LỜI MỞ ĐẦU
“Chắc chắn hiện đang có sự mất mát khủng khiếp về ý nghĩa của Ki-tô giáo. Và, sự hiện hữu của giáo hội cũng đang thay hình đổi dạng. Rõ ràng, xã hội xưa nay thấm nhuần đạo đức Ki-tô giáo lúc này đây đang nứt rạn thành từng mảnh. Trong hoàn cảnh đó, tương quan xã hội và Giáo hội cũng đang có biến chuyển và chừng như đang hướng dần về một hình thái xã hội hết chất Ki-tô. Đạo của Đức Ki-tô không còn tạo được sự canh tân nơi tư duy chung của xã hội nữa.” (Lời của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI khi ngài còn làm Hồng y trưởng Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin đáp lại với ký giả Peter Seewald đăng trong sách Muối Cho Đời do Phong trào Giáo dân Việt nam hải ngoại ấn hành năm 2006)
Trong bối cảnh xã hội như trên và từ một hối thúc âm ỷ và triền miên nào đó, tác giả Trần Ngọc Mười Hai vẫn tiếp tục viết chuyện phiếm đạo đời trong tư thế của một nhân chứng trước những diễn biến như thác đổ của kiếp người thuộc thế kỷ 21. Đề tài chuyện phiếm đạo-đời dưới ngòi bút của Trần Ngọc Mười Hai vẫn gần gũi - thân quen, khác nào như tin tức thời sự mỗi ngày. Có khác chăng, vì đó được Tin Mừng soi dọi. Mở tập sách Chuyện Phiếm Đạo-Đời, nguời người sẽ bắt gặp những vấn nạn của đời thường, như: chuyện sống đạo không chỉ bằng lời nói, mà còn phải bằng chính đời sống của mình nữa (Anh đi về đâu mà bụi đường …); hoặc, đâu là vai trò đích thực của Đức Mẹ (Đấng Trung gian Cầu bàu …) hay như chuyện chiến tranh và đâu là bình an đích thực (An ninh, an bình và bất an); và, thế nào là niềm vui đi Đạo... khi bị thử thách? khi Chúa không nhậm lời? (Diù nhau đi chung một niềm thương); vấn nạn về cái chết (Bàn tay đưa anh ra khỏi lòng người) và thế nào là cầu xin? (Nguyện cầu hay xin xỏ).
Hình thức mà Trần Ngọc Mười Hai chọn để chuyên chở những suy tư Đạo-đời của mình, thường được khởi đầu bằng một giòng nhạc quen thuộc nào đó như :
- Nếu vắng anh, ai dìu em đi trong chiều lộng gió. - Rồi mai, tôi đưa em xa kỷ niệm.. ; hoặc - Em, ngồi đây với anh trong cuộc đời này; và - Đêm qua chưa mà trời sao vội sáng..vv..và vv…
Tiếp theo là các trích dẫn Tin Mừng của thánh sử nào đó, như Matthêu đoạn 7, câu 20 trong bài: Nếu vắng anh .., chẳng hạn. Kiểu cách trình bày như vậy, khiến có nguời thắc mắc là làm sao mà trong Tin Mừng của các thánh sử lại có những câu ca mùi mẫm như vậy. Đúng! làm sao trong Tin Mừng theo thánh Matthêu mà lại có câu “Nếu vắng anh, ai dìu em đi trong chiều lộng gió” cho được? Thế nhưng, cái giả thiết “Nếu vắng anh ..” lại chính là tình huống được đặt ra để tác giả dẫn người đọc vào câu chuyện sống của mình. Chẳng thế mà, khi kết luận cho bài viết, tác giả nói rõ hơn là “Nếu vắng anh, hay nếu vắng Cha, vắng Thày, thì ai sẽ dìu chúng ta đi trong chiều lộng gió …. của đời người.
Đó là cách thức nhẹ nhàng và bóng bảy, mà có lẽ chỉ thấy có nơi Trần Ngọc Mười Hai, mặc dầu hình thức chuyện phiếm vẫn được một số người xử dụng.
Một thí dụ khác, là trong chuyện phiếm: “Em đứng lên gọi mưa vào hạ”. Qua câu chuyện này, Trần Ngọc Mười Hai muốn nói đến sự bình an thật sự trong tâm hồn, dù bình an ấy rất nhỏ. Bình an đó, khác nào như những cơn mưa trong mùa hạ oi bức. Những giọt mưa hoà bình đó, đổ trên muôn người. Nguời giàu cũng như người nghèo. Nam cũng như nữ. Già cũng như trẻ. Vì rằng, ai cũng cần có hoà bình. Mưa an bình. Mưa hồng ân.
Đây, có thể là một cố tình của Trần Ngọc Mười Hai để chuẩn bị cho việc ra CD audio các chuyện phiếm sau này. Khi nghe chuyện phiếm – chứ không còn đọc nữa – mà lại cùng một lúc được nghe những nhạc phẩm quen thuộc của một thời dĩ vãng nào đó, làm nền. Làm “hậu cảnh“ cho những giòng chảy suy tư, thì quả là có tác dụng và gây thích thú nơi người nghe.
Nói cho cùng, thì hoài bão của Trần Ngọc Mười Hai có lẽ cũng chỉ mong được rằng: “Chuyện kể vẫn nhẹ nhàng. Chỉ có thế. Nhè nhẹ và làng nhàng. Kể lại để nghe cho vui. Chứ tuyệt nhiên không muốn thuyết phục ai và cũng không có ý giảng và thuyết như một bài chia sẻ, ở nhà thờ. Nói cho cùng, mỗi lần phiếm, bạn và tôi không kỳ vọng coi đó như một bài giảng, để thuyết phục người đời. Phiếm loanh quanh. Phiếm nhè nhẹ, chỉ để mua vui với bầu bạn trong giây phút. Những mong bầu bạn sẽ cùng bần đệ, ta cứ tiếp tục phiếm nhẹ như thế, trong mai ngày. Rất cầu và cũng rất mong.” Vũ Nhuận
“Nếu vắng anh, ai dìu em đi trong chiều lộng gió?” (Mt 7: 20)
Lại một đầu đề cho chuyện phiếm. Đầu đề không mang dáng dấp của những khuyên răn, như trong Đạo. Đầu đề luận phiếm hôm nay, là câu hỏi có lời lẽ thanh tao, ý tưởng nhẹ. Thanh và nhẹ, như bản nhạc trữ tình mà nhiều nghệ sĩ, trong đó có nhạc sĩ Anh Bằng, đã từng viết. Hôm nay, bạn và ta hãy khơi mào chuyện phiếm bằng đề nghị nhỏ: hãy cứ đổi thay cách xưng hô anh-em, thành mẹ-con, chú-cháu, cô-cháu vv… hẳn câu hát trên sẽ thành lời cầu êm ái, rất nên làm. Rất nên làm, là bởi trên thực tế, không có cha mẹ trần gian chỉ bảo hoặc hướng dẫn thử hỏi làm sao đàn con thân thương bọn mình có thể tự đứng vững. Đứng vững trong trời đất, trước những phong ba bão táp xảy đến với cuộc đời nhiều điêu đứng. Đời mình. Hoặc đời người. Quả thật, nơi đời thường ở huyện, người dân thuộc mọi lứa tuổi vẫn có những giòng chảy đầy hỏi han. Những ưu tư thắc mắc, rất khó trả lời. Ưu tư còn đó nỗi buồn, cả vào khi người đời nghe bậc hiền nhân quân tử vẫn đưa ra những xác quyết tựa như: “Tất cả là ân huệ ! Là quà tặng Chúa ban”. Vâng. Thắc mắc ưu tư vẫn đậm đặc nét u buồn, khi một độc giả “Chuyện phiếm”, đã nhè nhẹ đưa vào giòng chảy điện thư, những lời lẽ sau đây: “Đọc chuyện phiếm của ông, tôi nhận ra được một điều là: ở nhiều đoạn, ông có trích dẫn lời thơ hay ý nhạc của kịch tác/triết gia nào đó bảo rằng ‘tất cả là ân huệ Chúa ban’. Và ông, ông cũng đã trao đổi rồi còn chuyển tải ý tưởng ấy cho nhiều người, gọi đó là quà tặng hay đặc ân đặc sủng mình có từ Thiên Chúa. Vậy xin hỏi: Đạo Công Giáo chúng ta quan niệm thế nào về ân huệ, để anh em mình còn biết mà cảm tạ Đức Chúa.” Như mọi lần, khi tiếp nhận ý kiến phản hồi của bất cứ ai, từ hồi nào đến giờ bần đạo vẫn có thói quen để lòng mình trùng xuống. Suy nghĩ hồi lâu. Rồi mới bắt đầu gõ máy, từ từ phúc đáp. Phúc đáp lần này, trước nhất để trân trọng cái nhã ý mà độc giả nói trên đã có ý kiến phản hồi. Có ý kiến phản hồi, tức là bầu bạn/người thân đã quan tâm, đóng góp ý kiến. Đã hỏi han. Những hỏi han, thật ra là để gạn lọc tư tưởng, những gì bạn và tôi, ta từng tản mạn và phiếm đi phiếm lại nhiều cho thỏa lòng, về ân huệ. Để đáp ứng những hỏi han từ bầu bạn từng thắc mắc, lần này bần đạo chẳng dám đưa ra những bàn bạc cao siêu, nhiều ý. Hoặc, dám gợi lên những cao kiến viển vông ngông nghênh, và lòng vòng rất cứng. Nhưng, chỉ mượn ý mượn lời của vài đấng bậc vị vọng, từng thông suốt nhuần nhuyễn ý lực nhà Đạo, như các cụ đặc trách truyền thông vào độ trước, như Lm. Brian Lucas thuộc Tổng Giáo Phận Sydney, như sau:
“Nói về đặc ân – đặc sủng, hoặc “những ơn phước cả” mà nhà thơ họ Hàn tên Mặc Tử từng nói đến, tưởng có viết ra nhiều pho sách thậất Đạo hạnh để trả lời, cũng chẳng tài nào giải thích hết ý nghĩa của cụm từ này. Chí ít, là giải thích bằng một vài hàng tóm gọn. Có lẽ ở đây, ta cũng chỉ nên trích dẫn một số chương đoạn lược tóm trong cuốn “Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo”, hy vọng giải đáp phần nào những khúc mắc khiến ta tạm hài lòng: Ở đoạn 1996, sách Giáo lý Hội thánh Công Giáo có viết: “Mọi xác minh ta có được là do ân huệ đặc biệt Chúa ban. Ân huệ là đặc ân, đặc nhuận, tức sự hỗ trợ một cách “nhưng không” và chẳng do công lênh/tài cán gì của ta, mà Thiên Chúa phú ban, được công bố cho mọi người, ngõ hầu chúng ta đáp ứng lời kêu mời từ Ngài, mà trở nên con cái của Cha, những người con được bảo dưỡng. Những kẻ chung phần thừa hưởng cuộc sống thánh thiêng tự tại và vĩnh hằng, từ Đức Chúa.”(Ga 1, 12 – 18; 17, 3; Rm 8, 14 – 17; 2 Pr 1, 3 – 4). Tới đoạn 1997, ta lại có: Ân huệ là sự chung phần vào cuộc sống của Thiên Chúa. Ơn Ngài ban cho ta, là để hướng dẫn ta đi vào với sự mật thiết của cuộc sống Ba Ngôi Đức Chúa; nhờ có thanh tẩy mà mọi Ki-tô hữu mới được hiệp thông gia nhập vào ơn thánh sủng của Đức Ki-tô. Ngài chính là Đầu của Thân Mình Rất Thánh của Ngài. Với cương vị của người con đã bảo dưỡng, ta được phép gọi Thiên Chúa là Cha; hiệp thông trở nên một với Người Con Yêu dấu của Ngài. Vốn là con, các Ki-tô hữu chúng ta được nhận lĩnh sự sống của Chúa Thánh Linh, Đấng phà hơi thương mến của Ngài vào người chúng ta và kiến tạo nên Hội Thánh Chúa. Ở đoạn 2005, còn thấy nói: Vì thuộc giới siêu nhiên, ân huệ vượt lên trên kinh nghiệm của ta. Và, ta chỉ có thể nhận biết đó là ân huệ Chúa ban, bằng niềm tin tưởng mà thôi. Vì thế, ta chẳng thể nào trông chờ nơi những cảm nhận hoặc vào tài cán/công lênh gì của ta, để rồi mau chóng kết luận rằng: ta xứng đáng có được ân huệ; và nhờ đó, được cứu rỗi.” (x. Nghị quyết Công Đồng Triđentinô 1547 câu 1533-1534)
Đấy là những quả quyết rất chắc nịch từ Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo. Trong Sách Thánh, chắc chắn, bạn và tôi sẽ còn tìm gặp được nhiều chỗ, nhiều nơi nói đến ân huệ, đến đặc sủng Chúa thương ban. Như, trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an, trích đoạn sau đây:
“Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người đang nói với chị, thì hẳn chị sẽ xin và Người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.” (Ga 4, 10) Hoặc: “Nhờ quyền năng mạnh mẽ Thiên Chúa ban, các Tông Đồ làm chứng Chúa Giê-su sống lại. Và,Thiên Chúa ban cho tất cả các ông dồi dào ân sủng.” (Cv 4)
Nói theo kiểu người đời, “có phần không cần gì lo”, tức là những ơn những quà tặng Trời cho, thảy đều do phần số, hết. Phần số hay số mệnh, là lối nói để chỉ ơn tiền định được Trời, được Đức Chúa phú ban cho những người ăn hiền ở lành. Những người có phần có số, được Trời Cao có mắt, vẫn dành để cho mình từ lâu. Xem như thế, nếu bạn và tôi có hát lời ca của nhà thơ Nguyên Sa trong nhạc bản “Nếu vắng anh” do nghệ sĩ Anh Bằng phổ nhạc, hẳn là ta cũng sẽ đồng ý với hết mọi người, rằng: không có anh (ở đây đổi thành nếu vắng Cha vắng Chúa, con cũng chẳng ra “cái tích sự” gì). Để minh hoạ cho một trong những điều mà ta gọi là “ân huệ, ân sủng”, xin bạn hãy để lòng mình trùng xuống, hít một hơi thật đầy vào lồng ngực, rồi đọc truyện kể sau đây, có lẽ đã xảy ra trên một đất nước XHCN:
Trên đoàn tàu, cô soát vé hết sức xinh đẹp cứ nhìn chằm chằm vào người đàn ông lớn tuổi áng chừng đi làm thuê, hạch sách: -Vé tàu! Người đàn ông lớn tuổi lục khắp người từ trên xuống dưới một thôi một hồi, cuối cùng tìm thấy vé, nhưng cứ cầm trong tay không muốn chìa ra. Cô soát vé liếc nhìn vào tay anh, cười trách móc: -Đây là vé trẻ em! Người đàn ông đứng tuổi đỏ bừng mặt, nhỏ nhẹ đáp: -Vé trẻ em chẳng phải ngang giá vé người tàn tật hay sao? Giá vé trẻ em và người tàn tật đều bằng một nửa vé, đương nhiên cô soát vé biết. Cô nhìn kỹ người đàn ông một lúc rồi hỏi: -Anh là người tàn tật? -Vâng, tôi là người tàn tật. -Vậy anh cho tôi xem giấy chứng nhận tàn tật. Người đàn ông tỏ ra căng thẳng. Anh đáp: -Tôi... không có giấy tờ. Khi mua vé cô bán vé bảo tôi đưa giấy chứng nhận tàn tật, không biết làm thế nào, tôi đã mua vé trẻ em. Cô soát vé cười gằn: -Không có giấy chứng nhận tàn tật, làm sao chứng minh được anh là người tàn tật? Người đàn ông đứng tuổi im lặng, khe khẽ tháo giầy, rồi vén ống quần lên. Anh chỉ còn một nửa bàn chân. Cô soát vé liếc nhìn, bảo: -Tôi cần xem chứng từ, tức là quyển sổ có in mấy chữ "Giấy chứng nhận tàn tật," có đóng con dấu của Hội người tàn tật! Với khuôn mặt như quả dưa đắng, người đàn ông đứng tuổi cố giải thích: -Tôi không có hộ khẩu của địa phương, người ta không cấp sổ tàn tật cho tôi. Hơn nữa, tôi làm việc trên công trường của tư nhân. Sau khi tai nạn xảy ra ông chủ bỏ chạy, tôi cũng không có tiền đến bệnh viện giám định... Trưởng tàu nghe chuyện, đến hỏi tình hình. Người đàn ông đứng tuổi một lần nữa trình bày với trưởng tàu, mình là người tàn tật, đã mua một chiếc vé có giá trị bằng vé của người tàn tật… Trưởng tàu cũng hỏi: -Giấy chứng nhận tàn tật của anh đâu? Người đàn ông đứng tuổi trả lời là anh không có giấy chứng nhận tàn tật, sau đó anh cũng cho trưởng tàu xem nửa bàn chân của mình. Trưởng tàu ngay đến nhìn cũng không thèm nhìn, cứ nhất quyết nói: -Chúng tôi chỉ xem giấy chứng nhận, không xem người. Có giấy chứng nhận tàn tật chính là người tàn tật, có giấy chứng nhận tàn tật mới được hưởng chế độ ưu đãi vé người tàn tật. Anh mau mau mua vé bổ sung! Người đứng tuổi bỗng thẫn thờ. Anh lục khắp lượt các túi trên người và hành lý, chỉ có hơn 50 ngàn đồng, hoàn toàn không đủ mua vé bổ sung. Anh nhăn nhó và nói với trưởng tàu như khóc: -Sau khi bàn chân tôi bị máy cán đứt một nửa, không bao giờ còn đi làm được nữa. Không có tiền, ngay đến về quê cũng không về nổi. Nửa vé này cũng do bà con đồng hương góp mỗi người một ít để mua giùm, xin ông mở lượng hải hà, giơ cao đánh khẽ, nương bàn tay cao quý, tha cho tôi...” Trưởng tàu nói kiên quyết: -Không được! Thừa dịp, cô soát vé nói với anh trưởng tàu: -Bắt anh ta đi lau sàn các toa tàu, coi như làm lao động nghĩa vụ. Nghĩ một lát, trưởng tàu đồng ý. Một cán bộ lão thành ngồi đối diện với người đàn ông đứng tuổi tỏ ra chướng tai gai mắt, đứng phắt lên nhìn chằm chằm vào mắt vị trưởng tàu, hỏi: -Anh có phải đàn ông không đấy? Vị trưởng tàu không hiểu, hỏi lại: -Chuyện này có liên quan gì đến tôi có là đàn ông hay không? -Anh hãy trả lời tôi, anh có phải đàn ông hay không? -Đương nhiên tôi là đàn ông! -Anh dùng cái gì để chứng minh anh là đàn ông? Anh đưa giấy chứng nhận đàn ông của mình cho mọi người xem xem? Mọi người chung quanh cười rộ lên. Thừ người ra một lát, vị truởng tàu nói: -Một người đàn ông to lớn như tôi đang đứng đây, lẽ nào lại là đàn ông giả? Cán bộ lão thành lắc lắc đầu, nói: -Tôi cũng giống anh chị, chỉ xem chứng từ, không xem người, có giấy chứng nhận đàn ông sẽ là đàn ông, không có giấy chứng nhận đàn ông không phải đàn ông! Vị trưởng tàu tịt ngóp, ngay một lúc không biết ứng phó ra sao. Cô soát vé đứng ra giải vây cho anh trưởng tàu. Cô nói với cán bộ lão thành: -Tôi không phải đàn ông, có chuyện gì ông cứ nói với tôi! Cán bộ lão thành chỉ vào mặt chị ta, nói thẳng thừng: -Cô hoàn toàn không phải là... con người! Cô soát vé bỗng nổi cơn tam bành, nói the thé: -Ông ăn nói sạch sẽ một chút. Tôi không là con người thì là con gì? Cán bộ lão thành vẫn bình tĩnh, cười ranh mãnh, ông nói: -Cô là người ư ? Cô đưa giấy chứng nhận "người" của cô ra xem nào.. Mọi hành khách chung quanh lại cười ầm lên một lần nữa. Chỉ có một người không cười. Đó là người đàn ông trung niên bị cụt chân. Anh cứ nhìn trân trân vào mọi thứ trước mặt. Không biết tự bao giờ, mắt anh đẫm lệ, không rõ anh tủi thân, xúc động, hay thù hận.... (truyện kể do Trần Văn Giang sưu tầm)
Điểm đặc thù rút ra từ truyện kể ở trên cho thấy: làm trưởng tầu hay làm anh/chị soát vé tầu như truyện kể trên cũng đâu phải do công lênh tài cán gì của họ. Tất cả, chẳng qua chỉ là do ân huệ, hay còn gọi là đặc sủng từ người nào đó, mà ta có thói quen gọi là Trời cho. Chí ít, là người. Làm người. Nhất thứ lại là người có quyền cao chức trọng, ở ngoài đời hay trong Đạo đâu phải do cha do mẹ để lại. Như người đời vẫn nói con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa vẫn quét lá đa… Một khi ta đã biết tất cả chỉ là ân huệ, hẳn là ta sẽ có thái độ đúng đắn để xử sự. Xử sự với người thân quen hoặc không quen, ở mọi nơi. Xử sự với tất cả những người ta từng gặp và đang sống với – sống cùng, trong nhà Đạo, trong cuộc đời Tóm lại, “nếu vắng anh” hay nếu vắng Cha, vắng Thầy, thì không những bạn và tôi sẽ còn hỏi: ai dìu mình đi trong chiều lộng gió. Những buổi chiều có gió lộng, có mưa giông bão tố. Cả trời đen. Một trời và một đời toàn những nghịch cảnh, rất cứng của cuộc đời. Đời người. Đời mình. Nơi gian trần.
Trần Ngọc Mười Hai, nhiều lúc vẫn cứ hát và cứ hỏi, phải chăng đó là ân huệ từ nơi Chúa ?
“Anh đi về đâu mà bụi đường vương trên mái tóc” (Yn 4: 5-42)
Trong phiếm đạo đường dài, một số bạn đã thuật cho bần đạo nghe, rất nhiều truyện kể. Kể về mọi thứ chuyện trên đời. Từ chuyện trời trăng mây nước, lại bước sang chuyện nhà Đạo. Chuyện sống Đạo giữa đời. Và với đời. Có bạn còn cho rằng: sống Đạo bằng ngòi bút hoặc với vi âm, vi tính, có loa phóng thanh lớn nhỏ, có truyền hình, truyền thông... bao giờ cũng là chuyện ngon cơm dễ làm hơn là sống thực ở đời. Chí ít, là sống nghèo sống khổ. Bởi, lúc nào “cái khó cũng bó cái khôn”, sao sống Đạo được? Để minh họa chuyện này, một đấng bậc thân quen trong thẩm quyền giáo phận, có kể lại cho nhóm người trẻ ngoan Đạo, chuyện “khó tin nhưng có thật” ở khu nhà ổ chuột đầy rác, sau đây: Cách đây không lâu, Caritas Úc Châu có gửi giấymời linh mục có tên nghe rất quen là cha Chris đi Phi-luật tân chứng kiến công việc mà cơ quan này thực hiện với người nghèo, vào mùa chay. Vừa đặt chân đến thủ đô Ma-ni-la, cha Chris đã được các vị đồng đạo hỏi ngay là ngài có muốn sống thử vài ngày với giới nghèo được Caritas giúp đỡ, không? Cha chưa kịp trả lời, thì mọi người quyết định là cha nên ở lại khu nhà chuột ổ nọ ít nhất hai ngày, mới hiểu được thế nào là… sống Đạo. Điểm hẹn cho cha, là khu “lao động” có cái tên rất mộng mơ: “Núi đồi mù mịt”. Tuy gọi là núi, nhưng chốn núi non này thật ra cũng không cao và cũng chẳng mù mịt gì cho lắm. Thật sự, thì 30 năm về trước, đây là chốn núi đồi nồng nặc mùi xú uế, chốn đi về của mươi ngàn con người, sống gần như là chuột rúc. Vùng này trực thuộc Ma-ni-la, được dân con nội thành lên đây tống khứ đủ mọi thứ xú uế bùi nhùi, rất khó coi. Mịt mù là ảnh hình của lớp mây bụi mù lởn vởn bao quanh, cộng thêm với mầu xanh nhem nhúa của đám nhặng/ruồi và ong bày vỡ tổ, khiến khu đồi đã trọc lại càng khó coi vì là nơi hẹn hò của hợp chất khí - bụi, gây lợm giọng. Vòng quanh ba mặt của ngọn đồi, là đám dân con thị thành chui rúc để tồn tại. Họ sống bằng cơm thừa canh cặn do người dân thị thành phế thải. Cha Chris cũng nghe nhiều chuyện về ngọn đồi bất hủ này từ các viên chức làm trong cơ quan cứu trợ Caritas, ở đây. Nhưng cha chẳng bao giờ lại có thể tưởng tượng rằng một ngày nào đó cha đặt chân đến đây, không để chứng kiến cảnh nghèo và khó mà thôi; nhưng còn để sống cùng và sống với người nghèo, cạnh núi rác bẩn thỉu, dăm ba bữa. Tuy chưa đến tận nơi chứng kiến sự cùng cực của lớp nghèo thị thành, nhưng cha Chris cũng đã hình dung ra những đau thương chua xót, những nồng nặc cám cảnh của chốn chợ đời ấy. Nhất thứ, là khi thấy cảnh những người là người đang nhung nhúc chui vào đống rác rưởi để moi móc kiếm kế sinh nhai, thì cha Chris đã không còn tin vào mắt thịt của mình nữa. Kìa, cạnh nơi cao vút đầy rác rưởi cuồn cuộn xú uế khí lợm giọng,là giòng nước đen ngòm uốn khúc vòng quanh. Nước uống thì chỉ từ mấy “phông tên” công cộng, mà thôi. Dọc con lạch đen ngòm lấm bẩn kia, khách ngoại cuộc thấy có nhiều căn gác lộ thiên bằng phên thùng bằng tôn/giấy lẫn lộn. Nơi đây, người người lớn nhỏ vẫn cứ tìm đến để tắm gội hay tiêu tiện, rất lộ thiên. Trong lúc đó, chiếc xe ủi cứ thản nhiên làm công tác xúc hốt vật bỏ phế hàng ngày. Và, dân cư đua nhau chạy ùa theo xe bốc hốt, chụp giựt, quyết tìm ra những gì có thể mang về đổi chác thành tiền thành bạc, nuôi thân. Tổ ấm cơ ngơi của đám dân nghèo hèn được vội vã dựng lên bằng những chất liệu vụn vặt không thể chống chọi lại thời tiết cay nghiệt, mưa nắng hai mùa. Cha Chris đã gặp mặt một số linh mục Dòng Tên phụ trách xóm đạo ở chốn mù sương khó thở này. Các linh mục ở đây vẫn cố vận động với giới có thẩm quyền để họ ra quyết định bãi bỏ cảnh tượng thiếu tôn trọng phẩm cách con người này. Cụ chánh xứ đưa cha Chris đến thăm gia đình một giáo dân để cha nghỉ tạm qua ngày. Nhớ lại, hôm leo đồi trèo núi để ghé anh Bing Lu vào một buổi chiều còn nóng bức. Nơi nào cũng thấy lúc nhúc tòan bọn trẻ nhỏ. Cha Chris trộm nghĩ: sao bọn nhỏ ở đây lại có thể đen đuốc bần thỉu, đến như thế. Sao chúng vẫn có thể nô đùa chạy nhảy suốt ngày, mà chẳng được học hành gì cả? Nghĩ tới đó, tâm can cha như quặn thắt . Bụng dạ lại cồn cào, muốn ói mửa. Đến nhà anh Bing Lu, cha thấy khác hẳn. Dù nghèo, nhưng nhà của anh gọn gàng. Ngăn nắp. Anh tiếp cha bằng cả tấm lòng như của người từng quen biết từ lâu. Thấy cha Chris có vẻ như ngứa ngáy vì bọn trẻ cứ xán lại bu quanh, rờ mó vào người cha. Anh Bing bèn kéo cha vào chỗ khuất người, đưa cho cha ly nước để uống cho đỡ cơn khát, xé cổ xé họng vào buổi trưa hè nóng bức. Cha Chris cảm thấy khó xử. Chưa biết có nên nhận lời uống ly nuớc chưa quen mùi vị, hay không. Làm sao để tỏ ra cha cũng biết san sẻ cảnh tình của người bần hàn? San và sẻ đến mức độ nào, đây? Dù khát đến khô họng, cha Chris định bụng từ chối. Tính là, để khi về nhà xứ sẽ dùng nước có đóng khằn trong chai. Cũng may lúc ấy, người con của anh trở ra đem cho cha một chai nước có nắp khóen. Thấy chai nước có thể uống được, cha nhận lời cầm lấy. Anh Bing lại đi tìm ly nhựa định rót ra cho cha. Nhưng cha định thần một lúc rồi cứ thế tu chai như hồi còn nhỏ. Trong một khỏanh khắc không lâu, cha Chris thấy mình lúng túng, chợt liên tưởng đến tình huống được kể nơi Phúc Âm, khi Đức Chúa ghé khu làng người dân ngoại xứ Samari. Ngài cũng lúng túng như người phàm, khi xin nước.
Truyện kể về cha Chris thấy lúng túng khi ở vào hoàn cảnh sống gần sống với người nghèo, vẫn là chuyện của mỗi người, trong chúng ta. Lúng túng với người nghèo cùng phái, cùng Đạo là chuyện còn dễ. Lúng túng khi tiếp xúc hoặc chấp nhận ở gần người nghèo, người khác phái khác phận, hoặc người khách lạ, địch thù, dân ngoại vẫn là chuyện khó xử nhiều hơn chỉ là lúng túng. Nơi đời thường, vẫn có những tình huống khó xử, khi giao tiếp và sống với người hôi thối/nghèo hèn về phần của cải lẫn thân phận. Đây có thể là những tình huống khiến ta có những nhận định hấp tấp, sai sót. Sai sót, mỗi khi ta đến với người nghèo, dù chỉ lân la chuyện trò cho qua, vẫn không biết cách xử sự thế nào cho phải phép. Nói gì đến chuyện tìm cách giúp đỡ. Và hấp tấp trong đối xử, vẫn là dễ sai phạm. Nhất thứ là khi ta lại có những xem xét và phán đoán. Thậm chí, có khi còn bị mang tiếng là có thái độ kỳ thị, đầy thành kiến... Giao tiếp với người nghèo, đã là chuyện khó. Nếu lại bảo: sống giống như, sống cùng và sống với người nghèo hèn, càng là chuyện khó hơn. Khó gấp bội. Khó trăm bề. Khó không thể tả được. Và, một khi thấy khó, người người thường có thói quen dễ bỏ chạy. Bỏ và chạy, để không còn vướng bận nỗi gì. Vướng và bận, dù chỉ trong tâm tưởng, mà thôi. Tuy nhiên sẽ còn khó hơn, khi người người nhận được lời khẳng định từ Đức Chúa ở đọan khác, cũng trong Tin Mừng theo thánh Gio-an, Chúa có nói: “Thật vậy, người nghèo thì bên cạnh anh em, lúc nào cũng có…” (Yn 12: 8)
Và, theo thánh Phao-lô, người nghèo nói chung chính là Ngài:
“Quả thật, anh chị em biết Đức Giê-su Kitô Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào: Người vốn giàu sang phú quý, Nhưng đã tự trở nên nghèo khó vì anh chị em Để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh chị em trở nên giàu có.” (2Cr 8: 9)
Qua chuyện của linh mục Chris nghèo hèn công tác ở ở Ma-ni-la, hẳn người đọc cũng sẽ cảm thấy vững dạ:
“Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối, khi bị sỉ nhục hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô: vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.” (2Cr 12: 10)
Xem như thế, có thể nói được là khi bạn và tôi đã thấy mình nghèo và hèn đi, thì đó là lúc mình mạnh hơn, giàu hơn bao giờ hết. Bởi, chính vào khi mình trở nên nghèo và hèn hơn cả, là lúc Đức Giê-su Kitô đang ở với mình. Mà, đã có Chúa ở với mình, thì còn ai mạnh và giàu hơn nữa chứ? Kinh nghiệm này, thánh Phao-lô tông đồ đã từng trải. Và, cũng như thánh Phao-lô, bạn và tôi cũng sẽ trải qua những kinh nghiệm rất “người” và rất “nghèo” nhưng không hèn, diễn ra đều đặn trong hành trình sống. Tới đây, có lẽ ta sẽ tự hỏi: những người nghèo khổ như vậy, mà vẫn sống được, trẻ con vẫn vui đùa chạy nhảy, vậy thì sức mạnh nào, niềm tin và cảm nghiệm nào đã giúp họ được như thế? Để trả lời câu hỏi này, mời bạn và tôi, ta hãy đọc truyện kể bên dưới về ý nghĩ của các em nhỏ, về cuộc đời. Về người đời:
Vào buổi vấn đáp các học trò nhỏ hôm ấy, cô giáo đưa ra một đề tài khá hóc búa: các em hãy liệt kê cho cô một danh sách gồm 7 thứ mà các em nghĩ là kỳ quan trên thế giới. Tức là: 7 thứ đẹp nhất trên thế gian này. Mặc dù trong đám học trò nhỏ, có nhiều điểm bất đồng trong chọn lựa, dưới đây là đôi ba danh sách do các trò nhỏ đưa ra, ngày hôm ấy. Danh sách “Bẩy kỳ quan thế giới”: 1. Kim Tự Tháp ở Ai Cập 2. Đền Taj Mahal ở Ấn Độ 3. Cảnh hùng vĩ Grand Canyon ở Mỹ 4. Kênh đào Panama 5. Tòa nhà Empire State ỏ Hoa Kỳ 6. Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô ở Rô-ma 7. Vạn Lý Trường Thành bên Trung Quốc
Trong lúc thu thập đề nghị của các em học sinh, cô giáo thấy có một em nắn nót chữ viết mãi chưa xong, cô bèn hỏi xem em có vấn đề gì không, mà sao lâu thế. Em liền đáp: -Cô chờ em thêm một phút nữa thôi, em đang liệt kê đây. Thật sự, có quá nhiều thứ em không đủ giấy để kể ra hết ở đây. Thôi em tóm tắt như thế này để cô xem nhé! Cô giáo nói tiếp: -Cứ nói cho cô biết em đếm được bao nhiêu rồi. Có thể cô và các bạn sẽ giúp em, ngay thôi. Người học trò nhỏ ngập ngừng trong khỏanh khắc, rồi nói: -Em nghĩ, Bẩy kỳ quan trên thế giới gồm có tất cả là: 1. Biết nhìn 2. Biết nghe 3. Biết sờ 4. Biết nếm 5. Biết ngã 6. Biết cười 7. Và biết yêu thương. Lúc ấy, bầu khí trong lớp học trở nên im ắng cách lạ lùng. Im đến độ, tiếng kim cúc rơi xuống đất cũng có thể nghe thấy được nữa. Truyện kể tiếp như sau: Những gì mà chúng ta thường ngày chỉ nhìn lướt qua, không để ý vì nó đơn giản và bình thường và nhận lấy như quà tặng trời cho, thì thật sự là kỳ quan, đáng ta chiêm ngưỡng. Bởi, thật ra những gì cao và quý nhất trong đời người và đời mình, thì chẳng thể nào xây dựng bằng tay hoặc mua được bằng tiền của. Rất đúng! Và, kỳ quan chuyện phiếm hôm nay, chính là: biết được là mình đang sống, đang được ân sủng từ Thiên Chúa hưởng 7 kỳ quan trên. Và giàu hay nghèo sẽ chẳng thành vấn đề, vì ta vẫn cứ được sống. Vẫn cứ trân trọng cuộc sống với các người anh, người chị đang cùng sống với mình. Dù trên “núi đồi mù mịt” đầy những xú uế, rác rưởi ấy hay ở chốn đền đài danh vọng chất chồng, những hôm nay. Ta cứ sống. Sống hùng. Sống mạnh. Sống vững chãi với người anh em đời thường, ở huyện. Huyện dân gian. Chốn thế trần.
Trần Ngọc Mười Hai và những kỳ quan rất sống trong cuộc đời có những bụi đường vương trên mái tóc
Đấng Trung Gian Cầu Bàu đã nên duyên. (1Tm 2: 5 )
Đã có một thời, hồi thập niên ’60, ’70 ở quê nhà, các báo đài rộn lên với mục “Giải đáp thắc mắc”; thậm chí, có vị còn dùng tựa đề “Gỡ rối tơ lòng” để gỡ giùm bà con người đọc những mớ bong bong, tâm sự. Nói vụng trộm một chút, chứ tơ lòng người đời mà có rối, thì đố ai mà gỡ được. Thế nhưng, nổi bật một dạo, người viết mang tên “Bà Tùng Long” đã nổi tiếng một thời trên tờ Phụ Nữ Diễn Đàn (?) hồi đó. Và cũng từ lúc ấy, hễ ai ra báo là đều có thêm mục, những gỡ và đáp giải cả những thắc mắc, lẫn mối tơ lòng.
Ngày nay, trên báo Đạo như tờ The Catholic Weekly, các đấng vị vọng cũng lập ra hai cột báo ở trang trong để giải đáp những mớ bòng bong, không phải tơ lòng nhà Đạo, mà là ‘lòng những tơ vương vấn mấy hỏi han’. Vừa qua, cũng trên tờ báo này, ở mục Giải đáp thắc mắc, Lm John Flader đã tiếp nhận những hỏi han, theo kiểu rất “rối tơ lòng” và “thắc mắc”, như sau:
“Con đã nghe biết về chuyện Đức Mẹ được coi là Đấng Trung Gian Cầu Bàu mọi ân huệ, Chúa ban. Xin cha giải thích thêm về chuyện này. Và, cũng xin cho biết tước hiệu và vấn đề này có là tín điều của Hội thánh, bắt buộc phải tin như kinhTin Kính không?”
Và, dưới đây là lời đáp giải đáp:
Trước khi trả lời câu hỏi, tưởng cũng nên minh định về cụm từ “Đấng Trung Gian Cầu Bàu”. Cụm từ này được dịch từ tiếng Anh là “Mediatrix”, vốn có nguồn gốc rất xa xưa, từ tiếng La tinh giống như từ “Mediator” (chỉ người môi giới là nam nhân). Nhưng ở đây, từ “Mediatrix” chỉ bậc nữ lưu có vai trò trung gian hòa giải rất hiệu lực.
Đấng Trung Gian Cầu Bàu là người mang trọng trách của vị môi giới, tức: làm công việc can thiệp hòa giải giữa hai phe, hai phía, nhằm đem cả hai bên về lại với nhau, sống hài hòa. Ở đây, là chuyện hài hòa giữa Thiên Chúa và con người. Đức Giê-su, bằng vào cái chết khổ hình trên thập giá, đã giải hòa nhân lọai với Thiên Chúa là Cha Ngài, sau lần đổ vỡ nứt rạn do các lỗi phạm có từ tổ tiên, cha ông của con người.
Dựa vào vai trò hòa giải của mình, thánh Phaolô đã viết cho đệ tử và là đồng nghiệp của thánh nhân như sau:
“Đấng Trung gian giữa Thiên Chúa và loài người là Đức Giê-su Kitô. Ngài đã thí ban chính mình Ngài như giá cứu chuộc mọi người” (1Tim 2: 5).
Nhìn dưới góc cạnh này, thử hỏi là nếu ta cũng gọi Đức Mẹ là Đấng Trung Gian hoặc Đức Nữ Đồng Trinh Trung Gian, như thế có chỉnh không? Và, nếu có, thì danh xưng ấy hoàn chỉnh như thế nào?
Trả lời cho vấn nạn này, ta cũng nên qui chiếu Hiến Chế “Ánh Sáng Muôn Dân” trong đó Công Đồng Vatican II đã bàn đến những điều Hội thánh Chúa cần tin, đã dạy con dân mình rằng: gọi Mẹ là Đấng Trung Gian Cầu Bàu như thế rất đúng. Đúng theo cả hai nghĩa. Trước nhất, bởi vì Mẹ đã hợp cùng với Đức Giê-su cầu bàu ân sủng của Chúa đổ tràn xuống trên chúng ta; và, Mẹ vẫn tiếp tục làm môi giới cho ta trong công trình cứu độ rất chính đáng, theo nghĩa khách quan. Tiếp đến, Mẹ còn là công cụ của Chúa để phân phát ân huệ Chúa ban cho ta. Đây là ơn cứu độ hiểu theo nghĩa chủ quan.
Công Đồng Vatican còn nhấn mạnh thêm :”Mẹ san sẻ nỗi thống khổ cùng Con của Mẹ khi Ngài chết trên thập giá. Bằng cách này, Mẹ đã hợp tác với Chúa bằng thái độ “xin vâng”, tin tưởng và hy vọng. Ngoài ra, Mẹ còn đốt nóng tình thương mến trong công cuộc Cứu Độ của Chúa khi Ngài tái tạo đời sống siêu nhiên nơi các linh hồn. Chính vì lý do này, Mẹ đã là mẹ thật của chúng ta.
Tình Mẫu tử được thể hiện ngang qua ân sủng vẫn có nơi Mẹ và không ngừng diễn tiến. Mẹ duy trì sự đồng thuận xin vâng không lúc nào ngơi, cả vào giây phút Mẹ ở dưới chân thập giá. Mẹ đã hoàn tất sứ vụ đồng thuận xin vâng ấy mãi mãi không dứt. Cả khi được cất nhắc về trời, Mẹ cũng không quên lãng sứ vụ cầu bàu cho chúng ta. Và Mẹ tiếp tục đem đến cho ta ơn cứu rỗi vĩnh hằng.
Với lòng yêu thương của người mẹ hiền, Mẹ vẫn ân cần chăm sóc cho đàn con yêu dấu, là an hem của Đức Giê-su, là những người còn lưu lạc dưới thế trần này. Những người con của Mẹ đang gặp khó khăn trắc trở đủ điềucho đến khi được Mẹ dẫn dắt về căn nhà êm ấm của họ. Chính vì thế, Đức Nữ Đồn Trinh rất Thánh vẫn được Giáo hội khẩn cầu qua nhiều tước hiệu như Đấng Bào Chữa, Mẹ Hằng Cứu Giúp, Ân Nhân, và Đấng Trung Gian Cầu Bàu.” (Hiến Chế Ánh Sáng Muôn Dân 61-62).
Công Đồng cứ thế tiếp tục làm sáng tỏ và nói rằng: vai trò trung gian của Đức Mẹ không làm mất đi thiên chức trung gian độc nhất của Đức Kitô. Đúng hơn, công việc của Mẹ là hỗ trợ cho vai trò của Chúa và cùng tham gia vào việc ấy (x đoạn 62). Cũng vậy, trong chừng mực nào đó, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đồng san sẻ công tác cầu cùng Chúa cho bà con bè bạn của mình đưuợc tọai nguyện.
Xem như thế, Đức Mẹ thật sự là Đấng Trung Gian Cầu Bàu, chắc chắn là thế rồi. Nhưng có nên tiếp tục gọi Mẹ là Đấng Trung Gian Cầu Bàu cho mọi ân sủng, chăng?
Như đã thấy, Công Đồng Vatican II đã không đín kèm cụm từ “cho mọi ân sủng của Chúa” vào với tước hiệu trên của Mẹ. Tuy nhiên, trong thong điệp của một số các Đức Giáo Hoàng lúc trước có nói rất rõ vai trò của Mẹ là ban phát ân sủng mà Mẹ tạo được từ Chúa; tức: nối kết rất lớp lang và hợp lý vai trò tiếp nhận ơn lành Chúa ban.,
Chẳng hạn như: Đức Giáo Hoàng Lêo XIII trong thong điệp Superiore Anno (1884) có nói là lời cầu dâng lên Chúa đều “ngang qua Mẹ”. Vì Mẹ là Đấng được Chúq chọnđể ban phát mọi ân huệ từ trời ban xuống. Năm 1891, cũng trong thong điệp Octobri Mense, Đưa Giáo Hoàng Lêô bày tỏ một cách rõ ràng hơn tín lý này, khi ngài viết:
“Với chân lý ngang bằng, ta có thể quả quyết rằng: thánh ý Chúa cho biết không có gì được ban cho từ kho tàng ân huệ quý báu mà Chúa tích tụ để ban cho chúng ta mà lại không ngang qua Mẹ của Ngài.”
Cả đến Công Đồng Vatican II cũng đã trích dẫn nhiều lần các đọan quả quyết giống như trên từ thong điệp của các Đức Giáo Hoàng như Đức Lêô Xiii, Đức Piô X, XI, và XII. Nói tóm, rõ rang là Đức Maria chính là Đấng Trung Gian Cầu Bàu cho mọi ơn lành Chúa ban, dù tước hiệu của Mẹ không được minh định như tín điều buộc con dân Hội thánh ta tin.
*
Trong không khí rất tĩnh và cũng rất năng động của Tháng Hoa, tháng ngày đầy những nguyện cầu và cầu bàu, bạn và tôi hãy nhớ đến Mẹ Hiền của Giáo hội, là Đấng trung Gian Rất Cầu Bàu cho mọi ơn lành, đặc sủng. Nhớ, để một lần nữa, cùng khẳng định với các Đức Giáo Hòang xưa cũng như nay, rằng: Không có Mẹ làm Trung Gian Cầu và Bào chữa cho, thì lời cầu của ta chắc chẳng bao giờ đạt.
Trần Ngọc Mười Hai nhiều lần vẫn cứ quên điều hệ trọng ấy
“Lênh đênh ngàn mây trôi êm đềm” (Yn 3: 8)
Một lần nọ, khi viết về đề tài “nghe cũng là quà tặng”, bần đạo có trích dẫn câu nói của vị thiền sư nổi tiếng mang tên Thích Nhất Hạnh, để mở đầu cho chủ đề mình muốn viết. Ít lâu sau, bần đạo nhận được ý kiến phản hồi từ chị bạn rất thân trong cộng đoàn, chị tỏ ý bảo rằng: sao anh lại đăng ý kiến lập trường của nhân vật gây nhiều tranh cãi về thái độ ông ta giao kết với giới bạo tàn, ở trong nước, vậy?
Hôm nay, bần đạo gợi lại tên tuổi của một hiền nhân khác có nhắc đến ý kiến “không hề gây tranh cãi” của thiền sư Nhất Hạnh, như sau:
Có lần Thích Nhất Hạnh viết: “Đạt tới được Thiên Chúa ngang qua Đức Thánh Thần của Ngài, bao giờ cũng an toàn hơn đi vào thần học.”
Tôi thấy, tác giả “Living Buddha, Living Christ” dù ông cũng là nhà thần học theo nghĩa thâm sâu, nhưng ở đây ông nói đến Thiên Chúa bằng chính kinh nghiệm sống của mình. Ông nói bằng diệu cảm. Bằng tiếng nói thần thiêng của Thánh Thần Chúa đang chiếu sáng tâm can của mỗi người. Thành thử, nếu ta lắng tai nghe tiếng của Thánh Thần Ngài một cách cẩn trọng, ta sẽ nghe được chân lý ngàn đời. Chân lý vẫn diễn tả ra ngoài bằng đường hướng mới. Đường hướng gây sửng sốt lòng người, không ít.
Môt lần khác, Thích Nhất Hạnh cũng đã viết:
“Bàn cãi nhiều về Thiên Chúa không là cách thức hay nhất để ta sử dụng năng lượng theo phương pháp tốt đẹp. Nếu ta sờ chạm được Thánh Thần Ngài, ta cũng sờ chạm được Thiên Chúa không như một ý niệm trừu tượng, mà là Thực Thể rất sống động.” Thiền sư Nhất Hạnh nói thế có nghĩa: ông đã dịu dàng chìa đôi tay nhẹ nhưng vững dẫn ta ra khỏi nền thần học trừu tượng, đến với thực tại sống động. Ông cũng trân quý ý niệm trừu trượng vẫn có đó, nhưng ông coi đó như phương tiện, chứ không phải cứu cánh.
Từ lâu, tôi được vinh hạnh gặp mặt nhiều anh chị từng gần gũi Đức Phật sống, Đức Kitô sinh động, các anh chị ấy có nổi tiếng hay không, chẳng là chuyện cần thiết. Nhưng, chỉ với sự hiện diện của các anh chị thôi, cũng đã làm cho chúng ta “tỉnh giấc chiêm bao”. Và, cũng thách thức tính tự mãn của ta, rất nhiều.” (Brother David Steindl-Rast, OSB viết lời tựa cuốn Living Buddha Living Christ, Thích Nhất Hạnh, 1995, tr. 13-18)
Lời lẽ trên đây của một sư huynh nhà Đạo nói về một thiền sư ngoài Đạo, về sờ chạm Đấng Thần Linh Thánh Ái của Chúa, hẳn là trường hợp hi hữu, ít thấy. Và, sự việc trên xảy ra hồi thập niên ’90. Tính đúng, cũng đã hơn chục năm. Cứ sự thường, mỗi lần thành viên các tôn giáo lớn gặp nhau, hay có những đụng chạm cãi vã, và tranh luận.
Nhưng ở đây, chừng như họ đã cảm phục nhau, sau lần nhìn nhau, thấy tận mặt. Cảm phục và thân thương, vì đã sờ chạm Thần Linh Chúa. Xem thế, chính Thần Linh Ngài đã tạo nên cuộc gỡ trong tương quan rất chân tình. Cũng bằng tình thân, Thánh Thần Chúa đã soi sáng kết hợp các người anh em từng là “người dưng khác họ, chẳng lọ thời kia..” Từ đó, ta dám nói: Thần Linh Chúa là đầu giây liên kết cho mọi tình tự thân thương, tình đại kết. Dù chỉ là bước đầu, nói cho cùng, đây cũng không là đoạn cuối của cuộc tình đại kết. Nhưng, đây chính là tình thân thương mang tính miên trường. Tình người đại kết. Hết mọi tôn giáo.
Có để tâm theo dấu vết sự việc đã xảy ra vào độ trước hoặc những lúc gần đây, bạn và tôi sẽ nhận ra nhiều điều đáng ta quan tâm. Nhiều điều rất khích lệ. Cụ thể, phải nói Thần Linh Chúa vẫn thao tác hoạt động nơi mỗi mgười. Và mọi người. Xưa cũng như nay. Xưa như ngày Lễ Ngũ Tuần, thời trước. Thời kéo dài xuyên suốt qua chiều dài lịch sử cứu độ rất Hiển Linh. Rất quang vinh. Thời nào cũng thế, Thánh Linh Chúa vẫn cứ “Hiển” và cứ “Linh”, với cộng đồng dân con Đức Chúa, nơi trần thế. Trong ngoài Đạo.
Dẫn chứng cho tính Hiển và Linh này, vào buổi giao ban Thánh Giá và Ảnh Đức Mẹ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Rô-ma tháng 7/2007, Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đi-tô XVI có nói với người trẻ hiện diện ở đó, như sau:
“Các bạn trẻ thân mến của cha, Ai cũng biết yêu người và được người yêu là một tiến trình kéo dài. Cũng thế, yêu người không phải lúc nào cũng dễ. Có khi ta gặp nhiều khó khăn, lầm lỡ và thất bại. Nên có người sinh ra nghi ngờ cả khả năng yêu nữa. Tuy nhiên, nếu ta cứ lẩn tránh yêu người thì chắc chắn là ta sẽ nghĩ rằng tình yêu là một chuyện không tưởng và như giấc mơ không bao giờ đạt được vậy. Không. Tình yêu bao giờ cũng là chuyện có thể thực hiện được. Và, mục đích của thông điệp cha gửi đến hôm nay là các bạn hãy tự đánh thức mình và tin rằng: niềm tin nơi tình yêu là chuyện có thật, đáng tin và vững chãi. Tình yêu tạo an bình và hứng khởi. Tình yêu liên kết hết mọi người, cho phép họ tôn kính lẫn nhau trong tự do.
Các bạn trẻ thân mến,
Hãy nuôi dưỡng tài năng của mình không chỉ để có chỗ đứng trong xã hội mà thôi, nhưng còn để giúp người khác “tăng trưởng”. Hãy mở mang kỹ năng của các bạn không chỉ giúp mình có thêm hiệu năng, cạnh tranh nhau hơn, nhưng để trở thành nhân chứng cho tình bác ái. Hãy cố gắng tự tạo cho mình kiến thức về lòng Đạo để giúp mình thực hiện sứ vụ được ủy thác theo phương cách có trách nhiệm.Cha kêu mời các bạn hãy dày công nghiên cứu học thuyết xã hội của Giáo Hội để rồi các nguyên tắc của học thuyết này sẽ gợi hứng chỉ dẫn mọi họat động mà bạn đang thực hiện với thế giới hôm nay.
Xin Thánh Thần Chúa soi sáng cho các bạn trở nên sáng tạo trong yêu thương, bền vững trong cương quyết và dũng cảm trong các sáng kiến của mình. Có thế, các bạn mới có khả năng đề xuất những đóng góp cho việc dựng xây “nền văn hóa yêu thương”. Chân trời của tình yêu quả thật không có biên giới: chân trời ấy chính là trọn vẹn thế giới này.”
Xuyên qua các tư tưởng và ý kiến của các bậc hiền nhân ở trên, hẳn ta đều thấy rõ một điều: Thần Linh Chúa là Đấng ta có thể sờ chạm được. Vì, chính Ngài là nguồn hứng khởi, của tình yêu. Nguồn hy vọng cho mọi tương lai đang sáng ngời, của cả thế giới. Của toàn thể nhân loại. Tức những con người bằng xương bằng thịt đang hiện diện một cách đầy sinh động. Hiện diện quanh ta và với ta.
Thế giới đây là chính ta. Những người không còn trẻ hay vẫn trẻ. Bởi lẽ, trẻ hay không vẫn là người. Là thế giới. Và, thế giới hôm nay, cần dựng xây nền “văn hóa của yêu đương”. Văn hóa của Thần Linh Chúa, đích thị là Nguồn Hy Vọng cho mọi người. Mọi việc. Và Thần Linh Chúa gửi, không giới ranh:
“Với những người được Chúa sai đi, đều nói Lời của Chúa, vì Ngài gửi Thánh Thần đến, không hạn chế, không giới ranh.” (Yn 3: 34)
Ở một đoạn khác, thánh sử Gio-an cũng nói thêm:
“Đức Chúa là Thần Linh người phụng thờ Ngài phải phụng thờ trong thần khí và sự thật.” (Yn 4: 24)
Để phụng thờ Chúa trong sự thật, có lẽ cũng nên nhận diện Thần Khí Nguồn Hy Vọng, qua sự vật ta sờ chạm bằng những sự vật thân thương chân tình, trong cuộc sống, như truyện kể dưới đây:
Trong phòng tối có 4 ngọn nến đang cháy sáng. Vạn vật xung quanh trở nên im ắng cách lạ thường. Im đến độ ta có thể nghe tiếng thì thầm của mọi vật. Bất chợt, ngọn nến thứ nhất lên tiếng nói: Tôi đây hiện thân của HÒA BÌNH. Không có tôi, mọi sự sẽ ra như thế nào? Tôi quả là quan trọng hơn hết mọi người. Mọi sự.
Ngọn nến thứ hai cũng mạnh dạn góp giọng: Tôi đây, hiện thân của TRUNG TÍN. Mọi người mọi thời, lúc nào cũng cần đến tôi. Hơn tất cả mọi thứ.
Đến phiên mình, ngọn nến thứ ba cũng phân bua:Tôi đây, hiện thân của TÌNH YÊU. Tôi mới thật sự quan trọng. Quan trọng hơn tất cả. Giả sử không có tôi - TÌNH YÊU, hẳn là chẳng ai làm nên tích sự gì được! Và, cuộc đời con người sẽ ra sao?
Bất chợt, cửa phòng mở tung ra. Một cậu bé chạy vội vào phòng, kéo theo sau cậu, là cơn gió mạnh lùa vào làm tắt ngúm tất cả ba ngọn nến vừa lên tiếng. Thấy vậy, cậu bé sửng sốt òa lên khóc, và nói: Tại sao cả ba cây nến lại tắt cả vậy?.
Lúc ấy, ngọn nến thứ tư mới kịp lên tiếng, bảo: Này cậu bé, đừng quá lo lắng như thế. Khi tôi đây còn cháy sáng, thì cậu vẫn có thể thắp lại ba ngọn nến kia. Bởi, tôi chính là NIỀM HY VỌNG. Hãy dùng tôi mà thắp sáng cho họ đi. Hãy lau khô những giọt nước mắt của cậu đi. Hãy giữ nguyên hy vọng. Giữ lại mà vui sống.
Nghe xong, cậu bé gạt nước mắt, rồi thắp sáng lên những các ngọn nến vừa chợt tắt.
Vậy hỡi các bạn,
Hãy luôn gìn giữ và thắp sáng ngọn lửa HY VỌNG của mình và của những người sống chung quanh mình, bạn nhé. Vì một khi có được lửa HY VỌNG, tất cả chúng ta đều có thể thắp sáng mọi lửa HÒA BÌNH, TRUNG TÍN và TÌNH YÊU.
Đừng bao giờ để lửa HY VỌNG tắt nhé. Và, thành công sẽ đến với các bạn.
Đúng thế. Dù Hòa bình, Trung tín và Tình yêu đều đã ra đi tắt lịm, thì bạn và tôi vẫn còn có Nguồn HY VỌNG CHÚA THẦN LINH để trông chờ. Để kiên trì hành động hầu đạt được thành công, theo ước nguyện. Thành thử, hãy thắp sáng lên, lửa HY VỌNG của chính bạn, và của tôi nữa. Thắp lên niềm Hy Vọng, vẫn còn đó. Thắp lên, để rồi ánh sáng của ngọn nến ở cuối đường hầm đời mình, sẽ lại lóe sáng trong đêm thâu. Đêm kéo dài cả một đời người.
Trần Ngọc Mười Hai Vẫn tự nhủ thầm như thế quanh năm suốt tháng.
