghĩa thông thường để chứng tỏ: linh mục giáo dân, khi tiến hành buổi lễ, đều quay về cùng một phía, thích hợp cho nghi thức phụng vụ. Tập tục này, được các truyền thống By-zăng-tanh, Syria, Ácmênia, Kốptích và Etiôpia đeo đuổi, ít nhất trong Tiệc Thánh Thể, cũng như trong mọi nguyện cầu theo nghi thức của Công Đồng Chung Triđentinô. 
Tập tục, mang nhiều ý nghĩa biểu trưng. Nội mỗi việc, tất cả mọi người cùng quay về một hướng, có giáo dân và linh mục chủ tế đứng trên bàn thờ, như thời xưa ta vẫn làm, mới đích thực dẫn dắt dân con Đức Chúa về với hành trình tin yêu, hy vọng. Về với thành thánh Giêrusalem, trên Thiên quốc. Hướng về Chúa, như thế, từ xưa nay vẫn được các nghệ nhân diễn tả qua kính mầu nghệ thuật trên cung thánh, tại hầu hết các thánh đường, ở khắp nơi. Nơi, có Thập giá Chúa. Có Chúa Phục Sinh, quang vinh. Có triều thần thánh trên trời, vây quanh. Chực hầu. Đây, mới là mục tiêu mà các tín hữu ở trần thế, thường nhắm đến. 
Điều này, nhắc cho ta thấy: việc cử hành Tiệc Thánh, là việc tham gia phụng vụ của trời cao. Và, cũng còn là lời thề cam kết về vinh quang mai ngày. Vinh quang, có sự hiện diện của Chúa Hằng Sống. 
Chính vì thế, lâu nay ta tiếp tục thực hiện nghi tiết phụng vụ mang ý nghĩa đậm sâu. Ý nghĩa, qua đó mọi người cùng hướng lòng về với trời Đông, rất đồng bộ. Đặc biệt hơn cả, là trong thánh lễ. Lm Uwe Michael Lang từng viết cuốn sách có tựa đề “Hướng về Chúa, một Phương Hướng Nguyện Cầu rất ý nghĩa”, để sử dụng trong phụng vụ. Sách, do nhà xuất bản Ignatius phát hành. 
Cũng nên nhớ, dù vị linh mục cử hành thánh lễ, với diện mạo quay về hướng giáo dân đi nữa, thì linh mục cũng như giáo dân tham dự, đều chung một ý nghĩa, là: tất cả đang hướng lòng về với Chúa, mà thôi.” (Lm John Flader, The Catholic Weekly 13/1/2008 tr. 10) 

Nói gì thì nói. Quay đâu thì quay. Đông Tây 
Nam Bắc, ta vẫn gặp nhau. Gặp, trong nguyện cầu. Gặp, trong ý hướng. Bởi, Đông hay Tây; Nam hay Bắc, ta vẫn là một. Một cộng đoàn. Một niềm tin. 
Có những người, tuy cùng nhau quay chung về một phía, nhưng thực tế chỉ mỗi quay về phía, có cách chia. Hận thù. Đơn độc. Đó, mới là điều đáng sợ. Sợ, nhiều chuyện xảy ra. Xưa cũng như nay. Ở bên này, hay bên kia của thế giới. Thế giới, có Đông có Tây. Đầy đủ. 
Vấn đề, là ở chỗ: dù Đông hay Tây, mình vẫn là
người. Mà, đã là người, thì dù có ở phương Đông hay phương Tây đi nữa, vấn có nhiều “sự”. Nhiều vấn đề, như Thày Đạt Lai Lạt Ma, từng khẳng định: 

“Có người đến hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma: 
-Điều gì làm ngài ngạc nhiên nhất, trên cõi đời? 
Vị “Phật sống” trả lời: 
-Con người! Bởi, con người phung phí sức khoẻ để tích luỹ tiền của. Rồi, bỏ tiền bỏ của đi ngõ hầu mua lại sức khoẻ. Vì quá lo cho tương lai, con người quên mất hiện tại. Quên, đến độ không còn sống được, cả hiện tại lẫn tương lai. Ngày nay, con người ta sống như thể sẽ không bao giờ chết đi. Nhưng rồi họ cũng sẽ chết, như chưa bao giờ từng được sống. Vì họ không biết sống. Không ý thức sự sống. Nên, đã để mất cái ta. Mất cả thực tại.” 

Nói cho cùng, cái ta và thực tại, vẫn còn đó. Rất 
buồn. Nhưng “ta” ấy, thực tại ấy, nay đã khác. Khác ở chỗ, cả hai đã được nghệ sĩ già nhà ta reo lên mà vui hát. Hát như sau: 

“Xưa em là chữ biếc, nằm giữa lòng cuốn kinh 
anh là thiền sư buồn, ngồi tụng giữa ánh trăng 
xưa ta hẹn với nhau, tìm nhau giữa vô thường.. 
anh hoá thân làm mực, thấm vào cuốn kinh thơm. 
Aha, ta tuy hai mà một! Aha, ta tuy một mà hai! 
Aha, ta tuy hai mà một! Aha, ta tuy một mà hai! 
(Phạm Duy – bđd) 

Thật, rất đúng. Ta đây, tuy hai mà một. Tuy một, mà 
là hai. Hai phương trời. Một bản thể. Bản thể người, rất dễ thương. Thương người. Và, thương ta. Thương, như lời thánh nhân, vẫn dặn dò: 

“Ai có thể tách chúng ta ra khỏi 
tình yêu của Đức Ki-tô? 
Phải chăng là gian truân, 
khốn khổ, đói rách, 
hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” 
(Rm 8: 35) 

Nếu thánh Phao-lô còn sống đến hôm nay, chắc hẳn 
Ngài sẽ  thêm: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? phải chăng là phương Tây lẫn phương ta, phía trời Đông?” Quả có thế. Dù là phương Đông, hay cõi trời Tây, ta vẫn chung một nhà. Nhà, Cha ta. Nhà, của “tứ hải giai huynh đệ.” Của, con dân Đức Chúa. 

Trần Ngọc Mười Hai, 
Sinh, là sinh ở phương Đông 
hiện sống, là sống ở phương Tây, 
nhưng vẫn tin mình thuộc mười phương/mười hướng, có xót và có thương.


17. “Bây giờ anh vui, một linh hồn rỗi”
Tình yêu xứ này
(Trịnh Công Sơn – Cuối cùng cho một tình yêu)

(GLHTCG #1472)
Một bạn thân, có lần cũng từng nói: chẳng biết sao mà phần lớn các nhạc bản của người mình, vẫn cứ buồn, một tình tự. Cả đến Giáng Sinh, Lễ Hội vui nhộn là thế, mà sao nghe vẫn cứ buồn. Những là, “Lời kinh đêm” rất ngậm ngùi, “Thánh ca buồn”, “Mùa áo quan”, vân vân và vân vân.
Hôm nay đây, hỡi bạn và tôi, ta hãy thử minh chứng với người trẻ nọ, bằng ý-từ thi-ca, “linh hồn rỗi”. Bởi, linh hồn mình có rỗi, mới thấy vui? Thật thì không. Không phải thế. Người nghệ sĩ chỉ muốn nói: “Bây giờ anh vui, một linh hồn rỗi, Tình yêu xứ này.” 
Nói như kiểu nghệ sĩ, một người từng bị người đời lôi ra chất vấn, thử hỏi rằng: “anh có vui?” khi mà thiên hạ cứ hỏi những vân vân và vân vân? Vâng. Trịnh Công Sơn là người nghệ sĩ, sẽ rất vui. Vui hơn bao giờ. Vui, cả vào trước khi anh hát…“nếu một mai, anh có qua đời”.  Là bởi vì:

“Ừ thôi em về, chiều mưa giông tố!
Bây giờ anh vui, hai bàn tay đói
Bây giơ anh vui, hai bàn chân mỏi
Thời gian nơi đây…” 
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Thế mới biết, hai bàn tay anh dù có đói. Hai bàn chân anh, nay có mỏi. Hoặc gì gì đi nữa, nghệ sĩ mình vẫn cứ vui. Và cứ cười? Bởi ở đời, có nhiều bàn chân tuy không mỏi. Và, những đôi tay tuy không đói, nhưng vẫn buồn. Buồn, như giòng nhạc của người mình? Buồn, như tình không lối thoát? Một thứ “tình mình bây giờ”, có gì vui?
  Tất cả các câu trên, đều thấy có chấm hỏi (?), là sao thế? Tức, vẫn cứ hỏi và rồi còn dấu chấm. Thôi thì, ta cứ chấm và cứ hỏi, như truyện kể ở bên dưới, chỉ để hỏi:

“Cả nhà đang ngồi ăn cơm vui vẻ, bỗng ông con
nhỏ, hỏi một câu rất lãng xẹt:
-Bố ơi, sao hồi xưa bố lại lấy mẹ?
Ông bố quay qua vợ, cất cao giọng, giõng dạc nói:
-Đấy, Bà thấy chưa? Đâu phải có mình tôi là thắc mắc, mỗi chuyện ấy!

Thật vậy, những câu hỏi-đáp trong đời, vẫn là những câu nói có hơi buồn. Buồn như câu: trong đời đi Đạo, bạn có thấy buồn hay vui? Câu này, cũng từa tựa như câu nói ở trên, về nhạc Việt. Thôi thì, xin cứ “để lại cho em”, một chốn nợ đời, tha hồ mà hỏi tới. Rất tuỳ tâm. Tuỳ hỷ.

Tuỳ tâm - tuỳ hỷ, còn là tâm trạng của rất nhiều người, ở nhà Đạo. Tuỳ là vì, dù ta có được dạy bảo khá nhiều điều, nhưng sao vẫn thấy thiếu. Thiếu hiểu biết. Thiếu thực hiện, trong vui say. Vẫn cứ là động thái của nhiều người, tuy có tai nghe. Mắt thấy. Hệt như xưa Chúa căn dặn:

“Ai có tai thì nghe”
(Mt 11: 15/Mc 4: 9/Lc 8)

Hôm nay, nhiều người vẫn có tai, và có lòng đấy chứ, nhưng vẫn cứ hỏi. Hỏi nhiều điều. Cả những điều thấy rõ như ban ngày, mà vẫn như chưa nghe biết. Hỏi, như hỏi những câu ở bên dưới:

“Vừa qua, tôi có ông cậu qua đời, sau khi đã được rước Chúa vào lòng và lĩnh nhận bí tích xức dầu thánh, đầy đủ cả. Cậu còn là người rất ngoan đạo. Tôi cũng hiểu rằng Hội thánh thuận ban cho phép lành toàn xá vào lúc thập tử nhất sinh, cho người nào biết ăn năn cầu nguyện, trong cuộc đời. Phải chăng điều này có nghĩa là, ông cậu của tôi bảo đảm là ông đang được hưởng nhan thánh Chúa, trên thiên đàng? Mà, đã lên thiên đàng rồi, thì tôi khỏi cần cầu nguyện cho cậu, mà làm chi? Rất mong được linh mục giải đáp cho tôi thắc mắc này. Xin cảm ơn.”

Câu hỏi của các độc giả như kiểu trên, xem không có vẻ gì buồn. Dù liên quan đến những chuyện buồn, nhưng rất thánh. Thế nhưng, câu trả lời có vui không, đó mới là vấn đề. Và vấn đề như thế, xin dành để cho người đọc, những bạn và tôi đang đọc và sẽ đọc, những giải đáp, như sau này:

“Xin bắt đầu câu giải đáp, bằng việc trở về xem lại giáo huấn của Hội thánh nói về ơn toàn xá, trước khi trả lời cho câu hỏi của ông/bạn trích ở trên.
Tất cả mọi lỗi tội đều tác hại đến sự vinh quang của Thiên Chúa, ảnh hưởng lên chính người mắc lỗi và cả vào Bản Thể nhiệm mầu là Hội thánh Chúa. Bản thân chúng ta chẳng thể nào hình thành đủ nhiều tác hại do chính mình tạo ra, nhất là việc phản chống tính nhân từ hiền hậu vô biên của Thiên Chúa. Nhưng may thay, Thiên Chúa đầy lòng xót thương đã chỉ cho phép ta hình thành mức độ tác hại ít hơn là lỗi tội của ta, đáng ra phải thụ lĩnh.
Dầu sao đi nữa, ta vẫn có thể làm điều gì đó, khả dĩ giúp ta chuộc lại các lỗi lầm trước khi được Chúa cho đạt chốn thiên đường. Hệ quả của các lỗi tội ta vi phạm, được biết dưới danh xưng luận phạt tạm thời. Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo mô tả việc này như “cái đuôi đính kèm không lành mạnh nơi thụ tạo, cần được tẩy rửa cho sạch ngay trên dương thế, hoặc sau khi chết, ở vào tình trạng được gọi là chốn Luyện hình” (GLHTCG #1472)

Nếu bạn và tôi, ta hợp lòng với tác giả của bài “Cuối cùng, cho một Tình Yêu”, là Trịnh Công Sơn, hẳn sẽ được nghe những lời na ná như:

“Một lần yêu thương, một đời bão nổi
Giã từ giã từ,
Chiều mưa giông tới, em ơi ơi…” 
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Đời bão nổi. Một lần giã từ, đâu chỉ khi ta còn sống. Vẫn cứ nổi, cả vào khi ta nghe ý kiến của người nhà Đạo, rất như sau:

“Mọi người đều có thể tự mình thanh luyện/tẩy rửa hoặc thực hiện công việc tạm luận phạt, bằng nhiều cách. Một trong những cách rất hay, là ngang qua việc lành thiện ta làm trong tình trạng tràn đầy ơn thánh, cả vào lúc nguyện cầu. Đọc kinh. Hãm mình. Đối xử tử tế với người khác. Chấp nhận thánh giá cuộc đời đang mang đến, vv. Một cách hay nữa, là làm một số công việc mà Hội thánh chuẩn thuận ơn lành đại xá, hoặc ân xá.

Ân xá, được Sách Giáo lý định nghĩa như “một miễn chuẩn trước hình phạt tạm, từ Thiên Chúa, do lỗi phạm ta mắc phải, nhưng đã được thứ tha. Tức là, những việc mà người tín hữu Công giáo được xá giải và nhận lãnh, chiếu theo một số điều kiện được đưa ra, ngang qua hành động của Hội thánh. Bởi, với tư cách là người thừa tác cứu chuộc, Hội thánh có thể hoá giải và áp đặt với quyền năng vốn có từ kho tàng châu báu, do Chúa Kitô và các thánh chuẩn thuận.” (SGLHTCG #1471)

Nói cách khác, khi chúng ta có được ân xá do Hội thánh chuẩn thuận, ngang qua ân huệ Chúa ban và sự cầu bàu của các thánh, cũng hoá giải một phần hoặc toàn bộ hình phạt tạm, do các lỗi ta vi phạm, tạo ra. Khi ơn đại-xá xoá bỏ tất cả mọi hình phạt tạm, thì việc đó được gọi là toàn xá. Và nếu chỉ xoá bỏ một phần nào thôi, thì gọi là tiểu xá. (GLHTCG #1471)

Tiểu xá hay toàn xá, cũng đã làm cho nhiều người, trong đó có người nghệ sĩ, cất tiếng hát:

“Bây giờ anh vui,
một linh hồn rỗi
tình yêu xứ này.” 
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Đọc thêm chút nữa, ta sẽ thấy đức thày nhà mình, nói rõ hơn:
“Như ông/bạn có đề cập trong thắc mắc cần giải đáp, thì: trong số các ơn đại xá được Hội thánh chuẩn thuận, có một ơn được phú ban vào lúc người nào đó sắp từ trần. Và, người này đã làm một việc, hoặc đã nguyện cầu theo cách nào đó, trong đời mình; nhờ đó mới được lĩnh nhận ơn đặc biệt này. Đại xá, là ơn do chính Hội thánh chuẩn thuận, mà chẳng cần có vị linh mục hiện diện, ban bố phép lành.       

Muốn được ơn đại xá (hoặc toàn xá), người thụ hưởng phải ở trong tình trạng lành thánh, không dính bén lỗi phạm nào, kể cả các lỗi nặng/nhẹ, và phải đến toà cáo giải để nhận bí tích giải tội, và phải rước lễ ít ngày trước hoặc sau đó; và nhất là, phải cầu nguyện theo ý Đức Giáo Hoàng.

Trong trường hợp ông cậu của ông/bạn đang vào lúc sắp ra đi, ta có chắc chắn là ông sẽ đi thẳng vào chốn thiên đường, không? Không nhất thiết là như thế. Dù ông đã hoàn thành mọi trách vụ và điều kiện coi như trong tình trạng lành thánh và lĩnh nhận bí tích, ông vẫn phải từ bỏ mọi lỗi phạm nào còn vướng víu, kể cả các lỗi nặng/nhẹ. Nghe qua thấy dễ, nhưng đây có lẽ là một trong các điều kiện khó khăn, để hoàn thành. Bởi, việc ấy giả thiết là: ta thương yêu Chúa hết lòng. Hết trí khôn. Tuy nhiên, giả như có người nào không hoàn thành mọi điều kiện cần làm để có được ơn toàn xá, thì người ấy vẫn cần đến ơn tiểu xá.

Thêm vào đó, nhằm đạt chốn thiên đường, mọi người cần được giải thoát khỏi mọi hình phạt tạm thời, do lỗi phạm mình gây ra, thì cũng nên hối hận về các lỗi mình mắc phải, kể cả các lỗi nặng/nhẹ. Và, cũng nên, bỏ đi mọi thói tật xấu xa/hèn yếu đã vướng víu do lỗi của mình.

Hiểu như thế, ta hãy nên nguyện cầu và tham dự các thánh lễ được cử hành để cầu bàu cho các linh hồn đã ra đi, dù các vị ấy đã lĩnh nhận ơn toàn xá, lúc sinh thì. Bởi, thật tình, ta cũng chẳng biết chắc là các vị ấy có đi thẳng vào chốn thiên đường, hay không.” (x. John Flader, The Catholic Weekly 5/8/2007)

Đấy, ơn toàn xá là như thế. Có thể, cũng là ý nghĩa của ca từ “một linh hồn rỗi”, mà người viết nhạc tên Công Sơn, chợt nghĩ. Nhưng thôi, người nghệ sĩ có nghĩ hay không nghĩ đến chuyện này, ta vẫn còn đôi câu hát từ môi miệng của ông:

“Sầu thôi xuống đầy, 
làm sao em nhớ
Mưa ngoài sông bay, 
lời ca anh nhỏ, 
nỗi lòng anh đầy..”
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Nỗi lòng của anh, ôi nghệ sĩ. Hoặc, nỗi lòng của tôi hay của bạn, ôi bạn Đạo. Bao giờ cũng đầy. Rất đầy là đằng khác. Đầy đến độ, tôi và bạn, chẳng cần lo toan, những là “chiều mưa giông tố”, “hai bàn tay đó”, “hai bàn chân mỏi”, mỏi vì mong và chờ, nữa. Nhưng dám nói:

“Bây giờ anh vui
một linh hồn rỗi,
tình yêu xứ này.” 
 (Trịnh Công Sơn – bđd)

Bởi, Tình Yêu đó, đã có từ Đầu Hết và Cuối Hết. Bởi, Thiên Chúa sẽ chẳng giáng phạt và bỏ rơi bất cứ ai. Cả những người phạm lỗi. Rất nặng/nhẹ. Chống lại Người. Như Kinh Sách có nói:
“Thật vậy Đức Chúa, 
Thiên Chúa của anh em 
là Thiên Chúa từ bi: 
Người sẽ không bỏ mặc anh em, 
sẽ không tiêu diệt anh em. 
(Đnl 4: 31)

Lại thêm nữa, một khi ai đã tin Thiên Chúa là Tình Yêu, thì người ấy sẽ chẳng bao giờ nghi ngờ lòng nhân hậu, và tình lân tuất của Người. 

Và, người nghệ sĩ đã có lý, khi ông đặt đầu đề cho bài hát có ca từ “ừ thôi, em về”, là “Cuối cùng cho một tình yêu”. Tình Yêu đây, trải dàn cả lúc ta còn sống. Lẫn vào lúc sắp chết. Vào phút đầu sự. Hay phút cuối cùng cuộc đời, vẫn cứ là: cho một Tình Yêu.       

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cứ tin 
vào lòng nhân từ thương xót
của Đức Chúa.
Vào mọi lúc. 



























18.“Đi với tôi đếnphương 
trời xa”
Trăng nước êm. Một trời đầy hoa 
Bạn của Hằng Nga; và vô cùng thanh thú 
lắng tai nghe nhạc réo lững lờ.”
(Canh Thân – Đi Với Tôi Đến Phương Trời Xa)

(Xuất Hành 20: 3-5)
Lại đi. Đi đâu, mà sao không thấy chán? 
Thật ra, lời mời gọi những đi và đến, “đến phương trời xa”, đà gửi đến với mọi người. Lâu nay. Dạo ấy. Nhưng, đã mấy người từng biết đến. Biết, nhưng không hồi và chẳng đáp. Biết, những chỉ xem như một lời mời, và vẫn bỏ lửng. 
Lời mời từ nhà Đạo hôm nay, thật ly kỳ. Lý thú. Vẫn nghe quen. Và nghe rất quen, nên chẳng ai buồn để ý. Nếu để ý, sẽ thấy lời mời của Ngài da diết. Thiết tha. Trìu mến. Rất như sau:

“Trong những ngày ấy, 
Gioan Tẩy Giả xuất thân rao giảng
trong sa mạc xứ Giuđê rằng:
‘Hãy hối cải , vì Nước Trời đã gần bên.”
(Mt 3: 1-2)

Mời gọi thân thương/trìu mến, là lời mời từ Đấng Thánh, rất dịu hiền. Trong lúc đó, “Lời gọi chân mây” ở đời thường, chỉ giản đơn. Nhưng sao nhiều người vẫn lắng nghe:

“Đi với tôi đến chốn trời xa 
Bên suối mơ là nhà của ta, 
tay đàn miệng ca và mơ màng ta múa 
Gót chân theo nhịp bước thần tiên.” 
(Canh Thân –bđd)

Nhịp bước, có thần tiên? Hay vẫn cứ châu về, mà tưởng nghĩ. Tưởng và nghĩ, sẽ thấy còn đó nhiều điều, rất vấn vương. Như truyện kể nhè nhẹ một suy tư văn hoá hơi cường điệu. Vu vơ. Như một dẫn nhập vào những chuyện khô khan. Sâu sắc. Thời xưa cũ. Kể, là kể rất gọn và nhẹ, như sau:

“Lâu nay, có người để công sức và thì giờ vào chuyện nghiên cứu, những văn thơ về chữ “ăn”, như sau:
Hồi nhỏ, những “ăn vóc học hay”. Hễ xin tiền ba mẹ “ăn vặt”, không được là “ăn vạ” liền. 
Lớn lên, học đòi “ăn diện”, rồi lang bang tán gái/theo giai không qui cách, những là “ăn nói bậy bạ”, bèn bị “ăn bạt tai”… đau điếng. 
Khi có vợ, lại không thích chuyện cùng “ăn (và cùng) nằm”, đến khi “ăn năn” thống thiết, thì  đã quá muộn; đành, “ăn đời ở kiếp” với nhau theo cách “ăn khế trả vàng”. Có khi gặp phải số “ăn mày” hoặc “ăn hại đái nát” cũng là chuyện thường ngày, ở chốn nợ đời.
Thoạt khi “ăn nên làm ra”, những là “ăn sung mặc sướng”, rồi cứ thế sanh tật “ăn gian nói dối” với chồng/vợ là mình “đi ăn cơm khách”, mà thực ra chỉ là “ăn vụng”, “ăn chạ”, hoặc giả: “ăn bánh trả tiền”. Trót lọt thì không sao, gặp tai hoạ, chỉ có nước mà “ăn cám”, hoặc “bỏ ăn” lâu ngày, thì có mà “ăn ớt”.
Nhằm khi mất việc, nếu chẳng “ăn không ngồi rồi”, cũng đành “ăn theo”, “ăn bám”, “ăn hại” vợ con. Được lúc khấm khá chút đỉnh, lại đã ra mặt “ăn qụyt” hoặc xuống cấp tồi tệ, đành lủi thủi “ăn mày” cho qua ngày, đoạn tháng.
Vốn quen thói “ăn không” mà chẳng chịu làm, hoặc ngồi mát “ăn bát vàng” cũng lại cương bạo, bèn làm chuyến “ăn trộm”, “ăn cắp”, thậm chí còn “ăn cướp”, hoặc “ăn hàng”, một vài nơi.
Gặp khi chơi bạc nhằm lúc thắng lớn, bỗng đứng dậy bỏ về, bị đồng bàn chê là dân “ăn xi non”, khó khá. Tệ hại hơn, đã ăn xi non như thế mà vẫn vênh váo, ngạo mạn, thì chỉ có nước bị chúng cho “ăn đấm”, “ăn đá”. Chán rồi, đành quay về nhà để “ăn cháo”, hoặc “ăn cơm nhà vác ngà voi” cho thiên hạ coi thường. Kết cục kiếp người chỉ “ăn chơi” chốn nợ đời, thật đáng chán. Lúc về già, đành theo các cụ “ăn oản”, “ăn xôi”, đứng ngồi ở trên đó, chốn cao sang hương khói, kiếp “ăn tằm”, vẫn đứng nằm để con cháu/người người, còn cúng bái.

Về với nhang đèn/cúng bái đầy tưởng nhớ, có tôn giáo ít nhiều mang nặng ảnh hưởng từ các tục lệ dân gian nay về thuần hoá, làm thành văn hoá riêng, đạo mình.
Vừa qua, có một bạn đạo gửi về ban biên tập báo The Catholic Weekly ở Sydney, đưa ra vài ba thắc mắc, với hỏi han. Han hỏi, hỏi và han, là để xem đức thày mình nghĩ thế nào về việc khói hương xì sụp, nhiều vái lạy. Vái thần linh. Nhìn ảnh hình. Tượng điêu khắc. Những hoa hoè mầu sắc, như sau:

“Tôi có một bạn thuộc giống giòng hào kiệt, rất Tin Lành. Đến với tôi, không để rủ rê đôi điều theo kiểu “đến phương trời xa xôi” nào đó, mà hỏi xem Đạo mình sao vẫn có những ảnh tượng/hình hài, chốn thánh thiêng, nhiều đến thế? Anh có trích dẫn giới răn Lời Chúa, rõ ràng điều thứ nhất, rằng: Đạo Chúa từng cấm đoán mọi hình thức tôn thờ ngẫu tượng, cùng bày biện ảnh hình lền khên, ở khắp chốn. Anh còn thêm: phải chăng Đạo mình là đạo “phụng thờ” những tượng cùng ảnh, theo cách khác? Bản thân tôi, khi nghe hỏi, thấy mình không đủ tư cách và chữ nghĩa để đối đầu. Giải oan. Vậy theo ngài, ta có cách nào hay nhất, để giải toả các nghi nan/kỳ thị, không đúng ấy? Xin trả lời vài hàng cho biết. Rất tri ân.”

Hỏi đây, là hỏi những câu tế nhị. Những là tinh tế/ý nhị, nên đức thày lần này không tiện ghi danh người han hỏi. Đức ngài, đi ngay phần giải thích, có trích có dẫn như sau:

“Thật ra, thì giới răn đầu rút từ sách Xuất hành, Cựu Ước, gồm lời trích dẫn vỏn vẹn chỉ thế này: “Các ngươi sẽ không có các thần khác, trước Nhan Ta.”(Xh 20: 3) Giới răn đầu, tuyệt nhiên không nói gì về ảnh hình, hoặc tượng đúc/khắc. Nếu đọc tiếp, ta sẽ thấy những lời khuyên dạy, được kể đến: 
“Ngươi không được tạc tượng, vẽ hình bất cứ vật gì ở trên trời cao, cũng như dưới đất thấp, hoặc ở trong nước phía dưới mặt đất, để mà thờ.
Ngươi không được phủ phục trước những thứ đó mà phụng thờ: vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, là một vị thần ghen tương. Đối với những kẻ ghét Ta, Ta phạt con cháu đến ba bốn đời vì tội lỗi của cha ông. Còn với những ai yêu mến Ta và giữ các mệnh lệnh của Ta, thì Ta trọn niềm nhân nghĩa đến ngàn đời..” (Xh 20: 4-6)
Từ đó, ta cứ tưởng: Hội thánh hằng chôn giấu đôi điều hàm ẩn ở giới răn Giavê Thiên Chúa truyền thực hiện. Thực hiện, hầu lý giải hành vi sai sót khi con dân mọi thời thực thi điều Chúa ngăn cấm: tạc tượng. Khắc ảnh, nhiều đấng thánh.
Quả thật, Hội thánh chẳng khi nào làm thế. Việc Hội thánh làm, là giùm giúp con dân nhớ nhiều về điều Chúa dạy. Nhớ truyền thống. Nhớ, phương cách giản đơn, đem đến cho ta văn bản ngắn gọn, dễ dàng mà ghi nhớ trong lòng. Hỏi rằng, sao ta lại lập ảnh/tượng Chúa, Mẹ, cùng thần thiêng các đấng, mà treo/đặt ở nhà thờ. Cả, phạm vi riêng tư nơi ăn chốn ở, khi Giavê Thiên Chúa đã nhất mực ngăn cấm?
Trước nhất, nên nhớ: Giavê Thiên Chúa không những ban bố cho Môsê 10 điều răn, để tuân giữ, Ngài còn khuyên dạy ông lập một số ảnh hình, trong đó gói ghém hai tổng thiên sứ hoặc các Kêrubim có cánh xoè, lập Bàn Khám. (Xh 25: 18-20). Đồng thời, Ngài còn cho phép tạo rắn lửa bằng đồng, từng cứu sống nhiều người khi nhìn lên ảnh hình của rắn, đều đã sống.(Ds 21: 8-10)

Mời gọi đây, có tình tiết cũng tha thiết. Quyến luyến. Những mến thương. Thương mến và mừng vui, như ý/lời người nghệ sĩ kể ở trên, từng diễn tả:

“Đi với tôi đến chốn trời xa,
đâu có chi đẹp bằng đời ta; 
mặc ngày dần qua, nào vang lừng câu hát 
Dắt tay nhau về chốn bồng lai…” 
 (Canh Thân –bđd)

“Chi đẹp bằng đời ta, chốn lai bồng”, là chốn vui có lời khuyên. Có diễn giải. Về, những thắc mắc, hỏi han rất tâm đắc. Và, đức thày nhà Đạo ở Sydney, lại đã tiếp tục giòng chảy, một trả lời:

“Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có giải thích: các ảnh hình trong Kinh Sách muốn nói đến hình ảnh Đức Kitô, nên đã diễn tả: “Dù gì đi nữa, rõ ràng là ta thấy ở Cựu Ước, chính Giavê Thiên Chúa đã ra lệnh/cho phép lập ảnh hình, là để diễn tả, cách biểu trưng, ơn cứu độ do Ngôi Lời nhập thể, như bằng chứng là ơn của Chúa đã ở với “rắn đồng”, với Bàn Khám và Thiên sứ Kêrubim.” (GLHTCG #2130)

Rõ ràng, điều Thiên Chúa cấm đoán không phải là việc thiết dựng chỉ bao nhiêu ảnh tượng thôi đã đủ, mà là: không được phép phụng thờ ngẫu thần do người làm: “Các người không được phủ phục trước những thứ đó, mà phụng thờ.” (Xh 20: 5)

Ta nhận ra được điều này: khi dân Do Thái, lo ngại sự việc Môsê ở trên núi, quá lâu không thấy xuống; họ “bèn lập bò con bằng vàng, mà lạy thờ.” (Xh 32: 1). Vì thế, Thiên Chúa nói với Môsê: “Hãy xuống đi, vì dân ngươi đã hư hỏng rồi, dân mà ngươi đưa lên từ đất Ai-cập. Chúng đã vội ra ngoài con đường Ta truyền dạy cho chúng. Chúng đã đúc một bê con, rồi sụp xuống mà lạy nó, tế nó và nói: "Hỡi Ít-ra-en, đây là thần của ngươi đã đưa ngươi lên từ đất Ai-cập." (Xh 32: 7-8). Xem thế, thì đây là tội phạm thánh, dám thờ lạy ngẫu thần, là điều mà giới răn thứ nhất, từng đề cập.

Khi Thiên Chúa chấp nhận trở thành người, qua xác phàm trần tục hiện diện nơi Đức Kitô thì, trong chừng mực nào đó, Ngài ban cho ta ảnh hình của chính Ngài. Đây cũng là điều mà thánh Phaolô từng viết về Đức Giêsu Kitô, bằng lời lẽ như sau: “Thánh Tử là hình ảnh Thiên Chúa vô hình” (Co 1: 15) Bằng vào việc đến với thế gian, như Chúa đã làm, Hội thánh coi đó là việc chính đáng, hợp pháp, để lập hình/tượng các thánh nhân.
Khi xưa, các bè chủ trương đập phá mọi ảnh tượng Hội thánh lập vào thế kỷ thứ 8, như thế, họ đã chối bỏ tính đạo hạnh trong việc thiết lập ảnh hình và tượng khắc. Để đáp lại, Công Đồng Nixê thứ hai, năm 787, công bố chấp nhận hình thức ảnh/tượng, hội thánh lập ra. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng đã giải thích:“Bằng vào nhiệm tích Nhập thể, Công Đồng Chung lần thứ bẩy diễn ra ở Nixê, đã xác chứng chống đối những người thuộc bè chủ trương phá hại việc tôn kính ảnh/tượng không chỉ của Đức Chúa mà thôi; nhưng cả các ảnh/tượng Đức Mẹ, các thiên sứ, và các thánh nam nữ. Bằng việc xuống thế làm người, Ngôi Lời khởi xướng đưa vào với thế giới “nhiệm cục cứu độ” bằng những ảnh hình, mang tính người.” (GLHTCG #2131)

Trả lời câu kế tiếp của ông/bạn, tôi có thể bảo: chúng ta không hề “phục lạy/phụng thờ” ngẫu tượng cùng ảnh hình, của ai hết. Ta dùng thứ ấy, chỉ để nhắc nhớ mọi người về về bản vị mà các đấng hình dung ra, tựa hồ ở mỗi gia đình, ta vẫn có thói quen trưng bày ảnh hình người thân yêu của ta, để thương và để nhớ, mà tôn kính. 

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng đã dựa vào lời của thánh Baxin, để giải thích: “Sự việc tín hữu Đức Kitô tôn kính ảnh hình cùng tượng thánh, đã không đi ngược lại giới răn thứ nhất, tức giới răn ngăn cấm ta thờ cúng ngẫu thần, do người làm. 

Quả thật, ‘khi ta tỏ lòng tôn kính ảnh/hình các bậc hiển thánh, sự tôn kính ấy sẽ đạt tới đấng mà ta kính tôn”. Và, “khi ta cung kính ảnh hình của người nào, là ta đang cung kính chính đấng bậc được thể hiện tạo tác nơi ảnh/hình đó.”(GLHTCG #2132)

Tôn kính hay cung kính, vẫn là hành vi rất kính và rất tôn. Tôn và kính, sự lành thánh của các  đấng thánh. Rất hiền lành. Tôn kính/kính tôn, là ta biết kính và biết trọng đấng thánh. Khi đó, ta sẽ thấy vui trong lòng, mà bắt chước các ngài. Bắt chước, rồi sẽ vui. Vui, như người nghệ sĩ đã từng có những ngày vui, nên mới hát:

“Có ai đâu vui như tôi            
tuy không có dài hơi
người nào chán và buồn, 
tình đời
đều cùng yêu tôi.” 
 (Canh Thân –bđd)

Cuối cùng, lập ảnh hình và tượng khắc, là để ghi nhớ sự lành thánh của đấng bậc rất lành và rất thánh. Là, mời gọi từ ngàn xưa. Lời mời gọi ta ra đi, mà chóng đến với những người lành và thánh. Rất thân yêu. Ở Nước Trời lành mạnh, có các thánh đang hiện diện. Và, trông chờ một hồi đáp. Trông và chờ từ dân con nhà Đạo, là chúng ta. Hôm nay. Ảnh và tượng, nhất định là lời gọi mời, từ muôn nơi. Đạo/đời. Lành mạnh.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn tôn và kính
những gọi mời từ đấng thánh.
    Qua ảnh hình. 
Nhiều mầu sắc.




19. “Người làm xiếc đi dây rất khó”
Nhưng không khó bằng làm một nhà văn”
(Phạm Duy – Lời mẹ dặn)

(Hc 2: 12)
Bần đạo không phải là nhà văn. Chắc chắn, là như thế. Cũng, chẳng là gì cả. Chỉ làng nhàng, viết nhăng viết cuội đôi ba hàng, mà luận phiếm. Phiếm bậy bạ, để mình vui. Đời cũng vui. Chứ, nào dám mạo nhận là có tay/chân trong ngoài, làng thơ với âm nhạc! Không. Bần đạo chẳng khi nào dám mạo nhận tước vị ấy. Rất sợ. Sợ, vì chưa bước vào đã thấy khó. Khó lòng. Khó chịu. Rất khó khăn. 
Mới đây, bần đạo lại bắt chụp được đôi giòng tư tưởng tuy không lạ, nhưng được coi là phương châm. Phương châm để sống, những khó/dễ thấy ở đời. Khó/dễ, tuỳ bạn bè cứ tách bạch:

-Dễ là khi, bạn có tên trong sổ địa chỉ, của người khác;
khó là lúc, bạn tìm được chỗ đứng, ở tim ai.
-Dễ là khi, bạn đánh giá lỗi lầm của người khác; 
khó là lúc, bạn và ta nhận ra sai trái, của riêng mình. 
-Dễ là lúc, mình làm tổn thương tình bạn, xưa rày vẫn quý;
khó là khi, mọi người cố ý gắn hàn vết thương đau.
-Dễ là khi, nói với nhau về tha thứ, cho kẻ khác;
khó là lúc, để người khác thứ tha lỗi lầm mình.
-Dễ là khi, bạn và ta ngủ say trong chiến thắng;
khó là lúc, ta và bạn cố gắng nhận mình bại trận.
-Dễ là khi, ta bận rộn chuyện yêu thương, chăm sóc,
khó là lúc, phục vụ mọi người, cả người mình không yêu. 
-Dễ là khi, mình chỉ lo phẩm bình hành xử của người khác;
khó là lúc, cần tự kiểm để canh tân.
-Dễ là khi, mình cứ tiếp tục lỗi phạm với sai trái;
khó là lúc, ta muốn ngưng lại để rút bài học,từ lầm lỗi.
-Dễ là khi, mình chỉ biết tiếp nhận và tiếp nhận;
khó là lúc, ta thực hiện việc cho đi và cho mãi.
-Dễ là khi, cứ mải khuyên người về nhiều chuyện;
khó là lúc, có nhiều điều tốt mà ta chỉ làm mỗi một mà thôi.

Vào vườn hoa phương châm được trích ở trên, ta sẽ lại gặp đôi lời vàng nhận định, rất nên làm. Làm, với quyết tâm. Làm, bằng nhiệt huyết. Là những việc, bạn và mình vẫn nghe quen.
Nghe rất quen, những câu hỏi cũng dễ và cũng khó như giáo điều/ luật lệ, đời vợ chồng. Dễ/khó, cả về nơi tổ chức nghi thức hỏi/cưới, ngoài nhà Đạo. Như hỏi đáp bên dưới, do đấng bậc vị vọng phụ trách, có tiếng tăm: 

“Tôi có người con gái, xưa nay chẳng khi nào làm việc gì khiến bố mẹ phiền lòng. Nhưng vừa qua, cháu và chồng, đồng lòng đưa ra một quyết định, là: chọn nơi cưới hỏi rất khác thường, làm bọn tôi chưng hửng, bối rối. Cháu định tổ chức lễ cưới, ở nơi vườn; chỉ có vị chủ sự làm chứng từ, cho hôn ước. Cứ sự thường, tôi rất bực mỗi khi phải giải quyết những chuyện rối rắm như thế. Nhưng, hôm nay, vì vẫn muốn hỗ trợ cho quyết định của các con, nhất là lại có liên can đến cuộc sống, của các cháu, như tôi vẫn từng làm. Vậy xin hỏi: tôi có quyền và có lý do để khước từ, không tham dự các nghi thức như thế, được không?”

Quả thật, lần này, điều khó nghĩ, không chỉ tạo ra cho bố mẹ/người thân, thôi. Nhưng, còn gây lúng túng cho cả người giải đáp trường hợp riêng biệt, nhiều bận tâm. Nhưng, nói gì thì nói, lần này đấng bậc giòng họ Flader, lại có những lời đáp, rất chững chạc. Uyên bác. Rất đáng quan tâm. Và, sau đây là câu trả lời, của “đức ngài”:

“Trong rất nhiều câu hỏi, mà giới linh mục chúng tôi nhận được, tôi nghĩ: câu hỏi trên là thường xuyên nhất. Cũng còn là câu hỏi hóc búa, vào bậc nhất. Của dân gian. 

Đã từ lâu, tôi vẫn suy nghĩ/đắn đo về chuyện này, cũng ở cột báo đây. Và cuối cùng, tôi quyết định là: nên trả lời ở cột báo này, là hay nhất. Thật ra, thì đây không phải là câu hỏi tầm thường. Nên, cũng không thể có câu trả lời, dửng dưng, hay đơn giản, được.

Trong đời người, đôi khi ta đứng giữa hai điều tốt đẹp, ta khó có thể hoà giải được. Và, cũng đang trong tình trạng rất có nguy cơ sụp đổ. Nếu chỉ đơn giản chọn một trong hai điều tốt đẹp ấy, thì hậu quả không tránh khỏi, là: sẽ gây thương tổn, đem đến với điều tốt bên kia, là điều thấy rất rõ. Dĩ nhiên, cả hai điều tốt đẹp này đều tôn trọng sự thật về tình yêu; và về hôn nhân giữa hai người cùng theo Đạo Chúa, cũng đối ứng với gia đình và bạn bè/người thân của một hoặc cả hai người trong cuộc.

Những năm về trước, tôi cũng theo dõi đọc nhiều bài viết về vấn đề này. Tức là, một trong các vấn đề, thường kéo theo thái độ chống đối, không tham dự lễ cưới, ngoài nhà thờ. Hoặc đại để, là như thế. Điều tôi nói ở đây, không phải để chuẩn bị cho dư luận, ngõ hầu chấp nhận cho lập trường ấy. Hay là, để tôi giải thích như thế này, cho nó rõ.

Lâu nay, mọi người vẫn coi là ta cộng tác với sự dữ/ác thần, nếu ta có ý định tham dự nghi thức cưới/hỏi nào, không được Hội thánh công nhận. Hãy để qua một bên vấn đề xem người sắp sửa lập gia đình có thực sự coi hành động của mình là mắc tội hay không. Điều này hãy khoan nói tới. Có thể là, việc ấy chẳng mắc tội tình gì. Nhưng, khách quan mà nói, làm như thế cũng không được đúng cho lắm.

Theo thần học luân lý của Hội thánh, thì mọi người chúng ta không nên cộng tác vào các hành động mang tính lỗi phạm, của người khác. Thế nhưng, có nhiều trường hợp vốn dĩ khiến ta cũng có thể uyển chuyển, làm như thế. 

Trước hết, tất cả mọi người chúng ta không nên công khai hợp tác vào các hành động như thế. Nghĩa là, không nên thoả thuận và cũng chẳng được phép chấp nhận tạo cớ vấp phạm, gây nên tội. Đây có thể, là trường hợp của người nào đó, khi thấy không có gì là sai quấy nếu tham dự nghi thức cưới/hỏi, không hợp lệ.

Trường hợp nêu ở trên, bạn có nói là mình không thoả thuận/hài lòng với những gì con cái hiện đang làm. Xem như thế, việc bạn hợp tác với con, không mang tính công khai/chính thức, nhưng đúng hơn, nên gọi đó là việc xảy ra trên thực tế.

Thứ đến, trên thực tế, ta có thể hợp tác, chỉ khi nào có lý do chính đáng và thích hợp, để mà làm. Càng thích đáng hơn, như trường hợp thấy rõ là hợp tác theo vị thế ở xa xa, đối với người trong cuộc, thì khi đó, lý do mà người người cần xác chứng, lại càng mạnh hơn. Chẳng hạn như, với đám cưới ngoài đời, người chủ lễ, các phù rể và phù dâu danh dự là những người có quan hệ hợp tác rất gần, hoặc sát cạnh hơn bất cứ ai nào khác, chỉ đến với tư cách người tham dự, thôi. Không có sự hợp tác của người thân cận, tức những người gần gũi này, thì đám cưới chẳng thế nào tiến hành. Bởi, vị chủ trì nghi thức cưới hỏi và hai người làm chứng, đều là những người rất cần có mặt, ngõ hầu đám cưới ấy, mới hiệu lực.

Thông thường, chẳng ai có thể hợp tác với đám cưới này nọ đến mức độ thân cận, gần gũi hơn như thế. Còn người khác, chỉ đến với tư cách tham dự, chỉ có thể hợp lực/hợp tác, từ xa xa, mà thôi. Bởi lẽ, dù không có người tham dự theo tư cách ấy, thì đám cưới vẫn cứ tiến hành, như thường.

Và người tham dự theo tư cách “xa xa” chứ không thân cận, càng minh xác việc thân hành đến tham dự của mình, nếu họ có lý do tương tự, hoặc chính đáng hơn. Lý do, có thể là những nhận định/suy tính khi nghĩ rằng, nếu không đến dự tiệc được tổ chức như thế, sẽ có nguy cơ làm suy giảm mối tương quan với người trong cuộc, buổi hỏi/cưới.

Tuy nhiên, nhiều trường hợp, ta cũng không thể nào quyết đoán được như thế, một cách dễ dàng được. Bởi, đôi khi, chỉ sau khi quyết định không thể đến tham dự được, họ mới nhận ra rằng: hậu quả của việc mình không đến, đã tổn hại cho mối tương quan mật thiết giữa chính mình, với nhà đám. Nội một chuyện, không biết thế nào là phải/là đúng, cũng đem lại nhiều tranh luận và cãi vã đối với thắc mắc “không biết có nên tham dự những đám cưới/hỏi như thế”, không. Tranh và cãi, để khỏi phải quan ngại, sợ làm thương tổn cho mối tương quan vẫn có, đối với nhau.

Thành thử, nói thân cận/gần gũi là nói: việc tham dự đám cưới có liên quan hệ trọng thế nào với người thân quen, đang cưới/hỏi. Càng có lý do chính đáng, càng có lý để tham dự những buổi như thế, hơn nữa. Giả như người trong cuộc lại là bà con/thân thuộc của mình, thì khi ấy càng có lý để mà tham dự, hơn những người chỉ là họ hàng rất xa; hoặc, mới chỉ quen chỉ biết, có ít ngày.

Giả như, sau khi xem xét các tiêu chuẩn để đánh giá tình hình thực tế của buổi ấy, hễ ai nhất quyết tham dự đám cưới như thế, có thêm hai vấn đề, cần để ý. Thứ nhất, cần cho người trong cuộc tổ chức nghi thức cưới/hỏi kiểu đó, biết rõ là mình không đồng ý với chọn lựa mà đôi bạn đang thực hiện; nhưng, cũng giải thích rõ, rằng: mình muốn cho đôi bạn “trong cuộc” thay đổi ý kiến. Để rồi, sẽ tổ chức cưới/hỏi, ở nhà thờ.

Thứ đến, đôi bạn là “người trong cuộc” nhất định phải xa tránh, đừng làm cớ vấp phạm –điều mà người xưa hay gọi là “gương mù/gương xấu”- cho người khác, qua việc thân hành đến dự buổi nghi thức ấy. Làm như thế, cũng là để cho mọi  người khác (tức ngoại cuộc) biết rằng: mình rất bất đồng với chuyện tổ chức đám cưới/hỏi ngoài nhà thờ, như thế. Nhưng sở dĩ mình đến dự, là vì tự thấy bó buộc phải đến, ngõ hầu không luột mất đi; hoặc gây nguy hiểm, cho tương quan giữa mình với đôi bạn, trong cuộc.

Dù rằng như thế, thật vẫn khó để quyết đoán xem rằng: nên hay không nên dấn thân tham dự, buổi ấy. Nhiều trường hợp, người có liên hệ mật thiết với gia đình, cũng cảm thấy khác chính kiến, khác lập trường về cả vấn đề này nữa. Trong tình huống như thế, tốt hơn hết, hãy nên tìm đến mà hội ý các vị mục tử; yêu cầu được các vị giúp đỡ. Giúp, là giúp cho mình có quyết định nên làm thế nào, là hay nhất.

Ít ra cũng nên biết, rằng: đâu phải cứ tham dự nghi thức cưới/hỏi như thế, là đã phạm phải tội/lỗi tày đình, đâu.”

Gợi ý, cốt để phiếm như trên, bần đạo không có ý bảo: thế nào thì có tội, khi nào thì không. Bởi, tội hay không, có bao giờ lên được tới Chúa. Bởi, Ngài là Đấng, chẳng bao giờ vương vấn “tội” và lỗi”, của một ai. Ngài là Đấng tách bạch, sạch bụi trần. Chẳng có gì, làm Ngài phải bận tâm, dù là tội. Chỉ bận tâm, là khi dân con của Ngài, cứ tranh cãi và chấp nê. Tranh và cãi, để bảo nhau, làm gì thì nên tội? Làm gì, thì không. Chỉ nên để ý đến chuyện: mình có làm gì khiến tạo cớ vấp phạm, hoặc gây tổn hại đến tình thương/tương quan, mình vẫn có. Với nhau. Với Chúa.
Cứ như người nghệ sĩ làng thơ văn/âm nhạc, đã viết lên lời, như:

“Có lần tôi chót nói dối mẹ, Mẹ ơi
hôm sau tưởng phải ăn đòn.
Nhưng không, nhưng không Mẹ tôi chỉ buồn
Ôm tôi hôn lên mái tóc xanh rờn, Mẹ tôi trìu mến
Ngày xưa trước khi cha con nhắm mắt
Cha đã dặn rằng nuôi con suốt đời 
thành người chân thật.” 
 (Phạm Duy – Lời mẹ dặn)

Đặc biệt hơn, hãy nên về với nguồn mạch của những khuyên răn/dặn dò, từng nghe/biết:

“Khốn thay những tâm hồn hèn nhát, 
những bàn tay rã rời,
và người tội lỗi lập lờ nước đôi.”
(Hc 2: 12) 

Thật ra, vấn đề ở đây, không là “lập lờ nước đôi”, cho bằng: cứ sợ tội. Sợ những lỗi phạm. Sợ quá, đến nỗi quên mất mục tiêu của Lời Vàng Kinh Thánh, là dựng xây “tương quan Nước Trời” mình phải giữ. Chứ, không có ý khuyến khích thái độ quá “sợ tội”, đến độ chẳng dám sống. Hoặc, chẳng màng gì tình thương/tương quan của chúng ta.  
Sợ tội, là tâm trạng không chỉ của một số khá đông người nhà Đạo. Mà, còn là của nhiều người ngoài Đạo. Ở dân gian. Dân gian hôm nay, có những truyện kể, về nói dối. Về thái độ, không trung thực. Thật thà. Cũng chả, có gì là vô tư. Thoải mái. Như truyện kể, ở bên dưới:

“Ngày nọ, một tiều phu mải chặt cây đốn củi, bên sông, mang về cho vợ. Bỗng chốc, dao/rựa rơi xuống nước, ở giữa dòng. Anh khóc rất thảm, đến độ Thượng Đế phải hiện đến, để ủi an. Thượng Đế hỏi, điều gì làm anh sợ hãi đến thế. Phải chăng, là tội? Anh đáp trả, chẳng qua vì dao/rựa rơi tuột xuống nước, hết gạo cơm. Bỗng, anh thấy Thượng Đế nhảy ào xuống nước, đem lên cây dao/rựa bằng vàng.Rồi Ngài hỏi:
-Phải chăng dao này của con?
-Thưa, không phải.
Thượng Đế lại nhảy xuống nước một lần nữa, cầm dao/rựa bằng bạc lên hỏi:
-Có phải là con dao này?
-Dạ, không phải cây ấy.Lần thứ ba, Thượng Đế lao mình lần nữa, đem dao/rựa bằng sắt lên, rồi hỏi: 
-Ý hẳn là cây này?
-Dạ thưa, chính nó. Xin Ngài cho con nhận lại.
Thượng Đế thấy bụng dạ thật thà, của tiều phu đốn củi, rất xúc động. Bèn cho anh cả ba cây, liền lúc. Người tiều phu vui mừng, đem cả ba dao/rựa về nhà, mừng với vợ. Ít ngày sau, có dịp cùng vợ đi đốn củi ở bên sông. Gặp đường trơn trượt, vợ anh sơ ý tuột chân rơi tòm xuống nước.Anh tiều phu một lần lại nữa kêu van, than khóc. Những mong Thượng Đế lại thương tình, mà giúp đỡ.Thượng Đế hiện về, hỏi lý do của đau buồn lần này, thì ra mới biết người vợ hiền của tiều phu, nay mất tích. Trong nháy mắt, Thượng Đế cũng làm cử chỉ như hôm trước, lôi lên bờ người nữ phụ tuyệt vời mang dáng dấp Jennifer Lopez, một mỹ nhân. Thượng Đế hỏi:
-Phải chăng nữ phụ này, vợ của con?
-Dạ thưa Ngài rất đúng!
Thượng Đế thấy, lần này tiều phu ta hết thật thà, bèn nổi giận và quở trách:
-Sao anh dám lừa gạt, cả đến ta?
-Dạ, xin Ngài niệm tình tha thứ. Chẳng phải con gian dối hay lừa gạt Ngài. Nhưng, nếu con cứ nói không phải mãi, Ngài sẽ trao cho con cả ba thứ dao cùng rựa như thế, sức đâu con gánh được cả ba! ”    

Người kể hôm nay, đưa ra triết lý của câu truyện, không phải để nói lên lý lẽ “của dối gian”, cho bằng: ngay trong các lời ta viện lẽ, nhiều lúc ta cứ tưởng người người đều gian dối, nhưng không hoàn toàn là như thế. Người tiều phu đây, không có ý dối gian, hay phạm điều thiếu trung thực. Nên cứ ngại. Ngại rằng, nếu giữ sự thật đúng như luật lệ, sẽ chịu phải hậu quả, mất tương quan. Hoặc, có tương quan tình thân với nhiều đối tượng, cũng khó xử. Và, bỏ hết tương quan, dù có là người thân cận, gần gũi nhất.
Thành thử, triết lý của mọi việc, là: sự thể nào, cũng có đôi mặt. Vấn đề là, nên chọn phương diện nào, để vẫn giữ được tương quan mật thiết với người người. Chí ít, là người thân cận, gần gũi. Với Chúa. Với người. Không chỉ, những gì liên quan đến lề luật. Đến, từng nét chữ của lề luật. Như được dặn. Dặn, như bài “Lời mẹ dặn” có câu:

“Mẹ ơi chân thật là gì
Mẹ ơi chân thật là gì
Mẹ tôi ôm hôn đôi mắt
Con ơi! Một người chân thật
Thấy vui muốn cười, là cười
Thấy buồn muốn khóc, cứ khóc…
Yêu ai cứ bảo là yêu
Ghét ai cứ bảo là ghét.” 
 (Phạm Duy – Lời mẹ dặn)

Và lời cuối, người nghệ sĩ trong bài còn viết:

“Người làm xiếc đi dây rất khó
Nhưng không khó, 
bằng làm một nhà văn 
Muốn trọn đời đi mãi không ngừng
Trên con đường, của lòng chân thật.” 
 (Phạm Duy – Lời mẹ dặn)

Đường dài lòng chân thật, nghĩ cho cùng, xem ra cũng khó. Khó, khi quyết định. Khó, vào lúc ra tay. Vào những lúc khốn khó. Chỉ có Chúa, biết lòng dạ của mình. Và của người.
Trần Ngọc Mười Hai
Nhiều lúc cũng thấy khó.
Rất nhiều chuyện.                                           
.20. “Chiều Chúa nhật buồn” 
Nằm trên căn gác đìu hiu”
(Trịnh Công Sơn – Lời buồn thánh)

(Mc 1: 43)
Buồn là phải. Ai đâu, những buổi chiều vàng ngày của Chúa, mà cứ vò võ. Đìu hiu. Nằm dài, trên căn gác trọ, rồi thở than. Thật uổng phí. Mất thì giờ. Chẳng thế mà, nghệ sĩ lại vẫn hát:

“Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều,
Trời mưa, trời mưa không dứt,
Ô hay! Mình vẫn cô liêu!” 
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Xanh xao. Đìu hiu. Cô liêu. Là, chuyện dễ hiểu. Thực chất, thì sự thể vẫn là những tình tự hiển nhiên, miên triền một chủ bại. Chủ bại, là tình tự gắn liền với cuộc đời. Của những người, lâu nay đà mang “lời buồn thánh”, quyết áp đặt ngày của Chúa. 
Thật ra, thực chất của vấn đề, mà người người thường tự hỏi, là: hờn căm, giận dữ, với “nổi sùng”, có là “lời buồn thánh”, chốn dương gian? Nếu không gọi đó là thánh, thì tại sao Chúa cũng buồn, và biết giận? Chúa buồn giận? Hay, Ngài chỉ có những lời, như sau:

“Ngài nghiêm giọng 
đuổi anh đi, và bảo: 
“Coi chừng, đừng nói gì với ai, 
nhưng hãy đi trình diện với tư tế; 
vì anh đã lành sạch…”
(Mc 1: 43)

Nghiêm giọng, hoặc nổi “cơn giận lành” rồi đuổi đi, như khi Ngài vào đền thánh Giêrusalem thấy con dân vẫn cứ làm chuyện “không phải”. 
Các dịch giả và nhà chú giải Kinh thánh, thấy khó xử, khi giải thích thái độ của Chúa, lúc Ngài thấy chuyện “không phải”, do dân gian. Quở mắng? Phiền trách? Hoặc, dùng roi đuổi đám ô tạp, vì cứ mải miết làm điều “không phải”, kéo dài dài? 
Sự thường, thì: giận là trạng thái vẫn hay gặp, trong cuộc sống. Rất thông thường. Giận, là động thái quyết diễn lộ, hầu cho thấy: có cái gì đó không ổn xảy đến, ngoài ý muốn. Giận, có thể để giải bầy sự việc với người khác, không theo cung cách thường tình. Dễ thương. Giận, là một trong 7 thứ tình, luôn gắn liền vào với con người. Ta chỉ có thể kềm chế, chứ không tài nào dứt bỏ. Huỷ hoại. Mãi mãi. 
Trong sống đời đi Đạo, giận dữ luôn có mặt bằng nhiều hình thái. Có loại hình nhè nhẹ, chỉ một nét nhăn chạy dài trên khung trán. Một ánh mắt hung hăng, rất thoáng vụt. Hoặc, một cái nhún vai, hất hàm. Tỏ dấu bất bình. Cũng có thể, là động thái hung hăng, quăng quật. Bằng cử chỉ rất dữ tợn. Ngôn từ, thì chồng chất những chĩu nặng. Cử chỉ, thì như muốn ăn tươi nuốt sống, người bên kia. Có thể, là hành vi sử dụng ngoại vật, gây tác hại lên nhiều thứ. Chất chồng. Đậm đặc. Khó dừng.
Không thể gọi đó là: “cơn giận lành”, vịn cớ rằng Chúa là Đấng mặc lấy hình hài của người phàm, nên Ngài cũng biết giận, để ta có thể men theo mà hận. Và oán. Rất phẫn nộ. Mà, nên hiểu nghĩa giận chỉ mang tính lành và thánh, khi nó tuyệt nhiên không gây hại. Một ai. Làm như thế, chỉ để điều chỉnh sự việc dầu “không phải”, nhưng sao vẫn thấy làm. Một việc làm, khó điều chỉnh. Đổi thay. Khó, trong vị thế. Số hiệu. Cường độ.
Để minh hoạ, cơn giận lành và thánh, có lẽ cũng nên về với truyện kể nhè nhẹ, rất như sau:

“Trưa hôm ấy, hai ông cháu đưa nhau xuống phố xem thiên hạ đối xử với nhau thế nào, ở huyện đời. Huyện nhà Luân Đôn, chốn ồn ào, náo nhiệt. Rất dễ ưa. Đi ngang qua Viện Thứ Dân, cô cháu nhỏ bèn hỏi ông nội:
-Nơi đây, có phải là nơi mọi người trong đó cứ đùng đùng nổi giận, rồi cã vã, không thưa ông?
-Chẳng phải thế đâu, cháu ơi. Đây là chốn mà người lớn ta gọi là chính trường.
-Chính trường là gì vậy hả ông?
-Là… ừ, chỉ là nơi kiến tạo và phân phát những quyền hành.
Thế rồi, hai ông cháu chợt đi ngang một toà nhà, mà thiên hạ vẫn gọi là “ngân hàng”. Cô cháu liền hỏi:
-Ông ơi, kìa! Đây có phải là chỗ người ta vẫn thường làm cho mọi người vui không sao thấy ai cũng hả hê, như thế?
-Đây là nơi người ta đang làm kinh tế đó, cháu!
-Làm kinh tế là làm cái gì, hả ông?
-Là, kiến tạo và phân phát sự giàu sang/phú quý, đó cháu.
Rồi, hai ông cháu lại tiếp tục đi. Cứ đi và đi mãi, gặp một nhà thờ, cô cháu bèn hỏi:
-Còn đây nữa, thế ông bảo đây là cái gì hà?  
-Nhà thờ, đó cháu.
-Nhà thờ, là cái gì? Ở đây, người ta có nổi sùng, rồi cãi nhau không?
-Không đâu. Đây là nơi thờ phượng, mà.
-Thờ phượng là cái gì thế, ông? Nó có kiến tạo và phân phát gì không?
Ông nội nghe cô cháu hỏi câu hơi lạ, nhưng cũng đáp trả đôi ba tiếng, cho xong chuyện:
-Chỗ này đâu dính gì đến quyền hành và giàu sang/phú quý đâu mà giận hờn, cãi vã!

À thì ra, chỉ chỗ nào dính dấp chuyện quyền hành và giàu sang/phú quý, người ta mới cãi vã, nổi giận. Cũng là câu đối đáp. Rất hay. Nên suy tư, nghiền ngẫm. Bởi, chừng như suốt nhiều thế kỷ, người người vẫn cứ đối đầu. Rồi lại, tranh giành quyền hành và giàu sang/phú quý, nên mới xảy chuyện giận hờn, cãi vã. Phùng mang, trợn má. Chính trị và kinh tế. Nhà nước với thị trường. Giàu sang đa mang quyền thế, vẫn là chuyện gây tranh giành cãi cọ, một chuyện thường. Nhà nước chính là ta, qua tư cách một tập thể. Có khả năng chế ngự. Quản trị. Nhiều phù phép. Thị trường hay kinh tế, cũng do ta, qua tư thế của nhiều chủ thể. Những vị chủ.   
  Ở chính trị - kinh tế, người đời cứ cãi vã - giận hờn hằng thế kỷ. Đó là chuyện đã đành. Hiểu được. Bởi, hễ dính dấp chuyện giàu sang, lan man quyền thế, thì người đời thường không nhả bỏ. Nhưng, chuyện nhà thờ/nhà thánh, sao vẫn thấy hờn căm, ngăm đe chuyện tranh chấp. Chấp nhận sao? 
   