“Và niềm tin đã dâng về người, tôi hy vọng được ơn cứu rỗi ” Thường ngày, bần đạo rất vui và rất thích mở báo điện tử Viet Tide ra để đọc các bài của tác giả Bùi Bảo Trúc có đề tựa “Thư Gửi Bạn Ta”, hoặc “Chữ Nghĩa chúng ta”, v.v… Nói vui và thích, là vì tác giả họ Bùi là một nhà văn và nhà báo rất thông thạo chữ nghĩa, lại thích trích dẫn thơ văn của người xưa. Thông thường, thì các tác giả, khi viết bài, đều kết luận bài viết của mình bằng đường lối mà người xưa gọi là “happy ending” (tức: kết có hậu). Riêng tác giả họ Bùi, thì bần đệ có nhận thấy: thi thoảng, ông lại kết bằng những cụm từ nghe rất chán, như: “Rõ thật chán!”, “Chán đến thế là cùng!”, “Chán không thể chịu được !”… mặc dù bài ông viết và kể vẫn rất vui và khá lý thú. Ngẫm lại cuộc đời, ta phải công nhận rằng: 60 năm cuộc đời này có là bao, mà sao người đời thường dễ thấy chán. Chán nhiều hơn thích. Chán sống. Chán đời, hay chán ngán. Nói đi thì bảo rằng thích, nói lại thì kêu là chán, có phải tất cả đều là những tình tự xuất phát từ con người chăng ? Nhập-mục đề tài chuyện phiếm hôm nay, bần đệ kính mời bạn bè người thân, cùng nhau ta loanh quanh bàn chuyện lòng Đạo và lòng người. Mạn phiếm và mạn bàn, để xem lòng Đạo người nhà mình có “như lá úa trong cơn mưa chiều”, rất đáng chán không. Có nên “kết hậu” chuyện anh em mình bàn không? Hay, ta chỉ nên kết bằng cụm từ “đáng chán” như tác giả họ Bùi thường làm ? Nhất là, mấy ngày qua, người nhà Đạo mình vừa trải qua giai đoạn “chán chết” rất sầu buồn, vì Đức Chúa cứ chịu cảnh “lòng người như lá úa”, lúc sinh thì. Còn chuyện gì rất-đáng-nhưng-không-chán, như chuyện Thầy Chí Thánh hỏi ta qua chị Mác-ta: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không ?” ( Ga 11, 25 ) Nói đến chuyện buồn và chán, thì chán nhất là chuyện chết. Ấy thế mà, Thầy Chí Thánh vẫn mặc lấy cho Ngài cả sự sống, lẫn sự chết. Thầy còn chết một cách tưởng-như-là thảm hại. Chết nhục nhã. Chết, theo cách nói của tác giả họ Bùi, “thật rõ chán”! Chán chết ! Hoặc, chán đến chết. Thế nhưng, Thầy vẫn cứ chịu nỗi “chán chết”, và những sự “chán đến chết”, chỉ vì con người. Cam chịu nỗi chết và cảnh buồn chán như thế, vì “Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Tin vào Thầy, ta sẽ không còn thấy sự chết, hoặc những sự “chán chết đi được”, nữa. Vì, Thầy vẫn bảo: “Ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống.” Sống như Thầy nói là sống vui. Sống không còn biết chán. Nói các khác, người người thường hay nói “chán”, là chưa hoàn toàn tin cho đủ. Bởi, chưa tin nên mới thấy chán. Mới chán sống. Chán đời. Chán cả chuyện tin lẫn tưởng. Và, nhất là, chưa gặp niềm vui đi Đạo. Trong Đạo. Chính vì thế, Chúa thường giảng giải: “Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin, thì giả như tôi nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được ?" (Ga 3, 12) Ở đoạn khác, trong Tin Mừng theo Thánh Gio-an, Chúa còn nhất mực quả quyết: “Vì nếu các ông tin ông Mô-sê, thì hẳn các ông cũng tin tôi, bởi lẽ ông ấy đã viết về tôi. Nhưng nếu điều ông ấy viết mà các ông không tin, thì làm sao tin được lời tôi nói ?" (Ga 5, 46) Xem như thế, có tin mới hết chán. Và, tin là tin ai. Tin vào lời của ai đó. Và, tin vì đã thấy và nghe được những quả quyết của Đức Chúa. Thế nhưng, có những điều người người đã thấy và biết, vẫn không tin. Vẫn cứ bảo “rõ thật chán chuyện !”, “Chán đến độ hết muốn tin !” Hết muốn tin, hoặc đã hết tin, như ở đoạn khác, trong Tin Mừng: “Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! Nhưng tôi đã bảo các ông: các ông đã thấy tôi mà không tin.” (Ga 6, 35b – 36 ) Quả như Chúa nói, sở dĩ người Do Thái xưa – và những người rất thông thái hôm nay – vẫn thấy đói và khát, là vì họ không tin vào Đấng-Là-Bánh-Hằng-Sống. Vẫn cứ đói và khát sự vui mừng. Những người như thế, bạn và tôi xưa nay vẫn từng nghe biết. Vẫn từng gặp, rất nhiều. Truyện dưới đây, là trường hợp cụ thể minh hoạ cho điều ta vừa đề cập ở trên. Rất đặc trưng như sau: “Có một giáo sư đại học nọ thuộc giới vô thần, không tin có Trời-Phật gì hết. Nhưng, ông lại thích nói chuyện thần thông, sáng láng. Buổi dạy hôm ấy, vị giáo sư vừa vào lớp dạy đã kể cho sinh viên nghe một câu chuyện khoa học, rất thường thức. Kể chuyện khoa học là để học tập, chứ không phải để thực nghiệm hay xét nghiệm gì hết. Các truyện mà vị Giáo sư này kể, thường là chuyện khoa học cũng thường thức như ta vẫn có với Đức Chúa, Đấng Thần Thông Sáng Láng. Giáo sư mào đầu câu chuyện xong, bèn chỉ vào người sinh viên đi Đạo mới vừa nhập trường, và hỏi: Giáo sư: Có phải là em theo Đạo Chúa, không? Sinh viên: Dạ, đúng. Giáo sư: Như thế, là em tin có Chúa, phải không? Sinh viên: Dạ, đúng. Giáo sư: Thế, Chúa có tốt lành không em? Sinh viên: Dạ, thưa thầy dĩ nhiên là Chúa tốt rồi. Giáo sư: Chúa quyền năng ghê gớm lắm phải không, em? Sinh viên: Dạ, đúng thế. Giáo sư: Vậy, thế tại sao thầy đây có người anh vừa chết vì bệnh ung thư. Ông cầu nguyện với Chúa của ỗng dữ lắm, mà cũng chẳng ăn thua gì. Em biết ! Phần đông chúng ta đều giúp đỡ nhau khi thấy ai đau yếu, bệnh tật. Còn Chúa thì không. Như thế, Chúa có tốt lành gì đâu ! (Cả lớp học bỗng im lặng. Không ai nói điều gì). Giáo sư: Em không trả lời được, phải không? Để thầy hỏi lại nhé. Chúa có thật sự là tốt không? Sinh viên: Có đấy, thầy. Giáo sư: Thế, Xa-tan cũng tốt chứ? Sinh viên: Không. Giáo sư: Xa-tan từ đâu mà ra? Sinh viên: Dạ, từ… Chúa! Giáo sư: Đúng. Vậy, hãy nói cho thầy biết, ở thế giới này ác độc sự dữ có hiện hữu không? Sinh viên: Dạ, thưa có. Giáo sư: Như vậy là, độc ác dữ tợn có ở khắp mọi nơi phải không ? Và, Chúa làm nên mọi sự. Có đúng không? Sinh viên: Dạ, đúng thế. Giáo sư: Vậy, ai dựng nên độc ác dữ tợn? (Đám sinh viên không thấy nói gì thêm) Giáo sư: Trên đời, thực sự có ốm đau, bệnh tật, phải không? Thế, có những chuyện gọi là vô luân, không? Có ghét ghen, chuyện xấu đủ mọi cỡ phải không? Tất cả những điều ghê khiếp ấy đều thấy có trên thế giới này, phải thế không? Sinh viên: Dạ thưa, đúng thế. Giáo sư: Nếu thế, ai là người dựng nên những thứ ấy? (Không thấy có ai trả lời câu hỏi này) Giáo sư: Đây này, khoa học cho biết ta có tất cả là 5 giác quan có thể mang ra sử dụng để định hình và quan sát thế giới quanh ta. Vậy, em hãy nói cho thầy biết…em có thấy Chúa bao giờ chưa? Sinh viên: Dạ, thưa chưa. Giáo sư:Thế, em có nghe Chúa nói chuyện bao giờ không? Sinh viên: Dạ, không. Giáo sư: Có khi nào em sờ thấy Chúa, nếm được Chúa và ngửi mùi thơm của Chúa không? Có bao giờ em có cảm giác đại loại như thế về Chúa, không? Sinh viên: Dạ, không. Chưa bao giờ em được như thế. Giáo sư: Nhưng, em vẫn tin có Chúa chứ? Sinh viên: Dạ, đúng thế. Giáo sư: Theo qui ước, thì những gì đã thực nghiệm được, nếm được và chứng minh được, khoa học lâu nay vẫn bảo: Chúa không có thật. Em thấy thế nào về nhận định này của khoa học? Sinh viên: Dạ, không thấy gì hết. Chỉ tin thôi. Giáo sư: Đúng. Tin. Niềm tin. Chính đó mới là vấn đề mà khoa học đang gặp. Sinh viên: Thưa Giáo sư, em xin hỏi nóng có thật không? Giáo sư: Có, chứ em. Sinh viên:Thưa Giáo sư,có thứ gì gọi được là lạnh không? Giáo sư: Có chứ. Sinh viên: Không, thưa Giáo sư. Những thứ ấy, không có thật. (Tới đây, giảng đường bỗng im phăng phắc, cả thầy lẫn trò không ai nói điều gì). Sinh viên: Thưa Giáo sư, ngôn ngữ chúng ta nói đến rất nhiều thứ nóng: có cả những cái rất nóng, siêu nóng, thiên nóng vạn nóng, nóng trung trinh, nóng chút đỉnh hoặc chẳng nóng gì hết. Nhưng lại chẳng có thứ gì gọi là lạnh, hết. Ta có thể đạt thấp xuống tới 485 độ âm. Như thế có nghĩa là: ở đó không có nóng, nhưng ta lại không thể đi sâu xuống độ lạnh hơn thế. Thật sự mà nói, chẳng có gì gọi là “lạnh” hết. Lạnh, chỉ là từ ngữ ta dùng để mô tả sự vắng mặt của cái gọi là “nóng”, thôi. Ta không thể đo lường được “lạnh”. Nóng, là năng lượng. Còn, thưa giáo sư, “lạnh” lại đối nghịch với nóng. Nó chỉ là sự vắng bóng của nóng, mà thôi. (Giảng đường bỗng lặng im như tờ...) Sinh viên: Thưa giáo sư, giáo sư nói thế nào về tăm tối? Có tăm tối không? Giáo sư: Có chứ. Thế, đêm là gì, nếu không phải là tối tăm. Sinh viên: Thưa Giáo sư, Giáo sư lại sai nữa rồi. Tăm tối là sự vắng mặt của một thứ gì đó. Giáo sư có thể có sáng riu riu, sáng bình thường, sáng quắc, sáng nhấp nháy, vv.. Nhưng, nếu không thấy ánh sáng liên tục, Giáo sư sẽ không thấy gì hết và điều đó gọi là tăm tối. Thưa, có phải thế không ạ? Nhưng, trên thực tế, tăm tối không có thật. Bởi, nếu có, thì bản thân Giáo sư, Giáo sư có thể làm cho tăm tối trở nên tối tăm hơn, có phải không ạ? Giáo sư: Vậy thì, quan điểm của em là ở chỗ nào, hỡi bạn sinh viên trẻ? Sinh viên: Dạ thưa giáo sư, quan điểm của em là thế này: Giáo sư đã triết lý và lập luận một cách sai bét. Giáo sư: Sai bét ư? Em cứ giải thích, rồi ta xem. Sinh viên: Dạ thưa giáo sư. Cho đến giờ, giáo sư lập luận theo kiểu lưỡng nguyên. Giáo sư cho rằng: đã có sự sống. Rồi, cũng có sự chết. Có Chúa tốt lành và có thần linh xấu. Giáo sư có trong đầu cái quan niệm cho rằng Đức Chúa là cái gì hữu hạn. Là, những gì ta có thể đo lường. Em xin thưa với Giáo sư, là: khoa học không thể nào giải thích được, dù chỉ là tư tưởng. Nó sử dụng điện năng và từ trường, nhưng chẳng bao giờ nhìn thấy được những thứ ấy. Và, cũng chẳng tài nào hiểu được một trong hai thứ. Nếu nghĩ cái chết là thứ gì đối nghịch lại sự sống, tức là mình đã u mê không rõ được sự thể là: cái chết không hiện hữu như sự vật hiện hình. Chết, không phải là cái gì đối nghịch lại sự sống: mà chỉ là vắng bóng sự sống, thôi. Đến đây, em xin phép được hỏi Giáo sư một câu: có phải Giáo sư từng dạy cho các sinh viên học trò của Giáo sư biết, là: họ tiến hóa từ con khỉ, có phải thế không? Giáo sư: Nếu em muốn nói đến cuộc tiến hóa tự nhiên, thì đương nhiên là như thế. Đúng là, thầy đã từng nói với các Sinh viên của thầy như thế. Sinh viên: Dạ thưa Giáo sư, có bao giờ Giáo sư quan sát sự tiến hóa của con người bằng chính con mắt của Giáo sư không?(Giáo sư lắc đầu kèm theo một nụ cười mỉm, khá ái ngại. Không biết tranh luận sẽ đi về đâu…) Sinh viên: Bởi lẽ, chưa có ai chứng kiến tận mắt công cuộc tiến hóa ngay tại chỗ. Và cũng chẳng có ai dám quyết đoán tiến hoá này là sự tăng trưởng vẫn còn đang diễn tiến. Nên, không biết là Giáo sư có dạy cho các sinh viên biết lập trường của mình không, thưa Giáo sư? Có đúng, Giáo sư không phải là nhà khoa học, mà chỉ là Giáo sư giảng dạy thôi, phải không? (Đến đây, cả giảng đường bỗng có tiếng xầm xì...) Sinh viên: Xin hỏi, có ai trong giảng đường này từng được thấy tận mắt bộ óc nhũn nhẽo của Giáo sư thầy mình không?(Giảng đường bỗng phá lên cười ầm) Sinh viên: Ai trong chúng ta từng được nghe bộ óc của ông thầy mình, từng sờ thấy, từng có cảm giác hoặc ngửi thấy óc nhũn nhẽo của Giáo sư thầy mình, không? Xem ra, chưa từng có ai làm được như thế, phải không nào. Vậy thì, theo qui luật về những gì đã thực nghiệm được, những gì khá vững chắc, và có thể chứng minh được, khoa học vẫn bảo rằng: thưa giáo sư yêu dấu, giáo sư thật ra không có óc, gì hết. Với tất cả lòng tôn kính sẵn mà các sinh viên học trò đây dành cho thầy mình, thì thưa giáo sư, làm sao tụi em có thể tin vào những điều giáo sư đang dạy được? (Giảng đường lại im lặng. Giáo sư nhìn trừng trừng vào người sinh viên vừa phát biểu. Mặt ông gồng cứng, thất thần...) Giáo sư: Thì, thầy thiết nghĩ, em cứ việc đem tất cả những thứ ấy mà đưa vào lòng tin của mình mà thôi, hỡi người bạn trẻ. Sinh viên: Đúng là như thế, thưa giáo sư… Và, sợi giây liên kết giữa người với Chúa, với Trời là NIỀM TIN, mà thôi. Chỉ có NIỀM TIN mới tồn tại làm cho mọi sự, mọi việc cứ thế mà chuyển động. Cứ thế mà có thật thôi. Truyện kể ở trên vẫn nhẹ nhàng. Chỉ có thế. Nhè nhẹ và làng nhàng, như bất cứ chuyện phiếm những kể lể. Tức, chỉ làng nhàng, kể lại để nghe cho vui. Chứ tuyệt nhiên không có ý muốn thuyết phục ai. Và, cũng chẳng có ý giảng và thuyết như một bài chia sẻ, ở nhà thờ. Giảng về niềm tin. Thuyết về niềm riêng. Có thương và có yêu. Nói cho cùng, mỗi lần phiếm, bạn và tôi không kỳ vọng coi đó như bài giảng, để thuyết phục người đọc. Chí ít, là như bài dạy của vị giáo sư trong truyện. Phiếm loanh quanh nhè nhẹ, chỉ để mua vui với bầu bạn một đôi phút. Những mong bầu bạn sẽ cùng bần đệ, ta cứ tiếp tục phiếm nhẹ như thế, trong mai ngày. Rất cầu và cũng rất mong.
Trần Ngọc Mười Hai, vẫn cứ cầu mong được phiếm nhẹ với bầu bạn ở khắp nơi.
An ninh, an bình và bất an (Lc 21: 34)
“Cầu chúc mọi người có được bình an của Chúa,nhất là trong giai đọan này”.
Lời chúc trên đây, là chuyện thường ngày, ở khắp nơi. Chí ít, là tại các quốc gia hiện có những người thuộc giáo phái cực đoan nào đó. Nhưng, an bình và bất an là hai phạm trù lúc nào cũng đối chọi nhau, như thuyết nhị nguyên. Tức, hai mặt của cùng một thực tế, rất đời thường.
Nhìn vào cuộc sống hôm nay, tại nơi ăn chốn ở rất thân và rất thương của mình, người người đều thấy chuyện này quả thật: rất đúng. Chẳng cần nhắc lại chuyện xa xôi thời Cựu Ước, mà làm chi. Chỉ cần liên tưởng đến những năm tháng gần đây, với các biến cố, như: 9/11, cuộc chiến Afghanistan, nội chiến Irắc, và các vụ nổ ở những nơi tưởng-như-an-toàn, ta vẫn nơm nớp lo sợ sẽ xảy ra ngay bên mình một tự sát ôm bom vì …đạo, hay vì thứ gì khác. Tóm lại, hơn bao giờ hết, người người cảm thấy trần gian không còn an toàn như thuở nào, nữa. Và, nhiều người cũng có ý định truy tầm nguyên do, để dựa vào đó mà phòng ngừa mọi bất trắc, có thể xảy đến. Trong truy tìm, ta nhận ra là: bất trắc xảy đến, không chỉ mới đây, do ngẫu nhiên. Nhưng, từ ngàn xưa, vào thời Đức Kitô, cũng đã có những dặn dò từ Đức Chúa, tựa như:
“Anh em hãy cảnh giác và đề phòng.” (Lc 21: 34) Hoặc: “Anh em hãy tỉnh thức vì không biết ngày nào, giờ nào chủ nhà sẽ đến.” (Mc 13: 35) Thật ra, có tỉnh thức hay vẫn còn nằm mơ, thì bất an vẫn cứ “rồi đến rồi đi”, chẳng hẹn hò. Tựa như Yu-đa Is-ca-riốt, rõ ràng là anh ta đã được báo trước để cảnh giác. Nhưng, anh vẫn xúc tiến sự việc để “bất an” xảy đến hầu thử tài ứng biến của Thầy. Cả đến vị tông đồ “trưởng thượng” là thánh Phê-rô cũng vậy. Dù được Thầy “cảnh báo” rất căng về hành vị chối Chúa sắp vi phạm, thánh nhân vẫn một mực thanh minh:
“Thưa Thầy, con sẵn sàng đến chốn tù tội, chết cũng được” (Lc 22: 34)
Xem như thế, vấn đề cần đặt ra, là: tại sao nhiều vị đã từng đề cao cảnh giác và tỉnh thức từ khuya, nhưng sao sự ác/khổ đau vẫn cứ xảy đến? Thậm chí, có vị vấn nạn cả Thượng Đế, khi khổ đau/sự ác cứ xuất hiện và tăng tiến. Như vụ 9/11 chẳng hạn, tại sao biến cố “ác độc” như thế lại xảy đến với những người hiền lành, vô tội chỉ biết đến sở, để đi làm? Câu hỏi này, đã được Anne Graham (con gái nhà thuyết giảng nổi tiếng Billy Graham), đã bày tỏ ý kiến vào năm đó, ngay sau biến cố:
“Tôi tin là, Thiên Chúa rất đau buồn về chuyện này. Cũng hệt như chúng ta vậy. Đã, từ lâu, chúng ta cứ muốn Thiên Chúa phải ra khỏi trường học và guồng máy chính quyền, các nước. Và, chúng ta không còn muốn Chúa có mặt trong cuộc đời nữa. Tôi nghĩ, vốn là Bậc Chính nhân Quân tử, tự khắc Ngài cũng lẳng lặng mà rút lui. Ngài đã ra khỏi những nơi ta đòi Ngài xa lánh. Chuyện này thật đơn giản và dễ hiểu.
Thử nghĩ mà xem, tại sao ta mong đợi Ngài chúc phúc ơn lành xuống cho ta, và che chở ta thoát khỏi các biến cố thất lợi như: thiên tai, mất mùa,giặc giã, chiến tranh, chém giết hoặc ôm bom tự sát, vv.. trong khi đó, ta mời Ngài đi chỗ khác chơi để ta rảnh tay hành động theo ý mình.
Như Madeline O’Hare chẳng hạn, cô lên tiếng không cho tôn giáo dính dự với trường học. Cụ thể, cô không đồng ý cho học sinh được phép đọc kinh trước giờ học. Và, ta cũng đồng ý.
Thậm chí, có người nói: “Không nên đem Kinh thánh vào nhà trường. Kể cả những chương đoạn nào có ghi lời khuyên nhủ của Đức Chúa, như: Chớ giết người”, ‘chớ lấy của người khác”, “hãy yêu thương người đồng loại như chính mình, vv…” Và, ta cũng đồng ý nốt với những người ấy. Đồng ý, để rồi ta thôi không cho Kinh thánh lọt vào nhà trường nữa.
Có ông được tâng làm tiến sĩ, tên Benjamin Spock, còn khăng khăng bảo: không nên la mắng, khiển trách con cái, cả vào lúc chúng hư đốn, mất cảnh giác. Tôi nghĩ, làm như thế là ta đã gây thương tổn nhân vị và niềm tự tin của chúng. Thầy cô và giám hiệu tại trường cũng về phe với những người có lập trường quái đản như ông, còn thêm rằng: ta không được quyền đánh đập hoặc kỷ luật với con em như thế. Dù, chúng có sai quấy hoặc nghịch phá trường ốc. Và rồi, hầu như chúng ta cũng nhất loạt đồng ý với những người ấy.
Có người cho rằng: hãy để cho con dâu, con gái tha hồ phá thai nếu họ muốn. Dù, họ có thổ lộ với cha mẹ mình hay không. Chúng ta cũng đồng ý tuốt luốt chuyện đó. Một số thành viên trong ban quản trị nhà trường có quyết định rằng: cứ để cho nam học sinh dù lớn hay bé sử dụng bao cao su ngừa thai thoải mái. Có như thế, chúng mới chịu khó ở lại trường mà học hành với bạn bè. Rồi nữa, với tư cách là nhà giáo, ta cũng chẳng buồn báo cáo cho cha mẹ chúng biết để có biện pháp chế tài, răn đe. Cứ thế, ta thống nhất ý kiến bằng phiếu bầu đồng loạt.
Một số chức sắc cao cấp có nói: họ chẳng thấy có vấn đề gì, nếu có ai làm điều không hay hoặc không phải ở nơi công cộng, miễn họ chu toàn trách nhiệm ta giao phó, là được. Và, về trường hợp cựu tổng thống Bill Clinton, nhiều người còn thêm: với tôi, ông ấy có lăng nhăng lít nhít chuyện trai gái ngay trong Tòa Bạch Ốc đi nữa, tôi chẳng bận tâm. Miễn sao nền kinh tế nước nhà khấm khá hơn, là tốt rồi.
Cứ thế, ngành truyền thông giải trí vẫn tiếp tục làm nhiều băng hình, phim ảnh hoặc chương trình biểu diễn phơi bày những cảnh lố lăng, giết chóc, bạo lực, phô trương xác thịt một cách trắng trợn, gây gương mù gương xấu cho con trẻ, vv...Trong khi đó, âm nhạc cộng thêm với thuốc lắc, thuốc kích dâm khuyến kích hãm hiếp, chích choác xì ke ma túy, tự tử, đều là những chuyện được mọi giới nhắm mắt, làm ngơ.
Nói tóm, toàn những cảnh đồi phong bại tục theo kiểu quỷ quái. Và, ta vẫn bảo vệ, cho rằng: những chuyện như thế là để giải khuây sau giờ làm việc mệt nhọc; không ảnh hưởng gì đến xã hội cả. Chẳng ai coi đó là chuyện nghiêm trọng, nên cứ thế tiếp tục.
Mãi đến hôm nay, mọi người mới thắc mắc không hiểu sao bọn trẻ thời nay không còn lương tâm đạo đức nữa. Chúng như đần độn đến nỗi không phân biệt được thế nào phải thế nào trái. Chúng coi nhẹ luân thường, đạo lý, cho rằng chuyện ấy là của các cụ già. Thậm chí, có em mới nứt mắt ra, đã biết cầm súng, giết người. Chẳng kể gì đến nạn nhân là ai, bạn bè hoặc thầy cô giáo.
Suy cho cùng, theo tôi thì “gieo gió gặt bão” là chuyện thường tình. Mới đây, nghe nói có cậu học sinh nhỏ viết bức thư ngỏ gửi Chúa của cậu như sau:
“Lạy Chúa, sao lúc này Chúa không ra tay cứu vớt cô bé hiền lành kia?. Cô ta có làm gì đâu, mà lại bị bắn chết vô lý như thế? Cô ta rõ ràng là đang ngồi học bài mà cũng bị giết đấy.”
Ít hôm sau, cậu nhận được thư hồi âm từ một người:
“Này cậu bé biết lo cho người khác, Ta không được phép có mặt vào trường của cậu nữa rồi. Nhưng Ta cảm ơn cậu đã viết thư cho Ta để thăm hỏi lý do. Ký tên: Chúa của con”
Xem như thế, ngày nay, dân chúng tỏ ra ngây thơ hạch sách Thiên Chúa đủ điều. Nhưng hãy tự hỏi lòng mình xem tại sao thế giới của mình đi dần đến chỗ diệt vong, sa hỏa ngục? Thật nực cười khi ta chỉ tin vào những gì báo chí truyền thông nói đến, nhưng lại vẫn muốn đọc kinh thánh xem trong đó nói gì, để còn chỉ trích, chê bai. Thật là lố bịch, khi ta biết rằng người nào cũng muốn lên Thiên Đường hết; nhưng, lại chẳng tin ai, chẳng tin tưởng điều gì. Chẳng làm những điều kinh thánh dạy.
Nực cười hơn, có người còn nói họ tin vào Chúa Mẹ; nhưng mặt khác, vẫn theo vết chân kẻ xấu, làm chuyện tồi bại ác độc không thua ai. Chẳng khác gì Sa-tăng quỷ dữ. Vì, Sa-tăng xưa cũng tin vào Chúa nhưng khi hành động lại trái nghịch hẳn điều Chúa dạy…
Vâng. Ý kiến của cô Anne Graham còn nhiều hơn nữa. Nhưng, nói cho nhiều, cô cũng chẳng trả lời được hết các vấn nạn mà đời thường vẫn đưa ra. Vấn nạn về khổ đau. Về sự dữ/ác thần vẫn xảy ra hằng ngày, như cơm bữa. Cuối cùng, thì Anne Graham hay người nào đi nữa, cũng chỉ gộp chung điều này: Sự xấu/ác độc xảy ra là do con người. Thời ban sơ, người Do Thái hình dung chuyện này bằng hình ảnh ‘con rắn ở vườn Địa Đàng’. Hoặc, chuyện Ca-in giết em mình, chỉ vì ganh ghét, xúc phạm. Và cứ thế, hàng loạt những biến cố, sự kiện khác nhau nối tiếp xảy đến cả ở ngoài đời, lẫn nơi những kẻ cùng trong nhà Đạo. Cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước, đều thấy kể.
Thời nào cũng vậy, các triết gia đã quả quyết: khổ đau/sự ác luôn đi kèm với tự do của con người. Sự ác là hậu quả do con người tạo ra. Có triết gia còn nói: con người thoạt lúc ban đầu, bản tính rất thiện, sở dĩ diễn biến thành xấu/ác, khổ đau là vì có đời sống xã hội, tập quần. Tân Ước, cũng diễn tả Giáo hội thời ban sơ đã kinh qua những bất an/trắc trở, đầy ác tính: “Ta đến không phải để đem bình an đến với mọi người, mà là tình cảnh cha xa con, vợ xa chồng”.
Lâu nay, mỗi lần thấy có sự ác/khổ đau xảy đến, nhiều vị cố tìm cách trả lời về nguyên nhân dẫn đến. Nhưng thật ra, thì từ khi con người có mặt trên đời, thì đau khổ/sự ác đã có sẵn hoặc xuất hiện cùng lúc nhân gian. Có lẽ vì thế mà, tiếng nói đầu tiên của bé em khi chào đời là tiếng khóc. Khóc trước nỗi vui của cha mẹ đang đón chờ.
Thành thử, có làm gì và hỏi gì đi nữa, thì khổ đau/sự ác vẫn luôn có mặt cạnh con người. Vấn đề là, đừng tìm hiểu nguyên nhân/diễn biến. Chỉ nên đáp ứng phải chăng trước các tình huống xấu nhất, mà thôi. Bởi, dù có hỏi nhiều cũng chẳng giải quyết. Chỉ gây thêm tranh cãi, bất bình. Chi bằng, ta trở về với Lời cảnh báo, khuyên nhủ của Đấng từng chấp nhận khổ đau, để ta được cứu rỗi.
Và đây, là bằng chứng:
“Phúc cho ai chịu ưu phiền, đau khổ, vì họ sẽ được ủi an”. (Mt 5: 5)
”Nếu ai muốn theo Tôi, hãy chối bỏ chính mình, vác lấy thập giá (khổ đau) của mình và hãy theo Tôi.” (Mt 17: 24)
Hoặc:
”Khi thấy những điều này xảy đến, các con hãy biết là Nước Trời đã gần kề.”
*
Với lời cảnh báo và khuyên nhủ trên, những ai từng kinh nghiệm về khổ đau/sự ác hãy biết cho rằng: rồi ra mọi người sẽ được ủi an, chúc phúc. Hãy chối bỏ mình mà theo Ngài. Vì, có dấn bước theo Ngài, ta mới hy vọng đạt Nước Trời. Nơi, hạnh phúc diễn ra ngay ở chốn dương gian cuộc đời, nơi ta sống.
Trần Ngọc Mười Hai có những suy nghĩ khi bản thân cũng giáp mặt với khổ đau.
“DÌU NHAU ĐI CHUNG MỘT NIỀM THƯƠNG” ( Lc 6: 20 - 23 ) “Hãy vui sướng trong ngày ấy, hãy nhảy mừng vì này: phần thưởng các ngươi sẽ lớn ở trên trời” Trong những khoảnh khắc kéo dài cả cuộc đời, người dân thị thành thường vẫn có những thắc mắc và vấn nạn về cuộc sống của chính mình. Thắc mắc về chuyện Đạo. Về giữ Đạo cho đúng nghĩa tên gọi của nhà Đạo. Của đường đời đi Đạo. Trong quá trình đi Đạo và giữ Đạo, có những lúc người tín hữu rất chăm đã có không ít hoài nghi về điều mình nghe, biết. Ở vào giây phút rất căng ấy, có khi mình cũng đã hoài nghi cả những gì mình đang rao truyền, nữa. Dẫn chứng các trường hợp kể trên, bạn cũng như tôi, nếu nỗ lực một chút rồi cũng tìm ra thôi. Nó nhan nhản trên sách vở, báo chí, truyền thông, đủ cả. Nhưng, vào dạo gần đây, với phương tiện truyền thông/kỹ thuật như các trang nhà, điện thư, chit chat… bạn và tôi cũng nhận ra điều ấy, thật không khó. Cụ thể như bức điện thư mà phận hèn bọn tôi vừa nhận được là những giòng chảy rất thân và cũng rất thương từ bạn bè thân quen ngày trước. Điện thư là dòng tâm sự sầu buồn, như sau:
“Sau một thời gian dài nguyện cầu và xin cầu nguyện rất hăng, mà vẫn chưa hoặc không được Chúa nhận lời, nhiều lúc tôi cứ nghĩ các cụm từ như “thử thách”, Thánh Giá Chúa gửi” v.v... Chỉ để an ủi lòng mình, mà thôi. Tôi thực tâm đã có lúc muốn ngã lòng…. Trong sống thực ở đời, khi dạy Giáo Lý hay khi nói chuyện, khi viết lách, trao đổi… tôi vẫn chủ trương đề cao tình yêu cao sang, tuyệt đối của Thiên Chúa. Đồng thời, gạt bỏ quan niệm cho rằng “ấy là hình phạt Chúa gửi”... Thế nhưng, tự thâm tâm, trước những “im lặng dễ sợ” của Thiên Chúa trong đáp ứng lời khẩn khoản cầu xin, tôi đã có lần suy nghĩ… hay Chúa lại đã dùng hình phạt đối với tôi? Nhiều lần nghe bè bạn nói tôi thấy cũng rất đúng, chẳng gia đình nào là hoàn toàn hạnh phúc, hết ! Trăm phần trăm hạnh phúc, như nhiều người vẫn vọng tưởng. Nhưng đối với gia đình người Công giáo có hiểu biết, thì thường có sự độ lượng, và cái-gọi-là chín bỏ làm mười”…
Như thế là, qua cụm từ Chúa đã phạt tôi..”, “đều là thử thách”, “Thánh Giá Chúa gửi”, “thực sự có lúc ngã lòng”…bạn và tôi cũng muốn hàm ngụ một điều, rằng: nhiều lúc mình thấy cũng có sự lung lạc nơi niềm tin đang lĩnh nhận ? Thật ra, ở vào một số trường hợp, không hẳn là như thế ! Tuy nhiên, điều dễ thấy nơi một số Giáo Dân bình thường ngoan đạo, thì khi gặp khó khăn hoặc sự cố xảy đến với chính họ; nhất là, khi có mất mát, chia lìa những gì thân thương, mật thiết, thì lung lạc niềm tin cứ thấy xuất hiện. Thắc mắc hay tự nhủ thật ra cũng là điều dễ hiểu thôi. Dễ hiểu, vì các biến cố xảy đến với mình, với người nếu không là mất mát hao hụt điều mình sở hữu, cũng đều là tình huống lung lay, dễ làm ta lung lạc. Lung lay, và thầm hỏi: đi Đạo ta vẫn cứ đi, nhưng nào thấy vui trong bụng… Thành thử, thắc mắc hỏi rằng: đã thấy vui chưa đời đi Đạo? chính là vấn đề. Chính đó là điều, mà bạn và tôi vẫn cứ hay gặp. Mà, đã là vấn đề, thì bạn và tôi, ta cứ phiếm. Phiếm cho nhiều. Tản mạn cho sâu cho sát. Chỉ để mua vui. Dù chỉ vui dăm phút, lại về chốn cũ…
Thoạt kỳ thủy, từ lúc bước chân vào đời “đi Đạo”, bạn và tôi đã thấy mình phần nào có dấn thân. Cái dấn bước đưa thân, đã đẩy tôi và bạn tiếp cận lời vàng lành thánh, mà có người đã cả gan nôm na gọi bằng những lời lẽ rất thi tứ, như: Lời buồn thánh”, hoặc “Phúc Âm buồn”. Vâng, nghiêm chỉnh mà nói, thì ngay từ đầu, Mẹ Thánh Giáo Hội đã chuyển đến bạn và tôi những lời Vàng-lành-thánh-mà-sao-vẫn-cứ-buồn, như sau: “Vui lên đi nào, thiếu nữ Xi-on” (Xh 3, 14) hoặc: “Mừng vui lên đi, Giê-ru-sa-lem hỡi! Hân hoan lên mà hưởng nguồn an ủi chan hòa.”
Tiếp đến, tôi và bạn còn thấy Lu-ca thánh sử vẫn cứ luôn nhắc nhở mọi người: “Này Da-ca-ri-a ông đừng sợ! Ông sẽ mừng vui hoan hỉ.” (Lc: 1, 13- 14)
Và rồi, cả đến Đức Ma-ri-a cũng nhận được lời hưng phấn khích lệ như thế:
“Mừng vui lên đi, hỡi Đấng đầy ơn phúc.” (Lc: 1, 28)
Đáp lại, Đức Ma-ri-a cũng tỏ lộ niềm riêng kia:
"Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui mừng, vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi. Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc” (Lc: 1, 46 - 47)
Và, cứ thế rồi lại cứ thế, bàng bạc trong Tin Mừng Nhất Lãm với 4 tác giả của Lịch Sử Thánh, bạn sẽ thấy xuất hiện những cụm từ rất “vui lên!” Thay vì, như vị nào đó đính kèm thêm hình dung từ “buồn” vào các cụm từ trên, bạn cũng như tôi, ta chỉ thấy các từ ngữ vui như: “hân hoan”, “mừng vui lên”, “tin vui”, “an bình”, “vui lên đi”… Như vậy có phải vì buồn quá nên mới được bảo ban khuyến khích: vui lên ?
Nhưng, nếu có ai đó vẫn thấy băn khoăn chưa dứt hoặc chưa đủ sức thuyết phục, thì hỡi bạn, những người anh-em-ngoài-Đạo của tôi ơi, ta hãy nghe lời khẳng định của một tác giả mà uy tín của ông cả về Đạo lẫn đời đã không phải là nhỏ, như sau: “Đạo Ki-tô là Tin Mừng, Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu, Tin Mừng theo Thánh Mác-cô, Tin Mừng theo Thánh Lu-ca, Tin Mừng theo Thánh Gio-an. Tin Mừng và Tin Mừng. Tiên vàn là Tin Mừng, và chung cuộc là Tin Mừng. Có Tin Mừng mới có Ki-tô giáo. Còn là Tin Mừng Đạo Chúa Ki-tô mới còn. Ki-tô giáo giả sử hết là Tin Mừng thì dẫu có là đạo lý cao siêu tốt lành đến đâu đi nữa, thì cùng lắm cũng chỉ đáng cất tủ kiếng giữ gìn như một di tích lịch sử, không đáng loan báo, rao giảng làm gì.” (Nguyễn Ngọc Lan, Chủ Nhật Hồng Giữa Mùa Tím, tr. 317).
Vâng. Đúng thế. Đạo là “niềm-vui-tuy-vậy”. Là sự vui mừng. Nhưng làm thế nào để nhận ra được sự hân hoan, niềm-vui-tuy-vậy trong những lần loan báo Tin Mừng, như thế ?
Thì đây, bạn ạ. Mời bạn và tôi, ta cứ dấn bước thăng trầm mà tìm hiểu Lời vàng lành thánh kia, bằng cả tâm hồn của một “kẻ hèn mọn”. Vì ngay như Đấng “Đầy-Ơn-Phúc”, tức đầy những sự vui và mừng như Đức Ma-ri-a, Mẹ của Chúa, cũng đã tự cho mình là kẻ mọn hèn, cơ mà. Có mừng và có vui như chúng ta, Ngài mới hiểu được sự nghịch lý, nghịch thường trong văn bản mà ta gọi là “Tuyên ngôn vui” về Đất Nước của những “niềm-vui-tuy-vậy” trong Sách đầy những Lời Vàng lành thánh, sau đây: “Phúc cho những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho những kẻ phải đói bây giờ, vì các ngươi sẽ được no đầy ! Phúc cho những kẻ phải khóc bây giờ, vì các ngươi sẽ được vui cười ! Phúc cho các ngươi, khi thiên hạ oán ghét các ngươi, khi họ loại các ngươi đi cùng sỉ mạ, và khử trừ tên các ngươi như đồ xấu xa vì cớ Con Người. Hãy vui sướng trong ngày ấy, hãy nhảy mừng vì này: phần thưởng các ngươi sẽ lớn ở trên Trời. Vì cũng cách ấy, cha ông chúng đã đối xử với các tiên tri.” (Lc: 6, 20- 23).
Quả là nghịch lý. Đúng là chuyện ngược đời. Với những kẻ sầu buồn đang đói, nghèo, khóc lóc hoặc bị ghét bỏ, hạ nhục, khử trừ đủ điều, mà lại bảo: Hãy vui lên, vì như thế là có phúc, thì thật là khó lòng. Rất khó để mà tin. Nhưng, vấn đề là ở chỗ: Ai thấy đuợc sự mừng vui trong khi, thực tế cuộc đời cho thấy dẫy đầy sự hiện diện của ác thần, của sự dữ, của những đau buồn. Thậm chí, còn gây nhiều cảnh chết chóc, khóc than nữa. Giải thích làm sao về những hiện tượng đang xảy ra như thế ? Trả lời vấn nạn này, thiết nghĩ ta cũng nên trở lại với Lời vàng của Đấng từng đưa ra “niềm vui 8 điểm”. Nếu cho rằng, việc tuyên bố “Phúc cho ai…” là chuyện vui đáng mừng rực rỡ, thì hẳn người người sẽ phải đồng ý coi lời tuyên bố trên đây như hiến chương hiến pháp của Nước Trời ở trần gian. Vả lại, ngay trong lời tuyên bố đầu đời, Đức Chúa cũng khẳng định lý do của sự mừng và vui kia. Để giúp người đọc Kinh thánh hiểu thêm về “tuyên bố 8 điểm” này, cố giáo sư Kinh Thánh, cha Nguyễn Thế Thuấn, DCCT, có nói: “Những lời chúc phúc của Chúa Giê-su là ‘tuyên bố’, là ‘lời hứa’, Nước Thiên Chúa được tuyên bố hứa cho hạng nghèo khó như là ‘sở hữu’ của họ. Bởi tính cách ‘tuyên bố’,’hứa’ đó của các lời chúc phúc, thì các lời chúc phúc trở nên ‘mặc khải’ của Chúa Giê-su về chính mình Ngài. Ngài là Đấng được sai đến cho để loan báo Tin Mừng cho người nghèo khó.” (Nguyễn Thế Thuấn, Tin Mừng Nhất Lãm, tr. 179).
Hiển nhiên là như thế ! Nhưng, tại sao những người đã nghe và lãnh hội Tin Vui an bình ấy, lại chưa có được một phản ứng đúng đắn về điều Đức Chúa mặc khải. Phải chăng, vì bạn và tôi “có tai để nghe” vẫn chưa nghe cho hết, cho thủng chăng? Phải chăng, ta vẫn chưa biết cách lắng nghe, hoặc chỉ “nghe qua rồi bỏ” mà thôi? Giả như, bạn và tôi biết lắng nghe, hoặc nghe theo phương cách tích cực, tức nghe mà không mang trong đầu một định kiến nào; hoặc, nghe mà không dự trù khích bác những điều mình vừa nghe, thì sự thể xảy ra sẽ khác hẳn. Nói cách khác, bạn và tôi tuy nghèo về khía cạnh nào đó, những vẫn giàu và vẫn có. Giàu và có về tinh thần. Giàu, là vì họ chưa tạo cho mình thái độ đích thực của người nghèo. Họ chưa có tinh thần nghèo khó theo đúng ý nghĩa của nó. Người nghèo đích thực, là người không có gì để phải sợ mất. Họ chẳng có gì mà phải lo âu, hãi sợ. Lo và sợ vì biết mình sẽ thiếu hụt, hoặc mất mát. Họ là những người luôn hài lòng với thân phận bọt bèo của mình. Nói cách khác, người nghèo thật sự là người luôn vui vẻ, hài lòng và dễ chịu với đủ mọi thứ. Với tất cả mọi người. Xem như thế, có thể nói ngược lại mà không sợ sai sợ quấy, là: ai không có thái độ vui tươi, dễ chịu, có phần chắc là họ không đích thực là người nghèo. Hoặc, xưa kia cũng nghèo đấy, nhưng nay thì chẳng gọi được là nghèo, nữa. Nhìn từ góc độ nào đó, có thể bảo: những người như thế, cũng giàu đấy, hoặc đã có tinh thần hoặc phong thái rất giàu, rồi. Đến đây, hẳn sẽ có bạn nêu thắc mắc, bảo rằng: Phúc Âm tiếng gọi là Lời của Đức Chúa Hạnh Phúc, nhưng sao các chi tiết, các truyện kể trong Sách viết về Lời Ngài, đôi khi phảng phất một nỗi sầu buồn nào đó vậy ? Phải chăng đó là thứ buồn tình trong cuộc sống, sầu não trong nhận định? Tỉ như nhận định về sự Thương Khó của Đức Giê-su Ki-tô, hoặc về chuyện Chúa nói trước về những điều xảy đến nhân ngày cánh chung…, về những xung khắc bất đồng giữa người mẹ và con gái/con dâu của mình ? Giữa con trai với cha ruột của mình ? Buồn về những chuyện vẫn cứ xảy đến từ thời nào tới giờ…? Tưởng cũng không nên đi quá sâu vào lĩnh vực chú giải. Bởi lẽ, phải hiểu Kinh thánh trong bối cảnh ngôn ngữ của Mạc Khải mà Đức Giê-su mang đến, như tác giả Joel B. Green, từng nhận như sau:
“Rõ ràng là Tin Mừng theo Thánh Lu-ca đáng được mệnh danh là Phúc Âm về sự vui mừng. Nói chung, các dẫn chứng về sự vui mừng đều tập trung vào diễn từ chung luận và lời nguyện cầu. Chúa Giê-su đã làm sáng tỏ nền tảng và bản chất của sự mừng vui bằng một khẳng định: đó chính là quà tặng Ngài ban cho những ai tin vào Ngài. Dù việc ra đi của Ngài có đem lại nỗi sầu buồn cho các môn đệ thế nào đi nữa, chuyện mang dáng dấp nghịch lý, đó là nền tảng cho sự mừng vui. Bởi, Ngài ra đi là để về lại với Cha. Và, dù xa rời đồ đệ đàn con, cuối cùng thì Ngài vẫn sẽ quang lâm đến lại. Vì thế nên, các môn đệ rất vui mừng khi gặp lại Ngài. Tuy nhiên, Chúa có đi thì Thánh Thần Ngài mới đến ngự giữa anh em. Nhìn theo chiều hướng đúng đắn này, mọi sầu não nơi đồ đệ lại biến thành niềm vui chính đáng. Và, không ai có thể dập tắt niềm vui mừng ấy được. Và Ngài cũng chuẩn bị cho họ trở thành nhân chứng và giúp họ họat động trong thế gian. Dù hoàn cảnh có trở nên tốt xấu thế nào đi nữa, thì niềm vui Ngài mang đến, cũng sẽ được hoàn tất nơi họ”. (Joel Green, Jesus & the Gospel, Inter Varsity Press 1992, tr. 394 - 396)
Để minh họa thêm cho quả quyết trên, có lẽ tôi và bạn cũng nên nhắc lại lời khẳng định của Đức Gio-an Phao-lô II qua bài phát biểu hôm 1.4.2004. Hôm ấy, Đức Giáo Hoàng trích thuật Thánh Vịnh, nói rằng:
“Kết hợp với Chúa là cội nguồn cho sự an lành, mừng vui và thanh tĩnh”. (Tv 25)
Còn một điều đáng để ta ưu tư, là: mặc dù ta đã có những quả quyết của Lời Chúa đã từ lâu, nhưng sao thấy có quá nhiều người nhà Đạo vẫn không hoặc chưa bộc lộ được sự mừng vui Chúa mời gọi. Đức Chúa đã và vẫn đang khuyên mọi người hãy cứ vui đi. Hãy mừng và vui luôn mãi. Vì, Ngài chính là Niềm An Vui, đã tỏ bày:
“Mỗi khi làm việc này, các con hãy nhớ đến Thầy.” (Lc: 22, 19)
Nhớ đến Ngài, thật sự không phải chỉ là nhớ đến những tình huống sầu buồn Ngài gánh chịu trong đêm khổ nạn, hôm ấy. Nhưng, vẫn phải nhớ rằng Ngài đã sống lại. Và, ngài sống lại trong hân hoan, mừng rỡ. Ngài đã ủy thác con cái Giáo Hội và xin Cha Ngài tha thứ hết mọi người. Vì họ không biết mừng vui đón nhận Tin An Lành. Và cuối cùng, Ngài sai phái đàn con yêu của mình tiến bước ra đi, trước khi ngày về với Cha, như sau: “Này Ta sai các con đi đến đất miền tận cùng trái đất đem Tin Vui rao giảng cho người nghèo khó.” (Lc 24, 49)
Lời sai phái dặn dò là như thế. Và, câu khuyên răn từ Ngài, là như vậy. Tuy nhiên, có lẽ vẫn có nhiều người chưa được thuyết phục cho lắm. Những người vẫn coi đây là chuyện xưa tích cũ, cách nay hơn hai ngàn năm, có lẻ. Những chuyện không là vấn đề thời đại. Nếu như thế, nhờ bạn chuyển đến các “Thánh Tô-ma” của thời đại truyền thông vi tính, rất hôm nay. Xin nhờ bạn chuyển tải một truyện kể rất ngắn, còn nóng bỏng, như sau:
Mới đây, CNN Hoa Kỳ vừa loan tin có một nhà tâm lý khoa học đã khám phá ra loại vi khuẩn mới, rất đáng sợ.Vi khuẩn này rất dễ lây nhiễm tỏa lan đến được hàng triệu người, trên thế giới, do tính dễ tiêm nhiễm của nó. Cùng một lúc, các tổ chức Y Tế Toàn cầu, cũng vừa cảnh giác mọi người rằng vi khuẩn ấy đã nhanh chóng lan tràn đến từ người này sang người khác, trên thực tế. Và, họ gán cho vi khuẩn mới phát hiện này một cái tên nghe cũng dễ chịu: vi khuẩn Nụ Cười Mỉm. Tổ chức Y tế Quốc tế nói trên, đã nhắc nhở mọi người hãy đề cao cảnh giác, kẻo vướng mắc phải vi khuẩn hiểm nghèo, lạ lùng ấy. Nhưng không xong. Đã trễ tầu. Chừng như, tất cả mọi người đều đã bị vi khuẩn trấn át, xâm nhập. Bởi, nó xuất phát từ bạn bè người thân, vào thời điểm bất chợt, không hề biết. Nhưng không sao. Sự việc đã ra như thế, chúng tôi vẫn cầu mong và căn dặn quý vị thêm điều này: - Hãy cứ duy trì Nụ Cười Mỉm, dù nỗi sầu buồn có đầy ắp tâm tư của quý vị. - Hãy đón nhận cầu vồng khởi sắc gây hưng phấn ấy, dùng nó làm thang leo lên đến nóc trời, nay ta gọi là Vương Quốc của Thiên Chúa. - Hãy cứ để cho nụ cười ấy quên tắt trên môi, cho thoải mái. - Và cứ thế để tiếp nhận đều đều niềm ủi an cho riêng mình mỗi khi tinh thần xuống thấp. - Hãy giữ gìn các bạn nào vốn làm rực sáng đời mình. - Hãy cố đạt cho được những thứ gì mắt mình luôn chiêm ngắm. - Giữ vững niềm tin khi mối nghi nan xâm nhập lòng mình, không báo trước. - Hãy cứ tỏ ra thật dũng cảm để hiểu rõ lòng mình. - Cứ kiên nhẫn chấp nhận sự thực; và quan trọng nhất là... - Cứ mang thật nhiều tình thương hầu gửi đến hết mọi người.
Nếu bấy nhiêu điều chưa đủ để bạn và tôi xác tín về sự cần thiết phải vui và cũng mừng khi đang có trước mắt cả một đời người đi Đạo. Và, đây chính là một trong những tin nhanh mình vừa nhận. Phim “The Passion of Jesus Christ” của đạo diễn nguời Úc là Mel Gibson, dù đã ghi lại toàn ảnh hình buồn về giây phút cuối của Đức-Chúa-Làm-Người, cũng đã hái gặt được nhiều kết quả mừng vui, chưa từng thấy. Nhờ có xem phim đầy cảnh sầu buồn – bức xúc này, mà muôn vạn người thưởng lãm đã biết quay trở về với Chúa. Về với Tin Vui và Mừng, Ngài giảng rao. Như thế, há không phải là dẫn chứng hùng hồn cho niềm vui đi Đạo sao?
Trần Ngọc Mười Hai, và những cảm nghiệm vui buồn lẫn lộn
Thiên đàng hỏa ngục ba bốn bên
Trong sống đạo hằng ngày, nhiều lúc cũng nên ra khỏi xóm giáo của mình một đôi lần, mà đến với xứ đạo khác xem các đấng bậc, người anh người chị của mình đang sống đạo và hành đạo ra sao. Với ý nghĩ đơn thuần ấy, bần đạo đã làm một cuộc “đạo du” bỏ túi, mon men đến các kệ sách nhà thờ nọ vùng ngoại ô Sydney, mà tìm hiểu. Vừa đặt chân đến, cũng đã thấy nhiều chuyện “hỡi ôi!” vẫn cứ xảy ra ở vùng đất mệnh danh là văn minh Tây Phương “miệt dưới” này. Sự thể là, hôm ấy một đẹp trời, bần đạo nhặt được tờ “Bản tin Giáo xứ”, liếc qua một vòng với cái nhìn thám tử xem trên trang giấy trắng vàng khổ nhỏ có gì lạ. Bèn nghe văng vẳng đâu đây bài hát trẻ khi xưa:
Thiên đàng/hoả ngục hai bên, Ai khôn thì dại, ai dại thì sang… ...Linh hồn phải giữ linh hồn, Đến khi gần chết được lên Thiên đàng…
Tình thật, bần đạo chẳng dại mà lạm bàn về bài hát vu vơ của đàn trẻ làm chi cho thêm ...bận lòng tướng quân. Chỉ xin có một thoáng nhận định về điều mà các đấng bậc nhà xứ vẫn cứ ghi trên giấy trắng mực đen nhà thờ, với đoạn văn câu hát: “đến khi gần chết được lên thiên đàng”. Ghi lại bài hát của đám trẻ ở nhà, là các cụ vẫn thuộc nằm lòng và vẫn dựa vào lập trường của người xưa. Lập trường, có những nhận định rất ư là thiếu khoa học. Chọc giận cả niềm tin yêu thần thánh, bên Đạo. Mải tìm cho ra một khẳng định thông suốt về Nước (còn gọi là Thiên Đàng, hoặc Nước Trời ở trần gian), từ các vị là bậc thầy thông thái, bần đạo bắt gặp một đoạn văn được giáo sư Nguyễn Thế Thuấn viết hồi thập niên ’60, như sau:
”Chúng ta tưởng là biết Tin Mừng, biết Phúc âm lắm, vì chúng ta cũng nhớ ít nhiều mẩu truyện, ít lời của Chúa. Các bài Tin mừng đọc trong thánh lễ, nhưng chúng ta không nghĩ ngợi gì cả, dường như không có vấn đề hay thắc mắc. Và nói đến thắc mắc, chúng ta nghĩ là đã phạm đến đức tin rồi. Có thắc mắc thì chúng ta đã sẵn có những lời giải rồi.
Người tín hữu thường hay vịn vào các cha (phải thành thật thú nhận: hàng giáo sĩ nhiều khi ỷ lại vào một vốn học vấn quá nghèo nàn, và cũng không bao giờ đặt vấn đề lại. Giải thích nhiều khi chỉ là giải thích thiêng liêng vu vơ nào đó, hay trả lời cho những khó khăn đâu đâu ấy) mà các cha nhiều khi giải đáp là cốt để gỡ mặt, và cũng vội giật đi ngay vì sợ nguy hại đến lòng đơn thật của con chiên.
Chúng ta không còn dồn việc khảo sát vào điều cốt yếu. Những cái bắt chúng ta dừng lại nhiều khi chỉ là những chi tiết nhỏ về văn chương hay lịch sử. Có khi mánh lới hơn, chúng ta tìm nơi Tin Mừng những gì để viện lý cho ước nguyện, lập trường, hay kiểu đạo đức của riêng ta.” (NTThuấn, Sách Thánh và Mặc Khải Cứu Rỗi, tr. 96)
Quả là, tính đơn sơ thành thật của đám con chiên hiền lành ở huyện vẫn bị lung lay, dễ nguy hại. Mối nguy này, không do chính họ – (thật là tội nghiệp nếu ta lại quy lỗi cho các tín hữu ngây thơ ít biết đến nghiệp và tội), mà do các đấng bậc vị vọng trong Giáo hội quanh năm suốt tháng cứ rót nhỏ vào tai các thần dân: những là, thiên đàng và hoả ngục hai, ba, bốn bên… Rõ ràng, sứ vụ rao giảng của Giê-su Đức Chúa là “Nước Trời”. Chứ đâu có là hoả hay địa ngục nào đâu. Ngục thất trần gian nào mà có lửa để luyện trui những tội và tội. Đức Chúa của ta đâu có mặc khải những chuyện tiêu cực, khiến ta cứ hết lo lắng rồi lại bối rối. Ngài có bao giờ nói đến Thiên Đàng theo nghĩa không gian, nơi chốn. Cũng tội. Ngài vẫn chỉ rao giảng về “Nước” mà thôi . “Nước” của Ngài chẳng bao giờ định vị ở đàng Thiên hoặc đàng Trời theo nghĩa không gian ba bốn chiều, đâu. Kìa, ngay từ đầu, ở Tin Mừng Matthêu 1:15, 4:17, Ngài đã chẳng bảo: “Thời buổi đã mãn và Nước thì đã gần bên. Hãy lo hối cải và tin vào Tin Mừng” là gì. Tin Mừng là tin rất hồ hởi để ta mừng vui về “Nước” mà Ngài từng bôn ba rao truyền. Từ sứ vụ Galilê (Mt 4:23, Lc 4:43), cho đến việc chọn lựa đồ đệ để rồi sai đi tiếp bước chân mềm tông đồ Hội thánh (Mt 10:7, Lc 10: 9-11, Mc 6:12). Rồi, đến phút giây cực hình mình chịu nhận, Ngài vẫn kiên trì loan báo về Nước (Mt 24:14). Cả khi sống lại thật, Ngài đã hiện ra với các đồ đệ thân thương và cũng lại nói về Nước (Cv 1, 3)
* Tóm lại, suốt đời giáp mặt với loài người, Đức Giê-su chỉ nói và loan truyền duy nhất có một điều: là Vương Quốc của Ngài, mà thôi. Sở dĩ các “đấng bậc” cứ đem cảm tính người đời vào lời rao giảng về Nước, là vì các cụ vẫn còn lẫn lộn về đặc thù không gian và thời gian. “Nước” của Chúa đây, không có các tưởng tượng về nơi chốn cũng như thời điểm, để diễn ra. Là đấng bậc vị vọng, mà hiểu theo nghĩa môn đệ theo bước chân mòn hành giáo của Đức Kitô, lẽ đáng ra các cụ phải tiếp nối công cuộc rao giảng về “Nước”, mới đúng. Ngược lại, các cụ chỉ thích nói về lửa (hoả ngục) và đất (địa ngục) thôi. Nói về lửa và đất thì dễ và sướng hơn. Vì mọi người nghe, sẽ hiểu và sợ. Có người vẫn rất ư là sợ, khi nghĩ rằng: hễ đã phạm tội dù tội nhẹ cũng sẽ bị trừng phạt. Bị tống vào lòng đất, ở nơi đó sẽ chịu cảnh lửa đốt, rất nóng bỏng. Và, lâu ngày chày tháng, chiên con dễ bảo của các đấng bậc rồi ra cũng suốt đời sống trong lo âu, sợ sệt. Sợ tội. Sợ hoả ngục. Và, sợ luôn “cha” nữa. Mới đây, dù đã hơn 40 năm sau Công đồng Vatican II, vẫn có người (một thành viên ca đoàn nọ) chạy đến hỏi han bạn bè chỗ thân quen, rằng: mình vừa bị cảm cúm, nên không biết bỏ đi lễ Chúa nhật hai tuần liền, như thế có mắc tội không? Có phải đi xưng tội lỗi gì không? Nếu mình không xưng tội như các cha vẫn khuyên, thì một mai khi qua đời rồi, chắc phải xuống hoả ngục thì chết…. Ở đây, có lẽ cũng chẳng nên bàn bạc dài giòng thêm về lý do gây nên sợ sệt, rất vẩn vơ. Bởi, có thể nguyên do không phải vì các đấng bậc nhà mình. Nhưng, rõ ràng là các cụ nhà ta vẫn không tạo được thói quen thường xuyên, là: chỉ rao giảng những điều tích cực về Nước Chúa. Nước Trời mà Chúa hằng bảo ban. Điều tích cực cần rao và giảng nhất, chính là: Nước Chúa đã gần kề. Và, “Nước” của Ngài không mang tính không gian, như lơ lửng ở 9 tầng mây trắng cứ tung tăng, vần vũ; hoặc, ở vườn Ê-đen thưở nào. Và, động từ “đến” ở thì tương lai “sẽ” vẫn không mang ý nghĩa thời gian, nào hết. Có quan niệm “Nước” của Đức Chúa cho đúng thần học của Đạo, ta mới cảm nhận được ý nghĩa của trạng huống an bình. Nơi đó, chỉ có tình yêu và hạnh phúc, thôi. Vẫn hơn một lần Đức Chúa từng quả quyết: nơi nào có tình yêu thương và hạnh phúc, tức ở đó chắc chắn có Ngài hiện diện. Bởi thế nên, khi rao giảng cho người ở trong cũng như ở ngoài Do Thái, Đức Kitô vẫn hàm ngụ một trạng thái rất hài hoà, với mọi người. Một trạng huống vốn chìm vào quên lãng, đã từ lâu. Chìm đến độ, dân con nhà Đạo thời tiên khởi gọi là “địa đàng thời ban sơ”. Với cảm nhận như thế, người đi Đạo và hành Đạo hẳn đều đã hiểu, rằng “Nước” của Thiên Chúa đã và đang xảy đến với các vị lành thánh, rất công chính. Những vị này, chỉ biết có thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Biết dắt dìu nhau thực hiện lời dạy chính yếu của Ngài. Cũng trong chương sách bàn về Lời rao giảng của Đức Kitô, cố giáo sư Nguyễn Thế Thuấn đã hơn một lần khẳng định:
“Điều Chúa Yêsu chủ trương thì rõ: Việc làm và lời giảng của Chúa Yêsu phải được coi như chứng chỉ của Nước Thiên Chúa khai mạc và nhìn nhận sự hiện diện của Nước Thiên Chúa đó không phải nơi dấu lạ trên trời dưới đất, nhưng là chính ở nơi con người của Chúa Yêsu và trong công việc của Ngài. Đừng tìm viễn vông đâu khác.
Lời rao giảng về Nước Trời sẽ đến có cái đặc sắc này là: sự người ta ngóng đợi nơi tương lai tận thế, thì hiện bây giờ Chúa Yêsu đã thực hiện. Như thế nghĩa là, phải bỏ ngoài những thắc mắc về cách thức và khi nào Nước Thiên Chúa đến, mà dồn cả chú ý vào sứ giả hiện tại của Thiên Chúa” (NTThuấn, sđd tr. 120)
Quả thật, đây là lời nhắn nhủ chí lý cách đây những 40 năm. Hơn thế nữa, đến cả trăm năm. Hai ngàn năm, không phai nhạt. Nhưng, người nghe và kẻ phẩm bình Lời Chúa vẫn không nhận ra điều tích cực ấy. Không nhận ra và không san sẻ những tích cực, liên quan đến “Nước” của Thiên Chúa, không phải vì mọi người có ý đồ tăm tối hoặc chậm hiểu. Đúng hơn, là vì quên lãng hoặc bị cuốn hút vào với thực tế của đời thường. Cuốn hút là chuyện đương nhiên dễ xảy đến. Chí ít, là vào thời buổi có quá nhiều thứ hấp dẫn. Quá nhiều chuyện để làm. Hơn là ngồi suy niệm về “Nước” hoặc về Chúa. Về Mẹ. Để biện minh cho điều vừa nói, dưới đây là một truyện kể nhặt được từ điện thư do bầu bạn gửi đến từ xứ người. Truyện đây, tuy không đề cập đến “Nước” của Thiên Chúa; hay đến thiên đàng hỏa ngục ba bốn bên, gì hết. Nhưng, hy vọng cũng nói lên được phần nào cái gọi là “không thể” và “có thể”, như tiêu cực và tích cực. Chuyện kể về một người tên Tom:
“Tuổi về chiều không có nhiều việc để làm. Tom bèn nghĩ ra một cách làm tính cho khuây khỏa vơi đi những ngày sầu đắng còn lại. Thử làm một màn tính toán gồm bốn phép cộng trừ nhân chia, ông bạn già chợt nhớ là đời người chỉ vỏn vẹn khoảng 75 niên là cùng. Dĩ nhiên có người sống dai hơn. Và, cũng có người chết yểu. Nhưng, hãy tạm dừng ở đây và lấy con số 75 là trung bình quân tuổi thọ đời người. Nay, hãy thử kiểm lại xem có đúng thế không nếu ta nhân 75 niên cho 52 tuần, ta sẽ có con số 3900 ngày Thứ Bẩy mà thường tình mỗi người sống trên đời này đều phải có trong suốt cuộc đời mình.
Điều đáng buồn là ít có người cùng có một ý nghĩ như Tom. Phải chờ đến lúc đã 55 tuổi,đầu bạc răng long hoặc gần đến ngày hưu già hư non mới chợt khám phá ra rằng mình đã bỏ phí biết bao nhiêu ngày giờ mà không biết. Chí ít, là các ngày Thứ Bẩy. Những 2860 cái Thứ Bẩy tuyệt vời mà ta không biết tận hưởng. Ai nấy vẫn cứ miệt mài lao động và lao động. Lạo động để kiếm sống. Lao động để có gạo ăn. Hoặc, lao động là vinh quang hay chết tiệt. Để rồi cuối cùng tay trắng vẫn hoàn trắng tay. Với Tom, phải mất 55 niên anh mới hiểu được chuyện đơn giản như thế. Đến nay, thì đã muộn. Nhưng muộn cũng không sao. Muộn còn hơn không. Nghĩ thế, Tom bèn làm con tính rất nhanh rằng thì là: nếu anh có thể sống đến năm 75 tuổi, anh sẽ còn khoảng 1000 ngày Thứ Bẩy an hưởng tuổi ... cao niên.
Nghĩ xong, anh bèn có quyết định, chạy vội ra hàng quán bán đồ chơi con nít và mua về đủ số bi mà bọn nhỏ vẫn chơi, mang về để một chỗ. Anh đi hết 5, 7 tiệm mới mua đủ số 1000 viên bi. Anh rửa sạch và đựng vào bao cất một chỗ nơi bàn đọc sách. Từ bữa đó, mỗi ngày Tom lấy ra một viên bi, vứt bỏ sau vườn hoặc ném vào khoảng không cho khuất mắt.
Ngày qua ngày, Tom ngắm bọc đựng bi thấy nó cứ cạn dần. Anh lại nghĩ phải tập trung làm việc gì quan trọng cho đời mình. Trên đời này, chẳng có gì buồn chán hơn là canh chừng thời gian còn lại và thấy nó cứ thế cạn dần. Phải đặt ưu tiên làm một công việc nào mới được, Tom tự nhủ. Và, chuyện gì phải đến đã đến. Vào ngày Tom thấy viên bi cuối cùng còn sót trong bọc, anh đưa người bạn đời đi phố ăn sáng và thư giãn đôi chút ở công viên. Nơi đây có sông có nước, có hoa lá cành đủ cả. Tom trộm nghĩ, nếu anh tiếp tục được làm cái việc bỏ bớt hòn bi cuối cùng vào quãng vắng không gian vào ngày Thứ Bẩy tới, thì có lẽ Trời sẽ cho phép anh có thêm thời gian nữa để có cử chỉ đẹp với người bạn đời anh mà quên lãng những 75 năm, thì hẳn đời sẽ đẹp lắm...
*
Chuyện kể chỉ có thế. Nhưng người kể là Tom vẫn muốn nhắn nhủ với người đọc rằng: bạn đừng lo những chuyện “đến khi gần chết có được lên thiên đàng không” hoặc có xuống hỏa ngục chăng. Bao lâu mình còn sống, hãy nghĩ đến những người gần gũi nhất –có thể là vợ hay chồng mình. Có thể, là bạn bè người thân nào đó - hãy làm điều gì tốt đẹp cho họ và cho mọi người. Để, tất cả sẽ đều thấy vui. Sẽ đều hạnh phúc. Đó mới là thiên đàng. Đó chính là Nước Trời. Nước của Thiên Chúa. Vương quốc chỉ gồm toàn chuyện vui. Những hạnh phúc. Nước của Ngài đang ở nơi đây. Nơi trần gian này. Chứ có đâu xa. Chẳng cần gì vườn địa đàng. Cũng chẳng sợ hỏa ngục hay lửa luyện hình. Chí ít, là chốn địa ngục hỏa lò, ở bên kia. Và,Thiên đàng/hỏa ngục không phải là hai bên. Thiên đàng và Nước Trời vẫn là một. Một bên. Ở bên ấy, luôn có Đức Chúa sống cùng ta. Ở nơi ấy, ta có toàn chuyện vui. Rất hạnh phúc.
Trần Ngọc Mười Hai với những bất bình về một suy niệm về chuyện không đâu.
Tha rồi hãy quên (2Ti 2: 8-10)
Nếu có ai quả quyết rằng: đời người là một chuỗi ngày dài đằng đẵng; ở đó, người người ngồi kể chuyện đời lê thê, thì bần đạo xin giơ cả hai tay lên, đồng ý. Quả là như thế. Một năm có 12 tháng. Và, nếu tính ngày, có đến 365 ngày để sống và hít thở. Nhưng hầu như đa phần, số ngày giờ ấy người người dùng để dông dài kể lể hoặc nghe người khác kể về đủ mọi thứ chuyện. Từ chính trị, thời sự cho đến tình duyên, gia đạo. Hết chuyện làm ăn sinh sống, lại tiếp nối chuyện liên quan đến chiến tranh/hòa bình. Rồi, chuyện luật pháp, xã hội, tôn giáo, nhất nhất đều có cả. Chuyện vui có, buồn cũng không thiếu. Cả những chuyện tầm phào, viển vông, không đâu vào đâu, cũng được dông dài hầu kể như không bao giờ có dấu chấm hết. Thậm chí, cả chuyện gây nhức đầu, sầu thảm. Chuyện dân gian, trên trời dưới biển. Chuyện thiên hạ bát nháo. Chuyện người, chuyện mình chuyện linh tinh giấy mực bỏ ra không hết. Hết kể bằng sách/báo, phim/ảnh lại kể trên truyền hình, trong vi tính. Thôi thì, thứ nào cũng được phát minh, chế biến đủ kiểu, đủ loại. Đủ mầu sắc, chỉ để diễn bày những chuyện là chuyện. Tuy nhiên, có một chuyện không kém phần quan trọng, là: để phổ biến những điều cần kể hoặc muốn kể, người người vẫn cần đến bộ óc. Một trung khu thần kinh nào đó có khả năng tích lũy các chất liệu, để kể. Và, tụ điểm chính nơi trung khu thần kinh, là bộ nhớ. Lâu nay vẫn được gọi là trí nhớ. Và, chức năng của bộ nhớ này là để tích tụ các dữ liệu cần bảo trì. Cần phát tiết ra ngoài, mỗi khi chủ thể cần đến. Nhưng, hễ ai không có được bộ nhớ nói ở trên, sẽ bị người đời gán cho một hình-dung-từ nhang-nhác, như: đần độn, chậm lụt. Thậm chí, còn bị coi là mắc chứng Alzheimer (tạm gọi là “lẫn”). Và thông thường, người đời chỉ kính cẩn các vị nào có trí nhớ dai hoặc sắc sảo, ở mức độ xuất chúng, siêu phàm. Ngược lại, ai hay quên, hoặc quẩn trí sẽ bị coi là kém, không đáng liệt kê. Xem như thế, trí nhớ là thước đo. Là mẫu mực dùng để phân biệt chủ thể có hồn với vật thể vô tri. Tuy nhiên, một triết gia khi trước đã dõng dạc tuyên bố: “Trí nhớ là quan năng của sự quên lãng” (Blaise Pascal). Và, trong nhiều trường hợp, vị ấy cũng thường khuyên nhủ người đời, là: hãy quên đi những điều con người thường hay muốn nhớ (?). Nhất thứ, khi đương sự đang ở vào tình trạng rõ ràng có sự xấu xẩy đến với mình. Cả vào lúc, sự xấu ấy do kẻ thù mình mang đến, các triết nhân hiền từ vẫn cứ khẳng định, rằng: làm đồ đệ/ dân con Đức Chúa, con người không những phải biết tha thứ kẻ thù mình mà thôi, mà còn phải quên đi điều gì xấu do kẻ thù mình mang đến, nữa. Trong tiếng Anh có hai cụm từ rất gần gũi nhau, vì cùng chung tiếp-đầu-ngữ “for” ở truớc, là: “forgive” và “forget”. Các cụm từ này nói lên một cách triệt để yêu cầu căn bản nhất, trong cuộc đời. Tiêu đề chuyện phiếm “Tha rồi hãy quên” tuy không mang lập trường chính trị hoặc thần học gì, nhưng vẫn là thúc bách không nhỏ. Thúc bách đến độ khiến người suy tư chuyện Đạo-đời, không thể “chỉ nghe qua rồi bỏ”. Nghe qua, như người bàng quang với chuyện tranh đấu, chính trị… lâu nay. Để rồi bỏ, chỉ quan tâm những gì liên quan đến cuộc sống thực tế ở đời , thôi. Tha rồi hãy quên, có thể là thái độ nghịch lý/nghịch thường nghe-chưa-quen đối với những ai chỉ thích yên nghỉ, nằm nhà. Tha rồi hãy quên, có thể gây khó cho những ai quyết tâm tranh đấu chống gò bó, bất công cả trong xã hội, lẫn giáo hội. Nghịch thường và gò bó, bởi vì đôi lúc mình thấy ái ngại, chột dạ. Ái ngại, vì mình ở vào tình huống không thể biểu đồng tình, hoặc dễ tham gia, dự phần. Và chột dạ, vì thấy người khác vẫn can đảm và dấn thân hơn mình, nhiều. Do có trí “không quên” và cũng chẳng dễ “tha rồi quên đi” những chuyện vốn cắm sâu vào da thịt mình, bần đạo cũng xin được phép chớp nhoáng trở về với kinh nghiệm bản thân về những “tha” và “quên đi”, như thế này: Tôi hôm ấy, một tối mùa thu năm 1976, bần đạo đang êm ả tiếp chuyện vợ chồng người bạn đồng nghiệp và đồng ngụ cư trong chung cư dành cho nhân viên nọ; thì, một nhóm công an đặc biệt gồm khoảng hơn chục người, súng ống nai nịt đến tận răng, ập vào đọc lệnh “tạm giữ để điều tra” do vị trưởng phòng chính trị thuộc sở công an thành phố, gửi đến cho riêng mình. Chả là, lúc ấy ở Sàigòn đang có cái-gọi-là chiến dịch cải-tạo-công-thương-nghiệp-tư-bản-tư-doanh. Bần đạo chẳng tư doanh, tư bản. Cũng chẳng doanh thương công tư gì. Lúc ấy, chỉ vì đã và đang làm cho một công ty ngoại quốc, với chức vụ rất hèn hạ; nhưng, vẫn được mời về “nằm ấp” để được điều tra xem ‘làm cho công ty tư nhân nước ngoài chắc cũng thuộc loại gián điệp sừng sỏ, gì đó chăng. Trớ trêu một điều, là: tuy được giữ tạm để điều tra, ở một nơi không xa, không ngoài cựu ‘thành đô yêu dấu’. Thế mà, mãi hơn hai tháng sau gia đình nghe ngóng hỏi han ‘suốt’ mới tìm ra được chỗ “ở tạm” của bần đạo để thăm và nuôi tạm bợ,cho qua ngày. Bốn tháng sau, bần đạo cũng ra khỏi nơi “giam và giữ” tạm thời, tạm bợ ấy. Chuyện tù đày – đày tù, tạm giữ - tạm giam thì cũng chẳng khác gì những chuyện đày đọa người tù nào khác. Nghĩa là cũng có hạch, có hỏi. Có dọa có nạt, đạp bàn, đập ghế gây tổn thương não bộ trung khu thần kinh, làm quên cả ‘bộ nhớ’ rất cổ và rất xưa. Cái mà ở xứ sở văn minh người ta hay gọi là “traumatic stress” (căng thẳng đầy tổn thương) sơ sơ, lơ mơ thôi, ấy mà. Chuyện bộ nhớ - nhớ bộ thần (rất) kinh, gợi lại cho bần đạo những tình tiết của một buồi chiều hôm, tối đó. Khi: bần đạo (lúc ấy còn rất hiền lành, thánh thiện (?)), và một vị tỳ-kheo/thượng tọa lúc ấy tu ở chùa Giác Viên, Phú Nhuận (cùng bị nhốt chung phòng), hai người duy nhất cả gan ngồi thiền/thầm thì nguyện cầu với Đấng Ở Trên. Thì, một cán bộ cai quản trại tù bắt gặp, bèn phán cho một bài rất ư là ‘giáo dục công dân’ ít được nghe thấy, hoặc ‘nghe qua rồi hãy quên’, chỉ loáng thoáng như sau: “Các anh nên nhớ (lại cái trí không quên được nhắc cho mà nhớ), rằng: Cách mạng chỉ giam các anh thôi chứ đâu có giữ tôn giáo của các anh đâu mà các anh không chấp hành nội quy; dám ngồi đó mà hoạt động có ý đồ tôn giáo một cách trái phép như vậy! Yêu cầu các anh không được hành đạo ở nơi tạm giữ này. Tôi cảnh cáo hai anh một lần chót đấy!…”
Quả là, lúc ấy bần đạo dù có biết ‘tha rồi hãy quên’ hay gì đi nữa, cũng đã cảm thấy khá bực. Dù vẫn không sợ. Bực, vì bị anh cán bộ trẻ lên lớp chính trị dạy dỗ. Và, cũng bực vì thiên hạ vẫn cứ áp dụng ‘luật ở bìa rừng’ đối với một người đang còn trong vòng tạm giữ để điều tra, quá nhiều ngày. Thành ra, ‘tha rồi quên đi’ vẫn không phải là chuyễn dễ. Dễ quên. Dễ bỏ. Kể lại niềm riêng không-đáng-nhớ ở trên, không phải để khơi dậy một tranh luận bàn cãi gì về: ‘có được phép giữ đạo và hành đạo (dù âm thầm và yên tĩnh, không phiền hà người khác) ở nơi cung cấm hay không’. Mà, chỉ muốn thưa với quý vị rằng: “tha thứ” những người làm phiền mình, tuyệt nhiên không là chuyện khó làm. Nhưng, bảo ‘hãy quên’ những chuyện khó quên kia đi, thì thật không phải là dễ. Nhất thứ, nếu đó là chuyện bực bội ăn sâu đâu như hận thù, quên rất khó. Như câu truyện vừa thuật, ngay cả những vị chủ trương không theo tôn giáo nào hết, cũng đã tạo cho người đi Đạo (dù là đạo nào đi nữa) có được cơ hội để nhớ rằng: cứ ‘tha rồi hãy quên đi’ những gì làm phiền lòng. Chính đó mới là nghịch lý. Thế đó, là chuyện khó làm. Cứ thường tình, hễ có chuyện bực bội hoặc nghịch lý/nghịch thường, người người thường thêm vào đó ý kiến của mình; hoặc, có lập trường biểu đồng tình, hỗ trợ. Hỗ trợ, để tìm cách thay đổi tình huống đang có đó, thành chuyện cần có, phải có. Và, nếu nhìn sự việc theo khía cạnh “lý” và/hoặc “nhớ quên-quên nhớ” như một thúc bách yêu cầu từ vị Triết Nhân Rất Hiền Từ của các bậc hiền triết, thì đây lại chính là ân huệ mà Đấng Ở Trên đã ban tặng để ta nhớ mà giữ những đòi hỏi rất nghịch thường/nghịch lý. Một đòi hỏi, mà bần đạo có thể diễn bày bằng thứ ngôn ngữ rất bình thường, là: hãy nhớ những gì hay quên; và, hãy quên đi những gì đáng nhớ. Diễn rộng ý chủ này, có thể bảo: phải quên đi những chuyện cần nhớ, đáng nhớ và quên cả chức năng dễ nhớ của con người, nữa. Mục đích, là để chỉ nên nhớ rằng mình là thụ tạo dễ quên và cũng rất hay quên. Thường tình, mình vẫn hay quên những điều mọi người cần phải nhớ. Điều cần nhớ và đáng nhớ, chính là: mình vì mọi người, cho mọi người chứ không phải: mọi người vì mình, cho mình. Nói khác đi, chỉ cần nhớ điều được nhắc nhớ trong thư thứ hai của thánh Phaolô gửi cho đồ đệ và là bạn Timôthê, như sau: “Anh hãy nhớ rằng: Đức Yêsu Kitô sống lại từ cõi chết, (sinh) bởi dòng giống Đavít, chiếu theo Tin Mừng của tôi, vì đó, tôi phải lao đao khốn khó đến cả xiềng xích như kẻ gian phi, nhưng Lời Chúa không bị xiềng xích! Vì thế tôi cam chịu mọi sự vì các kẻ được chọn,để họ được phúc cứu độtrong Đức Kitô Yêsu, cùng với vinh quang đời đời. Lời đáng tin:Quả nếu ta cùng chết, ta sẽ cùng sống! Nếu ta chịu đựng, ta sẽ đồng trị”. (2Ti 2: 8-10)
Nhớ quên-quên nhớ, là hai mặt của cuộc đời, con người. Nó tựa hồ như âm- dương nhị nguyên. Lúc thì đối chọi nhau. Lúc dựa vào nhau để tồn tại. Tuy nhiên, điều đặc biệt là khi nhị nguyên ấy nhập thể vào với con người, đôi khi nó quyện vào nhau. Hòa hợp thành một đơn-nguyên phức-tạp khiến bản thể con người thấy khó mà định ra đâu là đầu mút của mỗi nguyên lý. Hôm nay, lạm phiếm về nguyên lý nhớ quên – quên nhớ, bần đạo chỉ dám đưa đề nghị nhỏ về chuyện thứ tha, về quên nhớ. Đồng thời, hồi tưởng lại những gì mình đã nhận được từ Ơn Trên: tình yêu, đau khổ, sự sống, vv. Và thấy rằng: tất cả đều là ân huệ. Còn một ân huệ không nhỏ mà bần đạo vẫn được nhắc nhở, là: không chỉ nên nhớ những điều hay, lẽ phải mình đã từng làm. Không chỉ tha thứ những gì xấu xa tồi tệ mà người khác từng mang đến cho mình, mà thôi; nhưng, còn phải quên nó đi; để chỉ nghĩ đến những gì tốt đẹp, tích cực. Bởi, Đấng Ở Trên mọi sự đã hy sinh làm gương cho mình về những điều tích cực. Ngài chính là sự Tốt đẹp. Rất Tích cực trong mọi sự.
Trần Ngọc Mười Hai với những suy nghĩ vẩn vơ, lẫn lộn giữa quên và nhớ, vào Mùa Chay.
“Có một lần, tôi đưa em về trên đỉnh yên bình hiền hòa” (Lc 2: 13-14)
Vâng. Nếu “đỉnh yên bình hiền hòa” trên ấy, là chốn náu nương để đưa em về, thì miền đất phía dưới nơi đây, sẽ mãi mãi là mùa xuân. Mùa của yêu thương. Xuân bất diệt, nhà Đạo. Xuân nhà Đạo, vừa là thời gian vừa là không gian, nơi có bạn và tôi, lúc nào cũng nghe văng vẳng đâu đây, lời trình thuật rất sáng của thánh sử Luca, như sau:
“Và bỗng đâu đến hợp với đoàn thiên thần, có đoàn lũ cơ binh trên trời Ngợi khen Thiên Chúa rằng: Vinh quang Thiên Chúa trên trời cao thẳm Và ở dưới đất cho kẻ Ngài thương.” (Lc 2: 13-14)
Bình an cho kẻ Ngài thương, là người trong đó có bạn và tôi, những kẻ còn ở đất miền phía dưới nơi đây. Và, lời bình an Chúa nói còn là giáo huấn quan trọng của nhà Đạo. Giáo huấn rất quan yếu. Rất trọng sự thực.
Bần đệ còn nhớ, khi chuyển ngữ đoạn thánh sử quan yếu buổi đầu đời, từ tiếng A-ram của Do Thái, cố giáo sư Kinh thánh, Lm Nguyễn Thế Thuấn, CssR có để lại một chú giải nhỏ, như sau:
“Theo văn kiện Qumran thì kiểu nói thông dụng của người Do Thái ‘bình an cho kẻ được Ngài thương’ là cốt để hiểu cái nhã ý, (và) lòng đoái thương của Thiên Chúa”. (Kinh thánh, 1976, bản dịch của Lm Nguyễn Thế Thuấn, tr.128)
Hiểu như thế, tức “lòng đoái thương của Thiên Chúa” đang ở trên đỉnh yên bình hiền hoà, chốn non cao xanh biếc. Hoặc, nơi an bình ở đất miền phía dưới, mà dân thường ở huyện từng có, là do từ ‘cái nhã ý’ của Thiên Chúa, mà ra.
Theo lẽ thường tình, ta không thể có được “cái nhã ý” về “lòng xót thương của Thiên Chúa” tại những nơi cao sang đền đài vua chúa, hoặc chốn nguy nga, mà ta gọi là “điện Cẩm Linh”, cung Vẹrsailles, hay Tòa bạch Ốc… Nhưng có điều chắc: ta chỉ tìm thấy “đỉnh yên bình hiền hòa” ở dưới đất này. Ở nơi đây, luôn có những kẻ được Ngài đoái thương, rất nhiều.
Vậy, kẻ được Ngài đoái thương rất nhiều là những ai? Có phải, những Hê-rô-đê đương đại? Những nhà độc tài toàn trị dũng mãnh có quyền sát quyền sinh, chỉ cần bấm nút đen hoặc nút đỏ, là có thể bắn ra đủ mọi thứ vũ khí nguyên tử, hủy hoại hàng ngàn thành phố lớn? Và, sẽ làm cả trăm ngàn, triệu triệu người sẽ chìm ngập trong máu lửa điêu tàn? Những nhà tỷ phú tiền rừng bạc biển?
Nhìn vào thế giới hôm nay, ta càng thấy có nhiều phân rẽ tách biệt nơi con người. Những phân biệt, chênh lệch giàu - nghèo. Phân biệt, là phân ly trong cuộc sống. Là, tách biệt trong yêu thương, giùm giúp. Ở nơi con người đang sống, có những “đại gia” nhởn nhơ vui thú, chỉ muốn thưởng ngoạn những xa hoa đàng điếm nơi khách sạn 5, 7 sao, hoành tráng. Trong khi đó, kẻ nghèo người hèn vẫn cứ nghèo hèn. Vẫn ốm o gầy mòn, tìm không ra chỗ trú chân. Không hột gạo trong bụng.
Giữa giòng đời sinh sống hôm nay, cách biệt sang - hèn ở dưới đất, vẫn là điều khiến ta quan ngại. Cần lưu tâm để ý. Lưu tâm để ý, vì cách ly - phân biệt là do con người tạo ra. Chứ đâu phải từ một định mệnh đã an bài. Hoặc tệ hơn, từ Chúa Quan phòng, đã tiền định.
Trong cuộc sống đời thường, con người khi thừa hưởng giàu sang thoải mái, lại cứ tưởng những thứ ấy do chính mình đem lại, hoặc tạo ra. Và khi bê tha, xuống cấp, họ lại đổ lỗi cho Đấng Bề Trên, hay Đức Chúa. Thực tế, khó có thể có được câu trả lời nêu trên, nếu ta không chấp nhân lập trường rất đúng như triết gia Pascal từng nhận định: “Tất cả là ân huệ”, dù vào lúc ta gặp đủ mọi khó khăn, nghịch cảnh.
Trong tiếp xúc với người thường ở đời, một thiền sư đã đề ra một số phương cách thực tiễn hầu giúp người đời thời nay thực hiện chuỗi ngày “bình an” ở miến đất phía dưới này, như sau: -SỐNG không giận hờn, không oán trách mới là sống -SỐNG mỉm cười với thử thách,chông gai,ấy mới hay -SỐNG vươn theo nhịp ánh ban mai, ta vẫn biết -SỐNg an hòa với người quanh ta, đó mới là -SỐNG sinh động, nhưng lòng luôn bất động -SỐNG yêu thương, mà lòng chẳng vấn vương -SỐNG hiên ngang nhưng danh lợi vẫn không màng -Tâm bất biến giữa giòng đời vạn biến. Nay SỐNG đúng.
Thật ra, sống đúng giữa giòng đời vạn biến, vẫn là chọn lựa của mỗi người. Là tự do chọn lựa của con cái Chúa. Chọn sống đúng. Chọn thực hiện điều xưa nay ta được dạy để sống đúng. Sống cho đáng sống. Đó mới là điều quan trọng. Đó là điều cần làm.
Trên thực tế của cuộc sống, có những điều giúp ta sống đúng, nhưng ta không làm. Hoặc vẫn chưa chịu làm. Và, theo nguyên tắc hành động, có những điều ta chẳng nên làm, nhưng nhiều người vẫn cứ làm. Có những điều thấy vậy mà không phải vậy, như truyện tích thời đại ở dưới đây.
“Hai thiên thần được Đấng Bề Trên cho ngao du xuống trần một chuyến, để thêm lòng xác tín về tình thương, đã ghé bến lưu lại nhà của gia đình giàu có, khi ấy. Gia đình giàu có từ chối không cho nhị vị ngủ lại ở căn buồng đẹp. Vì buồng này chỉ dành cho thượng khách mà thôi. Trái lại, họ dẫn nhị vị xuống căn hầm rất lạnh, ở phía dưới.
Ngả lưng xuống nền xi-măng lạnh buốt của căn hầm, vị thiên thần trọng tuổi thoáng nhận ra lỗ hổng nhỏ nơi bờ tường. Ở phía trước. Thiên thần ấy bèn giơ tay hóa phép, quyết bít kín lỗ hổng, mất dấu.
Thiên thần nhỏ, vị tháp tùng đấng bậc trọng tuổi kia, thấy thế bèn hỏi: -Sao tiền bối lại làm như thế, có ý gì? Và thiên thần trọng tuổi trả lời: -Như thế tức là, mọi chuyện coi vậy mà không phải vậy, đâu đấy bạn ạ.
Đêm sau, hai vị thiên thần nọ bèn đến nhà bác nông dân khác rất nghèo, trọ nhờ qua đêm. Hai vợ chồng bác nông dân tuy nghèo, nhưng hiếu khách. Sau khi chia sớt phần lương thực ít ỏi của mình, hai vợ chồng bác nông dân nghèo bèn nhường chiếc chiếu nan cũ kỹ, cho nhị vị thiên thần nằm đỡ, rồi ra sau hè ngủ.
Sáng ra, khi mặt trời vừa lấp ló, nhị vị thiên sứ nhà trời đã thấy vợ chồng bác nông gia nghèo, ngồi khóc than rất ư là thảm thiết. Hỏi ra mới vỡ lẽ: hai vợ chộng nghèo tằn tiện lâu lắm mới sắm được mỗi con bò sữa, làm nguồn lợi tức duy nhất, ở tuổi già. Ngờ đâu, đêm qua, bò ta lăn đùng ra chết, trước chuồng trại.
Vi thần nhỏ rất bực dọc, bèn lên tiếng hỏi tiền bối của mình: -Sao ngài thấy chuyện bất ưng mà sao không ra tay cứu giúp? Sao cứ để yên cho bò béo mộng chết cứng, vô lý thế? Người có đủ thứ, thì ngài lại giúp đỡ cho họ thêm bằng cách trám bịt lỗ hổng, nơi bờ tường. Còn ở đây, gia đình bác nông dân đã nghèo kiết xác không có gì để sống qua ngày, thế mà họ vẫn tốt bụng chia sẻ phần cơm ít ỏi cho ngài, ngài lại để họ mất đi nguồn lợi tức độc nhất, là chú bò béo mập kia. Làm như thế không là bất công thì còn gọi là gì nữa cơ chứ?
Vị thần trọng tuổi đáp lời: -Mọi chuyện coi vậy mà không phải vậy, đâu bạn ơi. Khi bọn mình nằm tại căn hầm ở dưới đất, ta phát hiện ở bờ tường nhiều thỏi vàng ròng cất giấu bên trong. Họ giấu vàng, chỉ chừa một lỗ nhỏ để làm dấu vết sau này tìm kiếm. Chủ nhà đã giàu lại keo kiệt không biết san sẻ của dư của để cho người khác. Dù, một chỗ trú chân nhỏ bé với chăn ấm nêm êm cũng không cho. Nên, ta quyết định bít kín đầu mối kia đi, để họ không tìm ra chỗ cất giấu vàng ròng, của cải dư thừa ấy. Thế rồi, hôm sau khi nằm bên chiếu nan của hai bác nông gia nghèo, ta chợt phát hiện một điều: tử thần gian ác đã ghé thăm căn nhà tiều tụy của bác nông gia nghèo này, định đòi mạng người vợ hiền làm của lễ tế thần, thay cho chúng. Ta bèn cho chúng con bò mẹ béo ngậy để thay thế. Đổi lại, vợ bác nông gia sẽ tiếp tục được sống cho đến mãn kiếp đời. Như thế, mới hợp với triết lý phục vụ. Triết lý dạy rằng: còn người thì còn của. Của cải vật chất là để phục vụ loài người, chứ loài người đâu nào phục vụ của cải vật chất, đâu! Thành ra ta bảo: mọi chuyện coi vậy mà không phải vậy đâu là như thế, bạn hiểu chứ?
Chuyện cổ tích thời đương đại ở trên có thể đã nói lên quan niệm/lập trường rất chung của một số người nơi nhà Đạo. Lập trường ấy là: đi đâu, làm gì, ta cũng nên nghĩ và nhớ đến thân phận và hoàn cảnh của người khác. Thân phận của những người ở dưới đất, được Ngài thương chúc bình an, suốt cuộc đời. Đời của những những người tuy rất nghèo về vật chất lẫn tinh thần, thường vẫn thấy. Nhưng thực tế cuộc đời, họ vẫn hy vọng đạt “đỉnh yên bình hiền hòa”, trên nơi ấy. Nơi có người nghệ sĩ luôn hát bài ca hiền hòa, bình an như sau:
“Trên đỉnh yên bình môt mùa xuân ôm kín khung trời, của tuổi thơ thôi rã, thôi rời xin đừng làm bão tố đôi mươi để vòng tay khắc khoải ôm xuôi từng niềm vui bay theo biển gió. (Nhạc và lời: Mùa Xuân Trên Đỉnh Bình Yên-Từ Công Phụng)
Đúng đấy. “Đỉnh yên bình hiền hòa” ấy, đang ở với bạn và với tôi. Nơi có Nước Trời Hội thánh, rất thân thương. Nước của những tâm can an hòa, với mọi người. Những người như bạn và tôi ở chốn địa cầu này luôn nhận lĩnh lời hứa Chúa ban vinh phúc an bình mà Ngài bày tỏ. Bày và tỏ ngày Chúa Giáng hạ, rất làm người.
Trần Ngọc Mười Hai. Vẫn muốn vui hưởng Niềm an bình Ngài thương ban cho kẻ nghèo ở đất miền phía dưới.
“Xin cho thương em thật lòng, còn có khi lòng thôi giá băng”
Luận phiếm về giờ giấc người mình, hẳn ai cũng biết là ta đang bị chỉ trích, khích bác về chuyện đúng giờ. Đúng giờ đúng giấc cả khi dự các nghi tiết Phụng Vụ, cũng như tiệc tùng, rất lành và cũng rất thánh. Chuyện giờ giấc đúng giờ, hình như đã và đang là cố tật, thật khó chữa. Về chuyện này, bần đạo còn nhớ câu vè đặc biệt nói về người mình như sau: “Không ăn cắp không phải người Mễ. Không đi trễ, không phải người Việt.” Cách đây không lâu, vấn đề này đã được một Linh Mục người Úc nói rất sõi tiếng Việt, cha Kevin thuộc Giáo Phận Parramatta, từng “báo động” với cộng đoàn người mình, ở một tiệc cưới. Thật ra, phê bình đặc trưng đặc điểm của một số người Việt sống ở đất tạm người dưng gần xứ Mễ Tây Cơ ấy, cũng là chuyện không phải. Đâu phải, chỉ có người mình mới mang trong mình những cố tật như thế. Nói cho ngay, đây có lẽ là cố tật của rất nhiều người, Tây cũng như Tầu, người Mễ cũng như dân Mít ở biển Đông. Và, cả ở nhà Đạo mình nữa. Nhằm chứng minh cho chuyện này, vừa qua cũng lại xuất trên báo những câu hỏi và các trả lời, có liên quan. Các cụ ngày xưa thường gọi đó là “nói có sách mách có chứng”. Nay, mời bạn và mời cả tôi, ta cũng lại nghe thêm mục “hỏi – đáp”, rất nhà Đạo. Ở bên dưới. Câu hỏi hôm nay, vẫn đưa ra từ người con người dân rất Đạo, ở Úc. Và, câu giải đáp cũng lại là câu “thiêng liêng sáng láng” của đấng bậc vị vọng đã nghe quen ở Sydney, Lm. John Flader. Là, Đức Thầy phụ trách mục hỏi đáp trên Tuần Báo Công Giáo Sydney số ra ngày 17.2.2008. Hỏi và đáp hôm nay như sau: “Tôi có người bạn cùng chung sở làm. Cô cứ kể cho mọi người nghe về nhiều chuyện xảy ra tại Giáo Xứ của cô. Một trong những chuyện mà tôi cho là không đẹp cho lắm, nhưng vẫn được cô kể lại, là: ý kiến của vị Linh Mục chánh xứ Nhà Thờ nọ, nói về chuyện đi lễ đúng giờ. Cô kể rằng: có lần đức ngài chánh xứ từng đe nẹt Giáo Dân rằng thì là: nếu anh chị em trong Xứ Đạo này đi dự lễ Chúa Nhật mà lại đến trễ, thì nên nhớ rằng họ sẽ không được tôi cho lên rước lễ đâu, đấy !… Chưa hết, một bạn đồng nghiệp khác nghe chuyện, bèn góp giọng, khoe rằng: có ông Linh Mục chánh xứ khác cũng nói: ngài sẽ không trao Mình Thánh Chúa cho bất cứ ai, nếu chỉ tới dự lễ sau giờ đọc Phúc Âm… Và câu hỏi hôm nay tôi đưa ra là: Hội thánh của ta quan niệm thế nào về việc đi lễ trễ ? Ký tên: một Giáo Dân hèn mọn ở xứ nhà. Và, để trả lời câu hỏi trên, Lm. John Flader, đưa ý kiến: “Trong câu hỏi ông đưa ra, tôi thấy có một số vấn đề nên bàn luận. Trước nhất, là sự trọn vẹn của Thánh Lễ, nhìn dưới khía cạnh động tác đơn thuần trong phụng tự. Thánh Lễ, thật sự bao gồm hai phần chính được gọi là Thánh Lễ, đó là: Phụng vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Bẻ Bánh. Phụng Vụ Lời Chúa, khởi sự bằng nghi tiết Dẫn Nhập, có dụng đích giúp người tham dự chuẩn bị nghe biết Lời Vàng của Chúa một cách có kết quả. Để rồi, khi qua phần Phụng Vụ Bẻ Bánh, ta sẵn sàng hiện diện để đi vào tình huống có hy sinh, có tế tự trên đồi Can-va-ri-ô đang diễn ra trên bàn thờ.Nhờ đó, ta nhận lĩnh “Ngôi Lời mặc lấy xác phàm” qua việc Hiệp Thông rước Chúa. Chính vì lý do này, ta hiểu được rằng Thánh Lễ tạo thành hình thức đơn thuần nơi việc phụng tự. Và từ đó, nhận ra tầm quan trọng của sự hiện diện trọn vẹn của Chúa nơi tiến trình buổi lễ. Lý tưởng ra, ta nên đến nơi cử hành Thánh Lễ, trước giờ khai mạc, để có thể tập trung chuẩn bị cho Thánh Lễ, trong thinh lặng. Thánh Lễ thực sự là điểm nổi bật trong ngày, hoặc trong cả tuần lễ nếu ta chỉ dự Thánh Lễ vào ngày của Chúa (Chúa Nhật), thôi. Và, cũng là việc tự nhiên, nếu ta cố ý tới sớm hoặc đúng giờ để chuẩn bị cử hành cho đúng phép. Nhưng hỏi rằng, chuyện gì xảy đến, nếu việc trễ tràng cũng giống như các thói tật không hay khác, dù việc ấy không do lỗi của mình. Ở đây, cần phân biệt hai trường hợp: Thánh Lễ Chúa Nhật và Thánh Lễ thường nhật. Nếu là Thánh Lễ Chúa Nhật, khi ta buộc lòng phải đi lễ, cũng nên đi cho sớm để khỏi phải dự thêm một lễ nữa. Thành thử, nếu thật lòng muốn đi lễ, cũng nên đi cho đủ lễ. Giả như, Thánh Lễ ta tham dự là buổi lễ cuối cùng trong ngày mà mình có thể thu xếp đến dự, thì hãy nên đến vào lúc Thánh Lễ còn diễn tiến. Với câu hỏi: để gọi được là đã dự lễ cách trọn vẹn, thì nên đến vào giai đoạn nào để tránh cặp mắt của anh em đồng đạo cứ coi là mình đến trễ; và dự lễ cách nào thì gọi là “đi chưa đủ lễ” ? Lâu nay vẫn có ý kiến cho rằng ta có thể có mặt từ lúc sửa soạn của lễ dâng lên bàn thờ – mà ta thường gọi là Dâng Lễ – cũng tạm coi là đủ để chu toàn luật buộc, khi dự lễ. Nhưng, nếu đặt tầm quan trọng vào Phụng Vụ Lời Chúa và vào sự trọn vẹn của Thánh Lễ, thì lý tưởng ra, hãy nên đến kịp vào lúc bắt đầu phần đọc Sách Thánh. Dù sao đi nữa, bởi vì Hội Thánh không có lời dạy chính thức về điểm này, nên ta có thể hưởng lợi ích trong chuyện này, tức là: nên đến vào trước lúc bắt đầu phần chuẩn bị dâng của Lễ. Nếu Thánh Lễ được cử hành vào ngày thường, không buộc mọi người phải tham dự, hoặc có khó khăn trong việc đi thêm một lễ nữa, thì lúc ấy cứ việc ở lại mà dự lễ, dù ta có đến trễ. Về chuyện không cho người dự lễ trễ được phép hiệp thông rước Mình Thánh Chúa, thì cho đến nay ta chưa tìm ra đươc lý thoả đáng nơi giáo huấn của Hội Thánh để bào chữa chuyện này. Tuy nhiên, trong Giáo Luật Hội Thánh có nói: “Giáo Dân có quyền được vị Mục Tử của mình chia sẻ sự phong phú linh đạo của Giáo Hội, đặc biệt là nơi Lời của Chúa và nơi phép Bí Tích” ( xem Giáo Luật số 213) Về việc từ chối không cho bổn đạo đi lễ trễ được hiệp thông rước Chúa, thì Giáo Luật cũng ghi rõ và rất hạn chế, như sau: “Những ai bị công khai tuyên bố là đã mắc phải vạ tuyệt thông hoặc rõ ràng bị cấm đoán không được bước lên bàn thánh rước lễ, và người nào ngang bướng cứ khăng khăng cố chấp ra mặt, bất kể làm như thế có mắc tội trọng hay không, thì không được phép hiệp thông rước lễ.”(Giáo Luật 915). Còn, việc từ chối không cho bổn đạo được rước Chúa vào lòng vì bất cứ lý do nào khác, là một thứ lạm dụng quyền bính. Nói cách khác, đến dự lễ trễ, trong nhiều trường hợp, không có nghĩa là mình “ngoan cố cứ khăng khăng ra mặt chẳng bối rối là mình làm thế có thể là mắc tội trọng”, hay nhẹ. Dù ở vào trong trường hợp nào đi nữa, thì dường như các Linh Mục ít có khả năng biết rõ lý do khiến cho Giáo Dân bổn đạo mình trễ nải khi tham dự Thánh Lễ là do họ thiếu cẩn trọng hoặc vì một lý do nào khác chính đáng, thì Linh Mục ấy phải hiểu là Giáo Dân của mình sở dĩ bữa ấy đi lễ trễ là vì họ có lý do chính đáng. Hiểu và thông cảm như thế, mới thích hợp với tư cách người Mục Tử. Nói tóm, là Giáo Dân, ta cũng nên có cố gắng đi lễ cho kịp giờ, và cũng nên đi càng sớm càng tốt. Đi sớm, sẽ chuẩn bị lòng trí mà hiệp thông. Tuy thế, nếu có đến trễ, cũng cứ tự nhiên mà bước về phía trước để đón rước Chúa vào lòng; miễn là ta đã chuẩn bị đủ để làm việc ấy. Cuối cùng, thì tham dự Thánh Lễ không là chuyện bắt buộc phải làm như thế mới được rước Mình Thánh Chúa. Bởi, trong nhiều trường hợp, Giáo Dân chúng ta vẫn có thể đón rước Chúa vào lòng mình, ngoài giờ cử hành Thánh Lễ. Như, trường hợp đau ốm bệnh tật, hoặc đang nằm bệnh viện, hoặc tình huống bất khả kháng khác, chân cẳng có vấn đề đi đứng… (John Flader, The Catholic Weekly, 17 Feb 2008, t.10) Hẳn là độc giả trên chắc đã thở phào, nhẹ nhõm khi nghe câu trả lời lần này. Thở phào, khi “được lời như cởi tấm lòng”. Cởi và mở tấm lòng, là tình trạng sống Đạo của rất nhiều dân con nhà Chúa. Thở phào, vì tham dự lễ Chúa Nhật vẫn là chuyện “thường ngày ở huyện”. Vẫn xảy ra trong Nhà của Chúa, nơi có lễ. Có lễ và có lạy, khi rước Chúa ngự trong lòng của người anh người chị, ở khắp nơi. Chúa đi vào lòng người, là chuyện ta nên khuyến khích mọi người. Chứ đừng đưa ra những doạ và nạt, nghe đến sợ. Được biết, dân con Nhà Chúa ở huyện ngoại thành, hay ngoài nước vẫn hay tránh né những o ép, rất ư là luật lệ. Những o ép rất khó chịu. Vậy thì, đưa ra làm gì nhiều vấn đề, cho thêm mệt? Còn nhớ, Hội Thánh tiên khởi cũng đã có những trường hợp o ép, khúc mắc tương tự, khiến người dân đi Đạo ở huyện nội thành xứ Cô-rin-tô từng hỏi han. Và Phao-lô thánh nhân cũng đã kịp thời có lời khuyên rất thánh gửi đến bổn đạo nhà. Những lời khuyên bảo, mà ngày nay ta vẫn coi là Lời của Chúa được đọc vào buổi cử hành một số Thánh Lễ, trong Đạo. Để tóm tắt, xin ghi lại như sau: “Cho nên, thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau” (1 Cr 11, 33). Hoặc: “Nếu có ai nghĩ mình phải cãi lý, thì đó không phải là thói quen của chúng tôi, cũng như không phải là thói quen trong các Hội Thánh của Thiên Chúa.” (1Cr 11, 16) Thật ra, chuyện ở đây không là “phải cãi lý”, hoặc “hãy đợi nhau khi (dự lễ Bẻ Bánh) dùng bữa”, mà là hãy sống với nhau, gặp nhau như những người anh người chị cùng nhà. Cùng gia đình, cùng cộng đoàn để rồi ta trông ngóng, đón chờ ngày Chúa quang lâm. Nếu thế, xá gì một chút nhịn nhau. Nhường và nhịn, chứ không phải là đe và nẹt, từ đấng bậc trên cao. Rất đáng sợ sệt. Phải thế không bạn? Phải thế không tôi? Những tôi và tớ, trong nhà Đạo, Nhà của Chúa, vẫn mời chào người con.
Trần Ngọc Mười Hai, vẫn cứ hỏi những tôi cùng tớ những câu vớ vẩn và vẩn vơ như thế
Thương khó – khó thương, vẫn cứ thương mà không khó
Đầu đề chuyện phiếm hôm nay xem ra có vẻ kỳ thú? Đây không phải là đề tài lớn về thần học; mà, chỉ là thắc mắc cỏn con (một câu hỏi thì đúng hơn) từ một cô bé người Việt, con nhà lành, rất kính sợ Thiên Chúa. Nhưng, cô cũng có những thắc mắc. Và, vì quen với lối giáo dục ở trời Tây. Cộng thêm một ít khôn ngoan của người nghe lời Chúa và dám có thắc mắc, dám hỏi han. Thắc mắc cô bé hiện có là do đã nghe bài Thương Khó của Đức Yêsu, theo thánh Marcô. Thắc mắc, như thế này: sao ta gọi đó là “Thương Khó”, nghe dễ lầm với chữ khó thương, khó chịu? Phải chăng có điều gì khó hiểu trong các bài Phúc Âm vào Tuần Thánh? Trả lời vấn nạn của cô, xem ra cũng hơi khó. Mặc dù, đó không phải là khó thương hay khó chịu. Mà, chỉ có ý bảo rằng: không dễ gì làm cô hài lòng, với những từ ngữ hoặc luận đề có tính cách cao siêu, khó hiểu. Nhưng, để chiều ý cô bé, hãy cứ thử phiếm rồi luận một chút, xem sao. Nói chung, cụm từ “Sự Thương Khó” trong Phúc Âm các thánh sử ghi lại, là từ ngữ được dịch từ chứ Passion tiếng Anh hoặc tiếng Pháp mà có.The Passion of Jesus Christ hoặc: La Passion du Christ. Passion ở đây là quyết định có một không hai của Đức Yêsu khi Ngài đi đến giai đọan kiện toàn công trình cứu độ mà Chúa Cha trao cho, qua việc chấp nhận mọi khổ đau nơi thân xác. Đau khổ tận cùng bằng cái chết nhục nhã, trên thập tự. Cứ sự thường, nói đến Passion người ta liên tưởng ngay đến nỗi đam mê của nhà nghệ sĩ hay phàm nhân nào yêu thích việc gì đến cùng tột. Chẳng hạn, khi bảo anh này đam mê hội hoạ, anh kia mê nhẩy nhót quá sức; cô kia mê hát quá độ, chàng nọ mê đánh bài đến nỗi không ai khuyên bảo được…Thậm chí, khi người con trai thương yêu người con gái nào ngoài sức tưởng tượng, thì người đời sẽ bảo: anh chàng này mê gái. Ngược lại, khi người con gái chết mê chết mệt vì anh con trai nào đó, thì người đời lại bảo: cô ta si tình, hoặc mê trai, như điếu đổ. Tóm lại, khi đam mê, người ta thường để hết tâm trí, thời giờ cũng như sức lực cho những chuyện họ đang say mê, thích thú. Từ danh tự Passion ta có thêm các hình dung tự Passioné hoặc Passionate chỉ tính chất mê say, mê mệt. Và từ đó, lại có từ khác như Compassion, Compassionate chỉ đặc tính hay thương xót, thương yêu vô ngần của ai đó. Vì thế, Passion ở đây không mang ý nghĩa “khó thương” hay “khó chịu” gì hết. Nhưng, nếu hỏi rằng cụm từ Passion trong The Passion of Jesus Christ thì sao? Có là đam mê hay mê mệt gì không? Câu trả lời có lẽ nên dành cho các nhà học giả hay chú giải Thánh Kinh. Ở đây, chỉ xin mạo muội kính mời người đọc giở Phúc Âm thánh Luca đoạn 22 câu 14, hẳn quý vị sẽ tìm thấy ý chính như sau:
“Khi giờ đã đến, thì Ngài lên giường tiệc làm một với các tông đồ và Ngài nói cùng họ: ‘Ta ao ước khát khao ăn Lễ Vượt Qua này với các con trước khi Ta chịu khổ nạn. Vì Ta bảo với các con: Ta không còn ăn lễ ấy bao giờ nữa cho đến khi nào nên trọn trong nước Thiên Chúa.” (Lc 22: 14)
Vậy là: các từ ngữ, như: Passion, Pass Over, Lễ Vượt Qua, cuộc Khổ nạn, Bài Thương Khó, vv… ắt có tương quan chặt chẽ với nhau. Tương quan ấy, khả dĩ lột tả được tâm tình mà Đức Kitô đã có, khi Ngài thực hiện ý định chung cuộc của Ngài. Nói chung, nếu gọi cuộc “Khổ nạn” của Đức Kitô là “Sự Thương Khó” hay “Nỗi Thống Khổ” thì tất cả đều quy về điểm này: Đức Kitô đã chấp nhận sự Thống khổ dẫn đến cái chết nhục nhã trên thập tự. Cái chết, mà có một lúc nào đó, Ngài gọi là “chén đắng”, rất khó nuốt:
“Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén này qua đi khỏi Con! Song, không phải như ý Con, mà như ý Cha.” (Mt 26: 39)
Vậy thì, khổ đau hay sự chết đều có nghĩa “thương khó”, tức đều có khó khăn khi phải quyết định nhận lấy nó. Chính vì thế, Thương Khó khi dẫn đến cái chết nhục nhã, đôi lúc cũng khó thương hoặc khó chịu, nếu không phải là thương khó vì yêu thương đến cuồng nhiệt, mà người đời cho là dại khờ, hoặc: khó mà thương. Thứ tình yêu, mà có bạn đã quả quyết là “không thể đo lường, không thể giải thích được vì tình đó là tình điên dại.” Vậy nên, tình của một người yêu đến mê đến mệt, và dại khờ, yêu với tất cả đam mê, cuồng dại, không thể đo lường được, thì chính đó là Passionné, Passionate, Compassion, Passion, Pass Over,… là như thế. Trong buổi mạn đàm bỏ túi giữa bạn đồng đạo và đồng thuyền, có người đã bất thần bày tỏ: Đạo của Đức Kitô loan truyền chính là Đạo của niềm vui Tin Mừng, thứ Đạo làm cho người người thêm hưng phấn, chứ tuyệt nhiên không phải và không thể là Đạo của răn đe, trói buộc; hay còn gọi là: Đạo của những chuyện khó thương và khó chịu. Vậy, dám phiếm với các bạn rằng: khi chiêm niệm về Sự Thương Khó/Thống Khổ của Đức Kitô, có gì làm bằng cho quả quyết nói trên không? Nói cách khác, sao dám gọi Đạo Chúa là Đạo của Tin Mừng, của niềm hưng phấn, khi mà suốt cả năm phụng vụ, Hội thánh buộc con dân mình phải ăn chay, hãm mình chịu khó những hai lần. Đây cũng là một thứ “chịu khó” đến “khó chịu” cả về thể xác lẫn tinh thần. Thế thì vui chỗ nào? Mừng ở đâu ra? Thắc mắc trên đây, bần đạo đã hơn một lần chuyển đến các bậc trưởng thượng trong cộng đồng dân Chúa sở tại, thì nhận được câu trả lời rất ư là “đặc biệt”. Có vị, thay vì giúp bần đạo tìm ra chân lý, lại quắc mắc trách thầm sao bần đạo hay có những thắc mắc lỉnh kỉnh, đến như thế. Cũng may, còn có vị khác tử tế hơn, nghe hỏi đến đó, bèn thảy cho ít sách dầy cộm với lời chỉ bảo nhẹ nhàng: Này, cầm lấy mà đọc đi, thế nào cũng tìm ra được ánh sáng ở cuối đường hầm, thôi.
Và rồi, hí hửng ôm chồng sách về đọc, thằng bé vừa đi vừa nghêu ngao câu hát nhại lại bài ca bất hủ của nhạc sĩ Phạm Duy, rằng:
Xin cảm ơn, Hội thánh có anh. Xin cảm ơn, một mái tóc già… Mai sau đó, trên trời Thiên Quốc… còn một chút gì để nhớ để thương.
Chưa hát xong, chân lý đã dần dần ló dạng, ở phía cuối đường hầm. Trước hết là một khẳng định, từ một vị thầy về Kinh thánh:
“Thánh Phaolô trình bầy vấn đề (ơn cứu độ) một cách rành rẽ khi Ngài lấy thí dụ một đứa trẻ sơ sinh ra để hưởng một cơ nghiệp lớn lao (Ga 3:23; 4-7). Cơ nghiệp là của nó không thể truất phế được do bởi chúc thư của cha nó… Cũng vậy, dân của Thiên Chúa là người thừa tự một cơ nghiệp thiêng liêng, cơ nghiệp ấy tạm có thể diễn tả bằng các đặc tính “Công chính, Bình an và Hoan lạc” (Lm Nguyễn Thế Thuấn, Kinh thánh, Tiểu dẫn vào tân Ước, tr. X)
Và, thêm vào đó là một lời nhắc nhở:
“Tân Ước là sử hạnh của một nhân vật: và nhân vật đó là Chúa Yêsu. Ngài hành động và chịu thống khổ như Mêsia, như Con Người, nghĩa là như vị đại diện cho dân của Thiên Chúa”. (Nguyễn Thế Thuấn, sđd tr. XI)
Thêm nữa, một chỉ dẫn ban đầu:
“Muốn đọc Tân Ước cho có hiệu quả, thì độc giả cũng phải ghi kỹ nơi trí mình cái mẫu đó… Khuôn mẫu được thể hóa trong điều mà Hội thánh tiên khởi gọi là “Rao giảng” (tiếng Hy Lạp nguyên văn gọi là kèrygma). Lời rao truyền ấy, ta có thể nói là có tính cách một tin “nóng hổi” làm chấn động lên… Các ngài gọi đó là “Tin Mừng” hay “Tin Lành” (sđd, tr XII)
Xem như thế, bản chất của Đạo lý Đức Kitô chủ yếu là Rao giảng Tin Lành. Mà nội dung của Tin Lành tập trung vào ơn cứu độ là chính. Để cứu độ con người, Đức Kitô đã phải chấp nhận sự thương khó đến cùng cực, bằng cái chết nhục nhã. Tuy nhiên, tất cả không dừng lại ở đây. Sự Thương khó/Thống khổ chỉ là con đường ngắn ngủi Ngài dùng để chuẩn bị cho Phục sinh cao cả. Phục sinh mới là cứu cánh của hành vi cứu độ. Không có Phục sinh, như thánh Phaolô quả quyết, thì lòng tin của anh em nên hư luống. Thành thử, Thương Khó là đoạn đường khó thương và khó chịu nhất thời cốt dẫn đến Tin lành chung cuộc là: Phục Sinh, Quang Lâm. Chính vì thế, mà chủ trương thống khổ của Mùa Vọng hay Mùa Chay nhằm giúp tín hữu Đức Kitô lãnh nhận ơn phước Phục Sinh mà Đức Chúa đã dành để cho con người, trong cuộc sống ngắn ngủi này. Cuối cùng, câu trả lời hay nhất cho thắc mắc nêu trên, có lẽ là: hãy cứ xem phản ứng của các người phụ nữ đã được thần sứ loan báo tin vui khi Đức Chúa sống lại. Thánh sử Mat-thêu đã ghi lại như sau:
“Vội vàng bước ra khỏi mộ, (các phụ nữ) vừa sợ vừa rất đỗi vui mừng, họ chạy đi báo tin cho môn đồ của Ngài.” (Mt 28: 8)
*
Như thế, thì Thương Khó ở đây là trạng thái ra khỏi mồ với tâm tình lo lắng, sợ sệt và buồn chết đi được. Buồn và sợ, nhưng vẫn “rất đỗi vui mừng” để còn báo cho người khác biết “Tin Lành Cứu Độ” của Ngài, nữa. Nếu thật sự, cùng sống và chia sẻ tâm tình của Đức Kitô khi phải uống chén đắng kia, thì những ai thắc mắc về sự “Thương Khó”, sẽ không còn coi đây là chuyện khó thương nữa. Bởi, cả hai tư thế Vọng Giáng Sinh lẫn Chay lòng đích thực vào mùa Thương Khó, chỉ có ý nghĩa rất đúng nếu ta lồng nó vào với tinh thần Phục Sinh đầy hưng phấn.
Và, khi ấy ta sẽ có được sự “Công chính, Bình an và Hoan lạc”.
Trần Ngọc Mười Hai vẫn trộm nghĩ như thế, hôm nay phiếm vội cùng bạn trong ngày chay lòng hoan lạc.
“Bàn tay đưa anh khỏi lòng người” “Đức Giê-su đã nói về cái chết của anh La-da-rô, còn họ tưởng là Ngài nói về giấc ngủ bình thường”
Giấc ngủ bình thường hay nỗi chết, vẫn là tình trạng linh hồn rời nơi thân xác. Trong chốc lát, hoặc chỉ một vài tiếng đồng hồ, thì ta gọi đó là giấc mơ vui hay cơn hồ điệp. Nhưng, nếu tình trạng ấy lại kéo dài vĩnh viễn miên trường, thì người người sẽ gọi đó là nỗi chết. Chết hay ngủ, có khác nhau nhiều lắm không? Vấn nạn nhè nhẹ hôm nay, xin gửi đến bạn bè, người thân. Gửi các vị đang đọc giòng chảy vội phiếm, hôm nay. Gửi cả cho những người anh người chị thích phiếm và thích tản mạn, vốn không ưa chuyện nghiêm túc, những khuyên và dạy. Vậy thì, bạn và tôi hôm nay ta cứ phiếm. Cứ tản mạn cho vui. Tản mạn, chứ không khuyên và không dạy, bất cứ ai. Bởi, với tuổi đời chỉ bây nhiêu, bạn và tôi dạy ai được? Dạy được gì? Dạy những gì? Viết đến đây, bần đệ nhận được một tin không vui từ bạn bè người rất thân, ở Hoa Kỳ. Tin không được vui, là tin về chuyến ra đi về chốn vĩnh hằng của anh Hoàng Kim Quý, cựu học viên Giáo Hoàng Chủng Viện, anh rể họ của một người anh trong Gia Đình An Phong ở Pleiku, Lm Trần Sĩ Tín DCCT. Trong tờ tin loan báo về sự ra đi của anh Hoàng Kim Quý, bần đệ được đọc những giòng như sau: Nhà văn, nhà báo, nhạc sĩ An Phong Hoàng Kim Quý, nguyên chủ bút sáng lập Nguyệt San DIỄN ĐÀN GIÁO DÂN, đã rời bỏ thân nhân, bằng hữu về miền miên viễn, ngày 28.1.2008 tại Fountain Valley Hospital, Nam California Hoa Kỳ, sau nhiều năm trời phấn đấu với chứng bệnh ung thư máu. Hưởng thọ 68 tuổi. Ông là cựu Chủng Sinh Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt, tốt nghiệp Cử nhân Triết và Xã Hội học Đại học Văn Khoa Sài-gòn, cựu Sĩ quan QLVNCH. Sau tháng tư năm 1975, ông bị CS bắt đi tù cải tạo trong nhiều năm. Cuối thập niên 80, ông cùng gia đình qua định cư tại Mỹ, tiếp tục sáng tác, dịch thuật, làm nhạc, làm báo. Ông chủ trương hai nhà xuất bản Thăng Tiến và Phụng Sự, vừa trước tác và dịch thuật 22 tác phẩm và là tác giả của rất nhiều bản Thánh Ca, Cộng Đồng Ca, Du Ca. Ông cũng là người khai sinh Trang Nhà (Website) Tiếng Nói Giáo Dân nhằm đem Đạo vào Đời, góp phần tích cực vào việc xây dựng Quê Hương và Giáo Hội…. trích ai tín từ gia đình) Tình cảnh của bần đệ cũng hơi na ná giống anh Hoàng Quý. Nghĩa là, cũng từng ở tù. Cũng đã làm báo, khi đi ra. Cũng viết và cũng lách, lâu nay. Mới, chỉ lai rai tham gia Ban Halleluyah “Ca Vào Đời”. Và mới đây, cũng rắp ranh ra CD Chuyện Phiếm Đạo-đời, nhưng không làm được gì nhiều như anh Hoàng Quý. Nói đúng hơn, chưa làm được gì cho Giáo Hội. Cho Đất Nước. Nhưng nay, bất chợt thấy anh bắt đầu đi vào cơn hồ điệp, bần đệ đã thấy có cảm giác khác lạ, ở trong bụng. Nói cách khác, tin của anh Hoàng Quý đã “ra đi vào giấc mơ miền viên miễn” đã cho bần đệ những giây phút chiêm niệm về sự “đi ra” và “đi vào” cõi thế trần. Để rồi, sẽ lại suy tư về chuyện đời này, lẫn đời sau. Về chuyện “ra” khỏi cuộc đời này và “vào” vùng đời sau, bần đạo có những gợi nhớ và cảm nghiệm. Rất cảm và rất nhớ, như sau: Lúc ấy, bần đệ đang học ở trường Dòng. Nghĩa là, vào giai đoạn cuộc đời mà bần đệ có rất nhiều giấc mơ và giấc ngủ, nhưng không miên viễn. Chính đó là lúc, trong môi trường rất mới, bần đệ cũng đã cảm nghiệm được những cái-tạm-gọi-là mất mát/hụt hẫng nơi khi có người anh em đồng cảnh đã ra đi về miền vĩnh cửu. Những người anh rất Linh Mục. Hoặc, rất phó tế. Trong buổi canh thức ngồi cạnh một người anh đã ra đi, bần đệ lúc ấy đã có những cảm nhận rất ư là “giá buốt tim em”. Kế đến, là những giòng chảy suy tư về một cảnh tình lâng lâng nhè nhẹ, ít khi thấy. Thấy như thế nào, quả thật khó diễn bày. Thúc bách cho lắm, thì bần đệ cũng chỉ dám đưa ra những tâm tình mông lung, lơ mơ “khó diễn tả”, buộc chính bần đệ phải quay về với lời dặn dò của Thày Chí Thánh, nơi kinh kệ. Dòng chảy suy tư đêm đó, là những tâm tình xảy đến với người thân của La-da-rô, ở trình thuật: “Đức Giê-su nói về nỗi chết của anh La-da-rô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ bình thường.” (Ga 11, 13). Từ ngàn xưa, khi nói về nỗi chết, nhiều người cũng có các tình tự giống như thân thuộc của anh La-da-rô. Nghĩa là, khi nói ai ngủ say thì bảo: “Anh ta ngủ như chết”. Còn khi nói anh đã chết, thì lại tưởng chừng đó chỉ là giấc mộng bình thường, trông như đang ngủ, rất thường tình. Xem thế, thì chết và ngủ thường không có gì khác biệt. Đó là, xét về mặt tư thế của thân xác. Chính vì tư thế này, mà nhiều người vẫn lầm tưởng. Vẫn lẫn lộn. Lẫn và lộn, cả trong suy và xét về tư thế phải có khi chết. Và khi ngủ. Bởi, nói cho cùng, chết: là đã và đang ngủ. Cũng thế, ngủ là trạng thái đang chết cho những lầm và lẫn, mắc phạm từ lâu. Chết cho tư thế lầm tưởng, với lẫn lộn. Lầm và lẫn nhiều thứ. Lầm và lẫn cả trong tư thế sống. Sống thật. Sống ở giai đoạn chuyển tiếp chứ chưa là chốn miên trường. Về ngủ và chết, Đức Chúa còn nói thêm: “La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc, Thầy đi đánh thức anh ấy đây.” (Ga 11, 11) Yên giấc như Chúa nói, là cõi yên bình trong cơn giấc. Giấc, đây có thể vừa là giấc ngủ. Vừa là giấc mơ. Mơ về cõi sống không có nỗi chết. Cả đến khổ đau sầu buồn, cũng không. Thế nhưng, nếu La-da-rô đang yên giấc, thì sao Chúa lại phải đánh thức anh dậy? Đánh thức anh như thế, ý hẳn Ngài không muốn cho giấc mơ hay giấc ngủ của anh được bình yên ? Thì đây, một phản ứng: “Bấy giờ Ngài mới nói rõ: La-da-rô đã chết thật.” (Ga 1,14 ) Người bạn thân của Đức Giê-su đã chết thật. Nhưng, Chúa vẫn nói tiếp: “Thầy mừng cho anh em, vì Thầy không có mặt ở đó để anh em tin.” Và, Thánh Gio-an Tông Đồ, thêm vào trình thuật, câu nói của ông Ni-cô-đê-mô: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng hãy đi để cùng chết với Thầy.” (Ga: 11, 16) Suy cho kỹ, “yên giấc”, “chết thật” hoặc “hãy đi để cùng chết với Thầy”, vẫn quan trọng hơn cảm nhận và san sẻ chuyện sầu buồn. Quan trọng, là bởi “có như thế anh em mới tin”. Tin rằng: tất cả mọi người sẽ giống như La-da-rô người anh của Mác-ta, bạn thân của Đức Chúa, sẽ sống lại. Và, ở đây thánh Gio-an tông đồ đã ghi lại một xác quyết khác, từ Đức Chúa: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không ?" (Ga: 11, 25) Nói khác đi, chuyện sống – chết hoặc mộng mị – yên giấc, chẳng qua cũng chỉ để chúng ta tin. Có tin mới có sự sống. Sống thời bây giờ. Sống cõi miên trường. Hôm qua và hôm nay, nếu còn có những người bạn hoặc anh em của Đức Chúa, đã và đang “yên giấc” ngàn thu hoặc mới chỉ vài ngày, lại hỏi Chúa về chuyện “sống – chết”, thì ắt hẳn Lời của Chúa cũng sẽ được lặp lại mà hỏi rằng: “Anh chị có tin thế không ?” Vâng. Tất cả là ở điểm này: Sống-chết, vẫn chỉ là chuyện đời thường. Chẳng có gì đáng để ta phải hãi sợ và kinh ngạc. Hoặc, luôn vấn nạn: Anh chị có tin thế không? đây mới là chuyện quan trọng, đáng bàn. Và, để minh xác thêm về đời người, dù ở giai đoạn trước hay sau cuộc đời, tưởng cũng nên kể thêm ở đây một tâm sự, một chuyện kể rất thường. Chuyện thường của đời người. Còn gọi là chuyện về Cuốn Sách Đời Tôi, như sau: Bạn có biết mỗi ngày trong đời người, ta đều mở ra một trang giấy trắng. Rồi thì, mỗi ngày cứ thế trôi qua, khi trang giấy đời mình đã kín. Và, mình cũng chẳng có thể thay đổi được gì hết. Giở lại từng trang giấy cuộc đời, ta sẽ thấy lại được đời mình. Nhiều khi rất hạnh phúc. Nhưng, cũng có lúc khá buồn đau. Có những kỷ niệm rất ngọt ngào, làm ta nôn nóng. Nhưng cũng có những ký ức buồn phiền, khiến ta chỉ muốn xé tan tờ giấy ấy… Và từ hôm nay, bạn và tôi hãy tìm cách viết khác đi trên những trang giấy của đời mình. Đó là: * Dẫu khó khăn có bao trùm, nghịch cảnh có bủa vây, ta vẫn tìm cách pha trộn bột mầu cho tờ giấy được dịu dàng, thật êm ái như thể trời vẫn quang, mưa đã tạnh.. để bức tranh cuộc đời hôm nay sẽ là một hồi ức đẹp cho ngày mai. * Vậy thì hôm nay, ta nên viết gì đây? Hãy viết sao cho ngày hôm nay trở thành thứ “tài sản vô giá”, hay thành “hành trang không thể dễ quên” để ta có thể vững bước đến mút cùng tận của đường đời. Vì ta đã có niềm tin, ý chí và lạc quan làm bạn đồng hành. * Còn bạn, bạn sẽ làm gì khi bạn phát giác ra rằng mình chỉ còn độc nhất có một ngày để sống? - Phải chăng, bạn sẽ cảm tạ ba mẹ, người đã ban cho bạn cuộc sống tươi đẹp? - Hay, sẽ nguyện Ơn Trên, xin bình yên đến với hết mọi người, cho người mình yêu dấu và cả những người mình chẳng yêu. Người mình đã quen hoặc chưa một lần biết mặt ? - Sẽ ngồi lặng hằng giờ nhìn ngắm mặt trời mọc, chiêm ngưỡng các tia nắng vàng nhảy nhót vào khi hôm sớm. Hoặc, nghe tiếng gió thì thầm ve vuốt làn da, khẽ đùa nơi từng lọn tóc ? - Sẽ chạy ùa vào vòng tay rộng mở của người mình yêu thương nhất đời để được ôm ấp, với chở che. Để được say đắm nồng nàn. Hoặc, sẽ ôm ghì các đứa con thiên thần của mình, cho đến khi không còn hơi sức để ôm nữa? * Bạn và tôi hãy tận hưởng để sống một ngày, như mọi ngày. Hãy lấp đầy ký ức của mình bằng niềm vui râm ran và những gì tốt đẹp. * Xin đừng làm tổn thương bất cứ ai, dù chỉ bằng lời nói. Xin được chìa vai để cùng ai đó gánh vác. Gánh vác mọi sức nặng của cuộc đời. Để rồi, sẽ cùng nhau xây đắp những công trình, mà mình không thể dời kéo đến ngày hôm sau. * Không bao giờ là quá muộn, để bạn và tôi có thể thay đổi cách suy nghĩ, cách nhìn đời, cách sống và cách cảm nhận về cuộc đời; để rồi, sẽ khởi đầu một ngày mới, viết lên trang sử về đời mình. * Cảm tạ Ơn Trên. Cảm tạ Trời Đất đã ban cho bạn và cho tôi, có được “ngày hôm nay”, vì hôm nay đích thật là “quà tặng”.