Giận hờn và tranh chấp, xảy đến với kinh tế - chính trị, còn hiểu được. Là vì, người đời không thể san sẻ giàu sang - quyền lực cho nhau, với nhau được. Nhưng, với niềm tin và phụng thờ ở nhà Đạo, là địa hạt ta có thể và vẫn phải sẻ san, trao cho nhau. Sẻ và san, không chỉ tiền bạc/tài sản hoặc quyền hạn mà thôi, nhưng san và sẻ cả lòng thương, tình  bạn lẫn kiến thức, ảnh hưởng, về mọi thứ. Mới phải chứ?
Quả thật, lòng thương, tình bạn, kiến thức cùng tầm ảnh hưởng, đều là những thứ mà mọi người đều có thể và cũng nên sẻ san. Là thứ, ta vẫn gọi là “thiết yếu”. Bởi, càng san sẻ, ta càng “có“ nhiều, và “có” thêm. Nói cách khác, quyền hành và giàu sang, là thứ trò chơi không tạo nên thực chất, cho một ai. Bởi, nơi trò chơi này, luôn luôn có một người thắng, một người thua. Nếu bạn thắng, tôi sẽ thua. Nếu bạn thua, tôi sẽ thắng. Còn, ở “san sẻ”, lại không như thế. Khi ta sẻ san, cả hai bên đều thắng lớn. Chẳng bao giờ có người thua. Không có bên thua. Chính trị - kinh tế, là đấu trường. Là, địa hạt của tranh đấu, với ganh đua. Giành giựt. Còn sẻ san, là địa hạt của hợp tác. Nâng niu. Đùm bọc.
Có lẽ, vì không nắm được ý nghĩa của thư giãn với sẻ san, nên người nghệ sĩ lại những than cùng thở:

“Chiều Chúa nhật buồn 
Nằm trong căn gác đìu hiu 
Tôi xin em năm ngón tay thiên thần 
Trong vùng ăn năn, qua cơn hờn dỗi 
Tôi xin năm ngón tay em đi vào cô đơn.” 
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Chính vì, cứ đìu hiu - ăn năn - hờn dỗi, nên người người mới cô đơn. Muộn phiền. Buồn thánh. Trong khi đó, thánh nhân nhà Đạo vốn quyết tâm sẻ san. Thương yêu. Đùm bọc, nên đã nhắc:

“Chớ gì giữa anh em 
đừng có chia rẽ, ghen tương, oán ghét, 
cạnh tranh, vu khống, 
nói hành, kiêu căng, hỗn loạn.”
(2Cr 12: 20)
 
Sở dĩ, người nhà Đạo cứ vui. Cứ thương yêu - đùm bọc - sẻ san, là bởi người nhà Đạo vẫn biết và vẫn nhớ lời dặn của thánh nhân:

“Anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, 
hiền từ và nhẫn nại; 
hãy lấy tình bác ái 
mà chịu đựng lẫn nhau.” 
  (Êp 4: 2)     

Và người nhà Đạo, còn hiểu rằng: ở hiện trường kinh tế - chính trị, mọi người chỉ biết có đấu tranh, giành giựt, quyết chiến đấu, một mất một còn. Chính đó là ý nghĩa của cạnh tranh. Thi đấu. Với ganh đua. Ở nhà Đạo, là chốn mọi người vẫn chỉ muốn có hợp tác. Sẻ san. Giao ước. Do đâu có những đặc tính ấy? Chắc chắn, những thứ đó ta không tìm gặp được ở chính trường, lẫn thị trường. Mà chỉ có thể, ở hôn nhân. Gia đình. Dòng tu. Hội ái hữu. Cộng đoàn tình thương, thôi.
Khác biệt, là ở chỗ: chính trường và thương trường chỉ thấy từng cá nhân, từng chủ thể o ép lẫn nhau, quyết giành lấy cho chính mình, của ngon vật lạ, mà hưởng thụ. Còn, ở cộng đoàn tình thương, các thành viên trong đó chỉ biết kính trọng lẫn nhau. Tin tưởng và yêu thương. Chăm lo – san sẻ những gì mình có người còn thua kém, thiếu thốn hơn mình. 
Ở chính trường và thương trường, người người chỉ thấy có giao dịch, và kình địch. Còn, ở cộng đoàn, vẫn luôn là tương quan, và sẻ san. Chia sẻ những gì mình có. San sớt, những gì mình không thấy rất cần. Người nhà Đạo, không chỉ biết có thu thập. No say, những lợi nhuận. Có khi còn sớt chia cuộc sống, bằng những lời thề sống chết với nhau. Bên nhau. Và có nhau. Và mỗi khi làm vị gì lành và thánh, đều vẫn quyết không làm cho riêng mình. Chỉ một mình mình. Mà, là tất cả. 
Đó chính là ý nghĩa của cuộc sống có tương quan. Mà, tương quan là sự hài hoà. Bình an. Vô vị lợi. Chính vì thế, người nhà Đạo công chính và đích thực, phải là người luôn vui sống. Hiền từ. Chỉ chú trọng đến những tình tự tích cực trong 7 thứ tình. Chứ không phải chỉ biết có tranh, và giành. Giành ăn. Giành sống. Giành quyền.

Chính vì thế, khi có tương quan với Chúa, với Hội (của các) thánh, người nhà Đạo không cầu “xin”, mà chỉ cầu nguyện. Cầu và nguyện, không cho mình. Nhưng cho người. Cho mỗi người. Và mọi người. Như lời cầu của ai đó, ở bên dưới. Như một truyện kể của dân con nhà Đạo, vẫn nguyện cầu cùng Chúa, như sau:

“Con cầu Chúa,
phù hộ thương ban cho người thân cùng bạn hữu của con,mãi được khoẻ mạnh và hạnh phúc.”
Chúa nói:
-Nếu Ta chỉ cho họ có 4 ngày thôi.
Người đệ tử lại nguyện cầu:
-Thế thì, Chúa cho họ được khoẻ mạnh và hạnh phúc trong những ngày của mùa xuân, mùa hè, mùa thu và mùa đông.
Chúa lại nói:
-Nếu Ta chỉ cho 3 ngày thôi.
Người đệ tử lại nguyện và ước:
-Nếu chỉ được có 3 ngày, thì Chúa cứ cho họ được khoẻ mạnh và hạnh phúc ngày hôm qua, hôm nay và ngày mai.
Đức Chúa lại nói:
-Vậy là, Ta chỉ cho 1 ngày thôi.
Người đệ tử bèn thưa:
-Dạ, như thế cũng được!
Chúa mới hỏi:
-Vậy, con muốn ngày đó là ngày nào?
-Người đệ tử mau mắn đáp:
-Chúa cứ cho họ được khoẻ mạnh và hạnh phúc, mỗi một ngày.
Chúa cười, và nói:
-Như thế là tốt. Bạn bè – người thân của con gồm cả những người nghe biết thông điệp này, sẽ được khoẻ mạnh và hạnh phúc, hết mọi ngày.

Thế đó, là truyện kể. Thế đó, chỉ để minh hoạ. Chứ, có Chúa nào mặc cả, và ra giá, như thế. Như ở chính trường, với thương trường. Bởi, cả chính trường lẫn thương trường, hoặc nhà trường-trường nhà, nơi nhà Đạo, tất cả chỉ là hiện trường của những khoẻ mạnh và hạnh phúc. Hết mọi ngày. Toàn cuộc sống. Mọi ngày đều là ngày của Chúa. Mỗi một ngày, đều không có cái-gọi-là “lời buồn thánh”. Mà chỉ là “một ngày như mọi ngày”, những ngày có Chúa. Có bạn. Và có tôi. Ta cứ thế mà sống vui. Sống mạnh. Sống vững chãi trong tình thương. Của mọi người.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn quan niệm 
đời là như thế,
      vẫn vui tươi.





 
21. “Nhớ tới năm xưa bên nhau” 
bước trong chiều mưa phím ru nhẹ đưa
Bến cũ đam mê say sưa
lá thu còn rơi người xa vắng người.”
(Ngô Thuỵ Miên – Mắt biếc)

(Xh 32: 19)
Nhớ chuyện xưa, bần đạo nào đâu nhớ “chiều mưa 
trên  phím  ru, nhẹ đưa”, hoặc “bến cũ đam mê say sưa”. Đành chịu. Chuyện mà bần đạo nhớ nhất, là câu nói của các cụ. Khi xưa. Thường vẫn bảo. Các cụ nói: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn!” 
Vào đầu niên biểu hai nghìn lẻ chín, bần đạo cũng 
đã đi xa, nhiều ngày đàng. Dù, chưa học được sàng khôn nào cả. Nhưng,  bần đạo cũng ghi tạc, một nỗi nhớ. Nhớ, không gian vắng lặng, nhiều sỏi đá. Nhớ, cả thời gian có khung trời kỷ niệm. Có mắt biếc. Mưa tuôn. Thời gian, ghi khắc chuỗi không gian dài, đầy nhung nhớ. Nhớ là: ngày xa xưa hôm ấy có đấng bậc tiên tổ Môsê, nơi đây từng hiện diện. Hiện diện miền xưa, sa mạc/sỏi đá, ngài uất hận. Hiện diện thời xa xưa, có kinh nghiệm 40 năm lưu đày, ngài giận dữ. 
Nhớ năm xưa, là nhớ cung cách của đấng bậc tiên
tổ, tuy rất  hiền những vẫn giận. Giận nhất, là khi dân con nhà Do Thái dám từ bỏ Giavê Thiên Chúa, để đúc bò vàng mà thờ lạy, như sử sách rày ghi chép: 

“Khi đến gần trại, 
ông thấy con bê 
và những bọn người đang nhảy múa. 
Ông Mô-sê nổi cơn thịnh nộ: 
Ông ném các tấm bia đang cầm trong tay 
và đập vỡ dưới chân núi.” 
(Xh 32: 19) 

Nhớ tới năm xưa, là nhớ cả những ca từ mà người
nghệ sĩ lâu  nay  vẫn cứ hát: 

“Dĩ vãng như bao cung tơ 
lướt theo chiều mơ, kết muôn bài thơ. 
nuối tiếc yêu đương xa xưa, 
Tháng năm nào trôi để nhớ nhung người.” 
(Ngô Thuỵ Miên – bđd) 

Nhớ chuyện xưa, ta không chỉ nhớ có “một sàng 
khôn” em học  được. Như là, nhớ đến cả những việc lỉnh kỉnh xảy ra ở “miệt dưới”, bấy hôm nay. Chuyện xảy đến, ở đất miền tận cùng, có chuyện dài kể lể để mà nhớ. Chuyện lỉnh kỉnh. Hỏi han. Ở xứ miền triền miên câu hỏi/đáp. Hỏi rằng:

 “Tuy vẫn biết, giận hờn/ghét ghen, là một trong bẩy mối tội đầu, gây khó khăn. Nhưng, nại cớ sao đây, khi ta thấy Đức Giêsu cũng nổi giận, ở Đền Thờ, khi Ngài gặp bọn người mua bán/đổi chác tiền bạc, ra mặt. Ngài là Chúa, Đấng chẳng thể nào sơ hở/phạm lỗi, thế mà sao Ngài vẫn tức giận? Xin linh mục giải thích cho thấu đáo về giận dữ.” 

Đã hỏi, là có đáp. Đáp trả hay đáp ứng, cũng cứ xin chuyển đến đấng bậc vị vọng, ở Sydney. Và đáp giải hôm nay, là lời vàng. Tách bạch. Mạch lạc. Như bao giờ: 

“Câu bạn hỏi, là một trong những thắc mắc khá rắc rối và khó hiểu, người thường gặp. Bởi thế nên, đây cũng là dịp để ta có một cái nhìn thông thoáng. Cho đúng. Về vấn đề này. Ngõ hầu lương tâm bớt áy náy. Bớt cắn rứt.
Vấn đề chỉ nảy ra, khi ta không có thói quen tách bạch chuyện giận hờn, coi đó như một cảm xúc. Say sưa. Mê mệt. Đó là nói theo ngôn từ của thời trước. Thời, mà mọi người vẫn coi hờn giận như hành vi có ý chí. Quyết tâm. 
Thông thường, thì cảm xúc hoặc say mê, đôi khi còn gọi là tình tự, đáp ứng tự nhiên đối với tình huống, rất khác biệt. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo định nghĩa các tình tự mê say ấy là những “cảm tính/xúc động, một khao khát bén nhạy, thôi thúc ta có những hành vi tuy không ra tay hành động gì cả, mà chỉ nói những gì mình có cảm giác/nhận thấy điều ấy là tốt/là đẹp, hoặc rất xấu.(GLHTCG#1763)
Thành thử, đối đầu với những điều tốt đẹp, ta sẽ có kinh nghiệm cảm xúc yêu thương, thèm khát, hy vọng, vui mừng, vv. Còn, với những gì xấu xa/quỷ quái, ta sẽ có tình tự ghét bỏ. Giận hờn. Hãi sợ hoặc tránh xa, bực bội, vv. 
Tự thân, đam mê chẳng là điều tốt. Cũng không là điều xấu, cần tránh xa. Việc này, đơn thuần là thành phần của tâm lý con người, mà Thiên Chúa ban cho ta. Cũng là chuyện tự nhiên, khi ta sống yêu thương/vui mừng trước những gì là tốt, là đẹp. Cũng là chuyện tự nhiên, nếu như ta phải trải qua những giai đoạn sống rất hãi sợ hoặc giận dữ trước điều xấu xa. Tồi tệ. 
Lấy ví dụ, nếu ta chẳng lo lắng gì chuyện hiểm nguy, cứ xông pha trận địa, đối ứng với chuyện lạ, thì chưa chắc ta đã sống dai. Sống an toàn! Còn, nếu ta chẳng hề phản kháng hoặc nổi giận khi thấy có ai đó hành động dã man/tàn bạo chuyên đánh đập trẻ thơ vô tội, khi đó ta sẽ không còn là người, có tính nhân hiền. Dễ chịu. 
Các cảm xúc nói ở trên, chẳng nên đề cao, tán thưởng, tương tự trường hợp có cảm xúc tích cực, như: yêu thương. Hy vọng. Vui mừng. Nhưng, cũng chẳng phạm tệ gì, khi đó lại là những tình tự tiêu cực, như: giận dữ. Hãi sợ. Buồn bực. Tất cả, chỉ là phản ứng tự nhiên trước tình huống “chẳng đặng đừng”, thôi. 
Chỉ vào khi ta thuận theo cảm tính nhất quyết hành động có khuôn thức, khiến cho hành vi ấy trở thành một việc đáng khích lệ hoặc tồi tệ ấy, mới thành chuyện. Nói theo ngôn từ của Giáo Lý Hội Thánh, thì: ”Cảm xúc mạnh như say mê/giận dữ, tự nó, không là điều tốt/xấu. Theo luân lý/đạo đức, cảm xúc mạnh như say sưa/ mê mệt, chỉ được đề cao/tuyên dương khi nó kéo theo hành động có ý chí và quyết tâm, mà thôi.” (GLHTCG #1767)

Một lần nữa, nếu sử dụng ngôn từ của nghệ sĩ ngoài Đạo, người người sẽ hát tiếp: 
“Tình yêu như mây khói 
thoảng theo gió buồn, mơ hồ. 
Tình yêu như giông tố, qua phố đìu hiu. 
Nhớ dáng xưa, yêu kiều 
Trong chiều chợt nắng, cung đàn gợi ý 
Chờ nhau, trong tê tái…” 
 (Ngô Thuỵ Miên – bđd) 

Cung đàn gợi ý. Say như mây khói. Buồn mơ hồ.Nhất nhất, đều là những cảm xúc tự nhiên. Không xấu. Chẳng tốt. Tốt/xấu chăng, là khi đấng bậc vị vọng, có nhận định xác đáng, như sau: 

“Nhiều trường hợp, tuy ta có cảm xúc giận hờn, hung dữ, nhưng vẫn có thể biện minh được. Tỉ như, khi cha mẹ bực tức/nóng giận. với các con. Vì, chúng chẳng chịu nghe lời dạy dỗ, của bậc trên. Thầy cô, cũng có lúc nổi nóng với học trò cá biệt không tùng phục. Chủ nhân ông, đôi lúc vẫn tỏ ra ấm ức, hậm hực khi thấy công nhân do mình bỏ tiền ra thuê mướn, lại chẳng chịu làm việc, cứ ngồi chơi. Lại còn đòi hỏi nhiều quyền lợi, không chính đáng. Bực tức/nóng giận như thế, chẳng có gì là xấu, hết. 
Phản ứng trước những cảm giác nóng nảy, nhiều người có những thái độ rất khác biệt. Phản ứng đó, có thể là một hành động do tự ý, hoặc xuất phát từ ý chí, khiến mình xử sự như thế. Dù đó có là hành xử, đáng khen thưởng hay là lỗi lầm, không phải phép.
Tỉ như ai đó, có thể tỏ ra giận dữ theo cách có kềm hãm, chế ngự. So với những điều xấu mình làm, thật ra cũng chẳng là gì. Thêm nữa, hành động giận dữ/tức bực có khi do tính bác ái tạo xúc tác đưa đẩy mình làm thế, không cưỡng được. Có trường hợp, cử chỉ bực tức nóng giận, lại nhằm mục đích tốt, cũng nên. 
Nhiều lúc, bậc phụ huynh nóng nảy, tỏ bày tinh thần tôn trọng kỷ cương đối với con cái, khi con mình nổi chướng, bất phục tòng. Thầy cô ở trường, cũng có lúc xử sự như thế với học trò cá biệt. Ngỗ nghịch. Miễn là, các vị xử như thế theo cung cách kềm hãm, chế ngự. Vẫn là việc phải lẽ, đáng đề cao. 
Việc Đức Giêsu nổi nóng với giới chức đổi tiền ở Đền Thờ, là một trong các trường hợp nói trên. Việc Chúa làm, hoàn toàn chính đáng. Chúa tỏ ra giận dữ, nhưng Ngài rất kềm chế. Việc Ngài làm, là do tình yêu thương với nhà của Cha, dù có người coi đó là việc quá tay. Chẳng nên.
Đổi lại, nhiều vị mất tự chủ, có lúc hung hăng, mạnh bạo quá đáng. Có khi còn lạm dụng, nữa. Trường hợp này, dù họ có biện minh cho cơn giận của họ cách nào đi nữa, cũng không thể minh xác được cung cách tỏ cơn giận và dữ, như thế. Giận như thế, là giận căm/hờn dỗi. Rất lỗi phạm. Thiếu cân nhắc. Thiếu tự chủ.
Tưởng, mọi người chúng ta cũng nên tập cho có thói quen ăn hiền ở lành, dễ dãi; ngõ hầu chế ngự được tính nóng, dễ nổi giận. Biết thuận theo lý trí mà cân nhắc từng trường hợp, ngõ hầu tránh bỏ tính bẳn gắt, dễ nổi giận. Cũng nên cầu Chúa gia tăng cho mình tính khí nhẹ nhàng. Hiền hoà. Hầu có phương cách tự kềm chế cơn tức bực, mỗi khi cần. 
Hiểu như thế, sẽ khiến cho lương tâm ta nên trong sáng. Không vướng bận thắc mắc/nghi ngờ gì. Dù, cơn tức giận ấythuộc loại nào đi nữa. Chẳng hạn, khi xưng thú lỗi lầm với cha giải tội, ta chẳng cần kê xưng các lỗi lầm, khi tức bực. Bởi, tự thân, bực tức/nóng giận không là lỗi phạm, để xưng thú. Và, cũng chẳng cần xưng thú những trạng huống mình cảm thấy nóng nảy/bực tức trong lúc hoạt động bác ái/thiện nguyện mà lại gặp chuyện bất ưng, cưỡng chế.
Chỉ nên xưng thú, lỗi lầm nóng giận quá mức độ, không xứng với tình huống khi xảy nên chuyện, hoặc gây tác hại lên người khác. Nhất là, những nóng giận bộc phát, không do lòng yêu thương, dạy dỗ người mình thương. (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly, 29/06/2009 tr. 10)

Cuối cùng ra, ta cũng nên trở về với tình huống thi ca/âm nhạc có những giờ phút khiến lòng mình trùng xuống, với cơn say. Say nóng. Chóng hờn. Mê say và ngâm nga câu hát có những ca từ/lời lẽ nên thơ. Mơ màng. Nhẹ nhàng, như câu nhạc ở dưới: 
“Thuở ấy, tôi như con chim lạc đàn 
Xoải cánh cô đơn, bay trong chiều vàng 
Và ước mơ sao, trời đừng bão tố 
Để yêu thương, càng nhiều gắn bó 
Tháng ngày là men say nguồn thơ.” 
(Trần Trịnh – Lệ Đá) 

Mơ, là mơ cho trời đừng nổi cơn bão tố. Mơ, là mơ 
cho lòng mình đừng gắn bó, với bão lòng. Để rồi, mọi chuyện sẽ nhè nhẹ. Êm êm. Như truyện kể dưới đây, để minh hoạ: 

“Vào buổi hội thảo hôm ấy, giảng nghiệm viên cầm ly nước lạnh trên tay, rồi hỏi: 
-Các bạn có thể cho biết ly nước này nặng nhẹ ra sao, không?
Học viên thay nhau trả lời, người nói nặng chừng 200 gram, kẻ bảo 500. 
Thày nói tiếp: 
-Nặng nhẹ là bao, đâu nào quan trọng. Quan trọng, là khi các bạn chịu đựng sức nặng ấy được bao lâu, thôi. Nhất là, cân lường/sức nặng của những khó khăn. Chịu đựng, những bực tức. Này nhé, rất đơn giản. Để kềm chế cơn nóng nảy/bực tức, cũng tựa như bạn chịu đựng sức nặng khi cầm ly nước này, chừng một ít phút. Cũng sẽ là điều, nếu ta cứ phải ngăn chặn/kềm chế nó đến cả tiếng đồng hồ. Cầm như thế, ắt tay mình sẽ mỏi. Sẽ cứng. Ráng chịu như thế suốt cả ngày, sẽ khó hơn. Có lẽ, bạn sẽ phải gọi xe cứu thương, cũng không chừng. Cũng thế, nâng nhấc hoặc cầm nắm/chịu đựng sức nặng của những khó chịu hoặc bất ưng, có khi còn tuỳ vào thời gian, và hoàn cảnh. Tuỳ thuộc tình hình diễn tiến vào lúc ấy, mà thôi. Và, đó là lý do để ta cân nhắc và định liệu, những bực tức. Khó chịu. Nếu cứ phải chịu mãi cái cảnh đem lại nhiều bực tức, khó chịu, ngày này qua ngày khác, thì những việc như thế thật khó lòng mà giải quyết. Nó cứ thế, trở nên nặng nề. Khó thở. Chẳng hề lui. 
Cơn bực tức/nóng giận sẽ nặng nhẹ trong phút chốc như chịu đựng sức nặng của ly nước này, thì các bạn có thể kềm hãm cơn bực bội đó bằng cách, để lòng trùng xuống một lúc, cho lắng đọng. Sau đó, ta lại tiếp tục chịu đựng thêm. Chắc chắn, khi ấy ta sẽ thấy khác hẳn. Khác là bởi, khi đã thong thả, thư giãn, ta lại có thể chịu đựng, nâng ly nước thêm một chốc nữa, cũng đâu có sao. 
Thành thử, chiều nay khi về nhà, các bạn cứ thử đối đầu với những bất ưng hoặc khó chịu xảy đến với mình. Bất kể nặng nhẹ, hãy từ từ mà kềm chế. Để cho lắng xuống, tất cả mọi tồn đọng. Cả những bức bách. Giận dữ. Hờn căm. Có như thế, mọi việc mới nên tốt đẹp, ngay sau đó. 

Lời thày dạy, chỉ có thế. Không dài. Chẳng cường 
điệu. Nhiêu khê. Khô cứng. Nhưng, chí lý. Ý nhị. Vị tha. Làm vì tha nhân. Cho tha nhân, như lời bàn được ghi tiếp ở bên dưới: 

*Trong cuộc sống thường nhật, có những ngày bạn sẽ thấy mình hiền lành như bồ câu. Chim ngói. Lại có những tháng, mình gặp toàn chuyện bực bõ, dễ gây gổ. 
*Hãy cố lựa lời êm êm/nhè nhẹ, mà hứa hẹn. Bởi, sẽ có lúc mình nuốt lời. Dễ như chơi. 
*Nếu bạn cứ chầm chậm trong xử thế, và lựa lời mà kềm chế. Cơn bực tức sẽ qua mau. 
*Đời người, sẽ có lúc mình những muốn đối xử tử tế với mọi người, thì đây chính là cơ hội tốt. 
*Nên nhớ, đừng xía vào chuyện mình, chuyện người, vì điều ấy dễ khiến mình nổi giận. 
*Hãy tổ chức tiệc sinh nhật cho thật nhiều. Đó, là điều tốt. Càng tổ chức nhiều, càng thấy vui. 
*Ta học được nhiều điều, ở bút chì. Có bút rất nhọn/sắc, có bút cùn/lụt. Có cái, có tên thật đẹp. Có cái, tên tuổi chẳng giống ai. Nhưng, chúng vẫn phải chịu cảnh nằm cạnh nhau chung một hộp. Dù bất ưng. Khó chịu. 
*Hạnh phúc, là biết sống vui, sống khoẻ. Chấp nhận mọi cảnh, dù cảnh trí ấy dễ gây bực tức. Nóng giận. Hờn căm. Không ai thích. 

Lời cuối cho bạn, và cho tôi, là câu hát của người nghệ sĩ hôm trưóc, cứ ca rằng: 

“Hãy vui lên bạn ơi! 
Ngày mai lắm khi không còn gì để cười 
Tương lai biết đâu chỉ là thương nhớ thôi 
Dù sao hãy cười bạn ơi! 
(Lê Hựu Hà – Hãy vui lên bạn ơi!) 

Nếu nghệ sĩ ấy hôm nay vẫn còn sống, hẳn bạn và tôi, ta sẽ đề nghị đổi lời ca, thành: 

“Hãy vui lên bạn ơi, 
Ngày mai lắm khi không còn gì để …nổi nóng! 

Bởi, có nổi nóng hay hờn căm, giận dỗi cũng chẳng để làm gì. Chẳng làm được gì. Được chăng, chỉ là đổ vỡ. Cách chia. Buồn bực. Buồn và bực, như cuộc sống của quỷ ma. Sống đấy. Nhưng, là sống như chết. Vẫn cử động đấy. Nhưng, là những động tác không mang tính yêu thương. Êm ái. Tình người. 

Trần Ngọc Mười Hai 
Vẫn thừa biết 
khó mà nguôi cơn giận, 
nên vẫn cố.
              






22. “Nếu có điều gì vĩnh cửu được”
thì em ơi, đó là tình yêu của chúng ta.”
(Từ Công Phụng – Mãi mãi bên em)

(Mt 10: 28)
Phải nói thật, ngay đây rằng: bần đạo không rõ và cũng chẳng tỏ chút nào về thân phận người nghệ sĩ họ Từ tên Phụng, dẫn ở trên. Nhưng, giòng chảy những thơ và nhạc, cùng ca từ do anh viết, sao nó gần gũi với tư tưởng nhà Đạo mình, đến như thế. Này nhé, là người thường ở huyện, nào đã mấy ai bận tâm đến những là: “vĩnh cửu”, “cửa hồn em”, “tận cuộc đời”, “giữ mãi lời nguyền”, vv và vv.
Trong khi đó, có Kitô hữu người Úc nọ là Eric Geoffreys, cứ lập đi lập lại với bần đạo, thoạt khi thăm viếng các đền đài, ở Giêrusalem, mãi một câu: “lại một ABC nữa, mấy mùa ABC rồi…” Cụm từ “ABC” mà anh tóm gọn, gồm toàn những chữ rất nghe quen, như: “another bloody church”, mà nếu dịch cho sâu/cho sát, có lẽ bạn và tôi, rồi sẽ bảo: “lại một đền đài chết tiệt nữa, cứ mà xem!
Thế đấy, ngôn từ của một con dân nhà Đạo. Thôi thì, cũng nên quên đi chuyện dịch và thuật, trong chốc lát. Để rồi, tôi mời bạn, ta đặt chân thăm viếng chốn “hồn thơ” của tác giả. Ở ngoài Đạo:

“Nếu, có điều gì vĩnh cửu được,
thì em ơi, đó là tình yêu chúng ta.
Rồi mai đây, anh sẽ đón em về,
Mở cửa hồn em vào đó, rong chơi.” 
(Từ Công Phụng – bđd)

Quả có thế. Rong chơi miền “vĩnh cửu”, đâu là ý tưởng của riêng nhà Đạo mình. Hay ai đó. Cũng chỉ là ngôn từ, mà nhà thơ/người viết nhạc họ Từ đã “mơ màng”, nhiều ý tứ:
“Bờ môi ngoan, hương tóc rũ vai mềm
từng ngày dài, hồn anh mãi tương tư…” 
(Từ Công Phụng – bđd)

Thôi thì thôi nhé, cũng ngần ấy thôi. Thôi, này tôi và bạn, ta cứ tìm hiểu đôi điều về Đạo, xem có gì mà bạn đạo người Úc nọ cứ gọi đó là “đền đài chết tiệt”, đến là thế. Đạo mình, là Đạo nắm vững chân lý rõ như ban ngày. Chân và lý, cả sự chết lẫn sự sống. Cả những nỗi buồn lẫn niềm vui sống. Niềm vui đi Đạo. Trong Đạo. Và, vui đời hành Đạo, như truyện kể, thật lễ mễ. Ở dưới đây:

“Chuyến bay nọ, người phụ nữ trẻ vừa hành trình chung một chuyến với cố đạo vị vọng kia, vẻ bề ngoài tuy không còn trẻ nữa, nhưng tâm hồn lại trẻ hết chỗ chê. Biết rõ rằng: bậc vị vọng/cha cố chỉ làm việc lòng lành phước đức, chẳng từ một ai. Và, câu chuyện trao đổi giữa một già và một trẻ, đã như sau:
-Thưa cha, con là người có Đạo. Hôm nay gặp cha, con mừng quá. Nếu có thể được, xin cha giúp con một tay, có được không thưa cha?
-Được quá đi chứ. Nhưng, đừng bắt cha làm điều gì trái giới răn của Chúa Trời, nhé con.
-Không đâu, thưa cha. Số là, chuyến này, con mua được cái máy xấy tóc rất tối tân, để làm quà sinh nhật thứ 60, cho bà mẹ. Máy này, còn “dzin” chưa xài. Khổ một nỗi, nó lại vượt quá qui định, của hải quan. Nên con sợ. Sợ rằng, hải quan ở đây họ sẽ làm khó rồi tịch thu, e rằng mẹ con sẽ không có đồ xài, ngày lễ lớn. Vậy, có thể nào cha cầm giùm con món đồ nhỏ ấy, miễn sao che mắt thế gian, là được, phải không cha? Con nghĩ, cha cứ để nó ở phía dưới kia, bên trong chiếc áo chùng mầu đen đen, sẽ chả có ma nào dám rớ vào khu vực “cấm địa” ấy đâu mà cha sợ!
-Tôi cũng chẳng ngại gì chuyện giúp đỡ. Nhưng, xin báo trước đừng bắt tôi nói dối đấy.
-Không đâu, cha. Cứ nhìn khuôn mặt hiền từ của cha, ma nào dám nghi ngờ điều gì xấu.
Cả hai người, một già/một trẻ đi ngang qua khu vực kiểm soát, người nữ phụ trẻ bèn nhường chỗ cho cha già bước lên trước, để kiểm soát. Viên chức hải quan thấy vậy, hỏi:
-Thưa linh mục. Hôm nay linh mục có đeo mang thứ gì cần khai báo không?
-Thú thật là: từ đầu đến thắt lưng, giống mọi người, tôi chẳng có gì để khai báo, hết.
-Lạ nhỉ. Thế thì, từ thắt lưng xuống chân trần, ngài có đeo mang thứ gì khả nghi không?
-Có đấy, anh ạ. Chỉ là món quà tuyệt vời dành cho nữ giới. Cốt tạo niềm vui, thế thôi. Có điều là, mãi đến hôm nay, cái đó vẫn chưa có ai xài thử, dù một lần.
-Thôi đi cha. Cha cứ tự nhiên tiến về phía trước, mà đi cho…

Tiến về phía trước mà đi cho, không chỉ là khẩu lệnh của chàng hải quan có chức, có quyền, đà quyết định. Rất nhiều khi, ta cũng vẫn đi; nhưng chẳng bao giờ tiến về phía trước. Cứ như người “dậm chân tại chỗ”, hoặc dừng lại, ở nhiều nơi. Những nơi, những chỗ, mang tính rất quyết định. Cho cuộc đời. Và, người đời. Hệt như quyết định gây thắc mắc/cãi tranh. Ở nhân gian, trần thế. 
Chốn nhân gian nhiều chuyện, có những việc hệ trọng, không chỉ liên can đến người trong Đạo. Nhưng, cả người ở ngoài nữa, khiến hãi sợ. Vốn hãi sợ, nên người trong Đạo và kẻ ở ngoài, vẫn có những tình tự ngại ngần. Cứ mãi lo xa. Lo, không chỉ những chuyện khó dễ, về thể xác. Lo, chuyện linh hồn. Đạo đức. Chức năng. Tương phản.  
Có lo hoặc sợ, thì bạn và tôi, ta cứ trở về nguồn thương yêu sử sách, có thánh kinh. Nghe thêm một lần, Lời Chúa nói:   
          
"Anh em đừng sợ 
những kẻ giết thân xác 
mà không giết được linh hồn. 
Đúng hơn, anh em hãy sợ 
Đấng có thể tiêu diệt 
cả hồn lẫn xác, trong hoả ngục.”    
(Mt 10: 28) 

Thật sự, thì Lời Chúa trích dẫn hôm nay không là nhắc nhở gửi đến với người còn sống, thời hiện tại. Mà, những gì có liên can/dính dự vào điều đã xảy ra, chốn bất ưng. Hoả ngục. Đầy hãi sợ. 

Về hãi sợ, nhiều người không chỉ những hãi cho cuộc đời này, mà thôi. Nhưng, cả những gì xảy đến, thời buổi trước. Hãi và sợ, đến độ bạn đạo của tôi dám đúc kết thành một han hỏi, rất thắc mắc như sau:

“Mới đây, con có dịp được xem cuốn phim mang tựa đề “Valkyrie”, trong phim này tài tử gạo cội Tom Cruise đã thủ vai Đại tá Claus von Stauffenberg, diễn tả những cá tính nổi bật của viên sĩ quan người Đức vốn dính líu vào âm mưu ám hại Hitler. Rồi còn rắp ranh ý định lật đổ bộ máy cường quyền của Đức Quốc Xã, nữa. Thật ra, xưa nay nhiều người vẫn coi Claus Von Stauffenberg là người Công giáo, rất mộ đạo. Phần con lại khác. Con vẫn tự hỏi, một khi mình tra tay dính dự vào những chuyện đổ máu, giết chóc, hoặc gian dối, thì làm sao lại có thể và xứng đáng gọi họ là những người Công giáo mộ đạo, được nữa chứ? Xin cha ban lời chỉ giáo, để con được yên tâm.”

Chỉ giáo hay chỉ đạo, vẫn là bổn phận của đấng bậc “cha thiên hạ” xưa rày vẫn cứ thưa và thốt. Thưa, về chuyện phải Đạo. Thốt, về ngón nghề tay mặt/tay trái của đấng bậc vị vọng, ở Sydney. Ly kỳ. Nhiều học thức. Thôi thì, cứ mời bạn và mời tôi, ta nghe thử ý kiến của đấng bậc vị vọng. Ở đây. Xem sao:

“Anh/bạn hỏi về hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt, mà theo tôi thật khó mà trả lời, cho đúng. Khó, là bởi: làm như thế, rất dễ tạo thành tiền-đề cho hiểu biết xuyên suốt, ngang qua dữ kiện đặc biệt, có liên quan. Nhưng, anh/bạn cũng như tôi, ta có thể bảo rằng: ở một số hoàn cảnh nào đó, ta vẫn có đủ tư cách, đạo đức/chức năng để tra tay lật đổ những kẻ nắm quyền sinh sát trong chính phủ, xử không đúng.
Một giáo sư người Mỹ là ông Germain Grisez, một thần học gia luân lý nổi tiếng, đồng thời là tác giả cuốn tiểu luận dầy 3 tập, có tựa đề “Con Đường Chúa đi”, từng đề cập đến vấn đề này, ở tập 2. 
Dưới tiêu đề “Ít khi, ta dùng bạo lực để thay thế chế độ tồi tệ” ở trang 885, tác giả có viết: “Chế độ nào cương quyết ngăn chặn hoạt động chính đáng, hầu dấy lên cuộc cải tổ bất bạo động; hoặc, dám sử dụng bạo lực hợp pháp, để duy trì cơ cấu bất công, thì chính họ và những người hỗ trợ họ, đều phải chịu trách nhiệm về cách mạng bùng nổ khi dân chúng đã tuyệt vọng, không còn sức đeo đuổi sự công minh chính trực. Thêm vào đó, khi có giới cầm quyền nào đó cương quyết theo đuổi mục tiêu mình đặt ra, gây xung đột về lợi ích chung của đất nước, lại không có thẩm quyền để quyết định, thì tình trạng ấy chẳng khác gì hoàn cảnh của người có chính nghĩa, luôn chống đối giới cầm quyền, đã xử sự rất không phải.” (Tôma Akinô, Thần Học Tổng Hợp, 2-2, q.42,a.2, ad 3) 
Chính vì thế, giáo huấn Hội thánh vẫn dạy rằng: ta có thể biện minh tính cách luân lý/đạo đức cho việc cậy nhờ sức đối kháng có vũ trang, như phương cách tối hậu nhằm “ngăn chận tình trạng chuyên quyền/bạo ngược thấy rõ, vẫn kéo dài, khiến tai hại cho quyền căn bản của mọi cá nhân cũng như làm tổn hại lợi ích chung, của mọi người.” (x. Giáo huấn về Tự Do và Giải Thoát với tín hữu Đức Kitô, 1986, t. 79)
Giáo sư Germain Grisez cũng nhắc nhở việc ta phải có sự dè dặt cần thiết, trước khi quyết định tham gia kháng chiến bằng vũ lực, mà theo ông, ta chỉ nên sử dụng nó như biện pháp tối hậu, mà thôi. Việc này phản ánh điều mà Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, từng đề cập.”

Nói theo cung cách của nghệ sĩ ngoài đời về chết chóc, vĩnh cửu, có lẽ sẽ phải nói như thế này:
“dù mai đây, trăng có úa bên thềm
và ngày buồn, thu tàn kéo qua đây
rồi mùa đông vội vã, đến bên ta.
Anh giữ mãi, lời nguyền cùng bên em.”
 (Từ Công Phụng – bđd)

  Lời nguyền mùa đông, hay lời dạy của Hội thánh, ta phải giữ. Giữ, như Hội thánh vẫn làm qua bao mùa biến động, nổi trôi. Trong Giáo hội. Ở mọi nơi. Chính vì thế, mà đấng bậc vị vọng nhà ta tiếp tục triển khai thêm:

“Giáo lý Hội thánh còn dạy ta rằng: “Việc gia nhập lực lượng đối kháng có vũ trang hầu phản kháng, chống lại giới cầm quyền chủ trương độc đoán, sẽ không là chuyện hợp pháp, trừ phi các điều kiện sau đây phải được áp dụng: 1/ Khi, rõ ràng là: có sự vi phạm trầm trọng và kéo dài, quyền căn bản của con người; 2/ Khi, mọi phương tiện để khôi phục/đền bù đều thất bại; 3/ Nhưng, những việc phản kháng/chống đối như thế, sẽ không kéo theo sau những xáo trộn nào, còn tệ hơn; 4/ Khi, không còn hy vọng nào cho một thành quả vững chắc, có cơ sở; 5/ Khi, rõ ràng là, không thấy có giải pháp nào tốt đẹp hơn, thực hiện được.” (GLHTCG#2243)
Những điều kiện kể trên ghi rất rõ. Cho nên, thông thường thì: ít có khi nào ta có thể thực hiện được, những điều kể ra như thế. Vấn đề là, ta cần xem xét/phán đoán cho cẩn thận, để xem các điều kiện nói ở trên có áp dụng được hay không, với chế độ ức hiếp/chuyên quyền lộng hành, vào thời đó. Tức, thời Hitler làm mưa làm gió. Nói như thế, tức bảo rằng: bản thân tôi, không thấy mình có khả năng thích hợp để phân tích các điều ấy, cho thật kỹ. Ở đây. Trong bài này. 
Dầu sao đi nữa, ra như có điều ta có thể quả quyết được, là: chế độ chuyên quyền/ức hiếp của Hitler là trường hợp đặc biệt để ta có thể đặt thành vấn đề. Bởi, các điều kiện kể trên đều thấy có thể áp dụng rất đúng cho trường hợp đó. Vì thế nên, chuyện tham gia phong trào kháng chiến có vũ trang, ở đây, là việc chẳng đặng đừng. Hợp tình. Hợp cả lý.
Cuốn phim mà anh/bạn vừa viện dẫn, có đoạn nói đến “Chiến Dịch Valkyrie”, trong đó có đến 15 âm mưu tìm cách ám hại nhà độc tài Hitler. Điều này cho thấy: rất nhiều người nhận ra rằng: chế độ phát xít ông tạo ra, thật là quái ác, đầy những tội, đủ để thúc giục nhiều người tham gia lực lượng kháng chiến có vũ trang, mà dứt điểm chế độ tội lỗi đó.
Trong số những người hoạt động chống Đức Quốc Xã của nhà độc tài Hitler lúc bấy giờ, có Hải sư Đô đốc Wilhelm Canaris, là người đứng đầu hoạt động phản gián. Nên, khi nghe nói Hitler có ý định bắt cóc hoặc ám hại Đức Giáo Hoàng Piô XII năm 1943, thì chính ông đã thông báo cho phía đối tác người Ý biết, nên âm mưu trên đã không thành. Tháng Hai năm 1944, Canaris đã bị cách chức, không còn thủ vai đầu não cơ quan phản gián Đức nữa. Sau đó, ông bị cầm cố tại gia và bị hành quyết, năm 1945.
Rõ ràng, Giáo sư Germain Grisez có đưa ra tiêu chuẩn để xem xét, nếu có điều gì không chắc chắn về tính luân lý/đạo đức trong quá trình diễn biến sự việc. Lấy ví dụ trường hợp Đức Quốc Xã: “Nếu không biết chắc luân lý có cho phép ta ám hại nhà độc tài chuyên chế Hitler không, thì chỉ khi nào ta xác tín việc ấy được phép làm, thì khi ấy ta mới bị ràng buộc phải tham gia âm mưu sát hại, nhà độc tài Hitler.”(sđd, tr. 287).
Cuối cùng, Giáo sư Grisez kết luận rằng: những người như thế, dù ở tình trạng nghi hoặc, vẫn nghĩ rằng nhiều khả năng đích thật là việc ám hại nhà độc tài quái ác Hitler là việc cho phép, thì khi ấy ta mới được phép tiến hành. Nhìn chung, chừng như với chế độ quỉ quái của Hitler, ta có chính nghĩa để thành lập một đạo binh kháng chiến chống sư chuyên quyền, độc đoán.” (Lm JohnFlader, The Catholic Weekly 28/6/2009, tr. 10)

Để một bên, những biện luận/phân tách thật khúc chiết, thiết tưởng cũng nên bàn và phiếm chút gì nhè nhẹ. Thư giãn. Cho thoải mái. Rất dễ tiêu. Dễ tiêu hoá, bằng một truyện kể ngăn ngắn. Gọn nhẹ. Rất như sau:

“Vào giờ học tâm lý, vị giáo sư bất chợt khám phá ra rằng đám học viên khá cao niên của mình có vẻ hơi bị động. Ông bèn quyết định cho mọi người làm một bài thực tập, với đề tài, chỉ thế này: “Trong một tuần, bạn phải cố làm sao đến với người mình thương và nói với người ấy, rằng: bạn yêu họ. Bởi, trong cuộc sống, tuy ta rất gần người thân, nhưng ít khi nào nói rõ những lời âu yếm, với người mình thương.” Đề tài xem ra không khó. Chỉ khó, có mỗi điều: học viên ở trường ai cũng trên dưới 30. Tức, ít nhiều cũng đều có kinh nghiệm về yêu thương, nhưng hiếm khi tỏ bày tình thương, mình đang có. 
Tuần sau lại, vị giáo sư tâm lý đi thẳng ngay vào câu hỏi, xem có học viên nào tình nguyện kể  chuyện đời mình, hay không. Ông đinh ninh: người bước lên bục trước nhất, phải là học viên nữ, mới đúng. Ai ngờ, cánh tay hôm ấy giơ lên, là của nam nhân. Trông anh thật tình. Chân phương. Đầy cảm xúc. Cảm xúc anh nêu, là lời lẽ tóm gọn như sau:  
-Cách đây 5 năm, cha tôi và tôi có sự bất bình thấy rõ, xem ra không thể nào hàn gắn. Thấy mặt nhau, cả tôi lẫn ông đều tìm cách ngoảnh mặt về phía khác, cố tránh né tình huống khó xử, ngoại trừ vào các buổi hội họp bất đắc dĩ trong gia đình, thôi. Ngay lúc đó, chúng tôi cũng không phát biểu một lời nào. Vừa rồi, tôi quyết định là khi về nhà, sẽ tự kỷ ám thị nhất định phải nói với cha mình, là: con thương cha lắm. Chỉ với quyết định ấy thôi, tôi đã thấy tim gan mình nhẹ hẳn lên. Đêm hôm đó, tôi không tài nào chợp mắt. Hôm sau, tôi đánh xe đến nha cha mẹ, rung chuông , rồi thầm nguyện cầu Chúa cho người mở cửa đón mừng phải là cha tôi, mới được. Bởi, nếu là Mẹ ra mở cửa, thì lời nói yêu thương, đối với tôi, thật quá dễ. May thay, người mở cửa chính là Cha. Không chậm trễ, tôi bèn bước vào cửa và nói trước: 
-Ba à, hôm nay con đến chỉ để xin cha tha thứ cho con và nói rằng con thương ba lắm.
Lúc ấy, như có luồng gió đổi mới hoàn toàn con người của cha tôi. Trước mắt tôi, rõ ràng là khuôn mặt của ông hiền dịu lại. Các nếp nhăn nơi khoé mắt, dường như tan biến hết. Và, ông bắt đầu khóc. Ông chạy đến. Ôm chầm lấy tôi, rồi nói:
-Ba cũng thương con lắm. Nhưng ba không biết làm thế nào để nói được câu nói đó.
Chưa hết. Hai ngày sau bữa đó, cha tôi tự dưng lên cơn đột quỵ, và mãi đến ngày hôm nay, ông vẫn còn nằm nhà thương. Tôi trộm nghĩ, nếu tôi lưỡng lự, vẫn không chịu đến trước với cha, chắc chẳng bao giờ tôi có được cơ hội đó.
Cũng chưa hết. Từ lúc thấy lòng mình nhẹ nhõm vì cởi bỏ được những dồn nén, trong tâm can, tôi lại khám phá ra nhiều điều. Nhiều câu nói của các học giả nổi tiếng, khắp nơi. Trong đó có câu nói của ông tổ ngành triết lý thần học, thời Trung Cổ, là thánh Tôma Akinô, từng có những lời quả quyết rằng: Chẳng ai có được niềm vui thực sự, trừ phi người ấy được sống trong tình yêu thương”. Cũng từ đó, tôi thấy mình đã nắm bắt được niềm vui thực sự. Hạnh phúc đích thật, mà không biết.

Chuyện triết lý thần học về cuộc sống, vỏn vẹn chỉ có thế. Nhưng, người kể vẫn không quên một lời bàn. Lời bàn từ người kể, bao giờ cũng quanh quẩn những thương yêu và ganh ghét. Yêu người thân cận. Ghét kẻ địch thù, quỷ quái, ác tính là chuyện thường tình. Và, lời bàn hôm nay, cũng na ná tựa như ca từ người nghệ sĩ, về vĩnh cửu. 

Cuối cùng thì, lời bàn hôm nay và mai ngày vẫn là lời thân thương, của mọi thời:
“Nếu có gì vĩnh cửu được,
thì em ơi, đó là tình yêu chúng ta
dù mai đây trăng có úa bên thềm
 (Từ Công Phụng – bđd)

Về với chủ đề ta mạn bàn, có lẽ sẽ phải nói: “dù mai đây, chính nghĩa có thắng hay bại”, hãy cứ một lòng yêu thương nhau. Bởi, điều “vĩnh cửu”, không là gì khác ngoài “tình yêu của chúng ta”. Và chính nghĩa, đâu có là gì, nếu không vì: tình thương yêu, ta vẫn có. Nồng nàn. Vĩnh cửu. Nồng nàn trong tương quan với Chúa. Vĩnh cửu, là tình thương yêu, người với người. Bất kể, người đó có là nhà độc tài. Chuyên chế. Ác độc. 

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn luôn tin vào 
sự vĩnh cửu,
của Tình yêu. 

.
23. “Đạo diễn đưa tay lên”
đạo diễn đưa tay xuống
bi hài kịch mở màn
bi hài kịch khai trương
(Phạm Duy – Bi Hài Kịch)

(Hc 50:22)
Bần đạo còn nhớ, trong lần ghé viếng Gia đình An Phong Sydney năm 2006, sau buổi nhận “bằng rừng” bốn cục, làm Tổng Vụ Trưởng Hướng Đạo, bạn hiền linh mục cùng lớp gọi tên Tiến Lộc, đã hát cho bà con nghe nhạc bản thật hay ho, dĩnh ngộ, viết như trên.  
      Dĩnh ngộ, là vì: toàn bộ bài hát của nghệ-sĩ Phạm Duy, chỉ thấy những ca từ hết “đưa tay lên, đưa tay xuống”, rồi đến “bi-hài-kịch mở màn/đổi màn/đủ màn/bỏ màn”, và cuối cùng kết thúc bằng câu thơ day dứt: “Bi hài kịch còn dài, bi hài kịch chưa thôi!”. 
Với nghệ sĩ ngoài đời, cuộc sống con người chỉ là tấn bi-hài-kịch thêm “sen” (scène/scene), thêm cảnh trí. Nhiều cảnh trí, người nghe vẫn thấy người nghệ sĩ già nhà ta, vẫn cứ hát:

“Diễn viên quay súng bắn
diễn viên gục đầu đường…”
 (Phạm Duy – bđd)

Và:

“diễn viên đang tra tấn
diễn viên chịu cực hình.”  
(Phạm Duy – bđd)

Trong khi đó, đời mình ta vẫn thấy: rất nhiều đạo diễn Đạo-đời vẫn loay hoay/hí hoáy với nhiều “tra tấn”. Tra và tấn, để diễn viên đời thường cứ phải chịu cực hình. Nhưng dù thế, đời người vẫn còn nhiều thứ để trân trọng. Vẫn còn “chút gì để thương, để nhớ”. Nhớ rằng, đã nhiều lần các thần sứ lẫn tiên tri, từng lên tiếng khuyên bảo người đời, bằng một dẫn dụ:

“Giờ đây hãy chúc tụng Thiên Chúa muôn loài,
Đấng đã làm những điều vĩ đại ở khắp nơi,
Đấng đã làm cho đời sống ta nên cao quý 
ngay từ thuở ta còn trong lòng mẹ,
và đối xử với chúng ta 
theo lòng lân tuất của Người.”
(HC 50: 22)

Thế đó là sự thật. Chính đó, là những khác biệt. Khác biệt, vì nhà đạo diễn ở đời thường mới chỉ “đưa tay lên, đưa tay xuống” thôi, đã có biết bao nhiêu là “bi-hài-kịch mở màn”. Và, toàn là những màn , có “diễn viên quay súng bắn”, đến “diễn viên đang tra tấn”, để rồi khi:

“Diễn viên khen nhau mãi
diễn viên chửi nhau hoài
gió thổi từ muôn nơi
tai nghe lời ngọt bùi.”
(Phạm Duy – bđd)

là lúc người nghệ sĩ kiêm đạo diễn, đã nói lên một kết đoạn, như sau: 

“Bi hài kịch còn dài 
Bi hài kịch chưa thôi”.
 (Phạm Duy – bđd)

“Bi hài kịch chưa thôi”, là bởi: ở đời, còn khá nhiều người vẫn cứ “đưa tay lên”, rồi lại “đưa tay xuống”. Lên - xuống, không phải để diễn viên “tra tấn” hay “chịu cực hình”, mà đối xứ với chúng ta, “theo lòng lân tuất”, hay không mà thôi. 
“Đối xử theo lòng lân tuất” có thể là, làm thế nào để xã hội mình đang sống không còn cái cảnh:
“Bi hài kịch bỏ màn,
Bi hài kịch chưa xong
Diễn viên rơi nước mắt
Đạo diễn khóc hay cười
Khán giả thì bưng môi
Khán giả thì im hơi.
(Phạm Duy – bđd)

“Khóc hay cười”  là tình huống xã hội vẫn: còn đó nỗi buồn. Buồn, vì có sai sót trong “công lý và hoà bình”. Vả lại, làm sao tạo hoà bình, có công lý? khi sự thật vẫn rành rành ra đó. Sự thật, là những sự rất thật về một chênh lệch còn đó, giữ người giàu/kẻ nghèo. Giữa cuộc sống của người thì thừa mứa, đổ vùi những ‘cơm rất lành, canh rất ngọt’. Trong khi đó, kẻ nghèo người khó vẫn tìm kiếm những cơm thừa canh cặn, rơi rớt từ bàn ăn, cửa hiệu, mà nhà giàu vừa ngốn vào bụng, ăn không hết.
Chênh lệch giàu/nghèo nói ở đây, vẫn là thách thức đối với mỗi người, và mọi người. Những người đang sống ở xứ sở dẫy đầy những tài nguyên, rất thừa mứa. Trong khi đó, kẻ khác vẫn thòm thèm từng giọt nước trong lành, từ các “phông tên”, còn lác đác, hiếm hoi.
Về chênh lệch - thách thức giữa kẻ có của dư của để, và người đói nghèo dưới mức bình thường/thời hiện tại, thì vừa qua, Hội Đồng Giám Mục Úc Châu đã họp bàn vào độ tháng 9 năm 2008; sau đó, đã đưa ra thông cáo chung, tuyên bố về một Công lý và Sự thật, ở xã hội. Trong tuyên bố, có những lời rất đích thực, được trích thoáng như sau:

“Các thách thức hoặc thử thách mà Chúa trao cho người thanh niên giàu có, nói ở Tin Mừng Mác Cô, cũng là thách thức ta vẫn gặp, ở đời thường. Hôm nay. Vấn đề là, chúng ta có sử dụng tài nguyên phong phú của mình, vì lợi ích cho mọi người, đặc biệt là những người đang bị từ khước phúc lợi có từ những người giàu, hay không? Trong Tin Mừng, Đức Giê-su ngước nhìn người thanh niên giàu có, mà xót thương cho anh. Trong khi, anh chẳng mảy may xúc động gì, từ chối lời gọi mời của Ngài.
Là dân con đất nước trẻ và sang giàu, có lẽ chúng ta đang thiếu thốn mất một điều; điều ấy là thế này: chúng ta có nhận lãnh những hành xử tuỳ vào thách thức Chúa trao ban, hoặc có bị đánh động về những thử thách Ngài đặt để cho ta, không? 
Đức cố Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, đã nhiều lần nêu vấn đề chủ nghĩa tiêu thụ, và cảnh giác: chẳng có gì xấu xa, nếu có ai đó trong số những người anh em chúng ta, cứ muốn cho cuộc sống của mình, được khá hơn. Xấu chăng, là khi ta có lối sống khiến ta nghĩ rằng mình sẽ khá hơn, nếu hướng nhiều đến những chuyện “có”, hơn là “sống”. Có nhiều hơn sống, tức vận dụng để nhiều ngày tháng mà vui chơi, tận hưởng cuộc đời. Coi đó như cứu cánh, của cuộc sống.”
Sự giàu sang phú quý trong xã hội, tự nó, chẳng là điều gì xấu xa hết. Giàu sang/phú quý vẫn đem lại nhiều lợi ích, tuỳ cách ta sử dụng, thôi. Như truyện kể Tin Mừng, về người thanh niên giàu có, cho thấy: anh tuy giàu thật đấy, nhưng vẫn không thấy hạnh phúc. Bởi thế nên, trên thực tế, nhiều lúc cũng trái ngịch. Chẳng hạn, nếu ta mải mưu cầu gia tăng của cải/vật chất, thì điều này sẽ thôi thúc ta kiếm tìm thêm công việc nào to lớn hơn để bon chen. Và, càng thêm nhiều việc, người đời càng phải bỏ nhiều giờ để làm. Càng làm nhiều, càng thấy có sức ép liên tục, từ nhiều phiá. Nhiều sức ép, nên ta càng phải làm phụ trội, thêm giờ. Có khi, phải làm thêm vào ngày cuối tuần, nữa. 
Nước Úc, nay trở thành một trong các quốc gia đã phát triển. Có người mê say làm việc, đến là cật lực. Từ đó, gia tăng sức ép của công việc đưa vào quan hệ gia đình. Đối với khá nhiều bậc cha mẹ, đã thấy có trường hợp: con cái đòi hỏi nhiều thứ hơn, vì cha mẹ chúng không sống gần gũi, quan tâm đến chúng như trước. 
Gia tăng tài sản, còn có nghĩa là: gia tăng nợ nần. Điều này, càng gây khó trong việc hạn chế nhu cầu ta cần có, thời buổi này. Cá nhân người lao động cũng như toàn thể gia đình họ, từ đó dễ rơi vào bẫy cạm của vòng lao lý quá mức. Và, vì tiêu thụ không biết chán, bất kể nợ nần ngày một chồng chất, tất cả ai ai cũng nỗ lực đạt thành quả to lớn, về vật chất. Xem như thế, sự giàu sang phú quý vẫn gia tăng não trạng khiến mọi người càng thấy mình có quyền đạt được nhiều thứ. Nhưng lại quên mất ý nghĩa của sự cảm tạ/biết ơn về những gì mình có. Quên cảm tạ, đồng thời lại muốn có thật nhiều. Có mãi, không không bao giờ biết thế là đủ.
Lòng ham muốn có nhiều/có thêm không gia giảm, rồi cứ thế phải sản xuất. Cứ thế tiêu thụ đồ đạc cho thật nhiều. Muốn có nhiều/có thêm, lại phải khai thác thêm nguồn tài nguyên vốn lấy từ lòng đất. Khai thác nhiều, sẽ gây nên tình trạng ô nhiễm không khí, và phí phạm, kéo từ thế hệ trước đến thế hệ sau.  Thời hôm nay, có lẽ ta cũng nên giảm mức tác hại môi trường bằng cách quan tâm đến những gì mình đang có. Biết tự vấn lương tâm mỗi khi mình muốn có thêm. Tự vấn, bằng nhưng câu, như: có thật mình cần đến những thứ này, không?” (xem www.socialjustice.catholic.org.au)

Nhận định của hàng Giám mục Úc, có lẽ cũng là dịp để bà con mình đáp lại những gì vẫn thấy dẫy đầy , ở đời thường. Thường thì hôm nay, vẫn thấy nhiều người đã biết tự vấn lương tâm. Cứ hỏi lòng mình bằng những câu, như ngưồi nghệ sĩ già, thường hay hát:

“Ôi bi kịch còn dài
trong hay ngoài sân khấu
bên trên hay là bên dưới…
ai cũng buồn như nhau.”
 (Phạm Duy – bđd)

Về với Tin Mừng thánh Máccô, về người thanh niên giàu có, đã bỏ đi với khuôn mặt buồn rười rượi. Anh buồn như nhiều người giàu khác ta vẫn thấy ở đời. Vào mọi thời. Buồn, như các Giám mục ở Úc, còn đề cập:

“Đức Giê-su gọi mời ta thiết lập nên xã hội công bằng, trong đó mọi người cùng làm việc. Để nắm chắc, rằng: tình trạng nghèo đói ở nhiều nơi phải bị bứng tận gốc. Bứng đi, để mọi người sẽ có khả năng sống cuộc sống đầy đặn. Và, cũng nên đoan chắc rằng: người giàu sang/phú quý phải có trách nhiệm lo lắng cho người thiếu thốn, dễ tổn thương. Lo cho họ đủ cơm ăn áo mặc. Lo cho họ có nơi tá túc, bớt dãi nắng dầm mưa. Và lo cho họ luôn được người khác quan tâm, chăm sóc.
Cộng đoàn tiên khởi, cũng đã có quan ngại về tài sản chung, của mọi người. Sách Công vụ Tông đồ cho thấy cộng đoàn dân Chúa đã mong “bán đi đất đai của cải mà các ngài có, để phân phát cho mọi người, ai nấy tuỳ theo nhu cầu của mình.” (Cv 2: 45)
Các thánh tổ phụ thời Giáo hội tiên khởi, cũng buộc phải đeo đuổi thực hiện sự công minh chính trực. Ở thế kỷ thứ IV, thánh Bazil Cả đã nhắc cộng đoàn Hội thánh nên có trách nhiệm, với người nghèo. Thánh nhân có nói: ‘Vụn bánh mà anh chị em bỏ đi không dùng là cơm bánh của người nghèo. Quần áo dư dả, anh chị em treo trong tủ là áo quần của những người đang lạnh lẽo, thiếu mặc. Giày dép anh chị em đang đeo, là dép đi của những người đang dùng chân đất, mà sục xạo. Tiền bạc, anh chị em cất trong két sắt, là tiền là bạc của những người đang túng thiếu, rất đói nghèo. Cử chỉ bác ái, mà anh chị em bày tỏ, là những công trình mà anh chị em phải để hết tâm huyết, vào trong đó.” 
Sở dĩ có đói nghèo trong xã hội, chỉ vì nhiều người không đủ khả năng tạo nên những gì họ cần. Tự thân, nghèo là sự tấn kích vào tương quan giữa người với người –tức: những nối kết hỗ tương- vẫn nằm sâu nơi lời dạy của Chúa. Chính vì lý do này, mà hội thánh đã và đang ra tay hành động suốt nhiều năm, ngõ hầu cải thiện nền y tế, giáo dục và phúc lợi, cho các gia đình. Cho cộng đồng.
Xã hội Úc nay đã khá giàu. Nên, chúng ta được mời gọi để nhận ra rằng: nhu cầu của người nghèo, vẫn quan trọng hơn sự ham hố của người giàu sang/phú quý, nhiều tiền nhiều của. Còn rất nhiều người, vẫn sống trong tình trạng đói nghèo triền miên. Và, họ vẫn bị người giàu đối xử không đuợc công bằng.
Nếu quan sát, ta sẽ thấy: nghèo đói vẫn hiển hiện nơi một số cộng đoàn của ta. Tức, cộng đoàn đang sống khá sung túc. Sống, ở xã hội có nền kinh tế rất tiến bộ. Chỉ số đói nghèo hiện thời của người Aborigines đang gia tăng gấp 2 đến 3 lần so với người Úc, nói chung. Đó là sự chênh lệch giàu/nghèo khó coi, ở một đất nước có nhiều tài nguyên dự trữ, dồi dào.
Thật đáng xấu hổ, khi ta không thể thoả mãn nhu cầu của người nghèo, là những người anh người chị của chúng ta. Lý do gây nên sự nghèo đói túng cực trong cộng đồng các anh chị em này, là do chúng ta chưa quan tâm đủ, ngõ hầu nhu cầu thiết yếu của cộng đồng người Aborigines, được đạt mức. Và, lý do khác nữa, là do ta chưa biết tôn trọng đủ các giá trị của nền văn hoá cổ xưa, cho phải phép.
Ngày lại ngày, viên chức Giáo hội làm việc tại các trung tâm phúc lợi như Centacare và Vincent de Paul, đang hỗ trợ cho các gia đình còn tung thiếu, bằng vào chương trình khẩn cấp nhằm giúp đỡ các người anh người chị của chúng ta phấn đấu, ngõ hầu đạt hiệu quả khả quan hơn. 
Ngay từ đầu, những người anh người chị này, đã nhận ra sự khác biệt không đồng đều giữa mức sống có chuẩn mực mà công nhân/viên chức có đồng lương khiêm tốn vẫn cố gắng, nhưng chưa toại nguyện. Anh chị em ấy, vẫn cố gắng giúp các gia đình nhiều hơn nữa, để họ đạt được nhu cầu thiết yếu, có lúc lên có lúc xuống.
Cứ tưởng tượng, trường hợp các người anh người chị của chúng ta, đặt chân đến được tới đất nước tạm dung, sau nhiều tháng ngày khổ đau/khôn khó, ngõ hầu thoát khỏi vòng lao lý, khỏi chế độ hà khắc, bách hại. Sau một thời gian, trải qua hành trình vượt biên/vượt biển rất hiểm nguy, điều mà theo qui ước của Liên Hiệp Quốc, tất cả mọi người có quyền được xin tị nạn. Thế mà, nhiều đồng bào tị nạn là người anh em của chúng ta, vẫn cứ bị giam nhiều tháng nhiều ngày tại các trại giam di trú, rất sầu buồn. Đó là kinh nghiệm đắng cay của nhiều đồng bào tị nạn, vẫn mong được giúp đỡ, và được quan tâm để họ có thể lập thủ tục định cư, theo khuôn khổ luật lệ của nước Úc.”

Diễn tả về “bi hài kịch” cuộc đời rất chênh lệch  giàu/nghèo, là như thế. Cuộc đời, theo cái nhìn chính mạch của nhà Đạo. Còn, người đời/thời nghệ sĩ, lại hơi khác. Khác với vần thơ như sau:
“Diễn viên gục đầu đường
máu chảy, vệt loang loang.
Máu chảy vào quê hương.” 
(Phạm Duy – bđd)

Chảy vào quê hương - Nước Trời, một đời sống. Chảy, như các giám mục ở Úc lại đã thêm một nhận định:

“Mỗi người, và mỗi nhóm khác nhau trong xã hội, đều có khả năng đạt nhu cầu vật chất, và nhận ra được tiềm năng của mình, theo tính cách xã hội, kinh tế và tâm linh, của mình. Mọi người chúng ta được gọi mời, để có thể nhận ra được điều ấy, trong cuộc sống. Giữa bạn bè. Như vẫn thấy, trong cuộc sống cộng đồng của chúng ta. Nếu có ai bị thiệt thòi hoặc bị bỏ rơi, thì tình trạng của chúng ta cũng bị giảm sút. Chúng ta không thể tồn tại, mà lại không cần người khác. Và, ta chỉ có thể tăng trưởng thành đạt tiềm năng lớn lao của mình, là nhờ vào quan hệ ta có với mọi người.”