Vâng. Vì là quà tặng, nên ngày hôm nay có thể chỉ là chuỗi dài một đời người. Một đời dù chỉ “sáu mươi năm”, hoặc “nhân sinh thất thập”, vẫn chưa “cổ lai hi”. Cảm tạ, vì quà tặng vẫn có đó. Cả ở đời này, lẫn đời sau. Quà tặng của Niềm Tin. Và Niềm Yêu. Niềm yêu thương đã “đưa anh khỏi lòng người”. Lòng đời. Một đời rất “người”, dù trước hay sau. Nơi cõi miên trường. Vĩnh viễn.
Trần Ngọc Mười Hai, dù đời chưa là thất thập chốn nhân sinh
Tình yêu – sự chết, hai điểm nóng của đời người (Rm 5 & 6)
Có một điều rất ư là trái khoáy đối với người Việt đi Đạo, là: hằng năm cứ vào độ xuân sang ta ăn Tết chưa được bao nhiêu ngày, là ai nấy đã phải hồi tâm, tỉnh trí để suy niệm về những đề tãi gây trăn trở, như: sám hối, khổ hạnh, sự chết… Điều này quả không sai, nếu đem so chiếu với lịch phụng vụ của Giáo hội năm nay: Năm C 2007. Rõ ràng, bà con đi Đạo mừng xuân Đinh Hợi mới được vài ngày là đã bước vào phụng vụ Mùa Chay, bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro mồng 4 Tết, với đề tài suy tư về ý nghĩa cái chết-cuộc đời. Trong khi ở đời thường, người ngoài Đạo những chúc nhau, nào là: đắc tài đắc thọ, bách niên giai lão, đa phúc đa lộc, vạn sự như ý nguyện, khang an thịnh vượng, vv.. nghĩa là ai cũng muốn chúc tụng nhau niềm hạnh phúc dài lâu, vô bờ; hoặc có được cuộc sống kéo dài đến trăm năm. Thế nhưng, khi đối đầu với thực tại thì trớ trêu thay, vào Mùa Chay, Giáo hội lại nhắc nhở người tín hữu Đức Kitô hãy bớt vui chơi chè chén mà hãm mình, phạt xác; hoặc, bỏ chút thời giờ để gẫm suy về cái chết của Đức Kitô, cái chết cao cả của Đấng Vô Cùng Vô tận, cả thời gian lẫn không gian. Nhìn từ một góc độ nào đó, người tín hữu Đức Kitô hẳn nhận ra rằng: giữa Tình yêu và Sự chết đã có tương quan nào đó, rất mật thiết. Bởi, nói một cách khái quát thì: dù có tình yêu mà không có sự chết thì tình yêu đó đã chắc gì mang đủ ý nghĩa của tình yêu đích thực? Ngược lại, chết mà không có dụng đích, hoặc không vì tình yêu thì chỉ là chết oan, chết tức tưởi, chết lãng xẹt. Trong ngôn ngữ đời thường của người Việt, ta thấy bàng bạc những thành ngữ như: “Yêu là chết trong lòng một ít”, “Yêu anh, em chết đi được!”, “Sướng muốn chết!”, vv.. cũng nói lên phần nào mối tương quan giữa tình yêu và sự chết này. Trong văn chương kịch nghệ cổ xưa, chắc chẳng ai quên được những chuyện tình lâm ly, ai oán với những cái chết êm ả, nhẹ nhàng như thần thoại Orpheu & Eurydice, hoặc Romeo & Juliet… Cũng thế, trong chừng mực nào đó, có thể nói được rằng: các nhân vật chính trong những chuyện tình lãng mạn ấy, đều muốn tìm đến cái chết để cho tình yêu của mình trở nên vĩnh hằng, bất tử. Thành thử, có thể khẳng định đựợc rằng: chính qua cái chết nhẹ nhàng và trữ tình như thế, tình yêu họ trao nhau đã thật sự trở nên bất tử, vĩnh hằng từ lâu. Và ở đây, ta rút ra kết luận: Tình yêu quả có dẫn đến sự chết; và, sự chết quả đã nói lên được đặc trưng của tình yêu. Nói cách khác, yêu là chết trong lòng “nhiều lắm” chứ không chỉ “một ít” như tác giả nào đó nhận định. Về với tín lý thần học, hỏi rằng: Mùa Chay có là dịp tốt để ta suy niệm về tình yêu và sự chết, không? Thì trước tiên, nếu quan niệm rằng: hãm mình phạt xác là “chết trong lòng một ít”, thì đó chính là vì mình muốn cho mọi người được hiệp thông với cái chết cao cả, với tình yêu đích thực của Đức Kitô, mà thôi. Thánh Phaolô, nhà thần học uyên bác của Giáo Hội, đã nhiều lần đề cập đến sự chết và tình yêu ngang qua cái chết của Đức Kitô. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, ngài khẳng định:
“Chính Thiên Chúa đã thi thố Tình yêu của Người như thế này: là Đức Kitô đã chết vì loài người” (Rm 5: 8)
Trong ý hướng thần học của thánh Phaolô, thì yêu chẳng phải là ”chết trong lòng một ít”, mà ngược lại, chết là cách thức diễn tả tình yêu trọn vẹn mà Thiên Chúa thi thố với loài người. Chính Đức Kitô, Đấng không thể chết, đã chọn lấy cái chết, và là cái chết rất nhục trên thập giá. Và, Ngài vẫn đang chết dần chết mòn vì sự thờ ơ lãnh đạm của loài người; để rồi qua đó, đưa loài người vào chính tình yêu vĩnh hằng của Thiên Chúa. Nói cách khác, chết là sự cốt thiết “ắt và đủ” của Tình yêu. Có chết cho chính mình mới nói được là mình đang yêu ai đó. Chết cho người mình yêu là cái chết rất đẹp và đầy ý nghĩa nhất. Thành thử, hàng năm cứ mỗi độ xuân về, Giáo hội vẫn cứ kêu gọi tín hữu Đức Kitô không chỉ hãm mình phạt xác suông, mà thôi. Nhưng, còn phải chết đi; chết cho tình yêu cao cả và đích thực ấy. Chết cho Đấng đã yêu thương mình đến chết. Nhưng, vấn đề đặt ra, là: năm nào Giáo hội cũng kêu gọi tín hữu Đức Kitô hãy chết đi. Giáo hội cứ kêu hoài, kêu mãi chẳng thấy ma nào chết cả! Hoặc: phải chết cách nào mới gọi là chết đẹp, chết có ý nghĩa? Để trả lời cho câu hỏi này, có lẽ không gì bằng ta hãy đi vào chính nguồn mạch của sự sống cho mọi tín hữu, tức: Lời của Ngài mà tìm hiểu. Vậy, dưới đây là một vài trích dẫn từ nguồn mạch sự sống ấy. Trích dẫn không có nghĩa trả lời thẳng vào vấn đề. Nhưng, trích dẫn ở đây, chỉ mang tính cách gợi ý và khích lệ, thôi.
“Chúng ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết ngõ hầu như Đức Kitô, nhờ bởi vinh quang của CHA, đã được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới.” (Rm 6;3); và: “Nếu ta đã nên đồng hình với sự chết của Ngài, thì ta cũng sẽ được đồng dạng với sự sống lại của Ngài” (Rm 6: 5) hoặc: “Nếu ta cùng chết với Đức Kitô thì hãy tin rằng: ta sẽ cùng sông với Ngài.” (Rm 6: 8)
Nói cho cùng, yêu là chết đi. Chết vì yêu. Chết cho chính mình. Chết như thế mới thực sự là ta đang sống. Sống hay. Sống đẹp. Sống sốt sắng trong tình yêu cao cả của Đức Kitô, Chúa chúng ta.
Trần Ngọc Mười Hai (2007) từ Sydney-Úc Châu xin có vài gợi ý.
“Tôi thấy em trong tiền kiếp với cọng buồn cỏ cây” (Yn 1: 9-10)
Có dịp đọc báo Ephata Việt Nam do Trung Tâm Mục Vụ Dòng Chúa Cứu Thế phụ trách, bạn và tôi sẽ bắt gặp những giòng chảy về một vị linh mục Dòng đã một thời rất nổi tiếng, Lm Trần Hữu Thanh CssR, như sau:
“Một lần cuối cha Thanh chủ động dấn thân vào chính trị: đó là năm 1974 ở Sàigòn. Cha cùng với 301 linh mục khác ký tuyên ngôn lập Ủy Ban Chống Tham Nhũng. Cha Thanh trăn trở đã nhiều về tiền đồ đất nước, cha cũng đã xoay xở nhiều bề, nhiều phía. Càng ngày càng thấy rõ một điều: sự tham lam ích kỷ như một thứ tà khí bao trùm lên xã hội, nó gặm nhấm, nó làm tiêu tan, nó vô hiệu hóa những ý đồ tốt đẹp nhất. Cha cũng có kinh nghiệm về chống tham nhũng: trong những năm ’50 với việc phanh phui vụ “Gạo miền Trung”, cha góp phần làm cho nhiều quan chức đứng đầu 6 tỉnh miền Trung mất chức. Nhưng lần này không chỉ là chuyện của những quan chức cấp tỉnh. Lần này vấn đề lớn hơn nhiều: tham nhũng là quốc nạn, nó biến thành thói tục, thành cơ chế, thành cái nếp xuyên suốt xã hội từ trên xuống dưới, từ đưới lên trên. Nó khiến xã hội trở nên vô hồn, nó đầu độc sinh khí cộng đồng.” (Lm Vũ Khởi Phụng – Nhớ Cha Trần Hữu Thanh, Ephata Việt Nam số 343, 09/12/2007 tr. 16)
Đọc những giòng trên đây, bạn cũng như tôi, chắc có lúc cũng mang trong đầu rất nhiều câu hỏi. Nhưng câu bắt đầu bằng cụm từ “tại sao”. Chẳng hạn như, tại sao truyền thông báo chí hôm nay đề cập nhiều đến các nhóm Hồi giáo như Jamaar Islamir, Muslim Shiite, Suni vv..? Tại sao Giáo hội Công giáo cứ nhắc nhở dân con nhà Đạo hãy cẩn thận với những chuyện chính trị? Và, một trong những nhắc nhở dẫn tới vấn nạn nhiều nhất, là: có nên tham gia vào chuyện chính trị, đảng phái hoặc bày tỏ chính kiến/ý thức hệ ở trong và ngoài nước, không? Hỏi thì nhiều người cũng đã hỏi. Nhưng cho đến nay, đã được bao người đưa câu trả lời khiến bạn và tôi rất mãn nguyện? Hỏi thì hỏi thế, có trả lời cũng chỉ để mà trả lời. Chứ, ai nào biết được câu trả lời ấy sẽ đúng hay sai. Có hợp lẽ Đạo nhà mình? Có ăn khớp chuyện đời thường hay không? Đó mới là vấn đề.
Và, vấn đề của bạn và tôi hôm nay, là: ta chớ vội tìm câu trả lời, ngay lập tức. Nhưng hãy thử đưa mắt nhìn thoáng qua một số vấn nạn muôn thuở. Thứ vấn nạn bao giờ cũng có đó. Và, lúc nào cũng xảy ra. Nó xảy ra từ lúc con người bắt đầu manh nha với ý thức về gốc gác của tinh thần và đạo giáo nhà mình. Gặp những vấn nạn và câu hỏi, ta chớ vội trả lời thằng vào vấn đề, nhưng cứ phiếm. Phiếm trước đã. Phiếm cho ngã ngũ vấn đề. Mới thôi. Mới chịu ngừng hỏi.
Và, khi đã phiếm, bạn và tôi sẽ nhận ra rằng những thắc mắc về chuyện chính trị ở nhà Đạo là chuyện rất thường xảy đến. Bản thân bần đạo cũng từng có thắc mắc tương tự thập niên ’60, hổi còn ở quê nhà. Lúc ấy, cục diện chính trị ở trong và ngoài nước, đã bắt đầu sục sôi. Sục sôi ngay tại môi trường sống tách rời trần thế. Cụ thể, lúc ấy đã nảy sinh những vấn đề rất mới về triết lý Đông Tây. Thứ triết lý hiện sinh thu hút văn nhân thi sĩ, khắp nơi trên thế giới.
Bần đệ còn nhớ. Trong khoảnh khắc mới chớm của cái-gọi-là triết lý hiện sinh Phương Tây ở Pháp, đã thấy xuất hiện các triết gia nổi bật như Jean Paul Sartre, Albert Camus, Simone de Beauvoir, F. Sagan… gợi lên những tư tưởng làm bận lòng những người suy tư, khắp các nơi. Ngay ở môi trường tách rời như Học viện trường Dòng, rất nhỏ bé. Và, những ông thầy dòng bé nhỏ đã từng hỏi: khi làm cha, ta có nên tham gia quỹ đạo quay cuồng nồng nhiệt ấy không? Tức là, những môi trường chính trị luôn có những thói quen không chính đạo cho lắm ấy?
Đề cập đến chuyện chính đạo hoặc tà đạo là đề cập đến lập trường đường lối của rất nhiều người về Đạo. Hoặc về Đường. Những đường dẫn đến Đạo. Thứ Đạo ở với đời. Trong đời. Nào bây giờ, ta phiếm.
Quả thật, khi Ngôi Hai nhập thể và nhập thế, toàn bộ cuộc đời con người đã những mang sắc thái rất Đạo. Và, lẽ Đạo nay cũng dính dấp nhiều đến chuyện đời. Những chuyện ở đời thường. Rất người. Chuyện đời người và người đời. Chuyện, mà người đời thường gọi là chính trị. Hoặc, nếu phát âm theo giọng của người Bắc (mà lúc ấy có người quen gọi là “Bắc kỳ di cư”) thì, đó là chuyện “chính chị chính em”. Chính chị hay chuyện rất chính để trị, tựu trung vẫn là nhân sinh chuyện dài, ở đời.
Nhân sinh chuyện chính trị ở đây, tuyệt nhiên không nên hiểu theo nghĩa sức mạnh/quyền lực. Cũng chẳng nên quan niệm là nó mang tính nghệ thuật của công tác quản lý hay quản trị. Quản trị đất nước hay quản lý gia đình, quản lý xã hội. Mà là, quản cai một cách chính đáng chính trực, để sống. Sống chính đáng. Rất chính quy, là được.
Nói cho cùng, thì chính trị trong quan niệm tôn giáo chỉ là cách sống ở đời, sao cho thích hợp với Đạo. Vì Đạo đã nhập thế. Vì, Ngôi Lời đã nhập thể, vào đời. Nhập như thế, tức là Ngài đã đi vào với thế giới nhân trần, vào cùng một thể tạng, thể lý với những hình dạng rất Đạo. Và cũng rất đời. Thứ đời và Đạo quyện lẫn vào nhau. Trong nhau. Và bên nhau.
Để dẫn chứng cho chuyện ấy, thì đây một Lời hằng sống:
“Và, Ngài đến trong thế gian. Ngài có trong thế gian, Và thế gian đã nhờ Ngài mà có.” (Yn 1: 9-10)
hoặc, rõ hơn nữa:
“Lời đã thành xác phàm, và đã lưu trú nơi chúng tôi.” (Yn 1: 14)
Như vậy, nói đến chính trị là nói về đời. Và, về Đạo. Nói về Đạo, là nói chuyện nhập thế, và nhập thể. Nhập thế hay nhập thể, cũng vẫn quanh chữ “nhập”. Vẫn gọi là dẫn nhập, thấm nhập và hội nhập. Như vậy, nhập thế hay nhập thể còn là hội nhập. Hội nhập chứ không nhập hội, như nhiều người lầm tưởng. Những người từng nhập hội này hội nọ, nhưng không thấm. Và cũng chẳng bao giờ nhập. Bởi, hội nhập không có nghĩa thấm nhập vào bất cứ một hội nào. Nhưng là, đi vào với chính thế giới của mọi nhóm hội, đoàn thể. Như Lời đã đi vào trần thế. Vào với vũ trụ của đời sống. Bằng cả tình thương của người nhập cuộc. Người ở trong cuộc.
Cụ thể hơn, khi Ngôi Lời nhập thế và nhập cuộc, Ngài đã yêu người và yêu đời. Ngài mặc lấy cho mình toàn bộ nhân gian cuộc đời, của loài người nơi trần thế. Và như thế, Ngài cũng đã hội nhập thực sự. Và, hết mình nhập cuộc.
Thế giới hôm nay nói nhiều đến chữ Nhập. Đòi hỏi nhiều về hội nhập, và nhập hội. Và ngày nay vẫn khuyên người đời hãy “Đáo giang tùy khúc, “nhập” gia tùy tục”. Tuy nhiên, nhìn lại thì thấy thế giới loài người tuy có “nhập” đấy, mà thật ra vẫn chẳng nhập chút nào. Chưa “nhập” thì đúng hơn. Hoặc, mới chỉ nhập môn, nhập nhằng, chân trong chân ngoài, chứ chưa thật sự nhập cuộc. Hoặc, chưa nhập tâm, nhập Đạo. Nói khác đi, người đời vẫn chưa thẩm nhập vào chính trọng tâm của Lời Ngài. Và cũng là trọng tâm của đời người. Chí ít, là vào Đạo của Đức Chúa Nhập thể. Xem như thế, đời vẫn là nơi chốn để đón nhận Đạo. Để giúp ta sống Đạo. Sống yêu thương và tha thứ. Để rồi, Đạo sẽ tháp nhập vào đời; ngõ hầu, ta dõi theo bước chân mềm của Chúa. Bởi Đạo là Đường. Và, vì đời đã có Đạo. Và có Lời hằng sống của Đạo. Của Chúa.
Thánh Gio-an từng quả quyết như thế, trong chương mở đầu Tin Mừng của Ngài, rằng:
“Lúc khởi nguyên đã có ngôi Lời. Và Lời ở nơi Thiên Chúa, Và Lời là Thiên Chúa.” (Yn 1: 1)
Và, thánh nhân còn ghi thêm:
“Lời đã thành xác phàm, và đã lưu trú nơi chúng tôi, và chúng tôi đã được ngắm vinh quang của Ngài, vinh quang như của Con Một tự nơi Cha, tràn đầy ơn nghĩa và sự thật.” (Yn 1: 14)
Lời đã thành xác phàm và lưu lại ở với chúng tôi. Như thế là nhập cuộc. Như thế là thẩm nhập vào đời. Và, Lời không đứng ngoài nhìn đời, chỉ để phán và bảo ban, rất dửng dưng. Nhưng, Lời đã nhập thế, nhập cuộc rất trọn vẹn. Lời nhập thế/nhập cuộc, cốt là để ta có tự do gia nhập với đời. Với con người, ở chốn dương gian trần thế.
Cũng bằng vào quả quyết tương tự, một Đức Gio-an khác, Đức Gio-an Phao-lô ở thời đương đại, đã thổ lộ với các người trẻ, khi họ hiện diện tại lễ hội nọ. Lễ hội của những người trẻ trên thế giới, vào năm 1996, như sau:
“Mục tiêu mà đời sống chúng ta luôn nhắm tới, chính là Đức Kitô. Ngài đang chờ chúng ta - mỗi người với tư cách cá nhân cũng như tất cả- để dẫn đưa ta ngang qua ranh giới của thời gian mà đến với Thiên Chúa vĩnh cửu, vì Ngài hằng thương yêu chúng ta.” (trích lời phát biểu của Đức Gio-an Phao-lô II tại Đại Hội Giới Trẻ năm 1996 ở Toronto)
Xem như thế, nhập cuộc là việc phải làm. Nên làm. Bởi, nếu không nhập cuộc với đời, ta chẳng thể hành trình đi vào đời. Và, cùng với đời, tháp nhập vào với Đạo. Hiển nhiên là như vậy. Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa ta phải tháp nhập vào những gian manh, nhập nhằng của thể chế chính trị nào đó. Thái độ này, cần minh định cho dứt khoát. Bởi lẽ, gian manh không thể hiện và đi đôi với tình yêu của nhà Đạo. Và, nhập nhằng không thể phản ánh tính vĩnh hằng của Lời Ngài đã nhập thế vào đời. Nhờ có sự nhập thế và nhập thể của Lời, đời trở nên hoà đồng với Đạo. Đi vào Đạo.
Và, thánh Gio-an còn viết thêm:
“Ngài có trong thế gian, và thế gian đã nhờ Ngài mà được có.” (Yn 1: 10)
Cuối cùng, còn lại vấn đề, là: thế gian (hay còn gọi là chính trị) có phảng phất một nhập nhằng nào đó không? Chắc sẽ có người trả lời: dĩ nhiên là có. Bởi vì, đối với những người này, chính trị là lem nhem, tranh giành, biển lận. Và, còn là giối dan, tạm bợ. Theo họ, làm như thế sẽ không có chỗ đứng nơi Đạo. Càng khó đồng hành với đời. Nhập thế hay nhập cuộc luôn dẫn đến va chạm. Luôn có đấu tranh. Va chạm sự xấu. Đấu tranh chống lại khuynh hướng tệ hại. Nhập thế và nhập cuộc, còn đưa dẫn đến tình huống có quan tâm, luôn hy sinh. Hy sinh để rồi sẽ dấn thân. Hy sinh mà nhập cuộc một cách trọn vẹn. Hy sinh trọn vẹn như Ngôi Lời từng hy sinh sự sống của chính mình, cho thế gian. Hy sinh, để thực hiện ý của Cha, như Ngài từng bộc bạch:
“Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén này qua đi khỏi Con! Song, không phải như ý Con, Mà là như ý Cha.” (Mt 26: 30)
Qua phong cách nhập thế, nhập cuộc (còn gọi là thái độ chính trị), ta cũng nên tìm đến những gì không mang tính chóng qua, tạm bợ. Bởi lẽ, chỉ có Đạo, riêng Đạo mới mang tính vĩnh cửu. Tháp nhập vào Đạo là để trở nên vĩnh hằng. Trở nên Một thân một Mình với Ngài. Và trong Ngài. Trong Đạo.
Ở không gian và thời điểm khác, chính Đức Gio-an Phao-lô II còn khẳng định với giới trẻ về tính vĩnh hằng ấy, như sau:
“Kỹ thuật hiện đại có thể cung ứng tạo niềm vui cho cuộc sống chúng ta. Cả việc giúp ta tạm thời thoát rời ra khỏi chính cuộc sống. Nhưng, cái mà thế giới không bao giờ cung ứng cho ta được, là niềm vui và là bình an muôn thuở. Có những món quà, mà chỉ có Chúa Thánh Linh mới ban cho ta mà thôi.” (Trích phát biểu của Đức Gio-an Phao-lô II nhân buổi họp mặt giới trẻ ở New Orleans, Hoa Kỳ năm 1987).
Với xác quyết của Đấng đại diện cho Đạo ở trần thế, khi nhập cuộc đi vào với Đạo, người người sẽ tìm được niềm vui muôn thuở. Niềm vui ấy, những người dấn thân nhập cuộc vào chuyện chính trị, đều có cảm nhận điều ấy hay không? Hay là họ vẫn còn trên đường tìm kiếm? Nói cách khác, nhập thế - nhập cuộc còn mang đến cho con người niềm vui khôn tả nếu như mọi người đều ở trong tư thế có thái độ chính trị thật đúng đắn. Rất hợp lẽ phải.
Thành thử, trong cuộc đời thường, có thái độ sống mới quan trọng. Tựa như thái độ vui buồn, ỉ ôi đủ bẩy thứ tình, khi ta nhập cuộc vào với đời. Đó là điều đáng ta quan tâm. Và, điều ta cần quan tâm trước nhất, vẫn là thái độ để ngỏ, hầu Chúa có thể nhập thế/nhập cuộc vào với chính đời mình. Có như thế, ta sẽ không khoá cửa lòng mình. Không còn thờ ơ, lãnh đạm. Vì thờ ơ lãnh đạm chỉ là niềm vui chóng qua, tạm bợ. Dứt khoát chẳng bao giờ là niềm vui muôn thuở, như Đức Gio-an Phao-lô vừa phát biểu ở trên.
Thái độ ấy chính là Đường, là lối dẫn đến Đạo. Dẫn đến niềm vui không tắt ngúm. Niềm vui đang mãi mãi lưu lại tình thương yêu của Đức Chúa. Thái độ ấy, không là tư thế gian manh, hoặc tranh giành quyền bính tìm lấy cho mình mọi lợi lộc quyền uy ở chính trường. Đó là thái độ chính trị, mang ý nghĩa thấp kém nhất. Đớn hèn nhất.
Có lẽ câu để đời của Ngôi Lời Nhập Thể và nhập thế dưới đây sẽ là kim chỉ nam dẫn đường cho những ai còn thắc mắc về thái độ chính trị phải có trong cuộc đời. Câu ấy là:
“Nước Tôi không thuộc về trần thế.”
Và:
“Vì loài người chúng tôi và để cứu độ chúng tôi, Ngài đã nhập thể trong lòng trinh nữ Maria Và đã làm người.” (Kinh Tin Kính)
Cuối cùng, nếu cần một ngôn từ nhẹ nhàng hơn ngõ hầu diễn tả phong thái ở trên, thì đây là đề nghị của tác giả Nguyễn Ngọc Lan trong “Chủ Nhật Hồng Giữa Mùa Tím:
“Nhập thể như thế cũng là “nhập tịch”, đi vào giòng dõi loài người, trở nên anh em bà con với mọi người”. (sđd, tr. 29)
Đó mới là thái độ chính trị. Đó mới là chọn lựa chính đáng. Cho mọi người.
Trần Ngọc Mười Hai Và một vài suy tư đứt đoạn Về một chữ “nhập” nhân đêm giao thừa và giao thời một năm mới.
“Đêm qua chưa mà trời sao vội sáng” (Lc 3, 23 – 38)
Hồi còn nhỏ, ở Sài-gòn, bần đạo được nghe các cụ rủ nhau tìm đến cụ Dã Lan Nguyễn Đức Dụ, để nhờ lập gia phả cho nhà mình. Không làm thế, sợ rằng rồi ra bọn trẻ không còn biết nguồn gốc tổ tiên, ngày cúng giỗ, ai trên ai dưới. Ai thuộc thế hệ nào, đời nào. Thưa gửi làm sao… Lớn lên, khi ngồi ghế ở nhà trường, nghe giảng giải về các lời kinh tu đức, bần đạo còn được bảo là: Đức Giê-su thuộc dòng tộc quý phái. Là, hậu duệ vua Đa-vít, rất nhiều đời. Lúc ấy, bần đạo càng xác tín thêm ý nghĩa cũng như vai trò rất hệ trọng của gia phả, cả tổ tiên. Cách đây vài năm, nhân đọc cuốn “Chứng Nhân Hy Vọng, các bài giảng tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha và Giáo Triều Rô-ma năm 2000” của Đức Hồng Y F.X. Nguyễn Văn Thuận, bần đạo bắt gặp được một tư tưởng kính trọng nguồn gốc tổ tiên như sau:
“Đối với chúng tôi, những người Á Châu, đặc biệt là đối với người Việt Nam, việc tưởng nhớ các tiền nhân có một giá trị lớn lao. Theo văn hóa Việt nam, trong niềm hiếu kính, chúng tôi vẫn giữ một cuốn gia phả của gia tổ trên bàn thờ, trong gia đình. Chính tôi cũng biết được tên của 15 thế hệ các tổ tiên của tôi, từ năm 1698, khi gia tộc tôi được lĩnh nhận phép Thánh Tẩy. Qua gia phả, chúng ta thấy rằng mình thuộc về một lịch sử rộng lớn hơn. Và chúng ta ý thức rõ hơn ý nghĩa lịch sử của mình. Tôi xác tín rằng những lời trong “Sách gia phả Chúa Giê-su Ki-tô” chứa đựng lời loan báo chủ yếu về Cựu Ước và Tân Ước, chính yếu của Mầu Nhiệm Cứu Độ liên kết tất cả chúng ta với nhau, các tín hữu Công Giáo, Chính Thống và Tin Lành”. (F.X. Nguyễn VănThuận, sđd năm 2001, tr. 25-27) Vừa qua, trên tờ The Catholic Weekly số đặc biệt Giáng Sinh 2007, (đề ngày 23.12.2007, tr.10), bần đạo thấy có tín hữu Phương Tây, mang nặng cùng một ưu tư thắc mắc về gia phả Đức Giê-su được nhắc đến trong Tin Mừng. Nhưng, thay vì trích dẫn đoạn Tin Mừng nói về gia phả, thì nữ độc giả nọ lại càng thắc mắc nhiều về cây Giáng Sinh, như sau:
“Là một bổn đạo mới vừa gia nhập cộng đoàn tín hữu Công Giáo ở Úc, có nhiều điều tôi chỉ mới được nghe vài lần chưa quen tai cho lắm. Chẳng hạn, như: một số thói quen chỉ thấy nơi một vài Nhà Xứ, Nhà Thờ Họ Lẻ mà thôi. Một trong những điều tôi chưa hiểu rõ, là: tên tuổi các vị tiền nhân rất lạ được treo trên cây No-en ở Nhà Thờ, mà một số người gọi là nhành Y-sai (bên tiếng Anh gọi là Jesse tree). Xin cho biết điển tích và ý nghĩa của nhánh cây gia phả này”.
Đã hỏi về ý nghĩa của gia phả hay về các nhánh dòng tộc, có lẽ cũng nên trích dẫn lời chú giải của giáo sư Kinh Thánh Nguyễn Thế Thuấn, DCCT, như sau:
“Gia phả được xây dựng theo những số nhất định (7 và 14): gồm có 3 đợt theo 3 thời kỳ lịch sử Israel; mỗi đợt là 2 lần 7 ( nên đã bỏ sót ít là 4 đời ). Mục đích của gia phả là cho thấy nơi Chúa Giê-su, các lời hứa cho Áp-ra-ham đã ứng nghiệm; và Ngài Đa-vít mới (số 14 là tổng số tiếng Đa-vít tính theo giá trị số của chữ Hip-ri). Đến sau 6 loạt 7 đời, Ngài khai mạc thời viên mãn vào đầu loạt thứ 7. Gia phả theo Luca đại đồng hơn là trong Mát-thêu: Lu-ca lên đến A-đam. Hai gia phả không phù hợp với nhau, và không thể dung hòa. Phải nhận là có những điều nan giải vì đã quá xa trong quá khứ - ‘EB 563’. (Kinh Thánh 1976, Nguyễn Thế Thuấn, tr. 12,132)
Nay, ta hãy thử dõi theo câu trả lời của cha John Flader như sau:
“Cây gia phả mà cô có nhắc đến trong thư, có lúc được gọi là “cây Y-sai”. Cụm từ này được trích từ một đoạn sách Ngôn Sứ I-sai-a trong Cựu Ước, có nói: “Một chồi sẽ xuất từ gốc Y-sai, và từ rễ của nó, lộc sẽ mọc lên.” (Is 11,1) Còn về câu hỏi: cây Y-sai này có liên quan gì với Giáng Sinh hay không? Thiết tưởng, cụm từ “cây Y-sai” nhắc nhớ chúng ta về gia phả của Đức Giê-su, bắt đầu từ Y-sai, cha của Vua Đa-vít. Lộc chồi hoặc nhánh gia phả mà Ngôn Sứ I-sai-a nói đến mang xuất xứ từ Đa-vít, và cuối cùng, ý nói Đức Giê-su là Đấng kế vị ngai vàng của tổ phụ mình là Đa-vít. (x. Lc 1, 32). Các nhánh gia phả này được điểm tô bằng tên tổ tiên Đức Ki-tô và Đức Ma-ri-a ở trên đầu. Cả hai thánh sử Mát-thêu và Luca đều liệt kê các người trong gia phả của Đức Giê-su. Thánh Mát-thêu ghi ngược về thế hệ của Áp-ra-ham ngang qua Y-sai và Đa-vít, rồi tận cùng bằng thế Đức Giê-su. Còn, Thánh Lu-ca bắt đầu từ Đức Giê-su, rồi trở ngược về tới Đa-vít, Y-sai rồi đến A-đam. Theo dõi gia phả từ chi họ Y-sai cho đến thời Chúa Giáng Sinh là để nhắc nhở ta về nhiều thế hệ nối tiếp cứ mãi không ngừng chờ đợi ngày Đấng Thiên Sai đến từ hậu duệ của Vua Đa-vít…” (Lm. John Flader, The Catholic Weekly 23.12.2007, tr 10) Ở đây, cũng nên thêm ý kiến của cố giáo sư Nguyễn Ngọc Lan về gốc gác gia phả của Đức Giê-su, như sau:
“Mát-thêu và Lu-ca cho biết gia phả từ hàng mấy mươi đời trước. Nhưng gia phả ấy, không chỉ gồm những danh thơm tiếng tốt, vì trai bạo ngược cũng có mà gái giang hồ cũng có. Gia phả theo Lu-ca không ghi lại một danh tính phụ nữ nào. Gia phả theo Mát-thêu (Mt 1,1–17) nhắc tới vỏn vẹn bốn bà, nhưng đến ba bà chẳng quý hoá gì. Gia phả kia không phải thuộc loại gia phả tô hồng… Người ta còn kể nhiều chuyện lạ, trước và sau ‘Giáng Sinh’. Chuyện thần tiên ẩn hiện, chuyện báo mộng phi thường, chuyện đoàn mục tử nghe tiếng nhạc huyền bí, chuyện ba nhà đạo sĩ lần bước theo một vì sao lạ. Như thế, tất cả những anh em sống chung quanh chúng ta đều là “dấu” để nhận ra Chúa Ki-tô và tiếp xúc với Ngài, tất cả vạn sự to nhỏ đời họ cũng như đời chúng ta đều ăn liền vào chính cuộc sống Chúa Ki-tô. Chúa đang đến giữa chúng ta, chúng ta sẽ tha hồ gặp gỡ Chúa làm người. Vợ gặp Chúa trong chồng, chồng gặp Chúa trong vợ. Vợ chồng gặp Chúa trong con cái. Vợ chồng con cái cùng có thể mở cửa tìm Chúa, đón Chúa, khi mở cửa nhà, trông qua nhà bên cạnh để tha thiết đến tiếng khóc, tiếng cười của kẻ khác, kể từ bạn láng giềng, đồng nghiệp, đồng học vẫn hằng ngày chung đụng, cho đến nét mặt trầm tư chỉ thoáng gặp một lần đâu đó trên đường…” (Nguyễn Ngọc Lan, Chủ Nhật Hồng Giữa Mùa Tím, tr. 21-22)
Vâng. Nói đến Giáng Sinh, là nói đến gia phả. Nhắc đến gia phả, ta không chỉ nhớ đến dòng họ tổ tiên hoặc khoa trương dòng dõi quý phái, vua quan của mình thôi. Nhưng, còn là nói và nhớ đến những người “chỉ thoáng gặp một lần đâu đó, trên đường”, hoặc trên trang sách báo, màn hình nhỏ như truyện kể về một Đa-vít khác như sau:
Giáng Sinh, không chỉ là Lễ hội của hôm nay. Năm này mà thôi. Nhưng, là Lễ hội diễn ra vào mọi ngày trong đời mình. Và đời người. Ở nơi đó, ta bắt gặp những“Tôi chạy vội ra cửa hàng, định mua vét vài món quà Giáng Sinh cho con, cho cháu. Nhìn quanh, xem người người tấp nập đổ xô, mua mua bán bán. Và, trong một thoáng rất nhanh, tôi tự trách mình sao không nhanh chân lẹ tay để giờ này cứ phải đứng đây chờ với đợi, sốt ruột quá. Cuối cùng, tôi đến khu bán đồ chơi và lẩm bẩm một mình không biết bọn trẻ ở nhà có ưa các món tôi mua cho chúng không. Bất chợt, mắt tôi quay về phía chú bé kia đang ôm chặt con búp bê. Ra chiều ưng ý lắm. Một tay cầm búp bê, tay kia chú mân mê vuốt nhẹ lên tóc của búp bê. Về sau, tôi thấy chú bé quay người hỏi: “Dì ơi, Dì có chắc là mình không còn tiền để mua búp bê nữa không?” Người đàn bà khẽ trả lời: “David à, Emily không còn chơi búp bê nữa đâu”. Tôi thấy người phụ nữ lảng qua phía khác, lựa đồ. Cậu bé cứ lẽo đẽo đi theo. Tay ghì chặt lấy búp bê chưa trả tiền. Thấy David đứng thờ thẫn, tôi mon men đến gần và hỏi xem: hai dì cháu định mua búp bê cho ai vậy. Cậu bé trả lời: “Mỗi lần có Noel, là chị của cháu đều thích mua búp bê”. Tôi bảo: “Cứ từ từ cháu ạ, rồi thì ông già Noel cũng đem búp bê đến cho chị của cháu thôi”. Chú bé nói: “Không có đâu, ông già Noel không sao đến chỗ của chị cháu được đâu. Cháu phải đem búp bê cho mẹ, để mẹ đi đến chỗ đó, mà đưa cho Emily. Chỉ có cách ấy thôi.” Tôi hỏi: “Thế chị cháu ở mãi đâu, mà ông Noel không đến được, xa lắm sao?” David rơm rớm nước mắt: “Chị cháu đã về chỗ Chúa Giê-su ở rồi, bác ạ. Ba nói: Mẹ cũng sắp đến chỗ Emily và Chúa Giê-su hôm này thôi!” Nghe xong, tim tôi chừng như ngừng đập. Và, David tiếp: “Cháu có nói với ba là làm sao thì làm, để mẹ đừng có đi vội, phải chờ sao cho cháu mua được búp bê cho Emily cái đã. Cháu vẫn muốn mẹ mang búp bê tới cho Emily, của cháu cơ.” Thấy cậu bé không để ý nhìn, tôi vội đưa tay vào ví, lấy ít tiền và bảo: “David, cháu có biết đếm không?” Mắt bé sáng rực vui mừng hứng khởi. Và nói: ”Đấy, cháu biết mà thế nào Chúa Giê-su cũng cho cháu tiền để mua búp bê cho Emily mà, chắc chắn là như thế.” Tôi dúi tiền vào tay bé rồi cả hai cùng đếm. Đếm xong, David nói: “Đúng là Chúa Giê-su sẽ cho cháu đủ tiền để mua búp bê mà.” Vài phút sau, Dì của David quay lại. Thấy vậy, tôi vội đẩy chiếc xe chở đồ đi nơi khác, tránh thắc mắc của hai người. Trong bụng, tôi không khỏi suy nghĩ về bé David; và, thấy rằng hôm nay mình đã thực hiện chuyến mua sắm trong tình huống khác hẳn lúc ban đầu. Về nhà, đọc lại câu chuyện đăng trên báo vào mấy hôm trước có nói về trường hợp: một người uống rượu phóng xe đụng phải xe khác làm chết một em bé gái. Mẹ của em đang thoi thóp trên giường bệnh phải dùng ống dưỡng khí, trợ thở. Cách đây hai ngày, tôi đọc thấy gia đình của người đàn bà xấu số trong cơn hôn mê ấy, đã quyết định rút máy trợ thở, tuyệt vọng. Và, trước Lễ Chúa Giáng Sinh, báo đài còn đề cập đến tang lễ của Julia Norris cùng con gái của bà, là Emily, được cử hành vào ngày Lễ Thánh Stê-pha-nô, tử đạo. Tên người đàn ông là chồng, và cha là Michael và tên người em nhỏ, em trai của Emily, là David. Vào buổi Lễ đêm, gia đình tôi tụ tập nơi bàn tiệc nhiều thức ăn quá mức mà chúng tôi không thể ăn hết. Tay cầm món quà đắt tiền mà chưa chắc mọi người đã lấy làm thích thú. Còn bia và rượu thì uống say quá mức. Suy nghĩ kỹ, tôi thấy “tôi và gia đình mình đã để mất đi ý nghĩa của ngày Lễ Chúa Giáng Sinh, làm người phàm”. Sự kiện Chúa-ở-cùng-chúng-ta xảy đến thật đơn giản. Chỉ như một hài nhi bình thường đang cần tình thương yêu đùm bọc của mọi người. Thế mà, chỉ vì đây là ngày Lễ, ta lại phung phí bạc tiền quá sức. Ăn uống, thì vượt quá mức độ cần thiết. Đã thế, lại còn say sưa chè chén, đến lố bịch. Tôi buồn rầu rời bàn tiệc về phòng, viết vội tấm thiệp gửi đến các thành viên trong gia đình nhỏ của tôi. Tôi viết về điều mà trước đây chẳng khi nào tôi có thể nói bằng lời là: “Tôi muốn cho gia đình biết là: tôi luôn thương yêu hết mọi người.” Đọc tấm thiệp tôi viết, chắc mọi người sẽ nghĩ rằng tôi bị chứng mát thần kinh chăng. Dầu sao đi nữa, hình ảnh bé David, búp bê kia và cả Chúa Hài Đồng đã ghé thăm hồn tôi vào tuần Lễ mới, của Mùa Lễ. Và với tôi, Giáng Sinh mai ngày, sẽ chẳng bao giờ giống như Giáng Sinh năm ấy”.
Lẽ đáng ra, nên kể chuyện nào hấp dẫn hơn, cho bầy trẻ các nơi thưởng lãm, mới đúng. Nhưng, câu truyện và những cảm nghiệm về một Giáng Sinh ở trên cũng là điều bổ ích, nếu bạn và tôi, ta tản mạn qua câu truyện nào mà ít người đề cập tới. Truyện người già, những người vẫn muốn cho con cháu mình nhớ đến gốc gác tổ tiên. Nhớ going họ của mình, chẳng hạn.
Giáng sinh, không chỉ là lễ hôi của hôm nay. Năm nay mà thôi. Nhưng, là lễ hội diễn ra vào mọi ngày trong đời mình. Và đời người. Ở nơi đó, ta bắt gặp những khuôn mặt, những gia phả của các dòng họ, thân quen. Hoặc, chưa một lần quen biết. Vào Lễ Giáng Sinh, ta gặp một chân lý. Chân lý ấy, như sau: tất cả chúng ta đều có chung một dòng họ. Cùng gia phả dòng tộc. Cùng xuất tự dòng dõi của vua Đa-vít. Gia phả của vua Đa-vít, là chính gia phả Đức Ki-tô. Và, thêm một điều nữa: một khi là tín hữu Đức Ki-tô, ta đã là Ki-tô-khác rồi. Vậy, hãy cứ vui lên, vì nay ta đã biết được gia phả rất cao sang của mình. Quyết giữ lấy danh hiệu “Ki-tô-khác” cho trùng hợp ăn khớp với đường lối của Đức Ki-tô, con cháu vua Đa-vít. Tức: Ông tằng ông tổ của tất cả chúng ta. Quyết sống cho sáng danh dòng dõi, gia phả Đức Ki-tô, rất đặc biệt. Một gia đình rất thân yêu. Đầm ấm. Trần Ngọc Mười Hai, vẫn luôn tự nhắc mình nhớ về một gia phả: Gia phả Ngài
“Em đứng lên gọi mưa vào hạ…” (Yn 1:14)
Trong quá trình kể lại những chuyện phiếm Đạo-Đời – tức là: Đạo vào Đời – Đạo sống trong Đời – có bạn đã có ý kiến phản hồi, bảo rằng: tại sao khi phiếm, tác giả cứ nhắc đi nhắc lại cái câu: “Ấy là kể chuyện”, nghe khó hiểu và nhàm tai quá… Cảm tạ ơn Chúa. Còn gì thú vị bằng vừa gửi thư đi, đã có thư về. Vâng. Trong cuộc sống Đạo-Đời, mỗi khi viết lách – tức: vừa viết vừa lách – bần đạo từng thấy có những điều mình viết hoặc nói ra, không mấy thuyết phục người đọc hoặc người nghe, bèn bắt chước nhạc mẫu thân sinh, bảo ngay rằng: “Ấy là kể chuyện”. Ý muốn nói, đó chỉ là chuyện kể. Rất tầm phào. Bạn bè nghe qua, nếu đồng ý, xin rất cảm ơn. Bạn khác nghe rồi, nếu chẳng thấy có điều gì lay chuyển được lòng mình, thì cũng cảm ơn bạn đã nghe và đã đọc. Còn chuyện, có hiểu hay không hoặc có đồng ý hay không, bần đạo xin thêm nguyện cầu để được soi sáng, sẽ viết rõ hơn. Bây giờ, bần đạo mạo muội lại một lần nữa, vẫn xin: “Ấy là kể chuyện”. Chuyện kể hôm nay, cũng thuộc lọai nửa Đạo, nửa đời. Trước nhất là chuyện Đạo. Hôm ấy, bần đạo được mời đến nhà một đạo hữu nọ làm một việc mà bà con ta thường gọi là “Đọc Kinh Tôn Vương”. Nhưng hôm ấy, thay vì bà con lần chuỗi đọc những 50 kinh Kính Mừng, suy niệm về các mầu nhiệm trong Đạo, như: Năm Sự Vui, Thương, Mừng và Sáng, thì gia chủ lại đề nghị một hình thức giống như ta thường gọi “Bẻ Bánh Lời Chúa”, hay “Canh Thức Thánh Kinh”. Nghĩa là: chỉ đọc 1 kinh Lạy Cha, 3 kinh Kính Mừng và 1 kinh Sáng Danh, để xin Chúa Thánh Thần soi sáng buổi nguyện cầu tại gia, rất ấm áp mùa Hạ. Sau đó, có người đề nghị thành viên gia đình đọc một đoạn Sách Thánh, rồi mọi người phát biểu cảm nghiệm hoặc kể chuyện gì đó về Đạo. Hoặc về đời. Vì dịp đó là mùa Giáng Sinh, vào mùa nắng hạ ở Úc, nên gia chủ cho đọc đoạn Tin Mừng theo Thánh Gio-an, như sau:
“Lời đã thành xác phàm, và đã lưu trú nơi chúng tôi, và chúng tôi đã được ngắm vinh quang của Ngài vinh quang như Con Một tự nơi Cha, tràn đầy ân nghĩa và sự thật.” (Ga 1, 14)
Bữa đó, không có ai là thầy sáu vĩnh viễn, cũng chẳng có vị nào xuất thân là đấng “ta ru” hay tu ra tu vào gì cả, nên chờ mãi mới thấy người nhà của gia chủ phát biểu, như sau:
“Kính thưa quý cụ, quý anh chị, Chả nói giấu gì, con đây học hành chữ nghĩa chẳng bao lăm. Lòng đạo cũng chẳng được mấy tí, nên chẳng dám nói gì, chỉ xin kể lại câu chuyện nghe được từ người bạn về Noel như sau:
Đã lâu lắm, dịp Giáng Sinh năm ấy, Ông Già Noel lại chuẩn bị khăn gói lên đường. Lần này, ông gặp đủ mọi thứ trục trặc trên đời, lúc nào cũng gặp toàn là sự cố kỹ thuật. Các nàng tiên nhỏ thường hay giúp ông, năm nay phát quà chậm quá, nên các cháu thiếu nhi mãi đến hôm nay vẫn chưa có quà, kêu réo rất là inh ỏi. Lại thêm bà xã của Ông còn nhắn nhủ rằng thì là đêm nay “mẫu hậu” thân sinh sẽ ghé lại ngủ đêm để vui chung ngày lễ hội với hai vợ chồng. Tin này càng làm ông lo lắng, dữ hơn.
Ông ra xe, định bụng thắng chiếc yên cho 4 cô nai vàng yêu quí chuẩn bị cuộc xuống núi lao động, bèn phát giác ra rằng 3 trong 4 cô nàng kéo xe, đang chuyển bụng sắp đập bầu. Đã vội, lại càng thêm căng thẳng, Ông chỉ còn mỗi nước độc nhất, là cột cô nàng còn lại vào càng xe rồi trao cho cô ta trọng trách bao dàn, thay thế cho mấy cô đang vỡ bầu, thôi. Vừa bước lên chiếc thổ mộ, thì càng xe gãy rục, quà cáp vãi tung tóe, khắp nơi. Nhằm vợi bớt cơn giận lành của mình, Ông Già Noel trở vào nhà bếp, định bụng làm một hớp cà-phê nóng, sau đó tính là thêm ba sợi Brandy sương sương cho lắng cơn giận đằng đằng, đang trào dâng bên trong… thì Ông lại té ngửa, phát giác thêm rằng: các nàng tiên bé nhỏ của ông cứ sợ ông gặp nạn trên đường nếu để cái thói “ngựa quen đường cũ” lè nhè một ngụm như trước thì Ông cũng chẳng làm ăn được gì cho tích sự, nên đã đập bể các chai whisky lớn nhỏ của Ông. Không chừa đến một giọt để ông thấm chút môi mềm, đêm nát rượu.
Trong lúc thất thần, ông Noel tuột tay đánh vỡ bình đựng cà phê quý giá, thế là từng giọt rồi lại từng giọt đen đen óng ánh rơi vãi trên sàn bếp nhỏ. Ông chầm chậm bước lên nhà trên, định bụng tìm cây chổi cùn quét nhẹ vài quét, kịp đón bà má vợ rất khó tính về những chuyện bếp núc soong nồi... Sờ đến chổi, mới hay đám chuột bọ ở đâu đến quấy phá, cắn nát mấy cọng chổi mà Ông bỏ công ra kết cột bằng các ống hút ny-lông xinh xinh ấy.
Vừa vặn có tiếng chuông bấm ngoài cửa, Ông Già Noel lụ khụ bước ra xem ai mà lại đến chơi vào giờ cao điểm như thế. Vừa mở cửa, Ông thấy thiên thần nhỏ đang khệ nệ bưng cây Giáng Sinh xanh mướt đem đến tặng ông làm quà. Thiên thần nhỏ cướp lời không cho ông phân trần: “Mừng Giáng Sinh Ông Già ! Hôm nay trời đẹp quá phải không ông ? Cháu có cây thông nhỏ đem đến tặng Ông làm quà Giáng Sinh đây. Ông muốn để ở đâu nào ? Cây này dễ thương lắm đó !”
Nhìn cây Giáng Sinh, Ông Già Noel ra như quên hết các nỗi bực dọc, sự cố xảy đến từ sáng đến giờ, bèn đưa tay giúp vị thiên thần nhỏ bưng cây xanh tươi đẹp vào nhà và nhắm coi tính đặt vào chỗ nào cho thích hợp bây giờ ?…
Vì thế, mỗi lần Giáng Sinh về, ta thấy nhà nào cũng có cây No-en. Trên mỗi cây, ta đều thấy có thiên thần nhỏ lủng lẳng trên ngọn chờ đợi Ông Già Tuyết, làm việc thay cho Chúa chỉ chỗ mọi người trưng bày hang đá, hoặc bàn thờ. Chuyện chỉ có thế, xin hết. Và xin quý vị góp ý.
Nghe chuyện, chẳng thấy có ai phát biểu điều gì dù là khuôn mặt ai cũng tỏ ra thích thú. Nháy bảo nhau mãi, lúc sau mới thấy một người trẻ trong gia đình, giơ tay nói:
“Em xin nói: theo em, tất cả các chuyện Giáng Sinh, từ ngày giờ, cho chí đêm khuya tịch mịch và cả đến các nhân vật trong truyện như: Ông Già Tuyết, thiên thần, hoặc các chú nai gạc..đều là hình ảnh nói lên một sự thật về việc Chúa đã hạ mình xuống thế làm người. Ngày xưa, các cụ nhà ta có thói quen đọc Sách Thánh, rồi cắt nghĩa cho con cháu hết điển tích này đến câu chuyện nọ, tìm cách làm cho mọi người dễ hiểu ý nghĩa của buổi lễ. Ngày nay, thời đại của truyền hình và vi tính, hiểu như thế cũng không sai Sự Thật về việc Chúa xuống thế làm người, hết.”
Để bổ túc, có một chị giơ tay xin được nói:
“Theo tôi thấy, khi ta lần chuỗi Mân Côi và suy ngắm các Mầu Nhiệm mà ta gọi là Năm sự Vui và nhất là khi ta đọc các kinh Kính Mừng, chúng ta đều suy niệm Mầu nhiệm Giáng Sinh. Nhất là ở chục kinh thứ nhất ta ngắm: Thiên thần truyền tin cho Đức Bà chịu thai, ta hãy xin cho được lòng khiêm nhường. Rồi chục thứ hai: Đức mẹ đi viếng bà Ê-li-sa-bét, cứ thế cho đến hết chục thứ năm, chục nào cũng có lời ngắm, hết đó. Tóm lại, khi đọc kinh là ta suy gẫm Sách Thánh và như thế là ta đã cầu nguyện, rồi.
Một anh khác, bằng một giọng chắc nịch, xin phát biểu: “Đồng ý với anh và chị gì vừa nói. Tôi không hiểu, sao có nhiều người bị thường hay bị cái mà tôi gọi là “dị ứng” với chuyện đọc kinh, lần chuỗi, quá sức. Đọc kinh, đâu phải là chuyện chúng ta lải nhải, van xin gì đâu. Mà, đó là lúc mình vừa đọc vừa nhớ lại khung cảnh diễn biến vào thời của Chúa, đấy chứ.”
Bầu khí trao đổi đã bắt đầu sôi động hơn, một chị khác giơ tay xin tiếp lời: “Tôi đồng ý với các anh chị, đọc kinh hay suy gẫm, dù bằng cách nào đi nữa, cũng vẫn là cầu nguyện. Mà, nói đến cầu nguyện, thì mình nên chọn cách thức nào thích hợp với mình hơn cả, là hay nhất.”
Không khí trong buổi đọc kinh Tôn Vương tối hôm ấy càng sinh động hơn, khi có một anh tuy thâm trầm ít nói, nhưng dường như muốn bày tỏ điều gì. Anh giơ tay phát biểu:
“Xin thưa với bà con, thật tình tôi ít có tham dự các buổi đọc kinh tối ở nhà mình hay nhà bạn bè như hôm nay lắm. Vì riêng tôi, tôi thích đọc sách tu đức, hoặc các sách Đạo, rồi suy nghĩ tìm hiểu; hoặc có gì thắc mắc, mình đi hỏi những người nào hiểu biết hơn. Ví dụ như, về mầu nhiệm Giáng Sinh, tôi có đọc một đoạn trong sách nọ, thấy hay bèn chép lại, và bỏ túi lâu lâu nghiền ngẫm. Đoạn sách ấy có nói về Giáng Sinh như thế này:
Đối với khách bàng quan xưa kia cũng như ngày hôm nay, “Giáng Sinh” chẳng qua chỉ là một biến cố lịch sử, một chuyện thời sự không hơn không kém…” Đối với chúng ta, những tín hữu Đức Ki-tô, Giáng Sinh có ý nghĩa gì ? Giáng Sinh đối với ta, ngoài tính cách của biến cố lịch sử, còn là một bước sống. Vì Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa muôn đời liên hệ đến chính kiếp sống chúng ta. Chúng ta tin Chúa đến với nhân lọai, đã biến đổi nếp sống chúng ta… (đoạn này trích từ sách của cựu Linh Mục Nguyễn Ngọc Lan, cuốn: Chủ Nhật Hồng Giữa Mùa Tím, tr. 20) Về Giáng Sinh, tác giả viết dài lắm. Tôi không thể đọc hết ở đây, chỉ xin tóm lại điều này: là người Công Giáo chúng mình tin là như thế. Nhưng, cuộc sống của mình đã có biến đổi gì chưa, đó mới là vấn đề.”
Như mọi lần, mỗi khi ai phát biểu xong, gia chủ chỉ mời mọi người gợi ý, chứ tuyệt nhiên không cho trả lời hoặc tranh luận gì hết. Thành thử, cứ nhắc nhở xem có anh hay chị nào có ý kiến gì không, thế thôi. Lại một khoảng thời gian im lặng, để trống. Cuối cùng, có chị cất lời:
“Thú thật với quý vị, đây là một trong những lần tôi tham dự buổi đọc kinh tôn vương hơi khác thường, một chút. Nhưng phải nói là, lâu lâu ta cũng nên thay đổi bầu khí và cách thức cầu nguyện một chút. Nói như thế, tôi xin phép phát biểu là: mỗi người chúng ta nên suy nghĩ thêm về câu hỏi: Mầu nhiệm Giáng Sinh đã đặc biệt đánh động mình như thế nào ? Ai có câu trả lời, xin chia sẻ với cộng đoàn. Còn không, mình cứ để ngỏ câu này, vào một dịp nào đó, ta sẽ trao đổi tiếp với nhau sau.”
Lại một chị khác thêm ý kiến:
“Tôi thấy, tham dự những buổi như thế này, thường anh em mình ít có ai học rộng, hiểu sâu lời Chúa, cho bằng các cha, hoặc các cựu Tu Sĩ, Thầy Sáu. Anh chị nào quen biết mấy ông như thế, lần sau xin mời các vị ấy đến tham dự để mình chia sẻ cho mọi người hiểu rõ hơn ý nghĩa của việc đọc kinh.”
Thấy không có ai phát biểu gì thêm, gia chủ đề nghị mọi người giở sách ra, ta hát bài “Kinh Hòa Bình” của thánh Phanxicô, do cha Kim Long sáng tác. Để, xin hòa bình đến với muôn người. Người giàu cũng như kẻ nghèo. Nam cũng như nữ. Không phân biệt tuổi tác, quá trình thuộc loại cấp tiến hay bảo thủ, thủ cựu. Tất cả, ai ai cũng cần hòa bình. Nhất là vào những ngày mọi người mừng kính mầu nhiệm Chúa Xuống Thế làm người, với chúng ta. Và mọi giọng hát được cất lên, rất ồ ồ. Rất lanh lảnh, như sau: Lạy Chúa từ nhân, Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa Nơi mọi người. Lạy Chúa, xin hãy dùng con Như khí cụ bình an của Chúa, Để con đem yêu thương vào nơi oán thù Đem thứ tha vào nơi lăng nhục, Đem an hoà vào nơi tranh chấp Đem chân lý vào chốn lỗi lầm…
Bần đệ ra về, trong mưa. Đi trong mưa, mà lòng mừng thầm vì đã tìm thấy bình an trong tâm hồn. Dù bình an ấy, rất nhỏ. Rất tóm gọn. Và, bần đệ chợt như thấy mình đang thầm hát trong bụng bài ca nghe được hôm nào, từ giọng hát của Khánh Ly: “Em đứng lên gọi mưa vào Hạ…”
Bất chợt hát lên vì mọi nơi đã thấy mưa. Mưa vào Hạ, rất nóng ấm. Hát xong, bần đệ những mong rằng: vào mùa Giáng Sinh rất thánh, người người sẽ cùng hát như bần đệ. Vì đã đến rồi, mưa Hồng Ân trên cao. Mưa An Bình, từ Đức Chúa. Rất Giáng Hạ. Mùa Hạ.
Trần Ngọc Mười Hai vẫn cứ hát và cứ xin. Xin cho những cơn mưa, rất vào Hạ
“Nhẹ nhàng như gió thì thầm” (Lc 2, 52)
“Còn Mẹ Ngài thì giữ kỹ hết các điều trong lòng” Có một lần, một người anh rất chững chạc trong Đạo, “nhẹ nhàng như gió thì thầm” đến gần bần đệ, vỗ nhẹ lên vai bảo nhỏ: “Này bạn, đã gọi là chuyện phiếm thì thường là những chuyện tầm phào, ở đời, sao lại đem Lời Chúa vào những chuyện như thế ?” Lúc ấy, bần đệ chẳng biết nói gì. Chỉ há hốc miệng, những muốn moi óc tìm cho ra đoạn trích dẫn Kinh Sách rất Thánh có nói về “Lời” đã khiêm hạ tìm chốn tầm thường mà nương náu, giáng hạ. Mãi về sau, bần đệ mới nhớ ra lời Kinh ấy; bèn lập đi lập lại cho dễ nhớ. Từ đó, cứ nhớ mãi câu này:
“Và, Lời đã thành xác phàm lưu trú nơi chúng tôi, và chúng tôi đã được ngắm vinh quang của Ngài, vinh quang như của Con một tự nơi Cha, tràn đầy ơn nghĩa và sự thật.” (Ga:1,14)
Vâng “Lời” của Đức Chúa là “Lời” Cao sang thần Thánh, nay thành xác phàm ở với phàm nhân tục tử rất tội lỗi. Tệ bạc. Thế nhưng, “Lời” đã hòa mình đi vào đời. Một đời có nhiều chuyện để kể. Kể cả những truyện rất phiếm. Những chuyện để phiếm. “Phiếm Đạo vào đời”. Hay còn gọi là “chuyện phiếm Đạo-đời”. Chẳng thế mà, người phàm vẫn mãi không hiểu tại sao “Lời” lại mặc xác phàm. Tại sao Đạo lại phải vào đời ? Tại sao Đạo “nên” vào đời ? Thôi thì, ta cứ phiếm hoài phiếm mãi, ắt rồi sẽ hiểu. Hiểu rồi sẽ nhớ. Sự việc trên, làm bần đệ nhớ lại câu chuyện về cũng một chuyện Giáng hạ, mà người kia vẫn thấy khó hiểu. Không thể hiểu. Truyện ấy thế này: Đêm ấy, một đêm đầy trăng sao. Tiết đông lành lạnh, có một người đến từ hành tinh lạ, buồn tình làm thử chuyến du hành xuyên vũ trụ. Bay ngang hành tinh nhỏ có tên Địa Cầu, người hành tinh thấy như có điều kỳ lạ: đâu đâu cũng thấy lấp lánh đầy khắp những vì sao bằng giấy. Rất nhiều mầu. Đã thế, cạnh các vì sao nhỏ lung linh mầu sắc ấy, là các biển hiệu mang thông điệp vui tươi, những nào “Merry Christmas”, “Happy New Year”.