Nơi Tiệc Thánh, ta góp mặt hiện diện với Đức Giê-su, không như kẻ giàu/người nghèo, kẻ đầy uy quyền/người yếu kém. Nhưng, như những người anh người chị, trong cùng cộng đoàn. Đối với xã hội chỉ chú tâm đến tiêu thụ và tiêu thụ, thì thông điệp của Tiệc Thánh mang tính đáp trả, đối đầu với nền văn minh/văn hoá của con ngưòi. Trong khi chủ thuyết tiêu thụ đưa ta đến cảnh tích luỹ nhiều hơn nữa. Có cuộc sống kéo dài đến miên trưòng, hoặc chỉ nghĩ đến những là tiêu thụ và tiêu thụ đồ hàng vật chất, thì nơi Đức Kitô, ta được đề nghị thực thi quan hệ mật thiết với Chúa. Và, với nhau. Đức Kitô kêu gọi chúng ta, ngang qua người thanh niên giàu có, ở Tin Mừng, là: không nên tạo cho mình nhiều tiền nhiều của thêm lên nữa. Nhưng, là: sống nhiều hơn. Sống đích thực tính bác ái hơn.
Xem thế, Đức Giê-su là Tin Vui, cho người nghèo. Xem thế, Đức Chúa là Tin Mừng cho người dõi theo bước chân mềm giảng rao, đích thực sống niềm tin-yêu, Ngài vẫn dạy. Ở đây nữa, cuộc đời con người vẫn cứ như là:

“Ôi bi kịch còn dài
trong hay ngoài sân khấu
bên trên hay là bên dưới
ai cũng buồn như nhau.”
(Phạm Duy – bđd)

Đời người, buồn hay không, cũng tuỳ. Tuỳ người. Tuỳ quyết tâm của mỗi người, để hãnh tiến. Đạo diễn cuộc đời cò giơ tay lên hay giơ xuống, cũng tuỳ thái độ của mình đối với đời. Tuỳ, tầm nhìn của mình vào cuộc đời. Thái độ và tầm nhìn ấy, có thể ví von với truyện kể để minh hoạ, ở bên dưới:

“Có một ngân hàng, mỗi buổi sáng, cung cấp vào tài khoản của bạn 86400USD. Số dư trong tài khoản không được phép chuyển từ ngày này qua ngày khác. Mỗi buổi chiều, ngân hàng sẽ hủy bỏ hết số dư còn lại mà bạn đã không dùng hết trong ngày.
Bạn sẽ phải làm gì? Sử dụng hết số tiền đó, dĩ nhiên!  Mỗi người trong chúng ta đều có một ngân hàng như vậy. Tên ngân hàng là THỜI GIAN. 
Mỗi buổi sáng, ngân hàng này cung cấp cho bạn 86.400 giây. Vào mỗi buổi tối, ngân hàng sẽ xóa bỏ, coi như bạn mất, thời gian mà bạn không đầu tư được vào các mục đích tốt. Ngân hàng không cho phép bạn được để lại số dư trong tài khoản. Cũng không cho phép bạn bội chi. Mỗi ngày, ngân hàng lại mở một tài khoản mới cho bạn. Mỗi tối nó lại hủy hết những gì còn lại trong ngày. Nếu bạn không dùng được hết thời gian mà bạn có trong ngày, người bị mất chính là bạn.

Không có chuyện quay lại ngày hôm qua. Không có chuyện tiêu trước cho "ngàymai". Bạn phải sống bằng những gì bạn có trong tài khoản ngày hôm nay. Hãy đầu tư vào đấy bằng cách nào đó, để bạn có thể nhận được nhiều sức khỏe, hạnh phúc, và thành công nhất! Đồng hồ vẫn đang chạy.. Hãy cố thực hiện thật nhiều trong ngày hôm nay.

-Để biết được giá trị của MỘT NĂM, hãy hỏi một học sinh bị ở lại một lớp.
-Để biết được giá trị của MỘT THÁNG, hãy hỏi một người mẹ sinh con thiếu tháng.
-Để biết được giá trị của MỘT TUẦN, hãy hỏi biên tập viên của một tuần báo.
-Để biết được giá trị của MỘT GIỜ, hãy hỏi những người yêu nhau đang mong chờ được gặp nhau.
-Để biết được giá trị của MỘT PHÚT, hãy hỏi một người bị lỡ chuyến tàu.
-Để biết được giá trị của MỘT GIÂY, hãy hỏi một người vừa thoát khỏi một tai nạn.
-Để biết được giá trị của MỘT PHẦN NGÀN GIÂY, hãy hỏi người vừa nhận được huy chương bạc trong kỳ thi Olympic.

Hãy quý trọng từng giây phút mà bạn có! Và hãy nên quý thời gian hơn nữa bởi vì bạn đang chia sẻ thời gian đó với ai đấy thật đặc biệt đối với bạn. Đặc biệt đủ để có thể chia sẻ thời gian của bạn. Và hãy nhớ rằng thời gian chẳng chờ đợi ai cả. Ngày hôm qua đã là lịch sử. Ngày mai là một bí ẩn. Hôm nay là quà tặng. Cũng vì vậy mà nó được gọi là PRESENT!  (HIỆN TẠI, và QUÀ TẶNG).
Bạn bè quả là loại nữ trang quý hiếm. Họ khiến bạn mỉm cười và khuyến khích bạn thành công. Họ lắng nghe bạn, họ chia sẻ với bạn những lời khen tặng, và họ luôn muốn mở trái tim ra với chúng ta. Hãy gởi những lời này đến với ai mà bạn xem như người bạn, và nếu những dòng này lại trở về với bạn, Bạn ắt biết rằng bạn đang có một vòng tròn bạn hữu .

Bạn bè, hay bất cứ gì trong cuộc đời, vẫn là những gì quý giá, trong đời. Một đời có các đạo diễn cứ giơ tay lên, giơ tay xuống. Vẫn có diễn viên, tức chính người đời “dở khóc dở cưới”. Khóc cười, một cuộc đời là bởi, người đời vẫn cứ là hay quên Lời dặn dò trong Kinh Sách, về đời người và người. Người ấy có thể là bạn bè, là Quà tặng. Rất trân quý và đáng ghi. Để suy nghĩ. Nghĩ và suy mãi, về Lời. Về người.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cầu mong 
mãi mãi nghĩ và suy 
về cuộc đời. 
Về người đời.
Cứ luôn là quà tặng
Cho mình và cho người.




24. “Chiều hôm qua lang thang
trên đường”
Nhớ, nhớ buồn buồn với chán chường
Chiều hôm nay trời nhiều mây vương 
Có mùa Thu Vàng bao nhiêu là hương.
(Cung Tiến – Thu Vàng)

(Mt 6: 33)
Nhớ, nhớ buồn. Buồn với chán chường. Đó vẫn là mối sầu không tên, của nhiều người. Cả người ở huyện nhà Đạo, rất thân thương. Chí ít, là bầy trẻ nhỏ. Ở hải ngoại. Bầy trẻ này, vừa về quê thăm ông/bà nội/ngoại, mới dăm ngày, đã tán thán: “Mẹ ơi, sao con thấy ở đây chán quá à! Đi đâu không đi, tối ngày cứ bắt con đi nhà thờ hoài. Lại còn đọc kinh nữa. Chán lắm rồi, mẹ.” 
Nghe trẻ bảo, cha mẹ nào mà chẳng chột dạ. Thì ra là thế. Lâu nay là bậc mẹ cha, mình cứ bắt các con đọc kinh theo kiểu người lớn, đâu biết bọn chúng nay đà thấy chán. Sáng thức dậy, mẹ đã giục: “Đọc kinh dâng ngày cho Chúa, đi con”. Chợt đến trưa, mẹ cũng nhắc: “Hay là, mẹ con mình đọc ba kinh, nguyện cầu Chúa chúc lành cho của ăn ta nhận lãnh, nhé con”. Mãi về chiều, mẹ lại bảo: “Con à, mình đọc kinh dọn mình chết lành, đi con...”
Ngồi lặng im một mình, nhiều lúc bần đạo cũng nghĩ: nếu ta thay đổi lời kinh câu hát cho uyển chuyển đôi chút, chắc con cháu trong nhà, sẽ không còn kêu ca. Vì quá chán? Còn nhớ, có lần bần đạo đến nhà bạn bè, gặp bữa ăn, thấy vợ chồng khuyên con, lập lại lời cầu kinh, trước bữa ăn, vỏn vẹn chỉ thế này:

“Lạy Chúa, con cảm ơn Chúa đã cho con có được mẹ cha rất hiền lành. Con cảm ơn Chúa đã sinh ra mẹ ra cha, để mẹ còn dọn bữa cho con. Con cảm tạ Chúa đã cho Chúa Giêsu xuống thế, chịu chết vì chúng con. Con cầu xin Chúa, cho ngày mai sẽ còn vui hơn hôm nay. Chúng con cầu cùng Chúa, nhân danh Chúa Giêsu, Chúa của con.”

Lời kinh hay như thế, sao vẫn chán? Chán đến độ, có cháu nhỏ người bạn khác ở nước ngoài, chạy đến với mẹ hiền tỏ bày ý kiến rất nhẹ nhàng, và buồn rầu như sau:

-Mẹ ơi, tối nay con không muốn đọc kinh chút nào hết đó, mẹ!
-Sao thế? Có chuyện gì làm con không bằng lòng thế?
-Chẳng có gì cả, mẹ à. Chỉ là, con thấy mình đọc kinh gì mà sao cứ lập lại hoài một câu như nhau. Nghe buồn chán lắm, cơ mẹ ạ. Sao mình không đọc kinh gì vui vui một chút có hơn không?

Ngày xưa, khi các cụ nhà mình nghe ai đó lập đi lập lại mỗi một chuyện xưa như trái đất, bèn “kê ngay tủ đứng” chặn họng, rồi bảo:“Biết rồi, khổ lắm nói mãi!” Vâng, quả đúng là như thế. Vấn đề, là: có nhiều điều Chúa Mẹ đều biết cả, mà sao ta cứ xin hoài, không biết chán? 
Quả tình thời nay, ở ngoài đời, thiên hạ có quá nhiều thứ hấp dẫn, cứ lôi cứ cuốn con em/đàn trẻ nhỏ chạy ra ngoài mà vui chơi. Chúng nào có thích ru rú ở nhà, để nghe người lớn hết đọc kinh, rồi lần hạt. Bởi thế nên, hôm nay ta thử mạn phiếm về chuyện: làm thế nào để khuyến khích bọn trẻ nhỏ, bỏ giờ ra mà học hỏi, chuyện Đạo. Học sống cuộc đời đi Đạo. Kẻo đã quá muộn. 
Và một ý tưởng khác cũng nên bàn, là: trường lớp công/tư hôm nay, có giúp cho đàn trẻ vui vẻ học Đạo? Giáo lý, kinh bổn hôm nay, có là “bổn cũ soạn lại” thời cụ cố Đắc Lộ đề xướng nay có còn hấp dẫn giới trẻ, nữa hay không?…
Mới đây, vấn đề này lại được đặt ra với một số ít dân lành nhà Đạo, ở “miệt dưới” Sydney như tay viết Michael McVeigh có đôi giòng nhận xét, như sau:

“Cách đây 22 năm, khi Sư huynh Kelvin Canavan, Dòng thánh Patrick khởi đầu sự nghiệp giảng dạy của ông, lúc ấy các trường Công giáo ở Úc chỉ gồm toàn nhân viên/giáo chức vốn là nam nữ tu sĩ. Trường ở đây, không nhận được khoản trợ cấp nào từ phiá chính quyền. Thoạt kỳ thuỷ, trường nào thuộc cộng đồng giáo xứ đều đã tập hợp nhau lại vào ngày của Chúa, để dự thánh lễ, để suy tư. Và học hỏi.

Hôm nay, trường Công giáo lại đã nảy sinh một loại hình, khác hẳn. Nhiều gia đình, nay đã nối kết với Hội thánh, nhờ hệ thống giáo dục của Đạo. Bình luận về hệ thống giáo dục này, Sư huynh Canavan, đã có nhận xét, như sau: ‘40 năm trước, chúng ta đâu có hệ thống giáo dục Công giáo tốt đẹp như bây giờ. Mỗi trường tự gây quỹ, tự xây dựng đường hướng giáo dục, cho riêng mình...’ (Michael McVeigh, Telling the Chirstian Story, Australian Catholics Winter 2009, t.14)    

Về kinh sách, tách bạch chuyện thường huấn, hẳn ai cũng nhớ lời các cụ xưa, ưa bảo: “Vô tri bất mộ”. Tức, đã không biết gì, thì làm sao nói được là thích thú. Thành thử, ở đâu/bao giờ cũng thế, có thích và có thú, mới thấy việc mình làm, không nhạt và chán. Nhạt, như nước ốc. Chán, như cơm nếp nát.
Nhằm “chuyên trị” nồi nước ốc nhạt nhẽo và bát cơm nếp nát nói ở trên, Hội thánh ở Úc đã có quyết định đưa vào chương trình giảng dạy, một môn dành cho các em ở năm cuối tiểu học, được thấm nhuần giáo lý căn bản, có thi đấu, trắc nghiệm. Giờ đây, mời bạn/mời tôi, ta thử nghe lời bàn và thuật của sư huynh Kelvin Canavan, rất lão làng trong ngành dạy Đạo, như sau:

“Cách đây 10 năm, giáo phận Sydney đưa vào thực hiện, việc kiểm nghiệm lòng tin của con trẻ. Đây là chương trình kiểm tra kiến thức lòng Đạo, cho các em lớp 6, ở tiểu học. Kiểm tra lòng Đạo, để tìm cách cải tiến. Kiểm để xem nhà trường hoặc lớp có dạy cho con em mình cách thức học hỏi về tín ngưỡng - lòng đạo, hay không.

Tôi rất mừng khi nhận ra rằng: trong suốt 15 năm vừa qua, thày cô ở trường đã chấp thuận đưa chương trình giáo dục lòng đạo, vào với giáo án để dạy. Tuyệt vời nhất, là: cho đến nay, đấng bậc giáo chức vẫn giữ nguyên một quyết tâm làm việc này một cách rất có hiệu quả.” (x.Michal McVeigh, bđd) 

Vấn đề cần thêm ở đây, là: làm sao để thày cô/nhà giáo của Đạo mình làm được những việc khô khan/cứng ngắc như thế, mà không chán? Các vị có sợ bị “đụng hàng” với hệ thống công lập/ngoài đời, không? Các vị có được sự hỗ trợ của nào ai khác, không? Đây, ta thử nghe thêm một ý kiến nữa:

“Chúng tôi rất hài lòng về phương cách mà cho đến nay nhà trường vẫn thực hiện. Vẫn nối liền niềm tin vào với văn hoá bình thường. Nối liền, qua chương trình công lý/xã hội. Nối liền, bằng tập hợp mọi người đến với nhau, mà tổ chức các buổi lễ, các sự kiện lớn. Có ý nghĩa.

Mặt khác, sư huynh Kelvin Canavan Cfc, cũng có nói: ông rất hài lòng về dự án này. Dự án, để đưa giá trị ngàn năm của Đạo đi sâu đi sát vào với khía cạnh của cuộc sống, ở nhà trường. Dự án, không chỉ mỗi công nhận rằng: hệ thống giáo dục của Đạo, nhằm vào thực hiện nhiều việc, hơn là chỉ giảng dạy mỗi ngày chừng nửa tiếng về tu đức, mà thôi. Tuyệt vời nhất, là việc chúng ta còn được dạy cả văn hoá ở trường, nữa.” (x.Michal McVeigh, bđd, t.15)

Không những thế, sư huynh Kelvin Canavan cfc, còn “bật mí” một số chuyện rất thực, như:

“Thật sự mà nói, tôi thấy mừng là vì Hội thánh ngày hôm nay đã có khả năng đưa viễn cảnh của Đạo vào với giáo án của nhà trường. Chúng ta hỗ trợ nhà trường được nhiều cơ hội thuận tiện, để mừng kính các lễ lớn, và/hoặc những sự kiện/biến cố đại loại như thế. Ví dụ như, thày cô ở trường lo mỗi việc: dạy căn bản về kinh tế pháp luật, sử ký địa dư, hoặc Anh ngữ/khoa học vv. Còn lại, phần chúng tôi, chúng tôi cung cấp cho họ tài nguyên/vật liệu, tạo điều kiện cho họ dạy môn ấy, theo viễn ảnh Công giáo.” (x.bđd, t.15)

Bạn bè người thân ở nhà, đọc đến đây hẳn sẽ thấy có nhiều điều xem ra hơi lạ. Lạ, ở chỗ: sống với đời, người người vẫn nghe người nghệ sĩ xưa nay, vẫn hát: 

“Một mình đi lang thang trên đường 
Buồn hiu hắt và nhớ bâng khuâng 
Lòng xa xôi và sầu mênh mông. 
Có nghe lá vàng não nề rơi không.”

Thật ra, đời có xót xa/não nề, không phải vì kiếp người đoạ đày. Mà vì, lắm khi ta cứ nghĩ mình không làm nổi. Dù, vẫn có khả năng và tài cáng. Dù, người đời vẫn theo kiểu sống thường ngày ở huyện. Quên cả chuyện Đạo.  
 
Xót xa/não nề, không chỉ do việc giáo dục lòng Đạo cho trẻ nhỏ, nay lơ là. Và, thiếu sót. Nhưng vì, người người nay mất đi niềm hứng khởi, trong học hỏi. Học về Đạo. Hơn là, học chuyện đời. Nói khác đi, trọng tâm cuộc sống của nhiều người, nay chỉ nhắm những chuyện thường ngày, ở đời mà thôi. Chứ, không là chuyện Đạo.

Chẳng thế mà, người nghệ sĩ khi xưa, lại tiếp tục:

“Mùa Thu vàng tới là mùa lá vàng rơi 
Và lá vàng rơi, khi tình Thu vừa khơi 
Nhặt lá vàng rơi, xem màu lá còn tươi 
Nghe chừng đâu đây màu tê tái.” 
(Cung Tiến – bđd)

Chẳng thế mà, về những xót xa/não nề chuyện đời/chuyện Đạo, có đấng bậc nhà giáo thuộc lĩnh vực Đạo, đã ưu tư nhiều về học hỏi chuyện Đạo, bèn đề ra một số câu gợi ý chỉ để hầu chuyện người đọc. Để, mỗi người tự đặt cho chính mình. Trong các câu hỏi xếp hàng chờ lời đáp, có những câu được tóm gọn như sau:

1. Đâu là phương cách hữu hiệu để bạn và tôi, ta học cách làm người Công Giáo, rất thực?
2. Trau dồi lòng Đạo, bạn và tôi có cho rằng đàm đạo/chuyện vãn cũng khá cần cho lòng tin?
3. Hội thánh tiên khởi làm những gì để biết chắc là mọi người thực sự tin vào Đức Kitô?
4. Có cần chăng, những bàn bạc/luận thảo về ý nghĩa làm người Công giáo? 
5. Bản thân ta, có những thắc mắc hệt thế không? Nếu có, kết quả ra sao?
6. Vai trò của đấng bậc/nhà giáo trong giảng dạy chuyện Đạo, đạt đến đâu? vv và vv..

Với các đấng bậc vị vọng, thì chỉ hỏi han như trên. Thế còn, bọn con trẻ, nay thì sao? Để minh hoạ cho câu trả lời của trẻ nhỏ, và cũng để vấn đề đặt ra được nhẹ nhàng, thư giãn, mời bạn mời tôi, ta nghe thử câu truyện kể, rất dễ gặp ở đâu đó: 
      
“Hôm ấy, sau một ngày làm lụng khá vất vả và căng thẳng, vì đụng phải nhiều vấn đề hóc búa với đồng nghiệp và đối tác, ông bố về nhà đã trễ lại còn được cậu con 8 tuổi chờ sẵn ở cửa, thấy mặt bố, đã hỏi ngay: 

-Con có thể hỏi một câu ngắn, được không bố? 
-Có chứ. Lúc nào bố cũng sẵn sàng, mà con.
-Con chỉ hỏi: làm việc như bố, kiếm được bao nhiêu tiền một giờ?
-Chuyện này của người lớn, con hỏi để làm gì? Bố đang mệt, đừng để bố nổi cáu…
-Con chỉ muốn biết, có vậy thôi. Mỗi giờ bố kiếm được bao nhiêu?
-Nếu là chuyện con cần để trình với thày cô, thì bố bật mí cho con biết: bố làm $50/giờ 
-Vậy, bố có thể cho con mượn chừng $25 tiền của bố, được không?
Ông bố mới vừa nghe như thế, đã đổ quạu:
-Nếu con chỉ hỏi mượn số tiền ấy để mua đồ chơi hoặc làm những chuyện vô bổ, thì tức khắc, hãy vào phòng riêng, tắt đèn mà đi ngủ. Đừng có mà trông mong gì bố hết. Hãy suy nghĩ. Đừng kiếm cớ để chạy tội ích kỷ, chỉ lo chơi, mua bán những đồ vô ích. Bố làm việc quần quật mỗi ngày, đâu để con phung phí, vào những chuyện như thế…

Ông con lẳng lặng bước vào phòng, vội đóng cửa. Rất nhẹ. Sợ bố tiếp tục nổi nóng. Trong khi đó, ông bố suy nghĩ: bằng ấy tuổi đầu, sao con mình lại hư như thế?.. Một lúc lâu, thấy hạ hoả, ông nghĩ lại: Hay, con mình có lý do của nó nên mới hỏi mượn tiền. Có thể nó cần mua thứ gì đó, chẳng phải đồ chơi. Nghĩ thế rồi, ông vào phòng con nhỏ, hé cửa hỏi:
-Con vẫn còn thức chứ?
-Con vẫn không tài nào ngủ được…
-Bố nghĩ lại, thấy hơi quá đáng đối với con chăng.Có lẽ tại hôm nay bố gặp nhiều chuyện trong sở, nên mới đổ xuống hết trên đầu của con. Thôi đây, con cầm đỡ $25 đô này đi. Mai mốt cần gì, cho bố biết nhé…
-Cảm ơn bố. Con chẳng cần gì thêm đâu. Chỉ là, con mới chỉ kiếm đủ có $25 đô thôi. Nay, con đã có đủ $50 đô đưa cho bố đây. Xin bố dành cho con một giờ, ăn cơm tối với con, nhé. 
Nghe con nói, ông bố khuỵu người xuống. Ôm con, khóc nức nở. Khóc, là vì ông không rõ, con mình học được điều đó ở đâu. Trường lớp hay nhà thờ? Mà, lại dạy cho con của ông những bài học về “đạo làm cha” còn hay hơn cả, nhiều bài học quý giá, ở đời. 

Về học hỏi những chuyện “đạo làm người” trong đời, không chỉ mỗi trường lớp hôm nay, mới đặt ra. Hình như, cả thời xa xưa cổ lỗ, người ta cũng từng đặt vấn đề, ra như thế. Để, đến hôm nay, ngồi nhớ lại người xưa cũng có những thắc mắc rất “căng” như bây giờ. Những thắc mắc và nhận định, đại loại như:

“Tôi thấy, không có hy vọng gì cho tương lai của con trẻ. Bởi, bọn trẻ bây giờ vẫn hay tuỳ thuộc vào những điều phù phiếm/lông bông của trẻ con. Bởi, chắc chắn một điều là giới trẻ ngày nay hay khinh suất, quá lời… lúc tôi còn trẻ, tôi vẫn được dạy là mình phải thận trọng, biết kính trên nhường dưới. Nhưng tuổi trẻ ngày nay lại cứ thích vượt phóng chuyện cẩn trọng, dè dặt. Và, cũng chẳng còn kiên nhẫn nữa.” (Hesiod, 700 trước công nguyên)
Hoặc, một nhận định khác của đấng bậc nổi tiếng khôn ngoan, hiền triết:

“Bọn trẻ ngày nay chỉ ưa những gì hào nhoáng, xa hoa. Chẳng lý gì chuyện kính trọng người cao niên, già cả. Chỉ thích nói nhăng nói cuội, ở mọi nơi. Cả nơi trang nghiêm, cần học hỏi. Lớp trẻ hôm nay đã trở thành bạo chúa, bắt mọi người phục vụ mình, chứ không còn phục vụ người lớn trong nhà nữa. 

Chẳng ai biết đứng dậy chào đón khi người lớn bước vào phòng. Ngày nay, lúc nào bọn chúng cũng ra như muốn cãi lời cha mẹ. Cứ huyên thuyên luôn mồm trước mặt khách khứa. Ăn uống thì ngồm ngoàm, ngấu nghiến. Đứng ngồi, chẳng giống ai, cứ bắt tréo chân cẳng hoặc giạng háng, gác lên bàn, rất khó coi. Đôi khi còn hung tàn bạo ngược với thày cô, nữa. (Triết gia Socrates, 469-399 trước công nguyên)

Và, một nhận định của triết gia khác:

“Tuổi trẻ ư? Là, đám người hoang tàng khi hưởng thụ. Đôi lúc, rất bất kham. Cần có giây cương, để thắng giữ.” (Triết gia Plutarch 46-120 niên lịch La Mã)            

Nói tóm lại, là con trẻ, thiết tưởng lúc nào cũng cần học. Cần hỏi. Học chuyện Đạo, hỏi chuyện đời. Những chuyện dù rất chán, vẫn cứ nhịn. Cứ cố làm cho vui. Vui, như người nghệ sĩ trẻ khác:



“Hãy vui lên bạn ơi!
Ngày mai lắm khi không còn gì để cười
Tương lai biết đâu chỉ là thương nhớ thôi
Dù sao hãy cười bạn ơi!”
(Lê Hựu Hà – Hãy vui lên bạn ơi!) 

Lời cuối cùng, có lẽ cũng nên quay về với cội nguồn của tình thương yêu, không biết chán chường. Yêu, vào mọi lúc. Vui, vào mọi thời, như sau:
“Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa 
và đức công chính của Người, 
còn tất cả những thứ kia, 
Người sẽ thêm cho. 
(Mt 6: 33)

Lời trích đây, là lời vàng ta nghe nhiều năm tháng. Nhưng đã mấy ai chịu để giờ ra mà nghiên cứu. Và học hỏi. Học và hỏi, những chuyện xưa như trái đất. Vẫn không chán. Có chán chăng, chỉ vì lòng mình trĩu nặng những chuyện lăng nhăng. Vô bổ. Của mọi thời. Mọi người. 

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn cứ mong 
học được nhiều điều. 
Sẽ không chán,
      như dự đoán.

           



       
25. “Hãy nói về cuộc đời” 
Khi tôi không còn nữa 
Sẽ lấy được những gì 
Về bên kia thế giới 
Ngoài trống vắng mà thôi…”
(Anh Bằng/Du Tử Lê – Khúc Thụy Du)

(Mt 5: 4)
Nói về đời, sao người chỉ muốn nói “khi tôi không còn nữa”. Cuộc đời, còn nhiều thứ để nói lắm chứ. Nói về đời, là nói vào khi tôi/khi bạn đang còn sống. Sống để nói, chứ đâu nào: “lấy được những gì”, “ngoài trống vắng mà thôi”. Thì ra, khi nói về cuộc đời, là “để lấy”. Lấy gì? Lấy, mà làm chi?
Thật ra, thì khi nói, bạn và tôi nào có muốn lấy những chi chi. Nhất thứ, là lấy để mang “về bên kia thế giới”. Nói, chỉ để kể. Kể cho nhau. Kể cho thế hệ mai sau. Những điều mà suốt cuộc đời, ta chỉ tranh sống chứ chưa giành kể. Kể thật nhiều. Kể lai rai. Không ngoài những gì về đời người và người đời. Kể, cả những chuyện tai nghe mắt thấy, như truyện kể  ngắn gọn, ở bên dưới:

“Kể rằng:
 Có thầy tu nọ thuộc phái “khất thực” đi ngang qua khu làng nhỏ, để hành và khất. Nhằm lúc trời hanh khô, thầy cất bước ra đi, đi mãi đi hoài, vẫn không tới. Thấy đã thấm mệt, thầy bèn quyết định dừng chân đứng lại, rẽ vào căn nhà nhỏ, để xin nuớc. Ngặt một nỗi, căn nhà nhỏ chỉ thấy có cô gái còn trẻ, dù không xinh. Cô gái nghe thầy tu nói muốn xin nước, bèn đặt một chai nước ở hiên nhà, định quay vào trong, để lấy ly. Lúc ấy, thầy tu lại cứ tưởng cô gái đi vào luôn, nên định bụng mở nắp chai, tu một hơi cho nó đã. Vừa lúc đó, cô gái đi ra, thấy vậy bèn kêu lên:
-Thầy đừng tu, để em lấy…
Thầy tu hoảng hốt, ngắt lời:
-Cô đừng lấy, để tôi tu…”

Quả là, về đời người hoặc người đời, cũng có trăm phương ngàn cách để nói, mà không lấy. Nói làm sao? Lấy thế nào? Đó, vẫn là vấn đề, của mọi thời. Mọi nơi. Chí ít, là nhà Đạo. Về cuộc đời ở nhà Đạo, không thể “nói lấy nói để”, như nghệ sĩ ở trên vẫn dành nói và hát, những lời như:

“Hãy nói về cuộc đời
Tình yêu như lưỡi dao
Tình yêu như mũi nhọn
Êm ái và ngọt ngào
Cắt đứt cuộc tình đầu… 
(Anh Bằng/Du Tử Lê – bđd)

Không nói được hoặc nói không được, là bởi: nói về đời người và người đời, thường là người người vẫn nói theo hai kiểu. Hai cách. Cách đầu, là nói tiếng “Không”. Cách sau, là nói “Có”. 
Nói không –chứ không phải là không nói- không thể là nói chữ “không” về mọi chuyện. Với, mọi chuyện. Bởi, nếu bạn và tôi, ta cứ nói tiếng “không” về mọi chuyện, thì cuộc đời con người sẽ chẳng có chuyện gì để mà nói. Chẳng có gì để , phải quan tâm. 
Ngược lại, nếu nói tiếng “không” với mọi chuyện, hẳn là ta sẽ chẳng còn nhận ra được chính mình. Mình là ai? Mình muốn mình là ai, nữa. Mình ra sao? Làm những gì? Và, nếu cứ nói tiếng “không” với mọi người, mọi chuyện, cả chuyện yêu đương, hoặc đương yêu, hoặc được chọn lựa cuộc sống, chứ không phải là cõi chết, thì cuộc sống sẽ không còn đưa đẩy mình vào “Thiên đàng để ngỏ”. Và như thế, ta sẽ mất đi hạnh phúc. Mất đi những dịp thuận để nói tiếng “có”. Với mọi sự. 
Nói “không”, là nói giống như nghệ sĩ ở trên, vẫn cứ nói và cứ hát những lời:

“Như loài chim bói cá
trên cọc nhọn trăm năm
tôi tìm đời đáng mất
trong vũng nước cuộc đời…” 
 (Anh Bằng/Du Tử Lê – bđd)

Nghe người nghệ sĩ cứ nói những điều nghịch nhĩ như trên, cũng thử đề nghị, bạn cũng như tôi, ta có thể làm ngược lại, là nói có. Có, với người đời. Để rồi, đời mình sẽ trở nên tốt đẹp, hơn bao giờ. Hơn, cả người nghệ sĩ chừng vẫn tưởng. Hơn, là vì: khi nói “có”, tức là ta đã trả lời “có” với Chúa. Với, người người. Những người đang trông ngóng, chờ đợi ta nói có. Rất thân thương.
Nói “có”, là nói lời ứng đáp rất tích cực với những đòi hỏi, từ người khác. Đòi và hỏi, về tương quan giùm giúp. Đòi và hỏi, về một hỗ trợ. Rất thân thương, cần có. Cho nhiều người. Nói “có”, là nói như Đức Chúa, vẫn đáp trả một đòi hỏi rất ư là nghiệt ngã, về cứu độ. Nói “có” như Ngài, là bằng lòng chấp nhận những cái “không” nào khác, để người người được “có”. Có mãi. Có được điều cần có, trong cuộc đời, là: ơn cứu độ. Do Chúa ban. 
Nói “có”, còn là chấp nhận lời mời gọi từ Chúa, khi Ngài đưa ra hiến chương Nước Trời 8 điểm, trong đó có điểm nói rất rõ, về sự “có”:

“Phúc cho những kẻ hiền lành,
Vì họ sẽ (có) được đất làm cơ nghiệp”
(Mt 5: 4)

Nói “có” về cuộc đời, ngày hôm nay, là nói rất rõ về “những kẻ hiền lành”, từng hiện diện làm vẻ vang Giáo Hội, mà dân con Đạo Chúa vẫn có thói quen gọi các ngài là “Tiến Sĩ Hội Thánh”. Sao là “Tiến Sĩ (của) Hội thánh, lại được gọi là “những kẻ hiền lành, vì “có” được “đất làm cơ nghiệp”? Đây là câu nói của một dân thường ở huyện, huyện Sydney, cũng từng hỏi và từng nói, như sau:

“Tôi nghe nhiều người nói về tước hiệu “Tiến Sĩ Hội Thánh”, nhưng không hiểu  ý nghĩa/chức năng của danh xưng này. Xin ngài giải thích cho biết dựa vào đâu ta có thể phong cho ai đó tước hiệu là Tiến Sĩ, Hội Thánh? Và, các vị ấy, nay đếm được bao nhiêu. Xin biết ơn.” (Một giáo dân không ghi rõ, những tên cùng tuổi).

Đã “nói” và hỏi về những điều được nghe và được “nói” ở huyện nhà, huyện Sydney muôn thuở, của bạn tôi, thì câu hỏi dù có khó nói, hoặc nói khó hay không, vẫn được chuyển về “đức thày” nhà Đạo rõ ràng đầy đủ họ và tên rất ư là John Flader, của tờ The Catholic Weekly, hôm 20/9/2009, tr 10), như sau:

“Trước hết, như ông/bạn từng biết: tước hiệu “Tiến Sĩ” theo nghĩa này, không có ý nói về các vị tiến sĩ khoa bảng ngành y, chuyên trị cúm cho nhiều người. Cũng không là, các vị chữa trị nhiều bệnh tình của con tim, rất Hội thánh!    
Cụm từ “Tiến sĩ” xuất xứ từ tiếng Latinh “docere”, có nghĩa là “dạy dỗ”. Xem như thế, “tiến sĩ” ở tiếng Latinh, có nghĩa là bậc thầy dạy. Những điều phải.
Muốn được Giáo hội phong cho tước hiệu “Tiến Sĩ Hội Thánh”, đương sự phải ngang qua 3 qui trình diễn tiến như sau: phải trổi trang về tín lý; phải sống lành thánh, rất thanh cao; và, phải được Hội thánh tuyên dương công trạng “Tiến Sĩ”, của nhà Đạo.

Duy chỉ các bậc hiển thánh mới được phép lĩnh nhận tước hiệu này. Chính vì thế, nhiều đấng bậc vị vọng từng sống ở thời Giáo Hội tiên khởi, từng viết nhiều sách nổi tiếng, nhưng một khi không được phong thánh, vẫn không phải là Tiến Sĩ Hội thánh.
Các thánh tử đạo, chẳng hạn, tuy lành thánh rất mực, nhưng chẳng có vị nào được Giáo hội phong làm Tiến Sĩ Hội Thánh, hết. Thậm chí, ngay như các bậc thánh nổi danh như: thánh Irênê, thánh Cyprianô, là đấng bậc rất vị vọng, từng đóng góp rất nhiều điều bổ ích vào kho tàng giáo huấn của Hội thánh, vẫn không được gọi là Tiến Sĩ Hội Thánh, bao giờ. 
Một lý do khác nữa, là: các thánh tử đạo có lẽ vì đã được Hội thánh tuyên dương mức tối cao rồi, không còn danh hiệu nào cao quý hơn để áp đặt cho vinh quang của các ngài hơn được nữa.
Dù rằng về mặt tín lý, các Tiến Sĩ Hội thánh đều rất trổi trang, cũng không có luật đòi buộc các ngài phải đưa ra nhiều bài viết có giá trị. Chẳng hạn như, trong khi thánh Âu Tinh và Gioan Chrysostômô đã để lại rất nhiều bài viết, các vị khác như thánh Catarina thành Xiêna và thánh Nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, còn có khi viết rất ít, hoặc chẳng viết gì hết.
Mọi việc còn tùy vào quyết định của Đức Giáo Hoàng có đồng ý tuyên dương vị nào là Tiến Sĩ Hội Thánh hay không, thôi. Đức Giáo Hoàng tiên khởi làm việc này là năm 1295, Đức Bônifaxiô VIII đã tuyên dương 4 vị Tiến Sĩ Hội Thánh gốc Tây Phương, sống vào 6 thế kỷ đầu, là: thánh Ambrôxiô, thánh Âu-Tinh, thánh Giêrônimô và Đức Giáo Hoàng Grêgôriô Cả.
Đối ứng với các vị này, còn có 4 Tiến Sĩ Hội Thánh thuộc Phương Đông, cũng được tuyên dương cùng thời kỳ, là các thánh: Gioan Kryzốtômmô, Baxin Cả, thánh Grêgôriô thành Nazanziô và thánh Atanaxiô. Dù các ngài được phong thánh rất sớm, từ trước, Đức Piô V cũng chỉ chính thức công nhận các ngài là Tiến Sĩ Hội thánh vào năm 1568, mà thôi.
Cùng năm 1568, Đức Piô V cũng đã tuyên dương vị thánh đồng môn Đa Minh của ngài là thánh Tôma Akinô làm Tiến Sĩ Hội Thánh. Vào năm 1588, Đức Giáo Hoàng Sixtô V thêm vào danh sách các Tiến Sĩ Hội Thánh tên của thánh Bônaventura.
Mãi cho đến thế kỷ thứ 18, con số các Tiễn Sĩ Hội Thánh của Đạo chỉ gồm có 10 vị, thôi. Phải chờ đến thế kỷ thứ 20, con số các thánh này mới gia tăng. Cho đến hôm nay, số các ngài lên đến 33 vị. Và, chỉ có 3 trong số các ngài, là phụ nữ.
Năm 1970, Đức Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục đã chính thức phong cho Têrêxa thành Avila và thánh Catêrina thành Viên làm Tiến Sĩ Hội thánh. Đến năm 1997, Đức Gioan Phaolô Đệ Nhị lại đã thêm vào danh sách các vị Tiến Sĩ Hội Thánh, tên tuổi của thánh Têrêxa Hài Đồng, thành Lisieux, nước Pháp.
Vào thế kỷ thứ tư và thứ năm, các Tiến Sĩ Hội Thánh lúc bấy giờ gồm thánh Êphrem, Hilariô, Xirinô thành Giêrusalem, Xirinô thành Alexandria, Đức Lêo Cả và thánh Phêrô Chrysôlôgô. Năm thế kỷ tiếp theo sau, ta có thánh Isiđôrô thành Sêvilla, Chân Phước Biđê và thánh Gioan Đamátxinô.
Từ thế kỷ thứ 11, ta có các thánh Phêrô Đamaniô và Anxem. Ở thế kỷ thứ 12 và 13, ta có các thánh Bernađô thành Clevô, Antôn Pađua, Anbertô Cả, Bônaventura và Tôma Akinô. Thánh Catarina thành Xiêna sống vào thế kỷ thứ 14.
Thời kỳ nhiễu nhương chống cải cách vào thế kỷ thứ 16 và tiền bán thế kỷ thứ 17, đã sản sinh thêm nhiều Tiến Sĩ Hội Thánh rất cao cả, là thánh nữ Têrêxa thành Avila, Gioan Thánh Giá, Phêrô Canixiô, Rôbợt Belamin, Lôrenxô thành Brindixi và PhăngXoa LaSan.
Hai Tiến Sĩ Hội Thánh cuối cùng là thánh AnPhong Ligôri, sống vào thế kỷ thứ 18 và thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu thành Lixiơ ở thế kỷ thứ 19. Trong số 33 vị Tiến Sĩ của Hội Thánh nói trên, có 25 vị thuộc Giáo hội Phương tây và 8 vị thương Hội thánh Đông Phương. Về hội dòng và triều, 14 vị thuộc đấng bậc triều và 16 thuộc dòng tu. Trong số các Tiến Sĩ của hội thánh, có 2 vị là Giáo hoàng, 18 Giám mục , 9 linh mục và 1 phó tế.
Trong số các Tiến Sĩ Hội thánh sống đời tu trì, 5 vị thuộc Dòng Biển Đức, 3 vị thuộc Dòng Kín Camêlô, 3 Đaminh, 3 Phanxicô, 2 vị thuộc Dòng Tên, 1 Dòng Xitô và 1 Dòng Chúa Cứu Thế. (x. John Flader, The Catholic Weekly 20/9/2009, tr. 10)      
   
                Về những “nói”, nhiều vị nói rất nhiều chuyện. Nhiều việc. Và, nhiều người. Có người và việc rất nổi tiếng. Gì cũng nhất. Gì cũng hơn hẳn mọi người. Mọi sự. Những vị “hơn hẳn mọi người” ấy, tên tuổi họ đều được ghi vào sách “kỷ lục Guiness”. Sách này được cập nhật hoá, từng năm/tháng. Rất thời thượng. Nhưng, có rất nhiều điều cũng rất ư là “kỷ lục”, mà lại không được ghi vào sách. Những người/những điều được coi là “nhất trên đời”, nhưng không được ghi vào sách, nói ở trên. Nên kể đến, là:

“Thói quen tệ hại nhất,cho đời: Ưu tư
Niềm vui cao quý nhất:   Cho đi
Mất mát to lớn nhất: Mất tự trọng
Công việc khiến ta hài lòng nhất: Giúp đỡ 
Nét vẻ xấu xí nhất của con người: Lòng vị kỷ
Người/vật có nguy cơ dễ bị tuyệt chủng nhất: Lãnh tụ  
Tài nguyên thiên nhiên cao quý nhất: Tuổi trẻ 
Liều thuốc bổ ích nhất: Sự khích lệ 
Khó khăn lớn nhất cần vượt qua: Nỗi niềm hãi sợ
Thuốc an thần hiệu nghiệm nhất:   Sự thanh thản
Căn bệnh khiến ta khập khễnh thất bại nhất: Kiếm cớ
Sức mạnh uy phong nhất trong đời:   Tình yêu
Tiểu nhân nguy hiểm nhất:      Ngồi lê đôi mách
Vi tính lạ kỳ nhất:     Não bộ thần kinh  
Thiếu nó, ta sẽ trở nên tồi tệ nhất từ xưa đến nay:Hy vọng
Vũ khí giết người ghê rợn nhất: Lưỡi mềm uyển chuyển
          Cụm từ có tác dụng nhất:        “Tôi làm được”
Tài sản lớn nhất: Niềm tin
Tình tự vô dụng nhất:      Thương hại chính mình
Nữ trang hấp dẫn nhất: NỤ CƯỜI
Vật sở hữu giá trị nhất: Sự liêm sỉ
Đường dây trao đổi hiệu nghiệm nhất:  Lời nguyện 
cầu
Đức tính dễ lây lan nhất:     Niềm phấn khởi 

Xem như thế, “nói về cuộc đời”, là nói về những gì hay nhất, đẹp nhất. Cần nói. Cần kể. Nói về cuộc đời, là nói về những điều như thế. Những thứ, mà truyền thông đại chúng, cũng như báo đài/sách vở, ít khi ghi. 
Hỏi và nói, về người đời/đời người, đừng nên hát lời cuối của nghệ sĩ nói trên, ghi bên dưới: 

“Đừng bao giờ em hỏi
Vì sao ta yêu nhau
Vì sao môi anh nóng
Vì sao tay anh lạnh
Vì sao thân anh rung
Vì sao chân không vững
Vì sao, và vì sao!” 
 (Anh Bằng/Du Tử Lê – bđd)

Vì thế nên, khi hỏi và nói điều gì đi nữa, đời người vẫn như thế. Trừ phi, người đời biết nghe Lời Thầy Chí Ái, từng nói. Ngài nói rất chí lý. Từ ngàn xưa:

“Phúc cho những kẻ biết thương xót,
vì họ sẽ được xót thương.” 
(Mt 5: 7)

Và, hiền nhân/tiến sĩ của Hội thánh, lâu nay là những người từng nói. Từng nghe. Từng làm theo Lời Thầy. Rất đúng. 

Trần Ngọc Mười Hai
có bao giờ dám nói,
nhưng chỉ dám hỏi.
Hỏi mình. Hỏi người.
Về đời người. Và người đời. 



















26. “Nếu một mai khi hòa bình” 
Anh sẽ dìu em qua lối xưa 
Cho từng ngón tay đan lại”
(Trần Thiện Thanh – Lời Cho Người Yêu Nhỏ)

(Ga 16: 13/1Cr 6: 19)
Nếu phải chờ đến một mai, khi hoà bình, anh mới có “Lời Cho Người Yêu Nhỏ”. Chậm quá chăng? Nhiều bạn, nhiều người như tôi, vẫn cứ bảo rằng đã có và hiện có những Lời nói ấy cho người yêu lớn/nhỏ, vào mọi thời. Ngàn năm trước. Triệu năm sau. Lời cho người yêu lớn/nhỏ, ý hẳn là Lời Yêu Đương. Của Đức Chúa. Tình Yêu. Tình giữa Cha và Con, như các đấng bậc đang làm. Hôm nay.
Việc các-đấng-bậc-đang-làm, bần đạo nhớ có lần sang Mỹ, được nghe người anh cùng trường, dõng dạc tuyên bố: anh từng về quê, đặt tay lên đầu/trán người-dân-đi-Đạo ở Tây nguyên, làm “té/ngã” cả trăm người. Bần đạo lúc ấy, chẳng hiểu mô tê/ất giáp gì là “té” với “ngã” khi bị người anh “rờ trán”, có ấm không. Nhưng nghĩ là, mỗi khi Thần Khí đến với ai, chắc cũng có cảnh ngã/té, trong tâm hồn!
Dù gì nữa, bần đạo nay dám mời bạn, mời tôi, ta bước vào vùng Kinh Sách xem chương đoạn nào nói chuyện té/ngã, khi Thần Khí đến với ta? Trước nhất, một chương đoạn chính mạch:

“Đó là Thần Khí sự thật, 
Đấng mà thế gian không thể đón nhận, 
vì thế gian không thấy 
và cũng chẳng biết Người. 
Còn anh em biết Người, 
vì Người luôn ở giữa và trong anh em.”
(Ga 14: 17)

Và,

“Khi Thần Khí sự thật đến, 
Người dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. 
Người sẽ không tự mình nói điều gì, 
nhưng tất cả những gì Người nghe, 
Người sẽ nói lại, 
và loan báo cho anh em biết 
những điều sẽ xảy đến.”
(Ga 16: 13)      

Nghe Lời Thật, chắc mọi tâm hồn đều sẽ sáng ra. Sáng, như thánh Phaolô từng quả quyết:

“Hay anh em lại chẳng biết rằng 
thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? 
Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em 
là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh 
em. 
Như thế, anh em đâu còn thuộc về mình nữa.”
(1Cr 16: 19)

Xem thế thì, chuyện “té/ ngã” chẳng có gì là quan trọng. Vì một khi, thân xác đã được sáng, thì mình lại càng phải làm cho sáng hơn sự thật ấy, với mọi người. Như đấng bậc nọ ở Sydney từng đề cập trong Lễ Ngũ Tuần năm 2009, với lời hỏi/đáp rất như sau:  

“Tôi có vài bạn được ơn thần hứng, dấy tràn ơn Chúa Thánh Thần. Các vị này được nói “tiếng lạ”, lại tham gia các buổi chữa lành, nhiều tật bệnh. Xin hỏi: tôi cần phải làm gì thêm, để có được tương quan đậm sâu với Thánh Thần Chúa, mà chẳng cần yếu tố “thần hứng”/”nói tiếng lạ”, đặc biệt như thế?  

Không như người nghệ sĩ, thường chỉ hát:

“Dù mưa qua, vùng giá rét
trời xanh trong, lòng đôi ta
mình yêu nhau, như khi vừa mới biết, nghe em!”
(Trần Thiện Thanh – bđd)

đấng bậc mình, cũng đã trả lời ngắn và gọn, như sau:
“Khi Chúa Thánh Thần chứng tỏ sự hiện diện và sức mạnh quyền uy của Ngài bằng nhiều phương cách phi thường, bắt đầu bằng Lễ Hiện Xuống và còn tiếp tục cho đến hôm nay, thì mọi tín hữu chúng ta đều có thể và phải có tương quan mật thiết với Ngôi Ba Thiên Chúa. 
Hãy để tôi thêm đôi lời giải thích, theo cách nào khác, rằng ta làm được việc này, nhờ dựa trên các vai trò khác nhau của Chúa Thánh Thần, được nhắc đến trong Kinh Thánh.
Vào Buổi Tạ Từ, Chúa nói: Thánh Thần Chúa sẽ “ở với anh em mọi ngày, và mãi mãi”, và: “Ngài luôn ở giữa, và ở trong anh em.” (Ga 14: 17). Đồng thời, thánh Phaolô cũng viết cho giáo đoàn Côrinthô, trong đó nói: “thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần ngự giữa anh em” (1Cr 6: 19)
Việc này mở ra một triển vọng về đời sống tâm linh cho chúng ta. Ta có được phẩm cách làm đền thờ Chúa Thánh Thần đến ngự vào lòng mình. Vì thế, ta có khả năng tiếp cận, chuyện vãn với Thánh Thần Chúa, không phải “ngoài kia”, mà “ở đây”. Bây giờ. Ngài là “Vị Khách ngọt ngào thân mật cho tâm hồn”.
Nhận thức về phẩm cách này thôi thúc ta chiến đấu hăng say, chống phạm lỗi, chí ít là những lỗi phạm đối với thân xác, của chính ta. Chính trong bối cảnh ngôn ngữ ấy, mà thánh Phaolô minh định thêm rằng ta là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Và thánh nhân kết luận: “Anh em không còn thuộc về mình nữa. Nhưng đã được mua chuộc, bằng giá cả hẳn hòi. Vậy, hãy tôn vinh Thiên Chúa nơi thân mình anh em.” (1 Cr 6: 19-20).
Hơn nữa, vào Buổi Tạ Từ, Đức Giêsu nói về Chúa Thánh Thần rằng Ngài là “Thần Khí Sự thật”, Đấng dẫn đưa ta tới sự thật hoàn toàn (Ga 16: 13). Điều này áp dụng vào đời sống người Kitô hữu, rất nhiều.
Những ai từng học hỏi bằng nhiều cách, dù cách trần tục hoặc tâm linh, đều có thể kêu cầu Chúa Thánh Thần dẫn đưa mình về với sự thật. Cho bất cứ bộ môn nào mình học hỏi. Hoặc nghiên cứu.
Cũng thế, nếu ai thấy khó nắm bắt sự thật về bất cứ vấn đề riêng tư, đặc biệt nào đều có thể kêu cầu Chúa Thánh Thần soi sáng, chỉ dẫn. Và vị nào đang hướng dẫn/dỗ dạy một ai, cũng có thể xin Chúa Thánh thần dẫn dắt mình và những người mình dạy dỗ, đi vào sự thật, cần có.
Thánh Phaolô cũng viết cho giáo đoàn Rôma nói rằng: Chúa Thánh Thần luôn dẫn nhập nơi ta tính sâu sắc của phận làm con Thiên Chúa. Sâu sắc, không chỉ về tính cách của thọ tạo mà thôi, nhưng đặc biệt ở nơi con cái Chúa, Đấng là Cha của mình: 

“Quả vậy, phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa. Phần anh em, anh em đã không lãnh nhận Thần Khí khiến anh em trở thành nô lệ và phải sợ sệt như xưa, nhưng là Thần Khí làm cho anh em nên nghĩa tử, nhờ đó chúng ta được kêu lên: "Áp-ba! Cha ơi!" Chính Thần Khí chứng thực cho thần trí chúng ta rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa.”(Rm 8: 14-16).
Cả vào khi ta gặp rắc rối, hoặc té/ngã, hiểu theo cách nào đó, Thiên Chúa vẫn không ở xa. Ta vẫn có thể cầu Chúa Thánh Thần giúp ta kêu thành tiếng “Abba! Cha ơi!”, và nhớ rằng Thiên Chúa không ở đâu đó, tránh xa ta. Ngài là Cha luôn thương yêu ta nên đã gửi Con Một Ngài xuống chết cho ta. Tất cả chúng ta đích thực là con Ngài.

Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, thánh Phaolô cũng viết:
 “Hơn nữa, có Thần Khí giúp cho ta là những kẻ yếu hèn, vì ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho ta, bằng tiếng rên khôn tả. Và Thiên Chúa thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh, theo đúng ý Thiên Chúa.” (Rm 8: 26-27)

Có thể, nhiều lúc ta thấy khó lòng mà nguyện cầu, vì không biết phải ăn làm sao nói làm sao; hoặc, khô khan nguội lạnh. Chính đó là lúc ta đến với Thánh Thần xin Ngài can thiệp cầu bàu cho ta, để rồi Thiên Chúa là Cha biết rõ những gì đang xảy đến trong tâm can. 
Bao giờ cũng thế, Thánh Thần Chúa là Tình Yêu giữa Cha và Con, và “Nhờ có thế, ta sẽ không thất vọng. Bởi, Thiên Chúa đã đổ tình yêu tràn đầy của Người cho ta, nhờ Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5: 5), chúng ta được kêu gọi trở nên thánh thiện , tràn đầy tình thương, nhưng nhiều lúc ta vẫn chỉ muốn làm mỗi bổn phận, như: đi lễ đều đặn ngày của Chúa, thôi. Vậy, cũng nên xin Chúa Thánh Thần như ta vẫn thường cầu, bằng lời kinh: “Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người luôn thăm viếng hồn con, thêm sức cho con tình yêu chan chứa..” như thế, để cuộc sống tâm linh của ta sẽ phản ánh mối tình ta có đối với Chúa. Với đồng loại.
 Cuối cùng, tựa như Chúa Thánh Thần đã ngự đến với các thánh tông đồ vào ngày Lễ Ngũ Tuần và nhờ Ngài đã biến đổi ta trở thành các nhà truyền giảng hăng say, thiện chí cho Chúa Phục Sinh. Nhờ Ngài, ta có thể nguyện cầu Chúa Thánh Thần đổ đầy nơi ta, lòng hăng say sốt mến, quyết đưa dẫn mọi người về với Đức Kitô. Và như thế, ta có thể yêu cầu Ngài ban cho ta được đặc ân “nói tiếng lạ”, không phải bằng thứ ngôn ngữ ít ai hiểu biết, mà bằng phương cách nào khả dĩ đến với tâm hồn và thần linh của bạn bè. Chúng ta.”(Lm John Flader, The Catholic Weekly, 31/5/2009, tr.10)

Đọc đến đây, hẳn bạn và tôi, ta cũng đã an tâm mãn nguyện phần nào về ngôn từ mà các người anh người chị hiện vẫn sử dụng, như “té/ngã”, “nói tiếng lạ”. Rất cảm thông. Cảm và thông, như nghệ sĩ ở trên, lại hát thêm một lần nữa:
“Nếu một mai khi hoà bình,
anh có trở về như em khát khao
cho lệ mắt em thôi đong đầy..” 
 (Trần Thiện Thanh – bđd)
Lệ mắt ấy, là những giọt đong đầy, nhiều u uất. Lệ mắt nay, sẽ là:
“Đêm hoả châu sáng nhớ thương trên tuyến đầu,
Nơi cuối trời em thắp vì sao…”
 (Trần Thiện Thanh – bđd)

Đã đành là, tuyến đầu nơi ấy, có hoả châu. Cuối trời nay, đầy tràn những vì sao. Sao yêu thương. Sao nguyện cầu. Cho em thắp. Để anh yêu. Yêu và thắp lên những vì sao an vui như tình của Cha-Con. Rất Thánh Thần. Tình ấy, nay dẫy đầy, nơi mọi người. Cả người ở ngoài nhà Đạo, của chúng ta. Tình hiện rõ, như lời khẳng định bên dưới, để minh họa: 

“-Nếu không có Tình Yêu, bổn phận khiến người ta dễ nóng giận.
-Nếu không có Tình Yêu, Trách nhiệm đẩy còn người đến chỗ bất nhã.
-Nếu không có Tình Yêu, Sự thật biến con người thành kẻ ưa soi mói.
-Nếu không có Tình Yêu, Sự khôn ngoan dẫn bạn tới chỗ láu cá.
-Nếu không có Tình Yêu, đon đả biến con người thành giả trá.
-Nếu không có Tình Yêu, Sự am hiểu đẩy bạn thành kẻ cố chấp.
-Nếu không có Tình Yêu, Quyền lực khiến ta trở thành kẻ áp bức.
-Nếu không có Tình Yêu, tiếng tăm làm ta trở thành người cao ngạo.
-Nếu không có Tình Yêu,Của cải làm bạn nên tham lam.
-Nếu không có Tình Yêu, Lòng tin biến ta thành kẻ cuồng tín.
-Nếu không có Tình Yêu,trên đời này bạn và tôi, mình cũng chẳng là gì cả!!!

Nói cho đúng, nếu thay cụm từ “Tình Yêu”, bằng “Thánh Thần Chúa”, thì bạn và tôi, tất cả chúng mình sẽ hiểu thế nào là ơn “té/ngã”. Nói tiếng lạ. Trong đời. Với người người.
Trần Ngọc Mười Hai
thôi không còn thắc mắc
những “té/ngã” và “nói tiếng lạ”
Vì đã hiểu.
Và cảm thông.

27.“Đừng xa nhau! Đừng quên nhau!”
Đừng rẽ khúc tình nghèo 
Đừng chia nhau nỗi vui niềm đau.
(Phạm Duy – Đừng xa nhau)

(Cv 9: 32-43)
Xưa nay, người người vẫn cứ bảo: “Đừng xa nhau!” Bảo rồi, lại nói: “Đừng quên nhau!” Thử hỏi, phải chăng đây là nhắn nhủ nhỏ to, từ người nhà? Nhà Đạo. Nhà thơ. Và, là căn dặn của các cụ nhà ta. Bảo ban. Khuyên bảo. Của ai đó. Có lời to nhỏ. Thắc mắc. Trên đường dài, con tàu cuộc đời. Còn nghe kể:

“Trên chuyến tàu nọ, có người phụ nữ đẹp. Có bà già và ba đàn ông. Tới đoạn hầm bến dưới đèo, bỗng nghe lào xào một tiếng "chụt!" rồi tiếng "bốp!", đến vang rền. Kế đến, một phản ứng, nhiều lúng túng.
Bà già nhà ta bèn nghĩ thầm: 
-Bọn trẻ bây giờ thật quá quắt!". 
Người nữ đẹp, lại nghĩ khác: 
-Sao bã được người khác ôm hôn, còn mình thì không?". 
Người đàn ông thứ nhất, lật đật nghĩ:
-Một lát nữa, đến đường hầm tới mình hôn tiếp, cũng dễ thôi! 
Người thứ hai thì khác hẳn:
-Đứa nào mà còn hôn với hít nữa, ta sẽ tát cho gãy hết răng, cho mà xem!
Còn, người đàn ông thứ ba, thì quyết chí:
-Mẹ nó chứ! Tao mà biết là thằng nào tát trộm vào mặt tao thì tao sẽ đập nó một trận cho sặc gạch!"

Có nghĩa là, cùng một âm thanh. Cùng một động tác. Một sự kiện. Nhưng, mỗi người lại nghĩ suy một khác. Khác nhiều lắm. Ghê lắm. Khác đến độ, mang theo những tình tiết, vẫn chưa biết. Nay, ta chỉ biết mỗi một điều, là: lời lẽ phát biểu ở trên, có lời kèm theo yêu thương. Da diết. Có lời, chỉ tỏ bày tình cảm khích bác. Lạc điệu. Lạc, cả âm hưởng thân thương, lẫn lời ca. Vậy, ta nghe tiếp:

“Đời phai mau, người ghen nhau,
lòng vẫn cứ ngọt ngào,
Miệng ru nhau những ân tình sâu.”
 (Phạm Duy – bđd)

Ân tình sâu, mà nghệ sĩ già đã trải qua, là mối hỉ nộ ái ố đủ bẩy thứ tình, tựa như thứ tình và tự của nghệ sĩ nọ từng hồi hướng trở về với “quê trời” Hội thánh, “cụ sáu” Vũ Thành An. Nếu quả có khác, thì hẳn là dân con nhà Đạo của ta, sẽ có nhiều đề tài để sẻ chia. Nghe cũng thích. Đề tài để chia và sẻ, là tư tưởng nhè nhẹ. Hiền hoà. Vui tươi. Được ghi vội ở bên dưới:

“Tháng vừa rồi, ở Liên Hiệp Quốc người ta đưa ra một khảo sát nhỏ, nhằm phổ biến đến bà con dân thường, ở nhiều nơi. Phổ biến bằng những cú điện thoại gọn nhẹ chỉ làng nhàng hỏi đôi câu:  
Hỏi, là hỏi lẹ làng có mỗi câu như thế này:

“Xin quý vị vui lòng cho biết ý kiến trung thực về một giải pháp cho các trường hợp thiếu lương thực, với thế giới còn lại.”
Bản khảo sát gặp ngay thất bại cay đắng vì những lý do, như sau:
-Ở Đông Âu, người ta không hiểu được cụm “thành thực” mang ý nghĩa gì.
-Trong khi đó, ở Tây Âu người người chẳng bao giờ biết chữ “thiếu lương thực” có ý nói đến chuyện gì? Thiếu ra sao? 
-Ở Châu Phi, dân thường ở đây không ai hiểu ý nghĩa cụm từ “thực phẩm”là gì.
-Trung Quốc thì khác, ở đây chẳng ma nào biết chuyện, làm sao “cho ý kiến”?
-Ở Trung Đông, người dân trong vùng chẳng ai hiểu “giải pháp” có nghĩa gì.
-Bên Nam Phi, cũng không ai dùng và chẳng biết câu “xin vui lòng” là gì.
-Ở Hoa kỳ, mọi người chẳng hiểu cụm từ “với thế giới còn lại”, ám chỉ những ai.  
-Ở Úc, nghe khảo sát, người ta cúp máy vì không hiểu người Ấn độ nói tiếng Anh muốn quảng áo chuyện gì đây.  