Sẵn tính xục xạo, muốn tìm hiểu, người hành tinh nọ vội đáp nhẹ xuống vùng phía Nam của lục địa thứ sáu mang tên là “Vùng Miệt Dưới”. Vừa ghé chân, gã nảy ra ý định “ngộ nghĩnh” mở một phóng sự bỏ túi, xem dân chúng ở hành tinh địa cầu này có trò gì mà vui nhộn thế. Chợt thấy một bé xinh xinh đang ngồi mân mê món đồ chơi bằng nhựa, xem ra có vẻ thích thú lắm. Người hành tinh bỗng tạt vào hỏi bé em về ý nghĩa các từ ngữ vừa gặp. Tại sao lại hết Merry rồi lại Happy… như thế ?
Em bé thấy có người đến chơi với mình, thích quá trả lời ngay: “Sắp tới đây, nhà em mừng lễ to lắm ! Thể nào cũng có hang đá. Có cây thông nè. Có Ông già tuyết nè. Ông già này râu tóc bạc phơ, suốt ngày chỉ mặc áo đỏ viền trắng…lúc nào trên vai cũng nặng trĩu những quà là quà. Năm nào, bé cũng được Ông cho nhiều thứ, có cả kẹo Sô-cô-la nữa. Chuyến này, bé sẽ ăn thật nhiều kẹo. Chẳng còn sợ ai la mắng. Vì Ông Già Tuyết còn lớn hơn cả bố mẹ nữa, mà.” Người hành tinh tiếp tục hành trình, đến hỏi một người lớn con hơn, chừng như đang bận rộn với công việc kiếm cơm, chạy gạo hằng ngày. Thì vị ấy đáp: “Giáng sinh ấy à ? Ối giời ! Lễ này lớn lắm đó. Cả người bên Đạo lẫn ngoài đời cũng đều ăn mừng hết đó. Lễ lớn như thế, nên già trẻ lớn bé ai cũng được nghỉ. Nên ai cũng thích. Trẻ thì được quà. Lớn được nghỉ ngơi. Nghỉ học. nghỉ làm. Chẳng ai phạt. Chẳng người nào bị đánh thuế vì mình nghỉ. Thôi thì, cũng phải có những ngày như thế để bà con có thì giờ mà chưng diện, sắm sửa chứ. Này ! Vào ngày lễ ấy, đàn ông tha hồ ăn nhậu, nhảy nhót. Đàn bà thì đua nhau mà tiêu pha, may sắm…”
Hỏi một cụ bà đang trên đường từ Nhà Thờ về, thì cụ cho biết: “Ấy chết ! Ngày lễ cực trọng như thế, mà đằng ấy lại không biết gì à ? Bộ ở trên cung trăng mới xuống hay sao mà “ngố” thế ? Thôi, để lão bà nói cho mà nghe: Cứ vào chập tối đêm hăm tư tháng chạp là ta bắt đầu có lễ đêm rồi. Lần nào trước khi bắt đầu lễ, cũng có cha ngồi toà cáo giải. Cũng có đọc kinh… đến giờ lễ lại có người đàn kẻ thì hát. Thôi thì, vui nhộn không có chỗ nào kể xiết. Vui lắm ! À mà này, bác thử đi hỏi ông cha xem lão nói có đúng không. Đây già rồi, nói bác bỏ lỗi, đôi khi lão thấy mình chả ra làm sao cả”.
Xem ra vẫn chưa mãn nguyện với các câu trả lời ở trên. Nhưng, người hành tinh cũng chẳng dám đến gặp ông cha ông cố, nào cả. Tội gì mà đến, không chừng mấy ỗng lại lôi đầu vào bắt làm việc đền tội, thì lôi thôi lắm. Vậy là, gã ta giã từ bà lão, rón rén đến gần lớp học cạnh đó. Ghé mắt nhìn xem, thì thấy lố nhố đến chục bọn nhóc loai choai tuổi dậy thì, đang làm gì có vẻ suy tư lắm. Thì ra, đứa nào đứa nấy cứ lúi húi viết viết, rồi lại xoá xoá, như đang sáng tác một tổ khúc trữ tình nào đó vậy. Phóng cặp mắt thiên thần để nhìn, gã hành tinh thấy một cô bé hí hoáy thả hồn mình trên giấy, những dòng chảy như sau:
“Christmas, Giáng Sinh, Nhập Thể… Thì, cũng như câu chuyện trang lứa của chúng em. Trọn đời, em hướng lòng mình tất cả cho “người ấy”. Chúng em thật lòng chỉ muốn ở cạnh nhau suốt ngày. Suốt đêm. Không khi nào rời. Em vẫn nhớ cái ngày Thứ Bẩy đầu tiên ấy, hôm đi chơi với chàng. Tụi em nói chuyện với nhau hằng giờ , mà sao không thấy mệt mỏi. Nếu ngồi đếm, tổng cộng có đến mười bốn tiếng đồng hồ. Nghĩa là từ mười giờ sáng hôm ấy mãi đến lúc chàng sửa soạn ra về, thì trời cũng bắt đầu choạng vạng. Ôi ! Thời gian trôi rất nhanh. Thật ra, thì bọn em vẫn chưa lấy làm đủ. Cũng mới chỉ: điểm tâm, ăn trưa nhè nhẹ, đi bộ qua bìa rừng; rồi ăn tối, thả bộ dọc bãi biển. Mườ bốn tiếng mà tưởng chừng như mới có hai giờ phù du, ngắn ngủi. Khi bạn chớm yêu, thời gian như ngừng trôi. Chẳng thế mà, có người cứ hỏi tại sao Thiên đường lại vĩnh cửu. Thiên đường là đây. Khởi điểm của cuộc tình … kéo dài.”
Ấy kìa, ngay gần bên là một chàng trai khác, tuổi tác tuy không lớn hơn là bao. Mà sao, ý tứ, chữ nghĩa lại như ông cụ đạo. Lén nhìn thoáng chốc bài “thâu hoạch” của chàng, người hành tinh đọc thấy có điều gì hơi khó hiểu. Anh chàng viết: “Giáng Sinh. Phục Sinh. Hai đại lễ, cùng một chữ Sinh. Hai sự kiện, nhưng thật ra chỉ là một. Một ý nghĩa “Sinh”. Sinh, là sống. Dù cho, có xuống thế mà sống. Hay, chết đi để rồi lại sống. Vẫn, sống dai. Sống mạnh mẽ hơn trước. Và, khi đã sống lại rồi, thì Người mới vực được cuộc sống của người khác. Vực dậy những người sống không ra sống. Sống mà như đang chết. Tức là, sống dở. Và chết dở. “Giáng sinh, có ý nghĩa gì với tôi không, ư ? Có chứ ! Với tôi, Giáng Sinh, mà không có Phục Sinh, thì tuy cả hai mang cùng chữ “Sinh” -tức là sống- vẫn cứ là một thất bại. Bởi, Giáng Sinh chỉ là khởi đầu của một cuộc Sống. Phục Sinh kia, mới hoàn tất cuộc Sống ấy. Hoàn tất cái gì? Điều gì? Hoàn tất là hoàn thành và hoàn thiện Ý định Trên Cao được báo trước, từ lâu. Ý định Cứu Rỗi. Ngang qua Phục Sinh. Đúng thế. Ý Định đã có từ lâu. Từ lúc Sa-un nhường ngôi cho Đa-vít. Bởi lẽ, Ý Định Cứu Rỗi chỉ dành để cho dòng tộc Đa-vít, một dòng giống “được chọn” mà thôi. Đọc tới đó, người hành tinh bất chợt rùng mình. Thấy lạnh ở phía sau gáy. Bèn, lẳng lặng rút về nơi thinh vắng. Suy nghĩ một hồi, gã bèn nhủ thầm: Quái ! Một Hành tinh nhỏ như trái đất này, mà lại có đứa bé có tư tưởng chẳng bé xíu chút nào cả ! Tại sao Giáng Sinh lại chỉ có nghĩa là Khởi đầu cho một cuộc Sống ? Tại sao ngôi sao Xẹt kia lại chỉ xẹt cho tinh cầu nhỏ bé thế này, thôi ? Tại sao lại là Đa-vít ? Tại sao chỉ là Ít-ra-en, dân tộc quá nhỏ ? Tại sao lại là Địa cầu ? Tại sao một hành tinh nhỏ như thế này,mà lại có đủ cả ? Có Giáng Sinh. Rồi lại có cả Phục Sinh ? Thôi chết rồi ! Bọn nó có lý. Bởi, đã có “Lời” bảo rằng: “Hãy trở nên bé nhỏ; vì Nước Trời là của chúng.” Và, người hành tinh cứ vừa đi vừa lẩm bẩm, những chữ: Tình Yêu. Nhập Thể. Giáng Sinh. Phục Sinh. Nhỏ bé. Được chọn… Nhập thể là Giáng Sinh. Giáng Sinh phải nối kết với Phục Sinh. Giáng Sinh – Phục Sinh, hai sự thể, nhưng một Nhiệm Tích. Một Ý Định. Ý Định Cứu Rỗi. Ý Định mang cùng một chữ SINH”. Nghe kể, dù chỉ là chuyện kể về một hành tinh, bần đệ thấy có điều gì đó, rất phiếm. Phiếm là phiếm Đạo vào đời. Cũng là Đạo trong đời. Một đời có đạo. Và, có phiếm. Phiếm nhẹ nhàng, như lời thơ trong nhạc bản “Gọi Người Yêu Dấu”: Người yêu dấu ơi, sao lòng se sắt đầy vơi ? Người yêu dấu ơi, thu về tìm vẫn đơn côi. Người yêu dấu ơi, khi ngàn sao đêm lấp lánh. Tâm hồn bâng khuâng, nhớ ngày vui đã qua nhanh. (Vũ Đức Nghiêm) Ngày vui qua rất nhanh. Nhưng vẫn nhớ. Nhớ rằng, Ngài đã Giáng hạ. Và, đã Phục Sinh. Giáng Sinh và Phục Sinh để con dân khắp chốn, được vui và được nhớ. Vui, vào ngày Ngài Giáng Hạ. Nhớ, điều Ngài trăn trối, hãy cứ vui. Và, cứ phiếm. Phiếm cho mình. Phiếm cho đời. Phiếm rất vui. Trần Ngọc Mười Hai Nhiều lúc cứ nghĩ, mình chỉ có thể phiếm, những phiếm và phiếm đã thấy vui
Đã là Sự thật sao vẫn còn nghi (Yn 1: 37-38)
Chỉ mới đây thôi, ngày 11 tháng chín xảy ra chớp nhoáng như trong giấc điệp. Tháng chín “đen”, cũng rất “bạc”. Một tháng chín có những sự thật rất buồn. Sự thật rành rành là thế. Nhưng vẫn có người ngờ vực. Ngờ vực nhiều nhất là từ nhà làm phim tài liệu người Mỹ, tên Michael Moore. Michael Moore, đại diện cho những người bán tín bán nghi về những sự thật đành rành về sự kiện thảm khốc, chết người ở Nữu Uớc.
Nghi và ngờ, là chuyện dài thế kỷ. Nó không chỉ xảy đến vào ngày ấy, năm nọ. Mà là chuyện của mọi nơi, mọi thời. Xảy đến với hết mọi người. Xảy đến cả hai ngàn năm về trước. Lúc, mọi người cầm chắc như đinh về chuyện xảy ra. Như đã báo trước. Thế nhưng, vẫn có người vẫn dõng dạc, những nghi và ngờ: “Nếu nơi tay Ngài, tôi không thấy các dấu đinh, và tra tay vào lỗ đinh, cùng tra bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài, tôi sẽ không tin.” (Yn 20: 25)
Nghi và ngờ là đặc tính không của riêng ai. Chẳng phải, chỉ mình thánh Tô-ma mới độc quyền sở hữu. Chừng như, nhiều đấng bậc nhà Đạo cũng từng mắc phải. Chép lại tên tuổi các nhân vật trong Sách thánh, ta thấy ít nhất cũng có hai nhân vật rất thánh, vẫn nổi bật. Trước hết, là ông Za-ca-ri-a người dám thưa với thần sứ Chúa: “Sự ấy làm sao tôi biết được? vì tôi đã già và vợ tôi cũng cao niên.” (Lc 1: 29) Kế đến, Đức Maria cũng lúng túng khi Mẹ nghe lời chúc tụng của thiên sứ nhà Trời:
“Nhưng lời đó đã làm bà sao xuyến và bà suy tính lời chào đó có ý nghĩa gì?” (Lc 1: 29)
Xưa nay, loài người vẫn nghi và ngờ vì nhiều lý do. Nghi, vì chuyện ấy chưa từng xảy đến (chẳng hạn như ông Za-ca-ri-a và Đức Nữ Trinh\g Maria). Và ngờ, vì chuyện này có khi không đúng sự thật. Phản khoa học. Hoặc, chẳng có lý lại xảy ra như vậy… Xem như thế, nghi và ngờ là do có vấn nạn về một sự thật. Vấn nạn về việc chuyển tải sự thật đến với người nào dễ cảm nhận. Nhưng, thế nào là sự thật mà con người dễ cảm nhận?
Câu hỏi trên, được nêu ra cách nay hơn hai ngàn năm trước. Khi Đức Chúa bị dẫn ra trước toà Công nghị của quan Phi-la-tô để luận tội. Quan tra vấn một hồi như thể vẫn nghi và ngờ về tư cách “Vua” của Đức Kitô. Vì thế nên, mọi người mới có được một khẳng định về sự thật:
“Tôi đã đến trong thế gian: ấy là để làm chứng cho sự thật. Phàm ai thuộc về sự thật, Thì nghe được tiếng Tôi. (Yn 1: 37-38)
Giống như nhiều người, quan Phi-la-tô cũng đã nghi và ngờ. Cũng từng thắc mắc gạn hỏi: “sự thật là gì?”; hoặc, “đâu là sự thật?” Hỏi, tức là đem những thắc mắc trong bụng mình, bật thành tiếng. Tức, bộc lộ ra bên ngoài điều gì mình còn nghi và ngờ. Nhưng ở đây, hỏi có nghĩa là đã chấp nhận lắng nghe. Chịu tìm để hiểu. Chịu học hỏi và cảm nhận. Như trình thuật Tin Mừng thuờng cho thấy: ít có người chịu lắng nghe và cảm nhận. Bởi, nếu biết lắng nghe và cảm nhận, thì đâu có những hạch và hỏi. Và lúc ấy, cũng không còn nghi và ngờ gì hết. Lúc ấy những ai trước đây từng nghi ngờ, nay đã biết tin tưởng và cảm nhận. Trong Sách thánh, có rất nhiều chương/đoạn Tin Mừng nói đến tình huống qua đó có nhiều người đã nghe và đã có hỏi. Vẫn chờ đợi câu giải đáp. Chính vì thế, Đức Chúa đã quả quyết về sự thật, như sau:
“Trước khi mọi sự thật đã xảy ra. “ (Mt 5: 18) Hoặc: “Quả thật, Tôi bảo thật với các ông.” (Mt 5:26; 6:2; 6: 5, 16; 8: 10; 10: 2,4,15,25; 11: 11; 13: 17; 16: 28; 17:20; 18:13,18; 19: 23,28; 21: 31; 23: 36;24:2,34,47; 25: 12,40,45; 26: 1-32; 21, 34)
Có những vị thông minh tài giỏi, thông suốt hết mọi sự. Nắm vững mọi chân lý. Đã tường tận “Sự thật” bằng xương bằng thịt, bằng chính mắt trần người phàm. Nhưng vẫn chỉ duy trì “Sự thật” ấy ở mức độ mắt thịt phàm trần, mà thôi. Vẫn chưa đạt được con mắt của đức tin và của lòng kính phục. Nên, cứ nghi và ngờ. Vẫn gạn hỏi, thách thức chính Đấng-Là-Đường-Và-Là-Sự-Thật, qua câu nói:
“Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người ngay thật và thầy dạy đuờng lối Thiên Chúa một cách chân thành; vì thầy không có thói coi mặt đặt tên. Vậy xin nói cho chúng tôi hay…” (Mt 22: 16-17)
Đúng thế. Nhóm Biệt Phái/Kinh sư thừa biết rằng “ngay thật” luôn đi dôi với sự ”chân thành. Họ còn giải thích: “Thầy không bận tâm và không có thói coi mặt đặt tên.” Nhóm Biệt Phái/Kinh sư thông hiểu mọi chuyện, từng nghe từng biết đến Đức Kitô là “Đường, là Sự Thật và là Sự Sáng”, nhưng họ vẫn cứ nghi và ngờ. Vẫn gạn hỏi. Gạn hỏi là vì lòng dạ họ ra chai đá. Cứng tin. Nay, họ chỉ muốn hiểu biết hết mọi sự, theo con đường mình đã vạch ra. Nói cách khác, nhóm Biệt phái/Kinh sư vẫn cứng ngắc với những gì có sẵn. Những luật và lệ. Hoặc, chỉ bận tâm đến những gì do chính nhóm mình đặt ra, nói ra. Chứ không phải những gì mình đã nghe và cảm nhận.
Không nghe và không cảm nhận. Cũng dễ hiểu. Vì, dù cho “sự thật có đuợc phơi bầy trên nóc nhà”, thì nhóm Biệt phái/Kinh sư vẫn “mũ ni che tai”, không chịu nghe. Chẳng chịu cảm nhận.
Đã bao lần, Đức Kitô cảnh báo những người “Có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe”, nhưng họ vẫn có thói quen “Coi mặt đặt tên”. Vẫn cứ “bận tâm đến chuyện của người khác”, đến hạt bụi nơi mắt người khác để rồi quên lờ đi những đòi hỏi do Đức Kitô đem đến là phải mở mắt, mở tai và mở lòng mình ra mà đón nhận chính “Sự Thật” đang hiện diện trước mắt mình. Để có thể phân biệt thực/hư của mọi việc nơi trần thế, cách hay nhất là mở mắt, mở tai và mở lòng mình ra, ắt sẽ nhận chân đuợc sự thật. Về thái độ nghe nhìn và cởi mở, tưởng cũng nên nêu ra đây ý kiến của một nhân sĩ đạo Bụt, có lần đã nói về Đạo của Chúa và Sự thật, như sau:
“Tại Tây Phương, nhiều người đang muốn cho Đạo Đức Kytô đuợc hiện đại hóa, nhưng họ chưa thành công vì thái độ thủ cựu và giáo điều của chức sắc bề trên. Nhiều nhà thờ vắng bóng tín đồ. Người xuất gia rất hiếm. Chỉ vì tại người ta bảo thủ quá, không chịu làm mới, không chịu làm cách mạng giáo lý và giáo chế…” (Thích Nhất Hạnh, Hẹn Nhau Mùa Anh Đào SangNăm).
Vâng. Thiền sư đạo Bụt nhận định cũng không sai cho lắm. Cách nay hơn hai ngàn năm có lẻ, chính Đức Kitô đã đem tin vui đến với các “chức sắc/bề trên” của thời đại xa xưa ấy, để họ chịu làm mới, làm cách mạng giáo lý và giáo chế thủ cựu của họ. Nhưng, họ vẫn chẳng chịu nghe. Vẫn thủ cựu và giáo điều. Cứ gạn hỏi rồi nghi ngờ chính Đạo, chính Sự Sáng và Sự thật. Họ còn bịt miệng sứ giả của Sự Thật dù Ngài vạch rõ cho mọi người thấy thế nào là thực, thế nào hư. Thế nào là Sự Sống đích thực. Đâu là niềm an vui vĩnh cửu.
Thực/hư,hư/thực quả là những điều được các sứ giả chuyển tải và mang đến, ngày hôm nay. Nhưng nào mấy ai chịu để mắt hoặc vểnh tai ra mà tiếp thụ, nhận lãnh. Nếu bảo rằng điều ấy là lỗi thời; thì đây thêm một thông điệp nữa từ vị thiền sư đạo Bụt: “Nếu thế kỷ hai mươi là thế kỷ trong đó con người chinh phục được thiên nhiên thì thế kỷ hai mươi mốt phải là thế kỷ trong đó con người chinh phục đựơc chính mình. Nếu thế kỷ hai mươi là thế kỷ của chủ nghĩa cá nhân và ý hướng thoả mãn tư dục thì thế kỷ hai mươi mốt phải là thế kỷ của nếp sống vô ngã, trong đó con người biết sống hài hoà với cộng đồng xã hội và thiên nhiên.” (Thích Nhất Hạnh, Thông Bạch Đầu Thế Kỷ)
Thế giới hôm nay đang có các nhân sĩ, những vị chọn ở ngoài hay ở trong Đạo, vẫn chuyển tải cho mọi người nghe biết về một sự thật. Sự thật ấy là: chỉ có tình yêu thương mới cứu thoát con người. Cứu thoát mọi người. Chỉ có hòa hõan mới đưa con người xích lại gần nhau hơn. Sống bớt đụng chạm sẽ an vui hơn. Hài hòa hơn. Bởi, ở đâu có sự hài hòa yêu thương quần tụ, thì ở đó Sự Thật mới thực sự diễn ra và hoà hợp với mình. Ngoài ra, tất cả chỉ là hư cấu. Hoặc, khéo che đậy. Tất cả chỉ là hư hư thực thực. Hoặc, có đấy nhưng xem như không thực.
Có thể nói, câu chuyện dưới đây được coi như một thông điệp sự thật. Một sự thật về cuộc sống và về sự vui sống. Về tình Yêu thương. Và dĩ nhiên, về sự hiện diện của Đạo, của Sự thật và Sự Sáng. Một câu chuyện cho người ở trong lẫn ngoài Đạo. Vì, Đạo là tình thương. Đạo là Sự Thật. Là, lòng tin yêu và sự vui mừng. Tin Mừng.
“Bên Trung quốc, có người con gái tên Lili đã đến tuổi cập kê. Và, cô lập gia đình về sống với chồng và mẹ chồng của mình.
Sau một thời gian chung sống, cô thấy mình không thể nào ở với bà mẹ chồng quá quắt này được nữa. Tính nết của bà rất là khó chịu, lại chẳng biết điều một tí nào. Nên, cô không thể nào làm vừa lòng bà được. Thêm vào đó, lúc nào bà cũng tìm cách chỉ trích, bới móc và còn nói xa nói gần khiến cô luôn thấy nhức đầu, khó ở.
Ngày lại ngày, mẹ chồng/nào dâu vẫn cứ tranh chấp bất bình với nhau chẳng thể hàn gắn được. Theo thông lệ, thì dù gì đi nữa bổn phận làm dâu, Lili vẫn phải tuân theo ý muốn của bà mẹ chồng. Bởi thế, mọi chuyện trong nhà cứ đổ lên đầu lên cổ người chồng hiền lành vốn ở thế rất khó xử.
Lâu dần, Lili chịu còn không nổi tính độc đoán vô lý của mẹ chồng thêm một ngày nào nữa. Cô quyết định dứt khóat với bà. Bèn, tìm đến một ông bác vốn là bạn thân của bố ruột mình để vấn kế. Đó là bác Hoàng, một thầy lang nổi tiếng trong vùng.
Gặp thầy, cô dông dài kể về tình thế khó thở trong gia đình. Và, yêu cầu ông bác cho cô ít thuốc độc như thuốc chuột chẳng hạn, để loại trừ bà mẹ chồng quái ác kia ra khỏi không gian nhỏ của cô.
Thầy lang nghe chuyện, suy nghĩ một phút chốc, rồi ôn tồn bảo: -Này cháu, bác sẽ giúp cháu giải quyết vụ này, cũng dễ thôi. Nhưng cháu phải tuyệt đối nghe lời bác dặn, không được sai phạm điều gì. Vì, sai một li đi một dặm, đó cháu. -Vâng. Cháu sẽ nghe lời bác dạy. Thầy lang bước vào trong, sắp sử đôi ba vị thuốc, rồi trở ra quầy mang theo một nắm dược thảo trong tay. Thầy nói với cô: -Ta không thể dùng thuốc cực độc để trừ khử bà cụ được. Vì, làm như thế sẽ khiến nhiều người hiểu lầm và nghi ngờ là chính cháu ra tay hạ độc thủ. Nay, bác đề nghị thế này: bác cho cháu một ít dược thảo. Nó rất độc, nhưng có tác dụng dụng chầm chậm. Cháu đem mấy thứ này về bỏ vào các món ăn nào cụ thích. Cứ nấu các món ấy cho cụ xơi; và, mỗi lần nấu hãy cho một ít thứ này vào đó, rồi khuấy đều lên. Mỗi ngày một ít thôi. Nhưng đồng thời cũng tuyệt đối phải đối xử sao cho ngọt ngào với cụ, làm như không có chuyện gì xảy ra giữa cháu và bà cụ. Để nếu cụ có nằm xuống, không ai dám nghi ngờ cháu là thủ phạm hết. Hãy xử sự làm sao cho mọi người thấy là chẳng có chuyện gì xảy ra giữa hai người và mọi chuyện trước sau vẫn tốt đẹp.
Lili ra về lòng những hớn hở vui mừng. Phen này cụ bà sẽ biết tay.
Ngày qua ngày, Lili phục vụ mẹ chồng không có điểm nào đáng chê bai, chẳng ai có gì để đàm tiếu. Cô nấu những món đặc sản mà bà rất thích. Cứ thế, mỗi ngày cô bỏ vào thức ăn chỉ một ít dược thảo mà ông bác đã bốc thuốc cho cô. Cô bắt đầu nói năng thưa gửi có phần ngọt ngào hơn và không ai có gì để nghi ngờ cô. Cô luôn nghe lời mẹ chồng coi bà như mẹ ruột, và ngay những người gần gũi như ông chồng nhút nhát thiếu lập trường kia cũng không nghi ngờ cô điều gì.
Sáu tháng trôi qua, mọi chuyện thay đổi theo chiều hướng tốt đẹp. Mẹ chồng – nàng dâu không còn cảnh cãi vã, giận hờn nhau như trước. Bà cụ cũng đã thay đổi hẳn thái độ. Bà bắt đầu thương cô con dâu hơn. Đi đâu bà cũng khoe khang, nói tốt về cô. Bà còn tuyên bố với mọi người rằng bà thương cô còn hơn cả con ruột của bà nữa. Chồng cô cũng rất hãnh diện và mừng thầm về sự thay đổi tốt đẹp này. Gia đình trở nên đầm ấm, thân thương hơn khúc ruột của bà nữa.
Ngày nọ, Lili lại tìm đến ông thầy thuốc bắc bạn thân của bố cô để một lần nữa báo cáo kết quả. Cô nói với thầy. -Bác ơi, cháu phải đến thưa với bác rằng mẹ chồng của cháu bây giờ đã thay đổi rồi bác ạ. Bà không còn khó khăn và dở người như trước. Nên hôm nay, cháu đến chỉ để xin bàn với bác xem bác cháu mình có cách nào để hút hết các chất độc dược mà bác cho cháu hôm trước ra khỏi người mẹ chồng cháu được không. Cháu đã lỡ bỏ hết vào thức ăn nấu cho bà rồi. Bây giờ thì cháu không còn muốn ra tay triệt hạ bà mẹ của cháu nữa. Bác cố làm sao giúp cháu cứu vãn tình thế đi bác! Thầy lang nhìn cô, quan sát một hồi rồi nói: -Cháu à! Cháu đừng lo lắng thái quá. Không nên. Những thứ hôm trước, bác đưa cho cháu chẳng có gì là độc dược hết. Cũng chỉ là ít thuốc bổ chung để giúp bà cụ ăn ngon ngủ khoẻ, thế thôi. Độc hay không, cái đó nằm ở trong đầu của cháu, ác hay không đều do cách thức cháu đối xử với bà cụ mà thôi. Nay cháu không còn có thái độ ấy nữa thì độc tố cũng chẳng lưu lại nơi bà làm gì.
Sự thật là thế đó, cháu ạ.
Vâng. Sự thật, sự Sáng hay Đạo vẫn lưu lại ở với chúng ta. Dù chúng ta không chấp nhận. Dù chúng ta có muốn loại bỏ hay trừ khử Sự Thật ra khỏi nơi nào cũng thế. Sự Thật vẫn kiên nhẫn. Vẫn thật sự nhẫn nhục. Nhẫn và nhục để chịu đựng nổi mọi thái độ độc và ác của con người.
Hãy cứ yêu thương và chịu đựng lẫn nhau. Rồi ra, mọi người cũng sẽ mở mắt. Sẽ mở tai và mở lòng mình. Khi đó Sự Thật sẽ đến ngự trị và cũng sẽ chỉ ngự trị trong cung lòng nào biết yêu thương, biết cảm nhận lòng yêu thương đích thật . Vì, Sự Thật là tình yêu thương, là lòng độ lượng. Và, cũng còn là sự vui sống. Sốngan hòa Sống hứng khởi Sống bền đỗ
Đó là thông điệp rút từ mỗi sự kiện. Mọi sự kiện. Đôi khi sự kiện có vẻ tàn nhẫn, gây đau lòng đến thế nào đi nữa. Hãy cứ vui đón Sự thật. Chỉ có Sự Thật mới giải phóng con người. Giải phóng mình ra khỏi cảnh tha hoá. Ác độc.
Trần Ngọc Mười Hai Và những suy nghĩ nhân có hiện tượng nghi và ngờ.
Bảo đảm, bảo trợ lẫn bảo kê (Gíáo luật #872)
Trước nhất phải nói, viết đầu đề cho chuyện phiếm mà lại viết theo kiểu trên, thì chẳng có gì bảo đảm là người bảo trợ sẽ bảo kê đọc suốt cuộc đời. Dù đã bảo lãnh, rất rành rọt. Và, việc bảo lãnh, bảo kê hay bảo trợ, nay vẫn chưa là bảo đảm, đáng tin như với các cơ quan bảo hiểm. Nhất thứ, là khi cơ quan bảo hiểm ấy lại bảo mật bảo trì như truyện kể, ở bên dưới:
Một truyện kể rất vui. Rất ý nghĩa. Và, cũng rất hàm ẩn bài học về sự bảo bọc cuộc sống rất nhiêu khê sôi động, khó bảo hành. Bởi, những chuyện bảo hành/bảo chứng vẫn được bảo ban/dạy bảo, rất xa xưa. Thôi thì, xưa hay nay cũng xin đi thẳng vào vấn đề như chuyện kể sau:
Hồi ấy, Gia-vê Đức Chúa thấy A-dong ngồi phờ phạc bên đám thú ngoan hiền, mà sao vẫn không được vui. Gia-vê vội lên tiếng, hỏi: -Này hỡi A-dong, sao con có chuyện gì mà buồn thế? -Thưa Ngài, con không có bạn hiền để bảo ban, tâm sự. Nên con buồn. Gia-vê bèn động lòng trắc ẩn bèn chờ đến lúc ông thiếp ngủ, Ngài nhè nhẹ tiến đến gần, rút ra một đốt xương sườn cụt, và tạo nên người đàn bà rất “khó… bảo”. Xong xuôi đâu đấy, Ngài nhìn A-dong hiền khô mà thấy tội, mà ái ngại bảo thầm: -Con à, Ta làm việc này chẳng qua cũng là vì con muốn, đó thôi. Đây sẽ là giấc ngủ bình an cuối cùng của con, đấy. Ta thật ra chẳng muốn bảo đảm gì thêm…
Vâng. Việc bảo đảm một bảo trợ về sau, dù là chuyện nhỏ, Gia-vê cũng chẳng muốn làm. Huống hồ là, các bảo lãnh to tát khác. Về những bảo trợ cho nên đạo đức chức năng của đám con nuôi hay con đỡ đầu, lâu nay vẫn là chuyện không có gì bảo đảm là sẽ không thay đổi. Chính vì thế, nhiều người hằng thắc mắc, mỗi khi thấy có đổi thay nơi cuộc sống nhà Đạo. Như, thắc mắc dưới đây:
Cách đây 63 năm, khi chịu phép thêm sức, ba mẹ tôi có vận động cho lắm cũng chỉ được phép nhờ vả có mỗi người bảo trợ do mình chọn, thôi. Và, khi con cháu của tôi đã lớn lên, chúng chỉ được phép có một người bảo trợ cho mỗi đứa, thôi. Còn bây giờ, sao tôi thấy lung tung nhiều luật lệ quá. Nếu tôi không lầm, thì lúc truớc, mỗi lần bảo trợ hoặc đỡ đầu cho ai, ta không giới hạn tuổi tác. Chỉ cần minh chứng cho cha xứ lo thêm sức/rửa tội biết là người bảo trợ con cháu mình là người Công giáo đàng hoàng đáng tin cậy. Người ấy vẫn đi nhà thờ thường xuyên, là được.
Vừa qua, cháu ngoại tôi rửa tội theo nghi thức Công giáo, nhưng sao thấy có những hai người bảo trợ, một là người Công giáo, còn người kia thuộc Giáo hội Anh giáo. Tôi không thấy điều gì tốt đẹp trong chuyện này cả. Xin vui lòng cho biết là: giáo hội của ta ngày nay có luật lệ gì bắt người bảo trợ phải như thế không?
Và dưới đây, là câu trả lời. Và, là câu trả lời của một đấng bậc khôn ngoan, nhưng rất ba phải. Lm John Flader, ở Sydney trả lời trên báo ngày 19/08/2007, như sau:
Trước tiên, xin được phép trả lời, là tôi thấy có hơi lạ ở chỗ bác lĩnh nhận phép bí tích đã từ lâu. Lúc ấy, sao lại chỉ có một người duy nhất bảo trợ cho các em. Cách đây cũng khá, hồi tôi chịu phép thêm sức, lại không như thế. Và, chuyện này không thuộc về giáo luật, lúc bấy giờ. Bình thường, cứ mỗi em chịu phép thêm sức, đều được phép có người bảo trợ cho mỗi em. Về người bảo trợ, hay còn gọi là vú/bõ đỡ đầu khi rửa tội, Giáo hội không bắt buộc là phải luôn luôn có người bảo trợ, nhưng Giáo hội vẫn đề nghị chuyện này.
Luật Hội thánh có ghi: “Đến nay, ai rửa tội cũng nên tìm ra người bảo trợ. Nếu người rửa tội là nguời lớn, thì vai trò của người này là giúp đỡ người mới gia nhập Đạo có được bước khởi đầu vững vàng, đi vào niềm tin. Nếu là trẻ nhỏ, trọng trách ấy thuộc cả cha mẹ em bé lẫn người đỡ đầu. Hai bên đều phải có mặt lúc cháu bé chịu phép thanh tẩy. Và cả hai, đều phải làm sao giúp cho cháu sống Đạo phù hợp với tư cách của người đã chịu thanh tẩy. Có quyết tâm thi hành bổn phận đi kèm với bí tích thanh tẩy. (Gíao luật số 872)
Xem như thế, ta chỉ cần một người bảo trợ thôi, cũng đủ. Và, người bảo trợ có thể là nam nhân hay nữ giới. Nhưng như luật Hội thánh nói, cũng có thể được phép có hai người bảo trợ, thuộc phái tính khác nhau. (Gl 873)
Bởi, vai trò của người bảo trợ là để giúp đỡ người lĩnh nhận bí tích đích thực biết sống niềm tin của mình. Và, một điều quan trọng, người bảo trợ phải là người có đặc tính hoặc phẩm chất đặc biệt. Về đặc tính/phẩm chất, Giáo luật liệt kê năm đặc tính như sau:
Trước hết, người bảo trợ phải do người chịu phép bí tích hoặc cha mẹ hoặc người giám hộ đề cử. Cũng có thể, là do linh mục chánh xứ hoặc thừa tác viên phụ trách thanh tẩy đề ra. Người bảo trợ, phải có quyết tâm chu toàn tròn vai trò được giao cho mình (Gl 874, 1: 2). Người bảo trợ không chỉ có nhiệm vụ hiện diện vào những lúc cần mà thôi; nhưng phải đảm nhận trọng trách giúp người rửa tội biết sống đích thực niềm tin của họ, nữa. Và nhất là, người bảo trợ phải có quyết tâm thực hiện vai trò này. (Gl 874 1: 2)
Thứ hai, nguời bảo trợ phải ít nhất là 16 tuổi, trừ phi có lý do chính đáng để được miễn trừ (Gl 874 1:2).
Thứ ba, người bảo trợ phải là người Công giáo từng chịu phép thêm sức và rước Mình Thánh Chúa. Người này, phải có đời sống đức tin bảo đảm chu toàn mọi công việc dành cho mình. (x Gl 874 1: 3) Vì thế, mọi người mong là, nếu được, thì người bảo trợ nên là người Công giáo vẫn đi nhà thờ đều đặn.
Thứ tư, người bảo trợ không thể là người đang ở trong tình trạng “rối”, tức bị Hội thánh kỷ luật, như: dứt phép thông công, hay treo chén, vv (Gl 874 1: 4).
Thứ năm, người bảo trợ không thể là cha hoặc mẹ của người được rửa tội hay thêm sức (Gl 874 1: 5). Bởi, vai trò của người bảo trợ là giúp đỡ cha mẹ của người rửa tội trong việc nuôi dưỡng trẻ lĩnh nhận bí tích ấy. Tuy nhiên, người bảo trợ có thể là anh/chị hoặc bà con gần gũi với người rửa tội, thêm sức.
Dù rằng những ai ở ngoài Đạo Công giáo không thể bảo trợ hoặc làm vú/bõ đỡ đầu theo nghĩa chính xác. Nhưng, Giáo luật Hội thánh cũng cho phép những ai đã rửa tội cùng giữ Đạo Chúa Kitô, nhưng khác giáo phái, vẫn có thể đứng ra cùng làm nhân chứng chung với người bảo trợ Công giáo (Gl 874 2). Tín hữu Anh giáo mà bác đề cập trong thư, có lẽ lúc ấy chỉ đóng vai trò người làm chứng, đúng hơn là làm vú/bõ đỡ đầu theo nghĩa của danh từ.
Về người bảo trợ/đỡ đầu cho bí tích Thêm sức, một lần nữa Giáo hội không đòi hỏi gắt gao là phải có người giống như thế. Nhưng Giáo hội đề nghị nên có người bảo trợ. Việc của người bảo trợ là chăm nom cho người rửa tội hay thêm sức khả dĩ có thể xử sự như chứng tá Đức Kitô; đồng thời, biết chu toàn bổn phận kèm theo bí tích này” (Gl 892)
Thành thử, vai trò người bảo trợ là chu toàn bổn phận giúp đỡ các người nhận phép bí tích như đề cập ở trên, như trong giáo luật, điều khoản số 874. Thêm vào đó, dù là không cần, nhưng nếu người bảo trợ cũng là vú/bõ đỡ đầu như hồi rửa tội, thì càng tốt. (Gl 893).
*
Quả đúng như điều bà con mình tiên đoán, câu hỏi nào hắc búa đến đâu, mà giao cho đấng bậc chuyên giải đáp thắc mắc, thì khỏi lo có đảm bảo hay không bảo đảm chất lượng. Bởi, câu trả lời chắc chắn rất thích hợp.
Dầu sao đi nữa, nhắc lại chuyện trên ở đây, tưởng cũng không là chuyện thừa. Nhắc, là: có được người bảo trợ đúng qui cách, và có chất lượng, thì ai mà chẳng thấy bảo đảm là có được giấc ngủ bình yên, như A-dong ở trên. Dù, ông chỉ ngủ trong chốc lát, hoặc ngủ một giấc dài bằng cả một đời người, ắt vẫn luôn cần đến sự bình yên của giấc ngủ. Rất đúng!
Đúng qui cách. Đúng chất lượng. Được như thế, thì các cơ quan bảo hiểm ở đời, mới dám bảo kê, lê thê chuyện bảo trợ, chứ? Với nhà Đạo, đề cử hay không đề cử người bảo trợ, việc cần bảo đảm là vị ấy phải có đủ tư cách và phải đảm bảo mình là người có chất lượng, mới được. Không tư cách và đủ chất lượng như mình mong muốn, thì người và việc sẽ cứ ở vào tình cảnh bát nháo, hỗn loạn. Chẳng ra sao.
Hôm nay, phiếm về một bảo trợ và bảo đảm hoặc bảo kê chuyện Đạo, việc Đạo cũng là điều rất hữu ích. Hữu ích để sống Đạo. Trong đời.
Trần Ngọc Mười Hai chỉ dám phiếm luận sơ chợt khi có bát nháo xảy đến nơi nhà Đạo, ở Sydney.
Cầu xin: nguyện cầu hay xin xỏ? (Mc 14: 38)
Mỗi năm, khi con dân nhà Đạo bước vào phụng vụ Mùa Chay, Giáo hội lại đưa ra các yêu cầu: sám hối, nguyện cầu, đổi thay, vv. Sám hối - đổi thay, là chuyện ta đã quyết tâm vào mỗi thánh lễ, ngày của Chúa. Còn, nguyện cầu mới chính là đòi hỏi mà Giáo hội khuyên nhủ người dân đi Đạo hãy tích cực thực hiện trong suốt cuộc đời. Tư thế nguyện cầu mà Giáo hội muốn ta làm, bao gồm các động tác, hành vi hoặc thái độ cả về tâm linh lẫn tu đức. Tức: hiệp thông, suy niệm, cầu nguyện. Gọi là cầu nguyện hay cầu khẩn, nghe còn êm tai. Chứ, bảo: hãy cầu xin, như lời ca mở đầu các nghi thức trong Đạo, thuở xưa:
“Cầu xin Chúa Thánh Thần, Người luôn thăm viếng hồn con..” nghe ra không mấy ổn?
Cầu xin. Phân tích kỹ, ta thấy cụm từ này bao gồm hai hành vi nhưng một ý lực: cầu khẩn và xin xỏ. Cầu khẩn hay nguyện cầu là cốt bày tỏ quyết tâm thực hiện điều gì. Quyết đạt được điều gì không cho riêng mình, nhưng để giúp nhiều người lạ lẫn thân quen. Trong khi đó, xin xỏ hay cầu xin chỉ là: muốn thâu nhập thêm vào cho riêng mình những gì ta cần đến. Một ân huệ. Lợi lộc vật chất. Hay ít nhất, thứ gì thỏa mãn những khao khát / dục vọng của con người. Hôm nay, phiếm luận về chuyện cầu xin hay nguyện cầu, cũng chỉ để mạn bàn về những điều rất thông thường. Những chuyện thường gặp trong cuộc sống. Nơi thói quen của dân con đi Đạo. Nhưng, trước khi đi thẳng vào vấn đề, xin (cũng lại xin) có một câu chuyện kể rất thật , để quý vị và các bạn xem xem có đúng và có phải lẽ không, để còn tùy định liệu. Hôm ấy, vào buổi xế chiều ngày thường, đang lê gót chân mềm ra chỗ gửi xe để về nhà, tôi nhận thấy có tấm giấy nhỏ ai cài nơi đầu mũi. Tưởng đâu giấy phạt hay tờ quảng cáo, nhưng nhìn kỹ mới thấy giòng chữ có lời nhắn nhủ, như sau:
Hãy đọc lời kinh sau đây một cách tin tưởng, bạn nhé! Chẳng cần biết bạn có cảm nghĩ thế nào khi đọc lời ấy. Nhưng, nếu bạn đọc mỗi câu mỗi ý này với sự chân tình và nhiệt tâm, chắc chắn bạn sẽ gặt hái được nhiều kết quả tốt đẹp về mặt tinh thần. Bạn sẽ cảm nghiệm ra Đức Giê-su và chính Ngài sẽ biến đổi đời bạn một cách trọn vẹn. Và đặc biệt. Tin tôi đi. Bạn sẽ thấy được phép lạ hiện ra với bạn, nnếu bạn quyết tâm gặp gỡ Đức Kitô ngang qua nguyện cầu.” (ký tên Peter Mary Rookey, OSM)
Một điều khá ly kỳ trong chuyện kể, là: tờ rời đến với tôi ngay vào tuần lễ thứ hai Mùa Chay năm đó. Như thế, có phải tác giả của tờ rời muốn nhắc những người vẫn cho mình bận rộn với đủ mọi thứ công chuyện, hãy để tâm “nguyện cầu”, một chút trong mùa này. Vâng. Thắc mắc như trên quả cũng có lý. Ngay từ đầu, các thánh sử đã chẳng trích dẫn Lời Chúa nhắn nhủ trong Tin Mừng: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện” (Mc 14: 38), là gì? Với thánh sử Mar-cô, việc nguyện cầu còn được nhắc đi nhắc lại, nhiều hơn:
*“Từ biệt dân chúng rồi, Ngài lên núi cầu nguyện” (Mc 6: 46) *“Các ngươi hãy cầu xin để đừng xảy ra vào mùa đông.”(Mc 13: 18) * “Các ngươi hãy ngồi lại đang khi Ta cầu nguyện.” (Mc 14: 32)
Riêng thánh Mat-thêu, thì thế này:
* “Hãy yêu mến kẻ thù địch và khẩn cầu cho những người bắt bớ các ngươi. (Mt 5: 44) * “Khi các ngươi cầu nguyện, thì chớ làm như bọn giả hình, chúng ưa đứng cầu nguyện trong hội đường và các ngả đàng… Còn ngươi, khi cầu nguyện hãy vào buồng, khóa cửa lại mà cầu nguyện với Cha ngươi, có mặt cả nơi kín ẩn” (Mt 6: 5-6) * “Cầu nguyện, thì các ngươi chớ lải nhải như người ngoại. Chúng tưởng hễ nói nhiều thì sẽ được nhậm. Chớ bắt chước chúng, vì Cha các ngươi biết rõ các ngươi cần gì, trước khi các ngươi xin Người.” (Mt 6: 7-8)
Còn, Luca thánh sử? Thánh Luca cũng dùng cụm từ “cầu nguyện” và “khẩn cầu” (theo bản dịch của lm Nguyễn Thế Thuấn, CssR) như dưới đây: (Lc 5: 33): môn đồ của Gio-an ăn chay và cầu nguyện (Lc 6: 12): Ngài ra núi cầu nguyện. (Lc 6: 28): Khẩn cầu cho kẻ ngược đãi. (Lc 9: 28): Ngài lên núi cầu nguyện. (Lc Lc 11: 1): Dạy môn đồ hãy nói câu “Lạy Cha” (Lc 22: 46): Hãy cầu nguyện kẻo sa cơn thử thách.
Riêng thánh Gio-an, môn đệ yêu dấu của Đức Giêsu, đề cập đến lời nguyện tế hiến của Chúa, thánh nhân dùng cụm từ “cầu xin”: * “Con cầu xin cho chúng, Con không cầu xin cho thế gian” (Yn 17: 9)
hoặc: * “Con không chỉ cầu xin cho chúng mà thôi..”(Yn17: 20)
Các bạn thấy đấy. Về từ ngữ, khi dịch các chữ Orare (Latinh),Prier, Prières (Pháp ngữ), hoặc Pray, Prayer (Anh ngữ)…, cha giáo kinh thánh Nguyễn Thế Thuấn rất uyển chuyển. Nếu không muốn nói là “huê dạng”. Cụ không cứng ngắc với điệp từ “nguyện”. Tức là, khi đã “cầu” thì vẫn có thể là “xin”, là “khẩn” hay là “nguyện” . Hoặc như ai đó, muốn thêm thắt cho đa huê đa dạng một chút, như: “cầu mong”, “cầu chúc” , hoặc “cầu cùng” ,vv.. đều được cả. Miễn là, ngôn từ ấy diễn bày được ý hướng hoặc lòng thành của người đề xuất ngôn ngữ, ý tưởng ấy, là được. Nói tóm lại, khi đặt mình trong tư thế nguyện cầu, bạn hay tôi dù mang trong đầu “ước nguyện”, hay “ý định” có tính xin xỏ một chút thì cũng tốt thôi. Không sao. Chúa biết lòng mình. Tuy nhiên, vấn đề cần nêu thêm, là: thời buổi văn minh hiện đại, mọi thứ đều có đủ, thì nội việc “nguyện” với “ước” có thực sự cần thiết không? Nói khác đi, khi mọi sự trên đời, kể cả chuyện biến đá biến sỏi thành cơm, mà người ta còn nghĩ là mình làm được, thì việc khẩn nguyện hay van xin … đâu là chuyện “cần phải làm ngay”. Phải thế không, thưa các bạn? Nếu quả như thế, thì ngay lời dạy của Đức Kitô bảo ta “xin được hằng ngày dùng đủ” (chứ không phải dư thêm một chút) cũng chỉ là chuyện bằng thừa. Có đúng thế không, thưa bạn? Đưa ra câu hỏi trên, bỉ nhân không dám bảo là đã có sẵn đâu đó, câu trả lời thoả đáng, đâu. Nhớ lại một chuyện xảy ra cách nay không lâu, vào bữa trưa nhân ngày Quốc Tế Thực Phẩm, một đồng nghiệp say sưa kể về quan niệm của bạn khác, cho rằng: trong cuộc sống thường nhật, nếu ai không cầu nguyện hằng ngày, ắt thể nào cũng bị Đức Chúa trừng phạt… Nghe đến đây, mọi người đều cười ồ. Và, chọc quê anh bạn giờ này mà vẫn còn quan niệm ngây ngô, kỳ khú ấy. Bữa ấy, tôi không dám ra mặt bênh vực anh bạn bị nhạo báng, nhưng chỉ lẩm nhẩm câu thơ của thi sĩ nọ: “thế thái nhân tình, gớm ghiếc thay…”, thiên hạ người ta muốn cầu nguyện mà cũng không yên được với chòm xóm, đồng nghiệp. Đành rằng, ở chốn văn minh tiến bộ này, ai muốn đi nhà thờ, cầu nguyện hoặc gẫm đàng thánh giá, xưng tội, phạt xác,vv.. đều có tự do con cái Chúa. Miễn đừng rung chuông, gõ mõ bằng loa đặt trên gác chuông hay cột cao vời vợi, gây mệt nhĩ “những người đang cần được yên giấc”, là được. Thật thế. Quanh ta, hiện rất nhiều người đang cần được an giấc. Nhưng rốt cuộc, họ vẫn chẳng “an” được “giấc” nào hết. Có lẽ, một phần, vì họ cứ bỏ ngoài tai lời nhắc nhở của Đức Chúa, vào dạo trước:
“Ôi thế hệ cứng tin và tà vạy!” (Mt 17: 17),
Và:
“Giống này không thể tống khứ được nếu không bằng cầu nguyện và ăn chay” (Mt 17: 21)
Vâng. Quả là thế. Ăn chay - nguyện cầu, không phải để có thêm điều này, thứ nọ. Nhưng, chính là tình huống quan yếu của con dân nhà Đạo. Theo thiển ý, nguyện cầu, ngoài ý nghĩa “xin xỏ” hay “van xin” ra, còn là trạng huống tự đặt mình thuận theo đòi hỏi của Thiên Chúa. Tức, đòi hỏi “luôn tỉnh thức”, và “hiệp thông” với Cha trên trời. Ngõ hầu, thánh Danh Ngài được vinh hiển. Ý Ngài được tỏ lộ và, người người đều tuân thủ. Đó là ý hướng mà Đức Kitô khuyên dạy tất cả mọi người chúng ta từ lúc ban sơ. Khi Ngài quyết định hiệp thông với thế giới nhân trần qua động tác mà người ngoại cuộc cho là “rồ dại”. Động tác có một không hai nơi trần thế. Tức, chấp nhận cho mình xác phàm trơ trẽn; để rồi, cùng làm người với con người. Ở thời buổi văn minh vật chất thiếu vắng hiệp thông lẫn cảm nghiệm, thì “cầu” và “nguyện” vẫn là chuyện phải làm. Và nên làm. Theo sự hiểu biết nông cạn của bản thân, “cầu” và nguyện” là động tác, là trạng huống của những “hiệp” và “thông”, rất thường tình. Không có cái này , cũng chẳng có được cái kia. Mà, “hiệp” và “thông”, lại là cứu cánh của cuộc sống xã hội. Nói khác đi, sống mà không biết “thông” và “hiệp” với người khác, nhóm khác, ai khác… thì, không phải là sống mà chỉ là kéo dài động tác hít thở, cựa quậy của xác phàm gồm những xương và thịt vô tri, vô tính khí. Nhân vị, khi ấy chỉ là con ong, cái kiến có được bộ óc nhũn nhẽo, không hồn. Và, cũng chẳng là người nữa. Chỉ là thứ người máy giống tựa hình người. Hoặc, một người hình như là “máy”, giống người máy, thế thôi. Không hơn không kém. Bản chất “hiệp” và “thông” là tính “ắt và đủ” của cái gọi là HOMO SAPIENS mang tên rất “người”. Lại nhớ về câu chuyện do nhà nhân chủng học tên tuổi, bà Margaret Mead kể lại phong tục của bộ tộc nọ xứ Amazone. Theo bà, hình phạt nặng nề nhất đối với sắc dân bộ tộc này, là: bị trục xuất khỏi xã hội nhỏ mình đang sống. Tức, không còn được phép “hiệp” và “thông” với mọi người trong bộ tộc ấy nữa. Bị như thế, đương nhiên mất đi tính chất “hiệp thông” của con người. Xem thế, “hiệp” và “thông’ chẳng phải là đặc tính xã hội. Mà, là cứu cánh của sự sống. Và, đã là cứu cánh, thì ở thời nào, nơi nào con nguời cũng phải trân trọng. Tóm lại, ở mọi nơi mọi thời, lời dặn của Đức Kitô luôn bức thiết, tồn tại: “Hãy tỉnh thức và nguyện cầu!”. Đến đây, còn một câu hỏi cuối nữa, là: sống gần bên những người không nghĩ rằng nguyện cầu là việc cần thiết, hoặc những người cứ bêu rêu tư thế cầu nguyện của người khác, thì làm thế nào để chính mình và người khác được thức tỉnh? Làm sao để khuyến khích tất cả nên nguyện cầu? Để trả lời cách ngắn gọn, xin ghi lại đây ý kiến của anh thanh niên có tên là Raymond Halter thuộc tu hội The Marist khi viết đề tựa cho cuốn “Cầu nguyện như một hoàng tử của Đức Vua” của tác giả Jean Pliya, như sau:
“Cuối cùng thì, mọi lời cầu nguyện đều dẫn đến câu: “Abba, lạy Cha yêu dấu!” Bởi lẽ, tuyệt đỉnh của việc nguyện cầu chính là gặp gỡ Tình yêu Thiên Chúa Ba ngôi.”
Thành thử, nếu đã nhất quyết nguyện cầu, thì nói gì, làm gì cũng đều là chuyện tốt. Miễn là, biết đặt mình trong hiệp thông với Tình yêu Thiên Chúa. Đó mới là chuyện chính. Viết đến đây, tôi tự bảo: các bạn hẳn cũng ưu tư nhiều với vấn đề cốt thiết này. Hẳn cũng đã kinh nghiệm nhiều về vấn đề nêu ở trên. Để kết thúc, xin được phép nhái lại câu văn của thánh Âu Cơ Tinh, rằng: “Hãy cầu nguyện đi, sau đó muốn làm gì thì làm.” Bởi, khi nguyện cầu tức là ta đã hiệp thông với Chúa. Và, đã hiệp thông với Ngài rồi, thử hỏi ai dám làm trái ý Ngài không? Hoặc, nếu bạn còn ái ngại cho câu nói trại ở trên, thì xin nói lại: “Ama, et fac quod vis!” Tức,” Hãy cứ yêu đi, sau đó muốn làm gì thì làm!”
Trần Ngọc Mười Hai thử đề nghị mình, đề nghị bạn.
“Hạnh phúc tôi, từ ngày con nước về”
Hạnh phúc, có là tên gọi của ai đâu, mà sao nghệ sĩ họ Từ mải réo gọi. Gọi mãi, mà không thấy có trả lời. Có lẽ, nghệ sĩ nhà mình những tưởng hạnh phúc đời thường vẫn là bông hoa biết nói. Là, người con gái đẹp, rất như tranh. Là, bức hoạ trinh trong của cuộc đời, đó chăng ? Hạnh phúc, có đích thật là như thế, không ? Câu trả lời, hẳn là không. Không là bởi vì, với mọi người, hạnh phúc là cái gì khác hẳn. Người, cho đó một hành trình. Kẻ lại bảo, đấy là một gặp gỡ. Nói chung, mọi người đều hiểu: Hạnh Phúc là những gì ta có. Những gì ta thưởng ngoạn, rất mê say. Nhưng kỳ thực, hạnh phúc là những gì ? Để trả lời, tưởng cũng nên đi một vòng kiểm chứng. Kiểm và chứng bằng câu truyện. Những truyện kể về một kinh nghiệm, về định nghĩa. Kinh nghiệm và định nghĩa đơn giản như câu chuyện sau đây: “Cụ già tên Hứa nay cũng đã tròm trèm 90. Dáng người mảnh dẻ. Thân hình tương đối cao. Cụ ăn mặc rất gọn gàng. Mặt tươi sáng, luôn vui vẻ. Ở tuổi cửu tuần với ngày tháng cuối cuộc đời, mà sắc mặt cụ vẫn săn sái, hóm hỉnh. Mới đây, người vợ ít tuổi hơn cụ đến 20 năm, đã lặng lẽ đi trước. Từ khi bà ra đi, cụ được yêu cầu dời vào chỗ người già. Vì không ai chăm sóc cho cụ nữa. Thế mà cụ chẳng lấy đó làm buồn lòng Vào nơi mới, cụ theo nhân viên gia cư đến ngồi ở phòng đợi chờ làm thủ tục, rất lâu. Khá mệt. Nhưng, vẫn thấy nơi cụ phảng phất một nụ cười nhẹ, tuy không còn tươi như trước nhưng vẫn sắc nét. Khi được nhân viên dẫn đến phòng, cụ nhìn quanh quất, thấy không được khang trang cho lắm, nhưng vẫn vui vẻ chỉ vào tấm trải dùng làm màn gió che cửa, rồi nói: tôi thích cái kiểu chế biến màn che đầy sáng tạo như thế này. Người dẫn cụ thấy vậy bèn nói: “Cụ chưa biết phòng mình tốt xấu thế nào, mà sao cụ vẫn nói mình thích nó?” Và cụ già trả lời: “Chuyện tốt xấu nơi ở của mình đâu có thành vấn đề. Này cậu, sở dĩ tôi nói mình thích nó, là bởi vì với tôi, Hạnh Phúc là thứ gì mình đã chọn trước khi có nó, ở trong tay. Lão tôi có thích cái phòng nhỏ này hay không đâu có tuỳ thuộc vào tấm màn che cửa xấu tốt. Mọi chuyện thích hay không, đều do mình chọn lựa cả thôi, cậu ạ. Nói thật với cậu chứ: ngay trước khi bước vào đây để ở, lão tôi nhất định đã nói trong đầu là mình sẽ thích cái đó. Và, nếu mình quyết định là thích, thì tất nhiên nó sẽ tốt và sẽ thích. Đây cũng là thói quen cố hữu của lão vào mỗi sáng. Cứ sáng sáng là lão tôi đều làm thế, ngay khi thức dậy. Để lão tôi kể cậu nghe cho vui. Mỗi sáng, lão tôi có thể quyết định cứ nằm nướng như thế trên giường lo lắng đủ mọi thứ khó khăn xảy đến trong ngày, từ chuyện đau mình đau mẩy cho chí mấy chuyện ăn uống sao cho đầy bụng, vv. Hoặc, quyết định vụt dậy, đạp tung chăn gối vội ngồi dậy và nguyện thầm những lời cảm tạ trời đất đã cho mình còn đủ sức để sắp xếp mọi chuyện cho có lớp lang, đàng hoàng. Thế là tốt rồi. Nói để cậu nghe đừng cười lão nhé ! Lão đây, ngày nào cũng tâm niệm là mỗi ngày 24 tiếng trời cho, đó là món quà quý mình đừng nên phung phí. Thay vì ngồi đó nhăn nhó, rên la thì lão đây chọn: hãy cứ bằng lòng với hiện tại mình đang có ! Rồi sau đó, tập trung xem mình sẽ làm gì cho đỡ buồn chán, vào những ngày còn lại. Thế là bao nhiêu kỷ niệm đẹp của những ngày vui sống với vợ con, cứ thế từ từ trở về trong ký ức, là thấy vui. Nói của đáng tội, tuổi già nó giống như cái tài khoản trong ngân hàng, vậy. Ta có thể rút từ từ mỗi ngày một chút, xài lai rai trong suốt những tháng ngày còn lại mà mình vẫn chắt chiu và vẫn tiếp tục bỏ vào. Bởi thế cho nên, bữa nay lão tôi đề nghị cậu hãy bắt chước lão mà rút ra từ từ mọi thứ mà cậu nghĩ đó là hạnh phúc. Rồi sau đó, hãy bỏ nó vào cái tài khoản đầy ắp những kỷ niệm. Và, cậu lôi nó ra mà nhớ mà hưởng lai rai ba sợi, như thế là hạnh phúc, chứ còn gì nữa, phải không ? Để lão nói thêm, hãy bắt chước lão mỗi ngày ráng làm sao đừng để cho những chuyện bất ưng hoặc khó chịu nó xâm nhập, nằm mãi trong bụng của mình. Cứ sống đơn giản, như lão đây từng sống. Cứ xài tiền nhà nước cấp, rồi đem cho bọn nít những gì chúng ưa. Và, đừng trông mong sẽ có người đem đến cho mình quà cáp này nọ. Được như thế, tự khắc thấy mình hạnh phúc nhất trên đời, cho mà xem. Thế đó, là định nghĩa và quan niệm của cụ già 90, về hạnh phúc. Thế còn, nhà Đạo mình thì sao ? Tản bộ vào vườn hoa Kinh thánh, ta bắt gặp những quan niệm, như: Ở Cựu ước, ta thấy: “Hạnh phúc thay, kẻ được Ngài giáo huấn” (Thánh vịnh 94 ) “Người đặt niềm tin vào Đức Chúa, hạnh phúc dường bao!” ( Châm ngôn chương 16 )
“Còn người gian ác, hạnh phúc làm sao được...” (sách Giảng viên chương 8 ) Với Tân ước, thì: “Hỡi đầy tớ trung thành, hãy vào mà hưởng hạnh phúc với chủ mình. (Mt 25, 21)
“Hãy tôn kính cha mẹ, để người được hạnh phúc trên mặt đất này” ( Ep 6, 2) “Quả thật, Thiên Chúa đã trù liệu cho chúng ta một phần hạnh phúc tốt hơn…” (Hp 11, 40)
“Thiên thần bảo tôi: Hãy viết: Hạnh phúc thay kẻ được mời đến dự tiệc cưới Con Chiên.” (Kh 19, 9) Tiệc cưới bày sẵn, nay mời con dân nhà Đạo đến dự. Đến, mà hưởng hạnh phúc tràn đầy, đã dọn sẵn. Thế nhưng, hạnh phúc của tiệc nhân gian, chỉ dành để cho những người đã nghe và nhận thức được điều Ngài chúc phúc, trong Hiến Chương Nước Trời. Nước Trời là “đệ nhất khung trời của hạnh phúc. Nhưng, hiến chương “Hạnh Phúc” của Nước Trời không nằm ở những gì cao sang, lộng lẫy, rất hấp dẫn. Trái lại, chỉ ở vào những điều mà mọi con dân thấy rất đời thường, ở huyện. Những nào: nghèo khó, sầu khổ, bị bách hại… được rao truyền như sau: "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương… (Mt 5, 3 – 7) Trên đây mới chỉ là phân nửa của Hiến chương 8 điều về Hạnh phúc đích thật. Nhất nhất, mỗi điều đều đề nghị những thứ mà mọi người từng ngán ngẫm. Thế nhưng, những gì mà con người chán ngán không muốn ôm vào mình, lại chính là nguyên tắc làm nền cho mọi thứ hạnh phúc. Cố Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn, DCCT, trong sách chú giải Tin Mừng về hạnh phúc đích thật Chúa rao truyền, đã hơn một lần xác định rằng: “Tin Mừng đã đáp ứng với nhu cầu hạnh phúc của con người. Nhưng, hạnh phúc mà Chúa Yê-su đem lại không phải là (cái) hạnh phúc rẻ tiền. Đây là thứ hạnh phúc phải tranh thủ và chỉ có những người không sợ nỗ lực, và nhiệt thành chết thôi, mới hưởng được… Hạnh phúc này nâng cao con người lên và lên án mọi thứ hạnh phúc ươn hèn, biến đổi (cái) lòng mong muốn hạnh phúc mà con người chỉ muốn hưởng, chứ không muốn có nỗ lực nào hết.”(Lm. Yuse Nguyễn Thế Thuấn, Hiến Chương Nước Trời, giáo án nội bộ, tr. 49)
Nhưng cố giáo sư Kinh Thánh chú giải còn đi xa hơn, qua nhận định:
“Chúa Yêsu muốn sự cao trọng của người ta chứ không muốn lấy bất cứ thứ hạnh phúc nào để làm chiêu bài cho Tin Mừng Ngài đem đến. Vậy, sự cao trọng mà Ngài muốn ban, lớn lao đến đỗi trí lòai người không thể nghĩ ra được; và ý chí của người ta cũng vô phương đạt thấu. Vì ở đây, chúng ta thấy (cái) hạnh phúc ấy cuối cùng là (cái) hạnh phúc như chính mình Ngài sống trong ý định của Cha Ngài là một người “anaw”, nghèo khó thật trước mặt Thiên Chúa. (Lm. Yuse Nguyễn Thế Thuấn, sđd, tr. 49) Xem như thế, quan niệm về hạnh phúc giữa người đời và nhà Đạo, thật rõ khác. Người đời có thể là nghệ sĩ lẫn thi nhân. Nhà Đạo, có thể là thánh sử, người công chính hoặc chính Đức Ki-tô-đã-có-kinh-nghiệm-làm-người, tức những những vị có kinh nghiệm về cuộc sống. Trong cuộc sống, còn có rất nhiều nhận định khác nhau về niềm an vui hạnh phúc mà mọi người kinh qua. Và, hầu hết những ai đã kinh qua cuộc sống có hay không có hạnh phúc, chắc hẳn cũng đồng ý với những nhận xét rất ư là chí lý về kinh nghiệm hạnh phúc, như bên dưới: “Không có con đường nào dẫn đến hạnh phúc hết. Hạnh phúc chính LÀ con đường chúng ta đang đi. Vì thế, bạn hãy trân quý và vui hưởng mọi phút giây cuộc đời mình. Không nên chờ đợi gì nữa. Bởi, hạnh phúc là một hành trình chứ không phải là điểm đến. Không giờ phút nào đáng quý trọng bằng chính hiện tại mình đang sống. Vậy, xin đề nghị với bạn: hãy sống và tận hưởng mọi giây phút hiện tại. Đừng chờ đợi nó đến vào ngay mai.” (Vô danh) Để minh họa và cũng là phụ họa cho nhận định ở bên trên, xin ghi lại truyện cổ dân gian thần thoại về cái-gọi-là-hạnh-phúc, như sau: “Vào buổi đầu của thế giới, Đức Chúa dựng nên loài chó. Và Ngài nói với chó: “Ngươi hãy ngồi trước nhà mình và cứ sủa liên hồi mỗi khi có người qua lại hay vào nhà. Để làm việc này cho tốt lành hạnh phúc, ta cho ngươi cuộc sống kéo dài đến 20 năm.” Chó ta nghe xong bèn thưa cùng Chúa: “Sao con lại phải sống và sủa mãi những 20 năm, lâu quá. Hay, con dám xin Ngài chỉ muốn sống có phân nửa, phần còn lại xin trả Ngài để cho ai khác”. Đức Chúa nghe thấy có lý, bèn chịu ngay. Ngày thứ hai, Đức Chúa lại dựng nên lòai khỉ và bảo: “Ngươi hãy giúp vui cho mọi người. Hãy làm “trò khỉ” để thiên hạ cười. Được như thế, Ta cho ngươi sống 20 năm”. Cũng thế, loài khỉ thấy kinh hãi, bèn xin: “Làm trò khỉ những 20 năm ? Thôi, xin Ngài chỉ cho con sống giống loài chó, phân nửa thôi”. Và, Đức Chúa cũng lại đồng ý. Ngày thứ ba, Thiên Chúa dựng nên loài bò và nói: “Ngươi ra đồng mà làm lụng suốt ngày quần quật với nhà nông, có ánh nắng mặt trời soi rọi. Hãy sinh sản cho đông, tạo nguồn sữa ấm cho gia đình nông dân nuôi ngươi làm lụng. Để làm việc này, Ta cho ngươi tuổi thọ, sống 60 năm”. Loài bò nghe kịp, vội vàng thưa: “Ôi chao, 60 năm cuộc đời dài vất vả lao động, con chẳng muốn. Dám xin Ngài, chỉ 20 thôi còn lại 40 năm xin dành để loài nào khác”. Thiên Chúa nghe được, lại cũng đồng ý. Đến ngày thứ tư, Thiên Chúa bèn dựng nên loài người và phán: “Hãy ăn uống, ngủ nghỉ, rong chơi, lấy vợ gả chồng cho thoả thích, hạnh phúc. Được như thế, Ta thuận cho con sống đủ 20 năm ròng, sung sướng”. Nghe thấy thế, loài người lại năn nỉ: “Con dám hỏi Chúa, sao lại ngắn thế ? Có thể nào, dám xin Ngài cho 20 năm phần riêng của con. Cộng 40 năm loài bò trả lại. Thêm vào đó 10 năm của loài khỉ buông xuôi và cộng nốt phần 10 năm của loài chó bỏ xó. Tổng cộng là 80 niên, Ngài đồng ý chứ, con dám xin ?” Thiên Chúa nghe xong, thấy được và phán: “Đó chính là điều con mong muốn, chứ không phải do Ta”. Cứ theo quan niệm tưởng-chừng-như-hạnh-phúc mình mong muốn, loài người có 20 năm đầu toàn những ăn uống ngủ nghỉ và rong chơi, vui hưởng hạnh phúc của cuộc đời. 40 năm tiếp, làm thân nô lệ lao lực dưới ánh nắng chang của mặt trời để nuôi dưỡng gia đình. 10 năm kế tiếp chỉ chuyên làm trò khỉ giúp mọi người vui hưởng cuộc chơi. Và, 10 năm còn lại ngồi đó, trước cổng nhà và sủa mãi với bà con. Nếu nhìn lại những gì mà được gọi là Hạnh và Phúc mà chúng ta thường trông đợi ở đời thường, đều là sung sướng, giàu sang, danh vọng, quyền lực, tình, tiền tài…những là của cải vật chất Nhưng, câu hỏi vẫn còn đó, nỗi buồn. Hỏi rằng: thế đó, có phải là hạnh phúc, chăng? Thế đó, có là cuộc đời ? của con người? Có là đời người của người đời? Hay còn là cuộc sống của nhà Đạo? Hỏi, tức đã phần nào trả lời. Trả một lời. Cho một người.