Khảo sát. Thắc mắc. Với hỏi han, trên điện thoại hay khi tàu chạy, như “nghe tiếng lạ”. Tiếng lạ, có khi là tiếng mẹ đẻ. Hay, tiếng quốc tế, ta vẫn tưởng như thế. Tiếng lạ, hay việc lạ ông cha/ông thầy dòng đã và đang làm, đôi lúc cũng khó nghe ra. Khó cả chuyện hiểu biết. Cũng khác thường. Khác rất nhiều với sự thường, ta vẫn thấy. Vẫn nghe. Vì khác với sự việc bình thường, nên mới có lời ca mà người nghệ sĩ xưa nay vẫn hát, rất như sau:
“Đừng xôn xao , đừng khóc giấu
Đừng oán trách phận bèo.
Vì sông xa vẫn trung thành theo.” 
 (Phạm Duy – bđd)

Sông xa/người gần, vẫn trung thành theo. Theo một cách trung thành, nên đã nghe và đã đến. Nghe rồi đến, là tâm trạng của một số người nhà Đạo vẫn cứ thế mà thắc mắc. Hỏi han. Rất nhiều. Hỏi han khi còn tuổi trẻ. Han hỏi, cả khi về già.Ngang qua cuộc sống đã thấy nhiều và nghe nhiều, về đủ mọi chuyện. Như chuyện không nhỏ mà những người tuổi không còn nhỏ, vẫn thắc mắc.
Về thắc những chuyện lạ, xảy ra trong đời, vừa qua có người ở huyện nhà Sydney, cũng đã hỏi và han một điều, nghe xong vẫn còn thắc mắc. Người những hỏi và hỏi như sau:
“Cách đây không lâu, tôi biết có ông thầy Dòng Tên hay gì đó, đến đây giảng đạo về Chúa Mẹ và còn thực hiện phương pháp Reiki đặt tay lên trán/lên đầu người nghe để chữa lành một số bệnh. Có người được lành. Có người không. Thấy phương pháp chữa lành này hơi khả nghi, đối với tôi. Nên câu hỏi của tôi hôm nay, là: Giáo hội dạy gì về những sự việc như thế không?
Phải công nhận, là: chuyện chữa lành bệnh tật và “nói tiếng lạ”, đang là chuyện nhạy cảm với các người trong ngoài nhà Đạo, ở Sydney, nên tuần báo The Catholic Weekly đã có bài giải đáp “khúc mắc” từ đấng bậc vị vọng có tên nghe quen quen là đức thầy John Flader, rất chung như sau:
“Theo tôi biết, thì Toà thánh La Mã lâu nay không đưa ra văn bản nào đề cập đến việc chữa lành theo phương pháp Reiki, hết. Tuy nhiên, hôm 25/3/2009, Ủy Ban Tín Lý thuộc Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ có đưa ra một tài liệu lấy tên là “Bản Hướng dẫn Thẩm định việc Chữa Lành theo Phương Pháp Reiki coi đó như phương pháp Trị Liệu thay vào đó”. Và hôm nay, trả lời cho câu hỏi bạn nêu về việc chữa lành, tôi chọn bản văn trên làm tài liệu căn bản, hầu dẫn chứng.
Trước hết, Reiki là gì? Đây là kỹ thuật chữa lành được phát minh tại Nhật vào cuối thế kỷ thứ XIX. Kỹ thuật này bao gồm việc dùng tay đặt lên khu vực nào đó trên cơ thể của người bệnh, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho “Reiki” chảy tuôn vào đó. Reiki là “lực sống hoàn vũ” hầu chữa lành. 
Làm việc này, người thực hiện Kỹ thuật chữa lành phải được bậc Thầy môn phái Reiki khai sáng hoặc “chỉnh sóng” cho, mới thành công. Người đầu tiên gầy dựng nên môn phái này là Mikao Usui, sư tổ từng học hỏi kinh Phật để triển khai kỹ thuật ấy. 
Giới Công giáo đánh giá thế nào về kỹ thuật này?
Trả lời câu hỏi này, ta nên nhớ lại rằng Hội thánh nhận ra hai loại chữa lành đặc biệt, là: chữa lành bằng ân sủng và bằng sức mạnh thiên nhiên.
Kỹ thuật đầu, ta đều biết Đức Giêsu đã chữa lành cho biết bao nhiêu người bằng cách đặt tay trên người họ. Ngài khuyên các thánh tông đồ hãy tiếp tục việc chữa lành ấy. Thời các thánh tông đồ, Hội thánh kều cầu Chúa đến với người bệnh, xin Ngài chữa lành cho họ, nhờ vào sức mạnh quyền uy của Chúa Thánh Thần. Hội thánh vẫn làm thế, ngang qua việc xức dầu kẻ liệt hoặc bằng vào lời cầu cho bệnh nhân.
Với kỹ thuật sau, Hội thánh đề nghị ta trông cậy vào phương cách tự nhiên mà chữa bệnh bằng thuốc thang. Và, lịch sử minh chứng là Hội thánh từng chăm lo chữa trị người bệnh theo cách này. Đặc biệt hơn, qua hệ thống bệnh viện, ở nhiều nơi.
Vậy thì, Phương pháp Reiki ăn khớp với kỹ thuật nào trong hai cách nêu trên?
Nói đến phương pháp Reiki, là nói về phương cách “tâm linh” chữa lành bệnh. Khi nói thế, ngôn ngữ gồm đầy những qui chiếu dẫn về Thần Linh Nam hoặc Nữ. Có lúc, lại qui về “quyền uy có sức mạnh để cứu chữa”, hoặc “Đấng Thượng Trí”, vv.. Năng lực sống động của Reiki được mô tả là có Thiên Chúa dẫn dắt. Thiên Chúa ở đây, là như “Thần trí Tối Cao” hoặc “linh đạo thánh thiêng” mà người thực thi chữa lành vẫn nhận được uy lực của các thần ấy qua “nghi thức thánh tế”. Và, các nghi thức này sử dụng các “đặc trưng linh đạo”. Hiểu theo nghĩa này, thì dường như phương pháp Reiki rơi vào phạm trù chữa lành, do quyền lực của thần linh bổ sức. Hỗ trợ.
Dù sao đi nữa, người thực thi phương pháp Reiki coi nghệ thuật chữa lành mà họ thực hiện, như phương tiện để chữa trị. Phương tiện này chủ trương làm thế nào để thành công hay không là do tài khéo léo của người đó. Chính vì thế, uy lực để chữa lành nằm trong quyền sinh sát của họ. Và từ đó, phương cách chữa lành được truyền tụng từ Sư Tổ Reiki. Và một khi đồ đề được Sư Tổ Reiki “truyền tâm ấn” cho mình rồi, thì những người như thế cũng sẽ tạo kết quả như mình mong ước. Cuối cùng thì, đây cũng là kỹ thuật tự nhiên, thường tình thôi. 
Rồi từ đó, việc thẩm định phương pháp Reiki theo lập trường của tín hữu Đức Kitô cũng là chuyện dễ.    
Cứ coi đây như việc chữa lành theo cách tự nhiên, có thể cũng có một số cung cách chữa lành theo phương pháp tự nhiên nào đó vẫn chưa được khoa học công nhận, hoặc hiểu rõ. Vì thế, có thể nói là: phương pháp Reiki thiếu mất sự tin tưởng của ngành khoa học. 
“Năng lực sống động hoàn vũ” được kể là vẫn có mặt ở mọi chuyện/mọi thứ. Và, năng lực ấy vẫn do con người kiểm soát, thì đến nay, khoa học tự nhiên vẫn chưa biết đến. Chưa thừa nhận. Bởi, vẫn thiếu sót, không được các khoa học gia nghiên cứu tính hiệu quả của phương pháp ấy. Và, vẫn chưa được cộng đồng khoa học và y tế chính thức thừa nhận. Cũng chưa có ai chấp nhận là phương pháp Reiki là hình thức chữa lành do sức mạnh thánh thiêng ban cho.
Tín hữu Đức Kitô, khi thực thi việc chữa lành cũng có kêu cầu Chúa xuống ơn lành để họ có thể chữa cho người bệnh, họ vẫn không mong là Chúa sẽ chữa cho hết mọi trường hợp bệnh lý. Trong khi đó, thì người chữa lành theo phương pháp Reiki có thể cũng kêu cầu Thượng Đế giúp đỡ; nhưng khi đó, họ lại quá tin vào kỹ thuật mà họ thụ giáo từ Tổ Sư Reiki. Họ cứ nghĩ rằng mình có khả năng tạo hiệu quả khi thực hiện việc chữa lành ngang qua quyền uy thế lực của các vị thần nam nữ, mà họ nhận được năng lực đó. 
Thêm vào đó, Kinh thánh hoặc Truyền thống Giáo Hội không nói gì đến hiện tượng “năng lực sống động hoàn vũ”, cả. Vì thế nên, chỉ những người nghĩ ràng quyền năng chữa trị của họ là do ý lực hoặc lực tư tưởng của mình có thể khống chế được sự việc như thế. Quan điểm này, bắt nguồn từ một số tôn giáo ở phương Đông có khuynh hướng phiếm thần hay sao đó. Các tôn giáo này tin rằng sức mạnh thần linh được định dạng chung với thế giới. Vũ trụ.
Cuối cùng thì, bản Hướng dẫn của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ đi đến kết luận bảo rằng: “Phương pháp chữa lành theo cung cách của Reiki không phù hợp với Giáo huấn của Hội thánh và cũng chẳng có bằng chứng gì là phương pháp này mang tính khoa học. Vậy thì, tín hữu nào tự mình đặt tin tưởng vào phương pháp Reiki rồi cũng sẽ tự mình ở vào tình huống mang tính dị đoan.” (x. John Flader, The Catholic Weekly 17/5/2009 tr. 10)

Về chữa lành, hẳn bạn và tôi, ta nhớ về truyện kể trong sách Công vụ. Ở đó, có đoạn thánh Phêrô đã chữa lành người bệnh sinh sống ở thành Lốt. Dịp ấy, thánh Phêrô cũng đã có lời khuyên nhủ rất lành thánh, như sau:
“Anh Ê-nê, 
Đức Giê-su Ki-tô chữa lành cho anh. 
Hãy chỗi dậy và dọn dẹp giường đi!" 
Lập tức người ấy đã chỗi dậy.
Dân cư ở Lốt và Sa-rôn hết thảy đã thấy anh, 
và họ đã trở về với Chúa.”
(Cv 9: 32-35)

Xem như thế, chữa lành bệnh tật, không phải để làm một việc gì khác, ngoài chuyện cho người bệnh được “chỗi dậy”. Chỗi dậy, là vùng chỗi đứng dậy. Đứng dậy, để về với Chúa. Như bà goá nọ ở Gia-phô, là người được thánh Phêrô cứu sống, bà cũng đã chỗi và đã dậy, như sau:

“Phêrô cầu nguyện rồi nói: “Tabitha, Hãy chỗi dậy!”
Mở mắt ra, bà thấy ông Phê-rô, bèn ngồi dậy.
Đưa tay đỡ bà đứng dậy, 
rồi gọi các thánh cùng các bà goá  
Phêrô cho thấy là bà đã sống. 
Cả thành Gia-phô đều biết việc này, 
và lắm người đã tin vào Chúa.”
(Cv 9: 40-43)

“Chữa lành”, không phải để làm sự lạ, hoặc “nói tiếng lạ”. Nhưng là, để người người “về với Chúa”. “Tin vào Chúa”. Thành thử, vấn đề là: lòng hỏi lòng xem có bao giờ mình được chữa và được lành? Đã được rồi, mình có làm cho mọi người “về với Chúa”, “tin vào Chúa”, không? Hoặc, mình chỉ lo có mỗi chuyện, là chạy theo mà xem sự lạ/việc lạ. Cho nó lạ. Thế thôi. 
Hỏi, là hy vọng đã có câu trả lời. Ngay lúc hỏi.  
 
Trần Ngọc Mười Hai  
Vẫn tin chuyện chữa lành,
nhưng còn thắc mắc: làm thế, thay đổi được gì?
Ta chữa lành được mãi chăng?


 


28. “Ngoài hiên mưa rơi rơi,”
Lòng ai như chơi vơi 
Người ơi, nước mắt hoen mi rồi.”
(Trịnh Công Sơn – Ướt mi)

(Rm 12: 1)
Làm người đi Đạo… giữa đời, đôi lúc bà con mình tưởng cũng nên lắng tai xem, người đời nói thế nào về nhà Đạo, ở đời? Mới đây, có bạn đạo đã không nói mà chỉ kể cho bần đệ nghe về những gì bạn ấy đã tai nghe mắt thấy. Chuyện xảy đến, vào buổi lễ hôm ấy. Lễ, Chúa nhật thứ 26 thường niên năm B, có Lời Chúa về “cớ vấp phạm”. Trong lễ, đức thày nọ đưa ra bài chia sẻ, bảo rằng: “Chúa nói: nếu tay chân làm cớ cho ta sa ngã, thì hãy chặt nó đi; thà cụt tay mà vào Nước Trời còn hơn … vậy thì, người “phạm tình” tạo cớ vấp ngã, chặt gì đây?” 
Bần đạo không nghe sẻ chia, lẫn han hỏi, chỉ âm thầm dám hát theo người nghệ sĩ:

“Buồn ơi trong đêm thâu, 
 ôm ấp giùm ta nhé.
Người em thương mưa ngâu,
hãy khóc sầu nhân thế…” 
(Trịnh Công Sơn – bđd)

“Sầu nhân thế”, khi mưa ngâu. Hay, khi nghe “đức thày” giảng lời trái khoáy. Nổ lỗ tai. Cũng chẳng dám khóc/dám bàn, về thế thái nhân sinh, tình chia sẻ. Chia Lời xẻ Chúa. Đến thế là cùng!
Về sẻ chia ở nhà thờ, có đức thày khác từ miền cực Nam nước Úc ghé bến Sydney cũng đã sẻ san lời Chúa sao cho gần gũi/ấm cúng hôm Hiển Linh năm hai nghìn lẻ sáu, bèn mào đầu bằng lời kể rất ư là chắc nịch: “Ba Vua đến thờ lạy Chúa và dâng Ngài lễ vật gồm Vàng, Nhũ hoa… ấy quên, Nhũ hương, và Mộc dược…” Và kể xong, đức thày cứ cười một mình, trong bầu khí rất căng của giáo đường im ắng. Xấu hổ. Lặng im. Lặng và im, nhưng rất bất bình về lối tiếu lâm “mặn”, buổi ấy.
Về tiếu lâm chay hay mặn, ở giờ lễ, nhiều đức thày nay mải mê những kể và lể. Kể nhiều đến độ quên rằng truyện kể chỉ để minh hoạ/diễn giải đôi điều về thần học khô cứng, rồi giảng tiếp. Có vị, quên mất những chi tiết thần học thánh kinh mình từng trải. Quên cả mục đích cần nhắm đến là sẻ san thông điệp của Chúa, vào buổi lễ. Để rồi, gặp cảnh tượng trái khoáy. Khó xử. Chẳng mang tính tiếu lâm chút nào, như ở dưới:

“Đức thày, có cố tật là mỗi lần diễn giải Tin Mừng Hội thánh công bố, “ngài” thường dùng đôi ba truyện ngắn rất tiếu lâm, kể cho giáo dân nghe, đỡ ngủ vùi. Không những chỉ kể thôi, “đức ngài” lại còn chỉ vẽ đôi điều khác biệt giữa tiếu lâm Tây và châm …(chích) ngôn ta, mà giải trí. Đức ngài nói thế này:
-Để mở đầu và cũng để diễn giải ý tưởng Lời Chúa nói hôm nay, xin liệt kê ra đây vài ba giai thoại, để quý ông bà cô bác các anh chị nghe mà suy nghĩ, xem có đúng không. Bên Tây người ta nói: đàn ông chú trọng đến “sex” trước, rồi mới tính đến “love”; đàn bà, thì chú trọng đến “love” trước rồi mới chấp nhận “sex”. 
Thấy giáo dân nghe có vẻ thâm thấm, “đức ngài” bèn tiếp tục giảng thêm một truyện nữa, mà rằng:
-Bên mình, người ta so sánh ba điều bốn chuyện về phong tục/tập quán, giữa Tây/ta, như sau: Tây có thói quen: ăn chậm, đi lẹ, hôn công khai, tè lén. Trong khi đó, người mình có thói tục: ăn lẹ, đi chậm, hôn lén, tè thì tè công khai. 
Thấy câu chuyện thứ hai, không thuyết phục người nghe, dù họ là giáo dân rất tinh thông, “đức ngài” bèn giải tiếp: Với người Tây: họp bàn, thì tranh luận. Họp xong, thì thống nhất ý kiến; triển khai, thì nhất trí… Với người Việt: họp bàn, thì nhất trí. Họp xong, mới bắt đầu tranh luận; lúc triển khai, thì mỗi người mỗi ý… chẳng ra làm sao…
Tới đây, vị diễn giải bèn hết ý. Kể mãi, cũng chẳng thấy giáo dân cười đồng tình, hoặc đắc ý/đắc nhân tâm gì hết trọi. Người ngủ gật. Kẻ lật đật, cựa quậy xem ra có vẻ không ổn. Và cứ thế, diễn giải quên mất đề tài mình muốn giảng. Cứ thế, cụ kể mãi. Không tìm ra bãi để đáp nhẹ.
Trên đường về, vợ chồng giáo dân cười khe khẽ, bảo nhau: Chà! hôm nay ông thầy kể chuyện tiếu lâm sao nhạt quá. Giảng thì lòng vòng, dài dòng văn tự, không chỗ kết. Hôm nao, mình phải có ý kiến phản hồi, mới được. Con gái nghe thế, góp ý:
-Ba mẹ sao hay phê bình cha cố, quá à! Bỏ tiền nhà thờ thì ba mẹ chỉ bỏ có 50xu, làm sao cha giảng hay, cho được!...

Cô em nói có lý, tuy không đúng. Hay hoặc dở, đâu phải do mình bỏ tiền nhà thờ ít hoặc nhiều. Mà là, đôi bên người giảng và người nghe có kiên nhẫn hay không, thế thôi. Kiên nhẫn, đối với giáo dân, nhất là giáo dân Việt, là ngồi nghe dài mấy cũng không thành vấn đề. Kiên nhẫn, đối với diễn giả, là: biết giảng ngắn và gọn. Dùng đòn tâm lý, mà giảng. Kiên và nhẫn, là ở chỗ: biết nắm bắt và diễn giải một vài điểm trong Tin Mừng cách sao cho thích hợp với trình độ, của người nghe. 
Về trình độ, cũng như tầm nhìn của người nghe, có truyện kể khác, tuy không hài hước tiếu lâm chay hay mặn, nhưng là bài học để đời. Để cho đời, thấy được những thứ như sau:
“Vợ chồng nọ, vừa dọn đến sống ở khu phố mới. Giờ điểm tâm, người vợ thấy bác hàng xóm, cứ chân cao chân thấp cố phơi tấm trải giường lên cho kịp nắng. Bà nói:
-Tội nghiệp cho cụ hàng xóm nhà mình quá, bố mày ạ. Cụ này, chắc yếu lắm rồi hay sao, mà giặt có mỗi tấm trải giường, cũng không sạch. Vẫn dơ như chưa giũ. Người chồng đến gần cửa sổ quan sát, chẳng nói chẳng rằng. Cứ lặng im. Không phẩm bình.
Ít lâu sau, cũng vào buổi sáng, lại thấy cụ hàng xóm lôi tấm trải giường ra phơi. Người vợ thấy tấm trải kỳ này sạch hơn trước, bèn lên tiếng:
-Bố mày nhìn kìa, thì ra cụ nay đã biết giặt biết giũ rồi. Hay, tại bố mình sang bên đó chỉ cho cụ biết cách mà giặt giũ, phải thế không?
-Không dám đâu! Đây, chẳng giảng và cũng chẳng dạy ai hết. Chả là hôm qua, anh  đây vừa chùi kính cửa sổ nhà mình để “má nó” nhìn qua hàng xóm cho rõ hơn, thế thôi. Có lẽ nhờ đó mà má mày mới thấy sạch. Dù tấm trải.

Và, lời bàn của người kể hôm nay, là thế này: Cuộc đời ta khi nào cũng thế. Mọi sự có sạch trong hay không, điều đó còn tuỳ tầm nhìn của mỗi người. Bởi thế, trước khi phẩm bình người khác, cũng nên kiểm lại tầm nhìn của mình, đã. 
Về giảng giải Lời Chúa, cũng thế. Giảng vui hay giảng giỏi, không thành vấn đề. Vấn đề chỉ thành, là khi người diễn và giảng thấy hài lòng và nắm chắc rằng: khi ra về, người nghe còn có “chút gì để nhớ, để thương”. Thương Chúa. Thương người. Nhiều hơn thương ta. Thương, như Lời Chúa vẫn diễn và vẫn giải, trong Kinh Sách rất Thánh. Ngoài ra, tất cả chỉ là phương cách chuyển tải thông điệp Chúa gửi, mà thôi.
Về sẻ chia, cũng đừng nên chia và sẻ một cách lê thê/lạnh lùng như lời ca ở dưới:

“Mưa lạnh lùng rơi rớt giữa đêm về
nghe não nề…
Mưa kéo dài lê thê, những đêm khuya.
Lạnh ướt mi
Ai còn buồn khi lá rớt trong một cuối đông…”   
(Trịnh Công Sơn – bđd)

Chắc chắn, công tác giảng giải Lời Chúa, sẽ chẳng bao giờ giống thế. Trái lại, vẫn phải như huấn dụ gửi đến dân con, đầu năm 2009, có Đức Bênêđíchtô XVI từng nhắc nhở:

“Đời linh mục, rao truyền đạo giáo và cử hành phụng vụ phải đi đôi, không tách rời. Bởi, mục đích của sứ mạng truyền giáo các linh mục thi hành, đều mang tính chất phụng tự. Mục đích là để mọi người có thể tự hiến mình cho Chúa, như lễ vật sống động. Thánh thiêng. Đẹp ý Chúa.” (x. Lời Chúa và Bí tích, hai cột trụ của sứ vụ linh mục, Vietcatholic News 02/7/2009)

 Về hiến mình cho Chúa, qua vai trò rao và giảng cùng là cử hành phụng vụ thánh lễ, Đức Thánh Cha có trích thư của thánh Phaolô gửi giáo đoàn Rôma, nói:

“Vì Thiên Chúa thương xót chúng ta, 
tôi khuyên anh em hãy hiến dâng thân mình 
làm của lễ sống động, 
thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. 
Đó là cách thức xứng hợp 
để anh em thờ phượng Người.”
(Rm 12: 1)

Tự hiến. Sống xứng hợp. Bằng, rao giảng. Bằng, cử hành phụng vụ. Hai việc không thể tách rời. Đó là lời vàng của đấng bậc lành thánh, vẫn quản cai Giáo hội Chúa, xưa nay. Những nhủ khuyên và nhận định, mà bạn và tôi, anh em mình sẽ còn gặp nhiều, trong chuỗi ngày phục vụ Chúa. Gặp, như người anh em linh mục phục vụ truyền thông ở Sydney đã từng trải. Từng trải bằng hỏi đáp, như sau:

“Mới đây, vợ chồng tôi đến dự thánh lễ ở xứ đạo nọ. Thấy vị chủ tế hôm ấy xem ra đã tự-biên tự-diễn, không soạn trước bài giảng giải, cả vào khi đọc lời Dâng Lễ, Kinh Tiền Tụng và Lời Truyền Phép trên bánh rượu.Theo tôi, lời Truyền Phép trong thánh lễ, phải là lời được Hội thánh định ra trong sách lễ. Trường hợp này, Hội thánh nói gì về hiện tượng tự-biên tự-diễn, tràn đồng như thế? Và thánh lễ, có lời kinh quan trọng như thế mà bị sửa đổi, có còn hiệu lực? Còn được coi là lễ tế thánh thiêng, không?

Chẳng rõ, câu của độc giả tờ The Catholic Weekly hôm ấy có là lời hỏi han xác thực của ai, không. Nhưng, trả lời vấn nạn, lâu nay là việc của đức thày/chàng trai chuyên giải đáp rất như sau:

“Tôi được nghe nhiều về trường hợp vừa kể. Thành thử, tôi nghĩ hẳn là giáo dân cũng như các vị tân cựu tu sĩ/linh mục cũng có lần thắc mắc như thế. 
Để trả lời cho câu đầu, tôi đề nghị ta nên qui về lời Hội thánh đề cập ở tông thư Redemptionis Sacramentum (Nhiệm tích Cứu Thế) được Thánh Bộ Phụng Tự ban hành ngày 25/03/2004.
Qua Tông thư, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị uỷ nhiệm cho Thánh Bộ soạn thảo chung với Thánh Bộ Đức Tin, được Đức Thánh Cha phê chuẩn vào ngày 19/03/2004.
Ở đoạn đầu, Tông Thư nói chủ đích là để bảo vệ Tiệc Thánh Thể, trong đó sức sống của Hội thánh phải được duy trì. Tiệc Thánh là nguồn cội và đỉnh cao đời sống của tín hữu.” (x. bđd #2).

Tông Thư cũng nói đến lý do ta phải tuân thủ nội dung và qui cách Phụng vụ theo niềm tin, rằng: “Lời lẽ và chi tiết Phụng vụ, là ngôn từ của niềm tin, được trưởng thành qua nhiều thế kỷ, nhằm giúp tín hữu hiểu rõ và hiểu từng chi tiết, về Chúa. Lời kinh Phụng vụ còn dạy ta biết cầu nguyện như Chúa làm. Bằng việc để hồn trí thích nghi với lời lẽ ấy, ta có thể nâng cao lòng mình lên với Chúa.” (x. #5).
Sự thường, tiêu chuẩn đổi thay lời kinh trong nghi thức phụng vụ được ghi trong Hiến Chế Phụng Vụ, do Công Đồng Vatican II ban hành, có ghi: “Lời kinh Phụng vụ tuyệt đối là thuộc thẩm quyền Hội thánh. Nghĩa là, chỉ Toà Thánh mới có quyền sửa đổi, Theo luật, thì điều này còn tuỳ giám mục chủ quản. Vì thế, không một ai, cả linh mục chủ tế, lại có quyền sửa đổi, thêm thắt hoặc cắt bỏ bất cứ điều gì trong văn bản phụng vụ, mà không có phép của Toà Thánh.” (x. #22)  
Lý do khác: “Mầu nhiệm Thánh Thể là nhiệm tích cao cả, bởi thế, không một ai được phép tuỳ tiện sửa chữa theo ý mình, khiến cho tính cách thánh thiêng và phổ cập của phụng vụ bị lu mờ… Nói như thế, tuỳ tiện sửa đổi lời kinh thực sự ra không đổi mới được điều gì, mà chỉ gây hại cho quyền của tín hữu Đức Kitô được cử hành phụng vụ đúng với mục đích, là diễn bày sức sống của Hội thánh cho đúng truyền thống. Và, có  kỷ luật… Tuỳ tiện sửa đổi lời kinh, sẽ kéo theo sự bất định về các vấn đề có liên quan đến tín lý, tính phức hợp của lòng tin và thường làm cho con cái Chúa bị mang tiếng bất phục tùng…” (x. #11)  
Lời nguyện Thánh Thể, được tông thư ghi rõ: “Chỉ được phép dùng Lời nguyện Thánh thể có ghi trong sách lễ Rôma hoặc các lời kinh đã được Toà Thánh chuẩn nhận. Các kinh trong Tiệc Thánh phù hợp với cung cách và ý nghĩa được đặt ra. Nên, ta không thể chấp nhận một số linh mục tự ban cho mình phép tắc được chế biến Lời nguyện Thánh thể trong Tiệc Thánh mình cử hành. Cũng không được thay đổi lời kinh mà Hội thánh chấp thuận. Và, không nên đưa thêm vào Lời nguyện Thánh thể các lời kinh do cá nhân lập ra cho riêng mình, ở đâu đó.” (x. #51)
Dù bạn không trích dẫn hoặc nói ra, tôi biết có một số lạm dụng khác, như vẫn thấy. Chẳng hạn như có trường hợp chủ tế mời cộng đoàn đọc lời kinh Vinh danh hoặc kinh nào khác tự chế trong thánh lễ có mặt của chủ tế. Tài liệu trên còn ghi: “Lời nguyện Thánh Thể, tự thân, là cao điểm của thánh lễ. Cho nên, bất cứ linh mục nào cũng biết chuyện này và vẫn tuân thủ, từ ngày chịu chức. Nhưng có vị, vì thói quen lạm dụng thiên chức của mình, nên dễ dàng để cho phó tế, thừa tác viên, giáo dân hoặc toàn thể cộng đoàn được phép đọc lời kinh nào đó, do mình đặt. Lời nguyện Thánh Thể là lời kinh trong thánh lễ, duy nhất chỉ có linh mục chủ tế mới được phép đọc từ đầu đến cuối, thôi.” (x. #52)
Và Tông Thư gọi cả hai trường hợp lạm dụng nói trên là các “trường hợp nghiêm trọng.”(x. #173)
Câu hỏi khác, là: thánh lễ ta tham dự như thế có thành hay không? Ta có thực sự lĩnh nhận Mình và Máu thánh Đức Kitô khi rước lễ không? Câu trả lời là “có”, miễn là vị chủ tế có đọc Lời nguyện Thánh Thể cho cộng đoàn, đúng như văn bản được Toà Thánh đặt, là được.
Vấn đề cuối cùng xin dành cho vị Giám mục chủ quản quyền sửa sai lạm dụng nào đã và đang xảy ra trong giáo phận của ngài.” (x. John Flader, The Catholic Weekly 06/09/2009 tr. 16)

*
Hôm nay, trích và dẫn nhiều đoạn, nhiều chỗ không có nghĩa là bần đạo muốn diễn giải công việc của một số

 diễn giả đã và đang làm trong buổi lễ. Không muốn và cũng không dám làm vai trò đó. Trích và dẫn, chỉ để lòng dặn lòng rằng: trong sống đời đi Đạo, vẫn còn đó, nhiều điều để mình học hỏi. Học, từ đấng bậc trên cao. Cả, những vị đã từng trải nghiệm cuộc đời, trong tình tiết. Học và hỏi, là cung cách hành xử ta phải có trong đời. Không chán. Học mọi người. Ở mọi nơi. Vào mọi lúc. Cả vào lúc, thấy căng thẳng. Hoặc, chán đời nhất.

Trần Ngọc Mười Hai  
Tuy đã già 
nhưng vẫn muốn học.
Học cả giới trẻ,
rất khôn nguôi. 
      










29.“Này người yêu, người yêu
anh ơi!”
Bên kia sông là ánh mặt trời…
(Nguyễn Đức Quang – Bên Kia Sông)

(2M 7: 9)
Viễn du ngày đầu năm, bần đạo được hân hạnh đặt chân lên thủ đô Amman, nước Gio-đan. Đất nước êm đềm. Đẹp và sạch. Sạch đẹp, hơn Kai-rô nước Ai Cập ngàn năm khô khan. Cũng sa mạc. Vùng Trung Đông. Sạch đẹp nơi đây, thấy rõ ở nét mặt dân con ông hoàng Hussein, nước Gio-đan có hơn 90% dân con Hồi Giáo. Sạch đẹp, và người người vẫn hân hoan giữ đạo, vẫn rất vui.
Bảo rằng, dân con Hồi giáo xưa nay rặt toàn những người cực (kỳ đa) đoan, đâu không thấy. Hồi giáo ở đây, cũng có thờ Thượng Đế. Có cung chúc, ca tụng thánh Allah. Tươi vui. Nề nếp. Bởi thế nên, dù ra khỏi đền thờ sau giờ kinh, rất cháy nắng, rất cực mệt, người người vẫn hớn hở. Hân hoan, vui cười. Vẫn cứ vui tươi, cười nói với chuỗi hạt trên tay. Mừng rỡ. Khấn nguyện. 
Tình tự rỡ mừng trong khấn nguyện, đã được nghệ sĩ mình diễn tả bằng giòng nhạc êm, như:
“Này người yêu, người yêu anh hỡi!
bên kia đồi, cỏ hoa đan lối
bên kia núi, núi cao chập chùng
bên kia suối, suối reo lạnh lùng
là bài thơ, toàn chữ hư vô. “ 
(Nguyễn Đức Quang – bđd)

Dân lành nhà Đạo con Đức Chúa, nay cũng có những tình tự rất phấn khởi. Hân hoan. Cởi mở.  Hân hoan - cởi mở, chẳng phải vì “bên kia núi, suối reo lạnh lùng”, có còn là: “bài thơ toàn chữ hư vô”, hay không. Mà chính vì, nhà Đạo hôm nay đều đã tươi cười bảo ban nhau: “Chúa sống lại rồi! Ngài sống lại thật đấy, mình dám thưa!”
Dân con nhà Chúa, dám cả quyết về mặc khải Sống lại, không phải chỉ vào Phục Sinh ngày Lễ Hội, thôi. Nhưng, vào mọi ngày của Chúa, rất Phục Sinh. Bằng chứng ư? Rõ ràng, khi tuyên tín, người mình đều chẳng hát như thế sao? Hát rằng:”Tôi tin xác sẽ sống lại,và sự sống đời sau”!    
Tin Chúa sống lại từ cõi chết, là tin như người Kitô-hữu thời tiên khởi, quyết một lòng. Ngược giòng lịch sử trước Công nguyên, sách Ma-ca-bê rõ ràng đà ghi rõ: 

“bởi lẽ chúng tôi chết 
vì Luật pháp của Vua vũ trụ, 
nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại 
để hưởng sự sống đời đời."  
(2M 7: 9)

Tin vào “sự sống lại từ cõi chết”, không chỉ là thành phần của niềm tin qua lời dạy mà Đức Giêsu đem đến. Mà, còn là động thái của môn đệ từng dõi bước theo Ngài. Tuy nhiên, ngàn năm về sau, người thời đại, lại nổi lên chống đối. Chống đến độ, khiến thánh Âu-tinh phải vụt thốt: “Không có tín điều nào nơi ở người tín hữu Đức Kitô lại gặp nhiều chống đối, bằng niềm xác tín rằng xác sẽ sống lại.” 
Chống đối này, vẫn bắt gặp dẫy đầy ở Tin Mừng. Đây này, đoàn Xa-đu-xê, những giáo điều. Nơi kia, một kinh sư/Biệt phái, cùng thượng tế, vẫn loi nhoi. Loi nhoi chống đối, là chống mọi động thái/tín điều không để họ được chễm chệ, ngồi ở trên. Ngồi ở trên, để họ những phán và phán. Phán rất nhiều. Toàn những điều mang lợi ích đến cho riêng họ. Phán rằng: Đấng Mê-sia giải thoát chư dân khỏi quan lại cầm quyền, từng đô hộ. Lời phán của họ chỉ đặt nặng lên cuộc sống hiện tại, những hưởng thụ. Tuyệt nhiên, không về những điều mà họ cho là khô khan khó nhận, về đời sau.
Giáo huấn Đức Giê-su, thì khác. Ngài từng quả quyết, có khác biệt giữa đời này và đời sau. Người đời này, đều sẽ chết. Và khi chết, ai cũng chắc chắn là con cháu mình sẽ tiếp tục nối dõi tông đường. Còn đời sau, sẽ chẳng có ai buộc phải chết. Chẳng thấy ai, dựng vợ gả chồng cho con cháu, mà là tiếp tục sự sống. Xác chứng sự thật, Đức Giêsu căn cứ vào luật Môsê, mà bầu đoàn những người chống đối đều tuân giữ. Chính vì thế, ta có được khẳng định dứt khoát, về đời sau. Từ Đức Chúa:
“Về kẻ chết trỗi dậy, 
chính ông Mô-sê cũng đã cho thấy 
trong đoạn văn nói về bụi gai, 
khi ông gọi Đức Chúa 
là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ram,
Thiên Chúa của I-xa-ác, 
và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp.
Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, 
nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, 
vì đối với Người, tất cả đều đang sống."    
(Lc 20: 37-38)

Tranh luận tới đây, tưởng chừng như kết thúc.  Nhưng, đã âm ỉ một nhắn nhủ:
“Này người yêu, người yêu anh ơi!
Bên kia sông, đường vẫn còn dài.”
(Nguyễn Đức Quang – bđd)

Đường còn dài, không chỉ người người vẫn còn muốn tranh luận, mà vì vẫn chẳng tin. Bởi thế nên, người nghệ sĩ lại đã diễn tả trạng huống ấy bằng lời ca, như sau:

“Trong cơn gió, thoáng nghe nụ cười
trong khe núi, thánh thót lòng người
lòng đòi tình vật vã khôn nguôi.” 
(Nguyễn Đức Quang – bđd)

Đã nhiều thời, Đức Giêsu lại trở thành chính vấn nạn, cho người đời tranh cãi. Họ cãi vã, về chuyện Chúa sống, rồi Chúa chết. Sống nghèo nàn. Rồi lại chết nhục trên khổ giá. Ngài có chết. Nhưng Ngài đã sống lại vinh hiển. Ngài không để cho sự chết cứ mỉm cười. Trêu ngươi vào mặt Ngài. Đó là một cãi vã từ nhiều đời, của bè Xa-đu-xê, rất cứng lòng. Đó, còn là khẳng định của Đức Giê-su về chính Ngài:

“Ngài phải đi Giêrusalem
chịu nhiều đau khổ do hàng niên trưởng 
và thượng tế cùng ký lục,
và bị giết đi,
và ngày thứ ba sẽ sống lại.”
(Mt 17: 21)

Tin “vào sự sống đời sau” ở lời kinh Tin  Kính, chắc chắn đưa dẫn ta vào với thế giới rực rỡ của lai thời. Nhưng, điều này không có nghĩa bảo ban ta quên đi đời này. Đúng hơn, là khuyến khích ta cải thiện đời này sao cho đời sau cứ thế vinh quang hơn. Các giáo phụ thời Công Đồng Vatican II cũng đã khuyến khích mọi người hãy triển khai cuộc sống ở dưới đất này, để nhìn vào trời mới đất mới, rất tương lai.
Tương lai rực sáng ấy, đã và vẫn nằm ở cụm từ “Amen”, rất xác tín. Quyết liệt. Xác tín và quyết liệt như các thánh xưa kia vẫn dẫn dụ mọi người, hãy vui mừng lên, trong niềm tin. Vui mừng và soi dọi nơi bản kinh Tin Kính. Để biết rõ niềm tin của mình đạt đến cỡ nào. Có đúng bài bản, như Hội thánh trông đợi không?
Tuyên tín, hay chỉ đọc kinh tuyên xưng, mỗi Chúa nhật vẫn phải là điều phản ánh đích thực, những gì bên trong ta đang có. Chứ không phải chỉ là lời nói, từ đầu môi. Tin hay đọc, cũng cứ làm giống như trẻ nhỏ ở nhà. Cứ nghe người lớn dạy bảo, đều vẫn tin. Vẫn hân hoan phấn khởi tin vào Chúa. Tin vào lời của người lớn, trong Hội thánh. Cùng thày cô. Như lời của bé em trong truyện kể, ở bên dưới:

“Ông bố Minh Giao, buồn rầu kể về tính đơn hiền cả tin của bé Loan, con ông mới sáu tuổi, nhưng đã biết viết vài hàng chuyện vãn với Chúa. Bé viết thư rất ngắn, sau đó nhờ bố bỏ vào phong bì gửi cho Chúa trên thiên đàng, bằng đường bưu điện. Chuyện bé viết, là chuyện về chú Missy, bạn thân của bé, vừa mới chết, như sau:
Lạy Chúa của con,
Có thể nào Chúa chăm sóc cho Missy của con, được không Chúa? Tội nghiệp! Missy của con vừa mới chết, Missy năm nay mới có 14 tuổi à. Nhưng Missy dễ thương lắm đó, Chúa ơi. Con nghĩ là giờ này em cũng đã sống lại và đang ở bên cạnh Chúa, trên thiên đàng. Missy chỉ mới chết hồi hôm, nên con nhớ Missy chịu không nổi. 

Chúa ơi! Chúa có thương con, thì Chúa phải chơi với Missy của con, nữa đó nghe. Missy thích đùa giỡn với bóng nhỏ lắm. Missy vẫn vẫn tung mình lên để đón bóng, khi con ném lên trời. Missy còn biết nhảy xuống nước bơi lội một hồi, và vớt bóng nữa.

Thôi được, để con gửi cho Chúa bức ảnh của Missy, để khi thấy hình của Em, Chúa mới biết đó là Missy của con. Con nhớ Missy của con lắm, Chúa ơi. 

Ký tên 
Minh Loan, người con nhỏ của Chúa.

Ông bố Minh Giao chiều con, lấy thư của người con viết cho Chúa, bỏ vào phong bì rồi mang ra bưu điện để gửi. Ông không quên kèm theo một tấm hình mầu có chụp cả Missy lẫn Minh Loan, rồi đề tên người nhận là Đức Chúa, ở thiên đàng… Bé Minh Loan vội vàng dán thật nhiều tem, vì sợ đường xa, cho chóng đến nơi. Ông còn cất công chở Minh Loan ra bưu điện, chứng kiến con mình bỏ thư vào thùng xong đâu đấy, mới yên tâm. Ít ngày sau, đã thấy con của ông dò hỏi xem Chúa đã nhận được thư chưa.

Ông trả lời là rồi, xem ra có vẻ chắc chắn lắm. 
Bỗng ngày hôm sau, về nhà đã thấy gói quà bọc giấy óng ánh vàng, ở trước cửa, đề tên người nhận: ”Gửi Minh Loan”… bằng tuồng chữ rất lạ.Mở ra, ông thấy có cuốn sách do tác giả Rogers viết, có tựa đề “Khi đàn gia súc chết đi.” Kẹp dính bên trong gói quà tặng sách là bức thư của Minh Loan viết, gói gọn trong phong bì còn để ngỏ. Ở trang bên kia, là bức hình Missy đang chơi giỡn với Minh Loan, có chú thích, như sau:

“Minh Loan, con
Missy đã tới thiên đàng rất an toàn. Bức hình của Missy giúp cho Cha rất nhiều điều. Cha đã nhận ra ngay chú ấy, không khó. Missy nay không còn ốm đau gì hết nữa. “Linh hồn” của Missy đang ở đây với Cha, cũng giống như đang ở trong tim của con. Missy vẫn muốn là chú chó ngoan, bạn thân của con đó.

Nay, mọi người không còn thân xác để sống ở thiên đàng, nên Cha cũng chẳng có túi để giữ bức hình của con. Bởi thế nên, giờ đây Cha gửi lại cho con trong cuốn sách này để con giữ mãi mà nhớ Missy.

Cảm ơn con đã viết bức thư rất hay cho Cha. Cha cũng cảm ơn ba má đã giúp con viết thư và gửi đến cho Cha nữa. Con thật diễm phúc có được người mẹ tuyệt vời. Cha đã chọn bà làm người mẹ đặc biệt, riêng cho con.    

Cha gửi ban phép lành hằng ngày cho con. Hãy nhớ rằng Cha yêu con, không kể xiết. Tiện đây, Cha cũng cho biết thêm là muốn tìm Cha, thật rất dễ. Cha ở bất cứ nơi nào có tình thương yêu.

Thương con
Cha là Đức Chúa hằng sống của con.”

Truyện kể về bé em Minh Loan, chỉ muốn minh hoạ những điều vừa nói ở trên. Về, sự sống và nỗi chết. Về, sự sống lại của thân xác đã mai một. Mai một như bất cứ thụ tạo nào, đều như thế. Như loài cây ngủ vùi như chết suốt mùa Đông. Đã bừng dậy sống lại, vào khoảnh khắc miên trường, ngày xuân nắng. Sống chết là như thế. Sống lại, cũng như vậy. Chết, là chết trong giai đoạn. Sống lại, là sống mãi trong tình yêu. Với Thiên Chúa của Tình Yêu. Là Tình Yêu.
Vậy thì, hãy cùng người nghệ sĩ ở ngoài Đạo, hãy hát thêm một lời ca, như câu kết:
“Này người yêu anh ơi!
Đêm đêm lòng vỗ tình dài
Dây xanh quấn quít vào đời
Cho trái tình nở trên tiếng cười.
Này người yêu, người yêu anh hỡi!
Bên trong lòng nôi êm ái
Rắc nhẹ từng cánh sao rơi
Sẽ âm thầm mình em nghe thôi.” 
 (Nguyễn Đức Quang – bđd)
*
Trần Ngọc Mười Hai
Cũng âm thầm 
nói chuyện sống chết
nhưng không chỉ để
mình em nghe thôi. 
        


30. “Nghe vang khúc nhạc triền miên lắng, như mơ hồ” 
Nghe vang những lời ca trìu mến như áng thơ…
(Dương Thiệu Tước – Hội Hoa Đăng)

(Lc 3: 16)
Rất nhiều lúc, bần đạo những muốn thú thật với bạn bè gần xa, là: vẫn còn đó bên mình, một cố tật. Cũng cố gắng, nhưng chưa bỏ. Cố tật, mà bần đạo thường vướng mắc cũng chỉ là dị tật cổ xưa, thích nghe nhạc. Thứ nhạc trữ tình, lình xình tiền chiến. Thính phòng. Nhè nhẹ. Lả lướt. Cứ đeo đuổi buổi “Hát Cho Nhau” ở xóm làng miền Tây Sydney. Vắng vẻ. Gọn nhẹ. Khiêm tốn. Những 3 năm.
Nghe nhạc, bần đạo thấy văng vẳng ở trong đầu, dòng thác lũ có chân trời vần vũ những thi ca. Âm nhạc. Không chán. Vì không chán, nên ý/lời nhiệt náo hát mãi, vẫn tiếp tục:

“Vui, vui tiếng đàn trầm ngân hoà bao niềm nhớ
Tình nhạc tha thiết, tình đàn lưu luyến
Nhạc và thơ kết duyên…” 
(Dương Thiệu Tước – Hội Hoa Đăng)

À thì ra, cố tật mà bần đạo mắc phải, chỉ là: vần thi ca/âm nhạc, những kết duyên. Duyên vui. Thâm trầm. Tha thiết. Những tha và thiết, đến độ khiến bần đạo chập chờn. Niềm nhung nhớ. Nhớ lờ mờ, ý/lời thanh tao. Nhiều âm hưởng. Lời lẽ, rất thơ ca/âm nhạc quyện vào nhau, nghe như duyên tiền kiếp. Kết liền. Hội Hoa Đăng.
Cố tật khác của bần đạo, là: cứ đem ý/lời “rất nhạc và rất thơ” của Thầy Chí Thánh ra, mà luận phiếm. Phiếm nhẹ nhàng. Sương sương. Để, dân con nhà Đạo rồi sẽ miễn lỗi, xá cho tội tày trời này. Ấy vậy, ta lại phiếm tiếp.
Nỗi niềm rất phiếm của bần đạo hôm nay, là: cốt đệ đạt cùng bạn bè/người thân, đôi ba ý nghĩ “không có gì mà ầm ỹ”. Chẳng có gì, để bận tâm. Cứ sương sương đại loại như một thoáng mạn đàm, cho kín giấy. Vậy thì, bần đạo xin bắt đầu bằng câu truyện tiếu lâm, được đức thày nọ thuộc giống giòng hào kiệt con nhà “Mít” kể lại vào phút dẫn nhập bài chia sẻ, ở nhà thờ họ xứ Sydney. Chủ Nhật hôm ấy ngày “N”, tháng “T”, năm Hai nghìn lẻ chín, nó thế này:
-“Các cụ bảo: có tiền mua tiên cũng được. Được nhà được cửa, nhưng không được mái ấm/cơ ngơi, cho chính mình. 
-Bọn trẻ nói: Tiền là tiên là Phật, lật đật xuống phố mua được đồng hồ, nhưng chẳng được thời gian. 
-Và trẻ/già,cứ phán tiếp: Tiền, là sức bật tuổi trẻ, có nó ta mua được cả thuốc men, bon chen nhiều ống chích, nhưng không thể mua lấy sức khoẻ.
Tiền, là sức khoẻ rất tâm linh, có nó người người mua sách mua vở, nào đã mua được kiến thức. Tiếng tăm. Lòng kính trọng. Từ, người khác. Điều này, cũng dễ hiểu. Dễ, như ta hiểu, rằng: nhiều người vốn ưu tư khốn khó nỗi bạc tiền. Bởi thế nên, xin đề nghị: quý vị cứ đưa thứ tiền thứ bạc nào gây khó chịu nhất cuộc đời. Cho tôi. Tôi sẽ chịu khó mang nó về, để quý vị không còn khó khăn với cằn nhằn, gì nữa sốt. Có điều là, tôi chỉ thích tiền mặt chứ không thích phiếu ngân hàng, sổ nợ của ai đó.” (xem The Catholic Weekly 25/10/2009, tr.5)

Tiền, có là tiên là Phật, thì thật sự cũng chẳng tạo niềm an vui chan hoà, nhà nghệ sĩ hát: 
“Niềm vui chan chứa, 
bao tình thắm dâng chan hoà 
Lòng ngập yêu thương, 
rộng bao la như trùng dương.” 
(Dương Thiệu Tước – bđd)

Dâng chan hoà, còn là tâm thức đầy thơ/nhạc, chốn Đạo/đời. Tâm thức, mà nghệ sĩ ở trên còn gói ghém thành giòng chảy, đầy chữ nghĩa. Như sau:
Nhạc và thơ kết duyên
Nhịp nhàng ca múa chập chờn đôi lứa,
Mờ mờ trong bóng hoa.” 
(Dương Thiệu Tước – bđd)

Với nhà Đạo, nhạc và thơ kết duyên. Liên hiệp. Vẫn, được diễn tả ở nhiều địa hạt. Địa hạt, của Nước Trời. Địa hạt, của nhiệm tích thiết thân với con người. Như Thanh tẩy. Nhiệm tích gia nhập Nước Trời, nhiều trẻ bé. Kể cả bậc cao niên. Trọng tuổi. Sống đời cộng đoàn Nước Chúa, với tâm tư đồng thuận, về mọi thứ. Tâm tư, vương vấn chút gượng ép nhữngthắc mắc. Hỏi han. Vấn nạn. Như tâm tình người nhà Đạo, bộc bạch bằng điện thư. Như sau:

“Mỗi tuần, ở nhà thờ, tôi thấy các cha/thầy vẫn thanh tẩy cho bầy trẻ nhỏ, mới vừa sinh. Xin giải thích cho biết: sao ta cứ tẩy và rửa cho trẻ bé, chưa biết gì? Làm thế giúp được gì cho bản thân các em? Cả bậc cha mẹ của các em nữa? Có người còn hỏi: rửa tội cho trẻ nhỏ, nên rửa vào lúc nào, là trễ nhất? (Xin được giữ kín tên tuổi)

Một lần nữa, điện thư tham vấn, ở giáo phận bên trong Sydney, vẫn trực chỉ gửi đến đấng bậc nay-không-còn-trẻ, nhưng vẫn có trọng trách phản hồi, lối sống Đạo, như sau:
“Trước hết, xin bắt đầu bằng phần phân tích tại sao ta nên rửa tội cho hết mọi người, bất kể tuổi tác, lớn/bé. Chí ít, là tẩy rửa cho trẻ sơ sinh, như anh/bạn vừa hỏi. Sau đó, sẽ xin hầu tiếp anh/bạn các câu sau. 
Phép rửa gồm hai động tác chính. Cả hai, đều biểu trưng bằng việc sử dụng nước. Thứ nhất, bằng việc trầm mình trong nước hoặc rưới nước lên đầu, động tác này biểu trưng cho việc tẩy rửa phần linh hồn, khỏi tội nguyên tổ. Theo ngôn từ sách “Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo”, ta có được giải thích như sau: “Nhờ thanh tẩy, mọi lỗi phạm đều được thứ tha. Cả tội ban đầu của tiên tổ, cho đến lỗi lầm mình vướng mắc. Ngõ hầu giúp ta thoát khỏi hình phạt kéo đến do các lỗi phạm khác nhau, mình mắc phạm. Với người đã tái sinh nhờ vào thanh tẩy, không gì khả dĩ ngăn chặn người ấy xa rời Vương Quốc Nước Trời. Ngay cả tội nguyên tổ của Adong hoặc lỗi lầm mình mắc phạm, là hậu quả của sơ xuất, tức động tác nghiêm trọng khiến ta xa rời Chúa.” (GLHTCG #1263).
Khi tẩy rửa mọi vết nhơ tội lỗi khỏi phần linh hồn, kể cả lỗi lầm nguyên tổ đã hằn in dấu ấn lên trẻ nhỏ, phần linh hồn đã trở nên hoàn toàn thanh trong. Và từ đó, sẵn sàng tiến vào chốn thiên đường của Chúa.
Tiếp đến, giống như nguồn nước, cần thiết cho cuộc sống con người thế nào, thì phép Thanh tẩy cũng chuyển tải sự sống của Thiến Chúa đến với linh hồn người lĩnh nhận. Lĩnh nhận ơn thánh hoá, cùng với đặc ân/ân sủng Chúa Thánh Thần ban tặng. Có Ba ngôi Thiên Chúa đến ngự trị.
Không gì lành thánh/quý giá hơn, dành ban cho người nhận lãnh, cho bằng hồng ân ấy. Chính đây là lý do tại sao ta cần thanh tẩy hết mọi người. Còn, vấn đề tại sao ta thanh tẩy cho cả trẻ thơ, khi bé không biết chút gì về việc làm ấy? Đơn giản, là vì nhiệm tích thanh tẩy thần năng thánh hoá cách độc lập với người nhận lãnh.
Theo ngôn ngữ của truyền thống Giáo hội, thì nhờ có thanh tẩy, nhiệm tích thánh tác động theo cách mà người xưa gọi là “ex opere operato”, tức: tác dụng hiệu quả “là vì việc ấy do ta thực hiện.” (GLHTCG #1128). Trẻ thơ khi lĩnh nhận phép thanh tẩy, dù không chứng kiến những gì được thực hiện cho em, nhưng Phép Thanh tẩy vẫn tạo thành quả tuyệt vời đối với linh hồn của em, từ khi nhận lãnh.
Vì lý do đó, Hội thánh vẫn duy trì nhiệm tích thanh tẩy cho trẻ nhỏ. Thánh Âu-tinh có lần nói: thực hiện Thanh tẩy cho con trẻ, là công việc được thực hiện từ thời các thánh tông đồ: “Mẹ Thánh Giáo Hội lâu nay vẫn có Thói quen Thanh tẩy trẻ nhỏ và  không bỏ bê hoặc coi đó là việc dư thừa, vô bổ. Trái lại, Hội thánh vẫn làm việc này với niềm tin chắc chắn rằng công việc vẫn tiếp diễn từ thời các thánh tông đồ.” (Công tác Thông thường theo Truyền thống #10, #23. #39).
Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo còn nói về truyền thống này rõ như sau: “Thực thi việc Thanh tẩy cho trẻ nhỏ là truyền thống khó bỏ của Hội thánh. Bằng chứng rất rõ của nghi thức này vốn có từ thế kỷ thứ hai, mãi đến hôm nay. Nghi thức này, xuất hiện từ thời các thánh Tông đồ lên đường rao giảng Lời Chúa. Khi mọi người trong nhà đã lĩnh nhận nhiệm tích Thanh tẩy, thì khi ấy, cả trẻ nhỏ cũng được hưởng ơn lành của Chúa, cũng như thế.” (GLHTCG #1252.)
 Về câu hỏi, rửa tội cho con trẻ có nên thực hiện ngay sau khi bé chào đời không? thì trong Giáo luật có điều khoản nói rất rõ: “Các bậc cha mẹ, buộc phải cho con em mình được chịu phép rửa vào tháng đầu, sau khi sanh. Nên rửa tội cho bé càng sớm càng tốt. Trước đó, cũng nên tiếp xúc với linh mục chánh xứ để xin cho con/em mình được chịu phép rửa, đồng thời cũng nên chuẩn bị cho các em được lĩnh nhận nhiệm tích này.” (Giáo luật số 867 #1).
Ở đoạn sau đó, cũng có viết: “Nếu thấy con trẻ có nguy cơ bị chết yểu, thì nên đưa bé đi chịu phép rửa tội ngay lập tức, không được chậm trễ.” (Giáo luật số 867 #2).
Sao vội vã như thế? Đơn giản, là vì phép rửa tạo nhiều điều tốt lành cho phần linh hồn của trẻ. Vì thế nên, trẻ phải nhận lãnh ơn cao trọng này càng sớm càng tốt. Đôi lúc, bậc cha mẹ có khi cũng phải chờ vài ba tháng mới cho con/em mình rửa tội vì còn chờ người thân từ nơi xa, đến dự. Mặc dù, cha mẹ vẫn muốn họ hàng bà con mình có mặt vào buổi lễ quan trọng ấy, cho nên hãy thực hiện càng sớm để con/em mình nhận lãnh ơn lành Thanh tẩy, sau khi sinh.
Nhiều trường hợp cho thấy, con/em mình dễ bị chết yểu, dù các cháu vẫn đang khoẻ. Nên hiểu rằng, nỗi buồn mất con của bậc cha mẹ đã quá lớn, cũng không nên thêm vào đó, nỗi buồn “không kịp rửa tội cho con”. Dĩ nhiên, ta vẫn biết con trẻ chưa rửa tội vẫn được Chúa rước thẳng vào Vương Quốc của Ngài. Nhưng, hy vọng dù lớn lao, vẫn không bằng xác tín là cháu đã được rửa tội đúng phép. Rất đề huề. (x. John Flader, The Catholic Weekly, 25/10/2009, tr. 10).  
                
Về thanh tẩy sớm/muộn, cũng nên qui chiếu Tin Mừng thánh Luca, qua đó Chúa nói:

“Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, 
nhưng có Đấng mạnh thế hơn tôi đang đến, 
tôi không đáng cởi quai dép cho Người. 
Người sẽ làm phép rửa cho anh em 
trong Thánh Thần và lửa.” 
(Lc 3: 15-16)

Được rửa trong Thánh Thần và lửa, còn được hiểu theo cung cách chú giải của thần gia Kinh thánh, thế kỷ trước:
“Nước và thanh tẩy trong Thánh Thần, tức báo đến thời ở dưới sự hiện thực của Thần Khí  và Đấng viên thành vạn sự. Nhưng, vừa tỏ vừa ẩn, Thần Khí dưới hình bồ câu. Đấng viên thành là một người chịu thanh tẩy giữa các kẻ tội lỗi. Hai nhân vật đó (tức Gioan và Đức Giêsu) liên kết. Và, đó là dấu hiệu thời viên thành đã hé rạng, tuy còn ở trong bí ẩn của Thiên Chúa, nhưng nhất thiết sẽ thành sự.” (Lm Nguyễn Thế Thuấn, CssR Tin Mừng Nhất Lãm, bản in nội bộ tr.119)

Thật sự, thì việc thanh tẩy cho trẻ nhỏ hay người lớn, là thực thi điều Chúa uỷ thác. Thực thi, như một mời gọi cộng tác vào sự Thanh tẩy bằng “Máu”, đúng như có Giáo sư Kinh thánh Nguyễn Thế Thuấn ở trên, có viết tiếp:
“Thanh tẩy tại sông Yorđan, được thực hiện đầy đủ trong thanh tẩy bằng máu (Mc 10: 38; Lc 12: 50), sự chết trên thập giá. Thanh tẩy Hội thánh, là thanh tẩy trong sự chết và sống lại của Chúa Kitô, và đã được thành hình theo mẫu thanh tẩy của Chúa Yêsu tại sông Yorđan, và cốt là để được chịu ơn huệ cánh chung, là Thánh Thần.” (Cv 2: 38), (x. Lm Nguyễn Thế Thuấn s9dd, tr. 120)

Thành thử, ý/lời bậc hiền nhân đã tỏ bày, vẫn được quyện vào với thơ/nhạc ở đời người. Một đời, có người nghệ sĩ luôn se kết. Se và kết, là để bạn bè người thân, đừng quên lãng. Thế thì, để khỏi lãng quên những ý/lời của nhạc và thơ, cũng nên đọc truyện kể nhè nhẹ sương sương, ở bên dưới: 

“Hai vị cao niên tuổi đời tròm trèm cũng gần 8 bó, ngồi chuyện vãn thơ/văn với nhau bằng ngôn ngữ còn rất trẻ, như em bé, rằng:
Bạn ơi, cụ biết chăng năm nay em gần tám bó rồi đấy. Thú thật, em chẳng bệnh tật gì, ngoài chuyện nhức mỏi tí chút, rồi thôi. Thế, cụ thì sao?
-Chẳng giấu gì, em nay thấy mình bỗng thành trẻ bé, mới vừa sinh.
Thật thế sao? Thành trẻ bé, là thành cái giống gì?
-Thì, cũng: râu tóc chẳng còn. Đứng ngồi chẳng yên. Cứ, lẩn thẩn/lần thần, cần rửa nhiều mới sạch sẽ.
-Cụ ơi, rửa ít rửa nhiều những tay chân, chuyện ấy ai chẳng làm.Cũng giống em thôi.”

Giống em thôi, chẳng biết là giống kiểu nào. Phải chăng, là giống các cụ thường hay nói “một già một trẻ, giống nhau”, không? Hay giống, cả về tinh thần lẫn thể xác. Tinh thần thần tự do. Cởi bỏ. Chẳng câu nệ. Thể xác, nay không cần gì nhiều. Khỏi phải lo.  
Lo hay không, chuyện tẩy rửa, hãy cứ gia nhập “hội Hoa Đăng”, có nhạc và thơ, rất tình tiết. Có, ý/lời tha thiết người nghệ sĩ kết thúc, một bản ca. như sau:
“Cùng nhịp ca múa trong đêm thâu
yêu nhạc thanh tân vui hội hoa đăng.”
 (Dương Thiệu Tước – bđd)

Vui hoa đăng, là vui hội Nước Trời có trẻ nhỏ, có cả vị trưởng thượng đã gia nhập Nước. Qua Thanh tẩy. Hăng say. Trìu mến. Thiết tha. Như một nhà. Nhà Hội thánh, rất hoa đăng. 
Trần Ngọc Mười Hai
vẫn cứ hăng say gia nhập
hội (Hoa Đăng rất) thánh
từ trẻ nhỏ.