Trần Ngọc Mười Hai, vẫn cứ luôn hỏi nhưng chưa dám trả lời...
Cho Không – Không Cho Hai cụm từ quanh một chữ “CHO” (Mt 5: 41)
Ở Việt nam, từ thập niên năm mươi, sáu mươi trở về trước, giới trẻ yêu nhạc thường nghe Elvis Phương suốt ngày hát lanh lảnh, những câu: “Tình cho không, biếu không, chớ nên mua bán tình yêu !..”
Xét về lời ca được phỏng dịch từ bài “L’amour, c’est pour rien” do Enrico Macias ca sĩ người Pháp hát, thì cụm từ “tình cho không” chuẩn hơn là “pour rien” của Enrico. Tuy nhiên, trên căn bản Việt ngữ thì: cụm từ “cho” không nghe còn được, chứ động từ biếu đương nhiên phải là biếu không rồi, làm sao có thể “biếu có” hoặc biếu xong rồi lại muốn “có” trở lại, được! Và, cứ như thế, hưng phấn theo giòng nhạc trẻ, Elvis Phương kết thúc bài hát với lời dặn dò: “Chớ nên mua bán tình yêu”. Đúng thế, tình yêu thật ra không thể mua bán, mà chỉ có thể “cho không” hoặc “biếu không”, thôi. Thế còn “tiền tiêu” thì sao? Có nên “Cho không” hoặc “Không cho” tiền tiêu chăng? Giả như, có người đề nghị đổi lại lời lẽ của bài hát trên đây một chút (một chút thôi cho vui chứ chẳng là chuyện to tát gì mà sợ vi phạm tác quyền với tác thành). Này nhé: thay vì chữ “tình”nếu đổi thành “tiền”, ắt câu hát nói trên sẽ thành như thế này:
“Tiền cho không, biếu không Chớ nên mua bán tiền tiêu..
Hát thử câu này, hẳn nhiều vị sẽ thấy rằng: đổi như thế xem ra không ổn. Ấy là xét về nhiều mặt, cả về luận lý học lẫn thực tế của cuộc đời. Nhưng, xét theo quan điểm nào đó, cụm từ trên tuy hơi chói tai, nghịch nhĩ một chút, nhưng không thể bảo là không “chuẩn” được. Bởi vì, ngược giòng thời gian để trở về với thuở ban sơ khi con người vừa xuất hiện trên trái đất, đã thấy có những từ, những ngữ mang ý nghĩa “cho” và “biếu” rồi. Bằng chứng? Trong sách Khởi Nguyên chẳng hạn, ai cũng đọc thấy động từ ’cho” bàng bạc trong các Mạc khải của Yavê Thiên Chúa như sau:
“Và Thiên Chúa chúc lành cho chúng” (Kn 1:28)
“Này ta ban cho các ngươi mọi thứ cỏ lả sinh hạt giống... chúng sẽ làm của ăn cho các ngươi” (Kn 1:29),
“Và đến bữa chính, Người cho chúng ăn” (Tv 145:15)
Cụm từ cho & biếu , như thế đã có từ lâu rồi, đồng ý ! Thế còn hành động cho và biếu thì sao? Để trả lời, cứ mở Kinh thánh ra đọc là thấy ngay. Này nhé, trong các chương đầu sách Khởi Nguyên đã thấy:
“Melkisêđê, vua Salem đem bánh rượu đến ... chúc lành cho Abraham và nói: Chúc lành hãy đổ xuống cho Abram do Thiên Chúa Tối cao Đấng sinh thành trời đất.” (Kn 14:19)
Và, đến sách Dân số:
“Yavê nói với Aharôn: ..cho con cái Lêvi, này Ta ban làm cơ nghiệp thật về mọi sự trong Israel, đền thay dịch vụ chúng thi hành.” (DS 18:20).
Và rồi, rải rác trong sách Cựu ước, cụm từ “thập phân” thường theo sau động từ “cho”. Như thế, có nghĩa: ngay từ thưở ban đầu, bàn dân thiên hạ người Do Thái đã có thói quen “cho” và cho đến thập phân, tức phần mười trăm (10%), cơ nghiệp, của cải, lợi tức ... của họ rồi. Và, khi cho như thế, họ chẳng cần kèm thêm chữ “không” hay chữ “có” làm gì cho bận tâm, bức xúc. Bởi, đã từ lâu,“cho” đương nhiên là cho nhưng không. Và “cho” ở đây còn mang ý nghĩa “không lấy lại” như kiểu “cho” của thổ dân người da đỏ (Indian giver)hồi nào, mà là kiểu “cho” của dân Anamite nhà ta: “cho tho lo mất đòi”.
Xem như thế, “cho không” là chuyện đương nhiên và phải lẽ; nhưng chưa hẳn là chuyện thường tình. Vì, thường thì bàn dân thiên hạ hay có thói quen “không cho” chứ chưa nói là “cho có điều kiện”, hoặc “cho” xong rồi đòi lại. Như lời của bài hát trên cho thấy: “tình cho không biếu không” , chứ ai hát là “tiền cho không biếu không”!
Cũng chẳng nên lấy làm lạ, vì mấy ai nhớ ra như thế. Và, “cho” là một trong những đòi hỏi rất tối hậu của Đấng đã “cho” quá nhiều. “Cho” cả tình lẫn tiền và gì gì nữa, Ngài cũng cho, cho tất cả. Có thể nói, Ngài chính là Đấng “Cho Không” mọi sự. Ngài “cho”cả bản chất rất “người” của Ngài nữa.
Tuy nhiên, vấn đề gợi ra hôm nay, là: khi “cho” mọi sự và trọn vẹn như thế, Đức Kitô –Đấng cho ban sự sống- đã làm gương và khuyến khích tòan thể nhân lọai hãy cứ “cho” đi. Cho thêm. Cho nhiều hơn nữa. Cho, chứ đừng nhận. Bạn không tin phải không? Xin mở Tân Ước ra, sẽ thấy dẫy đầy những cụm từ như thế. Chẳng hạn: *thư thánh Phaolô: ”Kẻ phân phát, hãy cho nhưng không” (Rm 12:8),
“Anh em ở dưới luật, song là dưới ân sủng” (Rm 6:14),
“Mỗi người hãy cho tùy ý định của lòng mình, không cau có, không miễn cưỡng, vì có hớn hở mà cho, Thiên Chúa mới chuộng.” (2Cr 9:8),
*Tin Mừng thánh Mat-thêu:
“Các ngươi đã không công mà được, thì cũng hãy cho không” (Mt 10:8),
“Ai xin ngươi hãy cho” (Mt 5: 41)
*Tin Mừng thánh Luca: “Hãy cho đi, và các ngươi sẽ được cho lại” (Lc 6: 38)
Và, thánh Phaolô bao giờ cũng bắt đầu thư chung của mình bằng những câu như:
“Ân sủng và bình an cho anh em do tự Thiên Chúa, Cha chúng ta và Chúa Yêsu Kitô” (Rm 1:7)
Nói khác đi, “cho”: không những là đòi hỏi và ước vọng của “Đấng Cho Không”, đối với các kẻ bỏ mọi sự để theo Ngài, mà còn là: Lẽ Sống của mỗi tín đồ Kitô Giáo, không phân biệt Tin Lành, Chính Thống , Công giáo hay Menonite. Mà, đã là lẽ sống thì tốt nhất nên thực hiện theo mức độ của mỗi người.
Nhớ lại quan niệm của ai đó, khi dịch chữ tắt XHCN cho người ngoại quốc học tiếng Việt là: “Xếp Hàng Cả Ngày”, bần đệ không thể không liên tưởng đến cái cảnh xếp hàng cả ngày vào những năm sau 1975. Xếp hàng rồi vẫn tự nhủ lòng mình: nếu người mình thay vì xếp hàng cả ngày để “nhận” (tiền, quà, thực phẩm…), thử đổi lại thành: “Xếp Hàng Cả Ngày” để “cho” thì chắc sẽ khá hơn trước, từ lâu. Có thể là, khi xếp hàng để … mua hoặc nhận như thế, bà con quên mất lời mời gọi được trích dẫn ở trên. Nhân dịp mừng “Tình Cha”, Đấng đã cho Người Con độc nhất của Ngài cho nhân lọai, nhắc lại cũng chỉ để gợi ý mà thôi. Thành ra, lời cuối của bần đệ, là: Có nên “cho” hay không?
Trần Ngọc Mười Hai nhớ lại để tự nhắc nhở
“Đau thương xé môi gầy, mà long vẫn mơ say…”
Trong sống thực cuộc đời đi Đạo, người người thường có cảm nhận về những thứ mà nhà nghệ sĩ khi xưa đã diễn tả bằng các cụm từ rất thân thương: “Đau thương xé môi gầy, mà lòng vẫn mơ say”… Đau đến xé môi xé miệng, quả là những đau và thương rất lớn. Môi đã gầy gò ốm yếu, mà bị xé nát đến thương đau, thì hẳn là bạn và tôi, có lúc cũng bị nghiến thấu tâm can. Lòng trí cũng chẳng còn những mơ say, nữa. Xé nát, đến đau thương và hết mơ say, vẫn là tình tự xảy đến khi có quá nhiều cãi tranh. Quá nhiều mũ chụp ô dù đặt lên đầu con dân trong ngoài nhà Đạo. Con dân “xé môi gầy” trong ngoài nhà Đạo, như bạn và tôi lâu nay thường thấy xảy đến ít nhiều tình huống có sâu và có xé. Có cãi tranh, có mũ chụp về nhiều chuyện. Chuyện uy danh quyền lực. Chuyện sống Đạo. Chuyện nào cũng to cũng tát. Cũng lấn át hết mọi chuyện. Nếu để ý, bạn và tôi sẽ thấy ở nơi chính trường hay chốn thương nghiệp, chỗ nào cũng có cãi vã, có tranh giành. Cãi và tranh đến thương đau, xé nát. Cãi và tranh, đến nổ đom đóm. Mất cả lương tâm. Mất hết tình người. Vừa qua, một bạn trẻ khác ở Sydney cũng lại có thắc mắc và hỏi han, rất nhiều. Thắc mắc bạn ấy đưa ra hôm nay, không bức xúc đến độ gây tranh và cãi như các chính trị gia chuyên làm luật. Nhưng, cũng rất “xé môi gầy”, ngay chốn nhà Đạo. Về chuyện Đạo. Về chuyện mà người đời, nay hay dùng từ hoa-mỹ để gọi: là tả phái, hữu khuynh, là cấp tiến, cổ hủ…rất rối mù. Thành thử hôm nay, bạn và tôi ta hãy để tâm quan sát những hỏi và đáp giữa cặp thầy – trò ở bên dưới. Quan sát, để xem người nhà Đạo mình có sinh hoạt gì mà sao cứ tranh luận và cãi vã hoài như thế. Quan sát, để ý đến những thắc mắc như thế này:
“Tôi có vài thắc mắc, xin Linh Mục vui lòng giải thích cho biết: hiện có chăng cái-gọi-là khuynh hướng tả phái – hữu khuynh, nơi nhà Đạo như ở chính trường ? Nói khác đi, có chăng nơi nhà Đạo, phe cấp tiến hoặc bảo thủ, như ngoài đời ? Và nếu có, ta giải quyết làm sao ? ( Người hỏi tên ký tắt là: K.G.)
Lần này, người trả lời lại là đấng bậc đã một thời vị vọng nổi tiếng trên truyền thông báo chí rất “Đạo”: đó là, Lm. Brian Lucas thuộc tuần báo Công Giáo ở Sydney, như sau: “Khi gọi đích danh người nào thuộc phái “hữu khuynh”, bình thường ta vẫn hay lẫn lộn chuyện Đạo và đời, để rồi chụp mũ cho nhiều đấng bậc vị vọng có uy tín trong Giáo Hội, cũng như họ đã từng làm đối với chính trị gia. Cụm từ “Hữu khuynh” hay “Tả Phái”, có nguồn gốc từ lĩnh vực chính trị. Nhất là, khi các người anh em làm phận sự phân tích chính kiến/lập trường của mỗi vị tại hiện trường nơi ấy. Mũ chụp, ô dù mang danh “tả”, “hữu”, chỉ có nghĩa mỗi khi ta viết tốc ký mà thôi. Viết tốc ký để thẩm định một cá nhân nào hầu liệt kê họ vào hàng những người chọn chính sách xã hội, khá phức tạp. Ở môi trường chính trị, việc sử dụng tên lóng – mà thời nay người ta hay gọi là ô dù, mũ chụp – cũng phù hợp với sinh hoạt làm luật để định danh tánh một chính trị gia nào đó có quan điểm, lập trường phù hợp với điều mà nhiều người lâu nay có qui ước gán ghép cho nhân vật mình đề cập. Trong đảng Lao động ở Úc chẳng hạn, lâu nay hễ ai có chân trong phe hay phái đã rạn nứt của đảng này, đều biết chắc mình thuộc cánh nào, phe nào, trong cùng đảng. Và, những ai được xác định danh tánh và phe phái, đều mãn nguyện tự hào với bất cứ ô dù/mũ chụp nào gán cho mình. Ở môi trường nhà Đạo đất Úc, cũng như trên toàn thế giới, nhất là vào thời hậu Công Đồng Vatican II, các mũ chụp,ô dù nói ở trên, lâu nay lại gán cho các vị có quan điểm/lập trường về thần học, tín lý và lòng Đạo. Họ còn gán cả vào lề lối quản trị cũng như kế hoạch mục vụ, vẫn có trong Giáo Hội. Đó cũng là loại mũ chụp, ô dù mà nhiều vị sử dụng để gán cho các bài tham luận tu đức nổi tiếng ngõ hầu nhận dạng các nhóm hoặc phong trào nào đó. Lấy ví dụ cụ thể, ta thử rút từ sách tu đức của Linh Mục Paul Collins, MSC mang tựa đề “Chúc lành trộn xà bần” chẳng hạn, mới đọc đã thấy có 15 mục nhập khác nhau có mang mũ chụp “Công Giáo hữu khuynh”, rồi. Xem như thế, mũ chụp này là có ý gì? Lm Paul Collins cũng như các nhà phê bình cứ cố ý như để chứng minh cụm từ “hữu khuynh” là có ý gì ? Điều này cho thấy, chiếc mũ “hữu khuynh” được nhiều người sử dụng là để ám chỉ toàn bộ tổ chức này nọ, có mặt trong Hội Thánh. Vì thế, khi đọc sách của Linh Mục Paul Collins, ta thấy tác giả có nói đến tên của nhóm Opus Dei, với nhận xét, như: “Không còn ngờ vực gì nữa, phong trào này là tổ chức hữu khuynh, thấy rõ” (tr 103) Cùng một lập trường tương tự, tác giả còn cho rằng: đa số người viết cho truyền thông báo giới Công Giáo đều là những người thuộc phe “hữu khuynh” tr. 181). Đổi lại, tôi vẫn nghĩ: những người lâu nay bị cho là có chiều hướng “hữu khuynh” chắc chắn sẽ coi Lm Paul Collins, thuộc “tả phái”. Cho đến nay, ta có nhiều tài liệu, sách vở nổi tiếng; nhưng ít có học giả kinh điển nào, lại dám chụp mũ cho ý kiến/hành động; hoặc người nào, tổ chức nào đó là người hoặc nhóm “hữu khuynh”, hay “tả phái”, hết. Trên căn bản, “hữu khuynh” là hình dung từ chỉ mang tính tương đối. Tức là, chỉ có ý nghĩa đối với những người tự cho mình thuộc “tả phái” hoặc “trung lập”, mà thôi. Nếu có ai coi như mình thuộc cánh “cực hữu”, thì mọi người khác, cả những người “hữu khuynh” cũng sẽ trở thành “tả phái”, đối với người cực hữu này. Tựu trung thì, tất cả còn tuỳ vị thế của người phê bình theo lập trường nào để phân loại người khác, nhóm khác. Tức là, bạn có tả phái mới phê bình người khác “hữu” khuynh, thôi. Không như các chính trị gia, vẫn thường vui lòng để người khác bảo mình thuộc “tả phái”, “trung-tả” hoặc “hữu khuynh”, các nhà thần học lại vẫn tự coi mình thuộc phe “chính thống” hoặc chính đáng dù cho rằng người khác nghĩ mình như thế là sai. Nhiều tác giả, lâu nay bị một số người khác cho là thuộc giới “hữu khuynh”, lại dùng chính mũ chụp này để chụp lên cho mình để chứng tỏ sự chính đáng, chính thống này. Chẳng hạn như Michael Gilchrist, trong cuốn sách do ông viết mang tựa đề “La Mã hoặc quê miền đồng nội”, đã qui về điều mà ta gọi là “não trạng mới của Hội Thánh” ( tr 26 ). Trong 285 trang sách, tác giả nêu rõ rằng chúng ta đều sai khi dùng cụm từ “hiện đại”, “thông thoáng”,” cấp tiến” để đánh giá vị thế lập trường của vị nào đó trong Giáo Hội, mà theo ông họ thuộc thành phần cánh “tả”. Bởi, nếu đem so lập trường của ông đối với những người tự cho mình ở phía rất cực và rất “hữu”, thì đúng là như thế. Đánh giá lập trường của bất cứ một ai trong giới Công Giáo là hữu hay tả, cấp tiến hay bảo thủ, chỉ dẫn đến tranh chấp và nứt rạn, mà thôi. Bởi, làm như thế, tình bác ái sẽ bị sứt mẻ. Và, thiện chí của mọi người sẽ giảm sút. Như trong trận túc cầu chẳng hạn, tham gia thi đấu không phải là để đá vào chân hay vào người của đối phương, mà là đụng vào quả da, cho nó tới điểm đích mình muốn nó đến. Việc sử dụng ô dù/mũ chụp tả/hữu gán cho một nhóm hội/đoàn thể tôn giáo, hoặc bất cứ ai có ý kiến/lập trường tư riêng ít khi đưa ra ý lành, ý tốt mà thường chỉ áp đặt lập trường thần học dưới mức cần có, để cứu xét. Để tìm hiểu. Khi tranh cãi về thần học lớn rộng, lan vào vấn đề chính sách công cộng, thì sự tiến thoái lưỡng phân giữa hai phái tả/hữu càng tập trung, nhấn mạnh hơn nữa. Nhất thứ, là khi người có lập trường thần học cánh hữu thường tự cho là mình thuộc phe “chính thống”, thôi. Đằng khác, ta sẽ mắc lỗi, nếu cứ chụp mũ những người có cái nhìn khác biệt, rồi gán họ thuộc phe này phe kia, trong khi mọi người dù đứng về phe nào đi nữa, cũng phải tỏ ra “nhất quán”, xác thực về mọi vấn đề, mới đúng. Việc rao giảng Lời Chúa trong Giáo Hội sẽ được tốt đẹp hơn, nếu ta liệng bỏ các mũ chụp/ô dù đi và bỏ thì giờ ra mà phân tích kỹ nội dung ý kiến lập trường về thần học, thì tốt hơn. Tới đây, có thể quý vị sẽ cho là tôi né tránh câu trả lời khi tôi không liệt kê các đặc thù, đặc tính của mỗi nhóm. Tuy nhiên, làm như thế lại càng đào sâu thêm những khúc mắc rất nên bỏ qua. Điều cốt yếu là nên xây dựng Giáo Hội theo đường hướng không phân biệt tả - hữu. (Lm. Brian Lucas, The Catholic Weekly Sydney ) Thật ra, giải đáp thắc mắc theo kiểu của đấng bậc ở trên, rất là huề vốn. Huề cả làng, vì ngài nói cũng rất ư là “ba phải”. Cứ chín bỏ làm mười, để mọi người sẽ nhẹ nhàng theo chân Chúa. Nghe Lời Phúc Âm mà thi hành. Khốn nỗi, Phúc Âm Chúa nói vẫn được nhiều người hiểu và cắt nghĩa theo cách khác nhau. Trường phái khác nhau. Đó mới là vấn đề. Còn nhớ khi xưa, cựu Linh Mục Nguyễn Ngọc Lan từng viết một bài báo đăng tải khắp nơi với thắc mắc, hỏi rằng: Đạo của anh em mình là “Đường hay Pháo đài”, thì ngay lúc ấy đã có nhiều người chụp ông cho cái mũ rất ư là “cấp tiến/lạc đạo…”. Ở đây, một lần nữa, bần đạo nhắc đến tên tuổi của vị thầy đã quá vãng, chẳng để gây lại một tranh cãi ai sai ai đúng. Ai chính thống ai trệch đường rày đi Đạo… nhưng “dài dòng văn tự” chỉ muốn bảo rằng: trong cuộc đời đi Đạo, bạn và tôi cũng từng kinh qua những khi mình bị mang tiếng là cấp tiến. Có lúc, lại bị cho là thủ cựu, rất thụt lùi. Mọi phán xét, dĩ nhiên xin cứ để Bề Trên soi sáng, định liệu. Ta hãy cùng nhau hiên ngang, mà tiến bước. Tiến trong tâm tình của bạn bè thân thương, cùng một Cha. Để thư giãn tâm tình người con cùng Cha, xin gửi đến bạn một truyện kể, rất mới sau đây: Trong hành trình cuộc đời, có những truyện kể đưa ra nhiều hình thái quan trọng về công ăn việc làm. Với các Linh Mục thì giảng thuyết, các câu truyện kể đều tập trung vào việc chia sẻ Lời Chúa. Một Linh Mục trẻ vừa chịu chức, gặp khó khăn trong việc giảng thuyết, bèn xin Giám Mục Bề Trên của mình một vài bí kíp để bài giảng có thể lôi cuốn cộng đoàn. Vị Giám Mục cho ý kiến: ‘Thì cha có thể nói đôi điều gì đó cốt thu hút bổn đạo chú ý tập trung như: Tối qua, tôi bất chợt rơi vào vòng tay ôm ấm áp của một phụ nữ... chẳng hạn. Tôi dám chắc là nếu cha bắt đầu bài giảng như thế là họ sẽ chăm chú nghe thôi. Rồi cứ thế, cha tiếp tục tả cảnh, tả tình nói nhiều về sự ấm áp và cởi mở nơi cung lòng người đàn bà, và cha kết thúc bằng cú nhẩy dù, bật mí cho mọi người biết người đàn bà kia chính là… thân mẫu của cha, thế là xong. Và, đó chính là ý nghĩa của tình gia đình đấy cha ạ” Vị Linh Mục trẻ quyết nghe theo lời dạy của ngài chủ quản Bề Trên, bèn áp dụng ngay vào bài giảng ngày Chúa Nhật tuần đó. Và hôm ấy, vị Linh Mục bắt đầu bài chia sẻ như sau: ‘Thưa anh chị em, tối qua tôi được hân hạnh rơi vào vòng tay ôm êm ái của một phụ nữ rất nóng sốt… Cộng đoàn sốt sắng nghểnh tai chờ nghe đoạn tiếp… Nhưng vì lúc đó ngài hồi hộp quá nên quên bẵng mất chi tiết kết thúc mà vị Giám Mục đã nói. Bí quá, ngài bèn hít một hơi thật đầy, rồi tiếp: Tôi không nhớ người phụ nữ này là ai nhưng hình như… Đức Giám Mục đã bảo tôi làm như thế với bà ấy”.
Chúng ta vừa nghe một truyện vui để thư giãn hay nhất chưa từng nghe thấy. Điều làm cho bài này hay, không do tính bảo thủ hay cấp tiến trong khuynh hướng chia sẻ Lời Chúa. Cũng không do sự cao đẹp của tinh hoa thần học gói ghém trong đó. Hay là bởi, người Linh Mục trẻ chắc là không sợ bị chụp mũ thế này thế khác khi chia sẻ những lời trên với cộng đoàn. Thành thử trong cuộc đời đi Đạo hãy sống thực, trước đã. Đừng nề hà gì chuyện thiên hạ có thể chụp mũ mình thuộc loại cấp tiến hay thủ cựu, hoặc gì gì đi nữa. Hãy cứ yêu đi và hy vọng. Rồi mọi việc cũng sẽ tốt đẹp thôi. Trần NgọcMười Hai, vẫn tự nhủ lòng mình và kêu gọi bạn mình nhủ lòng như thế
MỘT THỜI ĐỂ PHIẾM, NHỮNG ĐẠO VÀ ĐỜI ( Mt 28, 19 )
“Vậy các ngươi hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân, Thanh tẩy họ nhân danh Cha và Con và Thánh thần” Phải nói ngay, rằng: văn chương ngôn ngữ người mình, thật tuyệt vời. Này nhé, rõ ràng cụm từ “đi ra” khác với “đi vào” là thế; mà sao áp dụng vào cuộc đời, mọi người đều hiểu hai động từ ấy, giống như nhau. Theo nghĩa cuộc đời trần tục, “ra” hay “vào” đều nói lên cùng một ý nghĩa. Là những ý và nghĩa của một hành trình. Hành trình sống. Suốt đời người. Để minh xác điều này, bạn và ta thử nghe đây lời ca, mọi người thường hát: “Đêm đông lạnh lẽo, Chúa sinh ra đời.” (Hùng Lân – Đêm đông). Hoặc: “Ngày ấy, Chúa cất tiếng gọi khắp nơi. Ngày ấy đến với Chúa đi vào đời…” (Thành Tâm – Sĩ Tín, Vào đời ) Đồng ý, “ra” hay “vào”, tuy có khác trong diễn tả, nhưng đều mang ý nghĩa của một thái độ. Một nhân sinh quan, cùng sống với người. Cùng ở lại với đời. Và, với Đạo làm người. Ở đời. Như một hành trình. Lành thánh. Hành trình lành thánh của Đạo vào đời, vẫn là đề tài luận phiếm. Rất đời thường. Nhưng mang tính chất, rất Đạo. Đạo vào đời, là chuyện mà ai ai cũng có thể bàn luận, nói đến mà bần đạo gọi là phiếm. Phiếm khắp nơi. Phiếm mọi thời. Phiếm là phiếm như thế đấy. Nhưng cứ nhìn vào thực tế hôm nay, hẳn người người đều thấy tuổi trẻ ngày nay ít phiếm hơn tuổi gần kề bụi đất. Tuổi lập cập đi về với Cha. Với Chúa. Phiếm về Đạo đời là những chuyện sống đạo đời thường ở huyện. Nhất thứ, là khi hăng say luận phiếm, ta vẫn thường nhận được giòng chảy điện thư “i-meo” đại loại như sau: “Bọn tớ vừa đi Bà Quẹo tiễn chân một đồng nghiệp, mới 57 tuổi đã ra đi về chốn vĩnh hằng. Thấy bạn đi, mình lại nghĩ nhiều về cuộc đời của chính mình. Về miền vĩnh cửu. Về ý nghĩa cuộc đời. Đời này và đời sau… Mình có đứa em thỉnh thoảng gửi sách về sự sống, sự chết ..cho mình đọc. Lâu lâu, anh em hai đứa còn điện thọai cho nhau bàn chuyện đời. Chuyện về lòng tin. Tin về sự hiệp thông, trong đạo. Có dịp, mình sẽ có thư dài về chuyện này.” Nghe chuyện trên, bạn và ta chắc không khỏi nghĩ đến thân phận mình, mỏng dòn nên nhiều lúc cũng hết muốn phiếm. Nhưng có lúc lại càng cảm thấy nên Phiếm thật nhiều, Phiếm hết mình. Cho hết ý. Phiếm với tư cách người đang suy tư nhiều về Đạo. Đem Đạo vào đời khi mà ta còn chưa đi xa khỏi cuộc đời. Phiếm với tư cách người đang suy tư nhiều về Đạo. Phiếm về những người đang rời bỏ cuộc đời thường để vào sâu trong Đạo. Như nhóm đạo hữu Đức Ki-tô được gọi là The Mormon. Những người luôn sẵn sàng trong tư thế phiếm Đạo với người đời. Trên đường phố, nơi chỗ đông người ta thường thấy họ đi từng cặp hai người, cùng phái tính. Đi để gặp gỡ hết người này đến người kia giữa thanh thiên bạch nhật. Họ kêu gọi mọi người hãy dừng chân đứng lại, để họ có đôi lời trò chuyện và nói về Tin Mừng. Đó là những người theo giáo phái Mormon, mà có lẽ ít người biết rõ chủ đích của họ. Còn nhớ, đã có lần, để giải đáp những thắc mắc có liên quan đến những người thuộc giáo phái Mormon, đấng bậc vị vọng ở Úc là Lm Brian Lucas, đã có những giòng chảy về sử liệu của người thuộc giáo phái Mormon, như sau: “Những người Mormon, trước kia gọi là Giáo Hội Vào Những Ngày Cuối, đã lập thành giáo phái cho riêng mình vào năm 1830 tại Fayette, bang New York. Giáo phái này do sáng lập viên có tên là Joseph Smith đi tiên phong cho mình là ngôn sứ kinh điển, trụ trì ở Bắc Mỹ. Joseph Smith quả quyết là: năm 1827 ông tìm được bộ sách quan trọng của phái Mormon, viết bằng mẫu tự Ai Cập, nét vàng, hình chân rết. Rất quý. Theo nhãn giới của Joseph Smith, chỉ những người được ơn đặc biệt mới được mặc khải là người da đỏ ở Bắc Mỹ, chính là hậu duệ của người Do Thái xưa, từng đặt chân đến Bắc Mỹ, ngang qua eo biển Bering. Các vị chân truyền của giáo phái, cho rằng: sau ngày thăng thiên về Trời, Đức Ki-tô đã hiện đến với vị sáng lập ra giáo phái căn dặn ông phải thiết lập nên Hội thánh riêng của Ngài, ở vùng Tân Thế Giới. Năm 1844, sau khi Joseph Smith bị mưu sát, một trong những người theo chân ông, là Brigham Young đứng ra nhận lãnh trách nhiệm làm thủ lĩnh giáo phái này. Vị thủ lãnh lúc ấy đưa các thành viên trong Giáo Hội về sống tại thung lũng Salt Lake, nay là bang Utah. Ở đây, ông lập một khu vực theo lệnh của thần quyền có bộ máy hành chánh nghiêm nhặt và hiệu lực. Năm 1850, thủ lãnh Young được chỉ định làm Toàn quyền phần đất Utah. Khi đó, ông dám thách thức đối lại áp lực của Liên Bang đòi bác bỏ thực thi chế độ đa thê. Bản thân thủ lãnh Young có đến 27 người vợ và 56 người con. Nhưng đến năm 1890, Giáo Hội bài bác tập tục này, thể theo đòi hỏi của Quốc hội liên quan đến đề nghị biến Utah trở thành tiểu bang. Chủ thuyết của Giáo phái Mormon duy trì một vài tín lý không được Ki-tô hữu ngòai Giáo phái thừa nhận. Chẳng hạn như chuyện giáo phái này bảo rằng: Đức Chúa Cha trước đây là người như chúng ta, về sau tiến hóa trở thành Đức Chúa và hiện mang trong mình thân xác bằng xương bằng thịt như người thường. Giáo phái Mormon tin rằng, Đức Giê-su là người anh cả trong gia đình nhân loại biến thể trong tiến trình Thiên-Chúa-hóa và được Cha tạo dựng cùng lúc với Đấng Thánh Thần, có mẹ trên trời và được thụ thai theo thể lý từ Cha và một người mẹ dưới đất mà ra. Chủ thuyết của phái Mormon còn nói: có nhiều thần linh, nhiều Chúa và con người có thể trở nên thần nam và nữ trên Thiên quốc. Giáo phái Mormon có chủ trương rất nghiêm nhặt về mặt dục tính đạo đức, gia đình đông đúc và tôn trọng quyền bính. Phái này cấm ngặt việc sử dụng rượu, cà phê, trà và thuốc hút. Theo tầm nhìn của Giáo Hội Công Giáo, thì Giáo Hội Đức Ki-tô của Các Thánh Vào Ngày Sau Hết không được thừa nhận như Ki-tô giáo “chính thuần”. Dù ta cần quan niệm có sự quan tâm và tôn kính cách đặc biệt những ai duy trì niềm tin có xác tín, trên bình diện tín lý, thì cách biệt giữa người phái Mormon và Công Giáo chính tông quả thật lớn lao. Thật khó có cơ hội để đối thoại. Trên bình diện xã hội và luân lý vẫn có nhiều hy vọng cho một hợp tác hữu ích. Nói cho cùng, xét về tín lý và luân lý/đạo đức học thực tế, thì như thế. Nhưng xét khía cạnh hăng say truyền đạo, hoặc phiếm Đạo dài dài không biết mệt, đôi lúc phải công nhận rằng các người anh em ngoài luồng ấy, chịu luận phiếm không thua ai. Phiếm rất dài. Và rất nhuyễn. Chẳng cần biết người đối-diện có cùng một “băng tần” với mình hay không. Bà con nào ở Úc, từng kinh nghiệm tiếp xúc các chàng trai tuổi chừng mười chín, đôi mươi phiếm rất “cừ”. Và, một khi họ chịu phiếm Đạo với bạn, hãy nắm chắc là bạn sẽ chào thua. Đề tài, dù là Cựu Ước hay Tân Ước, bạn cũng ngả nón mà chào thua. Thậm chí, muốn rút dù đánh tháo, cũng đành phải thú thật với họ là: bọn tôi thuộc sắc tộc tối ngày chỉ “Khi-li-khi-tô” ăn nhậu; và, món nhậu toàn là tiết canh vịt, cháo huyết, vv … thì lúc ấy bạn mới được “cảm tạ” ơn Chúa, hẹn ngày khác sẽ gặp lại. Xem như thế, thì có: “Đi vào miền băng giá, đi hoài và đi mãi, rắc gieo tiếng cười vui…” ( Thành Tâm, Sĩ Tín – Vào đời ) thì vẫn là chuyện nên làm. Nên, là bởi Đức Chúa đâu cần mình “đi ra” hay “đi vào” miền nào, mà chỉ muốn con dân của Ngài, cứ “đi hoài và đi mãi”. Để reo rắc tiếng cười vui của Đạo vào chốn chợ đời. Ở đó, vẫn còn nhiều kẻ nghèo hèn, tất bạt ngay ở chốn thị thành chen lẫn giữa Đạo và đời. Và như thế, “vào đời’ là “vào” để mà tìm hiểu, bàn luận và phiếm. Phiếm về chuyện Đạo. Hoặc, những chuyện đời. Cả Đạo vào đời. Và để Đạo thấm vào đời để ta và người người được gần gũi và sống Đạo trong đời thường ở huyện. Trần Ngọc MườiHai, Có những lúc rất muốn phiếm cho dù không còn nhiều sức như xưa.
“Em, ngồi đây với anh trong cuộc đời này” (Yn 1: 10-12)
“Ngài có trong thế gian, và thế gian đã nhờ Ngài mà được có, mà thế gian không biết Ngài”
Như mọi người đều biết, có lần học giả Nguyễn Văn Vĩnh từng dõng dạc tuyên bố một câu “xanh rờn”, đại để bảo rằng: “Người Việt còn, thì tiếng Việt còn. Tiếng Việt còn, nước ta còn.”
Có người từng nói với bần đạo, là: khi tuyến bố câu để đời này, chắc học giả Nguyễn Văn Vĩnh đang công du nước ngoài hoặc là lúc nước ta đang bị ngọai bang đô hộ. Như thế, còn hiểu được. Chứ, đang ở trong nước, mà lại nói thế, thì khác nào bảo rằng dân con nhà mình nay đà mất gốc. Mất cả bản sắc văn hoá của tiền nhân!
Nói đến bản sắc văn hóa của tiền nhân hay của đất nước mình, tưởng đây cũng là chuyện mà nhiều người đang ưu tư, khắc khoải. Rất nên phiếm.
Luận phiếm về bản sắc văn hóa người mình, chí ít là với kiều bào sống ở nước ngoài, còn là chuyện: có nên hội nhập vào với xã hội người nước ngoài hay không? Xã hội, mà có một bạn đã hùng dũng: “Xin nhận nơi này làm quê hương, dẫu cho khó thương…”
Vâng. Bàn về du nhập và hội nhập, còn là bàn chuyện trong nhà, ngoài phố. Trong nhà Đạo. Ngoài phố chợ. Bàn chuyện phố xá vừa mới quen. Sống từ lâu ở nước ngoài, hay mới vừa di tản về vùng đất mới, các cụ nhà ta thường khuyên con bảo cháu: “Đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục.”
Nói đáo giang, thì từ ngày vượt biên, vượt biển quyết đặt chân đến “đệ tam quốc gia”, tìm cho mình một cuộc sống mới, người Việt chắc không còn chọn lựa nào khác để cứ đứng đó mà chờ khúc “giang đầu’ nào thật tốt mới chịu xuống thuyền. Mới chịu theo tắc-xi lên “cá lớn”. Nhưng, “nhập gia”, cho dù là đi “chui”, hay đi chính thức, du học, du lịch vv.. Nhất nhất, người thức thời đều bảo nhau “hãy tùy vào tập tục” của đất khách quê người mà mình nhận làm… quê hương.
Nói như thế, “hội nhập” vào gia đình mới, vào đất nước/xã hội mới.. đương nhiên là chuyện phải làm. Dù là ở đâu, nơi nào, ta cũng nên làm như thế. Làm, để không còn cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Hoặc, lẽo đẽo theo sau bước tiến của thời đại Nhưng, nên làm không có nghĩa là “dễ làm”, hoặc “cần làm cho nhanh”. Cho chóng. Bởi, rõ ràng là: nói nguyên tắc bao giờ cũng dễ hơn là đi vào thực hiện, trong tích cực. Và, thực hiện cho thành công cũng là cả một vấn đề. Vấn đề thời gian. Vấn đề kiên nhẫn. Chịu đựng.
Những ai từng trải, ngang qua nhiều kinh nghiệm xương máu, đều thấy rằng “hội nhập” vào quê hương mới, đòi hỏi một “chuyển hệ” rất ý tứ, và khéo léo. Bởi, đối với người Việt, định cư hội nhập vào các nước ở phương Tây, có thể có khó khăn như khi thực hiện một dung hòa giữa nước và lửa. Giữa âm/dương, trắng/đen. Thực tế không dễ như nói chuyện lý thuyết.
Không dễ, là bởi vì Đông Tây luôn có khác biệt. Và, là khác biệt một trời một vực. Khác về triết lý. Khác nhân sinh quan. Khác cả phong cách, lẫn hình thái xử sự. Như trong giao tế chẳng hạn, người phương Tây có thói quen: thương ai nói rõ ra ngoài. Còn, ở phương Đông, người người có thương nhau lắm cũng để trong bụng. Đâu có ôm hôn, hoặc bá cổ choàng vai nhau giữa thanh thiên bạch nhật, ở ngoài đường. Người phương Đông, khi biết ơn nhau hoặc khi phạm lỗi lầm gì với nhau, nhất là đối với con cháu, bậc dưới thì cũng chỉ xoa đầu xoa lưng vài cái, rồi thôi. Chứ, đâu có tỏ bày bằng miệng bằng lưỡi, nói lời “Sorry”,“Thank you”“Pardon”,“Merci bien!” đâu. Người nào nói ra điều đó, đã bị chỉnh là: “Sao Tây quá vậy?” Tôi đây, chỉ thuộc lọai “tây đui/tui đây” hoặc Tây Ninh Trảng Bàng, chứ đi đâu rời làng, bỏ quê đâu mà biết lỗi với phải (?)... Chính vì thế, với cương vị là “Việt kiều” nước ngoài, ta thường nghe mọi người nhắc đi nhắc lại rằng: Đông/Tây luôn xung khắc. Khó hoà hợp như chuyện xung khắc trong gia đình giữa ông bà cha mẹ - con cháu. Giữa hai văn hóa Việt-Âu. Chính vì thế, mỗi lần có chuyện không hay xảy đến từ một người thuộc giòng giống/sắc tộc đối lại với bản xứ phương Tây, ta bắt gặp những trường hợp được gọi là “kỳ thị”, là “phân biệt chủng tộc”…dễ như chơi. Lập trường và thái độ của cựu dân biểu Pauline Hanson ở Bắc Úc đối với người Á Châu, Hoa Kiều… là một chứng minh cụ thể. Thật khó hoà hợp, mỗi khi có sự cố, hiểu lầm giữa các sắc tộc với nhau.
Trong cung cách hòa hợp với xã hội mới, đất nước mới, vấn đề hội nhập bằng tín ngưỡng, đạo giáo, càng khúc mắc hơn. Đạo giáo ở đây, hiểu theo nghĩa cộng đoàn các kẻ tin vào cùng Đấng Tối Cao. Như Đạo Công Giáo, xưa nay vẫn được coi là Đạo “chung” của mọi người. Công là chung, giáo là Đạo, là tôn giáo.
Thành thử, vì là “Đạo chung” cho mọi người, nên người đi Đạo có là người gốc Ý, Tây Ban Nha, Hoa Kỳ hay Việt Nam, Phi… đi nữa, ai cũng đến nhà thờ, đọc kinh hoặc tham dự thánh lễ với nhau. Cùng sinh họat tỏ bày tình thương yêu đồng Đạo, với nhau. Cùng hội nhập vào Đạo, như Chúa đã hội nhập vào cộng đoàn kẻ tin, ngay từ đầu ngày lúc Ngài xuống thế làm người.
Hội nhập trong Đạo, như thánh Phao-lô từng khuyên, là: “Hãy vui với kẻ vui khóc với kẻ khóc. Cùng nhau tâm đồng ý hợp; đừng quá cao vọng về mình; trái lại hãy biết bỏ mình chuộng phần hèn kém; đừng có tự thị mình khôn…” (Rm 12: 15-16)
Và, lý do để mình nhận mình thuộc phận hèn kém, còn là: “Tự lượng lấy mình sao cho khiêm tốn mỗi người tùy theo lường đức tin Thiên Chúa đã phân phối cho. Vì cũng như thân mình ta Tuy nó là một, lại có nhiều chi thể, Và các chi thể không đồng một công việc Ta chỉ là một thân mình trong Đức Kitô.” (Rm 123-5)
Đi vào thực tế, hẳn mọi người đã rõ: lúc đầu định cư, vì có trở ngại về ngôn ngữ tập tục, nên mới nảy sinh cái-gọi-là: Ban Tuyên Úy, Cộng Đồng Người Việt Công Giáo. Và, ban ấy vẫn tồn tại đến ngày hôm nay, kể từ ngày bà con bôn ba hải ngoại, vì lý do hoặc hoàn cảnh nào đó. Ban Tuyên Úy và Cộng Đồng Người Việt Công Giáo, vẫn có sinh hoạt riêng. Sinh hoạt ngoài khuôn khổ của giáo xứ. Giáo phận.
Chuyện này cũng có điều hay, nỗi phiền. Nay, trên thực tế đã có nhiều linh mục chánh xứ gốc Việt, hy vọng bà con ta sẽ hội nhập thật sâu thật sát, với Giáo hội sở tại hơn. Sinh hoạt đồng loạt và liên kết hơn. Lúc ấy, Đạo mình mới mang ý nghĩa phổ cập. Công giáo hơn. Và lúc ấy, việc hội nhập mới trọn vẹn. Mới đúng như lời thánh Phao-lô nói: “Hy Lạp với người Hy Lạp, Do Thái với người Do Thái”.
Có một lần, đề cập chuyện này với bạn bè đồng Đạo, có người anh em đề nghị: Chuyện Giáo Hội, hãy để Chúa Thánh Thần soi sáng. Chỉ cần một điều: hãy tin vào Chúa quan phòng. Cứ phó mặc cho Chúa, mọi việc sẽ tốt đẹp thôi.
Đành rằng, phó thác, tin vào ơn Chúa Quan Phòng là chuyện phải làm, vào mọi lúc. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa, đóng góp tích tực, ta phải làm sao đây?
Câu hỏi dành cho người đọc, và người nghe. Vì người đọc và người nghe cũng là người hỏi. Để kế thúc, xin có một câu chuyện khôi hài về cặp người tình kẻ tin rất tín thác vào chúa Quan Phòng đến tận cuối đời mình. Đến cả vào lúc, một người bị bệnh Alzheimer, như sau:
“Trong buổi họp mặt cựu chiến binh dịp lễ Memorial Day của Hội Cựu Chiến Binh Mỹ, bàn tụi tôi rất ồn với đủ mọi vấn đề trên trời dưới đất, từ chuyện an sinh, hội nhập lẫn tiếu lâm xung quanh cuộc sống của người “Mỹ thầm lặng”. Đặc biệt là lớp tuổi nay phải đương đầu với chuyện nhà hưu dưỡng, tật bệnh, chí ít là bệnh Alzheimer… Hôm ấy kể chuyện về cặp vợ chồng già rất tin tưởng vào việc Chúa Quan Phòng hết mọi chuyện, Bác sĩ nói với người vợ: tôi thấy sức khoẻ của ông nhà độ này, đã khá hơn trước rất nhiều. Ông đã tìm được niềm vui nơi Thượng Đế. Tin tưởng nhiều vào việc Chúa Quan Phòng, và Chúa Thánh Thần soi sáng hết mọi chuyện, trong cả bước đi. Ông còn nói: đêm qua, khi vừa mở cửa phòng tắm để giải quyết vấn đề nhân sinh cho thông thoáng, thì Chúa biết ý đã bật đèn sáng cho ông ngay…
Nghe thấy thế, bà vợ ông liền ngắt lời Bác sĩ: Thôi chết rồi, Lạy Chúa tôi! Ỗng lại làm bậy vào tủ lạnh của tôi, mất rồi… Và mọi người nghe chuyện, đều nghĩ: Chúa có Quan Phòng thì Ngài cũng đâu làm những việc như thế…
Đúng thế, hội nhập vào đời sống mới, xã hội mới, Chúa vẫn dành để cho con người “tự do con cái Chúa”. Ngài đâu bao giờ xen vào “chuyện nội bộ” của riêng ai. Nhóm hội nào. Chí ít là, cả một tập thể như Cộng Đồng Công Giáo A, hay B.
Thành thử, Hội nhập hay Giáng nhập, vẫn luôn là vấn đề không của riêng ai. Một người, một tôn giáo đoàn thể nào. Nhưng là của tất cả mọi người. Những người có “tự do con cái Chúa”. Như bạn và tôi.
Trần Ngọc Mười Hai Vẫn nhắc nhở chính mình những điều như thế ấy.
Biết làm sao định nghĩa được tình yêu (Lc 20: 34)
Kể ra, thật cũng khó mà định nghĩa được tình yêu, cho nó phải. Khó là bởi, “khi đã yêu, thì cho rất nhiều”. Cho cả con tim. Cho hết bạc tiền. Cho trọn chữ nghĩa. Có định nghĩa được hay chăng, chỉ khi đương sự đang yêu, đã yêu hoặc bị những gì mà người trẻ gọi là “bò đá”, hoặc:“đi Tây”. Bò hay bồ, thì cũng vậy. Cũng như nhau.
Thế, hạnh phúc thì sao ? Có định nghĩa được không ? Trả lời câu hỏi này, cũng không khó cho lắm. Bởi, một khi bước vào cuộc đời, ai mà chẳng hơn một lần cảm nghiệm được cái-gọi-là-hạnh-phúc ấy. Và, khi cảm nghiệm được nỗi niềm sung sướng của cuộc đời rồi, thế nào cũng diễn tả được hạnh phúc. Chẳng thế mà, nhiều vị danh nhân khoa bảng đã làm công việc không-ăn-lương này. Dưới đây, là một vài trích dẫn rất cỏn con, về hạnh phúc:
* “Hạnh phúc là cộng thêm và nhân lên khi ta đem chia nó cho người khác.” (A.Nielson) * “Hạnh phúc như nụ hôn, muốn thưởng thức phải san sẻ cho người khác”(Bernard Melzer) * “Không phải sự giàu sang tạo nên hạnh phúc, mà là tĩnh lặng và việc làm.”(T. Jefferson) * “Hạnh phúc ta gặp là trên đường đi chứ không phải ở cuối con đường ấy.” (Sol Gordon) * “Hạnh phúc giữ trong tay chỉ là hạt, hạnh phúc mang san sẻ mới trổ hoa.” (E Hemingway) * “Cứ một phút hờn giận,buồn phiền làm ta mất đi 60 giây hạnh phúc.” (Ralph W Emerson) * “Nếu rượt đuổi hạnh phúc, ta không bao giờ gặp được chính nó.” (W. Wolfe) *”Dù hạnh phúc đôi khi ở bên cạnh, cũng đừng bao giờ quên hẳn nó.” (Jacques Prévert) …
Ấy, nói “định nghĩa hạnh phúc” cũng chỉ là nói thế. Chứ thật ra, hạnh phúc khó mà diễn tả được, bằng ngôn ngữ. Hoặc chữ viết. Mà, chỉ có thể cảm nhận qua cuộc sống. Với tâm tình. Cuộc sống và tâm tình, ta đặt tên cho nó là hạnh phúc theo quan niệm của các nhân sĩ đọc ở trên, còn biểu hiện rõ nét hơn, nơi cuộc sống lứa đôi. Cuộc sống, có những giây những phút ta cảm thấy là mình thích thú; hoặc sung sướng, chứ không thể lột tả cho hết được những điều thích thú, những nỗi niềm sung sướng ấy.
Có nhiều trường hợp, cuộc sống lứa đôi được coi là rất “hạnh phúc” kia, không thể kéo dài suốt một đời, như ta tưởng. Nhưng cũng giống như tình yêu, hạnh phúc vẫn có những giai đoạn thăng trầm, đầy trở ngại.
Thăng trầm và trở ngại của hạnh phúc lứa đôi trong cuộc sống nhà Đạo, vẫn là những kinh nghiệm mà nhiều người từng trải. Từng trải với nhiều kinh nghiệm, nhưng không phải là ai cũng có thể giải quyết êm đẹp. Hợp lẽ đạo.
Vừa qua, trên tờ The Catholic Weekly ở Sydney, một độc giả giấu tên, có thư về tuần báo xin được vấn kế/vấn nạn đấng bậc rất khả kính là Lm John Flader, như sau:
“Tôi có người bạn thân là Công Giáo. Khoảng 15 năm về trước, chị kết hôn với một tín đồ theo giáo phái Thệ Phản. Sùng đạo cũng không kém. Và suốt bao năm trời, chị không mấy sốt sắng trong việc thực thi niềm tin của mình, cho lắm. Nay, chị quay về với nhà thờ, muốn hăng say trở lại với các sinh hoạt như khi trước.Chị muốn điều chỉnh hôn nhân của vợ chồng chị, sao cho thích hợp, để chị có thể tham dự thánh lễ và rước Chúa như mọi người. Xin cho biết, có cách nào giúp chị làm việc ấy mà không bắt buộc chị quay về làm lại nghi thức hôn phối. Hoặc, phải đến với linh mục. Và, phải có ít là hai người làm chứng. Nhiêu khê quá. Hơn nữa, chồng chị thuộc vào loại cứng đầu. Anh không chịu tổ chức đám cưới lần nữa. Anh nói đã lấy nhau thật tình, sao cứ phải làm đám cưới một lần nữa cho mất công. Xin giải đáp giúp chị. Rất biết ơn.
Đã hỏi, mà lại hỏi ông cha hay ông cố, thì dù cố có là cố đạo hay cố vấn về luật Đạo đi nữa, thì cả cố lẫn cha sẽ phải lục lọi, và phán những luật và luật. Lê thê lắm. Tức, những gì các “cố” đã phán, đều sẽ đụng tới chữ “phải”, hết. Chữ nghĩa ngày nay không đơn giản, nhất là mỗi lần có ai đó muốn lập hành trình tìm kiếm những hạnh, và phúc. Rất tưng bừng. Và, câu trả lời được diễn tả như sau:
Trước hết, như trong thư chị có nói là bạn chị muốn điều chỉnh hôn phối cách sao đó, ngõ hầu có thể rước Chúa khi đi nhà thờ dự lễ. Đây là điều rất hệ trọng. Bởi lẽ, hôn nhân của chị ấy trong giáo hội Thệ Phản, không được Giáo hội Công giáo công nhận. Xem như thế, có thể nói được là chị ấy đang ở trong tình trạng “rối” (tức phạm luật) với một người mà chị đã kết hôn một cách không thành. Và vì thế, chị không đuợc phép rước lễ, mà ngôn từ bây giờ gọi là: Hiệp thông với Chúa.
Điều quan trọng cũng nên biết, là: nếu người nào Công giáo mà muốn kết hôn với người không-Công giáo tại nhà thờ không thuộc đạo Công giáo, vẫn được làm chuyện ấy, nếu có phép của vị Giám mục sở tại.
Lấy ví dụ: nếu người Công giáo kia là con trai hay con gái của một thừa tác viên trong Đạo cứ nằng nặc đòi phải cử hành lễ hôn phối, thì Giáo hội Công giáo thường vẫn cho phép những việc như thế.
Nếu đã được phép, thì hôn lễ được Hội thánh Công giáo công nhận là thành. Khi đã nói đến điều chỉnh hay hợp thức hóa hôn nhân là ta có ý nói một việc gì đó đã được thực hiện; và, hôn nhân của đôi vợ chồng ấy, được coi là đã thành theo nhãn quan của Hội thánh. Thật ra, có hai phương cách để thực hiện việc này:
Một, được đơn giản coi như việc “hợp thức hóa” để thành hiệu lực. Việc này, đòi hỏi đôi vợ chồng phải trao cho nhau sự đồng thuận một lần nữa, trước mặt vị linh mục và có hai người làm chứng. Nói cách khác, cặp này sẽ làm đám cưới lại, và lần này trong phạm vi khuôn khổ của Hội thánh.
Đôi vợ chồng ấy, có thể chọn làm đám cưới công khai như một buổi cử hành đám cưới đúng nghĩa; có nhiều quan khách đến dự; coi như phương cách diễn tả niềm vui của hai người được kết thành hôn phối, dưới nhãn quan của Chúa và cộng đồng giáo hội.
Hoặc giả, hai người cũng có thể chọn cử hành trong vòng thân mật kín đáo hơn, chỉ cần có linh mục và hai người làm chứng, và có thể có một nhóm bạn bè thôi, cũng được. Theo cách nào đi nữa, lúc ấy đám cưới của hai người, mới được coi là thành, kể từ ngày cử hành đám cưới mới đây, thôi. Cách thứ hai, để điều chỉnh hôn nhân được biết dưới cụm từ
“Có hiệu lực hồi tố”, và việc này không đòi phải có sự đồng thuận trao cho nhau.
Làm cách này, hai người chỉ việc đến với vị Linh mục của mình, xin “hiệu lực hóa” hôn nhân. Khi đến, nên mang theo giấy tờ cần thiết -như: chứng thư hôn phối của đám cưới gốc, giấy rửa tội của hai người, vv..- và Linh mục sẽ chuyển giấy tờ này lên Đức Giám mục địa phận. Và lúc ấy, Đức Giám mục mới ban hành quyết định; hiệu lực hóa hôn nhân.
Làm như thế, hôn nhân của hai người này, mới được coi là có hiệu lực theo luật của Hội thánh, kể từ ngày đầu tiên đã làm đám cưới chưa có phép hợp thức.
Về hiệu lực hồi tố, hai vợ chồng dĩ nhiên vẫn tiếp tục đồng ý kết hôn với nhau, mặc dù họ không cần phải bày tỏ công khai sự đồng thuận này.Hình thức hiệu lực hóa hôn nhân như thế, có thể được cho phép ngay cả khi một bên không-là-Công-giáo, không am tường chuyện ấy. Đặc biệt nên khuyến khích làm như thế, chí ít là khi một trong hai người từ chối không trao cho nhau sự đồng thuận, vào buổi cử hành hôn lễ.
Về trường hợp chị nêu ra ở trên, là cuộc hôn nhân giữa người Công Giáo và người kia không-Công giáo, muốn cho “hôn nhân đa tôn giáo” thành hiệu lực, cũng phải có phép đặc biệt mới được. Trong trường hợp này, một số điều kiện cần được áp dụng. Phải đảm bảo là: không có gì nguy hiểm cho niềm tin của người theo Đạo Công giáo. Bởi, với tư cách Công giáo, ta hứa dùng quyền của người chồng hoặc vợ, chấp nhận sẽ rửa tội và giáo dục con cái theo nghi thức Công giáo. Và, người phối ngẫu nào không theo đạo Công giáo, đều phải am tường các bổn phận mà người Công giáo noi theo.