31. “Giết người đi! Giết người mơ!”
Giết tình thơ! Giết người trong mộng mơ. 
Làm sao giết được người trong mộng
để trả thù duyên kiếp bẽ bàng
(Phạm Duy – Giết người trong mộng)

(1V 3: 2)
“Duyên kiếp bẽ bàng”, ca từ nghe sao buồn quá. Buồn lê thê. Não nề. Đến chết được. Nhưng, “giết người trong mộng”, không ghê rợn bằng ‘giết người trong bụng’. Rất im lặng. Lê thế. Buồn da diết. Rõ ràng, ý tưởng buồn ở đây cũng da diết như câu hát nhại của ai đó, đã bẻ cong lời lời hát của Lam Phương, như: “Em ơi nếu mộng không thành thì sao? mua chai thuốc chuột uống cho rồi đời!”
Thập niên sáu mươi, một thập niên xuất hiện nhiều “giấc mộng con”, “ước vọng lớn”. Ngoài đời. Ở nơi đó, có những mộng và ước bấp bênh gồm những nào là đảo chính, chỉnh lý; để rồi, lại có những chỉnh và chỉnh. Chỉnh, cho nát đời vua quan, với lãnh chúa. Ở nhà Đạo, tuy không có những  chỉnh đốn hay điều chỉnh, theo cách ở đời. Nhưng có những điều và chỉnh theo cách của Thánh Thần Chúa. Rất lớn lao. Rất long trọng, một Công Đồng. Công Đồng Chung Vatican 2. Rất đẹp. Tuyệt.
Thập niên sáu mươi năm ấy, bần đạo vẫn dùi mài kinh sử với trường Đạo. Vẫn nghèo rớt mồng tơi, hơi hơi đói. Nhưng vẫn có mộng và ước. Rất bình thường, của một thanh niên con nhà lính, tính nhà quan. Nghĩa là, cứ thích làm “cha” thiên hạ. Rất linh mục.  
Hôm nay, hơn bốn mươi năm nhìn lại, đã thấy mình khá táo tợn. Lại coi thường. Táo tợn và coi thường, đến độ chẳng biết sợ. Chẳng sợ sệt, khi nghe đâu đây lời ca tiếp nối của nhạc sĩ:
“Giết người đi! Giết người mơ!
giết tình thơ! Giết người trong mộng mơ” 
(Phạm Duy – bđd)

Nói, táo tợn - chẳng biết sợ, khi nhìn qua nhìn lại, thấy bàn dân thiên hạ vẫn chém và giết. Hết, giết người trong mộng. Giết cả, người bé tí tẹo, trong bụng mẹ. Rất thai nhi. Trong trứng nước. Giết, không chỉ người ngoài Đạo, mới dám nghĩ. Cả người trong Đạo, vẫn không sờn lòng. Và, người người cứ mải mê những giết và giết. Chẳng cần nghe cần biết lời Chúa đã từng dặn: 

“Ngươi không được giết người.
(Xh 20: 13)

Và:
"Đức Giê-su nói: 
"Ngươi không được giết người. 
Không được ngoại tình. 
Và không được trộm cắp…”
(Mt 19: 18) 

Đời thường, khi ủng hộ đạo luật ngừa/chống thai ở quốc hội, nhiều vị vẫn cứ biện luận: thai nhi không là người. Hoặc, chưa thành người. Nên cứ trừ và cứ khử. Trừ khử thai nhi trong bụng, không chỉ là hành vi giết người, mà thôi. Nhưng, còn là hành vi trộm cắp, phản chống Lời Chúa, ở bên trên.
Tác giả Khaleed Hosseini, trong một bài viết với tựa đề “Đứa Trẻ Chơi Diều”, đã mượn lời của người cha, để giải thích cho đứa con còn nhỏ thích chơi diều: trên đời này, lỗi phạm duy nhất và lớn nhất, vẫn là: trộm cắp. Trộm cắp, là lấy đi những gì thuộc người khác. Của người khác. Ví dụ: ngoại tình, là trộm cắp vợ/chồng của người khác. Nhục mạ và bôi nhọ, là trộm là cắp thanh danh của người khác. Giết người, dù là trong mộng hay trong bụng, cũng vẫn là cướp đi sự sống của người khác, rất trân trọng. Cướp đi niềm vui quý hiếm, mình vẫn quên.
Quả là thế. Khởi từ lúc sự sống con người, bắt đầu được cưu mang/thai nghén, niềm vui của người cha người mẹ đã chính thức thành hình. Cùng lúc ấy, mầm sống mới nguyên hình đã nên duyên. Và hành trình sống đã khởi đầu thoạt lúc mẹ cưu mang/thai nghén đi tiếp tục hành trình, cho đến chết. 
Sự chết đến bất thần, khi thai nhi bị lọt/xẩy, rất tự nhiên, là thời điểm đau buồn nhất trong cuộc đời người mẹ. Đau và buồn, là bởi cả người cha lẫn người mẹ đều thấy mất mát lớn, cho tương lai chợt vụt mất, của người con. Mất niềm vui. Được hiện diện, với thế trần.
Có trộm cắp là có mất mát. Mất tình yêu. Mất quan hệ thân thương giữa bố mẹ với trẻ bé. Mất, cả tình thương giữa bé em với ông bà. Anh chị. Bạn bè, người rất thân. Mất, cả những đóng góp quý báu của em cho xã hội, em đi vào.    
Mất tương quan, là mất mát quan trọng nhất. Quan trọng và nặng nề, còn hơn mất mát khi xẩy thai. Và, “giết người trong bụng” còn kéo theo hậu quả khó lường, cho bản thân. Mất mát này, còn đau buồn hơn cả mất mát, khi xẩy lọt. Bởi, mất mát ở đây, là mất sự vui sống. Là, bị cướp mất tương quan mà nạn nhân lẽ ra phải có và sẽ có, với người khác.    
  Về với nhạc bản của Lam Phương, về “mộng ước”, có ca từ ướt sũng, cũng như sau:

“Em ơi nếu mộng không thành thì sao,
non cao đất rộng biết đâu mà tìm…
Dù rằng đường đời ngăn cách tình ta
Phút giây ban đầu mãi không phai nhoà.” 
(Lam Phương – bđd)

Xem thế, thì mộng ước của xã hội lành thánh có niềm vui, nay cũng bị tước đoạt mất. Mất vui, mất mộng, mất tương quan êm ả, có “những phút giây ban đầu mãi không phai nhoà”. Phút giây không phai nhoà, trong cung lòng đầy yêu thương của Đức Chúa. Của thành viên Hội thánh.
Khi bị trộm, bị cắp, đương nhiên là có khóc thầm. Có gầm thét. Khóc thầm/gầm thét, vì có mất mát và bất công. Và, cả đến bất bình vì sự công chính mà Chúa tạo cho con người. Chấp nhận bất công hoặc thực hiện cuộc trộm cắp, là lấy đi sự sống hiếm có. Là, đe doạ lớn lao gửi đến với con người. Ở mọi nơi. Đe doạ làm mất đi sự sống của người khác, cũng là vi phạm giới răn: “Chớ ăn cắp”, “Chớ giết người”. 
 Xã hội Tây phương, là xã hội khi xưa vẫn đề ra luật bảo vệ sự sống, chưa sinh nở. Nay thì xã hội ấy đã và đang tiến đến giai đoạn cho phép ăn cắp/dứt điểm mầm sống chưa sinh ra. Luật pháp, như thế đã cho phép giết người. Trắng trợn. Không thương tiếc.    
Trường hợp “an-tử” cũng thế. Cũng là ăn-cắp-sự-sống của người già nua bệnh tật. Mượn cớ nan y không chữa khỏi, luật pháp vẫn còn tranh cãi để rồi lại cho phép “người khác” hoặc chính mình công khai “ăn cắp” sự sống của mình. Của, người già/bệnh. Bây giờ, mới chỉ người già/người bệnh. Mai mốt, sẽ là trẻ tật nguyền. Tàn phế. Tật nguyền về trí não. Bẩm sinh. Tàn phế, do tai nạn. 
Xã hội hôm nay, dẫy đầy những trộm những cắp, rất công nhiên. Cắp trộm sự sống, cả vào giờ phút trước và khi sinh. Cắp trộm, vào phút thập tử nhất sinh. Nhất nhất, là hậu quả quay trở ngược, về với nạn nhân. Xã hội. Và bất công ấy, còn là đe doạ to lớn đối với tính thánh thiêng của sự sống. Mọi giai đoạn. Trong chu kỳ sống. Bởi thế nên, với xã hội lâu nay tự hào: mình là người văn-minh-không-ăn-cắp, vẫn phải làm sao tạo cho mình trách nhiệm bảo vệ cho sự sống con người không bị ăn cắp. Tước đoạt. Bảo vệ sự sống, lúc chưa sinh. Bảo vệ, cả vào giờ phút khó sinh. Khó sống. 
Với ca từ của “Giết Người trong mộng”, người thưởng lãm văn thơ/âm nhạc lại sẽ nghe:
“Giết người đi! Giết người đi!
Giết người trong mộng đã đi về
Giết người như loài bướm đong đưa.” (Phạm Duy – bđd)

Có giết, hoặc ăn-cắp-sự-sống con người, dù trong mộng hay ở đời thường, dù có được luật pháp bênh vực/bào chữa, cũng nên nghe người nghệ sĩ già đầy kinh nghiệm:
“Nhưng người ơi! Nhưng người ơi!
Sao người trong mộng vẫn hiện về?
Ơi người ơi! Ơi người ơi!
Sao mình trong mộng vẫn ngu si?”
(Phạm Duy – bđd)

Ngu si, chẳng vì không biết “ăn-cắp” sự sống. Nhưng ngu si, là bởi vì:
“Làm sao giữ được người trong mộng
để được tình yêu, dẫu bẽ bàng.” 
(Phạm Duy – bđd)

Vâng. Vấn đề là như thế. Tất cả là như vậy. Làm sao giữ được người trong mộng yêu đương? Dù tình yêu ấy, bẽ bàng. Dù chuyện ấy, có là chuyện mộng mơ. Mộng hay mơ, vẫn là chuyện trăm năm ngàn đời. Mà, Đấng “Có” đời đời, từng nói:

“Phúc cho ai được an nghỉ 
trong tình yêu Thiên Chúa,
vì cả chúng tôi, 
chắc chắn 
cũng sẽ được sống.
(Hc 48: 11)

Hiểu Nước Trời như một xã hội không-chịu-ăn-cắp, dù là “ăn cắp sự sống” của người khác, chắc chắn “ta sẽ được an nghỉ trong tình yêu của Chúa”. Và, “sẽ được sống”. Sống vui. Sống mạnh. Sống hạnh phúc. Như những người không bao giờ chịu trộm cắp, bất cứ gì.
Để minh hoạ những điều kể trên, mời bạn và tôi, ta đọc truyện kể nhè nhẹ bên dưới, để thư giãn. Truyện kể, là truyện được kể từ bạn bè, về vui sống. Như sau:

“Một hôm, tôi có ý định từ bỏ mọi tương quan tôi vẫn có với người người. Định từ bỏ, cả  thai nhi còn rất bé, trong bụng. Nhưng trước khi có quyết định nghiêm trọng này, tôi cũng đã can đảm vào khu vực trống vắng,để chuyện vãn với Chúa. Tôi vãn với Chúa, như sau:
-Chúa ơi! Con chỉ muốn dứt nó đi cho rồi. Không thể chờ đợi lâu hơn được nữa, đâu.
-Khoan đã. Hãy nhìn xem, kìa loài dương xỉ với trúc tre. Ta dựng chúng, bằng hạt mầm búp măng, khi còn nhỏ. Con biết đó, mầm giống với búp măng, đâu trông ngóng điều gì ngoài ánh nắng và nguồn nước, ta cung cấp. Ấy thế mà, chỉ ít tháng với ít năm, tre trúc với dương xỉ đã xanh tươi, cao mọc khắp ngút ngàn. Chẳng khi nào ta ban cho tạo vật những tốt tươi mỹ miều, mà không thử thách. Thử thách có to, mầm giống lẫn măng búp dù nhỏ, vẫn chịu được. Chẳng bao giờ, ta cất nhắc đi, ánh sáng và nguồn nước giúp chúng vượt trội mọi thử thách. Cả con nữa, có khi nào Ta bỏ con lại với thử thách, mà không giúp? Hãy so sánh, giữa con với loài tre trúc, những dương xỉ. Con có thua kém chúng bao giờ đâu. Sao những toan dứt điểm và trừ khử mầm giống búp măng đâu đẹp đẽ bằng thai nhi, của con người? Thai nhi sẽ sáng rực, đẹp đẽ hơn trúc tre với dương xỉ, con hãy cố. Ta sẽ không bỏ rơi con, như vẫn không bao giờ bỏ tre trúc/dương xỉ, thấp hèn còn thua con.
Và nghĩ thế, tôi bèn trở về nhà, nhất định không chào thua trước thử thách. Dù, thử thách ấy có là đau khổ, mệt nhoài suốt nhiều tháng.
                
Truyện kể ở trên, có thể là truyện cổ rất xưa, nhiều hư cấu. Cũng hư cấu, như chuyện đòi “giết người trong mộng”, hay trong bụng. Bởi, thực tế cuộc đời, có những khoảnh khắc người người đều không nhớ. Nhớ rằng, có đau khổ, thử thách thì cũng có ân huệ, Trên ban xuống. Ân huệ Trên ban, là để con người lướt thắng mọi thử thách. Thử và thách, từ những mộng ước bình thường. Cho chí những toan tính dám giết người.
Vượt được thử thách, người người sẽ cùng người nghệ sĩ hát thêm lời ca câu hát, rằng:
“Em ơi phải chăng phút giây ngày ấy, 
đôi tim ước mộng bấy lâu thành lời. 
Dù rằng đường đời ngăn cách tình ta 
Phút giây ban đầu mãi không phai nhòa.” 
(Lam Phương – bđd) 
  
Thành thử, mỗi khi có toan tính cướp trộm sự sống của người và của mình, cũng nên nghĩ đến những phút giây ngày ấy, thuở ban đầu. Thuở có mộng ước bấy lâu thành lời. Mộng và ước, cho tình mình mãi mãi bền lâu. Vẫn thể hiện nơi “tình” của con trẻ. Cho con trẻ. Dù, “tình” ấy vẫn còn trong bụng mẹ hay đã lọt lòng. Ấy đó, là chứng tích của tình yêu. Tình của mình. Của người.
Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn xin trân trọng “tình” người
chứ không chỉ “tình” mình bây giờ.
Không bị trộm. 



32. “Rơi rơi ... Dìu dịu ... rơi rơi” 
Trăm muôn giọt nhẹ, nối lời vu vơ ... 
(Phạm Đình Chương- Buồn đêm mưa) 

(GLHTCG #2366) 
Bần đạo có người bạn thân quen từ hồi nhỏ, lâu lâu 
thấy nhớ  bèn gửi  thư: “Nghe nói dạo này cậu đi nhiều tận đất thánh, chắc cũng thâu thập đôi điều lý thú, kể nghe coi.” Nghe bạn đòi, bần đạo nghĩ mãi chẳng biết nói gì, để bạn vui. Bởi, có nói nhiều, bạn cũng bảo: “Lại phiếm nữa rồi! Tớ đây, chỉ thích chuyện thật. Những gì xảy đến, mới đây thôi.” 
Ừ nhỉ. Đúng là, bà con mình xưa nay toàn kể cho 
nhau nghe câu chuyện cổ. Cổ xưa như đất, rất hành tinh. Vậy hôm nay, có câu chuyện vừa xảy đến, đem ra phiếm loạn, chừng đôi giòng. Phiếm loạn xạ, với lời thơ/câu hát của nghệ sĩ họ Phạm xưa từng viết: 
“Đêm mưa, làm nhớ không gian, 
lời ru thêm lạnh, nỗi hàn bao la. 
Tai nương, hướng giọt mái nhà 
Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn…” 
(Phạm Đình Chương – bđd) 

Trời nặng. Ta buồn. Buồn chuyện đạo. Buồn cả 
chuyện đời. Ở Đâu  đó, như có kể: 

“Kỳ đại hội hàng không hôm đó, có người Mỹ phùng mang trợn má, lên tuyên bố: hãy cho tôi cục sắt nhỏ, tôi sẽ biến nó thành tàu Boeing 767, rất hùng hậu.

Người Nhật đứng cạnh nghe chừng buồn, bĩu môi bảo: cứ giao cho tôi một ít bán dẫn thôi, tôi sẽ trang bị cả dàn hệ thống thông tin trên tàu, cho mà xem. 

Còn chuyên gia người Việt, nãy giờ mải chụp hình/rình ảnh suốt buổi hội, thoạt nghe câu chuyện ù ơ ởm ờ, vội quay sang quả quyết: còn tôi, hãy đưa tôi chỉ một tiếp viên thôi, tôi sẽ sản sinh cho ra nguyên phi hành đoàn, không hạn chế. Vô tư. Thư giãn.” 
Chuyện vui buồn, thư giãn, nay cứ loanh quanh khoanh cùng nhà Đạo, ở nhiều nơi. Cả nơi đền đài cung điện trang trọng/nghiêm túc, rất Va-ti-căng. Chuyện đền đài/dinh thự cao sang là thế, mà sao có người vẫn thắc mắc. Hết lan man tản mạn, rồi lại phản bạn với phản chống, rất Siđa. Chuyện phản chống hay còn gọi “Liệt Kháng Siđa” ở Châu Phi, nay hết biết. Liệt bại lại phản kháng, có bao nhựa ngừa thai, là chuyện nan giải, thấy lời hỏi như sau: 
“Chuyến công du Phi Châu của Đức Giáo Hoàng Biển Đức cách nay không lâu, nghe đâu đã bị giới truyền thông - báo chí, lan rộng nhiều chỉ trích. Vẫn cứ chỉ chỏ rồi trích dẫn, và rằng: Đức Giáo Hoàng quả là không phải, khi ngài bảo: “bao cao su ngừa thai” không là giải đáp tốt cho cơn khủng hoảng Liệt Kháng/Siđa, châu lục này. Tôi có một thắc mắc hỏi rằng: sao Giáo hội mình lại không cho mọi người được phép sử dụng “bao cao su” rất có lợi để giảm thiểu nguy cơ lan truyền bệnh quái ác, như thế?”

Thắc mắc/buồn vui gì cũng hỏi, là chuyện thường ngày, ngoài huyện. Huyện mình nơi ấy, có là huyện Rôma-La Mã, hay là đâu đó, rất chững chạc. Sao vẫn còn lấn cấn, đến hỏi han. Hỏi han/khúc mắc nay gửi đến đấng bậc vị vọng, ở Sydney. Thắc mắc, là để hỏi. Để, am tường sự việc hầu gặp được ánh sáng chỉ đường, rất thân thương. Hỏi, là những câu hỏi mong chờ một đáp ứng vẫn đưa ra, từ dạo trước. Hỏi, để có lời giải mã từ đấng bậc vị vọng, rất chuyên môn. Hỏi, là câu hỏi hôm nay lại được đức thày Flader chiếu cố, như có viết: 
“Xin nói ngay ở đây rằng: sở dĩ Hội thánh không cho phép sử dụng bao cao su ngừa thai, hoặc bất cứ hình thức chống thai nào khác, vì: làm như thế sẽ đi ngược lại mục tiêu cao cả của tính dục nơi con người. Do Chúa ban. 
Chúa dựng nên con người, có nam và có nữ. Ngài ban cho họ quà tặng cao quý, rất tính dục. Tặng con người, để rồi bằng vào động tác yêu đương thầm kín, cả hai người phối ngẫu đem sự sống đã đổi mới, với nhân trần. Bằng vào động tác yêu đương của mình, người nam người nữ cùng san sẻ uy lực sáng tạo của Thiên Chúa, theo cung cách rất tuyệt mà ta có thói quen gọi là “đồng công sáng tạo loài người”. Đây là quà tặng lớn lao cao cả, từ Thiên Chúa. 
Nhìn sự việc theo chiều kích này, ta đều thấy: Hội thánh có bổn phận giáo huấn dân con nhà Đạo, duy nhất một điều: cần thiết là, mỗi động tác và mọi tác động có được từ hôn nhân chân chính, phải mang tính tự ý hiến thân, cốt nhằm để ta hiệp thông cùng Chúa sáng tạo nên sự sống con người.” (GLHTCG #2366). Nói khác đi, ta sẽ bảo: việc gì được thực hiện qua động tác đích thực của hôn nhân, khả dĩ biến việc “đồng công sáng tạo loài người”, thành chuyện không thể xảy ra, như sử dụng “bao cao su ngừa thai” chẳng hạn, thật ra chỉ là chuyện của ác thần/sự dữ. (x.GLHTCG #2370) 
Giả như, người nam và người nữ sử dụng “bao ngừa thai cao su” là cốt để ngăn ngừa sự lây truyền bệnh Liệt kháng/Siđa, thì mục đích của động tác này, ngay từ đầu, không phải để ngăn chặn việc “đồng công sáng tạo loài người” rất chân chính, thì động tác ăn nằm giữa hai vợ chồng, vẫn không là hành xử của một giao thoa đích thực trong hôn phối, cho đúng cách. Bởi lẽ, thay vì cho đi và tiếp nhận lẫn nhau, cho và nhận toàn vẹn thực chất của việc ân ái, như các cặp vợ chồng chân phương lành thánh vẫn thường làm, thì dường như động tác này chỉ nhằm tạo rào cản ngăn cách, với phân chia. 
Thêm vào đó, nếu một trong hai người phối ngẫu có bị lây truyền nhiễm phải căn bệnh quái ác nọ, thì do bởi tình yêu thương đích thực, họ sẽ rất lo chính mình lại có nguy cơ khiến cho người mình yêu bị lây lan tiêm nhiễm, bằng vào sử dụng bao ngừa thai cao su. Như thế mới đúng. Sử dụng bao ngừa thai, mà lại bảo là để tránh nguy cơ gây lây nhiễm cho người phối ngẫu, thì chắc hẳn đây không phải là một hành xử của tình yêu thương, rất chí tình. 
Trong buổi nói chuyện với các Giám mục ở Châu Phi, hôm 10/6/2009, Đức Giáo Hoàng Biển Đức có nói: “Truyền thống giáo huấn của Hội thánh đã chứng minh một điều: và đây là phương cách duy nhất khả dĩ tạo an toàn không hề sai sót, hầu ngăn ngừa sự lây lan bệnh Liệt Kháng/HIV, là: Đạo Chúa đem lại cho hai người phối ngẫu, tình thân thương bằng hữu, niềm vui hưng phấn cũng như sự bình an hạnh phúc, mà hôn nhân và sự chung thuỷ, sự an toàn khiết tịnh vẫn đem đến, phải liên tục trình bày cho giáo dân, -đặc biệt là giới trẻ- được hiểu rõ.” 
Tuy thế, dù ta có tách sự việc ở trên khỏi khía cạnh luân lý/đạo đức, thì “bao ngừa thai cao su” vẫn không là giải pháp tốt đẹp, trong việc phòng ngừa chống trả bệnh Liệt kháng/Siđa. Nói cho cùng, việc Đức Giáo Hoàng bị phê bình chỉ trích về nhận định ngài nói: bao ngừa thai cao su không là giải đáp tốt đẹp, ngài vẫn có lý để nói như thế. 
Tác giả Michael Cook có viết một bài đăng trên “mercatornet.com” ngày 21/3/09, quả quyết rằng: sự thể cho thấy HIV/Liệt Kháng Siđa càng gia tăng, nếu ta càng tăng cường sử dụng bao cao su ngừa/chống thai, dài dài. Ông còn trích dẫn thí dụ xảy ra ở Camơrun, đất nước được vinh dự đón tiếp Đức Giáo Hoàng đặt chân thăm viếng trong chuyến công du Phi Châu vừa qua, và tỏ bày nhận định ở trên, thì trong thời gian từ 1992 đến 2001, số bao cao su được bán ra ngoài thị trường gia tăng đáng kể, đang từ con số 6 triệu bao trong 9 năm, nay lên đến 15 triệu, tức gấp hai lần rưỡi. Trong khi đó, bệnh Liệt kháng/HIV lại gia tăng những ba lần, tức đang từ 3% đã lên đến 9%. Theo như trước. 
Bài viết của tác giả Michael Cook còn trích dẫn nhận định của Tiến sĩ Edward C. Green, chuyên gia Harvard về ngăn ngừa Liệt Kháng/HIV, tuy không là người Công giáo, vẫn tự hào mình là vô thần, nhưng ông vẫn nói: “Đức Giáo Hoàng Biển Đức rất có lý”. Ts Green giải thích: “Sử dụng bao ngừa thai cao su, không chỉ thất bại trong việc làm cho tầm mức của bệnh Liệt kháng/Siđa giảm sút đi mà thôi, nhưng nó “còn làm cho mức độ lây truyền bệnh Liệt kháng/HIV thêm trầm trọng hơn nữa, do bởi hiện tượng gọi là “nguy cơ bù đắp”, hoặc hành xử mất ức chế có điều kiện. Ngày nay, người ta nói nhiều về nguy cơ về tính dục hơn trước. Làm thế, là vì họ cảm thấy an toàn hơn thực tế được biện minh và lý giải, khi sử dụng bao bì này.” 
Một chuyên gia khác cũng nói tương tự, là ngài James Chelton, trong một bài viết gửi đến tập san y khoa The Lancet ngày 1/12/2007, có viết: “một trong 10 huyền thoại gây tai hại nhất trong cuộc chiến chống bệnh Liệt kháng, là điều mà nhiều người cứ nghĩ rằng bao cao su là biện pháp tốt để ngừa bệnh. Ông viết: “Riêng bao cao su thôi, cũng chẳng làm nên chuyện, đối với cơn dịch tễ xảy đến rất thông thường [như ở châu Phi].” 
Phương pháp thành công thấy rõ trong việc giảm thiểu các tệ hại của bệnh Liệt kháng/HIV là ở Uganda. Ở đây, năm 1986, dân chúng đưa vào hiện thực một phương pháp được mang tên ABC, tức: dùng 3 chữ đầu của sách lược phòng chống bệnh, tức: hãm mình nín nhịn nhiều thú hưởng lạc trước ngày cưới. Thứ đến, là: hãy ăn ở một lòng chung tình với người phối ngẫu của mình trong đời sống hôn nhân. Và, một điều nữa, là: nếu làm như thế mà vẫn không chịu nổi, thì khi đó mới dùng đến bao cao su ngừa/ chống thai. 
Từ 1992 đến 2002, chỉ số lây truyền Liệt kháng/HIV ở nước này, đã giảm sút từ 21% xuống chỉ còn 6%. Việc này đan kết với tầm mức giảm sút 60% đối với trường hợp thỉnh thoảng mới ăn nằm với nhau. 
Cuối cùng, thì Hội thánh cũng như Đức Giáo Hoàng, vẫn nói đúng. Và có lý. Khi ngài bảo: Giữ cho nền luân lý/đạo đức được đúng cách, mới là liều thuốc tốt, để giải quyết.” (Lm John Flader, The Catholic Weekly, 19/4/2009, tr. 10) 

Nói bài bản, thì như thế. Thế nghĩa là, có hỏi và có đáp. Hỏi lan man. Đáp rất mực. Bởi, câu chuyện vẫn cứ nóng bỏng. Dây dưa. Nhiều phẩm bình, chỉ trích. Những chỉ và trích, cả các đấng ở trên. Bất kể khuôn phép. Lẫn lịch sự. 
Tuy nhiên, nhà Đạo mình vẫn còn nhiều lập trường khác biệt. Cũng thông thoáng. Cởi mở. Và nghiêm túc. Như, lập trường của đức thày Andrew Hamilton SJ, chính cống một đấng bậc thày dạy về thần học của đại học Công giáo Melbourne, ở Úc. Tựu trung, lập trường của đấng bậc A. Hamilton, có thể lược tóm như sau: 
“Vấn đề Liệt Kháng/HIV, phải được nhìn theo hai bối cảnh khác biệt: một ở phương Tây, một ở châu Phi. 
Khi bệnh Liệt Kháng tràn lan bên phương Tây, bệnh này gây ảnh hưởng nhiều lên cộng đồng anh chị em “đồng tính luyến ái”. Đáp ứng ban đầu, tập trung phổ biến còn hạn chế. Chỉ cốt tạo niềm tin nơi cộng đồng thanh niên đồng tính, ngõ hầu giúp mọi người biết tự chế, chứ không nhằm phẩm bình xét nét liên quan đến lối sống và khuynh hướng mang tính dục tình. Cũng có giải pháp giáo dục mọi người về bản chất và tính cách lây truyền của bệnh, đồng thời cũng khuyến khích giới đồng tính biết cách sử dụng bao cao su khi ân ái, rất thất thường. 
Giáo hội lúc đầu, ít bận tâm ứng đáp chuyện Liệt kháng, với tư cách một thể chế, trong Đạo. Nhưng, tựa như các giáo hội khác, Hội thánh Công Giáo cuối cùng phải đối phó với hậu quả về những hãi sợ Liệt kháng, đã lây lan. Điều này làm gia tăng trạng thái mất cảm thông và tính cách kỳ thị đối với giới đồng tính luyến ái. 
Bối cảnh châu Phi, thì lại khác. Liệt kháng ở châu lục địa này, chủ yếu lây truyền qua hành động ăn nằm giữa người khác phái, ảnh hưởng lên cả phụ nữ lẫn trẻ em. Các bà vợ có chồng chết đi để lại không một đồng lương lẫn lợi tức, đành phải rời xa xóm làng cùng xã tắc, chọn lựa giáp mặt cuộc sống lang thang điếm đàng; hoặc chọn cái chết cho riêng mình hoặc con cái của mình. Không sử dụng bao cao su ngừa thai, họ cũng sẽ phải chết lây lất cách này,haycách khác. 
Khác với người đời ở trời Tây, cộng đoàn giáo xứ và giáo dân ở châu này, đã bắt đầu phải đối đầu lo cho phụ nữ cũng như con trẻ từng bị lây nhiễm, hoặc bị bỏ rơi, sống lê lết. Cộng đoàn Giáo hội địa phương, thường phải chấp nhận tình thế tiến thoái lưỡng nan, khiến có vị đã phản đối chống cưỡng việc cấm sử dụng tuyệt đối bao cao su. 
Cộng đoàn ở đây, nay hiểu rằng: chương trình rất giá trị và các dụng cụ miễn phí nhập từ phương Tây, đã mang lại rất ít hiệu quả, ở Phi Châu. Bệnh Liệt kháng/Siđa đã lan truyền, nay bám trụ nơi nguồn cội văn hoá, cần giải quyết. Nhìn vào các cặp hôn phối trong đó người nữ được coi không hơn gì đồ vật, rồi lại đến việc đánh bật gốc nguyên nhân và chủ trương bảo vệ phòng chống bệnh này, cũng như duy trì nền văn hoá có sự kính trọng cả hai phía; rồi lại đến việc duy trì niềm tin của tín hữu trong hôn nhân, nhất nhất đều phải được cân nhắc kỹ, khi thẩm định. Điều này đụng chạm mạnh lên thẩm định dục tính của con người, vẫn nằm sâu trong giáo huấn của hội thánh. 
Thành thử, có phẩm bình lời của Đức Giáo Hoàng, tưởng cũng nên xem xét mọi việc trong cả hai bối cảnh nói trên. Lời Đức Giáo Hoàng nói, đã phản ánh kinh nghiệm về sự lan truyền của bệnh Liệt kháng, ở nơi này.
Có thể, nhiều người ở châu Phi đang trực tiếp chăm lo cho nạn nhân của căn bệnh quái ác này, sẽ coi lời bình của Đức Giáo Hoàng, là một chiều. Có thể, họ cũng hiểu là cần có phương án chính đáng đối với vấn đề Liệt kháng xảy ra với lục điạ này. Đồng thời, họ tin rằng những ai không đủ tư cách mà lại ngồi đó chống đối việc sử dụng bao ngừa thai cao su, sẽ thất bại khi nhận định tình hình của người vợ các ông chồng vốn bị tiêm nhiễm Liệt kháng Siđa và cả các phụ nữ từng tra chân vào giòng đời làm đĩ điếm. Dù, việc sử dụng bao ngừa thai cao su không đem lại giải pháp nào cho châu Phi đi nữa, vẫn có thể cứu vãn một số nữ phụ và con trẻ đang lết bết chết dần với căn bệnh, trầm kha. Họ là những người dám biện luận rằng: việc sử dụng bao bì này có thể giữ được nguyên tắc truyền thống luân lý của giáo hội vẫn minh oan. 
Lời Đức Thánh Cha đưa ra ví dụ cụ thể về nghịch lý mà giáo huấn Hội thánh đang gặp phải về vấn đề này. Và còn nhiều việc khác nữa. Các vị lãnh đạo trong Hội thánh càng gợi ý bằng ngôn từ mở rộng về nền đạo đức của Tin Mừng đối với cuộc sống đầy đặn độ lượng, thì chính Hội thánh và nền đạo đức/chức năng của mình càng bị người đời coi là hẹp hòi, không tiếc xót. 
Bối cảnh châu Phi muốn đề nghị một điều, là: tốt hơn cả, ta hãy để mọi quan ngại của người phương Tây lại đằng sau, trong phút chốc, mà đi vào tình trạng sống của phụ nữ lẫn trẻ em ở châu Phi, vốn lây nhiễm Liệt kháng/Siđa, đang sống lây lất như thế nào. Suy cho kỹ, theo hướng này, có thể ta sẽ thấy và đưa ra đề nghị thẩm định tính phức hợp rất đạo đức/chức năng; và khi đó, mới có được lời lẽ chứa đựng cả sự thật lẫn lòng xót thương, vô bờ. Với nạn nhân.”(Lm Andrew Hamilton, eurekastreet.com.au 26/3/09) 

Hẳn là như thế, đã hai năm rõ mười. Mười mươi, là 
thật.Chẳng thế mà, sự thật thì nghệ sĩ họ Phạm khi xưa chỉ muốn hát. Những hát rằng: 
“Nghe đi rời rạc trong hồn 
Những chân xa vắng, dậm mòn lẻ loi.” 
  (Phạm Đình Chương – bđd) 

Thử hỏi, ai lẻ loi dậm mòn đôi chân xa vắng, hơn 
bạn đời mình ở châu Phi. Bạn đời, giờ đang trong tình huống “rời rạc trong hồn”, hơn người nữ phụ và trẻ em châu Phi. Ở nơi đó, thấy có Nigêria, Camơrun, Uganđa, và đâu nữa. Nơi đó, hiện thời đang …“rơi rơi”, “dìu dịu”, “rơi rơi”. Rơi dìu dịu. Với chết dần. Chết rời dần, mà sao vẫn nghe người người ở trời Tây, cứ cãi vã lẫn tranh luận. Những là, phẩm bình. Một bình phẩm hơi lạ. Và, nghe thấy: 
“Ở nơi nào đó, rất nhỏ đất nước châu Phi, có cô gái chạy đến nói với cha: 
-Tuần sau con và anh ấy kết hôn, đấy Bố! 
-Thế, thằng đó có nhà có cửa đàng hoàng gì không thế? 
-Dạ không. Anh ấy hiện còn đang ở trọ. 
-Thế, nó có xe có cộ gì không, cơ? 
-Cũng không luôn, thưa Bố. Anh đi xe đạp. Cũng tốt chán.Thời buổi này. 
-Thế bố mẹ, dì cậu nó thế nào, có giàu sụ cỡ đại gia không? 
-Anh ấy mồ côi, mà Bố. 
-Ấy chết! Ở đời, ai cũng phải biết tích phúc tích đức, nhé con! Nó khổ thế rồi, thì thôi. Con tha cho nó đi. Đừng làm khổ con nhà người ta nữa, mà làm gì… ”

Khổ hay không khổ, chỉ người trong cuộc mới được 
biết. Đâu cần người “Tây phương cực lạc”, cứ dõng dạc, bàn luận mãi. Sung hay chẳng sướng, đời người ai có qua cầu, mới hay. Chớ dông dài. Cũng đừng quan ngại. Phải chăng đây là lời nhắn, nhận được từ châu Phi? 
Trần Ngọc Mười Hai 
Nhiều lúc rất muốn tự chế. 
Chẳng nói dài. 
Cũng chẳng lai rai 
viết về chuyện như thế.





33. Thấy hối tiếc nhiều,thuyền đã sang bờ
Đường về không lối, Giòng đời trôi đã về chiều
Mà lòng mến còn nhiều, đập gương xưa tìm bóng..”
(Đoàn Chuẩn- Từ Linh - Gửi gió cho mây ngàn bay)

(1Cr 6: 18/ Ep 5: 3)
Nhưng thôi tiếc mà chi! Phải chăng, đây là tâm trạng của những nuối, và rất tiếc? Nuối tiếc, của các tay lờ mờ, quờ quạng như bần đạo? Tiếc làm chi, là có tiếc cho lắm cũng chẳng làm được gì. Được bao nhiêu. Nhưng, vẫn cứ tiếc. Tiếc rất nhiều. Tiếc một thời. Không chừng, là thời vàng son, của kiếp người. Tiếc, không chỉ vì thời gian, quá ngắn ngủi, để mà sống. Tiếc, là tiếc cả về không gian, chưa kịp sống. Tiếc, vì chẳng sống được nhiều. Sống lai rai. Dài dài. Thoải mái. Không gian xưa nay ta nuối tiếc, chừng như vẫn im ắng. Nay vắng lặng. Mất niềm vui. Thiếu tình người. Thiếu vắng cả nụ cười chân chất. Rất khôn nguôi.
Tiếc, là như câu chuyện rất ngắn ngủi , của người dân thường ở huyện, như bên dưới:

“Có cô gái còn rất trẻ. Nội làn da thôi, nhìn thấy nõn nà. Trắng trẻo. Như lâu ngày, chưa bắt nắng. Đứng giữa thành phố đông người, cô cứ vẫy vẫy như muốn gọi một đôi người. Có chiếc “honda ôm” từ đâu đến, vội trờ tới đưa ngay một câu hỏi:
Honda ôm không cô, hay chỉ muốn du ngoạn một vòng xích lô đạp, cho bõ nhớ?
-Khoan để tôi ngắm thành phố, cho nó đã! Chà! Mới mười năm thôi, đổi thay dữ. Bởi thế nên, đây rất nhớ!
Tưởng gặp Việt kiều thứ bở, với nỗi nhớ quê hương đầy nuối tiếc, tài xế xe ôm vội hỏi: 
-Vậy xin hỏi, cô như ở nước nào, vừa mới về? 
-Có bao giờ xuất ngoại đâu, mà tiếc với nhớ. Mới tù ra có vài giờ, thôi đó cha…”

Ở tù ra. Nước ngoài về. Hay, chẳng đi đâu, nhưng vẫn nhớ. Và tiếc, như ca từ người nghệ sĩ:

“Nhưng thôi tiếc mà chi” 
Chim rồi bay, anh rồi đi 
Đường trần, quên lối cũ 
Người đời, xa cách mãi 
Tình trần khôn hàn gắn, thương lòng.” 
(Đoàn Chuẩn Từ Linh – bđd)

Tình trần khôn hàn gắn, bởi vì người đời cứ mải khơi gợi vết thương lòng. Khơi và gợi, bằng ngăn cách. Thắc mắc. Đố kỵ. Những đố và kỵ, cả với các điều lâu này trở thành qui tắc rất chính chuyên. Cổ điển. Những luật thành văn. Không chữ viết.
Thắc mắc, ở thể hỏi rất lan man, gửi đến với đấng bậc, vào nhiều lúc, như sau:

“Theo dõi truyền thông với báo/đài, dạo gần đây tôi thấy nhiều người cứ bàn ra tán vào rất nhiều điều liên quan đến các thắc mắc cũng như mong muốn được giới lãnh đạo trong giáo quyền, cởi mở hơn. Cấp tiến hơn. Chí ít, là về địa hạt nào có liên quan đến đời sống tính dục của dân gian/người thường, như: đạo đức chức năng, tính dục với dục tình, ngừa chống thụ thai, đồng tính luyến ái, vv. và vv.. Nay, xin linh mục cho biết, với tư cách lãnh đạo một tôn giáo ở thế mạnh, Đức Giáo Hoàng mình có quyền chuyển đổi lập trường và giáo huấn của Hội thánh, hay là điều đó đã mang tính bất biến, mãi ngàn sau? Đây không có ý nói đến các chú giải thần học hoặc/và phương cách trình bày các giáo huấn ấy theo kiểu mới như để tạo luồng sáng mới trên những gì được cắt nghĩa tại sao các việc như thế lại mang tính báng bổ, huỷ hoại, mà chỉ muốn hỏi xem có trường hợp nào đó khả dĩ đảo ngược các giáo huấn Hội thánh đã ban hành?

Phải công nhận, điều mà bàn dân hôm nay thắc mắc, được rào trước đón sau rất kỹ lưỡng, muốn trực chỉ quyền uy của Giáo hoàng, mà thôi. Hỏi ai không hỏi, cứ hỏi đấng bậc vị vọng rất “trong nguồn”, thì đương nhiên lời đáp có thể đoán trước, rất chính qui. Bởi, còn ai chính qui bằng đấng bậc vị vọng vốn xuất thân trường phái Opus Dei, rất Harvard như linh mục thuộc giống giòng hào kiệt, rất Flader. Thôi thì, mời bạn và cũng mời tôi, ta nghe thử lời đáp từ đấng bậc Lm John Flader, sau đây:     
  
“Theo thiển ý, những điều bạn đưa ra trong mục hỏi/đáp hôm nay, xuất từ nguồn lực rất mạnh nhiều tính truyền thông hơn là bên trong Hội thánh Chúa. Ít nhất, về khiá cạnh giáo huấn Hội thánh trong địa hạt đạo đức, tính dục. Phần đông người Công giáo chúng ta đều biết rõ giáo huấn nền tảng về đạo đức tính dục không thể thay đổi một sớm một chiều được, là bởi dựa trên nền tảng của luật tự nhiên. Trên phẩm cách/giá trị của con người, cũng như mục đích của các hành vi dục tính. Hãy nhìn vào một số trích dẫn từ Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, đủ để làm sáng tỏ, cho vấn đề.
Về ngừa/chống thụ thai, ai cũng rõ: mục đích của hành vi dục tính, Chúa tặng ban, là để lan truyền sự sống ngang qua hành động đầy tính thương yêu. Và khi đã sử dụng biện pháp ngừa chống thụ thai, thì mục tiêu này đã tự héo mòn và biến mất. Hết trật tự. Cố Giáo Hoàng Phaolô Đệ Lục, thông điệp “Sự Sống Con Người” (Humanae Vitae) nói rất rõ:      
 
“Mỗi hành vi, dù là thực hiện động tác yêu đương trước ngày cưới, hoặc với mục tiêu đạt thành tựu, hoặc để khai phá hệ quả tự nhiên, có đề xuất, dù dùng nó như mục đích hay chỉ là phương tiện, ngõ hầu biến cho việc ‘đồng công kiến tạo loài người’, tự nó đã là ác thần/sự dữ.” (Thông điều Humanae Vitae 14; Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo #2370)   

Và nếu, điều gì được coi như, tự bản chất, mang tính sự dữ/ác thần, mãn đời nó sẽ luôn là ác thần/sự dữ. Chính vì thế, việc cấm đoán không được phép ngừa chống thụ thai, là điều không đổi thay.

Người người thừa biết, ngừa chống thụ thai, là hành vi chấm dứt sự sống của thai nhi, và làm như thế tức vi phạm quyền căn bản làm người tức được quyền sống như mọi người. Sự sống này khởi sự vào lúc thụ thai. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo từng nói rõ:
“Ngay từ thế kỷ đầu, Hội thánh từng khẳng định tính phi đạo đức, rất ác thần đối với bất cứ hành vi chống phá thụ thai. Giáo huấn này, chưa từng đổi thay; và sẽ không bao giờ thay đổi.”(GLHTCG #2271) 

Về hành động dục tính trước ngày cưới, rõ ràng là: hành động này có nghĩa là: chỉ được phép sử dụng trong hôn nhân mà thôi. Bởi, hôn nhân là nhiệm tích diễn tả tình yêu thương đích thực, có quyết tâm. Và, hành động yêu đương ấy đưa đến kết quả tạo nên con cái, để chúng lớn lên trong bối cảnh tự nhiên, của gia đình. Chính vì lý do này, mà Hội thánh, cùng với thánh Phaolô tông đồ (trong thư 1Cr 6:18; Êp 5: 3), vẫn luôn lên án mọi hành động dục tính ngoài hôn nhân. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo còn nói rõ:

“Thông dâm là hành động giao phối đầy tính xác thịt giữa người nam và người nữ không cưới hỏi. Việc này hoàn toàn đi ngược lại nền đạo lý và phẩm cách con người, đối nghịch lại tính dục tự nhiên đầy ý nghĩa tốt đẹp của phàm nhân, tức việc làm hoàn toàn hợp theo trật tự thiên nhiên đưọc tạo dựng vì lợi ích của hai người phối ngẫu dẫn đến việc sản sinh và giáo dục con cái.” (GLHTCG #2353).

Năm 1998, nơi phần bình phẩm về bức Tông thư Ad tuenda fidem của Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị, vào thời đó, Đức Hồng y Ratzinger, Bộ Trưởng thánh Bộ Truyền Giáo, đã lồng vào trong đó lời lên án rất nặng của Hội thánh đối với hành động thông dâm. Trong số các tín điều được Hội thánh giáo huấn, thì các giáo lý này mang tính dứt khoát, không đổi thay.
Nhằm tuân thủ những gì được ghi trong Kinh Sách, cả Cựu Uớc lẫn Tân Ước (x. Kn 19: 1-20; 1Cr 6: 13; Êp 5: 3), Hội thánh luôn coi các hành vi dục tính giữa người đồng tính là vô luân, rất nặng. Trở về với ngôn từ của sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, ta vẫn có những lời rất chắc nịch, như sau:
“Dựa vào nền tảng của Kinh thánh, là Sách luôn coi hành vị tính dục giữa người đồng tính luyến ái như hành động đồi bại, truyền thống Hội thánh lâu nay vẫn tuyên tín rằng: ‘hành động ăn nằm thể xác của người đồng phái tính, tự bản chất, là hành động đồi bại, truỵ lạc.”     

Hành động như thế, hoàn toàn phản nghịch luật tự nhiên. Ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng thế, hành động này không thể chấp thuận được.”(GLHTCG #2357)

Xem như thế, người Công Giáo chúng ta đều nắm chắc điều này: từ nay cho đến mai hậu, sẽ chẳng có Đức Giáo Hoàng nào, lại sẽ thay đổi các giáo huấn của Hội thánh. Chí ít, là những điều vừa nói, ở trên.” (Xem John Flader, Question Time, Connor Court Publishing 2008, tr. 36-38)

Trích dẫn những điều mà người nghệ sĩ khi xưa vẫn hát:

“Gửi gió cho mây ngàn bay
gửi bướm đa tình về hoa
gửi thêm ánh trăng màu xanh lá thư
về đây với thu trần gian.”
(Đoàn Chuẩn Từ Linh – bđd)
Không phải để gửi gió với mây mưa, qua thừ từ nhiều lá, có ánh trăng, có bướm hoa đa tình, ngày thu ở trần gian, với nhân trần. Trích và dẫn những điều như thế, chỉ để nhắc lại điều mà Phaolô thánh nhân, xưa đã nói:  

“Anh em hãy tránh xa tội gian dâm. 
Mọi tội người ta phạm đều ở ngoài thân xác mình, 
còn kẻ gian dâm 
thì phạm đến chính thân xác mình.”
(1Cr 6: 18)

hoặc: 
“Chuyện gian dâm, 
mọi thứ ô uế hay tham lam, 
thì dù nói đến, 
anh em cũng phải tránh, 
như thế mới xứng đáng 
là những người trong dân thánh.” 
(Êp 5: 3)

Những nói và hát nhiều về “Gửi gió cho mây ngàn bay”, hoặc nói đến “gửi thêm ánh trăng, mầu xanh lá thư…” mà chỉ nói đến những cấm và đoán, thì cũng thiếu xót nhiều, tính tích cực. Bởi thế nên, cũng là điều hay ho, tích cực nếu người người mời bạn và mời tôi, ta đọc câu truyện kể đầy hồn nhiên thơ ấu, ở bên dưới, chắc sẽ vui hơn. Truyện kể rằng:

“Bé Thiên An chỉ muốn được một lần giáp mặt cùng Đức Chúa, vẫn thấy lâu. Bé hiểu rằng, từ nay đến ngày gặp Chúa chắc cũng phải mất một quãng đường dài, suốt cuộc đời. Thế nên, trên đường tan học về, bé quyết định ghé công viên.

Hôm nay, trong cặp của bé, có cả bánh qui, vài hộp nước ngọt. Ở đây, bé gặp ngay cụ già, ngồi nhàn tản trên ghế đá công viên, ở gần bên. Cụ đang làm công việc rất nhan hạ, là: thảy bắp rang cho đàn chim ngói, chưa biết nói. Bé An dự định mở cặp sách ra ăn, chưa kịp uống, đã nghĩ đến cụ già, chắc cụ bụng đói lả hơn mình nhiều? Bé bèn đến gần cầm mẩu bánh qui nhỏ đem tặng cụ. Cụ già đưa tay nhận bánh, bằng một cử chỉ chầm chậm, đầy biết ơn. Cụ mỉm nụ cười nhẹ, tặng cho bé. Nụ cười của cụ, sao nhè nhẹ, rất thân thương êm đẹp làm bé chỉ muốn nhận lại, thêm lần nữa. Bé đánh liều lấy chai nước ngọt đem ra biếu cụ, hầu giải khát. Một lần nữa, cụ già chào đón bé bằng nụ cười mỉm trông nhè nhẹ, cảm ơn bé. Bé An thích quá, cứ muốn cảnh trí tuyệt đẹp cứ tái diễn, kéo dài. Khiến cả hai, một già một trẻ ngang nhau, ngồi suốt. Cứ thế trao nhau, những nụ cười hồn nhiên,khó kiếm. Đôi bên chỉ cười nụ, chẳng nói đến một câu.

Trời tối dần, bé Thiên An chợt nhận ra là trời tối chắc mẹ ngóng chờ dữ lắm , bèn sửa soạn cất bước ra về. Trước khi đi, bé quay lại nhìn cụ già, rồi chạy đến ôm chầm lấy cụ, tặng nụ hôn. Nhè nhẹ. Êm ái. Rất thân thương. Cụ già liền hồi đáp, tặng lại bé một nụ cười khả ái, chưa từng thấy. 

Vừa về nhà, mẹ hiền của Thiên An đã nhận ra dấu hiệu lạ, trên đôi má núm đồng tiền của con thân yêu, bèn gạn hỏi:
-Hôm nay ra trường con gặp chuyện lạ hay sao, mà vui thế?
-Mẹ à, hôm nay con được ăn trưa với Chúa… Mẹ biết không? Xưa nay, con chưa thấy một ai lại có nụ cười vừa đẹp, vừa hồn nhiên, như cụ ông đó.

Cùng lúc ấy, cụ ông cao niên cũng tung tăng niềm hưng phấn, đã trở về gặp người cháu nội đứng ở cửa, kịp nghe hỏi:
-Hôm nay, nội gặp chuyện gì mà vui thế?
-Chuyện này vui lắm! Nội vừa được Chúa Hài Đồng tặng cho nội mấy mẩu bánh, ở công viên…. Con biết không? Chúa Hài Đồng mà nội gặp, cũng nhỏ nhắn xinh xinh, tựa như con. Chưa bao giờ, nội lại thấy bình an, sung sướng thế….”
Truyện kể hôm nay, xem ra rất nhẹ. Đầy cổ tích. Truyện kể trên, sẽ mất đi nhiều ý nghĩa, nếu không kèm lời bàn của chuyên gia trong ngành kể, như sau: Lắm lúc, ta thường đánh giá thấp sức mạnh của một gặp gỡ, rất thanh tao. Nhè nhẹ. Thoát tục. Ở nơi đó, có những nụ cười hồn nhiên, của trẻ bé. Hay chỉ là, một dáng điệu thân thương, mềm mại. Ưu ái. Lại có khi, chỉ một lời nói suông. Hoặc, đôi tai bé bỏng, đang nghe ngóng. Cũng có thể, là: lời cung chúc. Hỏi han. Vấn ý. Hoặc giả, chỉ là: đôi tay mượt mà, đầy săn sóc. Cũng đã biến đổi được cả bầu trời. Đầy sóng gió. 
Trời sóng gió, ấy chính là: cuộc đời ngắn ngủi. Rất nhiêu khê. Hệ luỵ. Đời rất ngắn, mà sao con người vẫn cứ ganh đua, rồi đố kỵ. Những mải đua ganh và giành giựt, nên người người mới để luột mất đi, nụ cười hiền. Nhè nhẹ. Dễ thương. Trẻ bé. Chúa hài đồng. Mà, cụ ông cao niên nay nhận lãnh. Rất bất chợt.
Nghĩ cho cùng, đời người có quá nhiều dịp Chúa Hài Đồng lướt vượt đi nhanh vào lòng người, để mỉm cười. Nhưng người người, xem ra vẫn chưa sẵn sàng để nhận lãnh. Vẫn mải cạnh tranh. Đua ganh. Bận rộn. Đố kỵ. Nên, “thấy hối tiếc nhiều”. Rồi, “đường đời không lối”. Và, “tình trường thôi hàn gắn, thương lòng…”
Cứ để sang một bên, mọi hệ luỵ của đời người, tự khắc sẽ như bé Thiên An, và cụ già cao niên ở trên, bất chợt gặp được Đức Chúa của bình an. Mỉm cười. Trong trắng.

Trần Ngọc Mười Hai
Rất nhiều lần,
những muốn đời hồn nhiên,
của bé em      











34. “Anh vẫn yêu màu áo ấy
vô cùng”
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng 
(Ngô Thuỵ Miên/ Nguyên Sa – Áo lụa Hà Đông)

(Kn 1: 28)
Vẫn biết rằng, màu áo anh yêu chỉ là “áo lụa vàng”. Áo lụa, mà bạn và tôi vẫn yêu, không chỉ là mầu áo, ấy vô cùng. Bởi, nếu chỉ yêu mầu áo ấy thôi, thì tôi và bạn, ta sẽ còn thấy nhiều điều quái gở khác, như lời thơ vớ vẩn của tác giả “Vanh dô” (tức Vô danh nào đó) vẫn cứ nhại:

“Nắng Sài gòn, anh đi mà chợt mát!
bởi vì em mặc áo mỏng làm sao!
Anh ngắm em, mà thấy ấm cả đầu,
Mắt của anh chỉ còn mỗi hai  tròng…trắng.”  
(Thơ nhại của tác giả Ẩn danh)

Nay đã biết, tình yêu không chỉ tình tự đối với bề dày/sắc mầu, của quần áo. Nhưng, còn phải là tình thân thương, với bạn với cả kẻ thù. Nói kẻ thù, sao người người cứ hay nói về giới chức vô thần/quỷ đỏ? Sao không nghĩ, người đó chính là mình. Bản thân. Cái “tôi”, mình muốn đánh bóng?    
Nói cho đúng, cũng chẳng là đánh bóng hoặc dầy mỏng, về cái tôi mà người nghệ sĩ hát:

“Linh hồn anh vội vã vẽ chân dung,
bay vội vã vào trong hồn mở cửa…”
(Ngô Thuỵ Miên/ Nguyên Sa – bđd)

Hồn mở cửa, để đón nhận hạnh phúc do mình tạo ra. Hoặc, do người tạo cho mình. Hồn mở cửa, còn để cảm nhận rằng: hạnh phúc/sướng vui vẫn là mục tiêu cuối cùng của đời người. Mục tiêu ấy, vẫn ẩn chứa trong các sự việc vụn vặt trong đời người, mình tìm lấy. Nhất định là như thế. Chắc chắn, là như vậy. Nhưng với bé em còn ngây thơ/thơ ấu, không như thế. Mục tiêu hạnh phúc nhắm đến với bé em, có thể là như ý định của em bé, trong mẩu truyện hài ngắn ở bên dưới: 

“Sau gần cả tiếng cùng mẹ ngồi im, nghe giảng lễ, bé Âu Minh Định, nhất quyết nói với mẹ:
-Mẹ ơi! Con quyết rồi, mẹ ạ.
-Con quyết cái gì mà xem ra quan trọng thế?
-Con quyết định là: mai này khi khôn lớn, con sẽ đi tu làm cha giảng, để cho sướng!
-Nghe được đó con. Nhưng, điều gì làm con có quyết định nhanh như thế?
-Dễ hiểu lắm mẹ. Nghĩa là, con cũng sẽ đi lễ thường xuyên ngày Chúa nhật, mẹ khỏi cần giục. Nhưng, làm cha giảng lễ vẫn sướng hơn. Tha hồ đứng ở bục cao trên đó mà la hét, nói thật to. Chẳng ai dám phản đối. Chứ, tuần nào cũng ngồi ở dưới này nghe giảng hoài mà chẳng được đưa ra ý kiến phản hồi gì, chán thấy mồ!
Đành rằng, với bé em hoặc với các em không còn bé, hạnh phúc có thể là như thế. Cũng có thể là khác thế. Khác, với những gì người lớn minh định. Tuy nhiên, không thể vì thế mà các người lớn như bạn và tôi, ta mang trong đầu những quan niệm hoặc ý định, như bàn dân thiên hạ, lâu rày từng thắc mắc: 

“Nhiều lúc, tôi nghe biết có nhiều cặp vợ chồng chỉ muốn sướng một mình, chẳng muốn có con, chi cho mệt. Quyết định này làm tôi thấy rất khó chịu. Vì theo tôi, mục tiêu căn bản của hôn nhân, là chuyện sinh con đẻ cái, chứ! Đằng này, ai lại có quyết định trắng trợn như thế! Câu hỏi của tôi hôm nay là thế này: lấy vợ lấy chồng mà định bụng như thế có thành hiệu lực không? Nếu thế thì, đối với những người đã cao tuổi mới tính chuyện lập gia đình, thì sao? Chắc, những người ở tuổi lục thập hay thất thập, có lấy nhau thì cũng chỉ để cho có bạn, chứ sao mà sinh với đẻ gì nữa?”

Hỏi, hay không hỏi. Trả lời hay không trả lời, vẫn là tỏ thái độ về chuyện “nên hay không nên” để cho con trẻ hiện hữu trong cuộc sống lứa đôi, hạnh phúc? Nói cách khác, hạnh phúc có còn là hạnh phúc không khi mình chẳng hề muốn có con trẻ ở với mình. Hoặc đi xa hơn, sự chọn lựa của các cặp phối ngẫu có lập trường như thế, có đi ngược lại lời của Chúa? 

“Bọn độc ác sát hại trẻ thơ,
bày tiệc uống máu ăn thịt người, 
(Kn 12: 5)

Hoặc:
“Thầy bảo thật anh em: 
nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
(Mt 18: 3)
Dầu gì đi nữa, bạn và tôi, ta hãy cứ nghe giải đáp của một đấng bậc:

“Kế hoạch của Thiên Chúa đối với hai người nam nữ khi lấy nhau là để sinh con đẻ cái nhằm tiếp tục giống giòng, cho nhân loại. Thoạt vào lúc, Thiên Chúa tạo dựng người đầu tiên trong nhân loại, Ngài đã phán:”Thiên Chúa chúc lành cho chúng, và Thiên Chúa phán bảo chúng: Hãy sinh sôi nảy nở và hãy nên dẫy đầy trên đất.” (Kn 1: 28).
“Thiên Chúa chúc lành..” là Lời nói đầy ý nghĩa. Từ chương đầu của Kinh Sách cho đến hầu hết các chương đoạn trong Thánh Kinh, việc thụ thai và sinh con luôn được coi là việc được Chúa chúc lành. Thiên Chúa muốn dân con của Người sinh sôi nảy nở, nuôi con cho nhiều, không chỉ ở cuộc đời này, mà cả ở cõi miên trường.
Để đạt mục đích này, Thiên Chúa ban cho cả loài người, nam cũng như nữ, sức quyến rũ lẫn nhau, để cả hai người đưa nhau vào với tương quan kéo dài, suốt cuộc đời. Trong đời người, họ diễn tả tình yêu lẫn cho nhau, bằng những cử chỉ tự nhiên; đem cho nhau cuộc sống mới. Làm như thế, Thiên Chúa định ra kế hoạch cho hôn nhân và sinh sản, đem đến cho bản chất con người.

Phải chăng, nhận thức được kế hoạch này, mà nhà thơ kia, vẫn hát:

“Em chợt đến, chợt đi anh vẫn biết,
Trời chợt mưa, chợt nắng , chẳng gì đâu
Nhưng sao đi mà không bảo gì nhau?
Để anh gọi tiếng thơ buồn vọng lại…” 
(Ngô Thuỵ Miên/ Nguyên Sa – bđd)

Không bảo gì nhau, phải chăng là: không muốn có con, sao anh/sao em chẳng thấy nói! …Để bây giờ… thôi được rồi, hãy nghe thêm lời minh định ở bên dưới:

“Công Đồng Chung Vatican II, cũng có nhắc: “Hôn nhân và tình yêu đôi lứa, tự bản chất, được kêu gọi để con người cùng dấn bước hợp tác vào việc đồng công kiến tạo loài người. Và, giáo dục con cái. Quả thật, con cái, chính là quà tặng tuyệt vời ta đóng góp vào niềm vui của cha mẹ.” (Hiến Chế “Vui Mừng Và Hy Vọng, #50)
Hôn nhân được kêu mời về với việc đồng công cứu chuộc loài người, và giáo dục con cái. Để rồi, nếu cặp phối ngẫu nào, ngay từ đầu, không muốn có con, thì hôn nhân ấy kể như vô hiệu lực. Điều này, được ghi rõ trong giáo luật: Nếu như, bên nào hoặc cả hai phiá phối ngẫu, bằng vào hành động nhất quyết sẽ làm như thế, loại bỏ chính hôn nhân ra ngoài hoặc yếu tố nào thiết yêu hoặc tài sản nào cần thiết, thì phía ấy/bên ấy tự đem đến cho mình tính cách bất hiệu lực.” (Gl 1101 #2)
Thái độ mở lòng mình ra với sự sống, với ý định mong muốn có con do Chúa tặng ban, là yếu tố thiết yếu của hôn nhân. Thánh Âu-Tinh cũng từng nói: một trong ba việc, tức yêu tố thiết yếu của hôn nhân có thể kể ra đây, là: sự tốt lành phải có con cái.
Chính vì lý do này, vào lúc trước khi làm đám cưới, cả hai người phối ngẫu vẫn được Giáo hội gạn hỏi , và còn được hỏi một lần nữa, vào lúc trước khi trao đổi sự thuận thảo, vào lễ cưới, rằng: “Anh chị có ý định chấp nhận có con cái yêu thương được Chúa phú ban và giáo dục chúng theo luật của Đức Kitô và Hội thánh không?” Khi ấy, cả hai người phải trả lời “có” cho câu hỏi này; bằng không, Hội thánh sẽ không thể cho phép hôn nhân ấy thành hiệu lực.

Việc đồng công cứu chuộc loài người và giáo dục con cái là mục tiêu rất quan trọng của hôn nhân thể theo kế hoạch của Thiên Chúa. Không chỉ mục tiêu của hôn nhân như thế mới cần thiết. Tình yêu hỗ tương và sự hỗ trợ thân thương đôi bên, vẫn là chuyện quan trọng. 

Đoạn trích từ Hiến Chế Công Đồng “Nỗi Hy Vọng và Vui Mừng” còn nói thêm: “Hôn nhân không chỉ mang tính cách đồng công tạo dựng con trẻ thôi; nhưng, bản chất của hôn nhân là điều không thể tách biệt hai người phối ngẫu nữa. Và, yêu cầu tốt lành có con cái còn để chứng tỏ điều cần thiết là có tình yêu giữa hai người. Tình yêu ấy phải triển nở và trở nên chín chắn nữa. Ở trường hợp hai người nhất quyết không muốn có con, thì hôn nhân vẫn mang tính cách tổng thể của sự thông hiệp sự sống. Chính điều này tạo nên giá trị và tính cách không thể tách rời của hôn nhân.” (“Hy Vọng Và Vui Mừng” #50)

Trường hợp vì lý do nào đó, hai người phối ngẫu mở lòng đón nhận chuyện có con, nhưng không cả khả năng sinh đẻ, thì hôn nhân ấy vẫn có hiệu lực. Và, vẫn làm Chúa vui lòng. Đây là trường hợp đối với các người trẻ thấy rằng mình không làm cách nào sinh con và với những người cao tuổi mới lấy nhau. Thông thường, thì trường hợp sau gặp nhiều nơi các ông/bà goá vợ goá chồng nào đó muốn rằng thời gian cuối cuộc đời mình, có tương quan yêu thương và có trách nhiệm với người phối ngẫu mới. Hội thánh vẫn chúc lành cho hôn nhân của các vị và đón chào các vị ấy vào với cộng đoàn tình thường của Giáo hội.” (Lm John Flader, The Catholic Weekly 24/02/2008)

Thông cảm biết mấy khi ta thấy, người anh hoặc em trong yêu thương vẫn hát rằng:

“Em ở đâu, hỡi mùa Thu tóc ngắn?
Giữ hộ anh, mầu áo lụa Hà Đông       
Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng…” 
 (Ngô Thuỵ Miên/ Nguyên Sa – bđd)

Một lần nữa, mầu áo “vô cùng” ấy, anh và em đều thấy, chính là tình thương yêu thể hiện nơi con cái. Nói cho cùng, thương yêu nhau mà không giữ được mầu áo “có con” của thứ tình yêu đích thực, thì anh và em có đi đâu chăng nữa, dù là nắng Cali hay nắng Sàigòn, vẫn chẳng thấy “chợt mát” như hồi nào. Bởi lẽ, như nhà văn/thơ nào đó từng nói: “Yêu, chẳng phải là cứ nhìn nhau mãi, mà là cùng nhau nhìn về một phía.” Phía ấy,luôn hiển hiện sắc mầu yêu đương của “Áo Lụa hà Đông” hay lụa Mumbai, chính là con cái. Ý nghĩa đích thực của tình yêu, giữa hai người.
Để minh hoạ những sự việc ở trên, mời bạn mời tôi, ta nghe thử câu truyện kể rất ngắn, về “mầu áo ấy vô cùng” của con cái, như sau:

“Năm 1939, cha con gia đình nọ, đã trở thành hai nhà sưu tầm nghệ thuật, rất trứ danh. Chẳng bao lâu, thế chiến thứ hai bùng nổ, người con đăng ký tác chiến theo quân thiện nguyện vùng xa, không còn liên lạc. Ít năm sau, có tin người con bỏ mình nơi trận địa, sau khi liều thân cứu mạng một đồng đội, trong lâm nạn. 

Chiến tranh chấm dứt, ngày mà đồng đội nay về làng tìm gặp cha của người đã cứu mình, được biết cụ là nhà sưu tầm nghệ thuật có tiếng, trong vùng. Gặp cụ, đồng đội của người con thưa: “Dạ thưạ, có lẽ cụ chẳng biết con là ai, đâu. Con là người bạn có mặt bên cạnh, lúc con trai cụ lìa trần. Hôm nay, con đến để xác nhận rằng: trong giờ phút nguy nan, anh chẳng hề kêu rên đau đớn, hoặc tỏ nỗi buồn phiền. Con được biết cụ và anh rất yêu thích nghệ thuật, nên hôm nay con đến biếu cụ một kỷ vật không to lớn là bao, nhưng tạm nói lên tấm lòng cảm kích của con với anh ấy. Xin cụ nhận lời, cho.”

Nói rồi, anh trao cho ông cụ bức chân dung người con trai, vị cứu tinh của anh. Bức tranh không mang tính nghệ thuật. Rất giản đơn. Chỉ vài nét chấm phá, nhè nhẹ. Nhưng, đã làm ông cụ cảm động, nấc lên thành tiếng. Và, người bạn nói tiếp: “Đây là tất cả những gì con có thể làm được cho con của cụ. Anh là người quả cảm, đã hy sinh cứu mạng con.”

Ít lâu sau, ông cụ nhớ con quá, từ trần. Không còn sưu tầm tranh nghệ thuật nữa. Vào buổi đấu giá hôm sau ngày cụ mất, các nhà đầu tư nghệ thuật đến từ khắp nơi, trên thế giới. Và, kỷ vật đầu tiên được đem đấu giá, chính là bức chân dung con trai nhà sưu tầm. Người đấu ra giá vỏn vẹn chỉ $200… rồi $100… cũng chẳng thấy ai giơ tay, mua đấu. Mọi người tìm đến buổi đấu hôm nay, chỉ để mua tranh của Rembrandt, mà thôi. Lúc ấy, ở cuối hành lang, có người dáng dấp quê mùa tỉnh lẻ, lên tiếng: 

“Tôi sẽ lấy bức chân dung này. Đây là một bức tranh rất quý, dù không phải của họa sĩ nổi danh. Nhưng tôi chỉ còn đúng 10 đô, xin cho tôi thiếu chịu được không?” Ban đấu giá hội ý xong, đồng thuận bán cho người đấu vừa lên tiếng. Về sau, được biết ông là thợ làm vườn cho cha con nhà sưu tầm. Mang tranh về xem, mới vỡ lẽ bên trong có cài di chúc, nói: “Ai mua bức chân dung này, sẽ được thừa tự toàn bộ cơ sở, và tài sản nghệ thuật của chúng tôi, để trong đó.”

Thành ra, nói gì thì nói, trong cõi “trời mơ”, đầy nghệ thuật, vẫn luôn cần đến người con đóng góp và hợp tác, về mọi chuyện. Tình cha con/con và cha ở đây sẽ không thể có được nếu như bậc cha mẹ, các cặp phối ngẫu cứ lấy nhau mà chẳng muốn có sự hiện hữu của con cái. 
Con cái, chính là quà tặng của Đức Chúa. Là, kết quả của Tình yêu. Là, ý nghĩa của cuộc đời. Thiển nghĩ, cuộc đời này chỉ gồm toàn những cặp phối ngẫu đơn độc theo ý muốn, thì cũng chán. Chán hay không chán, đó vẫn là vấn đề đặt ra cho mọi người. Hôm nay. Ở mọi nơi. Chí ít là cộng đồng dân Chúa, vẫn được nghe bảo, rằng: 

“Hãy để các con trẻ, 
Lại với Thầy,
Vì Nước trời là của chúng.
(Mt 18: 3)

Nước Trời hôm nay tưởng vẫn cần đến con trẻ. Và, những cặp phối ngẫu có tinh thần của trẻ con.
Trần Ngọc Mười Hai
thường mong được hát
bài áo lụa “tình yêu”
với nhiều người.
         












35. “Ôi phù du”
từng tuổi xuân đã già
một ngày kia đến bờ,
 đời người như gió qua.”
(Trịnh Công Sơn – Phôi Pha)

(Mc 6: 31)
Phù du. Xuân đã già. Đời người. Gió đã qua. Ôi chao, là lời lẽ. Ấy đấy, là nhận định. Nhận và định, của nhiều bạn bè/người thân: về cuộc đời. Về, lập trường sống của nhà “phù thuỷ âm nhạc” họ Trịnh. Cũng chua cay, thâm trần. Phù du, u uẩn. Phù du, như đời người. Uẩn khuất, như ca từ ở nhạc bản, có nhận định về đời người, như sau:
“Thôi về đi,
đường trần đâu có gì.” 
(Trịnh Công Sơn -  bđd)

Thôi về đi, hiểu là: “về Thiền môn, chốn Niết Bàn” như cảm nhận của người trẻ nọ khi chia sẻ tâm tình về giòng chảy ở buổi “Hát Cho Nhau Nghe” tại Sydney hôm ấy, ngày đông lạnh tháng 6/2009:
“Theo ý của riêng em, nhạc sĩ viết bài này, từng suy tư khá nhiều, về cuộc đời. Nghệ sĩ này từng thắc mắc nhiều về chốn Thiền, nên mới dùng cụm từ “Thôi về đi”, ở nhạc bản “Phôi Pha”. “Thôi về đi”, theo em, là hãy về với chốn Thiền, tức: chốn sắc sắc không không, của nhà Phật. Về, để thấy rằng đời mình chẳng là gì cả. Mà nuối tiếc. Về với chốn Thiền, để suy tư. Nhập định. Sẽ vui hơn.”

Thôi về đi, hiểu theo ý Đạo, là tình tự của nhà ĐẠO. Tình tự, mang nặng tâm tư sâu lắng. Miên trường. Diệu hạnh. Còn có nghĩa: “về đi thôi”, hoặc: “hãy đi đi”. Đi, mà về chốn vắng, quạnh hiu. Để, nghỉ ngơi. Có nguyện cầu. Đi đi, hoặc “thôi về đi”, là về với cội nguồn Đấng Hằng Sống. Là, trọng tâm mọi phúc hạnh. Ở đó, có ủi an. Chan hoà. Vực dậy. Như Chúa vẫn bảo:
“Anh em hãy đi 
đi về nơi hiu quạnh,
mà nghỉ ngơi một chút.”
(Mc 6: 31)       

Về nơi hiu quạnh, hoặc với Thiền, là về với bình an. Nhẹ nhàng. Hạnh phúc. Ở đấy, không có bôn ba. La cà. Nhiều kinh động. Đi đi, mà về nơi hiu quạnh. Chốn thiên đường. Sắc sắc không không, chốn hạnh ngộ, vẫn dành để cho các con dân của Chúa, những kẻ biết chấp nhận phiền muộn. Đớn đau. Âu sầu. Thày xác quyết:
“Phúc cho kẻ có tinh thần khó nghèo,
vì Nước Trời là của họ.”
(Mt 5: 3)

Thôi về đi, là về với Nước Trời nghèo khó. Ở đời này. Và, đời sau. Muôn thuở. Về, là đến ở với “Nước Trời”, Chúa hứa ban. Với cội nguồn hạnh phúc rất thâm trầm, êm êm. Mà có lẽ, nhiều người vẫn chưa “ngộ”. Chưa đạt tới. Dù đã biết. “Thôi về đi” là đi riêng, ra về chốn ấm êm, lặng lẽ mà nghỉ ngơi. Mà nguyện cầu.
Lời Chúa, thoạt nghe, tưởng rất dễ. Nhưng, có trải qua đôi lần trong đời, mới thấy là: thực hiện chuyện đó, thật cũng khó. Khó, vì người người vẫn bận tâm quá nhiều chuyện. Những chuyện tưởng như rất cần. Cho mình. Hoặc, cho người. Nhưng thật ra, vẫn là chuyện viển vông. Tầm phào. Vô bổ.   
  Thực hiện điều Chúa dạy, là việc chung, của mọi người. Cùng đi chung. Cùng làm chung. Chung cùng, mà đi. Mà về. Chứ nào mấy ai “ngộ” được  rằng: thực hiện điều Chúa dạy, lại là “đi riêng ra”. Từng người một. Để nguyện cầu, và nghỉ ngơi. Sống ở đời, người người đâu chịu nghỉ, và chịu ngơi.  Vẫn cứ trầm mình ở chốn phồn vinh. Bon chen. Nhiều tranh đấu. Ở đó, có tiếng cười rộn rã. Nhưng không an bình. Để ngơi nghỉ. Và, nguyện cầu. Nơi đó, không thể là chốn Thiền môn, sắc sắc không không, mà “đi về”, hoặc: “về đi”.   

Vì chưa đạt chốn Thiền môn, để “Thôi về đi” hoặc “hãy đi đi”, nên người nghệ sĩ vẫn hát:
“Không còn ai,
đường về ôi quá dài
những đêm xa người.” 
(Trịnh Công Sơn -  bđd)

À thì ra. Đường về, hôm nay ôi quá dài. Dài, như những đêm xa người. Những đêm, không còn ai. Không còn tình người. Vì, người đời nay vẫn bon chen. Đố kỵ. Đầy vị kỷ. Giống như, cô em nhỏ ở truyện kể, bên dưới:

“Truyện rằng,
Buổi quạnh hiu đêm hôm ấy, bọn tôi được mời đến nhà một người bạn mới vừa quen, nhưng chưa thân cho lắm. Chưa thân, nên vẫn ngần ngại. Ngượng ngập. Vì, gia đình mời bọn tôi đến, đang trong tình trạng khá lấn cấn, khi người con gái trong nhà tuổi chỉ 13, nhưng đã nổi chướng. Trước mặt bá quan thiên hạ, cô vẫn tỉnh bơ. Bất cần đời. Chừng như, cô không thích món “nộm rau muống” mẹ chế biến, có pha trộn nhiều mắm tôm. Mặt mày cô đỏ bừng, đầy hung tính. Nhất quyết bày tỏ một phản đối. Rồi bỏ ăn. Món nộm bỗng dưng trở thành đầu giây mối nhợ, cho xung khắc. Khó khăn. Nghịch ngạo.
Mẹ hiền hôm ấy, thấy xấu hổ với thực khách, bèn cố thuyết phục con gái nhỏ bằng quan điểm/lập trường rút từ lời khuyên của Đức Chúa: hãy chia sớt cho nhau mà ăn, đừng phí phạm. Bà nói nhỏ:
-Con à, con vứt bỏ như thế, thật phí của “giời”, mai ngày chết đi, hết về trời nghe đó con. Con biết đấy, thế giới này còn rất nhiều người vẫn thèm được ăn chỉ cọng rau con bỏ phí.
Nghe thế, cô con gái chẳng nói chẳng rằng, chạy vào nhà trong, lấy phong bì thật lớn với cây bút đậm nét, chìa ngay cho mẹ, rồi nói:
-Đây, bà muốn tôi gửi món rau thúi này cho đứa chết đói nào, thì cứ viết địa chỉ vào phong bì, tôi  sẽ gửi ngay cho.
Chứng kiến cảnh tượng này, thực khách bọn tôi bèn vỡ lẽ: sống ở đời này mà có lòng hiệp thông thương nhớ người nghèo đói, thật không dễ. Nói gì đến hiệp thông chốn Thiền môn “sắc sắc không không”, mà đi về.”

Hiệp thông “thôi về đi”, là chấp nhận có tương quan với mọi người. Ở Nước Trời. Chốn thiền môn thiết thực, mà nguyện cầu. Hiệp thông “thôi về đi”, là hiệp thông cùng các thánh. Nơi khung trời cửa ngỏ. Rất vắng vẻ. Quạnh hiu. Rất “sắc sắc không không”. 
Và, một khi đã nhập “thiền môn”, “về với dĩ vãng”, không hẳn là đi vào với đất trời đầy quên lãng, của riêng ai. Nhưng, là: hiệp lòng làm thành Hội thánh. Ở mọi nơi. Cả trên trời. Lẫn nơi âm phủ. Chốn luyện hình. Hiệp thông “thôi đi về đi”, là có tương quan giữa người sống với kẻ chết. Bây giờ. Và, mãi mãi. 
Có bạn đạo nọ, thắc mắc nhiều về hiệp thông” thôi về đi”, đã gợi nhớ một câu hỏi về cuộc đời. Về cả nỗi chết, có tẩm liệm. Có chôn cất, lẫn hoả táng. Với lời hỏi han một lời lẽ, như sau:

“Tôi xin hỏi đôi điều về lập trường của Giáo hội trong việc hoả thiêu người quá cố. Theo tôi, việc này Hội thánh đã nghiêm cấm. Nhưng tại sao, dạo gần đây, vẫn thấy nhiều vị chức sắc trong Giáo hội, khi sống vẫn rất đàng hoàng, nhưng lúc chết lại bị đưa vào lò, chịu hoả táng. Tại sao thế? Làm vậy, mai rày ta còn được hiệp thông với các thánh trên trời, nữa hay không?”

Cứ sự thường, bàn chuyện hiệp thông các thánh, và giải đáp thắc mắc về thần học/Thánh kinh, người Sydney thường gửi câu hỏi về đấng bậc vị vọng của báo tuần ở nơi đây. Và, đức thày John Flader lại được vời đến, để giải quyết. Chuyện ở trên:

“Xin bắt đầu bằng đôi giòng lịch sử giáo hội có liên quan đến người quá vãng. Về với Thánh kinh Cựu Uớc, rõ ràng: người Do Thái xưa có thói quen chôn cất người quá cố (xem Khởi nguyên 49: 28-32). Chôn người chết, là thói quen thông thường của người xưa, trong đó: là người Ai Cập với tục ướp xác, người Phênixia, Các-ta-gi-a, Babylôn, Trung Hoa, vv. với nhiều tập tục khác.
Người Hy Lạp/La Mã thường chôn người thân của mình, đã quá vãng. Đôi khi, họ còn bỏ thức ăn vào trong mộ phần, nữa. Vì họ tin, là: sau khi qua đời, người quá cố vẫn tiếp tục sống như khi còn ở đời tạm.
Nhiều người tin, là: thân nhân dù quá vãng, vẫn hiện diện bằng tinh thần hoặc tính thiêng liêng, cả sau khi chết. Nên, thực hiện việc hoả táng là để mau đến với người quá cố, ngay tại phần đất thiêng. Ở bên đó. 
Tín hữu Công giáo tiên khởi, có thói quen chôn người quá cố, như tập tục của tiền nhân Do Thái. Chính vì thế, đôi lúc họ liều mạng quyết dành lấy thi hài các thánh tử đạo, đem về chôn cất theo tập tục người Công giáo.
Tín hữu Công giáo tin rằng thân xác mình là đền thờ Chúa Thánh Thần. Và, tin sự sống lại, ngày sau hết. Nên, mới tỏ bày kính trọng thân xác, người quá cố. Trong khi đó, hoả táng được coi là tập tục của người ngoại. Như thế, chối bỏ tín lý phục sinh. Đến thế kỷ thứ 5, Đạo Chúa được thiết lập cách vững chãi, tục hoả táng mới chấm dứt. Dứt điểm, cùng với Đế quốc La Mã, lúc bấy giờ. Cuối thế kỷ 19, người theo bè Tam Điểm, chuyên nghịch chống niềm tin của người Đạo Chúa. Họ thành công trong việc biến tập tục hoả táng thi hài người quá cố thành việc rất hợp-pháp. Luật này được một số chính quyền Châu Ây áp dụng, như Ý, từ 1873. Và, những người này cũng thành công trong việc thiết lập các tổ chức/nhóm hội dành cho mục đích này, toàn Châu Âu. Do bởi hành vi chống Đạo giáo của các nhóm này, Toà Thánh (ngày nay là Thánh Bộ Đức Tin) đã đưa ra quyết định năm 1866: nghiêm cấm con dân Đạo Chúa tham gia tục hoả táng xác người do nhóm nói trên thực hiện làm trước. Toà thánh cấm không cho người Đạo Chúa được phép thiêu xác thân nhân mình, hoặc thân xác của bất cứ một ai.
Việc nghiêm cấm vẫn hiệu lực mãi đến năm 1963, lúc ấy mới có văn thư Thánh Bộ cho phép thực hiện hoả táng, trong một vài hoàn cảnh đặc biệt. Miễn là, lý do chọn hoả táng không đi ngược niềm tin của người đi Đạo. Tuy nhiên, Giáo hội vẫn chọn tập tục chôn cất, và khuyên con cái mình nghiêng theo tục này. 
Năm 1969, nghi-thức lễ-tang Đạo Chúa tái xét việc hoả táng và đã ra thông cáo cho phép như sau:“Giáo hội cho phép thực hiện tang-lễ cho những ai chọn hoả táng, ngoại trừ trường hợp có bằng chứng cho thấy chọn như thế là do động cơ nghịch phản Đạo Chúa. Tang lễ phải cử hành theo cung cách sao đó, cho thấy Hội thánh vẫn muốn con dân mình chọn lựa chôn cất người chết. Ngõ hầu ngăn ngừa nguy cơ gây tai tiếng, làm cớ vấp phạm cho người đi Đạo.”(x. #15, sđd) 
Luật Hội thánh năm 1983, phản ảnh chủ trương này, bằng một điều khoản trong đó có nói: “Hội thánh nghiêm túc đề nghị ta chôn cất người chết sao cho sốt sắng/nghiêm trang. Nhưng, nói thế không có nghĩa là Hội thánh ngăn cấm hoả táng. Hội thánh chỉ cấm, khi nhà hiếu chọn hoả táng là để phản chống lại giáo huấn của Hội thánh về việc này, thôi.” (Giáo luật #1176,*3)
Sách “Nghi lễ An táng người đi Đạo” sử dụng từ năm 1989, có đưa lý lẽ cho thấy tại sao ta chọn lựa chôn cất người quá cố, như sau: “Khi thanh tẩy, thân xác của tín hữu được đánh dấu bằng ấn chỉ của Chúa Ba Ngôi. Và như thế, thân mình của ta đã trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần rồi. Vì thế nên, tín hữu Đức Kitô vẫn tôn trọng và cung kính thân xác người quá cố. Chính vì lẽ này, ta chôn cất thi hài của các ngài để các ngài an giấc ngàn thu.” (#19)
Xem thế, hoả táng người chết đã trở thành công việc thường làm. Một trong các lý do nhiều gia đình chọn hoả táng hơn chôn cất, vì chi phí nhẹ. Lại tiện lợi. Và, trong một số trường hợp khác, người thân của mình chết ở vùng sâu, vùng xa. Nơi không  có sẵn nghĩa trang. Hoặc, chết ở vùng hiếm hoi đất để chôn, những nơi hiểm trở, vv. Cả vào trường hợp hoả táng, hài cốt người quá cố phải được lưu giữ nơi lăng tẩm, hoặc vòm mộ đặc biệt; hoặc cất giữ cẩn thận trong khu lưu giữ xương cốt người quá cố, gọi là tháp giữ cốt. Ngày nay, nhiều nghĩa trang cũng có khu cất giữ như thế.
Nhiều nơi, còn có tục rải cốt người quá cố ngoài khơi, trên sông nước, hoặc dưới lòng đất. Có nơi, còn cất giữ trên bàn thờ tiên tổ của người thân, hoặc của bầu bạn rất gần. Tục này, tuy thế, cũng không được khuyến khích, nhiều cho lắm. (x. The Catholic Weekly 26/7/2009 tr. 10)

Đó là ý kiến rất chính mạch, của nhà Đạo. Về những người đã “về đi”. Về với chốn thiền môn/vĩnh hằng, bằng xương bằng thịt. Về đi, để “một ngày kia đến bến bờ”. Dù bờ ấy, có là biển khơi. Là, lòng đất hay hũ đựng xương cốt, ở bàn thờ tiên tổ. Hoặc, “về nơi cuối trời”. “Làm mây trôi”. Với “những ai xa đời quay về lại”. Có “bàn chân rất nhẹ”, “tựa hồn những năm xưa.”
Tóm lại, làm gì thì cũng vẫn là về đi. Và đi về. Về, nơi hiu quạnh. Đi riêng, chốn quạnh hiu. Mà, nghỉ ngơi. Nguyện cầu. Có Chúa. Ở chốn ấy, nơi đây, nay còn những giòng chảy nhè nhẹ. Thanh thanh. Để minh hoạ, như:

“Hai vợ chồng dắt nhau đi gặp bác sĩ, để xét nghiệm. Nhiều thứ chuyện. Sau khi nghe-đo nhịp mạch và hơi thở, của đức ông chồng, bác sĩ mời người vợ ngồi lại để nói chuyện riêng, nghiêng về cố vấn. Hầu giúp chồng. Bác sĩ bảo: 
-Chồng chị đang bị một chứng nan y, rất khó chữa. Lại thêm nhiều căng thẳng, khó tránh được màn kết cục, thật u uất. Sầu hận. Đơn giản, thì thế này: nếu bà không nghe lời tôi đề nghị, mà thực hiện nhiều điều lành phúc đức, mà tôi liệt kê ngay nơi đây, thì tôi e rằng ông nhà sẽ “về một cõi, rất nhanh”. Cõi ấy, người đời gọi là chốn Niết Bàn, những sắc sắc không không, đấy!”.
-Nếu tôi thoả thuận lời đề nghị, thì bác sĩ khuyên tôi phải làm những gì để cứu ỗng?
-Dễ lắm. Mỗi sáng, bà chỉ việc lo dọn bữa sáng cho tươm tất, một chút. Cứ để ông ấy từ từ, nhẩn nha mà thưởng thức những món tuyệt vời, bà làm. Trong lúc ông ăn, bà cứ ở gần xem ông cần gì thêm. Tuyệt đối, đừng hối thúc ông ăn cho nhanh, hoặc cằn nhằn ông về các tật xấu, vào lúc ăn. Nghĩa là, để cho vui cửa vui nhà, ấy mà! Trưa đến, dọn cho ỗng một bữa thật nhiều chất đạm, bổ dưỡng. Tối về, cứ nhẹ nhàng mời chàng vào bàn gồm yến tiệc, thật đặc biệt. Trong ngày, đừng bắt ông làm lao động gì hết. Dù chỉ vài việc lặt vặt trong nhà. Bởi lâu nay, ông vẫn bị căng thẳng, quá sức chịu đựng. Nhất là, đừng kể cho ông nghe những chuyện bực bội bà gặp với ai đó, dù là chuyện bồ bịch. Mèo chuột. Bởi tất cả, đều là chuyện đã qua. Làm thế, chỉ tạo thêm căng thẳng, ức chế. Nếu bà làm việc này, từ nay đến khoảng chừng 10 tháng nữa, tôi cam đoan là ông nhà sẽ hết bệnh, và hoàn toàn hồi phục. Không có gì phải lo âu.
Trên đường về, lão ông cứ thắc mắc, không biết bà nhà nói gì với bác sĩ mà lâu thế. Ông lấy hết sức bình sinh, liều hỏi:
-Lúc nãy bác sĩ nói gì với em, mà sao lâu thế?
-Có gì đâu. Ỗng nói là: Anh sắp hát bài của Trịnh Công Sơn: trong đó có câu “Thôi về đi! Đường trần đâu có gì”, tức là: anh sắp về cõi tiên, có Phật có Chúa. Đầy đủ! Khiếp! ai mà hầu cha nội, được. Sống thế, đủ rồi!”                         

Quả là, Chúa bảo “Hãy đi đi, về chốn quạnh hiu mà ngơi nghỉ”. Phật có nhờ người nghệ sĩ nhắn hát “thôi về đi! đường trần đâu có gì” thì cũng ít ai chịu bỏ rời chốn bụi trần, nhiều vương vấn. Để, “đi đi”. Hay, “về đi”, mà nghỉ ngơi, nguyện cầu. Có chăng, cũng chỉ đi trong chốc lát. Về, trong giai đoạn, thôi.
Lời cuối hôm nay, xin gửi đến bạn và đến tôi, là lời nhắc nhở hôm nào, từ Đức Chúa:

“Hỡi những ai đang vất vả 
lao đao, vác nặng, 
hãy đến cùng Tôi, 
Tôi sẽ cho nghỉ ngơi, bồi dưỡng.
Hãy mang lấy ách của tôi, 
và hãy học nơi Tôi, 
vì Tôi hiền hậu 
và khiêm nhu. 
Tâm hồn anh em 
sẽ được nghỉ ngơi 
bồi dưỡng.”
(Mt 11: 28-29)

Nghỉ ngơi. Bồi dưỡng. Cùng Chúa. Trong Chúa. Là, tất cả những gì bạn và tôi, ta cần đến. Ở đây. Bây giờ.  

Trần Ngọc Mười Hai,
suy nghĩ rất lung ngày bậc cha/bác đi về
chốn nghỉ ngơi. Có Chúa. Có tiên tổ.





















36. “Bạn lòng thân mến
Đây giây phút hồn tôi 
nghe chan chứa hương đời.”
(Hoàng Trọng/ Hồ đình Phương – Bạn lòng)

(Ga 15: 15) 
Bạn lòng. Bạn đời. Hoặc, bạn thân, đều là người đồng hành, trong cuộc sống. Sống yêu thương. An vui. Sống lành mạnh. Nhất nhất đều cần đến những “bạn lòng”, như thế.
Về bạn lòng, lâu nay ngôn ngữ người mình cũng có những cụm từ đặc biệt để chỉ tính thân thương của người “bạn”, như: “bạn già”. “Bạn trẻ”. “Già”, thì phải chờ đến lúc tóc bạc, răng long. Mới gặp thấy. Còn “trẻ”, thì bạn và tôi, ta vẫn gặp ở khắp nơi. Nhà trường. Nhà thương. Nhà thờ. Nơi nào cũng có. Lúc nào cũng gặp. 
Mới đây, vào buổi “Hát Cho Nhau Nghe” với chủ đề “Tình Ca Mùa Xuân” ở Sydney năm hai nghìn lẻ chín, bần đạo có diễm phúc được gặp khá nhiều bạn trẻ. Đến từ các nơi. Nói về chuyện đời. Có bạn còn khá trẻ, dám bình luận về bài hát của Hoàng Trọng và Hồ Đình Phương trích ở trên, bằng nét vẻ ít nghe và ít thấy. Như sau:

“Trong văn chương âm nhạc của người Việt sau này, mỗi lần nói đến tình yêu, người ta thường nói nhiều đến tình yêu đôi lứa. Tình nam nữ. Tình phụ tử. Mẫu tử. Chứ, ít ai để ý đến tình bạn. Tình của nhiều người. Mà tình yêu, đôi lúc mang tính tình dục, sắc đẹp và thể xác, nên ít có bền. Và ít dài lâu, như tình bạn. Khi những người có tấm lòng trinh trong, thanh khiết tỏ cho nhau lâu dài, thì người ta gọi đó là bạn thân. Hoặc, bạn lòng. Như thế, mới sâu sắc. Như thế, mới thân mật. Dài lâu. Và, tình của  “Bạn lòng” mới “êm ái”, “chứa chan hương đời”. Mới là: “trăng sáng”. “Hoa thơm”.  “Mầu nắng”. Mới “kết tâm đầu”. “Đẹp tình thơ”, vv… Và, khi tình nghĩa phu thê giữa hai người đạt đỉnh cao của tình bạn, thì người ta gọi nhau là “bạn đời”. 

Tình bạn này, đã khiến bần đạo liên tưởng đến Lời Thầy nhắn nhủ, rất nhiều năm:

“Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, 
vì tôi tớ không biết việc chủ làm. 
Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, 
vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, 
Thầy đã cho anh em biết.”
Ga 15: 15)

Về tình bạn, thi nhân/nghệ sĩ, đều đồng ý với nhau ở một điểm. Điểm ấy, như thế này:

“Bạn là trăng sáng, 
trong đêm tối hồn tôi 
soi lên bao ánh tươi.
Bạn là hoa thắm
trên hoang vắng tình tôi
Vui lên một mùa mới.” 
(Hoàng Trọng/ Hồ Đình Phương – bđd)

“Soi ánh tươi”. “Một mùa mới”, bất cứ ai nghe Lời, đều cảm nghiệm. Có trong đời. 
Điểm dễ thấy, là điều khác biệt, khiến tình bạn thắm thiết và bền lâu hơn tình tự của đôi lứa, là ở chỗ: tình bạn được trải dàn cho nhiều người. Không hạn chế. Về cả không gian lẫn thời gian. Không câu nệ. Ràng buộc.
Tình bạn không câu nệ, về tuổi tác. Ngữ pháp. Sắc tộc. Không ràng buộc, phải là tình trai/gái, giàu/nghèo. Tình bạn cũng không ràng buộc về huyết thống. Quyết tâm. Có lời thề. Tình bạn, không đòi hỏi phía đối tác phải đặt tay lên Sách thánh, mà thề. Chẳng cần trao ban cho nhau đá quý vàng bạc, những lư hương. Làm bằng. Vẫn cứ bền. Tình bạn, là tình thân thương mật thiết, như Thầy Chí Ái vẫn khuyên và vẫn dạy dân con, mọi người. Hãy thực hiện. Ngài từng hỏi đi hỏi lại thánh Phêrô, rất nhiều lần:
“Này anh Simôn, 
con ông Gioan, 
anh có yêu mến Thầy không?”
(Ga 21: 15)

Còn nhớ, có lần Đấng Chủ Quản giáo phận đàng ngoài ở Wollongong, Sydney đã phân tích cụm từ “yêu mến” ở Bản 70 Hy Lạp, có nói: “Yêu mến” đây, hiểu theo nghĩa “phylia” tức tình mật thiết, thân thương. Chứ không là, “agape”, tức thương mến. Yêu đương. Ân ái. Tức, thứ tình của hai người. Tình bạn, có thể là bước kế tiếp của tình đời, giữa hai người. Như truyện kể minh hoạ, ở dưới:
“Có tiếng chuông điện thoại, reo liên hồi. Nhưng, lão bà tên Năm vẫn cứ từ từ. Rất thủng thỉnh, chậm rãi đáp:
-Allô!
-Dạ thưa, có phải Bác Năm Cô Đơ, đó không ạ?
-Cô Đơn hay Đơn Côi, Lẻ Bóng, vẫn là Năm đây. Có gì thế?
-Thưa Bác Năm. Con là dược sĩ làm việc tại
phòng thí nghiệm thuộc Bệnh Xá Viện Cao Niên, ở thành phố. Tuần rồi, bác sĩ gia đình của Bác Năm có gửi mẫu xét nghiệm máu cho Bác trai do bưu điện mang đến. Cùng lúc đó, trong ngày, tụi con lại cũng nhận được mẫu máu của một bác khác cũng tên Hai. Cũng cùng một họ. Cùng ngày sinh là: Lê Văn Hai. Thành ra, con không biết cái nào của bác trai nhà mình, cái nào của bác kia. Thật ra, thì kết quả xét nghiệm của cả hai bác đều không tốt cho lắm.
-Cô nói không tốt cho lắm, ý nói gì đây? Tình hình người bạn đời của tôi có sao không? 
-Dạ, con nói không tốt cho lắm vì, một cái thì ở đây phát hiện có triệu chứng của bệnh mất trí Alzheimer, còn cái kia thì có triệu chứng HIV dương tính. Con không rõ, của bác trai nhà mình thuộc cái nào…
-Mấy cô làm lại xét nghiệm, có được không?
-Dạ, sự thường thì tụi con làm được. Nhưng ngặt một nối, trường hợp này, cũng hơi khó. Bởi hệ thống Mê-đi-ke chỉ trả tiền có một lần một, thôi bác! Hay là, con làm thế này: nhân viên ở đây đề nghị, là: bác chở bác trai đến chỗ nào đó không xa, cho bác trai xuống, ở giữa đường. Nếu bác trai biết đường về đến nhà, thì bác chớ có cho bác ấy ngủ cùng phòng, hoặc cùng giường. Dù hai bác có còn thương nhau như hồi mới cưới. Hoặc, chỉ sống như người bạn lòng, mà thôi…”

Sống như người bạn lòng mà thôi, có thể như tâm tình của ca từ, xưa vẫn hát: 

“Đời ta chung hướng, bao nhiêu ý chờ mong
Xây đắp nên mái tranh, để cùng vui sống
say sưa đón bình minh, chứa chan mộng ngày 
xanh.”
 (Hoàng Trọng/ Hồ Đình Phương – bđd)

Bạn lòng hay bạn đời, không chỉ như thế. Nhưng còn hơn thế. Bởi, bạn lòng đích thực không nhất thiết phải giống như mọi người. Chẳng một cá tính nào hết. Không, không phải thế đâu. Bạn lòng vẫn là người có khác biệt, cả về tâm tình lẫn hành xử. Bởi vì, là bạn thân, người người chẳng bao giờ hiềm khích hoặc chỉ trích nhau.   
Bạn lòng hay bạn thân, vẫn có thể tranh luận/cãi vã, dù không muốn. Nhưng, có thế mới lành mạnh. Có vậy mới bền bỉ. Bởi, nếu điều gì cũng đồng ý, thì không còn là hai bản thể, mà có thể chỉ là vật thể vô sinh, thôi.
Bạn đích thực, “yêu chẳng hạn kỳ”, điều gì cũng tha thứ. Tha thứ, để rồi sẽ quên đi những giây và những phút bất đồng. Lòng vòng, rất mến thương. Ít khi nổi nóng, nhưng bạn đích thực vẫn để cho quá khứ trôi đi. Trôi quá khứ nào tồi tệ, khiến cho tình bạn xấu xa, không còn tình thân thương. Hạnh phúc.
Tình bạn đích thực, phải như điều nhà nghệ sĩ khi xưa, vẫn hát:
“Ta cùng hoà nhịp đồng tâm trong câu:
‘Ôi không gì êm ấm cho bằng
tình bạn vừa kết tâm đầu. 
Rồi hẹn đừng có xa nhau.” 
 (Hoàng Trọng/ Hồ Đình Phương – bđd)

Hoà mình trong câu thơ. Hoà nhịp trong bài hát.  Không chỉ có thế. Bạn lòng, là người còn có thể nhìn thấy sự thật trong mắt anh. Niềm đau trong tim em. Cả vào lúc anh hoặc em thấy mình đơn côi/lẻ bóng, chỉ một mình.

Cả vào khi ở một mình, bạn lòng sẽ trở thành bóng hình. Có khi bạn mình, chỉ muốn khóc, ta sẽ là đôi vai, để bạn tựa cằm. Giả như bạn mình cần đến vòng tay ôm, ta sẽ tình nguyện làm manh gối chiếc. Bạn hiền mong muốn hạnh phúc, ta sẽ tặng nụ cười. Và khi, ta hoặc em cần có bạn hiền, ai là người điền vào chỗ trống?
Chỗ, mà người nghệ sĩ xưa rày cảm kích:

“Bạn lòng thân mến,
đây tôi hiến bài ca
mong ai hát vui hoà…”
 (Hoàng Trọng/ Hồ Đình Phương – bđd)

Hát vui hoà, hay là tình tự thân thương gần gũi, nhiều thi tứ rất như sau:

“Có một thời, đôi ta ra người ngu xuẩn
tưởng rằng thiên hạ đang bốc thơm.
Có một thời, hai ta cười nắc nẻ,
cười vung trời đến độ nước mắt chảy khôn xiết.
Bên trong nụ cười vui tươi ấy,
vẫn là vần thơ đầy thương nhớ
Nhớ và thương khung trời kỷ niệm 
của tim gan, những bạn hiền.” 
(thơ vô danh)

Bạn hiền, là ai đó biết cả những vần thơ trong tâm can bạn hiền. Để, khi hát lại bài ca ấy, cho nhau, ta quên cả lời ca vui đầy ý nhị. Ca vui, không cần lời giải thích. 
Bạn hiền, là nếu như ai đó muốn nhảy ào, từ trên cao, thì người bên kia thấy được sẽ bám sát. Theo sát, để níu kéo, quay về lại. Về với thực tế, bạn là người không chỉ mỗi nói: ta có mặt bất cứ khi nào bạn cần đến. Bạn hiền thục không chỉ chờ có thế, nhưng sẽ nói: ta có mặt cả vào mọi lúc, cho dù bạn nói rất cần hay chẳng cần gì đến ta.    
Bạn hiền, là bài ca, nghệ sĩ hát tiếp:
“Bạn là xuân thắm, cho tôi đón nhiều hoa, gieo hương mái tranh nhà,
rồi ta chung ngắm, đôi chim lướt trời xa, say sưa muôn tiếng ca.
Để hồn vui nhớ, câu mơ ước ngày xưa
Nay dâng đẹp tình thơ.” 
 (Hoàng Trọng/ Hồ Đình Phương – bđd)

Bạn hiền hay bạn lòng, là cung cách Chúa khuyên dạy. Ngài dạy ta quan tâm chăm sóc, người chung quanh. Những người, đang cần ta. Bạn hiền hay bạn lòng, là những người đi rất nhanh. Vẫn thoáng lướt qua đời mình. Nhưng để lại nhiều dấu vết nơi tâm can. Dấu vết, của bước chân mềm khiến ta không còn là người xưa. Vẫn như cũ. Nhưng, đã đổi. Thay và đổi, để trở về. Với Chúa. Với nhau, trong cộng đoàn.
Xem như thế, bạn hiền là người luôn gắn liền với phận đời riêng biệt của chúng ta. Dù có là, đời đen tối. Những mây đen. Hay chỉ là, những giai đoạn đường đời, nhiều bức bách. Dù gì nữa, bạn hiền còn đó. Luôn nhân rộng niềm vui ta thoáng thấy. Nhưng, vẫn sẻ san nỗi buồn đến khôn nguôi. Nỗi buồn xảy đến khi quá vãng, bạn hiền vẫn có đó tiễn đưa ta tận cuối chân trời. Nơi có Chúa. Có cộng đoàn. Thân thiết. Dịu hiền. Cảm kích.
Cuối cùng, một chân lý: ai tìm ra bạn hiền, là kiếm được cả kho tàng cao quý. Kho tàng luôn gắn bó. Ở gần, ngay sát con tim. Đi đâu, bạn cũng đi. Tới đâu, bạn cũng tới. Dù nơi đó, là nỗi chán chường, đầy thất vọng. Dù nơi đó, có là nỗi chết, không thương tình. Bạn vẫn có mặt. Vẫn hành trình với ta, suốt chặng dài. Đến cùng. Không thôi. 
Cuối hành trình, xin được như ai đó, gửi bạn hiền đôi câu. Đôi lời cảm kích. Biết ơn. Như sau:

*Tôi muốn nói lời cảm tạ, cho bạn đời nằm gần bên. Người, từng giựt tấm chăn ấm của tôi, vào mỗi tối.
Bởi, tôi hiểu rằng chàng/nàng lúc ấy, không ở chung với ai khác.
*Tôi muốn nói lời cảm ơn, người bạn trẻ, không phụ giúp gia nhân, chỉ ngồi xem truyền hình.
Bởi, có thế cô/cậu mới chịu ở nhà, không la cà, ngoài đường phố.
*Tôi muốn nói lời cảm kích, những con số khổng lồ tôi phải trả,
dù tiền thuế, dù tiền thuê, vẫn cứ đòi,
Bởi có như thế, mới chứng tỏ tôi đang có việc,
chứ không thất nghiệp. Ăn bám. Với ganh đua.
*Tôi muốn nói lời thân thương trìu mến,
khi phải dọn bãi chiến trường, sau tiệc vui
Bởi vì nó, tôi biết là tôi có nhiều bạn
chứ không vò võ, lủi thủi ngoài phố chợ.
*Tôi muốn nói lời cảm kích biết ơn 
với bộ áo quần nay hơi chật
Bởi nhờ nó, tôi biết là tôi nay đã đủ ăn,
không như người đói khát đang chờ đợi,
bạn bè lưu tâm để ý, sóc chăm.
*Tôi muốn nói lời cảm tạ và tri ân,
gửi những người từng ta thán, ở cơ quan    
Bởi biết rằng tôi đang có  
tự do làm nền tảng, cho cuộc đời.
*Tôi muốn nói lời tri ân đầy cảm kích,
đến nhức mỏi, đau xương đau mình mẩy
Bởi nhờ đó, biết rằng mình vẫn còn
khả năng lao động, hơn nhiều người.
*Tôi muốn nói lời tri ân cảm mến
gửi bạn hiền giùm giúp bấy lâu nay,
nhờ có thế, tôi biết rằng tôi còn đó
bạn bè thân thiết, nghĩ đến tôi.
Dù tôi sống đời tồi tệ
Dù tôi chẳng hơn gì nhiều bạn, giỏi hơn tôi…”

Lời cảm kích biết ơn, nhiều ở trên, tưởng cũng không thể nào gọi là đủ, để nói về bạn. Những hiền nhân quân tử, mà tôi và bạn, những người đang đọc hàng chữ này vẫn cứ gọi bạn hiền. Bạn lòng. Hay, bạn đời, là người được Chúa gửi gắm đến với tôi, với bạn. Trong cuộc đời này. Khi mình còn sống. Cả lúc chết. Ở trần gian. Trên trời. Nơi Vương Quốc của Ngài. Đâu đây.

Trần Ngọc Mười Hai
rất cảm kích
cũng rất thương
bạn bè người thân 
trong cuộc đời. 



37. “Phút đầu gặp em, tinh tú
quay cuồng” 
Lòng đang giá băng,
bỗng ngập tràn muôn tia nắng;”
(Tùng Giang – Biết đến thuở nào)

(Lc 10: 33-37)
Lời nghệ sĩ, khi xưa viết. Nghe phát khiếp. Mới lần đầu gặp nhau, sao đã thấy cuồng quay nhiều tinh tú. Quay và cuồng, đâu có là chuyện của tinh tú. Cuồng rồi quay, cũng chẳng là chuyện của anh. Của em. Của nhiều người. Chí ít, là truyện kể, như bên dưới:

“Truyện rằng:
Ông nội lâu nay vẫn cố dạy cho bé hiểu đôi chút về giáo lý ông thuộc nằm lòng, từ thời bé. Những chuyện, như: Chúa là Đấng dựng nên bé theo hình ảnh Ngài. Thiên Chúa là Cha sống ở trên trời. Bé là đứa con ngoan, được Chúa yêu hết mình… Nói tới đó, bỗng cháu của ông nội bèn lấy tay bịt miệng ông, rồi bảo:
-Không phải đâu, ông ơi. 
-Sao lại không, hả cháu? Cái này ông thuộc lòng như cháo, ấy mà.
-Không đâu. Ở trường, thày cô bao giờ cũng đọc sách cho cháu biết. Các người ấy cứ bảo: con người khi xưa biến hoá từ loài khỉ, hoặc đười ươi, đó ông. Không có Thần linh Thượng Đế nào dựng ra con người đâu. Chỉ là vạn vật biến hoá đó thôi.
-Thế thì, ông nội phải lôi mấy ông thày bà cô này ra toà mới được. Nói sai bét mà cứ còn nhồi sọ cho ba đứa trẻ làm cháu của ông nay tin vào những chuyện nhảm nhí như thế!”

Sự thật, thì: nhảm nhí đâu do truyện thày cô kể, về biến hoá. Nhảm nhí, là ta dạy cho bày trẻ điều gì thì không dạy, lại cứ tìm ba cái sách khoa học, ra mà đọc cho con trẻ nghe. Đầu óc chúng còn bé, nghe riết rồi sẽ quay cuồng, như tinh tú trên trời. Như, sao Hoả sao Kim, xẹt qua xẹt lại, nhiều xót xa, như câu ca ta nghe tiếp:

“Nghe bao xót xa, vụt bay theo cánh chim ngàn,
Dừng bước nơi này, chỉ còn em với ta…” 
(Tùng Giang – bđd)

Quả là, xót xa và quay cuồng, đâu như tinh tú. Trên trời. Mà, chỉ như tình em với ta. Tình ta với người. Những là, người thân, rất cận thân hay cận lân. Láng giềng. Chòm xóm. Có lẽ, cũng chỉ vì cứ coi chòm xóm, láng giềng như người dưng khách lạ nên mới có giòng chảy xót xa đau , như sau:

“Ngỡ ngàng nhìn em, như đã quen rồi
Hỏi em biết chăng, những bàng hoàng 
giăng vây kín
Như muôn tóc mây quyện vương 
đôi mắt nhung huyền
Mộng ước đây rồi… sao ngại ngùng 
vương trong ta.” 
 (Tùng Giang – bđd)

Nói cho cùng, thì: ngại ngùng, xót xa, quay cuồng, chỉ là tình tự trong đời, mình hay gặp. Gặp nhiều nhất, là cảm xúc xa lạ, thiếu tôn kính. Những tôn trọng. Và, tôn phục. Tôn và phục, là một trong các vấn đề thời đại, hôm nay. Ở xã hội văn mình hôm nay, đời thường người nghe thấy: một trong các vấn đề khá gai góc. Hơi khó phiếm. Và đụng chạm.     
             Thôi thì, để tránh cho khỏi đụng và chạm, bất cứ ai, xin mời bạn - mời tôi, ta thử mạn rồi đàm bâng quơ, như chưa bao giờ biết phiếm. Cũng hay. Nên làm. Vậy, ta cứ thử. Thử đàn, thử hát đôi giòng nhạc, người nghệ sĩ hát:

“Bao đêm cô đơn, miên man với niềm thương nhớ
Suy tư âu lo, men thuốc đắng trên môi
Đã xót xa nhiều mà sao không nói nên lời
Đành thôi ôm trọn, mối u hoài trong tâm tư..”
(Tùng Giang – bđd)

Vậy thì, để tránh cơn “u hoài, ôm trọn trong tâm tư”, nay ta phiếm:
Thoạt nhìn, ra như ta thấy: tôn kính lỉnh kỉnh chuyện tôn trọng, chỉ là một việc hời hợt. Lịch sự bề ngoài. Ít nghe quen. Thực tế, ngay từ nhỏ, ta đã được dạy: hãy biết thảo kính cha mẹ. Tôn kính, các bậc tiền nhân. Tiền bối. Rất đáng tôn phục. Các bậc ấy, nay đếm trên đầu ngón tay, như: mẹ cha. Cô thày. Thẩm phán. Linh mục, vv.  
  Thoạt đầu, nhiều người cứ tưởng tôn kính hay tôn phục, chỉ là điều giả tưởng. Hoặc, do con người tạo ra. Tạo thành cả những điều được gọi là điều răn, giới lệnh được Hội thánh cổ võ, suốt nhiều thế kỷ. Tôn kính và khâm phục, thường trực chỉ các đấng vị vọng. Tôn và kính đến độ, còn khuyên kẻ ở dưới hãy bái gối hôn tay hôn nhẫn các vị có chức, có quyền ở bên trên. Trong nhà Đạo. Nhưng, lâu dần, rồi cũng quên. Hoặc, cũng thấy kỳ.
Ngày nay, muốn giữ những điều khoản ấy, chắc phải tìm hiểu cho sâu cho sát với thực tại.
Thực tại, thực tế nghĩa là: cử chỉ tôn kính phải nằm trong con tim, của bất cứ một tương quan/quan hệ giữa người với người. Sâu sát hơn, không chỉ là dáng điệu của nề nếp, lịch sự. Mà thôi. Như thế, có nghĩa là: khi tôn và kính ai đó, phải hiểu là mình nhìn người ấy hoặc người khác, như chính mình. Người ấy, hoặc đấng ấy phải là đấng, là vị có mặt ở vào trọng tâm cuộc đời của chính ta.
Người ấy, vị ấy có tư tưởng và cảm tính, cũng như hy vọng hoặc hãi sợ, hệt như ta. Các đấng bậc ấy, cũng có tự do trong yêu đương. Cũng lạnh như tiền, giống với ta, ở vào giây phút lạnh cẳng, lạnh tanh, mọi lãnh vực. Nhưng, các vị ấy/đấng ấy không bao giờ là vật/phẩm ta có thể sở hữu. Cũng chẳng là chiếc máy vô tâm, ta khống chế. Kiểm soát. Cũng chẳng là đồ chơi, ta vui đùa.
Nói cách khác, tôn kính/tôn phục khởi từ việc ta nhìn các vị, bằng mắt thịt. Chứ không phải như đồ dùng, ta vẫn mua. Vẫn bán. Nên, khi nhìn vào mắt của các vị ấy, ta mới thấy là các cụ cũng có những chuyện riêng tư, của chính mình. Nhưng, thành công hơn ta. Vượt thắng, hơn ta. Chính đó, mới là lý do ta thán phục. Để rồi sẽ tìm hiểu thêm chi tiết cuộc đời, của các đấng. 
Và khi đã phục lăn, hay phục thiệt người nào đó, ta lại sẽ theo đuôi người nghệ sĩ mà ca hát:
“Bao đêm cô đơn, miên man với niềm thương nhớ
Suy tư âu lo, men thuốc đắng trên môi
đã xót xa nhiều mà sao không nói nên lời
Đành xin ôm trọn mối u hoài trong tâm tư..” 
 (Tùng Giang – bđd)

U hoài ở đây, hôm nay, chẳng phải là niềm u sầu, buồn giận, gì đâu đâu. U hoài, chỉ là nỗi niềm thương nhớ. Nhớ những gì, mình cũng được dạy bảo mà thi hành, từ Thánh Kinh. Nhưng, lại không làm được như các thánh. 
Các thánh khi xưa, cũng biết kính và biết phục. Kính và phục, trong tương quan với mọi người. Tương quan chỉ chú trọng đến tâm can, của niềm tin. Nỗi niềm để ta tin, đều thấy nói ngay từ đầu. Ở cả Cựu Ước, lẫn Tân Ước.
Ở Cựu Ước, giới lệnh trước nhất và lớn nhất là kính trọng và thương mến Thiên Chúa là Đức Chúa Trời của ta, sau đến là thương yêu mọi người như chính ta, vậy.
Ở Tân Ước, Đức Giêsu chứng minh để ta thấy giới lệnh dạy cho mọi người, được Chúa thực hiện, trên thực tế. Bằng chính cuộc sống của Ngài. Khi Chúa được người nào đó hỏi về giới răn quan trọng, cần giữ là gì. Thì, Chúa lấy ví dụ về câu chuyện người Samaritanô tốt lành. Người này hơn hẳn người Do Thái, vẫn tự hào chỉ mình là số một. Hơn hẳn, người khác. Dân tộc khác. Chí ít, là ngoại bang. Lân cận.
Kinh Sách Đạo Chúa, còn kể nhiều về các trường hợp Đức Giêsu vẫn dạy con dân/đồ đệ biết yêu thương kính trọng, hết mọi người. Chí ít, là những kẻ thấp bé, những hối nhân. Cả đến nữ phụ lăng loàn như Maria Magđala, hoặc các tay ‘trời đánh thánh vật’, đủ cỡ, như: giới thu thuế, tội phạm hình sự, các tay trộm cướp bị người đời sỉ vả, treo trên thập giá, như tên trộm lành, thật đáng đánh…
Chúa không cứng ngắc trong cung cách, những kính và trọng, mọi người. Ngài đối đáp trực diện. Lôi cuốn hết mọi người. Ngài ứng xử, hội nhập với họ. Cho họ, toàn bộ thời gian và ưu tư Ngài có sẵn. Ngài không thích ứng xử bề ngoài. Những hành vi, mang cung cách giả đạo giả đức, chỉ phô trương. Ngài chú trọng tôn và kính, có tác dụng đi sâu vào lòng người nhận biết. Để rồi, họ sẽ lại thuyết phục mọi người, theo Ngài. Sống như Ngài. Sống yêu thương, tôn trọng. Coi người khác như mình. Như, người cần được yêu. Tôn kính.
  Sống như Ngài, và theo Ngài, là sẽ sống mà không quên điều Ngài vẫn nói. Sống và hát, như người nghệ sĩ ở trên, nay đã viết:

“Biết thuở nào quên, quên hết ưu phiền
để thôi xót xa, để bàng hoàng không vây kín
Bao nhiêu ước mơ rồi đây sẽ kết nên lời
mộng ước một ngày, thôi đợi chờ… ta có nhau.”  
(Tùng Giang – bđd)

Biết thuở nào quên, là bởi bản tính con người mình, rất dễ quên. Quên, bởi vì tôn và kính là chuyện, làm được nhưng không dễ. Không dễ, là vì: tỉ như, ta vẫn mắc nợ những tôn và kính, nhiều người. Nhiều đấng bậc, dù không cao. Nhưng dù có nợ, ta vẫn chẳng muốn tí nào, dù là những người ấy coi ta như bạn. Thậm chí, đôi khi ta còn muốn quên cả những việc tốt, người ấy/đấng ấy đã và đang làm cho ta.   
Biết thuở nào quên, là quên đi việc người khác từng làm, cho người. Cho mình. Quên việc tốt, mà các chính trị gia tranh đấu cho ta, với tư cách dân thường ở huyện. Quên cả, việc lành mà thày cô từng dạy dỗ. Quên hết những hành vi thiện nguyện mà ai đó, dù là bạn hay thù vẫn nhất quyết đấu tranh để ta có được tương lai tốt đẹp. Thật dài lâu.
Biết thuở nào quên, là quên cả những phiền ưu trong cung cách của tôn và kính, thay đổi theo từng thời điểm. Từng tập tục văn hoá, của sắc tộc. Của địa phương. Mỗi vùng. Ví dụ dễ thấy nhất ở chuyện “quên hết ưu phiền”, là như: trong lối xưng hô. Thưa/gửi. Trong cả cung cách ta tỏ lộ, như cúi đầu, chào hỏi. Mỉm cười, tỏ bày sự vui tươi. Thích thú. 
Biết thuở nào quên, còn là quên bẵng đi mất, cả những tập tục tỏ bày sự tôn kính. Tỉ như: chọc quê người nào cần được mọi người tôn trọng. Hoặc, trong cách xưng hô, gọi tên tục. Hoặc nói ra, tâm tánh của người mình không thích. Rồi cười phá lên. Đôi lúc, việc thiếu tôn và kính này, còn gây nên thảm trạng, mà trời Tây hay gặp phải, như khiến người bị chọc phải lùi vào bóng tối. Có khi, còn tự kết liễu cuộc đời, như thường thấy ở giới trẻ, một đôi nơi.
Bao nhiêu ước mơ, rồi đây sẽ kết nên lời, là như mơ ước có lại ở đâu đó, chốn nhà trường. Ở nơi đó, các bậc trên sẽ lại dạy dỗ nhóm học trò, những điều cần thiết trong cư xử. Những bài học “công dân”. Những câu chuyện đạo đức ở “giáo khoa thư”, vui nhiều hơn buồn. Những “hạnh các thánh” chủ trương khuyến khích người đọc, một tình huống nên sống. Nên bắt chước.
Tóm lại, những mong rằng: ước mơ về chuyện tốt lành, trong Đạo/ngoài đời, sẽ thành hiện thực. Ở muôn nơi. Cả ở trong nước, lẫn hải ngoại. Để rồi, sẽ không còn xảy ra, những chuyện cười ra nước, tréo cẳng ngỗng, như bên dưới. Để minh hoạ:

“Đấng cao niên nọ, đã và đang có vấn đề về lãng tai. Suốt nhiều năm. Cụ đi bác sĩ, và bác sĩ bảo: ông sẽ giúp cụ lắp đặt bộ phận “trợ thính” rất tối tân, sẽ giúp cụ nghe được mọi chuyện tới 99%, khả năng của người bình thường.
Một tháng sau, Cụ trở lại gặp bác sĩ. Lại được thông báo tin vui, rất an bình: Này thưa cụ, thính giác của cụ bây giờ kể như tuyệt vời. Không chỗ chê. Gia đình cụ chắc sẽ hài lòng vì nay cụ lại tìm thấy niềm vui, rất nghe ngóng, rồi đây…
Quả y như rằng, tài nghệ nghe và ngóng của cụ cao niên lịch lãm, nay trở về thời kỳ vàng son, như khi trước. Nghe bác sĩ bảo, cụ bèn kính cẩn thưa với gửi, dù vị chuyên gia làng thuốc kia, tuổi chỉ đáng con:
-Dạ thưa ngài bác sĩ rất yêu quý, tôi cũng chưa cho gia đình hay biết gì sốt cả. Mới chỉ ngồi nghe con cháu trong nhà bàn bạc chuyện di chúc riêng tư gia đình, thế thôi. Nhưng tôi cũng đã quyết định rồi. Xem ra, bọn chúng chẳng biết kính trọng gì bậc “già lão” chi hết. Thế cho nên, tôi đã lẳng lặng thay đổi di chúc, đến 3 lần…”  
Đặt vấn đề tôn kính, và tôn phục, chỉ để nhớ lại nhiều điều tốt lành, ta được dạy, vào khi trước. Những điều đã được ghi, ở Kinh Sách, như sau:
“Hãy tôn trọng mọi người
và yêu mến người anh em
hãy kính trọng Thiên Chúa  
hãy tôn trọng nhà vua.” 
(1Pê 2: 17)      

Lời cuối, biết thuở nào quên, còn nhắn nhủ: đừng nên quên rằng, ta vẫn là một Kitô hữu và mỗi Kitô hữu đều mang tính tư tế, vua quan, và Kitô khác (Alter Christus) nữa đấy.

Trần Ngọc Mười Hai
không quên rằng
mình là kẻ hèn mọn, bé nhỏ 
vẫn kính trọng mọi đấng bậc
ở bên trên.
   

               

    
                       

38. “Nay mùa Giáng sinh đã về, Chúa ơi” 
Lòng con như thấy, thiếu đi niềm vui.
(Lê Kim Khánh – Lời con xin Chúa)

(Lc 2: 10)
Giáng Sinh về. Vẫn cứ vội về, vào mỗi năm. Có điều chắc, là: năm nay Giáng Sinh cũng đã về nhưng không vội. Vội thế nào được, khi bạn và tôi, ta vẫn cứ nghe lời ca tiếng hát, rất ở trên. Tiếng hát gồm những …“thiếu niềm vui”. Đơn côi. Lẻ bóng, vv.. và vv.. Dứt khoát là đã nghe, nhưng sẽ không hát lời ca buồn bã của người nghệ sĩ nhắc ở trên, đã hát thêm:

“Đi lễ năm xưa bên người,
giờ này chỉ có riêng tôi,
quỳ bên hang đá lẻ loi.”
(Lê Kim Khánh – bđd)

Giáng sinh về. Ngày về có Chúa, Đấng đã giáng và đã sinh với thế giới loài người, rất hôm nay. Giáng sinh về, có Chúa đã giáng và đã sinh, rất thật tình. Ngài không nằm nôi “lẻ loi” với những hang cùng đá, rất khi xưa. Ta mải tìm. Ngày về có Chúa, mà lại cứ phải nghe tiếng hát rất “lẻ loi”, “riêng tôi”, ôi thảm quá! Giáng sinh về, có Chúa về với mỗi người và mọi người. Trong gia đình. Ngài về, để người người được mừng kính Chúa. Cứ vui chơi. Hội hè. Đình đám. Giáng Sinh về, có Chúa về với ta. Về với nhà nhà. Có vui tươi. Bình an. Êm ấm.     
Hôm nay Giáng sinh về, ta nghe nghệ sĩ xưa viết về tình huống có tình tiết, rất mải miết:

“Bao mùa Giáng sinh, vẫn một mối tình,
Cầu xin ơn Chúa chứng cho lòng con
Ban xuống cho con phước lành,
Hoà bình thay chiến chinh nhanh
Tình yêu mãi thắm mầu xanh.” 
 (Lê Kim Khánh – bđd)
Đúng là như thế. “Hoà bình thay chiến chinh nhanh”. Chiến chinh/chinh chiến, có thể vẫn ở khắp mọi nơi. Trong con tim. Trong linh hồn. Của mình. Đó, chính là thao thức. Đó, mới là vấn đề. Vấn đề giáng sinh của hôm nay, sẽ thay cho chinh chiến trong cung cách mừng kính. Mừng và kính, có cung cách vui tươi. Kính cẩn. Thân tình. 
Giáng sinh về với người thân, là thời điểm để ta nhận ra tình thân thương đùm bọc từ nhiều phía. Giáng sinh về, có tình thân nhưng chưa thương. Hoặc, thương chưa đủ. Bởi thế nên, người nghèo vẫn là người dưng khách lạ, chẳng mấy quen. Vẫn cứ lang thang nơi phố chợ. Hầm cầu. Vẫn bị lẻ loi. Xua đẩy. Không ai hay biết. Để nhớ đến.
Giáng sinh về, là về với người dân thị thành. Có nhạc kèn. Bia/cam, uống không hết. Giáng sinh về, cũng còn về với người dân ở quê làng hẻo lánh. Miền xa. Vẫn cứ là: “một ngày như mọi ngày”, từng nghe thấy lời hát xướng: “anh trả lại đời tôi”. Lôi thôi. Da diết. Rất buồn. Buồn, như vở tuồng ở đâu đó, có tiếng hát: “Tết này con không về, chắc mẹ buồn lắm!...” Rối rắm. Ưu Tư. Mệt lừ.
Giáng sinh về, như ngày tư ngày Tết, vẫn lễ Tết. Rất vui. Tết lễ Giáng sinh, ta nghe truyện kể về việc Chúa giáng hạ, làm người. Ngài chấp nhận sống với loài người nay lạnh giá. Đá băng. Hờn căm. Giáng sinh về, ta nghe kể về lễ Tết, có Tin Vui. Bình an. Có, Tin Mừng ngày Chúa đến, phá vỡ đá băng. Hờn căm. Của, dân con rày quên lãng. 
Quên tình Ngài Giáng sinh, như lời người nghệ sĩ đã từng viết:

“Dương trần đã vang lên bài thánh ca.
Mùa Đông năm ấy Chúa sinh vì ta.
Năm ấy không xa bây giờ,
vào một mùa Giáng sinh xưa,
nửa đêm đi lễ, anh đưa…” 
 (Lê Kim Khánh – bđd)

Lễ Tết Giáng Sinh xưa, Chúa đến để ban phát quà tặng tình thương, là chính Ngài. Quà Thiên-Chúa-làm-người, Ngài gọi mời mọi người hãy nhớ là mình cùng chung một gia đình. Chung tình thương. Có Chúa. Có Cha. Có tất cả bà con cùng nhà. Nhà của Cha. Người của Chúa.   
            Giáng sinh về, là mang đến cho người người, một thông điệp. Thông điệp bình an. Hài hoà. Để mừng kính. Người người gọi đó là Tin Vui. Là, Tin rất Mừng về Chúa cho đi. Cho chính Mình. Cho sự sống, để người người trở thành con cái cùng một gia đình yêu thương. Chân phương. Giùm giúp.
Quà tặng Chúa ban ngày Ngài Giáng hạ, là quà lành thánh. Rất thánh gia. Quà Chúa ban, là việc ta chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Lịch sử, việc Chúa hạ mình xuống mức độ cùng cực, để chấp nhận làm người bình thường. Không bon chen. Hào nhoáng. Se sua. 
Quà tặng Chúa ban, đã thu hút các nhân vật tầm thường, nay kéo đến. Nhân và vật, thuộc tầng lớp thấp hèn. Vẫn vui. Vui, với cái vui của lớp nghèo. Vui, vì được chiêm ngắm Chúa Tể vạn vật. Vũ trụ. Vui, với niềm vui có Chúa trở nên người thường, như họ.      
Quà tặng Giáng sinh Chúa đem đến với gia đình, là thông điệp thoạt nghe, thấy rất lạ. Nhưng, lại là thông điệp bình thường gửi đến với người tầm thường, ở trần thế. Rất thấp hèn. Quà thông điệp Giáng Sinh, là lời nhắn nhủ: hãy mở lòng mình ra với người có mức sống hèn kém, chốn dân gian. Mở lòng mình, với những người thiếu thốn/thiệt thòi rất nhiều thứ. Những thứ căn bản, cho cuộc sống rất “người”, của con người.   
Thông điệp Giáng sinh, là lời nhắc nhở: hãy đem Chúa về với lễ hội bên ngoài. Tức, đem lễ hội bề ngoài về với Chúa. Bởi, rất nhiều lần, người người mừng lễ, với tâm trạng “ngoài Đạo”. Đôi lúc, nghịch chống cả tinh thần Phúc Âm, ngày Chúa đến. 
Thông điệp Giáng sinh, còn là lời nhủ khuyên: chớ tách ly gia đình lành thánh với các gia đình còn yếu kém. Yếu, về tình “người”. Kém, trong nhu cầu. Nói các khác, hãy để mắt trông nom các gia đình sầu não. Thiếu vui. Trông nom dòm ngó, cả những người con nay còn xa cách. Xa từ lâu. Xa, cả vào lúc mới sinh trưởng. Lớn lên. Sống bên ngoài gia đình rất lành thánh. Xa và cách, nên vẫn cứ lang thang đâu đó. Không được đỡ nâng. Không vui sống. 
Thông điệp Giáng sinh, còn nhắc và khuyên những ai đang vui sống, biết nhìn đến các gia đình rày hết vui. Nhìn đến, để gia đình đó có khả năng trở về thực hiện lối sống lành mạnh, như Gia Đình lành thánh, của Đức Chúa. 
Thông điệp Giáng sinh, còn đề nghị ta quyết tâm giùm giúp hết mọi người. Ngõ hầu hỗ trợ cho  các gia đình xấu số. Khổ sở. Bất an. Hỗ trợ và giùm giúp cách thực tiễn. Cách kính trọng và bảo vệ sự sống. Bảo vệ tình yêu nam nữ, có hôn phối. Hỗ trợ/giùm giúp, bằng hoạt động tích cực. Tạo điều kiện sống cho các gia đình. Ngõ hầu họ có thể gặp gỡ/giao tiếp vui vẻ với người thân. Với mọi người.
Hỗ trợ/giùm giúp cả người dưng khách lạ, ở phố chợ. Công sở. Hay đâu đó. Ngõ hầu tạo tinh thần hợp tác. Ngõ hầu duy trì giá trị của công việc. Giá trị của gia đình. Của, hiếu khách. Tiếp đón. Hỗ trợ - giùm giúp, những người đầu sóng ngọn gió. Đang chực chờ ta nâng đỡ. Mà tạm trú. 
Giáng sinh về, còn là dịp để ta suy tư. Chiêm niệm. Ngày lễ Tết. Suy tư, đào sâu niềm tin đến muôn thuở. Chiêm niệm, mà nhớ đến giá trị của con người, được Chúa giáng hạ. Nhập thế. Chúa giáng hạ, không vì những gì ta đang có. Chẳng vì các giá trị đang tỏ hiện. Giá trị Giáng sinh, tập trung vào sự kiện Ngôi Lời Nhập thể. Nhập thế. Tập trung vào với Tin Vui An Bình, ngày lễ Tết. Vui, mà phổ biến. Cho ta. Cho mọi người. Khắp mọi nơi.   
 Thông điệp Giáng sinh, gửi đến với mọi người bằng hình thức, rất truyện kể. Bằng nhận định của ai đó, như lời kể trích dẫn, ở bên dưới: 

“Buổi sáng thức dậy, bạn có thấy bên giường, món quà tặng nho nhỏ của ai đó gói bọc rất cẩn thận, hãy cứ mở ra xem có gì trong đó, trước khi làm những việc bình thường, vào buổi sáng. 

Có thể, bạn sẽ gặp món quà mà mình không ưa/không thích cho lắm. Không ưa thích, nên có thể, là bạn sẽ để qua một bên. Có lẽ, bạn sẽ tự nhủ: không biết rồi ra ta sẽ phải làm gì với những hộp quà nho nhỏ, như thế.