Vẫn biết, với hôn nhân đầu, đôi vợ chồng hoàn toàn có tự do tiến tới hôn nhân. Điều này có nghĩa, là: không người nào ở cả hai bên, đã từng tiến hành một đám cưới nào, trước đó.
Giả như, một trong hai người khi trước đã có kết hôn với người khác rồi, sau đó ly dị, thì người ấy cần có giấy quyết định hủy bỏ hôn nhân cũ, tức đám cưới trước. Giấy này do tòa án giáo luật cung cấp. Có như thế, đám cưới của hai người này mới thành. Mới có hiệu lực.
Kết hôn với người bên ngoài Đạo, có hiệu lực không? đó vẫn là thắc mắc của nhiều người. Của thời đại. Vấn đề, là vấn đề đối với giáo luật. Với đời sống xứng hợp với Đạo giáo. Cứ hỏi nhau về luật, dù luật đời hay Đạo, là phải trả lời như thế. Nhưng trên thực tế, ta có nên uyển chuyển và thông thoáng về vấn đề này không?
Trở về với chủ đề buổi phiếm hôm nay, có lẽ bạn cũng như bần đạo sẽ thấy khó hơn khi đặt thêm câu hỏi: biết làm sao định nghĩa được tình yêu …giữa những người nhà Đạo? Nhưng, có khó hơn chăng nếu có ai đó hỏi rằng: còn hạnh phúc giữa các người đi Đạo, thì sao?
Có lẽ, nên mượn ý của nhân sĩ nào đó có tên là Ziggy để trả lời, như sau: “Bạn có thể phàn nàn rằng:hoa hồng đẹp thật, nhưng lại có gai; hoặc bạn cứ thế mà hân hoan, vì trên cành gai kia sao lại có những bông hồng tuyệt đẹp như thế nhỉ?”. Hoặc, cũng nên chọn định nghĩa của văn hào Victor Hugo về Hạnh phúc cuộc đời, dù đời ấy có là đời độc thân; hoặc, lấy vợ lấy chồng dù người phối ngẫu phía bên kia có là người đi Đạo hoặc không, vẫn cứ nói: “Hạnh phúc tuyệt đỉnh của cuộc đời là xác tín rằng ta được yêu thương”.
Trần Ngọc Mười Hai chẳng thích định nghĩa nào cho bằng sống trước đã, định nghĩa sau.
Ước vọng - Dục vọng – Hy vọng (1Cr 7: 1-29)
Có một dạo, hồi thập niên ’80 ở quê nhà, người dân thành thị cứ lao xao, kháo láo với nhau về cái gọi là “séc” nặng với “séc” nhẹ. Kẻ bàng quan, chẳng hiểu “séc” với “xiếc” là trò gì mà sao người người cứ ùn ùn rủ nhau đi xem, nhiều đến thế. Hỏi ra, mới biết đó là những cuốn băng hình phơi bày lồ lộ các động thái thời ban sơ của đám người gọi là “lớp nghèo thành thị”. Nghèo ở đây, không theo nghĩa thông thường (tội nghiệp cho người nghèo đích thật!), mà theo nghĩa hiện sinh triết học nào đó. Nghĩa là, trên người các “chủ thể” đóng phim chẳng có đến mảnh vải che thân.
Trong sống đời thực tế, nói đến “sex” là nói đến cái “dục” căn bản mà các triết gia -đứng đầu là Sigmund Freud- gọi là “Libido”, vốn nằm im ắng nơi con người, tự thuở nào. Với nhà Phật, “dục” không chỉ bao hàm khía cạnh thể xác với những khát vọng nhục thể, thôi; nhưng, còn hàm ngụ ham muốn, khát vọng tự bên trong con người, mà nhà Phật gọi là tham, sân si. Tức, xu hướng thèm muốn vật chất xác thịt, cả những ghen tị, giận hờn cùng đam mê dục tính. Nhất nhất, chẳng giúp con người đạt đến chốn Niết Bàn, rất sắc sắc không không.
Với các tâm lý gia cùng quan điểm, thật khó mà diệt được “Libido”. Bởi, ngay từ đầu, thoạt khi em bé rời cung lòng người mẹ, “Libido” vẫn gắn liền với bản thân con người. Libido, thể hiện ra bên ngoài, theo từng đợt tuổi. Ở thời thơ ấu, “dục” (libido) của trẻ được thể hiện qua tật mút tay, bú bẩm. Lớn lên, trẻ đi vào giai đoạn gọi là thời kỳ “cửa hậu”, rồi đến giai đoạn khóai cảm ở bộ phận sinh sản. Tiếp sau đó, là giai đoạn xác khoái mà người thanh nam thanh nữ đi vào quan hệ dục tính. Xem như thế, “Dục” đã vào với thân phận con người từ bé đến lớn, có lúc đạt giai đoạn mà sư tổ ngành phân-tâm-học gọi là mặc cảm Oedipe; dựa trên câu truyện thần thoại Hy Lạp dùng làm nền cho chủ thuyết Duy Dục của ông.
Để diễn tả những gì có liên quan đến “dục”, mỗi triết gia tâm lý, mỗi sắc tộc dân gian, mỗi địa phương tập tục đều thể hiện những hình thái bày tỏ rất khác biệt. Tựu trung, người nào, thời nào cũng đều công nhận: “Dục” (libido) đã thẩm nhập con người từ khoảnh khắc nào đó, trong cuộc đời. Nó luẩn quẩn lấn cấn mọi người, trong suốt một thời để sống và một thời để khoái cảm. Kịp đến khi, người người thấy thân xác không còn đeo đuổi cuộc sống của mình nữa, thì cái “dục” quỉ quái kia, mới thôi không còn bận lòng chủ nhân ông nữa.
Với nhà Đạo, cộng đồng dân Chúa cũng có kinh nghiệm sống về cái gọi là “dục”. Trong chương 5 và 6 ở thư thứ nhất gửi giáo đoàn Corinthô, thánh Phaolô đã đề cập đến một số hành vi được con dân trong cộng đồng biên thư báo cáo với thánh nhân. Hành vi được kể lại, là các động thái mang tính cách rất “dục”, đưa đến tranh cãi/kiện tụng.
Vừa qua, trong loạt bài học hỏi Kinh thánh đăng trên The Catholic Weekly, Lm M Kenney có lời bình như sau:
“Thánh Phaolô viết đoạn thư này là để giải thích cho dân thành Côrinthô hiểu. Họ thường bối rối lẫn lộn vì một số người đã và đang sống trong tình trạng vô luân, nhiều lòng “dục”. Thánh nhân nói: hành vi của người nhà Đạo phải phản ánh những gì Hội thánh quyết tâm thực hiện. Ta chỉ nên làm những gì được Chúa Thánh Linh soi sáng, mà thôi. Mọi hành vi xuất tự mỗi cá thể đều liên hệ đến nhiều người khác. Trước nhất, là các kẻ tin vào Đức Kitô. Thứ đến, hành vi nào cũng đều là chứng tá trước mặt người ngoài Đạo, ở Côrinthô.
Thánh Phaolô rất lo, khi hay biết rằng đồng Đạo ở Côrinthô đã đưa nhau ra tòa về những tranh tụng, đủ loại. Tranh tụng và cãi vã có nhẹ nhàng cách mấy cũng cho thấy dân con thành Côrinthô chưa trung thực với ơn kêu gọi của Kitô hữu. Bởi khi đã quyết tâm, dân con cùng Đạo dù bất bình cũng không nên đem nhau ra tòa mà kiện nhau như thế.
Nói về các xích mích ở trên xong, thánh Phaolô bèn trả lời các vấn nạn cộng đoàn nêu ra. Trước tiên, là chuyện hôn nhân. Ở đây, ta biết được thắc mắc của dân thành Côrinthô, là nhờ câu trích: “Với người nam, chuyện không sờ soạng đụng chạm vào người phụ nữ là điều tốt.” (1Cr 7: 1)
Điều này có nghĩa: lâu nay, người dân thành Côrinthô tin vào Đức Kitô vẫn chọn lối sống độc thân, thanh bạch. Họ đặt tầm mức linh thiêng, thanh sạch cao hơn những gì mang tính dục vọng, xác thịt. Chính vì thế, họ nghĩ rằng: ngay đến hôn nhân chính đáng cũng không nên có chỗ đứng trong Vương quốc của Đức Chúa, nữa.
Dù đã chọn sống đời độc thân, Phaolô không muốn ép buộc ai cũng phải sống như mình. Điều này, quả không thực tế chút nào. Trước hết, thánh Phaolô nói: ai không chịu nổi các đòi hỏi của dục vọng, thì để tránh chuyện dâm dật, tốt hơn hãy nên thành vợ thành chồng.
Tiếp đến, thánh nhân nói về trường hợp: nếu một trong hai người thuộc cặp vợ chồng nào đi nữa là người ngoài Đạo, mà người ấy chịu ở với người phối ngẫu chăm giữ Đạo Chúa, thì tốt hơn cả hãy ở với nhau như thế. Bởi, dù có khác biệt về Đạo, cả hai vẫn được Chúa chúc lành.
Viết cho cộng đoàn Côrinthô, thánh Phaolô hiểu rằng: vào thời ấy mọi kẻ tin đều nghĩ rằng Đức Chúa Phục Sinh sẽ quay trở lại trong một thời gian rất ngắn, để ở với thế gian. Có tín hữu còn tin là Chúa sẽ quang lâm vào thời họ đang sống.
Và, để chuẩn bị đón Chúa Quang Lâm, tốt hơn nên giữ đời độc thân, thanh sạch. Có nguời còn đi xa hơn, dám nghĩ rằng: người dù đã có gia đình, vẫn nên bỏ nhau để có thể đón Chúa trở về, với lòng thanh bạch. Chính vì thế, thánh Phaolô mới khẳng định, là: hành động như thế không là chuyện cần thiết, nên làm:
“Dầu sao, mỗi người như Thiên Chúa đã phân định cho mình, mỗi người như Thiên Chúa đã kêu gọi (dù ở hoàn cảnh nào đi nữa), hãy cứ sống như vậy.”(1 Cr 7: 17)
Hãy cứ sống như vậy, tức là: cứ ở theo tình trạng phối ngẫu của mình -nghĩa là độc thân hoặc yên bề gia thất- như vào ngày mình chịu thanh tẩy. Để hiểu rõ hơn lời khuyên trên, có lẽ cũng nên đọc lại quả quyết của thánh Phaolô ở đầu thư, khi thánh nhân đã quả quyết rất chắc nịch, rằng: Nếu ai ở độc thân như tôi, thì phúc cho họ. Nhược bằng họ không tiết dục được, thì hãy kết hôn. Vì, thà kết hôn còn hơn là bị thiêu đốt (vì lòng dục)” (1Cr 7: 8-9)
Với các thánh trong Đạo, “dục” (libido) vẫn là cái mà mọi người cần phải xa lánh, tiết chế. Không tiết chế hoặc diệt được nó, cũng phải tìm cách làm ngơ hoặc chọn giải pháp chính đáng khác, như sống đời hôn nhân chẳng hạn. Để giải quyết vấn đề, nên nhớ đến lời ông Môsê trong Cựu Ước:
“Hãy bảo toàn thể cộng đồng con cái Israel và nói với chúng: Hãy là thánh, vì Ta là thánh; Ta, Yavê, Thiên Chúa của các ngươi.” (Lv 19:2)
Là thành viên cộng đồng dân Chúa, tức đã là thánh, hiểu theo nghĩa nào đó. Nhưng, vẫn không thể hoàn toàn là thánh thiện, nếu không tuân thủ lời khuyên, lẽ dẫn giải của các thánh nhân. Đặc biệt hơn, chính Lời của Đức Kitô sau khi Ngài minh định: “Có những người yêm hoạn bởi mình làm cho mình thành yêm hoạn, vì Nước Trời. (Mt 19: 12)
Nói cho cùng, để sống hài hoà không bị “dục” (libido) quá thúc bách, cũng nên nghe theo lời khuyên Kinh thánh: “Hãy sống như trẻ nhỏ, vì Nước Trời thuộc về những người như thế.” (Mt 19: 13-14)
Sống như trẻ nhỏ, là biết nghe Lời Chúa: sống thanh sạch chẳng thiết tha gì đến dục vọng, hay dục tình. Dù, vẫn trải qua các giai đoạn của đời người, đầy dục tính. Dù, vẫn có hạnh phúc khoái cảm của người mang thân xác, rất bình thường. Sống như trẻ nhỏ, còn là sống không tha thiết đến nhục, cũng như dục. Không đầy dẫy dục vọng, nhưng vẫn có ước vọng và hy vọng. Hy vọng rất thanh cao. Ước vọng rất trong sáng.
Trần Ngọc Mười Hai vẫn cứ băn khoăn về cách sống như trẻ nhỏ có nhục thể, nhưng không dục.
Em có nghe chăng một dặn dò (Mt 15:10)
Bắt đầu, là một câu chuyện rất… thật. Chuyện tử tế của một vị rất ư là tử tế. Chuyện do một thừa tác viên kẻ liệt người Úc có tên là Gerard Bulkfin. Là tu sĩ thuộc dòng thánh Patrick có nhiều kinh nghiệm về mục vụ cho người đau ốm. Hôm ấy, ông ghi lại một phản ứng của người bệnh nọ ở bệnh viện Westmead, Sydney như sau:
“Mỗi lần có chuyện không hay xẩy đến với người tử tế tốt bụng, dường như có một điều dễ nhận ra, là: phần đông những người này thường tỏ ra phẫn nộ, đôi khi còn kèm theo động tác có hại cho sức khoẻ nữa. Ví dụ mà tôi rút được từ bệnh nhân cao niên nọ khi cụ gặp sự cố xảy đến với chính cụ. Bao giờ cũng thế, mỗi khi cảm thấy cơn đau dằn vặt, người bệnh dễ trở nên giận dỗi. Chuyện này cũng dể cảm thông, thôi. Nhưng, ta phải làm một việc gì để giải quyết cơn giận hàm hồ ấy chứ. Sau đây là câu chuyện giận dữ mà tôi gặp ở một cụ cao niên đang lâm bệnh, ở Sydney: Lâu nay, tôi vẫn sống một đời lành mạnh. Lấy vợ tròm trèm chỉ mới 59 năm. Gầy dựng được một gia đình tương đối không đến nỗi tồi. Thế mà, không biết tại sao Chúa nỡ trừng phạt lại để cho tôi ra như thế này? Đấy! Cứ nhìn mà xem. Biết bao người khác, họ sống ở đầu đường xó chợ, chuyên giựt giọc, giết người cướp của, hãm hại dân lành, thế mà họ có hề hấn gì đâu. Trong khi tôi đây, chưa một lần phạm lỗi ngỗ nghịch 10 điều răn Đức Chúa Trời cùng sáu điều răn hội thánh, thế mà… thế mà tôi vẫn như thế này.”
Vâng. Đó là một ví dụ về sự giận dữ. Giận dữ không chỉ với người đời mà thôi. Nhưng, còn giận cả Đức Chúa nữa. Để đối đầu với những điều gọi là “sự dữ” thường xẩy đến với bạn bè, người thân hoặc với chính mình, tưởng cũng nên tạo sự bình tĩnh tối thiểu. Bình tĩnh trước, rồi sau đó mở rộng đôi tai ra mà lắng nghe và cảm nhận. Cảm nhận, sau khi đã nghe những quả quyết lẫn khẳng định từ Đức Chúa, về hiến chương Nước Trời. Hiến chương duy trì tình thương và hạnh phúc cho muôn dân. Cho mọi người. Kể cả những người cảm nghiệm “sự dữ” đang xảy đến với chính mình. Với muôn người:
“Phúc cho những kẻ ưu phiền, vì họ sẽ được an ủi.” (Mt 5: 5)
Ưu phiền là một khổ đau. Khổ đau, là vì phải giáp mặt với sự dữ/ác thần. Với cái “họa” gửi đến cho nhân gian, nơi trần thế. Thừa tác viên nói ở trên đã đặt vấn đề là: làm sao để đối xử tử tế với những người vốn rất tử tế, nhưng đang trong cơn giận rất dữ? Giận, cả người thương yêu mình. Dữ, cả với Đức Chúa. Để đáp ứng trường hợp kể trên, một trong những đề nghị tuy không dễ, nhưng có thể thực hiện được trong cấp thời, là: tư thế lắng tai nghe. Lắng tai, không chỉ để nghe mà thôi. Nhưng, còn để cảm nhận được rằng: ngay đau khổ, cực hình có khi cũng lại là ân huệ, Chúa tặng ban. Ân huệ, là để cùng người nổi giận sẽ đồng thuyền, đồng cảnh ngộ với Đức Chúa. Chí ít, trong Mùa Chay đòi nhiều sám hối, hôm nay. Về thái độ “lắng tai nghe”, mở Tin Mừng nhất lãm ra mà truy cứu, người người sẽ bắt gặp những câu, những đoạn rất ngắn gọn, nhưng mang nhiều ý nghĩa cho những quyết tâm thực hiện:
“Ai có tai thì hãy nghe”.(Mt 13: 9), hoặc: “Hãy nghe mà hiểu lấy”. (Mt 15: 10; Lc 14: 33) Thật ra, có tai để nghe thì ai mà chẳng có. Ngoại trừ các cụ bị câm điếc, tật nguyền từ lúc bẩm sinh. Còn thì, bước vào cuộc đời, người người đều có đôi tai rất quý để nghe, để biết. Duy có điều, là mọi người có tai thật đó, nhưng muốn nghe hay không, hoặc có để ý nghe hay không, lại là chuyện khác. Về chuyện muốn nghe không và/hoặc có để ý nghe không, Tin Mừng từng đề nghị người nghe, người đọc hãy “trở nên như con trẻ”. Vì, Nước Trời thuộc về chúng. Trở nên như con trẻ, tức là biết nghe và chịu nghe như trẻ con. Gần đây, nhiều nhà tâm lý cho biết: ngay khi lọt lòng mẹ, trẻ thơ cũng đã biết nghe và học được cách lắng tai nghe. Các em bé học nghe, không chỉ bằng đôi tai của mình mà thôi; nhưng, còn bằng mắt, bằng mũi và các quan năng khác. Làm cha làm mẹ, còn gì thích thú bằng lúc nghe con cái mình, tuổi còn nhỏ, nhưng đã biết nói những câu, như: “Ôi chao mẹ ôi, sao mẹ làm món gì mà con nghe mùi thơm quá chừng chừng vậy?”.. Có đề nghị rằng bất cứ trường hợp nào, khi lắng tai để nghe, cũng nên để lòng mình chùng xuống . Bỏ hết ý kiến riêng lẻ, bỏ mọi tâm tình đơn độc hoặc cá biệt đi, để nghe và đón nhận ý kiến người khác. Khác phe. Khác phái. Dù, ý kiến ấy rất khác, rất nghịch với ý kiến của riêng mình. Và, thường thì các ý kiến của người khác chẳng thua chẳng kém ý kiến của mình, bao giờ. Khoa học kỹ thuật lâu nay đang ra sức nghiên cứu các đặc thù của quan năng lịch duyệt và quý phái này, tức nghe và nhìn. Lúc thì người người đặt nặng vào thị giác, lúc thính giác. Nhưng thử hỏi, mấy ai để công nghiên cứu thái độ biết nghe lời dặn dò của Đức Chúa, trong Phúc Âm? Nghiên cứu, để khích lệ mọi người có thái độ biết nghe. Nghiên cứu, để đón nhận nhiểu điều hay lẽ phải từ lời dặn: Hãy nghe và hiểu lấy. Còn nhớ, trong Tin Mừng của Chúa, có những lời dặn dò rất vàng ngọc Đức Kitô gửi đến vào những khi ta phải đối đầu chạm mặt với các đôi tai chai đá, hoặc thái độ lạnh lùng của những người từng nghe Ngài giảng dạy về Vương Quốc Nước Trời, như:
“Hễ ai không đón nhận và nghe lời các ngươi, hãy ra khỏi nhà hay thành ấy và rũ bụi khỏi chân mà đi.” (Mt 10: 14)
Xem như thế, Đức Chúa chú trọng nhiều đến việc nghe, hơn là nói. Mặc dù, ta gặp rất nhiều đoạn trong đó đề cập: một điều Chúa phán thế này, hai điều Chúa căn dặn thế kia. Ngoài ra, khi xuống thế mặc lấy thân phận làm người, Đức Kitô cũng mặc lấy cho mình cái quan năng lịch duyệt là “nghe” kia. Ngài “nghe” rất nhiều. Nghe, để biết con người nghĩ gì? làm gì? xử sự ra sao?... Chính vì đã nghe và biết nghe, Đức Kitô vui lòng chấp nhận thánh lệnh của Cha. Vui nhận, thân phận làm con ông Yuse và bà Maria, rất bình thường. Vui nhận mọi khổ đau, nhục hình do các người con của những con người không biết nghe và chẳng muốn nghe lời Thiên Chúa phán dạy. Nghe là điều cần thiết và thích hợp hơn “nói”. Hãy cứ nghe đi, tự khắc Đức Chúa sẽ chỉ định cho mình phải nói gì, làm gì. Huyền sử về những người công chính trong Cựu Ước lẫn Tân Ước là những ví dụ rất cụ thể về tầm quan trọng của việc “nghe” và lắng nghe, để hiểu. Tỉ như: *Với Saul: “Lạy Yavê, xin Người hãy phán, đây tôi tớ Người đang nghe.” Sm I 3: 9)
*Về Abraham: “Mọi điều Sara nói với người ngươi hãy nghe theo.” (Kn 21: 12)
*Riêng thánh Phaolô trong Tân Ước, thường kêu gọi: “Thưa đồng bào Israel, thưa các vị kính sợ Thiên Chúa, xin hãy lắng nghe.” (Cv 13: 16).
Khi xưa, triều đại nào cũng có các quân sư cho Vua quan, Chúa sãi, Hoàng hậu. Họ làm cố vấn kinh tế, chính trị giỏi dang nhiều bề, nhưng các vị quân sư vẫn một mực để tai nghe nhiều hơn “phán”. Tất cả đều chú ý nghe, xem ý kiến của Bề Trên/Cấp Trên của mình trước đã, sau đó mới đề xuất ý kiến nào thỏa đáng, phù hợp với tình thế lúc đó.
Ngày nay, với cuộc cách mạng truyền hình/tin học, chừng như người người chú trọng nhiều đến khía cạnh xem và nói nhiều hơn là nghe và tìm.Nói cách khác, giới trẻ ngày nay dường như mất dần khả năng nghe cho chính xác và thỏa đáng, cho thích hợp vì họ cứ mải mê tiếp xúc với những ảnh hình biến đổi. Với các loại âm nhạc ồn ào kích động. Những bộ phim tập, ảnh hình đầy bạo lực, chết choc, trong đó: cái hay cũng như nét đẹp tinh tế của người đời và đời người không được đề cao vận dụng, cho đúng mức.
Dầu sao đi nữa, nếu muốn, con người vẫn có thể trau dồi khả năng cũng như thái độ “biết lắng nghe” của mình. Bởi, lắng tai nghe, là kỹ năng Thiên Chúa đã phú ban cho con người thuộc mọi lứa tuổi. Ở mọi thời. Nghe, là cách thế biết để lòng mình lắng đọng. Biết tạo cho cái tâm của mình được tịnh. Và, quan trọng nhất, là: biết rằng mình cần nghe nhiều, học nhiều nơi người khác. Vì, mình đã có tai để nghe và biết lắng nghe. Có vui vẻ biết nghe và muốn nghe như thế mới không quên lãng lời Cha dặn dò.
Trong xã hội sôi động vì phải tiếp xúc với đủ mọi thành phần chính kiến cũng như tính tình, lắng tai nghe vẫn không là chuyễn dễ làm. Cũng không hẳn là chuyện thường tình vẫn xảy ra hằng ngày, với mọi người. Với xã hội văn minh đương đại, vấn đề có thì giờ bỏ ra cho tâm mình nó tịnh để lắng tai nghe, thật rất hiếm. Thời gian, ta vẫn có, nhưng đã mấy ai biết và chịu để cho lòng mình lắng xuống mà tịnh tâm. Và, lắng tai nghe lương tâm mình đang nói. Chí ít, là đón nhận tiếng nói của Thiên Chúa qua trung gian của người khác. Dù, người ấy có là đồng Đạo, đồng hội thuyền đồng thuyền hay nghịch chống, với mình.
Trong chuyến công du về miền Tây nước Úc, có bạn đi về kể lại là: anh được hân hạnh tiếp xúc với một nhóm thiền học Vô Vi. Quan sát phong cách và thái độ đối xử của người trong nhóm với nhau, anh nhận ra được bầu khí thân thương/ hòa nhịp của các thành viên lớn bé. Chừng như có một động lực tiềm ẩn nào đó gây phấn chấn cho mọi người, khiến các thành viên trong nhóm đã sống và ứng xử với nhau, hơn hẳn bạn thân. Tựa người ruột thịt, cùng nhà. Kể lại chuyện này, không phải để khơi dậy một luận bàn tranh cãi bất kể thuộc hình thái nào. Nhưng, người kể chỉ muốn truyền đạt một kinh nghiệm rất khác người và khác mình,để tìm hiểu xem tại sao những người mà mình cho là vô thần, khác Đạo, suy nghĩ ra sao? Họ biết lắng nghe nhau, như thế nào? Và, cuối cùng, họ có nghe lời dặn dò nhắn nhủ của Đấng Bề Trên hay không mà sao sống hài hòa như thế?… Cuối cùng, người kể lại cũng nhận ra rằng: một cách nào đó, những người “ngoài Đạo” kia ,chẳng ai bảo ai, đã thực hiện được lời nhắn nhủ của Đức Chúa, rằng: “Ai có tai hãy nghe!”. Bởi, khi nhập thiền, vô tịnh theo cách thức riêng tư của mỗi người, các vị này đã nghe được lời mời gọi của thiên nhiên, vũ trụ. Của vị Chúa tể càn khôn. Lời mời gọi ấy nhẹ nhàng nhưng cấp bách: “Hãy lắng nghe…”, “nghe hơn là nói”… trong tư thế rất “thiền”. Một tâm trạng, mà chắc các bạn đang đọc hàng chữ này, công nhận là: người “ngoài Đạo” cũng biết để lòng mình lắng đọng, mà dọn chỗ cho Ơn Trên, đến với mình. Chuyện kể ở trên, chắc cũng khiến cho các bạn đọc hàng này, đang nghe được tiếng nói ở đâu đó, có lời ca mời mọc trong bài ca rất Đạo do người viết nhạc có tên là Nguyễn Duy, viết như sau: “Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài dạy con trong cuộc sống. Xin cho con biết lắng nghe Lời Ngài từng theo bước đời con…
Vậy thì, một lần nữa, xin được chuyển đến bạn bè gần xa lời dặn dò khi xưa trên đồi vắng hay nơi phố chợ ồn ào: Ai có tai thì hãy nghe… mà hiểu lấy.
Có nghe, thì mới hiểu. Có nghe, mới biết được rằng: Chúa thương ta, vẫn cứ dặn dò:
Ngày ấy, Chúa cất tiếng gọi khắp nơi. Ngày ấy, đến với Chúa đi vào đời. Ngài muốn hết thế giới được lắng nghe loan Tin vui cùng nắm tay chung xây trời đất mới. (Thành Tâm – Sĩ Tín –Vào đời)
Vâng, chính thế. Chúng ta có tai để nghe, hãy lắng nghe tiếng Chúa gọi để đi vào đời loan Tin Vui và cùng dựng xây trời mới đất mới. Vì, ở nơi đó vẫn có tình yêu thương. Ở nơi đó, có ơn cứu độ của Đức Chúa vẫn gửi đến với mỗi người và mọi người.
Trần Ngọc Mười Hai với ao ước vẫn được nghe Tin Vui An Bình vào Mùa Chay 2007
“Anh đi về dấu giáo đường, cho cuộc tình bay cao”
Nhập bàn chuyện phiếm hôm nay, bần đạo xin kể cho bạn, là người đang đọc những giòng chảy suy tư này, câu truyện có liên quan đến bản thân và nhiều người như sau. Hôm ấy, chỉ vỏn vẹn còn đúng 3 ngày là bần đạo sẽ chấm dứt công việc lâu nay mình vẫn làm. Làm cho chính phủ. Cho người khác. Vào giây phút đang lâng lâng thèm ngủ và nghỉ, một đồng nghiệp từ lầu dưới điện lên hỏi:
“Này bạn hiền, trước khi bạn ra đi lên đường hồi hưu, bạn muốn thứ gì để bọn này mua tặng ?” Nghe hỏi thế, bần đạo đã thấy vui, nhưng cũng kịp nén cho lòng mình trùng xuống, rồi trả lời: “Tớ nay có đủ mọi thứ, chỉ thiếu mỗi nụ cười, và lời tạ từ thân thương của các bồ thôi. Đừng mua gì cho tớ hết. Coi chừng làm um xùm quá, tớ sẽ “biến mất” cho coi, hỡi cô bé, người đồng nghiệp”.
Quả thật lúc ấy, bần đạo chẳng muốn gì, chỉ muốn bắt chước nghêu ngao như ban The Beatles, vẫn thường hát, dạo nào: Này bạn hỡi, hãy nói lời chào mừng, đừng nói tạ từ làm chi.. (“Hello, hello ! Just say hello, don’t say good-bye”) Quả là như thế. Một khi bạn đã quyết chí về hưu. Quyết rời và bỏ công việc lâu nay mình làm lụng, dứt khoát không còn bận tâm nuôi phần thể xác nữa, thì hẳn sẽ giống như bần đạo, chỉ muốn ”về dấu giáo đường, cho cuộc tình bay cao mà lòng vẫn xôn xao”, mà thôi. Cuộc tình ấy, hẳn là bạn và tôi đã hơn một lần bắt gặp khi nghe lời nhắn nhủ thân thương dạo nào, nhưng vẫn quên. Quên, vì cứ mải miết những làm và lụng. Quên, vì sợ vẫn mãi làm thinh. Nay, vào những ngày cuối trước khi ra về “với giáo đường”, bần đệ lại nhớ đến lời dặn dò hôm trước, từ cuộc tình dâng cao:
“Các anh hãy ra đi, rảo qua các làng mạc loan báo Tin Mừng và chữa bệnh khắp nơi.” (Lc 9, 6).
Và nhất là, lời dặn dò như thế này:
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; như Thầy đã yêu thương anh em. Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau." (Ga 13, 34 – 35)
Xem như thế, “ra đi” loan báo Tin Vui An Bình, là tỏ cho mọi người biết chúng mình yêu thương nhau. Thế nhưng, trong quá trình sống đời cộng đoàn, dù là cộng đoàn đi làm hay cộng đoàn tình thương đi Đạo, vẫn thấy xảy ra các vấn đề chung đụng và va chạm. Chí ít, là cộng đoàn gia đình, tình thân, cũng thế. Có những lúc, bạn và tôi, thấy mình bị tổn thương, vì những lời lẽ có tính xúc phạm. Những trò “chọc quê” xuất phát từ người trong cuộc. Thật ra, cộng đoàn nào, mà chẳng có những tình huống đụng trận, cãi tranh như thế.
Và, có nhiều cách đáp trả. Có thể là, đáp ứng và trả lời, rất đàng hoàng. Cũng có thể, là những đáp lại bằng cử chỉ trả đũa, rất khó coi. Cụm từ “phản ứng”, “trả đũa” thường đưa ra một động tác phản ứng, phản xạ không suy tính. Cũng chẳng mang tính lựa chọn hay quyết định, hoặc suy nghĩ đắn đo nào hết.
Thật ra, cũng có lúc ta tìm đến một chọn lựa nào đó để hành xử. Nhất thứ, là khi người khác cứ tìm cách, hoặc “chọc quê”, hoặc làm phiền “người công chính”, rất công minh và chính trực, như bạn và tôi. Nhưng, ta có thể nhận biết rằng mình có quyền chọn lựa về cách hành xử với một người, hay mọi người. Đó là điều hệ trọng.
Trong Kinh Thánh, ở sách Châm Ngôn, có đoạn nói về chuyện này, đại ý như:
“Câu đáp dịu dàng khiến cơn giận tiêu tan, lời nói khiêu khích làm nổi cơn thịnh nộ.” (CN 15, 1)
Và, tiếp đó lại có:
“Lời xoa dịu tựa cây ban sự sống, lời nham hiểm làm tan nát tâm can. (CN 15, 4)
Và, cũng còn nhiều chương đoạn trong Kinh Thánh đề nghị bạn và tôi, ta hãy cẩn trọng với lời lẽ xuất ra từ miệng lưỡi. Nói chung, là những đề nghị hãy cẩn thận về những điều mình phát ngôn. Ví dụ như:
“Người nói năng dè dặt là người hiểu biết, kẻ giữ được điềm tĩnh là kẻ khôn ngoan.” (CN 17, 27)
Đôi lúc ta thấy, có khi người đồng hương, đồng cảnh trong cộng đoàn mình chung sống, đã đối xử với ta, với nhau theo cách thức mà mình chẳng bao giờ tưởng tượng là họ có thể làm như vậy với bạn bè được. Nhất thứ, họ lại là con dân nhà Đạo. Nói sao cho cùng, vì đồng nghiệp hay đồng hội đồng thuyền cùng cộng đoàn, vẫn có thể là người tốt/xấu mình từng gặp gỡ và chung sống. Họ là những người có đủ hỷ nộ ái ố, tính tình dồn nén trong cá nhân riêng lẻ. Gặp cảnh này, ta hãy tích cực mà cho rằng người đó, vị đó đang “tung chưởng” bộc phát cho ra những dồn nén lâu ngày bị o ép, chỉ chờ dịp thuận mà đẩy ra thôi.
Quả thật, lý do làm nền cho mọi tình trạng bất ưng này, cũng chỉ vì ta thiếu tôn trọng lẫn nhau. Hoặc, quên nhận thức, rằng: ai cũng có quyền được người khác tôn kính đồng đều. Vì, ai cũng có tự do như nhau. Có thể là, nhiều lúc người ấy, vị ấy không là người xấu hoàn toàn. Họ cũng vẫn là đồng Đạo, đồng hương hay đồng hành rất tốt, thật thân. Nhưng, vào lúc nào đó, riêng họ cũng có những vấn đề thuộc diện bản thân, đang bộc phát. Còn nhớ, đã có lần Thánh Phao-lô từng thôi thúc mọi người trong cộng đoàn Dân Chúa hãy đối xử với nhau cho có tình, như sau:
“Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Ki-tô Giê-su đòi hỏi. Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta. (Rm 15, 5 – 6)
Và thánh nhân còn nói: vào những trường hợp ta bị “chạm nọc” như thế, cũng đừng nên phản ứng bằng những trả đũa, đối đầu. Nhưng, hãy đối lại tử tế. Làm như vậy, ta sẽ lướt thắng vượt qua sự dữ/ác độc hiện hình thấy rõ:
“Lòng bác ái không được giả hình giả bộ. Anh em hãy gớm ghét điều dữ, tha thiết với điều lành…” (Rm 12, 9)
Hoặc:
“Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác.” (Rm 12, 21)
Xem như thế, kỹ năng ta học được từ các bậc vĩ nhân lành thánh, sẽ giúp mình giải quyết được các căng thẳng, phiền phức trong quá trình chung sống với người “dưng khác họ, chẳng lọ thời kia...”
Cũng có ý kiến là: chớ nên gạt bỏ hoặc đè nén những cảm giác bất ưng, khó chịu trong chung sống, nhưng nhất quyết cảm nhận và thay vào đó, chọn lựa cách đáp trả sao cho có tình, hợp lý. Thứ lý lẽ của tình thương yêu, như người nhà. Giả như, mình nhất quyết chọn lựa giải pháp tích cực trong chung đụng sống vui với mọi người, ta sẽ có khả năng đương đầu giáp mặt với tình huống khó khăn bằng cách thức hoà hoãn, xây dựng hơn. Xây dựng tình người. Xây dựng tình mình.
Để xây dựng tình mình cho thư giãn, cũng nên tìm về truyện kể nhẹ nhàng, như bên dưới:
“Ngày xửa ngày xưa, có một cậu bé rất khó tính, lại hay tinh nghịch, gây khó chịu với hết mọi người. Người cha của cậu thấy thế bèn giúp cậu giải quyết cho êm thắm bằng cách trao cho cậu một túi đinh nhọn và dặn: cứ mỗi lần con mất kiên nhẫn, hay tranh cãi, làm mất lòng người khác, hãy đem túi đinh này đóng một cái vào hàng rào nhà mình. Ngày đầu, cậu đóng mất 37 cái. Làm cho hàng rào trông giống như một bàn chông đầy những đinh… là đinh. Tuần lễ sau, cậu đã biết tự kềm chế, nên số đinh đóng vào hàng rào mỗi ngày mỗi bớt dần. Sau đó, cậu ta khám phá ra rằng: tự kềm chế cơn nóng giận, còn dễ hơn là đóng đinh. Cuối cùng, một ngày kia, cậu không cần phải đóng bất cứ đinh nào vào hàng rào nữa cả. Và, thế là cậu đi gặp ông bố để thưa: hôm nay con chẳng còn phải đóng một đinh nào, nữa hết. Ông bố thấy thế, bèn bảo: cứ ngày nào con tự chủ được và không để mất tính kiên nhẫn của con, thì hãy nhổ một cái đinh ra khỏi hàng rào. Ngày lại ngày, cuối cùng thì cậu bé đã có thể nói với ông bố: là cậu đã nhổ hết các đinh đã đóng khỏi hàng rào rồi. Ông bố lại dẫn cậu ra ngoài hàng rào, rồi bảo: “Này con. Con nay hành xử rất tốt. Nhưng hãy nhìn vào các lỗ đinh nơi hàng rào mà xem. Hàng rào này sẽ không bao giờ giữ được dáng vẻ lành lặn như hồi trước. Khi cãi vã bất bình hoặc nói xấu nói hành bất cứ ai, tức là con đã để lại nơi người ấy vết hằn in dấu, như đã đóng đinh vào người của họ vậy”. Tựa như thế, con có thể đâm một nhát dao vào một người nào đó, xong rồi hối hận và xin lỗi người ấy, thì đã trễ. Các vết dao đâm đã để lại hằn in những sẹo. Và, các vết sẹo sẽ nằm lại đó mãi mãi, không bao giờ biến mất. Con có xin lỗi đến bao nhiêu lần, thì vết sẹo kia vẫn cứ nằm đó, không tẩy xoá được bao giờ. Vết thương lòng, do lời nói của mình tạo ra, cũng hằn in nơi nạn nhân bị xúc phạm. Thành thử, hãy biến kẻ thù của mình thành bạn. Để như thế, con sẽ không gây thương tích nơi một ai. Đồng Đạo hay người đồng hành vẫn là những viên ngọc quý báu. Là, bạn bè thân thương trên hành trình cuộc đời con vui sống. Bởi lẽ, bạn bè luôn khích lệ con hằng ngày. Bạn bè đích thực, là người sẵn sàng lắng nghe con tâm sự, mỗi khi con cần đến họ. Bạn bè là người luôn chạy đến giúp con, khi con ngỏ lời cần họ giúp đỡ. Bởi thế, hãy cho bạn mình biết là con yêu thương họ biết chừng nào.
Câu truyện ghi trên, hay như một bài giảng huấn. Giảng trên bục Nhà Thờ, hay giảng ở ghế nhà trường, trong gia đình, đều quý giá như một bài thơ trữ tình. Thơ về tình bạn. Giảng về tình người. Không có thơ, tình người chẳng bao giờ thi vị. Không có giảng và giải, chẳng bao giờ biết thực hư. Về thực hư của những căng thẳng, hận thù trong chung sống, cũng có quy luật của nó. Nói đúng hơn, đó là những tư vấn, những lời khuyên, hay như một giảng giải. Giống truyện kể ở trên. Đến đây, bạn và tôi, ta có thể tự hỏi là mình đã đóng bao nhiêu đinh hoặc để lại bao nhiêu vết sẹo lên người bạn đồng hành, đồng Đạo mình rồi ? Và, ta đã biến được bao nhiêu kẻ thù thành người bạn chí thân, và chí thiết ? Câu trả lời đang ở cuối đường hầm, của sự sống. Đường của hy vọng, rất mầu xanh.
Trần Ngọc Mười
Hai, và có nhiều tư vấn nhưng vẫn chưa đi tới cuối đường hầm
Nghịch lý – nghịch thường đời thường lắm chuyện nghịch nhĩ? (Mt 10: 24)
Ấy đó là câu hỏi. Một trong muôn vàn câu nói về đời người, và người đời. Qua kinh nghiệm sống, hẳn ai cũng từng một lần nghe/gặp những câu hỏi/tình huống tương tư? Những câu hỏi về cuộc sống đa dạng. Hoặc, những câu đặt ra chỉ để hỏi qua loa. Hỏi cho có. Hoặc, cũng hỏi thật đấy, nhưng không nhất thiết phải có câu trả lời. Thậm chí, có khi hỏi tức là đã trả lời một cách nào đó rồi. Và câu trả lời, không phải bao giờ cũng thỏa đáng. Có khi, chỉ một câu đáp suông. Đáp lấy lệ. Đáp lại đấy, nhưng chẳng liên quan gì đến câu hỏi hết. Trả lời câu hỏi trên, thật sự không có nghĩa: giải đáp phần nào cho vấn đề nêu ra, về cuộc đời. Nhưng, chỉ muốn khơi mào cho một luận phiếm lai rai. Một thứ phiếm luận thuộc loại bỏ túi. Đại loại như câu thơ của đại thi hào Nguyễn Du “Mua vui cũng được một vài…”, phút giây.
Nghịch lý trong thơ văn người Việt Thoạt nhìn vào địa hạt văn chương thi tứ, chừng như câu hỏi trên đã có sẵn lời đáp, ở đâu đó: đời người toàn chuyện phi lý, nghịch thường. Nói nôm na, đã xảy đến với cuộc đời, những chuyện tréo cẳng ngỗng, trái khoáy, rất khó nghe. Nói theo các văn hào thi sĩ, như: Nguyễn Du, , Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát Trần Tế Xương, vv.. thì mỗi người một kiểu, đều bộc lộ những ý nghĩ mang tính nghịch lý, nghịch thường về cuộc đời, con người. Về cuộc đời. Tự nó đã là nghịch lý? Phải chăng cuộc đời chỉ gồm toàn những nghịch cảnh. Toàn những chuyện nghe ra rất nghịch nhĩ. Rất chói tai? Với tác giả Đoạn Trường Tân Thanh, đời người được coi như cuộc bể dâu. Nhìn vào chỉ thấy rất đau lòng: “Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.” (Nguyễn Du – Truyện Kiều)
Cũng nghịch thường không kém, đường đường một đấng nam nhi khí phách tung trời như Nguyễn Công Trứ, mà cũng thở than, rằng:
“Kiếp sau xin chớ làm người, Làm cây thông đứng giữa trời mà reo.” (Nguyễn Công Trứ - Cây Thông)
Dù với “Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây”, kẻ sĩ họ Nguyễn nhà ta tuy bôn ba chốn công đường, cửa phủ đã nhiều. Tuy lân la với giới cao sang, quyền quý triều đình nhà Lê cũng khá, thế mà “tướng công” vẫn có những nhận định rất ư là yếm thế, như sau:
“Thế thái nhân tình gớm ghiếc thay, Nhạt nồng trong chiếc túi vơi đầy…” (NCT – Thế Thái Nhân Tình)
Nói chi một Cao Bá Quát ngạo nghễ, chê bai cả con tạo:
“Ngất ngưởng thay con tạo khéo cơ cầu, Muốn đại thụ hẳn dìm cho lúng túng.” (Cao Bá Quát – Đời Ngất Ngưởng)
Để rồi, quá chán chường, khi thấy cuộc đời toàn chuyện nực cười, ông lại tán thán:
“Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy, Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.” (CBQ –Uống Rượu Tiêu Sầu)
Với Trần Tế Xương, nghịch lý của cuộc đời nằm ở chỗ nó không là chuyện nực cười, nhưng lại khiến nhà thơ thấy chua cay, những hậm hực;
“Ta lên ta hỏi ông trời, Trời sinh ta ở trên đời làm chi?” (Trần Tế Xương – Hỏi Ông Trời)
Đã chua cay, vì những cái “tréo cẳng ngỗng” nơi cuộc đời, lại còn hậm hực vì thân phận hẩm hiu của mình, cậu tú họ Trần vẫn mải mê hạch sách ông Trời; vì, “tú ông” cho rằng Trời vốn thích trêu ghẹo người đời:
“Bắc thang lên hỏi ông trời, Trêu ghẹo người ta thế nữa thôi.” (TTX – Hỏi Ông trời)
Nghịch thường trong đời người: Về cuộc đời, dĩ nhiên mỗi người kinh nghiệm mỗi cách. Mỗi thời ứng xử theo mỗi vẻ, rất riêng. Rất nghịch thường. Nhưng tựu trung, qua kinh nghiệm đó, cuộc đời không chỉ mang dáng dấp của một nghịch thường mà tự thân, nhưng chính nó đã là nghịch lý rồi. Với cuộc đời, nghịch lý/nghịch thường không mang tính nhất quán, đơn lẻ. Không là quan niệm triết lý của riêng ai. Nhưng, nó hàm ngụ tính chất thần học ngay trong chất người. Nơi con nguời.
Ngay từ đầu, sở dĩ cuộc đời trở thành chuyện nghịch thường là bởi đã có bàn tay Thiên Chúa can dự, khi Ngài mặc lấy thân phận làm người. Của người đời. Ngay từ thuở ban sơ vũ trụ, ơn cứu độ đã được ban cho con người theo dạng thức rất ư là nghịch lý.. Nhưng, con người không thể tưởng tượng ra được điều nghịch lý/nghịch thường ấy. Và, con người cũng không thể hiểu được những điều nghịch nhĩ Thiên Chúa đã làm cho mình, nên đã cả gan đối kháng. Đã chối bỏ cả quyền năng tối thượng của Ngài. Con người đã mang tham vọng tự định đoạt lấy cho chính mình. Bằng quyền phân định lành–dữ. Để rồi, sau đó lại làm theo sở thích riêng tư của mình (Kn 2).
Nghịch lý được giải bày ngay từ lúc Thiên Chúa có ý định khởi đầu khi Ngài tạo dựng con người, theo hình ảnh Ngài:
“Và Người hà hơi sống vào mũi nó và người đã thành mạng sống” (Kn 2:7)
Thế rồi, nghịch lý cứ tiếp tục diễn tiến khi Thiên Chúa dấn thân nhiều hơn nữa vào tình thương mà Nguời dành cho con người.
Với thánh Phaolô, việc Thiên Chúa mang thân phận làm người và chấp nhận cái chết trên thập giá đã là cớ vấp phạm. Là, nghịch thường nghịch lý. Hoặc, nói như người đời, thì đây là chuyện nghịch nhĩ căn bản cho người Do Thái. Đây còn là chuyện điên rồ đối với dân ngoại. Nhưng, với những ai được gọi thì lại chính là Đức Kitô, Quyền năng và sự Khôn ngoan của Thiên Chúa (Rm 1: 23-24). Như thế, điều nghịch lý là ở chỗ người đời coi việc cứu độ qua thập giá là phi lý, là điên rồ, thì đó lại là nền tảng của lòng tin.
Nói cách khác, chính Đức Kitô đã thể hiện những nghịch lý “căn bản” cốt đánh động con người. Giúp con người nhận ra bản chất Thiên sai, như vai trò cứu độ của Ngài. Đọc Lời Chúa trong nhãn giới Tin Mừng Cứu độ, dân con Israel hẳn sẽ không quên được những câu đại loại như:
“Đừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất. Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo. Ta đến để gây chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình” (Mt 10: 34)
Nhưng, ở một chỗ khác, Ngài còn quả quyết:
“Đừng tưởng Ta đến để bãi bỏ lề luật hay các tiên tri, Ta đến không phải để bãi bỏ mà là để làm trọn.” (Mt 5: 17)
Tiếp thu cái nghịch thường do Đức Kitô đem lại, người nghe cũng có những phản ứng khác thuờng. Vì họ có lối nghe và nhận biết khác nhau: *kẻ thì kinh ngạc:
“Và xảy ra là khi Đức Yêsu đã nói xong các lời này thì dân chúng kinh ngạc về giáo huấn của Ngài.” (Mt 7: 28)
*người lại phấn khởi:
“Tiếng tăm Ngài đồn khắp xứ Xyni.” (Mt 5: 24)
*có vị lại bỏ tất cả mà … đi theo Ngài:
“Ngài kêu gọi họ, lập tức họ bỏ cả mà đi theo Ngài.” (Mt 5: 24)
*nhưng cũng có những người chưa tin, lại đòi dấu lạ. Thì Ngài quở trách:
“Thế hệ xấu xa và ngoại tình, chúng đòi dấu lạ; nhưng, sẽ không cho chúng dấu lạ nào, trừ phi dấu lạ tiên tri Yôna.” (Mt 12: 39)
Cuối cùng, muốn hiểu được các nghịch lý nói trên, nếu ta nhất tâm trở nên bé mọn như Đức Kitô hằng khẳng định, thì sẽ khác:
“Vì Cha đã giấu các điều ấy với hạng khôn ngoan thông thái, mà mặc khải ra cho những kẻ bé mọn” (Mt 11: 25)
Và:
“Vì Nước Trời là của chúng” (Mt 19:14)
Thậm chí, để cắt nghĩa về những “nghịch thường” Ngài dành cho những kẻ bé mọn thấp hèn, Chúa Kitô còn dùng ví dụ và dụ ngôn. Và, Ngài cắt nghĩa lý do:
“Bởi thế mà Ta dùng ví dụ nói với họ: vì họ nhìn mà không thấy, nghe mà không nghe, không hiểu.” (Mt 13: 13) Thành ra, muốn hiểu các “nghịch lý/nghịch thường” của cuộc đời, nhất thiết phải biết dùng mắt để nhìn, dùng tai để nghe cho đúng cách, tức là nghe và nhìn theo cách thế của trẻ nhỏ.
Nghịch cảnh trong đời mình: Nghịch lý trong đời người, mà con người nhận ra vẫn là chuyện xưa như trái đất. Ai cũng có kinh nghiệm về chuyện đó ngay khi làm người. Thế nhưng, chân lý ấy đã chắc gì được mọi công nhận? Mỗi người mỗi cách đều có kinh nghiệm riêng tư về cuộc đời như một “nghịch nhĩ” trong thoáng giây, hay như “nghịch cảnh” kéo dài.
Chừng như, nghịch cảnh vẫn cứ đeo đuổi. Vẫn bám sát mỗi người và mọi người. Không loại trừ một ai. Chẳng nhân nhượng người nào. Chính thế mà, nhiều vị khi xưa vẫn cứ quan niệm: “tu là cội phúc, tình là giây oan.” Các cụ nhất quyết bỏ được cái “giây oan” này để đi tìm “cội phúc” nọ. Có ngờ đâu, ngay trong cõi tu mình từng trải cũng chẳng gột được những nghịch thuờng nói trên.
Ở môi truờng đào tạo nọ, nhớ lại một thời xảy ra tranh luận sôi nổi về việc “dấn thân vào đời”. Đề tài khi ấy được đưa ra, sau khi có cái gọi là sự kiện “ca vào đời”. Câu chuyện nghịch thường xảy đến với cõi nguồn cội “phúc” xem ra cũng đã hơn 4 thập niên, nhắc lại không phải để minh định lập trường đúng/sai, nên hay không nên. Nhưng, nhắc nhở là để nhắn nhủ các bạn trẻ không ở trong cuộc, hoặc không muốn dính chuyện ngày xưa, vẫn có thể cảm nhận được sự cần thiết phải chấp nhận nghịch lý/nghịch thường của cuộc đời.
Có chấp nhận nghịch lý/nghịch thường của cuộc đời hay của người đời, ta mới hiểu được những nghịch cảnh mà Đưc Kitô thân trao cho mỗi người chúng ta trong quá trình sống cuộc đời thường. Xem như thế, nhận định của các cụ khi xưa nói đến “cội phúc” không có nghĩa là khuyên con cháu hãy lẩn tránh cái nghịch cảnh/cái giây oan dẫy đầy trong đời thường, đầy những nghịch lý. Mà để chấp nhận dấn bước theo chân Chúa đi vào đời, tức: dám giáp mặt với các nghịch lý/nghịch thuờng mà Thiên Chúa dành sẵn cho mỗi người. Và mọi người. Khi họ dấn buớc vào cuộc đời. Bước vào đời thường, hay đi vào đường đời, tức là biết cùng với Đức Kitô, trong Đức Kitô chấp nhận những “trái khoáy” do đời tạo ra. Chấp nhận vì tình CHA. Vì, thương yêu người đồng loại.
Hỡi các bạn trẻ và người không còn trẻ đã hoặc đang bước vào đường đời, ta hãy can đảm vui lên mà chấp nhận cuộc đời như một nghịch lý. Chấp nhận mọi nghịch cảnh để vui sống. Vì, Đức Kitô, Thầy Chí Thánh cũng đã chấp nhận như thế, cho mọi người. Vì mọi người. Có như thế, đời người sẽ không còn là giây oan nữa. Nhưng, vẫn cứ là cội phúc cho mọi người vui hưởng.
Trần Ngọc Muời Hai Với những tin rất “nghịch nhĩ” về tình hình sức khoẻ của người bạn.
Nụ cười quên tắt trên môi (Lc 22: 14-20 / Gíao luật số 1247 #1)
Cách đây mười năm, một đấng bậc trong ban tuyên úy cộng đồng Công giáo người Việt ở Sydney có hỏi bạn trẻ nọ: Sao cha không thấy con tham gia sinh hoạt thanh niên, ca đoàn, hoặc làm việc gì có ích cho cộng đồng mình, gì hết vậy. Lúc ấy, người trẻ trả lời: Thú thật với cha, nếu con tìm ra được là mấy người trong cộng đồng, lúc nào mặt mũi cũng tươi vui, luôn cười suốt buổi hoặc giúp đỡ nhau trong mọi lúc, thì con sẽ gia nhập ngay lập tức.
Nghe truyện, bần đạo thấy giống câu đáp của ngài Mahatma Gandhi, mới nghe hôm nào. Thôi thì, ta cứ coi như: chí lớn gặp nhau đi. Nhưng vấn đề đặt ra hôm nay, không phải để phê bình dân con nhà Đạo lưu lạc ở nước ngoài có còn hay không sinh hoạt nhà thờ nhà thánh. Mà là, có rào cản nào chăng khiến người trẻ ở một số nơi, không đến nhà thờ? Thật ra cũng khó trả lời cho câu trên, ngay tức thời. Thôi, chuyện ấy hạ hồi phân giải. Nay, chỉ xin bạn bè gần xa, xem ý kiến của một bạn trẻ khác người Úc có những thắc mắc cũng về chuyện đi lễ nhà thờ, nhưng nhìn theo khía cạnh khác, xem sao. Xem để thấy là, giới trẻ ngày nay không dửng dưng ngồi ì, nhưng cũng có thắc mắc. Thắc mắc kỳ này, như sau:
Vào các năm trước, nhiều người có thói quen đi lễ nhà thờ tại nơi mình ở. Nhưng hôm nay, dường như có vấn đề này, là: ở đâu cũng thấy bà con ta không còn thói quen chỉ đi lễ tại một nhà thờ nào. Nhưng, vẫn thay đổi liên tục như ca sĩ chạy “show”, vậy. Ở một số nhà thờ mà tôi có dịp đi lễ, tôi có cảm giác không được thoải mái cho lắm. Nhất là về nghi thức phụng vụ, hoặc bài chia sẻ, và cách chọn bài hát cho thánh lễ không được chuẩn cho lắm. Vậy, đâu là lập trường của Giáo hội về chuyện này? Có được phép thường xuyên đi lễ ở nhà thờ nào mà không phải là xứ đạo mình ở, được không? Có nhất thiết phải đi lễ tại nhà thờ xứ mình ở, mà thôi không? Xin cho biết, để khỏi có thành kiến.
Và câu giải đáp cũng lại của vị linh mục năng nổ mang tên John Flader, trên báo The Catholic Weekly ở Sydney ngày 24/6/2007 như sau:
Đây là câu hỏi rất nhiều người đặt ra. Không chỉ với tôi thôi, nhưng cả với các cha khác nữa. Có nhiều điều đáng cho ta giữ mãi trong đầu, để suy nghĩ. Trước hết, có lẽ cũng nên minh định lại ý nghĩa của câu “có nhất thiết phải đi nhà thờ nơi mình ở hay không?” Nếu chia vùng nhà thờ theo địa điểm mình ở cho một số giáo xứ, nào đó; và nếu người mới dọn nhà không biết mình thuộc giáo xứ nào, thì chỉ việc hỏi văn phòng giáo xứ nào gần nhất sẽ biết ngay thôi. Rất có thể, người hỏi rơi vào trường hợp là nhà mình gần giáo xứ khác hơn là giáo xứ được định đoạt theo ranh giới địa dư.
Cùng với giáo xứ chia theo đường ranh địa dư, cũng có trường hợp giáo xứ được ấn định theo nghi thức phụng vụ. Lối chia giáo xứ theo vùng như thế này không dựa trên địa thế, mà lại theo nghi thức đặc biệt, như: nghi thức Maronite, Melkite hoặc Ukraine. Cho nên, các bạn có thể tham dự thánh lễ được cử hành theo nghi thức đặc biệt, áp dụng cho ngành đặc biệt ấy.Thánh lễ cử hành bằng tiếng La tinh theo nghi thức Tri-đen-ti-nô, cũng là một ví dụ khác, điển hình.
Cũng một kiểu như thế, có thể người đi lễ là người di dân/sắc tộc hay có thói quen dự lễ nào có linh mục tuyên úy sắc tộc cử hành theo ngôn ngữ của dân tộc mình. Như thế, trên thực tế có nhiều chọn lựa khác nhau, cũng chính đáng thôi.
Thời xưa, giáo luật ban hành năm 1917, bó buộc người có Đạo phải đi lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ trọng tại giáo xứ mình ở, thôi. Trong khi đó, theo luật mới năm 1983, không có áp đặt nào như thế. Giáo luật số 1247, điều 1 có nói: việc buộc đi lễ chỉ chấp nhận được nếu thánh lễ được cử hành theo nghi thức Công giáo vào đúng ngày lễ trọng hay Chúa nhật, hoặc vào chiều tối hôm trước mà thôi.
Xem như thế, đi lễ Chúa nhật ở bất cứ nơi nào theo nghi thức Công giáo là chu toàn bổn phận rồi. Nhưng, vẫn nên đi lễ tại nhà thờ nơi mình ở là điều tốt nhất, nếu ta không thuộc nghi thức đặc biệt hoặc di dân sắc tộc,có khó khăn về ngôn ngữ.
Ngoài ra, còn có vấn đề: Mỗi giáo xứ tạo thành cộng đoàn và mỗi người cũng nên làm thành viên của cộng đoàn và hỗ trợ cho cộng đoàn ấy. Nên nhớ là, cộng đoàn mở rộng không chỉ làm mỗi việc là sinh hoạt cử hành tiệc thánh mà thôi. Mà, còn có những sinh hoạt khác như: nguyện cầu, hỗ trợ mọi người đồng Đạo có nhu cầu đặc biệt, các hội đoàn, nhóm từ thiện, Đạo binh xanh Legio Mariae, sinh hoạt sùng kính các thánh, sùng kính Thánh Tâm Chúa Giêsu, vv.
Tất cả các sinh hoạt ấy giúp các thành viên trong cộng đoàn lớn lên trong niềm tin. Và, sinh họat chỉ có ý nghĩa nếu mình thuộc vào một cộng đoàn giáo xứ. Như thế, anh chị em thành viên mới có khả năng tạo cơ hội để giúp đỡ, đùm bọc lẫn nhau. Tất cả các sinh hoạt ấy đều có tính cách quan trọng. Giả như, người dự lễ Chúa nhật mà, nay đi nhà thờ này, mai lại sang nhà thờ khác, thì sẽ không còn tính cách dấn thân vào cộng đoàn mà mình có quyết tâm là thành viên.
Cũng vậy, khi một người có nhu cầu đặc biệt và giáo xứ địa phương lại không biết về người đó, thì cộng đoàn sẽ không thể quan tâm, giúp đỡ được. Ví dụ, nếu ai bị đau nặng hoặc mất việc, vô gia cư, vv… thì khó cho mọi người dù quan tâm cách mấy cũng không thể hỗ trợ được. Hoặc, có người không còn khả năng lái xe đi lễ, hoặc không dùng phương tiện chuyên chở công cộng được, thì khó mà tìm được người cùng cộng đoàn đến giúp để đưa đi nhà thờ. Cùng lúc đó, lại có nhiều lý do để khiến người không đi lễ thường xuyên nhất định ở một nhà thờ thuộc xứ đạo của mình, được.
Nếu, như bạn có nói trong thư, thánh lễ được cử hành mà lại có vi phạm luật phụng vụ, hoặc bài chia sẻ không thích hợp hoặc đi ngược lại giáo huấn hay kỷ luật/nội quy của Hội thánh, thì đương nhiên là người dự không cảm thấy thoải mái; vẫn cứ lo âu chọn nơi khác để đi lễ, thì trường hợp chọn lựa ở lại giáo xứ có thể gây nguy hiểm cho niềm tin đi Đạo của mọi người, hoặc cho con cái người ấy. Nhưng, cũng nên hy vọng rằng chuyện đó chỉ là luật trừ, hơn là luật chung.
Nếu việc vi phạm không là chuyện nghiêm trọng hoặc chỉ là sở thích riêng tư, thì nói chung, nên ở lại với giáo xứ của mình, vì các lý do trên. Hơn nữa, ở lại với giáo xứ như thế, sẽ làm cho mọi người trong giáo xứ giúp đỡ nhau; và, vị linh mục chủ trì cũng tin tưởng hơn vào Giáo huấn của Hội thánh.
Nói theo giáo luật thì như thế. Có trước có sau. Có trên có dưới. Nhất nhất phải chu đáo. Phải đàng hoàng, đâu ra đó. Nhưng, vị giải đáp thắc mắc ở trên chỉ nói sơ qua một trong các rào cản khiến người trẻ không đi lễ ở giáo xứ của mình. Có bạn trẻ từng tâm sự, là: em không thấy hấp dẫn để đến nhà X vì nghi thức phụng vụ ở đó: các bài thánh ca chọn cho lễ có khi khô khan, cứng cỏi; có khi lại quá ướt át, uỷ mị. Hát thật nhiều, nhưng chẳng thấy lạc quan, chẳng thấy niềm vui như khi dự tiệc thánh theo tinh thần mà Chúa hằng mời gọi. Hoặc, chẳng thấy thoải mái dự lễ nhà thờ Y, vì bài chia sẻ của vị linh mục chủ tế hay phó tế lại dùng nhiều sáo ngữ, đặc sệt tính luân lý, giáo luật, nghe rất quen. Và, người trẻ cứ phải tìm nhà thờ nào khác vui hơn, thích hơn.
Cuối cùng, muốn lôi cuốn đám người trẻ chịu khó đến nhà thờ đều đặn hơn, dù để đi lễ hay đi sinh hoạt hội đoàn này khác, có nên quan tâm đến yếu tố vui, trẻ, đầy tính thời thượng, hẫn dẫn hay không?