Ngày kế đến, có thể là bạn lại nhận được quà tặng khác, gửi đến nhà. Lần này, chắc là bạn sẽ mở ra, vì tính tò mò. Tọc mạch. Nếu lần này, bạn lại thấy ưa/thích, vì nó kích thích hoặc gợi nhớ khuôn mặt của một người mà bạn quen biết, nay đi xa. Hay chỉ là, khúc nhạc dạo, rất ngắn. Một bức tranh. Dăm câu thơ. Hoặc chỉ là, bông hoa nhỏ người nào đó, nhớ đến mình mà bỏ vào đó. Hãy nhớ rằng, các sự việc như thế, vẫn xảy ra đều đều, vào mỗi sáng. Nhưng bạn không biết, đó thôi.

Cụ thể là, mỗi buổi sáng, ta vẫn nhận được các quà tặng từ Đức Chúa. Quà tặng hằng ngày ta vẫn thấy và vẫn nhận, để rồi tha hồ mà sử dụng. Cách nào đó, tiêu cực hoặc tích cực. Nhưng rất vui.

Đôi khi món quà đến với ta, theo hình thức rất căng. Như cung cách lặng câm. Sầu buồn. Trầm cảm. Khó giải quyết. Có thể, là quà sầu não. Thách thức. Hoặc hạnh phúc riêng tây. Cũng có thể, là thành quả. Nhiều hạnh phúc.

Phúc hay hoạ, chẳng bận tâm. Điều quan trọng, là: quà tặng ngày ngày mà bạn và tôi hằng nhận lãnh, vẫn là món quà được gói bọc cẩn thận, trong lúc mọi người còn ngủ nghỉ. Mê say. Những tháng ngày. Của cuộc đời.

Quà của ngày rất mới, được gói ghém cẩn thận. Có nơ bướm. Có hương thơm. Sắc mầu tuyệt diệu. Và quà tặng như thế, cứ sáng sáng thức dậy ta đều nhận được. Đó là, quà mà cuộc sống mang đến, giống hệt quà Giáng Sinh, do Chúa tặng. Có thể, món quà bạn nhận không vừa ý mình cho lắm, nên chẳng buồn mở ra, để chiêm ngắm. 

Hãy mở ra mà chiêm ngắm, hỡi bạn vàng! Hãy cứ cảm tạ Đức Chúa Đấng Tạo Dựng mọi sự, đã tặng quà. Cho bạn và cho tôi. Chẳng cần biết có gì ở trong đó. Giả như sáng nay, bạn và tôi, ta chờ mãi mà chẳng nhận được quà nào, như đang trông đợi. Thì, cũng cứ ráng chờ ngày hôm sau. Và, cứ thế ta tiếp tục cảm tạ Đấng luôn ban tặng, những món quà quý giá. Vào những ngày đẹp trời như hôm nay. Để rồi…

Mai đây, khi mở món quà bạn hãy nhận bằng tấm lòng rộng mở. Cũng trân trọng. Cũng thân thương. Như bao giờ. Vì, sẽ có ngày, niềm ước mơ và kế hoạch cuộc sống, vẫn nằm lặng im, ngay trong đó. Ở món quà.

Trong cuộc sống, đâu cần biết là bạn và tôi rất cần thiết, những điều gì. Chỉ biết là, tôi và bạn, cũng đang cần thứ gì đó. Chính đó mới là điều thiết yếu. Chính đó, là những gì mà Chúa đem đến cho bạn. Cho tôi. Ngày Giáng Sinh này.

Hãy cứ vui. Vui như ngày lễ Tết. Rất Giáng Sinh. Bởi, lễ Tết Giáng Sinh, là ngày Chúa thường gửi tặng mọi người, nhiều món quà. Quà Bình an. Hạnh phúc. Quà sức khoẻ. An vui. Tăng trưởng. Mà cuộc sống đã và đang định ra. Cho mọi người.”                  

Nói gì thì nói, thông điệp Giáng sinh của Đức Chúa-xuống-thế-làm-người, vẫn còn đó nỗi buồn. Buồn một nỗi, là: thông điệp Chúa gửi qua Kinh Sách, rất Tin và rất Mừng là thế, mà sao người người vẫn chẳng buồn ghé mắt. Mà nghe theo. Nghe và theo, những nhắn nhủ rất Tin Vui. Rất An Bình. Với lời lẽ như sau:

“Anh em đừng sợ. 
Này tôi báo cho anh em tin mừng trọng đại, 
cũng là tin mừng cho toàn dân: 
Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em 
trong thành vua Đa-vít, 
Người là Đấng Kitô Đức Chúa. 
Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: 
anh em sẽ gặp một trẻ sơ sinh bọc tã, 
nằm trong máng cỏ." 
Sẽ có muôn vàn thiên binh 
hợp với thần sứ cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa:
"Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
bình an dưới thế cho người Chúa thương."
(Lc 2: 10-13)
   
Hôm nay, Tin Mừng Cứu Độ đến với mọi người. Đó chính là quà tặng. Rất vô giá. Cho gia đình. Cho chính mình. Những người mình, chốn thị thành cho chí thôn quê. Đều đã nghe. Đã biết. Nhưng, người nghe và biết có vui mừng an hưởng Tin An Bình ấy. Trong cuộc sống? Và, khi đã biết vui biết hưởng Tin An Bình Chúa gửi, hẳn sẽ không còn ai đặt vấn đề nữa làm gì. Nhưng vẫn cứ sống. Vẫn vui hưởng Tin An Bình Chúa ban. Cho mọi người. Ngày Giáng Hạ.   


Trần Ngọc Mười Hai  
rất cầu và rất mong
bạn và tôi, 
ta vui hưởng 
Tin An Bình 
Chúa phú ban.                            











39. “Cùng nhau quỳ dưới tượng Chúa cao sang” 
Xin cho đôi mình suốt đời có nhau.”
(Nguyễn Vũ – Bài thánh ca buồn)

(1Cr 11: 26)
“Dưới tượng Chúa”. Đôi mình quỳ. Rõ ràng đầu đề bài hát, là như thế. Nghe cũng buồn. Buồn rười rượi. Rất miên trường. Nỗi buồn dĩ nhiên là không tên. Nhưng, sao mỗi độ Giáng Sinh về, cả bạn và tôi, ta cứ phải nghe những câu ca như thế. Ở đâu đó. Những câu ca còn viết thêm:

“Bài thánh ca đó, còn nhớ không em
Noẽl năm nào, chúng mình có nhau.”
(Nguyễn Vũ – bđd)

Sao chỉ có nhau, Noẽl năm nào? Thế còn, năm nay? Mai ngày? Và mãi mãi, trong cuộc đời? Ôi thôi, là nỗi buồn, khôn kể xiết! Nghe phát khiếp. Và, cũng sợ. Khiếp và sợ, còn như câu tiếp:

“Lời nguyện mình, Chúa có nghe không?
Sao bây giờ mình hoài xa vắng?
Bao nhiêu đêm Chúa xuống dương gian
Bấy nhiêu lần, anh nhớ người yêu…”
(Nguyễn Vũ – bđd)

Khiếp và sợ, không chỉ ở lời ca. Câu hát. Sợ và khiếp, còn ở chỗ, mỗi lần chọn bài hát cho chương trình nhạc chủ đề “Tình Ca giáng Sinh”, là mấy “hát sĩ” ở Sydney, cứ thế mà dành nhau đăng ký hát những lời hỏi han, rất nguyện cầu, rằng: “Chúa có nghe không?” Rồi, còn thở than: “bao nhiêu đêm Chúa xuống dương gian”, là bấy nhiều lần anh/em “nhớ người yêu”.     
  Khiếp và sợ, còn ở chỗ, anh và em nay nhớ nhiều. Nhớ người yêu hôm trước, đến những hai nghìn lẻ chín lần, cơ đấy. Vâng. Bạn và tôi, hẳn cũng sợ và cũng khiếp, về nỗi trăn trở ở nhà Đạo, rất hôm nay. Nhà Đạo của bạn và tôi nay có những lo sợ và trăn trở, như câu hỏi của ai đó, rất giống trẻ nhỏ, ở huyện nhà xứ Úc hôm nao: Sao mẹ cứ bắt con phải đi lễ ngày Chúa nhật, mãi như thế? Hội thánh đã chẳng bắt buộc một năm chỉ cần đi lễ, mỗi một lần, là gì!
Nỗi khiếp và sợ hôm nay, còn là: những câu hỏi đại loại như thế nay không chỉ phát ra từ cửa miệng của trẻ thơ hay bọn nít nữa, mà cả ở những người lớn đầu lớn xác, lớn cả tư tưởng với nghĩ suy, nữa.
Với người Úc, nỗi khiếp và sợ là ở chỗ: hồi thập niên ’50, có đến 80% số người đi Đạo ở Úc đều đến nhà thờ, rất đều đặn. Đến, để đi lễ, không chỉ là người già, mà cả giới trẻ rất hăng say. Đi cả lễ ngày lẫn lễ đêm. Chẳng so đo. Do dự. Hạch sách. Nay thì, chỉ chừng 20% số người như thế, tìm đến lễ. Và con số này, còn giảm sút đến mức tồi tệ. Tồi tệ hơn cả, nay đà thấy rất ít gương mặt trẻ, ở các nghi thức liên hoan/phụng vụ, ở các đạo. Từ đó, khiến người người cứ tự hỏi: tại sao thế? Và, những người ngoài Đạo, thì sao?
Với người ngoài Đạo/đạo ngoài, ở Úc thì “Ngày của Chúa’ đã bị tục hoá. Rất nhiều. Khi xưa, người ở Úc không đi làm hoặc không làm gì nhiều, ngày của Chúa. Họ cũng chẳng chơi túc cầu, chẳng xem truyền hình, vi tính hay phim ảnh. Chỉ thưa thớt một vài tiệm bán sữa là mở cửa. Chẳng đi đến đâu, dù chỉ là thăm bè thăm bạn ở chốn xa. Vì, cũng chẳng có nhiều người dám sở hữu xe cộ. Phương tiện di chuyển công cộng, cũng rất ít. Nhà thờ nhà thánh, là nơi gặp gỡ của những người đi Đạo, rất chuyên chăm.    
Ngày nay thì khác. Rất nhiều người chọn đi làm cả ngày của Chúa. Rất nhiều nhà chọn ngơi nghỉ, ngày cuối tuần. Vào ngày ấy, người người chỉ biết nằm dài, đi ngủ. Hoặc, tranh thủ mua sắm. Chỉ thế thôi. Thập niên ’50, là niên thập có cộng đồng thân thương gặp nhau, theo từng nhóm. Ngày hôm nay, cộng đồng có muốn lập nhóm, cũng thấy khó kiếm ra thành viên. Xã hội hôm nay, phần nào trở thành một xã hội rất “cá nhân chủ nghĩa”. Ở nơi đó, người người có đủ điều kiện để lựa chọn. Chọn nhóm. Chọn bạn. Chọn cả nhóm bạn Đạo, để tuỳ nghi. Thay vì, chọn nhà thờ, để đi lễ.
Phải chăng, đó còn là lý do để người nghệ sĩ khi xưa viết lên lời “thánh ca buồn”, ở dưới?

“Rồi những đêm thánh đường đón Noẽl
Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu 
Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối 
Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn
Đêm thánh vô cùng lạnh giá hồn tôi…” 
(Nguyễn Vũ – bđd)

Hẳn là hồn tôi/hồn bạn, hôm nay, đà thấy lạnh? Lạnh và giá, đâu vì “nhớ quá đi thôi” giọng hát ai buồn. Cũng đâu là, cứ “lang thang qua miền giáo đường”, rất lạnh giá. Bã và buồn bã. Mà vì, lòng người đã đổi thay. Đổi thay, ở điểm: Khi xưa, thời các thánh tông đồ còn hoạt động, chọn làm tín hữu Đạo Chúa, là một chọn lựa rất gai góc. Gai và góc, là bởi: gia đình có thể từ. Chính quyền thực dân người La mã có thể đem ra mà hành hạ, hoặc giết đi. 
Chọn làm Kitô hữu, là chọn tham gia Tiệc Thánh thể, để mừng kính Chúa Kitô sống lại từ cõi chết. Chọn như thế, sẽ đem lại cho người chọn niềm hy vọng, mỗi khi mình giáp mặt sự chết, tuy rất buồn. Hy vọng, là bởi mình vẫn tin rằng: khi Chúa chỗi dậy từ cõi chết, Ngài vẫn ở lại với mình ngang qua hội thánh. Tin rằng, Ngài đã dâng hiến trọn cuộc đời cho Cha. Đã, trung thành với lời mời gọi của Cha, ngang qua cuộc hành hình, và nỗi chết. 
Chọn làm Kitô hữu, là chọn tham gia có mặt vào buổi lễ. Để, cùng với Đức Kitô làm của lễ tiến dâng Cha Nhân Lành, Đấng mến thương. Chọn dự lễ, còn là chọn đón nhận Thân Mình rất Thánh của Chúa. Đón và nhận Đức Chúa như của ăn nuôi dưỡng thân xác, của chính mình. Chọn Chúa như thế, tức là chọn lựa trở thành người anh em với mọi thành viên khác, trong Hội thánh.   
Và khi đã chọn và lựa như thế, ta sẽ hiểu được lời nghệ sĩ xưa kia còn hát tiếp:

“Long lanh sao trời đẹp thêm môi mắt
Áo trắng em bay như cánh thiên thần
Giọt môi hôn dưới tháp chuông ngân.” 
(Nguyễn Vũ – bđd)

Ngày hôm nay, sỡ dĩ tôi và bạn, ta ít thấy “áo trắng em bay như cánh thiên thần” vào ngày của Chúa, là bởi vì vẫn thiếu vắng những cái áp má/bắt tay “dưới tháp chuông ngân’, ở nhà thờ. Làm sao có bắt tay/gặp gỡ nếu chẳng thấy ma nào chịu đi nhà thờ/nhà thánh, ngày của Chúa, được! Càng không đến gặp gỡ nhau vào ngày Chúa Nhật, càng khó lòng mà dấn bước theo chân Chúa. Lấy gì mà thương với yêu!
Hiểu như thế, thánh lễ ngày của Chúa không còn là “luật buộc” hay “lễ buộc’ nữa, mà là cơ hội để ta cùng gặp nhau mà nguyện cầu. Và lắng nghe. Có lắng nghe và cầu nguyện, ta mới cùng nhau cảm tạ về hồng ân quà tặng Chúa phú ban. Có lắng nghe và nguyện cầu, mới biết rằng rất nhiều người như mình, cũng mất mát/khổ đau. Suy tư. Nghiền ngẫm. Có nguyện cầu và lắng nghe, ta mới thấy mình sống hài hoà. Như người anh, người chị cùng một thân mình là Hội thánh Chúa. Và, có nguyện cầu và lắng nghe, mới thấy nhiều người còn khoan dung độ lượng hơn mình nhiều.
Và, quan trọng hơn cả, là khi ta cùng lắng nghe và nguyện cầu với bạn Đạo, ở nhà thờ, ta biết đặt đôi bàn tay, và đôi bàn chân của mình, vào đúng chỗ, của miệng lưỡi. Tức, làm hơn là nói suông. Và, có đến gặp gỡ nhau ngày của Chúa, mới có tương quan mật thiết với nhau. Với Chúa. Tương quan ấy, không chỉ thấy nói. Nhưng đã thấy làm. Tương quan gặp gỡ, vào buổi lễ, là tín hiệu cho ta biết ta được đón nhận, chào mừng khi mọi người lắng nghe ta. Cùng cầu với ta.
Và khi gặp gỡ tương quan, vào buổi lễ, ta sẽ thấy được rằng nhà thờ là nơi ta có thể thực hiện tình huynh đệ, hiếu khách, đối thoại rất cởi mở. Và nhất là, khiến ta có được lòng mê say biến thế giới này trở nên công bằng và chính trực hơn trước nhiều. Và khi làm được thế, ta sẽ dễ dàng theo chân Chúa, một cách thực tiễn, bên trọng cộng đồng Hội thánh, con của Chúa. 
Có tương quan/gặp gỡ đẹp như thế, ta cũng hiểu tại sao nghệ sĩ nọ lại viết câu điệp khúc:

“Rồi mùa giá buốt cũng qua mau
Lời hẹn đầu ai nhớ dài lâu
Rồi một chiều áo trắng phai mầu
Em qua cầu xác pháo bay sau…” 
(Nguyễn Vũ – bđd)

Khi đã hiểu, sao lại là “Thánh ca buồn”, thì câu hỏi, nói ở trên: ”Sao cứ bắt con/buộc cháu đi lễ ngày Chúa nhật”? cũng không có gì là khó. Để trả lời, có lẽ cách hay nhất, cũng nên diễn tả như thế này, mới phải: Tham dự Tiệc Thánh ngày của Chúa, còn là cơ hội để ta nghe lại truyện đời của Chúa. Để, san sẻ Thân Mình và máu Thánh Đức Kitô. Đến dự lễ, là để là gặp gỡ Đức Kitô ngang qua cộng đoàn của Ngài. Đến để cùng với các người anh người chị, trong cộng đoàn, những người cùng niềm tin, ta làm việc gì thật đặc biệt. Để, cùng nhau ta tìm ra của ăn nuôi sống cuộc đời. Một đời, không chỉ vui chơi, ăn uống. Nhưng, tràn đầy những văn hoá của sự sống. 
Nếu hỏi rằng: có bắt buộc chăng, phải đi lễ mỗi ngày của Chúa?. Hỏi như thế, há nào bảo rằng: có buộc phải ăn phải uống, để mà sống. Bởi, thánh lễ là nguồn thực phẩm nuôi sống niềm tin. Nuôi cả tương quan trong cộng đoàn. Hiểu như thế, sẽ không còn thấy thánh lễ như một ép buộc của luật lệ. Mà như đam mê. Mê sống. Mê yêu thương. Yêu thương chính mình. Cùng là, yêu thương Thân Mình, của Đức Chúa.
Và, nếu không hiểu được thế, ta cũng sẽ như người nghệ sĩ cứ gọi đó “thánh ca buồn” rồi hát:

“..Vang trong đêm lạnh bài ca Thiên Chúa
khẽ hát theo câu đêm thánh vô cùng
Ôi giọng hát em mênh mông buồn.”
(Nguyễn Vũ – bđd)

Và, nếu có người lại cũng bảo: “Ôi giọng hát”, của em và của anh, sao mãi cứ buồn. Ở vài nơi? thì chắc là câu trả lời của tôi và của bạn, là: thay vì ta đến dự Tiệc Thánh để gặp gỡ, mừng vui với người anh người chị trong cộng đoàn, thì sao ta lại cứ tranh giành quyền thế, có bè phái? Sao, cứ dùng lề luật mà trói buộc kẻ nghèo hèn, nào thấy vui? Mà, hãy coi đây là dịp để ta có tương quan với chư thánh, ở Nước Trời. Rồi sẽ mừng và vui. Vui, hơn mọi thứ. Mừng, hơn mọi chuyện. Chí ít, là chuyện mừng vui của Nước Trời. Với bạn. Với tôi. Như Phaolô thánh nhân, từng quả quyết:

“Mỗi lần anh chị em ăn bánh 
và uống chén ấy
là anh chị em 
loan báo sự chết của Chúa, 
cho tới lúc Ngài đến.” 
(1Cr 11: 26)
*
Cả khi bạn khi tôi, ta tham gia tụ tập để “ăn bánh và uống chén ấy”, chén tình thương của Đức Chúa, ta sẽ 


không bao giờ buồn. Sẽ, không như bài “thánh ca buồn” người nghệ sĩ, nói ở trên. Vì khi ấy, ta đang loan báo sự chết cứu độ của Đức Chúa. Rất mừng vui. Vui mừng. Cả cuộc đời. 

Trần Ngọc Mười Hai
  Vẫn hy vọng  
  bạn và tôi rồi sẽ hiểu
  ý nghĩa của Tiệc Thánh.,
  Hơn bao giờ.       
                          









40. “Mưa hoàng hôn, trên thành phố buồn gió heo may, vào hồn”
thoảng hương tóc em ngày qua
ôi người em Hồ Gươm về nương,chiều tà
Liễu sầu úa thềm cũ nằm mơ,hiền hòa”
(Phạm Đình Chương – Mưa Sàigòn Mưa Hà Nội)

(Xh 31: 12-14)
Hoàng hôn buổi ấy, có cơn mưa chiều, nhiều ảm đạm. Cũng Kiêu sa. Là đà. Ở xứ miền mang tên Pê-tra, sỏi đá. Nước Gio-đan. Mưa hoàng hôn chiều ấy, đã dẫn đưa bần đạo về lại với kỷ niệm thân thương miền đá sỏi. Miền đất, có bề dày lịch sử thánh thiêng. Triền miên đầy kinh nghiệm Có kinh nghiệm trải dài Nê-bô, chốn núi. Và kinh nghiệm, ngày thánh tổ Môsê đặt chân đến. Có Đức Gio-an Phaolô Đệ Nhị, âm thầm nguyện cầu mùa điển tích. Năm 2000.
Trầm mình nguyện cầu trong hôn hoàng buổi chiều ấy, bần đạo lại nhớ tới cộng đoàn nhỏ hân hoan ngày chủ nhật. Cũng âm thầm bầu khí linh thiêng, rất thánh lễ. Có chủ tế vu vơ gạn hỏi, với sẻ chia. Gạn hỏi, để nhập đề. Để, sẻ san bài suy niệm. Gạn rồi hỏi, chủ tế mình vẫn sẻ chia, như sau:
“Trước khi bắt đầu bài chia sẻ cho thánh lễ hôm nay, xin mạn phép hỏi bà con cô bác, các anh chị ở đây, có ai biết: khi xưa, Chúa nói những gì với chư thánh tâm thành năng đi lễ? Hỏi, là hỏi ngắn gọn tuy rất dễ. Nhưng sao cộng đoàn dân con chiều hôm ấy vẫn cứ thụ động, chẳng trả lời. Khiến, bé em phải giơ tay phát biểu, liền lập tức:
-Dạ thưa, Chúa nói: xin Cha tha tội cho chúng. Vì chúng không biết việc mình làm!”
Trong san sẻ nguyện cầu, chủ tế đã mau mắn đưa ngay câu đáp trả của bé vào làm dẫn nhập cho đề tài suy tư, như sau: 
“Thời buổi này, có nhiều anh nhiều chị đi nhà thờ, rất đều đặn. Cũng sốt sắng. Nhưng, chừng như ít người hiểu và biết rõ việc mình đang làm. Cứ thắc mắc với hỏi han: việc làm này mang nặng ý nghĩa gì? Có cần lắm không? Không làm thế, có mắc tội mắc vạ gì không?”  

Truy tầm một sơ vấn, bần đạo bèn lục lọi mọi tài liệu, may thay gặp câu hỏi/đáp rất ăn nhập, ở trên báo. Thật sự, đây là câu hỏi/đáp xuất hiện trên The Catholic Weekly, tháng 8/2008, với đoạn viết khá “ăn ý/ăn nhập” như sau: 

“Nhiều lần, con có nghe người bạn thân đã phân trần, nhiều chuyện kể. Một chuyện cũng không vui cho lắm, trong đó có thể đã là lý do khiến anh giã từ nhà thờ, vì không nhận được câu giải đáp thoả đáng, khá kịp thời. Chuyện anh bàn, vẫn là thắc mắc/vấn nạn từng xảy đến với Giáo hội. Thắc mắc ngoan cường, đại để: có là chuyện bắt buộc, cột chặt ta phải đi lễ mỗi ngày Chúa nhật, không? Nếu không đi, có mắc tội, mắc vạ gì không? Anh cũng nói: sao không thấy Giáo hội Chính thống/Tin Lành, đòi ràng đòi buộc, gắt như thế! Phải chăng Đạo mình cũng thật khó, phải không cha?”

Hiển nhiên là, một khi đã có hỏi là có đáp. Đáp khá dài. Dù có hay. Chí ít, là lời đáp rất chính mạch. Trong khuôn khổ nhà Đạo. Theo cung cách của “đấng bậc”, như xưa:

“Đã nhiều lần, tôi từng thưa chuyện cùng quý bạn, là: không phải Giáo hội ta “thật cũng khó”, đâu. Đích thực, Giavê Thiên Chúa đã huấn thị cho dân Do Thái 10 điều giới lệnh, gồm cả thảy. Giới lệnh thứ ba, rõ ràng đề cập chuyện “giữ ngày Hưu lễ”, là như thế. Đàng khác, vì ta biết rõ Chúa là Đấng nào. Lại dư biết, Ngài thương ta thật dường bao. Nên, ta có thờ kính Ngài bằng nhiều dự lễ ngày Chúa Nhật, cũng là chuyện phải lẽ, thôi. 
Giới lệnh 3, Gia-vê Thiên Chúa ban cho tổ phụ Môsê, thật gay gắt. Giới lệnh, nói:

”Các ngươi sẽ giữ các ngày Hưu lễ, 
vì đó là sự thánh thiêng đối với các ngươi: 
kẻ vi phạm hà tất sẽ phải chết. 
Vì, phàm ai làm việc gì trong ngày ấy, 
mạng nó sẽ bị tiễu trừ khỏi họ hàng của nó.” 
(Xh 31: 12-14). 

Trừng phạt đến trí mạng, đối với những kẻ không tuân giữ ngày Hưu lễ, như thế đã rõ một điều: Thiên Chúa coi giới lệnh này thật nghiêm chỉnh. May mắn thay, thời buổi này, Giáo hội Chúa không đi đến phán quyết xử tử, những kẻ nào bỏ lễ ngày Chúa nhật! Đúng là thế.
1200 năm sau, ngày Môsê nhận 10 điều giới lệnh của Giavê, vào thời của Chúa, người Do Thái vẫn tuân giữ ngày Hưu lễ, nghiêm túc phúc lệ hơn bao giờ. Vào buổi ấy, có người còn tố cáo Chúa không chịu tuân giữ giới lệnh này cho nghiêm chỉnh, nữa là đằng khác. (x. Mt 12: 1-2, 9-14; Mc 2: 23-28, 3: 1-6)
Cũng vậy, khi nhận ra Chúa là Đấng nào, và biết rõ Ngài đối xử với ta hiền từ ra sao, hẳn ta cũng chỉ mong kính thờ và tuân giữ điều Ngài dạy theo cùng một  cung cách như Đức Giêsu khi xưa khuyên dạy. Ngài dạy ta rất rõ, không nên bỏ dự Tiệc Thánh  như những lời giản đơn, như:

 “Hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”
(Lc 22: 19)

Làm mà nhớ. Giả như Giáo hội có tuyên bố rằng: bỏ lễ ngày Chúa nhật là lỗi nặng, do ta tự ý, thì đây cũng không là phán quyết độc đoán. Đúng hơn, đây chỉ muốn nhắc con dân Chúa biết rằng: ràng buộc này, tự thân, mang tính cách nghiêm túc. Rất nên làm.

Để giải quyết vấn đề, Đức thày nói: nên làm! Nên làm, là nên tuân giữ giới lệnh 3, như người Do Thái vẫn làm, từ nhiều kiếp. Cả kiếp héo mòn đời, như một nghệ sĩ họ Phạm khác, lại vẫn hát:

“Cô liêu trong nỗi u hoài
lòng người sống lạc loài
thê lương mềm vai gầy
bao oan trái dâng tê tái
cho kiếp người héo mòn tháng ngày…
Mưa còn rơi…
Ta còn ước rồi nắng yêu thương về đời
Vang trời tiếng cười ấm niềm tin hồn người
Mây trắng vui tươi
Tình quê ngút khơi
Tự do phơi phới.” 
(Phạm Đình Chương – bđd)

Vấn đề đặt ra hôm nay, không phải để hỏi rằng “thê lương và u hoài, nỗi cô liêu”, khi giữ luật. Cũng chẳng là, niềm “thê lương”, “oan trái” tháng ngày đầy mòn héo. Nhưng là, “tình quê ngút khơi”, “tự do phơi phới”. Tự do, khi nghe đức thày tả thêm về điều răn 3, hãy cứ nghe. Nghe xong, rồi tự quyết. Quyết định lấy, cho chính mình:

“Giờ đây, hãy xem Kitô hữu thời tiên khởi. Các vị vẫn giữ điều răn thứ 3, nghiêm túc đến thế nào. Năm 303, thời kỳ Hoàng đế Dioclêtius bức bách Hội thánh Chúa, rất dữ dội. Dữ đến độ, có nhóm tín hữu gồm 49 người, trong đó thấy có nghị sĩ, cũng bị bắt giữ chỉ vì dám ngang nhiên tụ họp tại nhà thành viên cộng đoàn nọ, để cử hành thánh lễ ngày của Chúa, ở Abiten. Là, thủ phủ nằm phía bắc châu Phi, nay gọi là nước Tu-ni-di. Các tín hữu này bị giải lên cho thống đốc Anulinus hỏi cung và quyết định.
Trong số các nhân chứng, đứng ra lúc bấy giờ, có Êmêritus không chút hãi sợ, đã hiên ngang tuyên bố mình từng đón tín hữu ngay tại nhà, để dâng lễ. Và, khi vị thống đốc hỏi: “Vì cớ gì anh lại đón các vị này đến nhà mình? Có phải để phản kháng luật của Hoàng đế chăng?” Ông bèn đáp: “Chúng tôi không thể sống, mà không có thánh lễ ngày của Chúa nhật.” 
Tức thì, cả 49 vị đều bị đưa ra pháp trường để hành quyết. Tác giả cuốn ký sự “Công vụ Tử vì Đạo” có lời bàn về câu nói của vị thống đốc trích ở trên, khi thấy các tín hữu hiên ngang tham gia cử hành Tiệc Thánh, có nói rằng: “Ôi còn gì ngu xuẩn nực cười bằng câu hỏi của vị quan án! Như thể bảo rằng, mình là tín hữu ngoan Đạo mà lại không cử hành Tiệc Thánh, nghe được sao? Cũng vậy, Tiệc Chúa làm sao thành, nếu không có tín hữu đến tham dự! Hỡi Satăng, ngươi biết chăng: chính Tiệc Thánh Chúa Nhật làm nên tín hữu? Và, chính tín hữu Chúa đã làm nên Tiệc Thánh Chúa Nhật. Không thể có thứ này, mà lại không có người kia. Và, ngược lại?”
Ở đây nữa, nên nhớ: vào thời ấy, Hội thánh Chúa không đưa ra luật lệ nào bắt mọi người phải đi nhà thờ dự lễ ngày của Chúa, hết. Đơn giản là, việc này đã in hằn thật sâu nơi tâm khảm/đầu óc người tín hữu, vốn chuyên chăm. Cụ thể là, tất cả đều nhất quyết không để ngày của Chúa lạt lẽo trôi qua, mà lại không đến tham dự Tiệc Thánh. Dù, việc đó có nguy hiểm đến tính mạng mình, thế nào nữa. Cũng mặc.
Đi lễ ngày của Chúa, đối với ta hôm nay, cũng như thế. Đây chính là điều thiết yếu, chứng tỏ căn tính của người đi Đạo. Không thể có chuyện tín hữu đích thực, không thể có cuộc sống đi Đạo thích đáng, mà lại không tham dự tiệc Thánh, ngày của Chúa. Dù, Hội thánh có tuyên bố: bỏ lễ do tự ý mình, là lỗi nặng hay rất nhẹ. 
Việc quan trọng cần làm, là: hãy cứ để riêng mỗi tuần một ngày, dành cho Chúa. Và để riêng một tiếng, cho thánh lễ Chúa nhật, như Chúa nói: “Anh em không thể tỉnh thức với Thầy được một giờ sao?” (Mt 26: 40). (x. John Flader, The Catholic Weekly 8 & 15/6/2008, p. 10)
 
Cuối cùng, Đức thày giòng họ Flader trở về với giòng chia sẻ của thánh Gioan Kri-zốt-tôm, khi thánh thân so sánh việc dự lễ với chuyện xem xiếc (thời ấy), bóng bầu dục (ngày hôm nay), như sau:

“Ở đám xiệc, chẳng thấy có mái trên đầu che mưa che nắng gió có hoàng hôn, đám đông quần chúng vẫn cứ xem. Họ còn ra như  khùng điên la ó, cả vào lúc mưa trút ướt mình mẩy. Cả vào lúc gió lộng thổi vào mặt. Khi ấy, chẳng ai nói đến chuyện đường trường giá lạnh, mưa nắng/bão bùng, chẳng gì có thể ngăn cản họ đến thưởng lãm. Chẳng có gì khả dĩ giữ chân họ ngồi nhà! Thế nhưng, đi nhà thờ dự lễ, thì cứ nại cớ trời nắng trời mưa, dây dưa bùn đất, dễ ngã nhào. Ôi, cũng chỉ nại cớ cản trở mình sống thánh thiện, thế thôi!” (x. M.F. Total, Các bài giảng nổi tiếng ngày Chủ Nhật, tập 2. tr. 137)

Kể ra thì, tâm tình người thời đại, có phản ứng tích cực và tự nhiên, với chuyện nhà thờ/nhà thánh không, đó là vấn đề. Vấn đề, càng trở nên trầm trọng, với người sống ở trời Tây. Rất đầy vật chất, lẫn cơm bánh hằng ngày, chẳng cần xin. Trái ngược với tình hình cơm áo/gạo nước, của người dân nghèo ở phương Đông. 
Với người đời, những đầy đủ vật chất với gạo tiền mà lại không có Chúa ở cùng và sống với Chúa, thì giờ giấc tháng ngày trong tuần đều trở thành điều mà người Âu/Mỹ hôm nay “gọi đó nỗi buồn”, của một tuần: Sinday, Mournday, Tearsday, Wasteday, Thristday, Fightday và Shatterday. Dịch tiếng Việt, có thể gọi: Chủ nhật Ngày tội lỗi, Thứ Hai Ngày Sầu Vãn, Thứ Ba Ngày Khóc than, Thứ Tư Ngày Phí Phạm, Liệng Bỏ, Thứ Năm Ngày Đói khát, Thứ Sáu Ngày Đánh giết, Thứ Bẩy Ngày Tả tơi Đổ vỡ, rất để đời.    
Là những tháng ngày, của một năm, người nghệ sĩ trên vẫn cứ hát:

“Mưa ngày nay, như lệ khóc phần đất Quê Hương tù 
đày,
Em ngoài ấy, còn nhớ hẹn xưa miệt mài,
Giăng mắc heo may,
Sầu rơi ướt vai
Hồn Quê tê tái…”
(Phạm Đình Chương ­ - bđd)

Ướt vai – tê tái, có là tâm tình của những người ngày nay ít đi nhà thờ dự lễ? Điều này, khó có thể hoà nhịp với người ở Phương Đông để đổ vấy cho kẻ sống ở trời Tây. Tựa như thế, không thể bảo, người ở Phương Tây lúc này ít đi nhà thờ nhà thánh, là sẽ chuốc lấy sự vắng mặt của Chúa, trong cuộc đời. Hoặc, chỉ gặp những khóc than, sầu buồn. Tả tơi. Đổ vỡ. 
Không thể nói thế, là bởi: dù có đến nhà thờ dự lễ lạy, mà chẳng tuân giữ giới răn “tóm gọn hai điều này mà chớ: trước kính mến một Đức Chúa Trời, sau lại yêu người như mình ta vậy”, thì cũng không bằng người ở trời Tây, nhưng vẫn còn giữ, là sống và tuân giữ tinh thần của “Nước trời” đã hằn sâu im ắng, ở tâm can. Dù họ có vắng mặt ở nhà thờ. Đó là điều, đà thấy rõ qua động thái thương người bằng cử chỉ đỡ đần, giùm giúp, bất cứ lúc nào, ở đâu đó cần đến như tai ương, thiên tai v.v... Bên trời Tây. Như người trẻ, tên gọi Michael McVeigh, trong bài viết mang tựa đề “Bị thương tích, ta tìm cứu chữa, và ta được chữa lành” , có nói:

“Qua kiếm tìm, ta gặp được ý nghĩa của cụm từ chữa lành người bị nạn, biết rằng bản thân mình có thể dễ bể, tả tơi; nên đáp ứng lời kêu gọi giùm giúp với đùm bọc bằng những hành động tương thân tương trợ, rất yêu thương. Mỗi lần giùm giúp, hỗ trợ, ta đều đích thận gặp gỡ chính Chúa, những cội nguồn niềm cảm hứng, tạo hỗ tương. Trường hợp của anh bạn tên Nguyên, họ Phạm, tên Trần nào đó cũng là một ví dụ cụ thể. Có người gọi đó là “sự chói sáng tuyệt vời” của niềm tin.
Thành thử, mỗi khi bạn nghe biết có thiên tai, động đất bão lụt ở đâu đó, hãy nhớ đến họ ít là bằng lời nguyện cầu, hoặc hỗ trợ thực thụ bằng những động thái xót thương giùm giúp. Qua nhận thức biết mình có thể sẻ san nỗi niềm dễ thương tổn, ta sẽ là những người chữa lành rất thực tế. Rất thân thương. Chính nhờ vào nghĩa cử hỗ tương giùm giúp cách thực tế, ta gặp chính sự chữa lành, bồi đắp có ý nghĩa.” (Michael McVeigh, Australian Catholics, số Phục Sinh 2009, tr. 4) 

Giùm giúp như thế, là đem nắng yêu thương vào đời, như lời nghệ sĩ lại đã thêm:


“Mưa còn rơi…
Ta còn ước rồi nắng yêu thương về đời
Vang trời tiếng cười ầm niềm tin hồn người
Mây trắng vui tươi
Tình quê ngút khơi
Tự do phơi phới.” 
(Phạm Đình Chương ­ - bđd)

Nói cho cùng, mưa hoàng hôn hay “Mây trắng vui tươi”  ngày Hưu Lễ. Có thánh lễ. Có tình quê ngút khơi, phơi phới, đều là giới lệnh cần thiết. Cần nhiều hơn tinh thần đầy những luật. Dù, có là luật Hội thánh hay luật ngoài đời. Vẫn Yêu thương, độc nhất một đạo luật. Đạo luật ấy, vượt trội mọi giới lệnh, cần nhận thức. 
Trong tinh thần nhận thức lệnh và luật rất cần cho đời và cho người, cũng nên thả lỏng tâm tư/linh hồn theo ngón gió đu đưa có dáng dấp của “Mưa Sàigòn, Mưa HàNội” để mà thư giãn. Thư giãn bằng truyện kể rất nhẹ, rất hoàng hôn, như bên dưới: 

“Gia đình tốt lành/đạo đức hôm ấy, vẫn đi lễ như mọi lần. Không hiểu sao, chủ nhật nọ, mẹ hiền hôm đó bỗng cất lên lời bình phẩm, rất công khai:
-Thế này mà gọi là lễ trọng ư? Hát hò gì chẳng khác nhạc ngoài đời. Hoạt cảnh Phúc âm nào có khác gì buổi nhạc sống, nhà hát lớn!
-Ba thì thấy ông cha này, bữa nay giảng dài quá sức. Kiếm mãi không ra bãi đáp để kết thúc, cho bà con mình tỉnh giấc.      
Đứa con lên 7 bèn góp ý:
-Con thấy khác. Không đâu biểu diễn nhiều tiết mục như thế, mà chỉ mất có 1 đô.”  

Thật ra, không phải thế. Tất cả, là cố gắng của mỗi người. Và mọi người. Từ cha cố đến dân con, ở nhà Đạo. Nhất nhất đều hiểu, thánh lễ đã là trọng tâm của cuộc sống. Đạo hạnh. Để mất trọng tâm, cuộc sống con người chẳng còn gì, là ý nghĩa. 
Vấn đề là, làm sao để cuộc sống mình không trở thành nhàm chán. Lấy lệ. Nhất thứ, làm sao hấp dẫn được người trẻ. Làm sao, để Tiệc Lòng Mến Thánh Thể không còn là thói lệ. Chẳng bắt buộc. Mà người trẻ/ người người cứ hớn hở. Hăng say. Tìm đến.
Việc còn lại, là quyết tâm của mỗi người. Của cha con. Thầy tớ. Ở nhà Đạo. Trong đời. 

Trần Ngọc Mười Hai     
Cứ bận tâm
suy nghĩ 
chuyện lễ lạy với nhà thờ.









41. “Khi người yêu tôi khóc, trời cũng giăng sầu”
Cho từng cơn mưa lũ xoáy trong tâm hồn 
Khi người yêu tôi khóc thành phố buồn thiu 
“Em ơi tôi níu một lần yêu ái trên cung ngàn hắt hiu ! 
(Trần Thiện Thanh – Người Yêu Tôi Khóc)

(Mc 13: 24)
Chao ôi, là nguồn thơ! Ối giời, là giòng nhạc! Mới chỉ có người yêu của tôi, hay của bạn vừa khóc thôi, mà sao đất trời đã sầu giăng bóng, chốn thiên thu? Giả như, tất cả mọi người yêu trên thế gian này đều khóc, thì chắc đất trời sẽ không chỉ giăng sầu thôi; nhưng sẽ còn quay cuồng, đến sụp đổ. Sụp ghê rợn. Đổ triền miên. Đổ và sụp, là bởi: chắc có thế nào, thì người yêu của tôi/của bạn mới khóc, đến thế chứ? Khóc sướt mướt. Miên man. Nhiều tháng ngày. Khóc hơn cha mẹ chết, để níu kéo “một lần ân ái trên cung ngàn hát hiu” hẳn là “nỗi sầu của đất trời như lũ xoáy trong tâm hồn”, chứ nhỉ?
Thế nhưng, có sự thể là người thời nay không chỉ sướt mướt những khóc và khóc, khi cha chết mẹ chết, mà thôi. Nhưng, còn khóc vào cả khi xảy ra chuyện xấu, những đổ dồn. Như thiên tai. Dịch bệnh. Rất tsunami. Thiên hạ ngày nay cứ khóc đều khi cuộc sống bị dồn vào tình thế, mất tương lai. Tình thế hay tư thế của đời người vừa rồi, lại đã trải qua cơn khổ ải, giống như thiên tai, bệnh lạ đời. Hết cúm gà, bò điên, dịch hạch, lại tai ương. Khiến tương lai của người yêu tôi và bạn, nay tối mù. 
Tương lai mù tối ấy, được thánh sử hơn một lần cảnh giác: 
“Trong những ngày đó, 
sau cơn gian nan, 
mặt trời sẽ ra tối tăm, 
mặt trăng không còn chiếu sáng, 
các ngôi sao từ trời sa xuống, 
và các quyền lực trên trời bị lay chuyển.”
(Mc 13: 24)

Thời buổi, trời đất giăng sầu, mất sáng, người người có quan ngại nhiều, cũng không bằng cơn dịch lạ vừa tán phát, mới đây thôi. Chuyện cúm lợn mới đây, tuy không bằng tsu-na-mi, cháy rừng rất ghê gớm. Nhưng cũng khiến người người đều hoảng sợ. Sợ đến độ, có người cho đó là hình phạt Chúa gửi, như Ngài từng gửi đến Sô đôm, và Gô-mo. Sợ đến nỗi, người nghệ sĩ đã ứng khẩu thành thơ, với âm nhạc:

“Em, một đêm cúi mặt 
để cay đắng rơi thành giọt lệ đời.
Anh, niềm đau đến muộn
Từng chiều lặng im, nhìn mưa bão tới…”
(Trần Thiên Thanh – bđd)

Nhìn mưa bão dịch bệnh tới hôm nay, có nhiều học giả vẫn “từng chiều lặng im” đi tìm một giải đáp. Tìm cho ra căn nguyên dẫn đến sự việc. Để rồi tạo thần dược chủng ngừa hy vọng chữa lành mọi â sầu.
Trong kiếm tìm như thế, có học giả lại đã cho rằng: sự dữ ác thần ở thế gian vẫn bắt nguồn từ hành vi hư đốn của con người. Có vị còn nghĩ: chính vì hành vi “không phải” của con người mà Thượng Đế vẫn “để yên” cho khổ đau lan tràn khắp thế giới. Nói khác đi, các vị cho rằng: sở dĩ  ta cứ “cúi mặt để cay đắng rơi thành giọt lệ đời”, là vì người người chỉ biết có cá nhân mình. Cứ vị kỷ. Những lo toan cho riêng mình. 
Từ động thái chỉ sống cho riêng mình, nào ai đếm kể gì mọi chuyện “sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi”. Có vị viện dẫn những trường hợp còn ghê gớm hơn. Ghê đến mức độ có thể huỷ hoại toàn cả môi trường. Huỷ hoại nhiều thế hệ, chỉ bằng một vài mầm ‘gien’ đưa vào thực phẩm, đến ghê rợn.  
Rất ghê rợn, nên người nghệ sĩ trẻ hồi đó, đã nỉ non:

“Cho một lần yêu cuối là những lẻ loi,
em ơi hãy nói, vạn lời sầu đắng
như anh vừa trách anh…”
 (Trần Thiên Thanh – bđd)

Trách anh hay trách bạn, phải chăng vì khổ đau/cay đắng ấy do chính anh/chính bạn gây ra? Chứ đâu là, do Chúa! Đấng chỉ tạo sự tốt đẹp lành thánh.  Thế nhưng, ngay như đấng bậc vị vọng đường đường chính chính giám quản một giáo phận lẻ thành Linz, Áo quốc, lại cứ cho rằng cuồng phong Katrina năm trước ở Louisiana, Hoa Kỳ là do Chúa gửi đến, để trừng phạt những kẻ dám lỗi phạm về dục tình. Chuyện mà nhà văn người Pháp Voltaire vẫn cười mỉa. 
Suy tư nghiêm túc, bàn dân đi Đạo hẳn sẽ thấy vấn đề đặt ra, chẳng bao giờ giản đơn. Nhìn vào Cựu Ước, hẳn người đọc cứ tưởng Gia-vê Thiên Chúa chỉ là “Ông ngáo ộp”, chuyên trừng trị kẻ phạm lỗi, để làm gương(?). Đầu óc người đương thời lúc đó, vẫn cho rằng Chúa trừng phạt kẻ phạm lỗi bằng cách Ngài cứ “để yên” cho tai ương/dịch bệnh tha hồ mà thao túng tác hại, gây cay đắng, phiền lụy, lẫn khóc ròng. 
Người mang nặng thành kiến về trừng phạt từ Thiên Chúa, lại viện dẫn lời vàng của Kinh Sách:

“Mặt trời sầm tối, ngay khi vừa mọc
và mặt trăng không rạng ánh huy.
Ta sẽ vạch ra ác đức dương gian,
Và hỏi tội kẻ dữ.” 
(Ys 13: 11)

Thế nhưng, Đức Kitô Ngài lại bảo khác;

“Đó đây có động đất đói kém..
Các sự ấy chỉ là khởi điểm 
của cơn đau cồn chuyển cữ.”
(Mc 13: 7-8)

Đau cồn chuyển cữ, theo tinh thần của Tân Ước, là dấu chỉ dẫn đưa về một kết hậu. Có bé em khôi ngô tuấn tú, rất đĩnh đạc. Đau đớn khổ hình, còn để cùng chung thân phận Chúa chịu nạn, vì yêu thương. Chúa chấp nhận khổ đau/sự chết, để chứng tỏ rằng tai ương/dịch bệnh xảy đến không phải để phạt vạ/cảnh cáo, một ai hết. Ngài từ chối mọi phiền trách, lẫn đổ vấy cho tội lỗi của con người, hoặc cho thế hệ tổ tiên.
Kinh Sách Cựu Ước tuy có dẫn viện quan niệm người xưa, luôn ngộ nhận. Tân Ước hôm nay đả phá cách nhìn như thế, bằng những quan niệm mang tính tích cực hơn. Đức Chúa Nhân Từ, Ngài chỉ quan tâm lo lắng đến tương quan mật thiết với con người. 
Đức Chúa của Kinh Sách hôm nay, Ngài không hành xử như vị quan án chuyên luận phạt. Đúng hơn, Ngài là Đức Chúa của Tình Yêu. Ngài khóc với người than khóc, mừng vui với người vui mừng, trong cuộc sống. Ngài luôn lân la, đồng bàn với người cùng khổ. Tội nhân. Một thân phận.
Chính vì thế, người “ở ngoài’ cũng nhận ra hình hài của người Yêu Chân Chính, bằng câu hát:

“Khi người yêu tôi khóc, xin rất im lìm.
Như, từ lâu tôi giấu, những cơn muộn phiền.
Xin đừng đem nước mắt gội xoá niềm đau,
Cho yêu thương đó, em còn được giữ trong
 tâm hồn rất lâu.”
 (Trần Thiên Thanh – bđd)

Đúng thế. Chỉ nên giữ lại trong tâm hồn, hình ảnh về Đức Chúa của Yêu Thương. Hài hoà. Cảm thông, thôi. Chứ đừng hậm hực, đổ vấy những “cơn muộn phiền”, cho Ngài. Bởi, dù cho các vỡ đổ có tai hại hơn cả tai hương lẫn dịch bệnh, vẫn không thể nào là hậu quả của hành vi sai trái, rất tội phạm. Tai ương/dịch bệnh chẳng bao giờ mang tính người phàm. Chúng chẳng kỳ thị một ai. Từ kẻ phạm lỗi cho đến trẻ bé thơ ngây, vô tội.
Nếu đổ vấy những thứ ấy cho Chúa, thì làm sao ta tin được rằng Đức Chúa của Yêu Thương vẫn cứ lân la thân mật hết mọi người. Đặc biệt những người đơn côi. Nghèo hèn. Tội Lỗi. Trong khi đó, dịch bệnh lại tha chết cho những tay giàu có, thừa khả năng phòng chống, bằng thuốc men, phương tiện hiện đại, tránh lây lan. Dịch bệnh thật sự, chỉ nhem nhúm chốn thiếu thốn, nghèo hèn. Tủi hổ. Vô phương lẩn tránh. Không uy tín với giới trên cao, làm luật.
Nói cho cùng, thật khó mà đổ vấy nguyên do của dịch bệnh cho Chúa. Bởi, bản chất của Ngài là yêu thương, đâu nhằm trừng trị người cùng khổ, lẫn ốm đau. Bản chất của Ngài, còn là bao dung đùm bọc, có đâu nào thù vặt, lẫn nhiễu nhương. Có thể ngôn sứ thời Cựu trào, cho rằng mình nắm bắt được ý đồ của Gia-vê Thiên Chúa, theo tầm nhìn thiếu khoa học. Ngược lại, tín hữu thời Tân Ước hôm nay, chẳng có bằng cớ để nắm bắt một hiểu biết, đến như thế. 

Giả như có sứ thần từ đâu đó, chứng minh được rằng mình nắm bắt/đọc được ý định của Thiên Chúa, hiểu ngầm rằng Đấng Nhân Hiền là Đức Chúa có ý định gửi tai ương/dịch bệnh đến với người lỗi phạm 10 điều giới lệnh, thì ắt hẳn người ấy quyết không là tín đồ mang căn tính Đức Kitô. Tức, Kitô khác. Mà chỉ là thiên tài khùng điên. Vô tích sự.
Đặt giả thiết, nếu chẳng may “thiên thể” nào đó rơi xuống trúng ngay thành phố bạn và ta đang ở, hẳn làm sao ta biết việc ấy là để trừng phạt một thành phố toàn chủ trương những chuyện ngặt nghèo, như: phá thai, giết người qua “an tử”, hoặc còn tệ hơn, đồng thuận việc hợp thức hoá hôn nhân giữa người đồng tính luyến ái?...
Vâng. Vô tích sự đến độ khiến người nghệ sĩ hôm trước cứ kêu lên:     
            
“Anh, niềm đau đến muộn
từng chiều lặng im, nhìn mưa bão tới.
Khi hồn anh rã rời, ngày vui xé đôi,
tình ngỡ xa xôi.”
(Trần Thiên Thanh – bđd)

Tình có ngỡ đã xa xôi. Hồn có khi đã rã rời, mới dám nghĩ là: mọi xấu xa, vỡ đổ đều đến từ Chúa. Xấu xa, tệ bạc mà nhiều người cứ hiểu lầm, là do Đấng Hoá Công, chơi khăm gửi đến. Lầm lạc trong hiểu biết như các nhân vật ở câu truyện bên dưới. Truyện rằng:

“Gia đình nọ có 4 nguời con trai. Cả bốn đều khôi ngô tuấn tú. Học rộng. Biết nhiều. Một hôm, ông bố muốn truyền kinh nghiệm hiểu biết với nhận định về sự thể cuộc đời cho các con, bèn sai tất cả ra ngoài mà xem xét cây mận đỏ, ở phương xa. Với lời dặn dò, khi về phải nói cho ông biết nhận định của mỗi người về cây trái ấy.

Ông gửi người con cả đi vào mùa đông, người con thứ vào mùa xuân, người thứ ba, mùa hạ. Và người con út, vào mùa thu. Khi tất cả đã hoàn tất chuyến ra đi, ông gọi về hỏi kết quả một nhận xét.

Người con cả thưa: cây ấy xấu xa, già nua, lại bệnh tật, đáng gom lại bỏ làm củi.

Người con thứ thưa: con thấy cây này phủ đầy nụ xanh tươi, hứa hẹn nhiều hoa trái.

Người con thứ ba, bày tỏ: con không đồng ý với anh Hai. Cây mà con thấy gồm đầy những hoa từ trên xuống dưới, trông rất đẹp. Đây là nét đẹp của cây, con chưa hề trông thấy.  

Người con út lại chẳng đồng ý với tất cả các anh, bèn nói: cây này gồm toàn những trái trĩu nặng, đầy sức sống. Rất thành tựu.

Ông bố nhân cơ hội, bèn giải thích: các con của cha nói rất phải. Bởi, mỗi con nhìn vào sự việc lẫn cây cối, chỉ theo giai đoạn của cuộc sống mà thôi. Các con không thể nào phán đoán về người nào, chỉ trong khoảnh khắc cuộc đời họ. Cũng chẳng nói được thâm căn của sự việc, chỉ qua tình huống lúc đó, cũng tợ như tai ương/dịch bệnh. Nếu chỉ nhìn mọi việc theo ánh mắt của mùa đông, ta sẽ quên đi mọi hứa hẹn tốt đẹp đến vào đầu xuân. Cứ quan niệm theo hiểu biết thiển cận, ta sẽ để luột mất vẻ đẹp của mùa hè, thành tựu của mùa thu. Tự trung, đừng để mọi đớn đau sầu khổ do tai ương hoặc dịch bệnh đem đến, mà quên đi mọi hứa hẹn của những ngày tháng tốt đẹp đang trườn đến. Chớ nên phê phán đời người vào lúc khó khăn, sầu khổ. Vì đời người và người đời, không chỉ thế. Nhưng rất đẹp. Hứa hẹn một tương lai sáng sủa hơn.

Truyện kể chỉ có thế. Nhưng người kể cũng kèm thêm một lời bàn, rất “mao Tôn Cương”, mà rằng: Hãy cố mà bền đỗ trong chịu đựng. Vì, ngày mai tươi sáng đang dần dà tỏ hiện. Cứ việc trông mong một nguồn hứng, trước khi tàn lụi trong sầu khổ. Cứ sống giản đơn. Yêu nhiều hơn. Chăm sóc mọi người tử tế hơn. Và, bỏ mọi chuyện để Chúa lo. Lý do là bởi: hạnh phúc giữ cho bạn thêm ngọt ngào. Thử thách làm bạn mạnh mẽ. Sầu buồn giúp bạn mang tính người. Thất bại khiến bạn thêm khiêm hạ. Thành tựu thúc giục bạn càng tăng trưởng.
Tuy nhiên, chỉ có Chúa mới giúp bạn cứ thế mà tiến bước. Chỉ có Chúa mới làm cho bạn quên đi mọi nản lòng. Để rồi, sẽ cùng người nghệ sĩ ngoài Đạo nói ở trên, hát lời ca vui hơn hôm trước:

“Chúa ơi! Chúa ơi! con người không Đạo 
Nhưng tin Chúa giúp đời thương đau 
Như con tin trong một lần đã lâu, 
Những hờn đau thu ngắn 
Để đám mây hồng âu yếm giăng ngang.” 
(Trần Thiện Thanh – Trời chưa muốn sáng)

Hờn đau thu ngắn. Mây hồng âu yếm, sẽ giăng ngang. Đưa người không Đạo hay ngoài Đạo, trở về với hy vọng, mai ngày trời lại sáng. Hết thương đau. Tai ương. Dịch bệnh. Dù cúm heo. 

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn nuôi hy vọng,
hơn người ngoài Đạo 
về tương lai mai ngày
hết đau thương. 




42. “Em ơi quên đi bao nhiêu
 xót xa”
Những chiều thiết tha bên nhau. 
Em ơi! xin em, xin em nói yêu đương đậm đà 
Để rồi ngày mai cách xa
(Lê Uyên và Phương – Lời gọi chân mây)

(Lc 12: 30-31)
Làm sao nói “yêu đương đậm đà” cho được, một khi tình trạng kinh tế cứ suy thoái tràn lan, khắp địa cầu? Sống Đạo giữa đời, bà con ta rồi cũng sẽ nghe quen những câu thơ các cụ mình vẫn ngâm. Và, lại nói chữ. Có những chữ rất vần và rất điệu như: “Có thực, mới vực được Đạo”. Làm thơ - nói chữ, là thói quen không chỉ thấy ở các cụ gần đất xa trời, mà thôi. Nhưng, ở hết mọi người từ già đến trẻ, cả nam lẫn nữ. Rất đậm đà. Thân quen. Chân tình.
Còn nhớ, vào lần đặt chân thăm đất miền lành thánh rất Giêrusalem hôm ấy, bần đạo đã từng cảm kích trước “Lời gọi chân mây” xuất phát từ tâm tư, còn lắng đọng. Những âm thầm. Lặng câm. Trìu mến. Hôm nay, ngồi lại đây tưởng nhớ từng chi tiết khá nghe quen, bèn ghi lại đây đôi tâm tình cảm tạ. Chân phương. Tràn bờ.
“Lời gọi chân mây” mà bần đạo bắt gặp ở đâu đó, chốn sỏi đá khô cằn, đầy tình thâm. Có những câu như:

“Hãy để giờ ra mà yêu, vì đó là bí kíp của cuộc đời.
Hãy để giờ ra mà cười, vì đó là nhạc bản cho con 
tim.
Hãy để giờ ra mà khóc, vì là dấu hiệu của tim can. Bao la. Mặn mà. 
Hãy để giờ ra mà đọc, vì đó là tài nguyên của tri 
thức.
Hãy để giờ mà nghe, vì đó là sức mạnh của trí tuệ.
Hãy để giờ ra mà suy tư, vì đó là chìa khoá dẫn đến thành qủa.
Hãy để giờ ra mà vui chơi, vì nơi đó có vui tươi cuộc 
đời.
Hãy để giờ ra mà ước mơ, vì chính đó là hơi thở của hạnh phúc.
Hãy để giờ ra mà vui sống, bởi thời giờ sẽ qua đi rất nhanh.
Thời giờ trôi qua, sẽ không bao giờ quay trở lại.
Hãy thư từ chuyện vãn với bầu bạn, vì đó là hạnh phúc con đường vào cuộc sống.”

Cuộc sống hôm nay, có nhiều chuyện rất “dĩ thực vi tiên”, khiến suy tư. Suy nghĩ và ưu tư, khi bạn và tôi, ta nhận ra đó là mối bận tâm của bà con. Bà con mình, nay càng ưu tư thắc mắc nhiều hơn nữa, khi thực tế cuộc sống đã phản chống lời Thầy Chí Thánh, vẫn khẳng định:
“Phần anh em, 
đừng tìm xem mình sẽ ăn gì, uống gì, 
và đừng bận tâm.
Vì tất cả những thứ đó, 
dân ngoại trên thế gian vẫn tìm kiếm; 
nhưng Cha của anh em 
thừa biết anh em cần những thứ đó. 
Vậy hãy lo tìm Nước của Người, 
còn các thứ kia, Người sẽ thêm cho. 
  (Lc 12: 30-31)

Đi vào thực tế, lắm lúc có người cứ hỏi: Chúa đâu rồi? Sao Ngài không ra tay giúp đỡ, như Ngài hứa? Phải chăng Ngài là tác giả hay đồng lõa, với thiên tai/hạn hán, mất mùa? Ngài, sao cứ để con dân nhìn/gặp điều khổ não, trớ trêu kia? 
Trả lời cho trách móc trích ở trên, không là chuyện dễ. Thế nhưng, ta cứ thử phiếm, thử mạn bàn để biết đâu sẽ tìm gặp được ánh sáng, ngoài cửa ngõ! Vậy thì, ta cứ bàn. Và cứ phiếm.
Nhìn về Chúa, người đời nhìn bằng nhiều cách. Kẻ cho rằng, Chúa là Thẩm Phán Tối Cao, Ngài xét xử muôn chuyện, xấu lẫn tốt. Thấy dân con làm chuyện xằng bậy, còn gửi thiên tai, để cảnh báo? Nhìn lối này, hẳn thiên tai/suy thoái là hình phạt Chúa gửi? Có công bằng, và phải lẽ không?
Có người, lại coi Chúa như Bậc Thày, chuyên dỗ dạy. Dỗ dạy, Thầy dẫn giải: thiên tai, là Chúa tập trung tâm trí ta, vào một chuyện. Ngài dạy ta, truy tìm phương hướng đường đời, để mà sống. Và có lúc, ta những lo toan với bạc tiền. Truy và tìm, đến độ quên cả Chúa Mẹ. Thế nên, thiên tai/suy thoái, là những cảnh báo lẫn cảnh tỉnh mà Đấng bậc vị thày dạy chuyên giúp ta, nhắc nhở.
Có nhiều vị lại coi Chúa như Đấng Bậc  Giám Khảo, quyết giúp ta tăng trưởng không bê trễ, lung lạc. Cả những lúc ta thấy cuộc đời vẫn tuyệt đẹp. Ngài gửi đến cho ta, những là  bôn ba và thử thách. Đó là  hình tượng thử thách mà Giavê Thiên Chúa, trong sách Gióp vẫn thường nói. Nói rất thân, để ta nhìn vào đó thấy những điều nghịch chống khổ đau.
Mặc dù thế, nhiều người vẫn cứ coi Chúa như vị Thủ Lãnh, muốn giúp ta gia nhập cộng đoàn thân thương, con của Ngài. Để rồi, quyết tham gia dấn bước vào sứ vụ chuyển tải điều tốt đẹp, ngõ hầu dựng xây thế giới quê nhà, thật đẹp đẽ. Thông thường, người người vẫn coi thế giới đời người như quà tặng cho không, biếu không. Cứ thế mà nhận lãnh. Bởi, họ nghĩ Đức Chúa có gửi đến cho ta suy thoái hoặc sầu khổ, là để ta nhớ đến mà đổi thay. Thay và đổi, toàn bộ cuộc sống. Đổi và thay, từng góc cạnh suy tư cuộc đời, ngõ hầu giúp thế gian nhận ra được chiều kích đậm sâu, đầy phấn khởi; ngay cả trong cảnh tình lúng túng, những phận hèn. Tiều tuỵ. Suy thoái. 
Cách thức mọi người nhìn đời cũng giống hệt ý lời, người xưa vẫn cứ hát:   
“Anh ơi! Như chim say mê
có khi rã rời cánh nhung thôi bay.
Anh ơi! Xin anh, xin anh lúc chân mây mệt nhoài
trở về lồng êm thân ái.”
(Lê Uyên và Phương – bđd)

Rã rời cánh nhung thôi bay, chim mê say đổ thừa cho Đức Chúa. Đổ như thế, thật là không phải. Đức Chúa mình, đâu gửi khổ đau và suy thoái, đến cho ai! Chúa của mình, vẫn tạo dựng nên con người hoàn hảo. Tự do. Thoải mái. Ngài để ta, tự ý nhận lãnh trách nhiệm rà soát/định hình nền kinh tế. Rà, sao cho thích hợp. Định, sao gây được lợi ích, cho muôn người. Giả như, chỉ vì tính “tham - sân – si” với ích kỷ, lấn át lòng dạ và tương quan, ta có với muôn người, chắc chắn nền “kinh bang tế thế” của ta, sẽ không thông suốt/trôi chảy. Linh động. Nói cho cùng, khổ đau/suy thoái vẫn luôn là hậu quả tất nhiên có từ con người. Hậu quả, khi giao lưu/đối đầu với nhau, ta luôn phải có quyết định.
Quyết định về tương quan, bao giờ cũng phức tạp. Phức tạp, là vì bởi yếu tố kỹ thuật vẫn thấy xuất hiện. Phần lớn các kinh nghiệm lâu nay xuất hiện, đều cho thấy: sở dĩ có suy thoái, là vì các hành động ứng xử của ta không được thoả đáng. Xứng hợp. Đằng sau mọi chuyện giàu sang sung túc, luôn có những mơ ước tốt đẹp để giúp con người phát triển.Có phát triển, mới dựng xây được cuộc sống hạnh phúc. Sướng vui. Cho riêng mình. Gia đình mình.
Là người, ai cũng muốn được hạnh phúc. Sướng vui. Cũng tìm đủ mọi cách để sống thoải mái. Mãn nguyện. Nhưng đôi lúc, các ao ước tự nhiên thường hay dẫn đưa đến tình trạng quá nhiều “tham - sân – si”, đầy ích kỷ. Tham, quá mức cần thiết. Và lại “sân-si” khi đã đủ dùng, nhưng lại cạy cục tạo niềm vui sống chỉ cho riêng mình. Tham-sân-si như thế, càng hối thúc con người chỉ muốn tạo cho mình giàu thêm. Có thêm. Sướng hơn thêm. Và đôi lúc, vẫn muốn hơn hẳn mọi người. Giàu sang hơn mọi người. Sống trên đầu trên cổ người người, nữa.

Điều này, có thể là ý tưởng của người nghệ sĩ khi ngâm nga câu:

“Anh ơi! Xin anh, xin anh cúi trên cơn mộng dài
để chờ ngày mai lên nắng.” 
 (Lê Uyên và Phương – bđd)

Mai lên nắng, là ngày mà anh và em cứ thế quyết đạo đạt giấc mộng. Giấc mộng dài, có cuộc sống giàu sang. Thoải mái. Dễ thương. Thương rất dễ, nhưng chỉ thương mình. Vì chỉ thương mỗi mình mình, nên cứ muốn người bồi đắp thêm cho chính mình. Mà thôi.
Trong tương quan với người có cuộc sống sướng hơn mình, cũng có khi mình lại không muốn người khác được như mình. Không muốn người khác khấm khá. Cũng có người, chỉ thích được nịnh hót/kích động để xây mộng, làm trưởng giả. Để hơn người. Chẳng chịu người hơn. Vì thế, tương quan giữa mình với người, dần dà đổ vỡ. Đó, là điều khó tránh khi gặp khổ đau. Sầu buồn. Suy thoái.
Về với vấn nạn: Chúa đâu rồi, khi con gặp phải suy thoái về kinh tế? Khốn khổ trong cuộc đời? Câu trả lời, mọi người đều biết rõ: Chúa đâu có là Đấng Bậc gửi đến cho ta, những là khốn khổ và suy thoái. Suy thoái - khốn khổ - sầu buồn, một phần là do con người. Ai cũng từng trải, đều nhận thức biết như thế. Nhưng,vẫn cứ đổ thừa cho Chúa. Cứ coi Chúa như vị Thẩm phán, toàn chê trách với giáo dục. Hệt như, vị Giám khảo hoặc Thủ lãnh, luôn cầm cân nảy mực, đánh hỏng rất nhiều người. Hết đánh hỏng, rồi trừng phạt. Hoặc, còn thử thách, thản hoặc mới khích lệ. Thử thách và trừng phạt, thay vì đổi thay kinh tế, mọi người mong. 
Ngược lại, hãy biết rằng: chính ta, chứ chẳng phải Chúa, chịu một phần trách nhiệm về mọi suy thoái, lẫn sầu buồn. Ta biết rằng, qua suy thoái, Chúa mời gọi ta có quyết định trong cân nhắc, mỗi khi giáp mặt suy thoái. Có giáp mặt đối đầu, ta sẽ nhận ra là: cuộc sống vui tươi hạnh phúc, sống với nền kinh tế thịnh vượng, vững chắc chỉ dựa vào niềm tin, mà thôi. Đồng thời, ta cũng nhận ra rằng: “tham-sân-si” là yếu tố làm yếu mềm đi mọi tương quan người đời, ta có từ trước. Và, tương quan ta với mọi người, dù vào lúc suy thoái hay đang sung túc, ta vẫn tuỳ thuộc vào nhau. Lẫn nhau. Tuỳ thuộc và thấy được rằng: khi có cơ hội làm giàu, phải nhớ rằng: mọi khôn ngoan dẫn đến thành công, đều từ Chúa. Do Chúa, thôi.
Kinh nghiệm suy thoái, còn là dịp để ta về với giá trị của mọi giản đơn. Trị giá. Chất lượng. Của lòng khoan dung, độ lượng. Kinh nghiệm về suy thoái – khôn khổ - sầu buồn, vẫn là dịp để giúp ta về với Kinh Sách, có ánh sáng đến từ các kinh nghiệm đó chiếu rọi. Có thế, ta mới gặp Chúa, Đấng luôn khuyến khích, hết mọi người. Có Chúa đỡ nâng vào khi suy thoái, ta sẽ thấy mình bị thử thách nghiêm trọng. Quá sức mình. 
Nghiêm trọng và quá sức mình, ở chỗ: suy thoái sẽ huỷ hoại lòng can đảm, của riêng ta. Nhưng tất cả, là để thử nghiệm tình thương yêu ta vẫn có, với mọi người. Suy thoái, có thể gây nản chí, lo âu. Có thể, là vị giám khảo đối xử gắt gao với tinh thần và tâm tính, của ta. Nhưng cho dù như thế, Đức Chúa vẫn có mặt trên các chặng đường suy thoái, tuy gắt gao. Đòi hỏi. Rất nản chí. Nhưng, Chúa vẫn có mặt bên ta như người bạn. Để uỷ lạo và nâng đỡ, ngõ hầu ta đừng bỏ cuộc.  
Gặp Chúa, qua suy thoái, ta sẽ nhận ra được lời Ngài mời gọi, để tạo mô hình cho nền kinh tế, khấm khá hơn. Gặp gỡ Chúa, Ngài khuyến khích mọi người từ bỏ lòng tham, vẫn nằm sâu trong tâm can. Ngài khích lệ mọi người hăng say hoạt động, hầu tạo tác niềm hưng phấn tốt đẹp, cho mọi người.
Gặp gỡ Chúa ngang qua suy thoái, ta sẽ thấy được Ngài hiện diện, ở khắp nơi. Ngài ở với ta, nhưng không đè bẹp nền kinh tế cho thoái hoá. Và, cũng chẳng làm ta nản lòng. Ngược laị, Ngài cùng ta phấn đấu đứng thẳng người, mà thiết lập một xã hội trật tự. Đầy sướng vui. Hạnh phúc. Hạnh phúc, là Ngài cùng với ta từng trải cả vào khi ta lúng túng, lúc suy thoái. Khổ đau. Mệt phờ. Ở cùng ta, Ngài giúp ta định hình ra nền kinh tế, thích hợp hơn. Kinh tế do Ngài định, sẽ đỡ nâng hết mọi người. Khuyến khích mọi người quyết đổi thay. Đổi, để đường lối dựng xây thế giới mới, sẽ tốt đẹp.  
Nhìn vào Đức Giê-su, ta thấy được diện mạo của Thiên Chúa, đến ở cùng. Thấy rằng, Ngài vẫn dạy ta cách sống sao cho xứng hợp. Sống, một đời sống sinh động nhờ vào lời Chúa. Sống cùng và sống với Con Thiên Chúa, Đấng vẫn đồng hành với ta, suốt đường đời. Ngài cùng ta tiến vào nơi tăm tối. Không nản lòng. Cùng bước với Chúa, ta sẽ nhận ra đâu là thực tại suy thoái. Thống khổ. Sầu não. Để rồi, bằng sự vui sống với Ngài, ta sẽ trỗi dậy từ cõi chết, chốn suy thoái. Rất kinh bang tế thế. 
Từ nơi Chúa, ta nhận ra được cuộc đầu tư sâu đậm của Thiên Chúa với con người. Đầu tư êm ái. Có tình Chúa đồng hành, ta sẽ lướt thắng chuỗi ngày khó khăn. Cực nhọc. Có đồng hành, ngang qua suy thoái, ta được Chúa trao ban hy vọng, để biết rằng: suy thoái không thể và không bao giờ là đoạn kết, hết chuyện. Khổ đau – sầu muộn - suy thoái, vẫn chỉ là giai đoạn. Có Chúa. Có anh em đồng hành, ta có nhiều cơ hội để sống cuộc sống đúng nghĩa hơn. Sống hiên ngang, nhìn về phía trước có tương lai khởi sắc. Sáng lạn. 
Sống giờ phút hy vọng, ta lại nghe đâu đây lời ca vang vọng của người nghệ sĩ hôm trước vẫn hát, rằng:
“Em ơi! Quên đi bao nhiêu xót xa
những chiều thiết tha bên nhau
Em ơi! Xin em, xin em nói yêu đương đậm đà
Để rồi ngày mai… cách xa.”
 (Lê Uyên và Phương – bđd)

Ngày mai dù cách xa, có là đáp trả, cho mọi vấn nạn? Như vấn nạn, trong truyện kể ở bên dưới:
“Vợ chồng đạo hạnh nọ, vẫn cố sống đời tốt lành, thanh bạch, dù kinh tế toàn cầu đã và còn đang đi vào giai đoạn suy thoái. Vẫn quyết tâm. Ngặt một nỗi, ông bà dạy mãi, mà hai “ông con” tuổi còn trẻ, nhưng thuộc loại “trời đánh thánh vật”, chuyên gây khổ ải không chỉ với bố mẹ. Mà, đầu làng cuối xóm các cháu cũng không tha. Vợ chồng ông bà đạo hạnh, bèn nghĩ ra một diệu kế, là: đem hai con đến gặp đấng bậc ở nhà thờ, là vị cha cố nổi tiếng răn dạy con em đạt kết quả nhãn tiền. Dù, trẻ nhỏ có phá phách, ngỗ nghịch đến thế nào đi nữa, cũng xong ngay.
Sáng hôm ấy, người mẹ hiền dắt hai con đến nhà thờ gặp vị cha già khả ái rất đấng bậc mà năn nỉ xin cho hai con mình được gia nhập trường Đạo, chốn tu trì. Ông bà vẫn nghe đâu đó cứ bảo rằng: con trẻ nào càng nghịch ngợm, càng dễ làm cha, làm cố Đạo. Cha già khả ái thấy vợ chồng ông bà đạo hạnh chạy đến kể khổ, bèn đồng ý nhận lời hẹn sẽ gặp từng bé một. Đứa lớn 10 tuổi, buổi sáng. Đứa em 8 tuổi, buổi chiều. Gặp đứa lớn, đấng bậc ra lệnh cho em ngồi xuống, ngay ngắn chỉnh tề đâu đấy, rồi hỏi:
-Hãy nói cho ta nghe: Chúa ở đâu?
Thằng lớn nghe hỏi, chỉ biết há hốc mồm miệng, chẳng trả lời. Đức thày bèn quát lớn, hỏi thêm một lần nữa:
-Ta ra lệnh con nói cho biết: Đức Chúa Trời giờ ở đâu?
Lại một lẫn nữa, thằng lớn nghe vậy, cứ ớ người chẳng bảo sao. Khiến đức thày càng nghiêm nghị giơ ngón tay chỉ chỏ vào mặt thằng bé, lại vẫn hỏi:
-Ta truyền cho con phải nói: Đức Chúa Trời, hiện ở đâu?
Thằng con lớn bỗng hét lên thành tiếng, ù té ra khỏi phòng họp, chạy nhanh về nhà, chui vào tủ áo, đóng rầm cửa. Thấy thằng anh xử như thế cũng hơi run, thằng em 8 tuổi mon men đến gần thằng anh, rồi hỏi:
-Ông ấy hỏi gì thế?
-Lần này nguy to rồi chú mày. Tượng Chúa biến đâu mất, nào ai biết, thế mà các cụ lại cứ nghi ngờ anh em mình làm chuyện đó, có chết không…
 
Chúa đâu rồi? Ngài ở đâu? Vẫn là hạch sách/vấn nạn, ai cũng hỏi. Câu hỏi, xuất từ miệng người đau khổ, lẫn cha cố. Hỏi đi hỏi lại. Liên hồi. Bất tận. Mọi người đều hỏi, mỗi khi gặp trục trặc. Suy thoái. Sầu khổ. Gặp thiên tai/sầu khổ hay có đời sống lai rai thoải mái, vẫn cứ hỏi. Hỏi hoài, hỏi mãi. Hỏi không thôi. Hỏi như thể, có bao giờ tìm ra câu trả lời, từ ai đó? 
Hôm nay, vào lúc có nhiều người hỏi, xin mạo muội gửi đến mỗi người, bạn cũng như tôi, để rồi ta cùng tìm ra câu giải đáp, ở đâu đó. Cũng rất gần.

Trần Ngọc Mười Hai
cũng có những câu hỏi
khi kiếm tìm
một niềm tin.
Rất mới.    



43. “Như hoa đem tin ngày buồn”
Như chim đau quên mùa xuân
(Lê Uyên và Phương – Tình khúc cho em)

(Mt 11: 29)
Ngày tháng đó, có người anh/người chị hát lên bài “Tình khúc cho em”, những ngày buồn. Tình khúc những ngày buồn, còn là tình tự của người anh, người chị thân thương, vương vấn chốn nhà Đạo rất thánh. Và, cũng rất đạo. Ở Đà Lạt. Đà lạt, ngày tháng đó, là ngày bọn tôi mấy đứa, lấm la lấm lét, ngồi thưởng thức giòng chảy thân thương của nhạc buồn, ngày tháng lạ. Cả vào mùa Đông.
Giòng nhạc ấy, đã có lúc đưa đẩy bọn tôi về với ý/lời, của câu thơ:
“Xin cho thương em thật lòng,
xin cho thương em thật lòng.
Còn có khi lòng thôi giá băng…” 
(Lê Uyên và Phương – bđd) 

Cứ bỏ qua một bên, những cụm từ anh và em/em và tôi để rồi ta sẽ thấy, những tôi và em ấy vẫn cứ là người bạn thân thương, thuở thiếu thời. Thuở, có tấm lòng “thôi giá băng”, rồi hát tiếp:
“Cho tôi yêu em nồng noàn!
Cho tôi yêu em nồng nàn!
dù tháng năm buồn vui, bàng hoàng.”
(Lê Uyên và Phương – bđd) 

Quả rất đúng. Trong quá trình sống yêu thương, vẫn có những ngày “buồn vui/bàng hoàng”, khiến bạn và tôi, ta thẫn thờ/hờ hững với những mối tình bàng hoàng, của người anh người chị mà hôm nay, ta gọi là “thánh”. Ở chốn dân gian.
Bởi, chốn dân gian hôm nay, rất nhiều trường hợp, có người trẻ vẫn cứ ôm bom lăn xả vào chốn phồn-hoa-đô-hội có địch thù hoặc tình thù xao xuyến ấy, để phá rối cuộc sống đi đạo khác phái, khác kiểu của mình. Gọi họ là cực đoan. Khùng điên. Ngoan cố. Cũng tuỳ nơi. Tuỳ chỗ.
Với đạo Hồi, thế giới của những người chuyên thần tượng hoá đám trẻ -đa số là trai chưa vợ-  vẫn có khuynh hướng coi họ là các thánh “tử vì đạo”. Cho đạo. Nói nôm na, ta bảo: họ chết là chết cho thần linh thánh ái. Đấng mà nhà Đạo của ta gọi là Đức Chúa. Tức, Chúa Tể mọi loài, trong hoàn vũ. Và, người đạo Hồi, lại gọi ngài là Đức Thánh Allah. 
Với thế giới đạo Hồi, ôm bom vào chỗ chết, tức vào lòng đạo cực đoan của quân phản thần/hại thần như thế, để được gần Đấng Allah rất thánh, rồi sẽ làm thánh. Thánh “tử vì đạo”. Cho đạo. Với Kitô-hữu, cũng có người lại chọn hình thức chết-cho-chính-mình, kiểu khác. Tức, chết cho thói tật, nhưng xác thịt vẫn cứ sống. Sống chuyên chăm, chốn tu trì. Chỉ để trở thánh thánh nhân. Như, động thái của vị thánh bổn mạng của gia đình lành thánh, các bà mẹ, là thánh Giêrađô Magella, Dòng Chúa Cứu Thế, cũng hơn một lần xác quyết: “Chào mẹ, con đi làm thánh đây!”
Xem như thế, thì làm thánh hoặc thành người lành thánh, mang ý nghĩa cũng lành và rất thánh. Rất thiện. Còn nhớ, có lần cô giáo một trường nhỏ, lên tiếng hỏi học sinh trong lớp: xem các em hiểu về chữ “thánh”. Thế là, chẳng kịp mở tự điển/tự vị ra, các em đã thi nhau phát biểu:

-Anita, 8 tuổi: Làm thánh giống như thiên thần, chẳng lấy vợ. Chẳng muốn có con. Cứ ở vậy!
-Jo, 7 tuổi: thánh, là người điên, tối ngày lầm rầm đọc kinh liên miên, không mỏi mệt!
-Beth 10 tuổi: Thánh là như mấy cha ở nhà thờ, tối ngày chỉ giảng đạo và xin tiền!
-Maria 9 tuổi cũng xin nói: Theo em, thánh là người hiền lành, ít nói, ai cần gì đều giúp ngay…

Ôi chao! Có hỏi thêm, hoặc trích dẫn nhiều, cũng không sao kể hết được các ý kiến đa dạng về: đấng thánh hiền. Bởi thế nên, nay xin bạn và tôi, ta cứ tầm nguyên xem xét, hẳn sẽ thấy. Thấy, là thấy rằng: đấng thánh hiền/hiền lành và rất thánh, chỉ là các đấng được nghệ sĩ trên định nghĩa:
“Vì, đâu mê say phồn hoa
như áo gấm sáng lóng lánh
ôm rách nát không tâm linh,
ôm tiếng hát, không hơi rung, nghèo nàn! “ 
(Lê Uyên và Phương – bđd) 

Thật ra, không phải thế. Lời nghệ sĩ, chỉ là lời kể, về tâm linh người anh người chị đã từng sống với tâm linh. Nay linh hiển chốn trên cao. Tự hào. Sáng chói. Sự thật, về các đấng lành thánh rất hiển linh, là các đấng hy sinh đời mình. Có tâm linh. Đức độ. Thân thương nhiều bề. 
Với nhà Đạo, sống tâm linh lành thánh là trở nên quà tặng phô triển và trao ban cho người khác. Trao ban, để tạo sức sống cộng đoàn. Sống như các vị thánh trong Hội thánh, từng hấp dẫn dân con về với Chúa, qua cung cách sống theo Lời Chúa. Sống theo đường lối có Chúa đổi thay con người mình. Chẳng thế mà, khi chúng nhân nhìn vào nhà Đạo, họ đều hân hoan thấy rõ, sao Chúa làm điều kỳ lạ, cho nhà Đạo. Chẳng hạn như câu nói cửa miệng ta nghe nhiều, vẫn là: “kìa ra mà xem, người Công giáo họ yêu thương nhau. Đoàn kết biết chừng nào!”
Người ngoài Đạo vẫn cảm và kích cung cách sống của người Công giáo. Chí ít, là khi họ bị cấm cách. Bắt bớ. Hành hạ. Như các vị chết vì Đạo, thời xưa cũ. Gương sống lành thánh của các vị sống chết cho Đạo nay tuy không thấy nhiều, ở xã hội duy vật này nữa. Nhưng, gương sống của các vị lành và thánh ấy vẫn tồn tại. Mãi mãi. Gương, là gương hy sinh mọi sự cho mọi người. Gương sống của các vị như Mahatma Gandhi, Têrêxa Calcutta. Và nhiều nữa. Ở mọi nơi. Mọi thời.
Gương lành thánh của chúng nhân hôm nay, được thể hiện qua cung cách lôi cuốn mọi người về với niềm tin đi Đạo. Cung cách sống được thể hiện qua đời sống thường nhật. Nơi phố chợ. Ở sở làm. Hoặc, ở ngay trong nhà. Với Giáo Hội thời ban sơ, thì gương lành thấy rõ nhất là cộng đoàn tín hữu được gọi là Hội (của các) thánh, do việc các ngài đưa mọi người về cùng Chúa. Sống với Chúa.
Chuyện nêu gương lành như thế, sao gọi đó là “Như hoa đem tin ngày buồn”, rồi còn hát:
“Thương em khi yêu lần đầu
thương em lo âu tình sau
dù gương xưa không được lau…” 
(Lê Uyên và Phương – bđd) 

Không. Gương xưa vẫn được lau. Lau rất kỹ, nên nghệ sĩ mới hát câu:
    “Cho tôi yêu em nồng nàn
cho tôi yêu em nồng nàn
dù biết yêu tình yêu muộn màng.” 
(Lê Uyên và Phương – bđd) 

Quả có đúng. Tình yêu tuy muộn màng, nhưng vẫn là yêu. Yêu nồng nàn. Tha thiết. Và, da diết đến độ “dù tháng năm buồn vui bàng hoàng.”  Buồn vui hôm nay, tuy không còn bàng hoàng, hoặc ngỡ ngàng. Nhiều năm tháng. Nhưng vẫn là tình yêu. Tình lành thánh. Của thánh nhân. Ân cần. Kiên định. Yêu như Đức Chúa yêu nhân trần. Yêu như người trần, cần yêu Chúa. Tình lành thánh ấy, vẫn thấy lộ diện ở nhiều nơi. Trên thực tế. Chốn văn thơ. Âm nhạc tình tứ, như sau:
“Nếu anh biết lần đó là lần cuối,
được nhìn em trong giấc ngủ mê say,
hẳn là anh đã ôm hôn thật chặt,
để rồi xin Chúa giữ hồn em.
Nếu biết rằng, lần đó là lần cuối 
thấy em cất bước đi khỏi hiên nhà,
hẳn là anh đã ôm hôn một từ giã
gọi em lại để được mãi ôm hôn.

Nếu anh biết lần đó là lần cuối
nghe giọng em cất tiếng ngợi ca,
hẳn là anh đã thu băng ghi từng lời,
Để nghe mãi suốt quãng đời còn lại.
Nếu biết rằng, lần cuối đó gặp em
hẳn là anh đã ở lại thêm vài phút,
để dừng lại anh nói lời “yêu em”,
vẫn chẳng nghĩ rằng em đã chợt biết.
Nếu ngày mai ấy chẳng bao giờ đến nữa 
và những gì anh hiện có hôm nay,
sẽ tha thiết nói lời “yêu em lắm”
và hy vọng anh mãi chẳng còn quên. 
Ngày mai ấy, chẳng khi nào hẹn ước
cho riêng mình, cho cả riêng ai 
trẻ/già, trai/gái cơ hội cuối,
vẫn ghì chặt người anh tha thiết yêu.

Nếu ai từng mong đợi ngày mai ấy,
sao không từng tha thiết với hôm nay?
ngày mai ấy chẳng bao giờ đến nữa
để ta cùng luyến tiếc ngày hôm nay…
Ta không dành thêm thời gian nữa
để trao tặng nụ cười, vòng tay ấm
nụ hôn tròn, quá bận nên lặng quên
quên ước nguyện, người thân vẫn trông chờ.
Xiết chặt hơn, hỡi người anh dấu yêu
cứ thì thầm bên tai người yêu nhỏ,
rằng anh yêu, yêu mãi thiết tha nhiều
giữ trong lòng, ảnh hình của người thân.  
Rồi nói mãi, những lời “xin lỗi” ấy,
lời “cảm tạ”, và cả lời nói “yêu em” 
Bởi, mai ngày ấy, chẳng bao giờ đến,
để ta còn nuối tiếc, chuyện hôm nay.

Thật ra thì, nuối tiếc chuyện hôm nay, còn là tiếc nuối cơ hội sống lành và sống thánh, như các thánh. Cõi đời này. Hối tiếc nhiều, còn là chuyện quên sót không bám gót nghe theo lời Chúa phán. Ở một ngày. Thời hôm ấy. Có lời phán bảo, từ Đức Chúa, Đấng Hiền Lành và thánh thiện dường bao. Như sau:
“Hãy học với Tôi, 
vì Tôi có lòng hiền hậu 
và khiêm nhu. 
Tâm hồn anh em 
sẽ được nghỉ ngơi. Bồi dưỡng."
(Mt 11: 29)  
 
Nói cho cùng, thánh nhân là những vị đã học được nhiều điều từ Đức Chúa rất lành và rất thánh. Học nơi Ngài, sự hiền lành. Thánh thiện. Của người con. Có như thế, người người mới sống quảng đại, lành thánh. Như các thánh. Ở trần gian.

Trần Ngọc Mười Hai
vẫn mong rằng 
bạn và tôi
ta còn học được nhiều điều 
ở các thánh.
          
44. “Nhớ tới đêm đầy ánh sáng”
Hương trong gió tràn mênh mang
giây phút như ngừng trôi
tiếng kinh muôn đời..”
(Nguyễn Thiện Tơ /Phi Tâm Yến –Giáo đường im bóng)

(Mt 5: 44-45)
Cũng vào những đêm ngập tràn ánh sáng tươi vui ấy, nhóm bạn đạo bọn tôi không những chỉ thương và nhớ những “hương trong gió tràn mênh mang” mà thôi nhưng còn bảo nhau  hãy “ Nhớ Bạn nghèo”. Bạn nghèo đây, là những người mà bọn tôi chưa một lần quen và biết. Nhưng đã nhớ. Nhớ, vì còn  hình dung ra được cảnh thiếu thốn của các bạn đang còn nghèo. Rất trông ngóng. Ngóng và đợi mọi người ở đâu đó, để mắt ngó và  nhìn. Hầu hy vọng, có được sự giùm giúp. Để cho đời mình bớt điêu linh.
Nhóm “Nhớ bạn Nghèo”, là tốp bạn đạo ở Sydney vốn dĩ là để gặp nhau thể hiện tình thương yêu giùm giúp, bằng hành động phục vụ hăng say. Cụ thể.  Hữu hiệu.   “Nhớ Bạn Nghèo”, là tên của quán hẹn nho nhỏ, vẫn có  những buổi gặp gỡ/họp mặt vào mỗi Chủ nhật, ngày đầu tháng. Gặp và họp, có bạn bè tham gia chuyện trò. Ăn uống. Cười vui. Mãi không dứt. Vui, với tình bạn. Đầy nhiệt huyết. Quyết, thương xót bạn nghèo, ở quê nhà và mọi nơi. Quyết, bỏ công bỏ sức, bỏ cả thì giờ và tiền bạc, để tổ chức một bữa ăn phục vụ bạn hữu xa gần, lấy tiền giúp các bạn còn nghèo. Để, mọi người vui.
Vui “Nhớ Bạn Nghèo”, nhóm đạo hữu Sydney nay không giống như nghệ sĩ ở trên, vẫn muốn hát:
“Thánh giá xa vời lắm, với chuông chiều ngân,
Hồn thánh thót mưa dầm, buồn tới âm thầm.” 
(Thiên Tơ/Tâm Yến – bđd)

Nhóm “Nhớ Bạn nghèo” ở Sydney mỗi lần gặp nhau, nào thấy đâu “thánh giá xa vời lắm”. Cũng chẳng hề “buồn tới âm thầm”, lầm rầm tiếng chuông chiều vẫn cứ ngân. Chẳng bao giờ cảm nhận “giáo đường im bóng”. Mà chỉ thấy những tiếng cười rộn rã, với bạn đời. Ở đây đó. Có lời ru, của nghệ sĩ hát:
“Tiếng Amen đều âm u
Hoà theo gió vàng đêm thu
làm xao xuyến tâm hồn quá
Thời khắc, mơ!” 
(Thiên Tơ/Tâm Yến – bđd)

Vâng. Một khi đã kịp đến với nhóm “Nhớ Bạn Nghèo“,  bạn sẽ bảo: “Thời khắc mơ” hôm nay, là mơ về một tình thân thương mà bọn đạo tôi tìm đến với nhau. Có tình thương. Có nụ cười. Có lòng nhân ái. Mơ về hôm nay một thời có hồng ân, để cảm ơn. Cảm ơn Thượng đế đã phú ban nhiều quà tặng. Chân chất. Thành thật. Xác tín. 
“Thời khắc mơ” hôm nay và mai ngày, là thời của bạn Đạo và người đời, luôn tin vào tình Chúa rất Thánh và rất Linh, vẫn san sẻ với người anh/nguời chị, ở khắp nơi. Ở khung trời có lời kinh đêm, rất cung kính. Xác thực. Nhiệt nồng. Lời kinh đêm hôm nay, lại là lời xác tín của đấng bậc nhà đạo nổi danh về thần học hôm nào, bị tai tiếng. Hiểu lầm. Xa cách. Là, đức thày tên tuổi Karl Rahner rất tin, như bao giờ. Thời khắc mơ, đẹp như bài thơ, ở bên dưới:
“-Tôi vẫn tin, sức mạnh Ngài sẽ xoá bỏ mọi thành kiến, của riêng tôi.
-Tôi xác tín, Ngài sẽ ra tay hoán cải tật bệnh, tôi vẫn 
có.
-Tôi thâm tín, Ngài đánh gục bản chất lạnh lùng 
khiến dửng dưng.
-Tôi tuyên xưng, niềm tin Ngài gợi hứng cho tôi, 
niềm thương xót.
-Vẫn trung kiên, với niềm tin Ngài gửi để cảnh giác,
 về sự ác.
-Vẫn xác nhận, về niềm tin Ngài ban phát tôi nhớ, 
mà làm tốt.
-Luôn tuyên tín, Ngài sẽ phá bỏ mọi nỗi buồn, như 
mưa dầm.
-Luôn khẩn nài, Ngài ban phát cho tôi sự trân quý,
 Lời của Chúa.
-Vẫn tin rằng, Ngài sẽ giũ bỏ nơi tôi cảm giác tự ti, 
vốn rất tồi.
-Vẫn vững lòng, Ngài sẽ bổ sức cho tôi niềm phấn  
phấn, đầy sức sống.
-Vẫn cứ tin, Ngài gửi đến với tôi người anh người 
chị, vẫn đỡ đần.
-Vẫn cứ nhớ, Ngài thấm nhập toàn bộ người tôi, để 
luôn sống.”
 (Lm Karl Rahner)     

“Thời khắc mơ”, là thời để người người vẫn nhớ Lời Vàng thuở trước, có ý thơ: 
“Nếu anh em chỉ chào hỏi anh em mình thôi, 
thì anh em có làm điều gì lạ thường đâu? 
Há người ngoại cũng chẳng làm thế sao?
Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, 
như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện.”
(Mt 5: 47-48)

“Thời khắc mơ”, không chỉ là thời để nhớ đến Lời Vàng của Chúa, mà còn là thời để làm thân làm thiện, với nhau. Với cả người tốt/xấu, như truyện kể xứ người trời Tây , như sau:
“Vị mục tử họ lẻ  rất năng nổ, hôm ấy vẫn thấy lẩn vẩn trong đầu một suy tư không nhỏ, về tình hình tài chánh giáo xứ. Đức thày bèn cầm nhạc bản khá quen đem trao cho nhạc công trẻ tuổi ngồi bên chiếc phong cầm, với lời dặn khe khẽ:
-Đây, bản nhạc này rất quen nhờ anh chơi giùm nhưng chỉ nào tôi nhìn về phía anh và nháy mắt!
-Dạ vâng. Xin tuân lệnh.
Sau bài Tin Mừng vừa đọc, vị mục tử bèn lựa lời phân trần với giáo dân như sau:
-Anh chị em thân mến. Chúng ta vừa nghe đoạn Tin Mừng Chúa nói “Hãy nên hoàn thiện, như Cha trên trời, là Đấng hoàn thiện!”.  Hôm nay, để anh chị em có dịp mà sống cung cách hoàn toàn thánh thiện, tôi xin chia sẻ một ưu tư nhỏ, có liên quan đến tình hình của giáo xứ, về tài chánh. Đó là: hiện nay, mái ngói nhà thờ bị dột nát. Tượng các thánh bị phai mầu, gãy mẻ. Biên lai tiền điện, tiền nước, hiện giáo xứ thiếu hụt những 4 ngàn đô. Nay, xin bày tỏ cho anh chị em như thế này: bình thường ra, anh chị em chỉ bỏ tiền nhà thờ nhà xứ có năm, mười đô khiêm tốn cũng đã tốt, nhưng nay tôi đề nghị ta tăng số tiến ấy lên chút đỉnh. Tức là, thay vào đó ta đặt vào giỏ tiền tờ giấy 50 hoặc một trăm, cho rôm rả. Chúa sẽ trả công bội hậu cho anh chị em. Vậy, anh chị em nào hăng say tình nguyện làm như thế, xin đứng lên cho mọi người được thấy khuôn mặt “hoàn thiện”, lành thánh không?
Ngay lúc ấy, vị mục tử nhìn về phía người chơi phong cầm. Và bản “quốc ca” quen thuộc được trổi lên, rất hùng hồn. Lớn tiếng. Nghe thế, tất cả mọi người đều cùng đứng rất nghiêm trang. Và vì phải đứng chào cờ nên chẳng thấy ma nào rút bóp ra được…”

Mọi người bất chợt vùng đứng. Và hân hoan với bài quốc ca rất hoành tráng. Nhưng, quả thật chữ “nhưng” đây mới thật bất toàn . Nhưng, nghĩa là đã bày tỏ được sự hoàn thiện trong lối sống. Nhưng, đó lại là chuyện khác. Hoàn thiện trong lối sống có “thời khắc mơ”. Cảm thông với người nhà Đạo, ở đời. Cảm  thông, cả về tình hình đi Đạo. Và giữ Đạo. Trong năm tháng. 
Cảm thông  cả vào lúc có thắc mắc, có hỏi han những câu hóc búa. Khó trả lời. Câu trả lời “thời khắc mơ”, là biết thông cảm những gì các đức thày giảng vẫn giảng và sống. Giảng, về khuôn phép, nhà Đạo. Sống, bậc chân tu. Mọi lúc. Nhất là lúc, có những thắc mắc/hỏi han, ở đâu đó. Như hiện thời:
“Tôi có thắc mắc nhỏ xin hỏi, là: sao ta vẫn tự hào với lối sống hoàn thiện trong Đạo, nhưng đọc Kinh Thánh, tôi lại thấy có những tập tục rất ư là khó nói. Theo tôi, tập tục ấy là thành phần trong luật của người Do Thái ghi trong Cựu Ước, nhiều khi thiếu đạo đức. Nghe thấy ngại. Chẳng hạn như: chuyện Giavê Thiên Chúa  tha thứ cả những hành động hoặc thói quen không tốt lành như: đa thê, lăng loàn v.v.. Rồi Ngài lại trừng phạt giết cả một xã phường thành phố, chỉ vì tội lỗi của một số người. Chúa làm thế, sao ta có thể thanh minh biện hộ được ? (Người hỏi không ghi tên) “ 

Sống thông cảm và hoàn thiện “thời khắc mơ”, là cuộc sống có cả các đức thày rất cảm thông với ưu tư/thắc mắc của nhiều người. Nên đức thầy chẳng ngại ban bố câu trả lời, rất như sau:
Một nguyên tắc nền tảng, mà bà con mình nên để trong đầu, là: Thiên Chúa mặc khải Sự Thật về Ngài, theo cung cách tiệm tiến. Rất từ từ. Có nghĩa là, Ngài luôn quan tâm đến yếu tố thời gian, tức đúng thời đúng buổi, để dân con của Ngài có thể thực hiện Lời Dạy đó trong đời sống.
Vì thế nên, ta thấy luật phép/luân lý do Đức Giêsu rao giảng, không hoàn toàn tán dương lề luật căn bản mà Chúa phú ban cho dân Ngài ngang qua Môsê, cả 1200 năm trước đó. Ta thấy rõ điều này trong Bài Giảng Trên Núi, tức những điều Chúa dặn người nghe hãy suy nghĩ cho kỹ về những gì Luật Xưa nhắc đến. Và khi ấy, Chúa ban cho họ luật phép của chính Ngài. Luật của Ngài mang tính cách tích cực và đòi hỏi nhiều hơn nữa. (x. Mt 5: 17-48).
Luật pháp và phép sống Chúa ban, đòi hỏi nhiều hơn, là vì chúng dân Do thái mất nhiều thời gian để kinh qua chuỗi ngày nhận lệnh của tổ phụ Môsê hầu am hiểu hơn về mối tương quan giữa họ và Giavê Thiên Chúa. Họ mất rất nhiều thời gian mới hiểu được đời sống có luân lý, cho chính mình. Đặc biệt hơn, Luật Mới của Chúa đem đến cho mọi người các ơn lành bí tích rất nhiệm mầu, hầu giúp họ kiện toàn lề luật, mà tuân giữ.
Đồng thời, ta cũng nên nhớ rằng Luật Xưa do Môsê đưa ra, cũng na ná giống rất nhiều tập tục luân lý/đạo đức của các dân tộc sống chung quanh, vào thời đó.
Về khía cạnh đặc biệt của Luật Xưa, một nguyên tắc xem ra có hơi khe khắt, đó là sự trừng phạt sẽ được áp dụng, nếu như ta tạo thương tích cho người khác. Lề luật Chúa có ghi rõ nơi sách Xuất hành: ”Nếu có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy mạng đền mạng,24 mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân,25 vết bỏng đền vết bỏng, vết thương đền vết thương, vết bầm đền vết bầm.” (Xh 21: 24-25)
Nguyên tắc quân bằng giữa trừng phạt và tội ác thật ra là sự trừng phạt còn nặng nề hơn được các dân tộc ở Trung Đông sử dụng vào thời của Môsê nữa. Các dân tộc lúc ấy bị lôi cuốn vào tinh thần phấn kích quyết phục thù trong mọi trường hợp, vì thế nên, họ thường trả đũa bằng các trừng phạt nghiêm trọng hơn lỗi phạm ngay tận gốc. Làm như thế, để nguyên tắc quân bằng trong lề luật của Môsê mang tính cách nhân đạo hơn.
Ở bài Giảng Trên Núi, Đức Giêsu phẩm bình về lề luật “mắt thế mắt/răng thế răng” và Ngài hối thúc dân con nghe Ngài dạy, hãy đi xa hơn thế nữa, bằng cách đưa má cho người ta vả (x. Mt 5: 38). Và: hãy yêu thương kẻ địch thù của mình nữa (x. Mt 5: 43-45).  
Một ví dụ khác chứng tỏ tập tục dã man phi luân lý thấy rõ lòng ước muốn gây tai hại cho những ai thù ghét Chúa hoặc xúc phạm đến dân con của Người. (x. Tv 35: , 55: 15, 83: 9-18). Thái độ như thế vẫn xa vời cách chia tình thương và lòng thứ tha mà Chúa rao truyền, phải được coi như lòng ao ước muốn Thiên Chúa đầy lòng chính trực sẽ phải trừng phạt kẻ tội lỗi. Trừng phạt mà họ mong muốn, thông thường là những sự dữ/ác độc, không hẳn là sự độc ác linh thiêng về xử phạt vào đời sau.
Việc cho phép ly dị có điều kiện nghiêm nhặt là một ví dụ khác về luật luân lý không phù hợp với lời dạy của Đức Giêu (x. Mt 19: 3-9). Nhưng, ở đây nữa, luật này cũng dọi lại tính vô luân của các dân tộc sống ở vùng phụ cận, miền Trung Đông. Luật Môsê, thay vì cho phép mọi người được ly dị, lại chỉnh sửa việc áp dụng lề luật ấy. Tức là, muốn đi đến ly dị, cần phải trưng dẫn lý do thích đáng như ngoại tình, cần có giấy ly thân do cơ quan có thẩm quyền cấp phát. Tệ hơn nữa, người chồng một khi đã ly dị vợ, sẽ chẳng bao giờ chịu để cho người đàn bà ấy trở về làm vợ mình nữa. Do đó, anh ta buộc lòng phải cân nhắc/đắn đo, trước khi quyết định tiến tới ly dị vợ mình (x.ĐNL 24: 1-4). Đạo luật như thế là để bảo vệ thế đứng của người nữ, vào thời ấy.
Về tục lệ đa thê, lề luật Môsê không cho phép cũng chẳng cấm đoán chuyện này. Nhưng, theo cách nào đó, hạn chế chuyện ấy rất nhiều. Nếu ta so với tục đa thê tràn đồng ở các dân tộc sống chung quanh. Ví dụ, vua chúa thời ấy đều bị cấm chuyện “năm thê mười thiếp, kiếm cho mình (x. ĐNL 17; 17). Và, các thượng tế cũng chỉ lấy có một vợ mà thôi (Lv 21: 13-14).
Trong nhiều trường hợp, Thiên Chúa cũng miễn trừ cho dân người nhiều thứ luật có liên quan đến lề luật tự nhiên như Người vẫn làm ở đây, có thể do xã hội thời đó cần nhiều con cháu để nối dõi tông đường, và gia tăng dân của Người. Khi hạn chế chuyện đa thê, Luật Xưa vẫn từ từ chuẩn bị chấp nhận chuyện một vợ một chồng do Đức Giêsu truyền dạy.
Còn về chuyện phá huỷ toàn bộ thị thành có dân con sống trong đó như được kể trong sách Dân số đoạn 21: 2-3, Đệ Nhị Luật 7: 1-5) có thể nên coi như cung cách Giavê Thiên Chúa giáng phạt dân tộc ngoại bang vì các lỗi lầm họ mắc phải. Cũng như, để tránh cho dân Do thái bị lây truyền căn tính thích thờ ngẫu thần, cũng như thực hành các tập tục phi luân lý, khác.” (x. Lm John Flader, The Catholic Weekly 29/11/2009 tr.10)

Nói cho cùng, thì tập “khó nói” hoặc rất lạ kỳ ở xứ miền thiếu nhiều văn mình thời xưa cũ ấy, cũng chỉ là biểu tượng/biểu trưng để nói lên ý định của Thiên Chúa, với con dân của mình. Giả như người đặt câu thắc mắc ở trên có con có cháu đầy đàn, tràn lan sống đây, chắc hẳn cũng muốn cho con cháu mình sẽ không sầu buồn, hát lời ca đầy ai oán, ở câu kết:

“Tôi tiếc thương thời tươi sáng trôi cùng năm tháng.
Trí óc âm thầm nhớ mắt nàng huyền mơ.” (Thiên Tơ/Tâm Yến – bđd)

Mắt nàng huyền mơ hay bàng hoàng ở đâu đó, chắc vẫn là mắt, là hồn linh thiêng của hội (rất) thánh, sống mọi thời. Chí ít, là thời buổi có những tháng những ngày người thường ở huyện dân gian vẫn cứ tìm thần với tượng, ở “giáo đường im bóng”, hằng trông ngóng. Trông và ngóng, hạnh phúc miên triền. Ngóng và trông, nỗi niềm bình an, Chúa hứa ban cho người người. Ở mọi nơi.

Trần Ngọc Mười Hai
vẫn nhớ và vẫn tìm
những giáo đường còn im bóng
để lặng câm
mà nguyện cầu.
     

      
       
45. “Tôi yêu, những gì đến tự nhiên”
Những câu nói thành thật 
Và yêu ngày nắng. 
Tôi yêu mặc Jean và áo trắng 
yêu trăng sáng ngày rằm. 
Và tôi cũng yêu em…”
(Đức Huy – Và Tôi Cũng Yêu Em)

(Mt 19: 14)
Có người bảo, yêu theo kiểu nghệ sĩ Đức Huy, đâu nào khác gì các vị “cư sĩ quy y” lấy pháp danh là “Thích Đủ Thứ”, đâu. Méo mó nghề nghiệp hơn, nhiều dịch giả/dịch thiệt còn đố nhau làm sao dịch được chữ “yêu” ở trên, qua Anh ngữ. Cho đúng cách. Nếu dịch là “I love”, cũng không chuẩn cho lắm. Dịch là “I like”, thì chỉ đúng với phần ở trên, thôi. Rồi bảo rằng: “Và tôi cũng yêu em” thành “I like you, too.” hẳn đối tượng mà tôi yêu sẽ cho đi tầu suốt, chỉ cái một.
Nói về “yêu”, ban The Beatles từng viết một nhạc bản khá nổi tiếng, chuyên dùng từ “Love” suốt từ trên xuống dưới, đại khái thế này:
“Love  love  love  love  love  love  love
All you need is love…”
“Yêu, yêu, yêu! Điều mọi người cần, tất cả chỉ là 
Yêu”. 

Quả có thế. Cần người hay cần tiền, ta đều nói chữ “yêu”. Yêu người. Yêu tiền. Từ ngữ “yêu” ở đây, đã rơi vào một trong các phạm trù mà giới nhà Phật gọi là “tham, sân, si” nghe qua, thấy kỳ. 
Nhưng thôi, giờ hãy về với Đức Huy, để nghe thêm:   
“Tôi yêu hương vị Tết ngày xưa
mái tranh với hàng dừa
và yêu trẻ thơ…”
(Đức Huy – bđd)

Yêu trẻ thơ, có là tất cả những gì mà bạn và tôi cần đến, hay không? 
Yêu trẻ thơ, có là tình tự của những “tham, sân, si” mà bạn và tôi, ta cần tránh? 
Lại nữa, “yêu trẻ thơ” có là tình thân thương nhà Đạo, như Chúa nói:

  “Hãy để trẻ nhỏ đến cùng Tôi,
vì Nước Trời thuộc những người như thế.”
(Mt 19: 14)

Nước Trời của trẻ nhỏ, tức: của những người chỉ biết yêu. Yêu thật nhiều. Yêu không hạn chế. Chẳng ranh giới. Không ganh ghét, giận hờn. Bó buộc. Nước Trời của trẻ nhỏ, là thiên đường ở trần gian. Ở nơi đó, người người chỉ biết sống đời yêu đương. Đương yêu. Những người vẫn lập đi lập lại, một lời hát:
“Và tôi cũng yêu em…
Yêu em rộn ràng. 
Yêu em nồng nàn.
  Yêu em chứa chan…” 
(Đức Huy – bđd)

Yêu em, hay yêu anh. Vẫn cứ là yêu. Yêu mọi người. Yêu như lời Thầy vẫn nhắn nhủ:

“Hãy yêu mến người đồng loại, 
như yêu chính mình.”
(Mt 19: 19)

Nói đến “yêu”, người người vẫn thường liên tưởng đến tình thân thương giữa hai người, mà thôi. Hai người, có thể khác phái. Hay, cùng phái tính, như chuyện lạ ở trời Tây. Tức, yêu như người đời thường thấy, ở truyền thông đại chúng, những: báo/đài, truyền hình, sách vở, phim ảnh... Ở nhà Đạo, ta được dạy: hãy cứ yêu. Yêu, hết mọi người. Cả, người đồng loại, lẫn cận thân. Hoặc, cận lân.
Chúa còn dạy: hãy yêu người đồng loại như chính mình vậy. Như thế có nghĩa là, trước khi yêu người khác, hãy yêu chính mình. Yêu chính mình không là việc dễ thực hiện, nếu không có động lực hoặc quyết tâm mang hạnh phúc đến với người khác. Làm, vì người khác. Chứ không vì mình. Cho mình. Bởi, khi đem hạnh phúc đến với người khác, tự mình sẽ thấy an vui. Hoan lạc. Ổn định. 
Yêu người đồng loại, nhiều lúc rất đơn giản. Chỉ một nụ cười. Một vòng tay ôm. Hoặc, chỉ cần nghĩ tốt về người ấy. Gia dĩ, bằng những cử chỉ thân mật, dễ thương. Những chuyện trò. Chào hỏi. Thậm chí, mời nhau đi ăn. Đi nhậu. Xem phim. Văn nghệ. Nhạc hội... Nói tóm, làm bất cứ thứ gì cho mọi người vui.
Yêu như thế, có thể hiểu như lời người nghệ sĩ, vẫn thường hát:
“Tôi yêu, đi bộ dưới hàng cây
đấu vui với bạn bè
và ly rượu ngon..
tôi yêu, trong nhà nhiều cây lá
tôi yêu những người già.” 
(Đức Huy – bđd)

Yêu đi bộ. Thích đấu láo, vui vẻ. Với bạn bè, là chuyện dễ làm. Còn bảo rằng, tôi yêu những người già, là chuyện ít được nghe. Ở thời này. Bởi, người già thời buổi này, đang chết dí ở xó xỉnh nào đó, hoặc ở nơi được gọi là viện dưỡng lão. Đang lang thang đó đây, với cây gậy. Chứ nào được ai yêu. Yêu ai. Có cụ còn bị con cháu bỏ mặc, hoặc bóc lột như các truyện kể, trên báo. Ở quê nhà.
Có một sự thật não nùng, là: người người không thể nói dối, hoặc chối quanh được là người trẻ hoặc nghệ sĩ thời bây giờ “yêu”/thích đấu vui với bầu bạn bên ly rượu, hơn là la cà bên những người già. Chí ít, là các vị đã lùi về dĩ vãng. Hơn, là tương lai. Lùi về thời vàng son, âu yếm ấy. Chứ làm gì có chuyện như được người nghệ sĩ nói ở trên. Bởi, yêu rồi thì lui tới. Hỏi han!
Người trẻ bây giờ, có yêu thì cũng chỉ yêu có mỗi môi trường vui chơi. Sôi động. Nhẩy nhót, có thuốc lắc. Có ê a ba câu hát hò. Như nhà thơ họ Trần từng xưng thú:
“Một trà, một rượu, một đàn bà,
ba thứ lăng nhăng, nó quấy ta.” 
(Trần Tế Xương – Ba Thứ Lăng Nhăng)

Chứ, nào đã mấy ai nhớ được lời dặn dò của Chúa, mà tuân giữ:

“Đây là điều răn của Thầy: 
anh em hãy yêu thương nhau 
như Thầy đã yêu thương anh em.”
(Yn 15: 12)

Yêu nhau như Thầy đã yêu, là yêu cả cái tính hư tật xấu của nhau. Yêu, không để làm lợi cho bản thân. Yêu, không cốt làm bàn đạp, cho mình thăng tiến. Yêu như Thầy yêu, là Tình yêu có nhịn nhục. Biết hy sinh. Yêu, vì người khác. Cho người khác. Không thể nói chữ “Yêu”, khi chỉ muốn mọi sự tốt đẹp đều quay về mình. Còn, người khác, chỉ là cỏ rác. Đáng, bỏ vào xọt. Không thương tiếc.
Yêu như Thầy đã yêu, là biết kính trọng người khác. Không coi họ như thùng/xọt để ta trút vào đó mọi giận hờn. Ghét ghen. Bực bõ. Nếu quả tình, ta quyết “yêu như Thầy đã yêu” mình, hẳn ta sẽ đối xử với người khác, bằng cả sự tôn trọng, phải có. Đối xử cách công minh. Chính trực. Đối xử, như người tử tế. Có tư cách. Không phân biệt trong đối xử. Không cho mình quyền phán xét kẻ khác. 
Đối xử có tư cách, là biết nói lời “Xin lỗi!” khi ta “chạm nọc” người khác. Khiến người ấy thấy đau. Cả vào khi, mình cứ nghĩ là mình không cố ý làm cho người khác buồn. Không làm họ yếu thế. Bị coi rẻ. Hoặc, hờn căm.
Yêu nhau như Thầy đã yêu, là yêu vô điều kiện. Là, có quyết tâm thực hiện điều tốt đẹp, cho người khác. Vì người khác. Yêu như thế, là mặc lấy cho mình cái tâm trạng luôn hiểu rằng người khác ấy cũng hay ho, tốt lành và tài giỏi như mình. Có khi còn hơn mình nhiều. Sở dĩ người ấy chưa đạt được mức độ như mình đạt, là vì họ chưa có cơ hội. Hoặc, vì mình chèn ép. Nên, chưa gặp thời. Chưa có điều kiện để phát triển cái hay, cái đẹp. Như mình. 
Đi đến cùng, phải nói rằng: cái hay cái đẹp mình đang có, chính ra là của người khác. Vì cơ duyên nào đó, cái hay và cái đẹp ấy bị để mất, hoặc lấy đi. Nay, vào tay mình. Ở với mình. Thế thôi. Nào do mình tài cáng, tạo ra nó. Bởi, tất cả đều là ân huệ, từ Chúa. Mà thôi.
Yêu như Thầy đã yêu, còn là tình yêu của trẻ. Trẻ thơ thấy gì cũng lạ. Cũng hay. Thấy thích. Chỉ muốn biết. Sờ chạm. Chẳng bao giờ coi những thứ đó, do mình tạo ra. Và, đối tượng của tình trẻ nhỏ, có khi là vật thể. Có khi là bản thể người. Luôn bao hàm điều hay/lẽ phải, và nét đẹp của vật thể ấy. Chủ thể nọ. Dù vật thể ấy/chủ thể nọ, có méo mó xẹo xọ. Hoặc, nghèo túng yếu hèn đến mấy đi nữa, vẫn cứ yêu. Cứ thích.
Yêu như Thầy đã yêu giống như trẻ nhỏ, là: không xen vào chuyện tư riêng của mỗi người. Chẳng bắt buộc vật ấy/bản thể ấy tuân theo ý mình. Chẳng cần biết bản thể ấy có thành công, hay thất bại trên đường đời. Lần nào chưa. Và, dù gì nữa, vẫn cứ coi đối tượng của mối tình luôn xứng đáng với tình yêu của mình. Yêu như trẻ thơ, là thứ tình bao quát. Độ lượng. Không kỳ thị. Chẳng phân tích. Không phân biệt đối tượng. Chẳng cần biết đối tượng ấy thấp hèn/ cao sang hoặc tốt/xấu ra sao.
Cuối cùng, yêu như tình yêu của trẻ nhỏ, dẫn ta về gần “Thiên Chúa của Tình Yêu”. Về với Tình Yêu (viết hoa), là Đức Chúa. Yêu như thế, đổi mới toàn bộ con người của ta, là kẻ đương yêu. Luôn yêu đương. Yêu, cả tâm hồn lẫn phần linh thiêng cao quý nhất. 
Đó, còn là ý nghĩa của bài ca, được nhiều người biết, vẫn hát rằng: 

“Tình yêu thay đổi hết mọi sự
từ bàn tay đến diện mạo, trái đất đến bầu trời
Tình yêu nay thay đổi hết tất cả,
Cả lối sống, ta hoạch định; cả cái chết ta chấp nhận
Tình yêu, đã khiến mùa hạ bay đi,
Khiến đêm thâu được ví với cuộc đời
Vâng. Tình yêu thay đổi hết mọi sự
Làm ta run rẩy trước tên người
Chẳng có gì tồn tại như xưa nữa, bởi..
Tình yêu, nay thay đổi hết mọi sự…” 
(Michael Ball – Love changes everything)

Tin hay không tin vào khả năng của tình yêu làm thay đổi cuộc sống, người mình kiếm tìm. Tìm kiếm một giải đáp. Kiếm tìm, như vẫn có với hạnh phúc. Bởi, tình yêu mang lại hạnh phúc. Bởi, hạnh phúc là cứu cánh của tình yêu. Cứu cánh, mà cả con người lẫn loài thú đều kiếm tìm nó. Tựa hồ câu truyện kể để minh hoạ, ở dưới:
“Một hôm, chú sư tử nhỏ lặng lẽ đến gần mẹ hiền mà hỏi nhỏ:
-Mẹ ơi, mẹ chỉ con đi, muốn có hạnh phúc, con tìm ở đâu?
-Ở phần đuôi của con, chứ không đâu khác.
Thế là, sư tử nhỏ cứ thế suốt ngày luẩn quẩn chạy quanh tìm kiếm hạnh phúc ở phía đuôi của chính mình. Tìm cả ngày, vẫn chẳng thấy hạnh phúc ở nơi đó. Sư tử bé, một lần nữa chạy đến bên mẹ hiền năn nỉ mẹ truyền bí kíp. Mẹ hiền bèn bảo:
-Con thân yêu, con đâu cần phải chạy theo đuôi để tìm hạnh phúc. Bởi, con càng chạy và càng đi về phía trước, hạnh phúc vẫn theo đuôi con, để ở cùng. Chẳng đi đâu.”      

*
 
Hạnh phúc là thế. Vẫn ở quanh ta. Nào đâu xa. Tình yêu cũng vậy. Không tìm, nhưng vẫn đến. Đến, rất tự nhiên. Đến, ngay từ đầu. Thời trẻ thơ. Đến, như đã đến với trẻ thơ. Giống trẻ thơ. Cuộc đời. Nên, ta có thể nói: 
- Không ai quyết định chiều dài cuộc đời mình, 
nhưng vẫn có thể kềm chế ước vọng sống cuộc đời 
ấy.
- Không ai thay đổi được tiết trời, hoặc nắng mưa
nhưng vẫn chế ngự được cơn mưa nắng của chính 
mình.
- Không ai thay đổi bản sắc riêng của mỗi người,
nhưng vẫn mỉm cười với nó.
- Không ai khống chế được người khác,
nhưng vẫn kiểm soát được chính mình.
- Không ai thấy trước ngày mai,
nhưng vẫn sử dụng ngày hôm nay, thật khôn khéo.
- Không ai thắng lướt hết mọi chuyện
nhưng ta vẫn thử nghiệm cách thế hay nhất để hoàn thành.

Thế đó, là đôi giòng tư tưởng cỏn con. Không hơn. Không kém. Những tư tuởng, để chuyển đến bạn đến tôi, như một đề nghị. Đề nghị cỏn con. Không thôi thúc. Chẳng bắt buộc. Bởi, sự thể cuộc đời vẫn tuỳ lương tâm của mỗi người. Và mọi người. Rất tự nhiên.

Trần Ngọc Mười Hai
Vẫn biết thế
và có gắng để được thế.
Nhưng chưa thành đạt.



.MỤC LỤC

Tr



1. “Lên đến 100 lần nhất định mình chưa yêu”  
2. ”Ai ơi người về cho ta nhắn với”   
3. ”Thương nhau thật nhiều, biết mấy tin yêu”   
4. “Gió Bay Từ Muôn Phía”  
5. “Mời người lên xe, về miền quá khứ”   
6. “Trầm trầm, êm êm, thánh thót”   
7. “Anh đưa em đi về,về quê hương ta đó”
8. “Thuở ấy tôi như con chim lạc đàn”  
9. “Chiều chưa đi màn đêm rơi xuống”  
10. “Ta gặp nhau, yêu chẳng hạn kỳ 
11. “Rồi mai tôi đưa em xa kỷ niệm”  
12. ”Tình vui trong phút giây thôi”  
13. “Ngọc Lan, giòng suối tơ vương”  
14. ”Ngày đó có ta, mơ ân tình dài”  
15. “Về đây nhìn mây nuớc bơ vơ”  
16. “Xưa em là kiếp chim,…  
17. “Bây giờ anh vui, một linh hồn rỗi”  
18. ”Đi với tôi đến phương trời xa” 
19. ”Người làm xiếc đi giây rất khó”  
20. “Chiều Chủ Nhật buồn”  
21. “Nhớ tới năm xưa bên nhau”  
22. “Nếu có điều gì vĩnh cửu được”















                                                                                    Tr

23. ”Đạo diễn đưa tay lên”  
24. “Chiều hôm qua lang thang”
25. “Hãy nói về cuộc đời”  
26. “Nếu một mai khi hoà bình”  
27. ”Đừng xa nhau!Đừng quên nhau!”
28. “Ngoài hiên mưa rơi rơi”  
29. “Này người yêu, người yêu anh ơi”  
30. “Nghe vang khúc nhạc triền miên…”  
31. ”Giết người đi!Giết người mơ!” 
32. ”Rơi rơi, dìu dịu, rơi rơi ..”
33. “Thấy hối tiếc nhiều,thuyền đã sang bờ”  
34. “Anh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùng” 
35. “Ôi Phù du”
36. “Bạn lòng thân mến”  
37. “Phút đầu gặp em tinh tú quay cuồng?”  
38. ”Nay mùa Giáng sinh đã về Chúa ơi”   
39. “Cùng nhau quỳ dưới tượng Chúa cao sang”  
40. “Mưa hoàng hôn trên thành phố buồn”
41. “Khi người yêu tôi khóc..”  
42. “Em ơi quên đi bao nhiêu xót xa”  
43. “Như hoa đem tin ngày buồn  
44. “Nhớ tới đêm đầy ánh sáng”  
45. “Tôi yêu những gì đến tự nhiên”  



















P H Ụ     L Ụ C








Anh Trần Ngọc Mười Hai kính mến, 

Thật vui mừng khi nhận bản thảo tuyển tập ‘Chuyện Phiếm Đao (hay Giữa) Đời ’ tập 4 của anh. Xin lỗi cho phép bần đạo thay từ ‘Đạo’ bằng từ ‘Giữa’. Bởi vì trong những ‘phiếm luận’ hằng tuần. Anh đã thành công khi lấy những chất liệu ‘giữa & trong’ đời rồi sau đó anh dùng những vần thơ, câu hát, điệu hò để đệm và quảng diễn những suy tư của anh hầu giúp độc giả có một lối sống đạo sát và gần với Tin Mừng hơn.

Lối giải thích cao siêu, trừu tượng, ngột ngạt và nặng nề về giáo lý, mà bà con đã học đựơc từ ngàn xưa, đã được thay thế bằng thể văn ‘phiếm’ hầu làm cho bản văn trở nên nhẹ nhàng nhằm mục đích dẫn đưa độc giả cảm thầy gần gũi với ‘đạo Chúa’. Bần đạo xin trích dẫn lối hành văn nhẹ nhàng khi trích dẫn thơ và nhạc để đưa độc giả vào vấn nạn tại sao lại rửa tội cho trẻ em? 

“Dâng chan hoà, còn là tâm thức đầy thơ/nhạc, chốn Đạo/đời. Tâm thức, mà nghệ sĩ ở trên còn gói ghém thành giòng chảy, đầy chữ nghĩa. Như sau:

Nhạc và thơ kết duyên
Nhịp nhàng ca múa chập chờn đôi lứa,
Mờ mờ trong bóng hoa.” 
(Dương Thiệu Tước – bđd)

Với nhà Đạo, nhạc và thơ kết duyên. Liên hiệp. Vẫn, được diễn tả ở nhiều địa hạt. Địa hạt, của Nước Trời. Địa hạt, của nhiệm tích thiết thân với con người. Như Thanh tẩy. Nhiệm tích gia nhập Nước Trời, nhiều trẻ bé.”

Đó chỉ là một dẫn chứng. Trong các tuyển tập CPĐ(G)Đ của anh, những chất liệu đó xuất hiện trong từng trang. Không thơ thì là nhạc. Cả hai cứ quyện vào nhau, liên kết không rời, để giúp độc giả nếu có sống đạo chứ không giữ đạo, thì cũng sống bằng tiếu chuẩn của lòng mến, chứ không phải vị sợ ‘Chúa’ phạt, hay sợ xa hỏa ngục, rồi mới đi những loại ‘lễ buộc’. Giả như Chúa có là quan án, thì Ngài cũng là một vị ‘án quan’ đầy lòng nhân từ và thương xót. Ngài chẳng muốn ai bị hư đi.

Có một điều mà bần đệ vô cùng cảm phục, đó là sức bật của anh. Miệt mài nghiên cứu, không chỉ để ‘phiếm’. Nhưng mỗi tuần và rất đều đặn, anh cống hiến cho độc giả những món quà tinh thần qua những bài suy niệm hầu giúp họ chuẩn bị tâm hồn, mỗi khi tham dự tiệc Thánh nữa. Đây cũng là tính đa diện mà anh đã giữ lại được qua chương trình đào tạo của Dòng Chúa Cứu Thế mà anh vẫn và mãi mãi là thành viên. Ở đây, không có sự phân biệt kẻ ở trong hay người ở ngoài. Nhưng qua lối sống, phương pháp suy tư mà chúng ta biết được ai là thành viên của Dòng Thánh. Chúc mừng anh.

Sống trong một xã hội đang bị ‘thế-tục-hóa’, và một trong những hệ lụy của nó là người ta đã dùng ‘kim ngân’ làm thước đo. Chúng ta đã được nghe ‘tiền là tiên là phật, là sức bật của mọi giới’ đó sao! Nhưng, anh như hoa sen, gần bùi mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Theo thói thường của những người dân trong huyện thì giả như họ có dịp phát hành sách, hay ra mắt băng nhạc, cho dù với mục đích giúp đỡ tha nhân, thì họ cũng cố gắng kiếm cho đủ vốn rồi lợi nhuận rồi mới để cho người nghèo. Còn anh thì khác. Anh bỏ công sức nghiên cứu, hao tổn chất xám, lấy tiền túi của gia đình in sách, thâu cd rồi còn tốn thêm khoản tiền tem để gửi tặng không, cho bà con và bạn bè. Anh thường tâm sự với bần đệ là ‘Lòng đại lương của con người không sánh bằng sự rộng rãi của Chúa’. Tuy thế, bần đệ cũng xin qua anh, để gửi đến chị (người bạn rất trung thành và luôn sát cánh cùng anh trên mọi nẻo đường) và các cháu lòng tri ân.

Cầu chúc anh thành công trong việc phục vụ bằng bút phiếm. Bần đệ bằng tất cả lòng thành không cầu chúc cho anh thành Danh. Vì Danh thường hay (bị tai) Tiếng và dễ bị ‘sa’ vào chốn ta bà lắm. 

Mong thay.
Lm Mai Văn Thịnh, CSsR 



Comments