Câu trả lời, xin nhường dành cho các bạn, những người đang nghe và đang đọc. Những người còn trẻ hay đã xế tuổi cuộc đời. Để các vị sẽ trả lời cho bạn. Trả lời cho chính mình, những người vẫn hỏi. Bởi, nhiều lúc có nhiều người vẫn cứ hỏi. Vẫn thắc mắc giống như thế.
Trần Ngọc Mười Hai thường chẳng dám trả lời mà chỉ dám hỏi.
Những chuyện kể năm hai ngàn lẻ (Yn 15: 1)
Năm hai ngàn lẻ, có rất nhiều chuyện để kể. Chuyện vui thì ít, chuyện buồn khá nhiều. Chuyện vui, người người thường giữ trong lòng. Ít khi kể. Chuyện buồn, người vẫn thường tâm sự. Lan ra rất chóng. Các chuyện không vui năm hai ngàn lẻ hôm nay, cứ bát ngát dông dài, như những vì sao. Những vì sao đơn côi. Nhưng là những vì sao đáng thương. Thương và cũng thân như tình trạng của người trẻ, trong gia đình:
Chuyện kể hôm nay, một tâm sự được gọi là “những mất mát ngày đầu năm”, của một người con. Chuyện thuộc loại rất thật của nhiều gia đình. Có thể, xảy ra với gia đình mình. Hoặc, gia đình của bạn bè, người thân. Người bạn có con yêu tên “Martha”. Chuyện bắt đầu bằng thư tâm sự của người con:
“Thưa ba mẹ, Hôm nay con viết thư cho Ba mẹ, mà sao con thấy lòng xao xuyến. Con có lỗi thật rồi, ba mẹ ạ. Lẽ ra, con đã phải có thư từ lâu, cho ba mẹ. Nhưng thôi không sao. Ba mẹ cứ yên tâm, đừng chấp nê đứa con hư, lang bạt này. Ba mẹ hãy ngồi xuống đi và thư thả đọc những giòng chữ chứa đựng tâm tình của đứa con mà Ba mẹ vẫn cho là bất hiếu, từ lâu. Con gái sẽ kể hết cho Ba mẹ nghe chuyện xảy đến với nó, trong ngày gần đây.
Vào lúc này, con thấy con khỏe hơn trước, rất nhiều. Vết nứt trên sọ não của con, do vụ chấn thương hôm rồi, nay chỉ làm cho con thấy ngứa ngày đôi chút, mà thôi. Sở dĩ con bị lâu như thế, là vì lúc ấy căn phòng con tạm trú, đột nhiên bị bốc cháy. Con cũng chẳng hiểu tại sao như thế. Nhưng lúc ấy, con phải lết cái thân gầy guộc của con ra tận cửa sổ và nhẩy đại xuống lầu. Cũng may, căn gác nơi con ở tạm, không cao lắm.
Sau đó, thì con chẳng còn biết những gì đang xảy ra chung quanh. Con chỉ biết nhắm mắt làm liều. Và khi tỉnh dậy, đã thấy mình nằm gọn trong căn phòng rộng thênh thang mầu trắng, của bệnh viện. Bệnh viện nào, con cũng chẳng nhớ nữa. Hôm nay, con chỉ còn thấy nhưng nhức từng chặp, và từng chặp nơi sau gáy. Mỗi ngày vài ba lần, rồi lại thôi.
Ba mẹ chắc cũng biết là con được thế là may lắm rồi đó. Lúc phòng con bốc lửa, con tìm mọi cách để thoát thân, ngay từ đầu. Con đã tìm cách chạy thoát, nhưng không được. Lúc ấy, con chỉ nhớ mang máng mỗi hình ảnh người chủ cây xăng là anh hàng xóm kế bên, thôi. Anh đã tận mắt chứng kiến mọi việc xảy ra. Và, có lẽ anh là người độc nhất để ý đến tình trạng sức khỏe của con. Ngoài anh ra, chẳng có người nào thèm bận tâm đến cứu con, hết đó. Chính anh là người đầu tiên điện thoại gọi cho đội chữa cháy; may họ cũng kịp thời đến cứu con. Anh còn thân hành đến tận bệnh viện để thăm hỏi, tặng quà ủy lạo con nữa.
Con rất cảm kích trước sự săn sóc tận tình của anh. Bởi thế nên, hôm sắp sửa xuất viện, anh có đề nghị là con hãy về chia phòng ở chung với anh. Ở vào hoàn cảnh con lúc đó, con mau mắn nhận lời. Không thấy gì là ân hận cả.
Căn phòng bọn con trú ngụ tuy không lớn, nhưng cũng đủ để hai đứa tạm giải quyết nơi ăn chốn ở, trong một thời gian. Phòng ốc trông không đến nỗi tệ, nhưng ngặt một nỗi nó nằm ở dưới nền đất. Nên, đôi lúc con thấy khá lạnh. Và, rất bất tiện cho sức khỏe của con, hiện giờ. Anh rất dễ thương và hào hoa lắm, Ba mẹ. Chính vì thế mà, chẳng bao lâu con đã có cảm tình với anh. Không những thế, con còn yêu anh thật sự, con nói thật đấy Ba mẹ. Con yêu không để đâu cho hết được.
Thưa Ba mẹ, Nay, con có ý định tiến đến hôn nhân với anh ấy, vào một ngày rất gần. Đến giờ phút con đang viết những hàng này, tụi con vẫn chưa quyết định được ngày tháng cho tiệc cưới. Nhưng con dự tính, thế nào cũng tổ chức sao cho sớm một chút, vì con đang có mang.
Thưa Ba mẹ, Đúng là con đã có thai. Bác sĩ quả quyết như vậy. Đôi khi con thấy cũng buồn buồn làm sao. Có lúc con cũng trách anh ấy sao gấp gáp quá để mọi chuyện kẹt như thế này. Nhưng sau đó con cảm thấy nguôi lòng, khi tưởng tượng ra là Ba mẹ sẽ rất thích thú được trở thành ông bà ngoại rất trẻ của cháu trong những ngày sắp đến. Con tin chắc là Ba mẹ sẽ vui mừng đón nhận đứa cháu ngoại đầu tiên của Ba mẹ. Ba mẹ sẽ ban cho đứa cháu ngoại đầu tiên, trọn vẹn tình thương của ông bà ngoại. Con nghĩ là ba mẹ sẽ hết lòng thương yêu và trông nom cho cháu, như Ba mẹ vẫn làm thế đối với con.
Thưa ba mẹ, Bọn con tính trì hoãn đám cưới trong vài ngày nữa, vì anh con hiện đang bị lây nhiễm một thứ siêu vi gì đó. Mấy người trong bệnh viện bảo rằng, đó là bệnh VD hay chứng gì đó, con chẳng biết. Có điều là, anh không qua được xét nghiệm buộc phải thử trước ngày cưới. Như thế, lại càng khó cho con hơn. Phần khác, anh còn truyền cái bệnh hiểm nghèo ấy cho con, thế mới tức chứ. Nhưng không sao, thưa Ba mẹ. Con sẽ giải quyết chuyện này dễ dàng. Chỉ cần uống ít viên kháng sinh, là xong. Chẳng cần lo lắng điều gì, cho nó bận rộn. Độ một ít nữa, con sẽ bảo anh dắt con và cháu về trình diện với Ba mẹ sau cho phải phép.
Con tin là Ba mẹ sẽ xử tốt với anh. Ba mẹ sẽ chờ anh đến, và rồi mở rộng vòng tay yêu thương mà đón nhận anh. Anh dễ thương lắm, con bảo đảm với Ba mẹ như thế. Dù trước đây, anh không được học đến nơi đến chốn, nhưng anh có nhiều tham vọng; và con nghĩ anh có đủ nghị lực để vươn lên cho bằng với người ta. Con thích anh là ở điểm đó, đấy Ba mẹ à.
Còn một điều nữa, cũng xin thưa với Ba mẹ là: anh gốc thuộc một chủng tộc khác với gia đình mình. Anh chẳng theo tôn giáo nào hết. Nhưng, con nghĩ, chuyện ấy cũng không đến nỗi gì. Mình có thể giải quyết sau. Có phải như thế không, thưa Ba mẹ? Con dư biết là lâu nay Ba mẹ vẫn tỏ ra khoan dung với hết mọi người. Chính vì thế, con nghĩ là Ba mẹ sẽ không lấy làm điều khi nhìn thấy mầu da của anh có hơi ngăm ngăm; nghĩa đậm hơn đa số những người trong họ mình. Con tin rằng không vì thế mà Ba mẹ sẽ bớt đi lòng thương yêu đối với anh phải không, thưa Ba mẹ?
Nói thì nói, chứ anh ấy cũng thuộc giòng dõi có tiếng. Con nghe kể, cha anh là tay súng cừ khôi thuộc bộ tộc chuyên săn bắn, ở đâu đó bên Châu Phi. Anh qua đây lâu lắm từ một nước ở xa tít mãi bên lục địa. Nhưng anh không có mặc cảm.
Thôi, đến đây con phải đi khám thai, ngay bây giờ. Con hẹn sẽ viết dài hơn cho Ba mẹ. Nhưng, con xin báo là con sẽ chỉ viết thêm một lá thư nữa thôi. Một mà thôi, để báo cho Ba mẹ biết ngày cháu ngoại ông bà chào đời. Thôi nhé, con chào Ba mẹ. Con xin tạm ngưng ở đây
Con của Ba mẹ Martha.
*
Đấy. Thư từ truyện kể, thường là như vậy. Rất kịch tính. Và, không có kết hậu. Cũng chẳng hứa hẹn điều gì vui. Một cú sét đối với các bậc cha mẹ? Những người vốn quen nề nếp tập tục cổ truyền, của cha ông. Có thể lắm! Nhưng, nhìn từ góc độ nào đó, truyện kể ở đây quả như mất mát không nhỏ đối với gia đình của Martha. Mất mát chợt đến, không hẹn trước. Vả lại, có mất mát nào lại hẹn trước, bao giờ? Nhất là, khi người cha người mẹ mất đi đứa con thân yêu của mình. Thật ra ông bà chưa có mất mát. Vì chẳng có ai chết ở đây. Nhưng, với bậc cha mẹ, thà nhìn thấy con chết thật còn hơn là đụng mặt với sự thật quá đau lòng. Và, đó mới là mất mát không nhỏ. Tuy nhiên, mất mát dù to hay nhỏ, vẫn luôn là mất mát. Nếu quan niệm mất mát là sự thể dính kết với bản thân của con người và cuộc sống, chắc người người sẽ có cái nhìn dễ dàng hơn? Lạc quan hơn chăng? Lạc quan, là vì ta vẫn coi mọi thứ mất mát như chuyện bình thường. Chuyện thường vẫn xảy ra trong đời. Có khi mất mát đó lại là ân huệ, từ Trên. Cái nhìn dễ dàng, vì đó là đòi hỏi căn bản của cuộc đời. Nói khác đi, mất mát hay không mất gì hết, mọi sự vẫn đều vì vinh quang của Thiên Chúa. Đều khiến mọi người phó thác cho Chúa. Và tùy thuộc vào Chúa. Có thể nói mà không sợ ngộ nhận, rằng: điều quan trọng đối với con người không phải là ta được gì hoặc mất gì; nhưng là: mình có thái độ thế nào mỗi khi chạm mặt với mất mát? Hoặc, cả những khi mình nhận được những mình hằng mong ước? Mất là mất thứ gì? Trong tình trạng nào? Được là được trong lúc mình đang ra sao? Được hay mất có ảnh hưởng gì trên cuộc sống của mình không? Và dưới đây là một vài quan niệm, được thánh Mat-thêu ghi lại:
“Lời lãi cả và thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì?”
Chấp nhận mất mát, tức chấp nhận tự tỉa bỏ. Tỉa bỏ là trạng thái mất mát, có ý thức. Tỉa bỏ, là chấp nhận để mất đi những gì mình có. Không buồn lòng. Đôi khi cái cần mất, lại là một phần thân xác hoặc tâm tính yếu hèn của chính mình. Tỉa bỏ, là động tác tích cực cần có của mọi sinh vật. Tỉa bỏ, không chỉ là trạng thái gắn kết cuộc sống con người, hoặc muôn vật. Tỉa bỏ, còn là nhu cầu chẳng-đặng-đừng, không thể không có trong quá trình sống của vạn vật.
Trình thuật thánh Yoan nói lên nhu cầu cần thiết này:
Cây Nho đích thật chính là Ta, và Cha Ta là người canh tác. Nhánh nào trong ta không sinh quả, Người chặt đi.” (Yn 15: 1)
Nhìn vào tình hình Giáo hội thời ban sơ, Giáo hội tuy không muốn tỉa bỏ một phần nhân sự của mình, nhưng vẫn chấp nhận động tác chua cay ấy. Trường hợp thánh Phao-lô quả là tiêu biểu. Sau-lô (tên tục của thánh Phao-lô) lúc trước có trọng trách ruồng bắt thành viên của Giáo hội. Nhưng, một khi ý thức được sự cần thiết tỉa bỏ và thay đổi, thì chỉ trong một thoáng rất nhanh của Mặc khải đầy ân sủng, người trai trẻ Sau-lô đã trở thành Phao-lô hoàn toàn đổi mới. Một Phao-lô có ích lợi cho Giáo hội thực sự, sau khi đã tỉa bỏ con người cũ và đổi thay.
Chúa Kitô cũng là trường hợp tỉa bỏ, rất chân thực. Rất chính đáng. Ngài đã đích thân chấp nhận sự chết. Chấp nhận tỉa bỏ đến độ mất đi sự sống cao cả của Ngài. Có tỉa bỏ như thế, Ngài cứu rỗi mọi người. Ngài đã cứu rỗi nhờ sống lại vinh hiển sau cuộc tỉa bỏ thần thánh ấy. Và nhờ tỉa bỏ đời sống, Ngài cũng đổi mới mọi người. Nhờ vào mất mát lớn lao này, con người và vũ trụ đã được thay da đổi thịt, mà sống mãi. Tất cả phải được tỉa bỏ, để cùng sống lại với Chúa, trong vinh quang.
Đã hơn một lần, Đức Chúa Phục Sinh vẫn lập đi lập lại sự cần thiết phải tỉa bỏ. Cần có mất mát nơi con người:
“Nếu hạt giống không rữa nát, làm sao nó sinh hoa trái.”
Hoặc: “Ai muốn có sự sống, hãy để nó chết đi…”
Và:
”Các ngươi cứ phá đền thờ này đi, ba ngày sau Ta xây dựng lại…”
*
Mất mát và tỉa bỏ để sống lại với Đức Chúa, vốn là kinh nghiệm bản thân của mỗi người. Và mọi người. Mỗi kinh nghiệm ta có đều mang dang dấp, rất điển hình. Mỗi mất mát ta chịu, đều là những bài học quý giá, cho mọi người. Không mất mát nào giống mất mát nào. Có chăng, thì cũng chỉ na ná, giống chút thôi.
Kể lại những mất mát năm hai ngàn lẻ, là để ta có thêm ý tưởng mà tỉnh thức. Tỉnh thức, để rồi sẽ không sợ luột mất đi những gì mình hằng lưu luyến. Trân trọng. Nhưng, có tỉnh và thức như thế, mới biết san sẻ với người khác những gì là quý báu cho bản thân, và cuộc sống. Có thế, ta mới cùng nhau sống đích thực ý nghĩa của tình thương yêu sống lại nơi Đức Chúa. Chính vì Ngài dám chấp nhận mất mát, tỉa bỏ cuộc sống lớn lao cuộc đời Ngài, đời người mới có nghĩa. Mới đáng sống. Nên sống.
Sống cho ra sống. Sống trong tin yêu. Và cảm thông.
Trần Ngọc Mười Hai vội phiếm khi nghe tin bạn vừa mất mẹ
“Thảm cỏ tình yêu dưới chân mình” (Lc 15: 11-32)
Phải thú thật, là: trong quá khứ, bần đạo cũng từng bị mang tiếng là một trong những tay quậy phá, khá ngỗ nghịch ở trường lớp, thời trung học. Cũng quậy và rất phá các bé em hiền lành thánh thiện, cùng độ tuổi. Quậy và phá, vì đang vào tuổi ngứa ngáy tay chân, chứ không có ý xấu. Quậy ít ngày. Phá ít tháng rồi thôi. Đến khi có cái làm mình bận tâm, là thôi ngay.
Những điều khiến đám học trò trung học như bần đạo, bận tâm và thích thú nhất bấy giờ là mải mê tìm đọc các truyện của tuổi mới lớn khá “quậy”, những là: “Chương Còm”, “Bồn Lừa”… của tác giả Vũ Mộng Long, một nhà văn/thày giáo lấy bút hiệu: Duyên Anh.
Bẵng đi một thời, bần đạo có dò hỏi về tình cảnh của ông “thầy quậy” này để xem ông ấy bây giờ ra sao. Được biết, ông cũng đi cải tạo một thời gian. Sau khi được thả, đã định cư ở nước ngoài. Rồi, lang bạt bên đất Mỹ, gặp nạn và qua đời vào tuổi “chưa già”. Nhắc tên ông hôm nay, là vì bần đạo chợt nghe lại bài ca nổi tiếng do ca sĩ Elvis Phương hát, trong đó có đoạn từng ấn tượng nơi đầu óc của người học trò nhỏ, lúc bấy giờ, như:
“Một hôm ngựa bỗng thấy thanh bình Thảm cỏ tình yêu dưới chân mình Ân tình mở cửa ra với mình Ngựa hoang bỗng thấy mơ Để quên những vết thù” (Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang-Ngọc Chánh &Phạm Duy)
Chuyện ngựa hoang và vết thù trên lưng, đánh động rất nhiều người, trong đó có bần đạo. Đánh động, chẳng phải vì thấy nhân vật trong truyện na ná giống như thân phận bọt bèo của chính mình. Nhưng, vì trong mọi tình huống cuộc đời, ta có ngang tàng hoặc “điên cuồng” cách mấy cũng có lúc “muốn về tắm sông nhẫn nhục”. Và rồi, cũng có lúc ta thấy “thảm cỏ tình yêu dưới chân mình”.
Thảm cỏ tình yêu, thật ra, ở đâu mà chẳng có. Đâu phải chỉ có dưới chân bạn. Chân tôi, mà thôi đâu. Và, thảm cỏ tình yêu đâu chỉ dành để cho nai hoang hoặc ngựa thuần. Mà, cho tất cả mọi loài. Từ thú dễ thương cho đến “con” người. Cả chim chóc, lẫn rắn rít sâu bọ… Loài nào cũng cần đến thảm cỏ tình yêu, rất xanh mướt. Rất ân tình.
Và, thảm cỏ tình yêu, được ban cho mọi loài, từ dạo trước. Có lẽ, duy chỉ có “con” người là “loài” ít để tâm. Ít cần mà thưởng ngoạn. Mà, cảm kích. Và, thảm cỏ tình yêu vẫn trải ra cho hết mọi người. Chí ít, là đám quậy phá hoang tàng, như trong trình thuật truyện kể về “người con hoang”. Người con ở đó, có là “con” người hoang tàng quậy phá, cũng biết thưa và biết nghĩ. Thưa là thưa thế này:
“Thưa cha, xin cho con phần tài sản con được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. (Lc 15: 12)
Là “con” người rất hoang như ngựa, nhưng anh chỉ “quậy’ ở mức độ “xin cha chia phần được hưởng”, chứ không “phá” tán tài sản của người anh. Và, trình thuật ghi tiếp:
Ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. Ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình.” (Lc 15: 13)
Ở đây nữa, dụ ngôn ghi rõ các cụm từ “đi phương xa”, “phung phí tài sản của mình”, chứ không phá làng phá xóm, hoặc cướp giựt tài sản của ai. Tuy nhiên, vấn đề là người có một thời hoang đàng, quậy phá như người con thứ, đã biết thưa và biết xin, rồi nay còn biết hồi tâm và biết nghĩ:
“Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ …… Thôi, ta đứng lên, đi về cùng cha và thưa với người: "Thưa cha, con thật đắc tội với Trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha.” (Lc 15: 17-20)
Và, vấn đề đặt ra hôm nay, là điểm: đã biết thưa/xin, biết hồi tâm và biết nghĩ…tức, có quyết định hồi hướng trở về. Và, một khi đã hồi tâm/hồi hướng trở về, ắt sẽ lại thấy được “thảm cỏ tình yêu dưới chân mình”.
Thời xưa, trình thuật diễn tả “thảm cỏ tình yêu” cho những “con” và “loài” đi hoang nay trở về như sau: "Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng!” (Lc 15: 22-23)
Sở dĩ nhà văn/nhà thơ bảo: “thảm cỏ tình yêu” vẫn “ở dưới chân mình”, và thánh sử ghi lại tấm lòng của người Cha, vẫn trải thảm tình thương, bởi: “Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy.” (Lc 15: 24)
“Ân tình mở cửa ra với mình” nơi đời thường ở huyện, cả một đời. Thời bây giờ. Chính đó, là thái độ của nhân vật được kể trong bài ca: “để quên những vết thù”. Hoặc, của “người cha” trong trình thuật, tức “Người Cha” trong Vương Quốc Nước Trời. Hoặc, đích thị là “cộng đoàn thân thương Hội thánh”, chốn gian trần.
Bỏ qua một bên, thái độ rất “không phải’ của người anh rất “quyền huynh thế phụ” ở trình thuật. Rất đạo mạo. Rất mô phạm. Nhưng thiếu “cỏ thảm tình yêu”. Thiếu cả lịch sự. Lịch sự tối thiểu, trong đối xử với người em, với cộng đoàn chung sống. Thiếu đến độ, từ chối khá nhiều thứ: “Người anh cả liền nổi giận và không chịu vào nhà” (Lc 15: 28)
Thái độ ấy, khác nào cảnh tình nơi môi trường mà “ngựa hoang”, đã ghi nhận: “Ngựa phi như điên cuồng giữa cánh đồng dưới cơn giông vì trên lưng cong oằn những vết roi vẫn in hằn.”
Mặc dù thế: “Ngựa hoang muốn về tắm sông nhẫn nhục Giòng sông mơ màng mát trong thơm ngọt Ngựa hoang quân thù oán căm Từ nơi tối tăm về miền tươi sáng” (Ngọc Chánh&Phạm Duy: Vết ThùTrên Lưng Ngựa Hoang)
Và cảnh tình trên, phù hợp với đoạn tiếp nơi trình thuật người “con” hoang, rất “kết hậu”:
“Nhưng người cha nói với anh ta: "Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy." (Lc 15: 31-32)
Nghiệm sinh truyện kể về thái độ của những đứa “con” đi hoang, dù là người hay ngựa, thiết tưởng cũng nên liên tưởng đến một nhân vật từng hoang đãng, rất quậy. Quậy trong âm thầm, và bất bạo lực. Trước khi trở thành “thánh nhân”, ngoài Đạo, sau đây. Như thánh Phê-rô thưỏ trước, thánh-nhân-ngoài-Đạo Mahatma Ghandi, cũng đã biết tìm về “thảm cỏ tình yêu” để có những lời “xin thưa” chân tình với Đức Chúa, như sau:
Lạy Chúa… Xin giúp con dám nói lên sự thật trước kẻ mạnh, Và đừng nói dối để hòng được kẻ yếu tán thưởng. Nếu Chúa cho con tiền bạc, Xin đừng cất đi hạnh phúc của con. Nếu Chúa cho con sức mạnh, Xin đừng để con mất đi khả năng lý luận. Nếu Chúa cho con thành công, Xin đừng tước mất đức khiêm nhu nơi con. Nếu Chúa cho con đức khiêm nhu, Xin đừng lấy lòng tự trọng của con. Xin cho con nhận biết khía cạnh khác của mọi sự việc. Và xin đừng để con kết tội kẻ đối nghịch với con là phản bội vì họ không chia sẻ quan điểm của con. Xin dạy con yêu thương kẻ khác như yêu thương chính bản thân mình Và dạy con phán đoán chính bản thân mình như phán đoán kẻ khác Xin đừng để con say men chiến thắng khi đạt thành công. Và cũng đừng để con nản lòng khi thất bại. Nhưng hãy dạy con nhớ rằng thất bại là thử thách dẫn đến thành công. Xin hãy dạy con biết lòng khoan dung là sức mạnh ở mức độ cao nhất Và ý muốn trả thù là biểu hiện đầu của sự yếu đuối. Nếu Chúa không cho con của cải, Xin hãy ban cho con lòng trông cậy. Và nếu Chúa không ban cho con thành công, Xin hãy ban cho con ý chí mạnh mẽ để vượt thắng thất bại. Nếu Chúa không ban cho con sức khoẻ, Xin hãy cho con ân sủng Đức Tin. Nếu con đã làm ai tổn thương, Xin ban cho con sức mạnh để xin lỗi họ. Và nếu có ai làm con tổn thương, Xin ban cho con lòng độ lượng và sức mạnh để tha thứ cho họ. Lạy Chúa, nếu con có quên Ngài… Thì lạy Ngài xin đừng quên con. (Mahatma Ghandi)
Lời cuối, bần đạo muốn thêm, là: nơi phần sâu thẳm bên trong của những ngựa/người con hoang, chắc chắn vẫn có cái gì đó không hoang. Rất đàng hoàng, mà mình không nhìn ra, đó thôi.
Trần Ngọc Mười Hai Vẫn cảm thông cho người và cho mình có chứng hoang nhưng không tàng.
“Thôi nhé nghe em, mình xa nhau từ đây..”
“thôi nhé nghe em, mình xa nhau mãi mãi em về cuối chân mây, tôi một mình ở lại ân tình này, tôi nhận hết đắng cay” (Nguyễn Ánh 9) (Hiến Chế Công Đồng “Hội Thánh Trong Thế Giới Hiện Đại” đ.16) Lời lẽ trên, ca sĩ Thế Sơn từng hát trên băng dĩa, vẫn rất mới. Nhạc bản này, nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 từng viết trước 1975, còn nghe quen. Lời ca và ý nhạc của người viết, nghe qua như có giọng buồn rười rượi, day dứt. Khó diễn tả. Buồn và day dứt, vẫn là tâm trạng của các cặp tình nhân hơn một lần thề non hẹn biển, cuối cùng vẫn chia tay. Chia tay hay ở lại, có lẽ là vấn đề bức xúc của mọi thời đại. Buổi xa xưa. Hay thời rất mới, lúc nào chẳng có những chuyện buồn vui của nhiều mái ấm. Kể cả những mái rất ấm như truyện vui Ngày Tạ Ơn ở Hoa Kỳ:
Hôm ấy, cặp vợ chồng cao niên chờ mãi không thấy con cái đứa nào gọi về nhắn nhủ hỏi han, thấy cũng chán. Các cụ bèn nghĩ cách gọi người con đang làm việc ở Nữu Ước, nói: -Ba không muốn phá đám ngày vui của các con. Nhưng ba báo cho con một tin quan trọng trong đời, là: ba má đã quyết định chia tay nhau, sau 45 năm ăn đời ở kiếp với nhau. Anh con trai nghe thế, vội gào thét ở bên kia đầu giây điện thoại: -Trời đất! Ba nói gì con nghe không rõ? Ba má cũng biết nói chữ ly thân/ly dị sao? -Ba má không thể nhìn mặt nhau thêm ngày nào nữa. Ba chán cái bản mặt của má mày. Không muốn nói chuyện với nhau nữa. Thôi, con gọi em con ở Cali, báo cho nó biết chuyện này… Và ông cúp máy, cái rụp. Cuống lên, anh con trai gọi ngay cho em mình. Cô em nghe chuyện, bèn trả lời: -Chuyện lạ hà! Chắc ông bô bà via lại bắt chước bạn già mình mất rồi. Thôi để em lo. Cô gọi cho người cha của mình và gào ngay trên máy: -Ba má KHÔNG được làm gì hết, nghen. Chờ tụi con về rồi giải quyết, ba nghe kịp chưa? Con sẽ gọi cho anh Hai và hai đứa con sẽ về tới nhà, nội nhật sáng mai. Con nhắc lại: từ giờ đến sáng mai, Ba Má không được làm gì hết. BA NGHE CON NÓI GÌ KHÔNG? Nói xong, cô gác mạnh chiếc máy. Rất bực. Và, ông cụ lẳng lặng gác máy, mỉm cười rồi nói với người vợ già: -Thế là chúng sẽ về dự Lễ Tạ Ơn với bọn mình. Kỳ này, khỏi kêu gào năn nỉ, cũng chẳng phải trả tiền vé cho chúng nó.
Chuyện ở trên, xem ra có vẻ khôi hài. Nhưng, chắc chỉ khôi hài với những cặp giả vờ ly dị, thôi. Trong đời thường, nhiều vợ chồng chẳng bao giờ thấy khôi hài khi nghe hai chữ “ly dị”, phát ra từ ai đó. Và, vấn đề đặt ra hôm nay, là: Hội thánh ngày nay có buồn/vui chăng khi nghe con cái nhà Đạo cứ hay đem chuyện ly dị của họ ra mà bàn, mà hỏi, không? Câu trả lời, tưởng cũng nên qui về tập sách do Hội Đồng Giám Mục Úc phát hành, hồi đầu năm. Tập sách này, có thừa những lời hỏi-đáp gọn gàng và đầy đủ, như sau:
Có sự nối kết nào không giữa Hôn Nhân và Tiệc Thánh Thể? Khi rước Mình Thánh Chúa, người Công Giáo chúng ta vẫn thưa “Amen”, là để tỏ ý tin tưởng rằng mình đang nhận đón Mình Đức Kitô vào người. Amen, lời diễn tả một đồng thuận rằng mình nay thuộc Thân Mình Chúa. Và, còn là lời cam kết trung thành phục vụ Thánh Thể Ngài bằng cả hành vi và ngôn ngữ. Hôn Nhân và Thánh Thể có liên hệ đặc biệt, coi như “Bí Tích của Mình Thánh Chúa”.
Trong hai bí tích, ta có kinh nghiệm sống tình yêu “lứa đôi” mà Đức Kitô trao tặng Hội thánh; và qua đó, Ngài trao ban chính mình trong yêu thương. Đổi lại, ai rước Mình Chúa vào lòng, là trao tặng chính mình cho Chúa. Cũng một trật như thế, khi hai người đồng ý sống đời ở kiếp với nhau tức là chấp thuận tặng chính mình trao cho nhau.
Hôn nhân là nhiệm tích nối kết vợ chồng (và họ hàng đôi bên) với nhau. Việc Nối kết giúp họ lĩnh nhận ân sủng hầu duy trì khế ước cùng nhau sống đời thuỷ chung. Và, Thánh Thể hợp nhất món quà quý giá ấy và củng cố tình vợ chồng để họ ăn ở với nhau theo tiếng gọi của Thiên Chúa.
Ly dị có làm cho người phối ngẫu tách rời Bí tích Thánh Thể không? Câu trả lời dĩ nhiên là: không. Ly dị, tự bản chất, không tách rời hoặc cấm cản người phối ngẫu được phép rước Mình Thánh Chúa vào lòng. Trong trường hợp nào cũng thế, rước Chúa là quyền của mỗi người tuỳ lòng thành và thiện ý của họ. Tuỳ họ, có sống theo lời dạy của Chúa và sẻ san sứ vụ tông đồ của Hội thánh không, thôi. Điều này có nghĩa: ai ly thân/ly dị -hoặc người Công giáo độc thân- vẫn được kêu gọi kềm chế hành động gần gũi dục tình và chu toàn trọng trách của người giáo dân hoặc bậc cha mẹ có ý thức trách nhiệm. Ai không làm thế, Bí tích Hoà giải (gọi là Giải tội) vẫn đem đến cho họ ơn tha thứ của Chúa, kèm theo đó là lợi ích thiêng liêng qua việc rước Chúa vào lòng.
Ai đã ly dị hoặc tiến thêm bước nữa có được phép rước Chúa không? Trừ phi Toà án Giáo hội tuyên bố là họ được tự do tái giá, người ly dị được hiểu là họ vẫn bị ràng buộc bởi hôn nhân có trước. Nếu hai vợ chồng -hoặc ít nhất là một trong hai người phối ngẫu đã ly dị nhưng chưa được giải toả để tái giá- mà lại tiến tới hôn nhân, thì cả hai đều không được phép rước Chúa. Hôn nhân mới thành lập theo bậc đời, được coi là xung khắc với khế ước hiện hành của bí tích. Và, từ đó, cũng kéo theo xung khắc với ý nghĩa huyền nhiệm của Bí tích Thánh Thể, nữa.
Giáo huấn Hội thánh dạy rằng: ai lập hôn thú ngoài Giáo hội, không được phép rước Chúa. Điều này, không có nghĩa đó là phán xét về một lầm lỡ cá nhân hoặc tội lỗi đầy tràn. Đó là quyết đoán về hành vi cần phải có đối với giáo huấn của Hội thánh và về tình trạng sống sao cho phù hợp với ý nghĩa của Thánh Thể, tức Bí tích hiệp thông cùng sống với Hội thánh. Hiểu được ý nghĩa của Hôn nhân và Thánh Thể dành cho đời sống người tín hữu, Hội thánh vẫn kiên trì tuân thủ giáo luật, không chấp nhận cho phép rước Chúa, những ai ly dị hoặc tái giá kết hôn không có phép chuẩn của Giáo hội.
Về việc này, người phối ngẫu có thể theo “lương tâm” mà xử sự được không? Đối với người Công giáo, lương tâm bao gồm cả việc tìm cách am tường vấn đề có ánh sáng chỉ đường là giáo huấn của Hội thánh. Thêm vào đó, hôn nhân không là chuyện riêng tư cá nhân. Hôn nhân có ý nghĩa đối với cả hai, xã hội nới rộng và -ở hoàn cảnh của người Công giáo- đối với cộng đoàn Giáo hội, nữa. Chính vì thế, không bên nào, kể cả Giáo hội, có khả năng phán đoán lỗi phạm cá nhân hoặc sự vô tội của người khác. Thật là sai, nếu có ai nghĩ rằng hôn nhân và việc tham dự Tiệc Thánh Thể của họ chỉ là vấn đề “riêng tư”, và họ có quyền tự mình kiểm soát chuyện của mình.
Người tái giá đã được phép chuẩn có bị chối từ không cho dự Tiệc Thánh không? Như nói ở trên, phán quyết của Toà án Giáo hội là cơ quan có thẩm quyền chuẩn chước để người ly dị có được tái giá nữa hay không. Và cũng thế, nếu tái giá bước nữa có được rước Chúa vào lòng, không. Đó là vấn đề.
Có nhiều trường hợp hai người phối ngẫu đều từ chối không chịu ra toà hôn nhân của Giáo hội hoặc cũng có làm, nhưng không thành, lại tin rằng họ có lý do chính đáng không thể xa nhau hoặc tự kềm chế chuyện gần gũi tính dục được, những cặp như thế, có lẽ đang sống trong tình trạng có xung đột nội tâm hoặc lương tâm mình đang trong tình trạng bối rối vì giáo huấn của Hội thánh đã nói rõ một phần, và phần khác, họ vẫn uớc ao được rước Chúa vào lòng. Trong trường hợp đó, vị linh mục hoặc cố vấn linh hồn nên giáp mặt giúp giải quyết cảnh rối rắm hơn là để họ ngang nhiên làm bừa.
Vai trò của linh mục trong việc giải quyết các nố lương tâm ở lĩnh vực này ra sao? Dù linh mục không thể quyết định về các nố lương tâm giùm cho người khác; cũng không thể áp đặt quả quyết gây xung đột với quyết định của Hội thánh, nhưng vẫn có thể giúp hai vợ chồng hiểu rõ giáo huấn của Hội thánh. Hội thánh, thay vì đưa ra điều lý tưởng xa vời hoặc chỉ hoàn thành một cách chầm chậm, vẫn có cái nhìn về cuộc sống chu toàn trách nhiệm. Bởi thế nên, Hội thánh mới đưa ra giải pháp tự thân, có dụng đích rất mực, để giúp đôi bên cố gắng thích ứng với cuộc sống của mình.
Linh mục đóng vai trò then chốt trong việc hỗ trợ mục vụ và hướng dẫn các cặp phối ngẫu đã ly dị và tái giá. Tuy nhiên, cũng nên nhấn mạnh rằng: lương tâm con người là “cốt lõi của phần sâu kín thánh thiêng”, mà trước mặt Chúa, người ấy lãnh trách nhiệm về các quyết định có tính luân lý của mình (x. Hiến chế Hội thánh trong thế giới hiện đại). Thành thử, không linh mục nào dám nhận trách nhiệm giùm người phối ngẫu, để ra quyết định mang tính luân lý, trong địa hạt này. Và, Hội thánh có thể giúp đỡ cách hay nhất là làm cho mỗi người sống thích ứng lương tâm của họ; sống phù hợp với chân lý. Chỉ lương tâm của người có kinh nghiệm sống và hiểu biết rõ các nguyên tắc khôn ngoan/thận trọng, mới có thể hướng dẫn để đối diện với trường hợp mang tính xúc cảm và khó khăn đó.
Linh mục hoặc cố vấn giáo luật cũng có thể giúp mọi người đưa ra quyết định có ý thức trách nhiệm: thứ nhất, bằng cách lắng tai nghe hầu am tường tình cảnh riêng tư của đương sự về mặt luân lý, cho họ. Thứ đến, qua việc giúp cho đương sự làm sáng tỏ tình cảnh của mình và phản ảnh những vấn đề có liên quan, đang gặp trắc trở. Cuối hết, bằng vào việc đảm bảo rằng:họ am tường tín lý cũng như qui tắc tựa như giáo huấn của Hội thánh về tính khả phân ly của hôn nhân;và về tương quan giữa Hôn nhân và Thánh Thể.
Mục tiêu đối thoại với linh mục hoặc cố vấn linh hồn là để người phối ngẫu thẩm định cho chính mình đâu là “bước kế tiếp”, dù đó không phải là bước cuối, cũng phải dấn thân để rồi mình mới có thể hoà hợp với tương quan mật thiết với Chúa và Hội thánh.
Làm cách nào để người ly dị và tái giá vẫn san sẻ đời sống của Hội thánh? Giải đáp mục vụ của Hội thánh dành cho những người đã ly dị và tiến tới trong hôn nhân lần nữa, không buộc phải dẫn đến việc chối từ quyền được phép rước Chúa. Chính Đức Gio-an Phao-lô Đệ Nhị khi trước, có viết: “Người đã ly dị và tiến thêm bước nữa, không nên tự coi mình như “đã tách rời Hội thánh, bởi vì họ vẫn là người đã được thanh tẩy, nên họ có thể, và thật ra phải được, san sẻ cuộc sống Hội Thánh, mới đúng”. Chẳng một hoàn cảnh nào của con người, lại ra ngoài ân sủng của Thiên Chúa. Và, sự lành thánh luôn nằm trong cảnh tình cụ thể của đời sống mỗi người trong chúng ta. Nhiều trường hợp, phán quyết của toà án Giáo Hội còn hỗ trợ cho hôn nhân bất thường này nọ trở thành hiệu lực, nữa là đằng khác.
Thành thử, khi hôn nhân mới trở hiệu lực, nhiều người đã trải qua đau khổ thật tình; bởi, ở hoàn cảnh ly dị, hoặc tái giá, họ đều thấy không thoải mái mà bước lên rước Chúa vào lòng. Những người ý thức được rằng: hoàn cảnh của họ, trong hiện tại, đang bị cấm rước Chúa vào lòng, không thích đáng để rước Chúa, có thế được hiểu là để chứng tỏ họ trung thành quả cảm nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi hoàn cảnh riêng của mình.
Giáo Hội nhận rằng là cộng đoàn chung sống, ta cũng nên tỏ ra nhạy bén với tình cảnh của những người đã ly thân, ly dị hoặc tiến thêm bước nữa. Nên kiếm cách mà hỗ trợ và nâng đỡ họ theo cách nào thích hợp. Và, nhiều trường hợp, họ cũng lĩnh hội được nhiều bài học quý giá, từ đó. Rất thường, hoàn cảnh của những người bị đổ vỡ trong tương quan vợ chồng, đều chứng tỏ lòng quả cảm và quyết tâm của họ đối với người khác trong cộng đồng dân Chúa.
Chúng ta cũng khích lệ những người anh em này hãy bền đỗ trong nguyện cầu, sám hối và tình thương của Chúa và yêu người đồng loại, để họ có thể đến dự Thánh lễ và các buổi chầu Thánh Thể, đồng thời tham gia sinh hoạt với cộng đồng giáo xứ của họ.
Hội Đồng Giám Mục chúng tôi cũng khuyến khích các vị chủ chăn và giáo dân hãy nâng đỡ mục vụ những người ly dị, và khích lệ họ nên tham gia vào đời sống của Hội thánh trong mọi hoàn cảnh của đời sống. Hội thánh bảo đảm với họ về tình yêu thương liên tục của Đức Kitô. Bảo đảm rằng, Chúa vẫn mong hiệp thông đậm sâu với mọi người như họ.”
Quả thật, cảnh tình người phối ngẫu nam/nữ, vẫn là chuyện dễ bàn hơn đi vào hiện thực. Triết lý dông dài, vẫn dễ hơn sống từng trải. Có nên chăng, một cái nhìn thông thoáng về vấn đề này. Vì, nói gì thì nói, ly thân/ly dị hay tái giá, đâu có nghĩa mình đang trong tình trạng phạm pháp. Nhất thứ, đó lại không là những pháp và luật của đời thường. Mà, chỉ là đời sống thân thương của cộng đoàn dân Chúa. Cộng đoàn dân con Đức Chúa, vẫn sống bằng tình thương yêu, đùm bọc. Bất kể người anh hay người chị ấy có vấn đề, hay không. Bất kể, người anh người chị, người em của mình có là giáo dân hạng thứ, hay có chức có quyền. Bất kể, anh/chị hay em ấy có quá trình sống trong tăm tối từ một cộng đoàn khác nay chuyển đến, không. Năm châu bốn biển, tất cả chung một nhà. Nhất thứ, là nhà Đạo của Đức Chúa. Là, Hội thánh, hoặc còn gọi là Nước Trời ở trần gian. Rất thân. Và rất đáng thương.
Trần Ngọc Mười Hai vẫn ao ước được đón tiếp anh chị người thân đi vào vòng tay ôm thân thương của Hội thánh.
“Giờ mình có nhau rồi, đời đẹp vì tiếng anh cười” (Rm 8: 35)
Một ngày nào, nếu bần đệ hầu chuyện với bầu bạn mà lại thưa: lâu nay chỉ phiếm một mình, chắc hẳn bạn cũng như tôi, chắc chẳng ai tin cả. Quả thật, trong phiếm luận tình đời, phiếm là phiếm với ai. Phiếm cho ai. Không thể nào, có chuyện ngồi phiếm một mình và chỉ với mình thôi.
Bần đạo còn nhớ, trong đoạn viết “Thay cho lời tựa” ở Chuyện Phiếm Đạo Đời số 1, tay chuyên gia truyền thông phát sóng Vũ Nhuận đã hơn một lần bày tỏ: “Có thể chỉ cần một vài độc giả nào đó -qua những chuyện phiếm rất gần gũi với ĐẠO, với ĐỜI- có thể bỗng chốc nhìn thấy một tia sáng soi dọi ĐỜI mình và ĐỜI người, thì hẳn sẽ là niềm an ủi lớn cho tác giả Trần Ngọc Mười Hai.”
Và hôm nay, đàn em họ Trần này, lại được vinh dự nhận thêm nguồn an ủi lớn, từ bầu bạn người thân tuy xa, mà gần. Gần, trong tình thân thương trọn gói với giòng chảy ở đây:
“Vấn nạn anh đưa ra –dù là chuyển ngữ hay dịch thuật tư tưởng của ai đó- xem ra vẫn là ưu tư vấn nạn, rất gay go. Gay, như mình trộm nghĩ, là dù cho anh có bị mang tiếng là cấp tiến hay giỏi viết và lách cách nào đi nữa, cũng không dám nói hết những điều mình nghĩ. Chính vì thế, anh mới phải “mập mờ” trong mấy câu ở cuối bài “Thôi nhé em, mình xa nhau, từ đây!” Mình không có vấn đề về chuyện này. Chuyện ấy là chuyện của mỗi cá nhân. Tôn trọng lòng ao ước chân thành của người khác, là điều đáng quý. Giả như, đôi khi lòng ước ao đó có chút lạm dụng, cũng vẫn tốt như thường. Bởi, cũng chỉ vì muốn cho thiên hạ lạm dụng, nên Thiên Chúa mới là Đức Chúa của chúng mình. Cho phép kẻ khác lạm dụng, ngõ hầu dễ ban phát tình yêu và giúp cho họ cảm nhận được Tình Yêu “điên rồ, khờ dại” của mình cũng là một phần tâm tình của Chúa, thôi. Ấy chết, đây chỉ là những ý mọn mình đưa ra để nói lên một điều mà mình nhớ mãi về lời thánh An-Phong-Sô từng dạy dỗ con cái trong dòng, là: ngay đến những quyết định trong hoàn cảnh bị mù mờ vẫn được tôn trọng như thường. Thật vậy, mấy khi mình đủ sáng suốt. Mấy khi và mấy ai trên thế gian này dám nói là mình “xứng đáng”. Và, một khi đã nhận mình là kẻ bất xứng thì đừng đặt điều này điều kia để trói buộc nhau nữa, mà làm chi. Tóm lại, ngang tàng không phải là cái tội. Ngang tàng, là cơ hội để nhìn thấy rõ tình trạng bướng bỉnh của mình, rồi từ đó mới thấy lòng nhân hậu của Cha cao quí biết dường nào. Chúc anh cứ thế mà ngang tàng như sự ngang tàng của người cha trong bài phiếm mà anh đặt cho đầu đề rất nổ chậm “Thảm cỏ tình yêu dưới chân mình”. Thân.
Trong cảnh tình “cứ tiếp tục mà ngang tàng” để có được tình yêu thương từ người Cha nhân hậu, hôm nay bần đạo lại nhận thêm giòng chảy “phản hồi”, từ một đàn anh khác, bên trời Âu. Anh viết:
“Mình ngỡ ngàng đến thích thú khi nhận được quà bất ngờ là sách “Chuyện Phiếm Đạo-đời I” và bộ CD bạn dành cho mình sự nhớ tưởng và tình thân quá đặc biệt… Mình rất xúc động, và không biết nói sao để cảm ơn bạn đúng với lòng mình mong muốn. Chỉ nói được là mình rất vui được biết có người anh em ở phương trời nào đó vẫn tiếp tục sứ mạng của Dòng trong hoàn cảnh đặc biệt của mình. Như nhà văn St Exupéry viết trong Petit Prince: mình nhìn lên bầu trời và cảm thấy các vì sao thân thương gần gũi làm sao ấy. Vì biết rằng, trên đó có một tình bạn đang chiếu sáng… Nhiều thành phố trên thế giới cũng cho mình cảm thấy cái ấm áp tình người ấy. Cảm ơn bạn và xin Chúa chúc lành trên những bước tiến của bạn. Người anh em nơi bầu trời Thuỵ Sỹ.
Hai bức thư tâm tình, từ những người anh ở rất xa, rất tình và rất thân khiến bần đạo tưởng nhớ đến “bài Tango cho em”, nơi đó cũng có những giòng chảy rất dễ thương, đậm đà tình thân, qua câu:
Từ ngày có em về Nhà mình toàn ánh trăng thề. Giòng nhạc tình đang tắt lâu, Tuôn trào ngọt ngào như giòng suối.
Quả là, khi về bằng giòng chảy điện thư hay bằng nhịp Tango cho ai đó, cũng đã làm:
Anh yêu phút ban đầu, Đẹp nghiêng nghiêng dáng em sầu. Trong mắt em buồn về mau, Em ơi có khi nào lần gặp đây cho mai sau. (Lam Phương – Bài Tango cho em)
Đích thực, “lần gặp đây cho mai sau ấy”, chừng như đã thấy nhắn nhủ ở đâu đó, nơi trình thuật:
“Ai có thể tách ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?” (Rm 8: 35)
Thật ra, có là gươm giáo hay bách hại cũng chẳng thể nào làm cho tình thân giữa em và tôi, nên xa cách. Hoạ chăng là cảnh nghèo. Bởi vì, như kinh thánh vẫn nói:
“Thiên Chúa dùng cái nghèo để giải thoát người nghèo, dùng khổ đau mà mở mắt họ.” (Jb 36: 15)
Ngài dùng cái nghèo là bởi Ngài chính là sự nghèo hèn. Là người nghèo:
“Quả thật, anh em biết Đức Giê-su Kitô, Chúa chúng ta, đã có lòng quảng đại như thế nào; Ngài vốn giàu sang phú quý, Nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, Để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có.” (2Cr 8: 9)
Vì thế: “Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối khi bị sỉ nhục, hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo vì Đức Kitô.” (2 Cr 12: 10)
Cũng thế, người nghệ sĩ ngoài đời cũng hát lên lời ca tương tự:
“Xin cám ơn đời còn nhau, xin ghi phút ban đầu bằng bài Tango cho em. (Lam Phương – bđd)
Viết đến đây, bần đạo lại nhớ đến tâm tình thân thương của một chị khác đã thổ lộ, là chị ấy ao ước được gần gũi Chúa và đã rước Chúa vào lòng dù lúc đó chị chưa rửa tội, vào Đạo. (Chắc chị chưa bị bảo ban: hãy ngồi im một chỗ. Và, việc lên rước Mình Thánh Chúa chỉ dành riêng cho người Công giáo mà thôi… một câu nói mà nhiều người vẫn được nghe ở một vài nơi!). Chị tâm sự rằng: chị cảm thấy được Chúa chấp nhận vô điều kiện, và Chúa chẳng đặt điều kiện/luật lệ với những người như chị. Chị còn nói: chính điều này đã đem lại cho chị một niềm hy vọng để vươn lên, để ngồi dậy, mỗi khi bị đời đánh ngã. Chị nay đã có lòng đạo, rất sốt sắng. Như vậy thì, ai bảo là lòng ước muốn không lôi kéo, không có sức thu hút người ta đến gần với Chúa hơn? Hôm nay, bầu bạn có thương người em còn nghèo và vẫn hèn như độ nào, thì cũng xin cho hơi ấm tình thân thương giữ nhau mãi mãi, chứ đừng cho lời khen. Giữ nhau trong tình thương yêu đậm tính nghèo nhưng không hèn, như truyện kể bên dưới:
“Tôi chỉ là người mẹ nghèo có ba người con nhỏ: đứa 14, đứa 12. Và, Út cưng của tôi mới lên 3. Và, tôi vừa tốt nghiệp cao đẳng, mới đây thôi. Nhưng, để tôi kể cho bạn nghe chuyện đời mài đũng quần ở nhà trường, vào buổi cuối. Buổi học cuối cùng, là môn xã hội học. Bà thầy ra lệnh cho học sinh muốn tốt nghiệp phải viết một luận án vài nghìn chữ hoặc nói về một “kế hoạch nhỏ” đánh động tình người. Tình nhân loại. Với chủ đề “Nụ cười”.
Bà thầy của tôi, yêu cầu mỗi học sinh trong lớp phải ra ngoài gặp mọi người và nhoẻn một nụ cười với họ. Khi về, nhớ ghi phản ứng của mấy người ấy.
Với tôi, đó là chuyện nhỏ. Bởi lẽ, tôi vẫn có tính la cà, hàn huyên với mọi người, bất kể lạ hay quen. Thành thử, chuyện này cũng dễ thôi. Xem thế, sau khi đồng ý sẽ thực hiện kế hoạch bà thầy bày ra, ông xã, và tôi cùng đứa con út quyết định đến quán McDonald’s để ăn sáng và tiến hành dự án. Cũng để chia sẻ niềm vui cuộc đời với đứa con còn nhỏ.
Lúc ấy, bọn tôi đang xếp hàng chờ đến phiên mình ra đơn đặt hàng, bỗng thấy mọi người chung quanh đang đứng đó tự nhiên dạt ra một, chẳng nguyên cớ. Ông chồng tôi cũng làm thế. Còn tôi, thì không. Bất chợt, trong tôi dấy lên tâm tình hãi sợ, một chút thôi. Định thần nhìn quanh, tôi đánh hơi ngửi thấy một mùi hôi khủng khiếp, ngay sau lưng mình. Mùi này, phát từ hai người đàn ông chừng như thuộc giới “vô gia cư, chết vô địa táng”, thì phải. Tôi nhìn về phía một người khá thấp, đứng sát sau lưng, thấy hắn ta nhoẻn một nụ cười mỉm, chào thân thiện. Nụ cười kèm theo ánh mắt đầy những sao trời xanh biếc. Chừng như, anh đang mải đếm các đồng tiền kẽm còn sót, rất chậm.
Người đàn ông kế bên, lóng ngóng lục tìm nơi túi quần có lỗ lủng để coi xem có đủ tiền không. Tôi đoán chừng người này bị chứng chậm phát triển hay tâm thần phân liệt, gì đó không chừng. Anh mải nhìn vào người bạn phía trước bằng đôi mắt trông chờ, sự cứu bồ.
Tôi vội nén giọt nước mắt chừng đang muốn lăn từ khoé mắt. May thay, cô bé bán hàng kịp đến vội hỏi xem hai người muốn thứ gì. Bèn nhận được câu trả lời cụt ngủn: -Chỉ một ly đen thôi, cô ạ. Tôi đoán, họ cũng chỉ còn nhiêu đó để trả. Vì theo luật, muốn ngồi chỗ ấm, người nào cũng phải mua thứ gì tối thiểu. Tôi chợt nhận ra như có lực đẩy nào dồn lên tận cổ báo hiệu tôi phải làm việc gì, tựa như chạy đến ôm cổ người bạn mới gặp có cặp mắt trong xanh, nhưng hơi nghèo. Bất chợt, tôi thấy như mọi cặp mắt đang đổ dồn cả về phía tôi, chờ đợi một phản ứng.
Tôi bắt chước nhoẻn nụ cười đáp trả, và bảo cô bé nơi quầy cho thêm hai phần ăn để riêng khay. Xong rồi, tôi mang lại chỗ hai người khách lạ đang xì xụp hớp ngụm cà-phê nóng. Tôi để khay bánh xuống trước mặt từng người, và tôi đưa tay đặt nhẹ bàn tay lên bàn tay người khách lạ có cặp mắt xanh thiên thần. Anh ta ngẩng đầu nhìn tôi, rồi nói: “cảm ơn chị rất nhiều.” Tôi đập mạnh vào tay anh, bảo: Tôi làm việc này không phải cho anh đâu. Nhưng chính Đức Chúa hành động qua tôi, đem đến cho anh một hy vọng.
Bước chân rời khỏi cửa tiệm, gặp ông chồng và con đang đứng chờ, tôi chợt thấy mình như đang khóc. Khi ngồi vào xe, chồng tôi bảo nhỏ: “Em cưng, anh cũng thấy Chúa gửi em đến với anh là để vợ chồng mình trao cho nhau niềm hy vọng.” Chúng tôi nắm tay nhau một chốc lát, biết rằng đó là giây phút quý báu. Là, ân huệ Trời cho để chúng tôi có thể cho đi những gì mình có, ít ra là niềm hy vọng.Bọn tôi không có thói quen đi nhà thờ, nhưng vẫn tin có Chúa hoạt động trong mỗi người chúng ta. Và, bữa hôm đó đích thực là tôi đã nhận ra được ánh sáng tình yêu thương ngọt ngào của Thiên Chúa.
Trở về trường nộp bài viết về “kế hoạch nhỏ” của mình, tôi thấy bà thầy cúi xuống nhìn vào bài làm của tôi và hỏi xem tôi có bằng lòng cho cô đọc lớn tiếng để các bạn học cùng chia sẻ không. Tôi đồng ý và nghe cô đọc lớn tiếng “kế hoạch nhỏ” của tôi.Trong lúc bà thầy đọc, trong tôi bất chợt nảy sinh một cảm nghiệm: làm người phàm nhưng tôi vẫn là thành viên được san sẻ Tình thương yêu của Đức Chúa. Và, chính tình thương đã giúp những người như tôi chữa lành được nhiều và tôi cũng được mọi người chữa cho mình lành lặn.
Và, theo cách thức riêng tư của mình, tôi đã đánh động tâm can nhiều người có mặt ở tiệm bán bánh hôm ấy. Đánh động con út, cũng như bà thầy và các bạn học vẫn cùng san sẻ với tôi khung trời tuổi nhỏ chốn học đường. Và, tôi đã tốt nghiệp cao đẳng với thành tích đạt được, có ghi trong học bạ: Chấp nhận vô điều kiện. Đó là ý nghĩa của tình yêu. Và, của cuộc sống. Cũng từ đó, tôi phát giác ra được bài học để đời, đó là: yêu thương mọi người và sử dụng mọi đồ vật, chứ không phải yêu thương đồ vật mà sử dụng mọi người. Và, cũng từ đó, trong tôi nảy sinh thêm nhiều điều mới lạ khác. Những chuyện như: Rất nhiều điều đi vào và rồi rời hỏi cuộc đời mình, nhưng chỉ mỗi bạn hiền đích thật mới để lại các dấu ấn nơi tâm can mình, thôi.
Thành ra, tôi đã quyết tâm từ nay: muốn kềm chế chính mình, hãy sử dụng bộ óc. Muốn kềm chế người khác, hãy sử dụng con tim. Thiên Chúa ban tặng loài chim thực phẩm thích hợp với chúng, nhưng Ngài không bao giờ ném thức ăn vào tổ của chúng.
Thực phẩm nuôi dưỡng tình thân thương bạn bè cũng thế, không phải cứ ngồi chờ nơi tổ ấm riêng tư của mình là có người đi qua ném vào đó, nhưng vẫn là một hành trình, cần dựng xây. Trong kiên nhẫn.
Cũng thế, trong hành trình dựng xây sự thân thương cùng khắp, bạn cũng như tôi, ta chỉ thấy “đời đẹp vì tiếng anh cười”. Anh đã cười, và sẽ cười mãi vì “giờ mình có nhau rồi.” Và, như nghệ sĩ khi xưa vẫn thường hát:
“Giờ mình có nhau rồi đời đẹp vì tiếng em cười Vượt ngàn trùng qua bể khơi, Dắt dìu cùng về căn nhà mới. Ta xây vách chung tình, Nhiều chông gai có tay mình. Xin cảm ơn đời còn nhau, Xin ghi phút ban đầu bằng bài TANGO cho em.” (Lam Phương – bđd)
Cho dù người em hay người anh có bất xứng, hôi hám hoặc nghèo hèn, thì bạn và tôi, ta vẫn cứ luôn hát “Bài Tango cho em” nhé. Hát cho nhau. Cho vui cuộc đời.
Trần Ngọc Mười Hai vẫn muốn hát bài Tango cho bạn và cho tôi cho vui cuộc đời. Rất đáng vui.
Phụ Lục
Tâm tình tác giả.
Chà! Tiết mục này, nghe có vẻ to tát quá. Nhưng trước khi đi vào chi tiết, xin thay mặt cho bản thân, gia đình và các thành viên trong ban tổ chức, xin được gửi đến tất cả các anh các chị có mặt ở đây, lời chào rất tâm tình và cũng rất biết ơn. Trước tiên, xin cảm ơn tất cả các anh chị đã bỏ thì giờ đến đây tỏ bày sự thân thương đối với chúng tôi. Nhất là Linh Mục Thinh, mà chúng tôi vẫn gọi Linh mục “nhà” là đã bay từ Melbourne về sáng nay., thật là cảm động. Và, với một cử toạ đông đảo như thế này chứng tỏ là anh em chúng ta đang làm một việc rất ư là vui thích. Đáng khích lệ. Tiếp đến cũng xin cảm ơn cha chánh xứ Dominic Trung đã cho phép chúng tôi mượn hội trường thực hiện buổi này. Cảm ơn “Người bạn đời luôn đồng hành trong hành trình đi Đạo” của tôi, các anh chị trong ban tổ chức, như: Vũ Nhuận, Huỳnh Công Lợi, Nguyễn Duy Lâm, Nguyễn Phương Anh, Nguyễn Văn Thắng, các anh chị trong ban đàn ca là: anh Đặng Hữu Hiếu, chị Lệ mai, Tuyết Lê, Tuyết Trinh, Thanh Xuân ,Thành Minh và Quốc Danh, anh chị em,con cháu trong nhà và tất cả các vị thiện nguyện đằng sau hậu trường... đã biến buổi này thành hiện thực. Và, hiện thực trong an bình, hài hoà. Tiếp đến, khi được yêu cầu nói đôi ba “tâm tình của tác giả”, xin thú thật là khi viết chuyện phiếm, tôi chả bao giờ dám nghĩ mình sẽ là tác giả, hay tác thiệt, hết. Nhưng nếu quý vị muốn biết rõ tâm tình của người cầm bút khi viết những chuyện lăng nhăng gọi là phiếm loạn, thì xin được phép bộc lộ ngay. Không dám giấu diếm. Nhưng để cho ngắn và gọn, xin dùng hình thức tự hỏi và tự đáp. Cho nó thân mật và cũng để tranh thủ thì giờ của quý vị. Vâng, xin nói sơ vài điểm gọi là có một chút quá khứ và hiện tại trong việc viết và lách, những “Phiếm Đạo đời”. Truớc nhất là đầu đề: Tại sao gọi là chuyện phiếm? Tại sao tác giả tác thiệt không dùng tên thật hoặc bút hiệu nào nổ lốp bốp một chút, đằng này… Và, quá trình cũng như vài chuyện bên lề khi viết chuyện phiếm Đạo - đời. Nếu có ai hỏi: Tại sao anh gọi đó là “Chuyện Phiếm”? Và, anh có ý định phiếm từ hồi nào? -Xin trả lời: Vào cuối thập niên ’60, lúc mà bọn tôi còn ngồi ở ghế nhà trường trung học, tôi đã lẳng lặng truy tìm nhật báo “Tự Do” trong đó có mục “Chuyện phiếm hàng tuần” của một nhà văn lấy tên là Hiếu Chân. Về sau được biết ông là thầy giáo, biết rất nhiều thứ, dạy rất nhiều điều. Nhưng chỉ thích viết những gì có liên quan đến sự thật. Mà lại thích viết những điều rất lan man, rất tản mạn. Không chuyên về một điều gì. Nhưng mỗi điều ông viết đều tìm cái chân thiện và mỹ của nó. Cũng từ đó, tôi mê kiểu viết của ông và có ước nguyện sau này sẽ tập tành bắt chước ông, tản mạn được chừng nào hay chừng đó. (Xin mở ngoặc ở đây: lúc ấy tôi mê bài viết của Hiếu Chân chứ không phải là mê cái chân của ông Hiếu đâu). Tôi cũng không biết tên thật của ông là gì nữa. *Hỏi: Tôi có ý định viết và bắt đầu viết phiếm từ hồi nào? -Thật sự mà nói, tôi bắt đầu viết báo tường và báo lớp từ năm học đệ nhị đệ nhất (tức lớp 11, 12), những từ ngày qua Úc, với nhu cầu thành lập và duy trì nội san liên lạc của anh em cựu tu sinh DCCT là tờ Duc in Altum (Ra Khơi) bắt đầu từ năm 1992, như anh Nhuận vừa nói đến. Lúc ấy viết phiếm là để ghi nhớ những mẩu vụn tâm tư xảy đến trong quá trình sống Đạo ở đời, thôi. *Và nếu hỏi, tại sao không dùng các đầu đề như: Suy tư về Đạo? Suy niệm Lời Chúa? v.v. -Thì xin thưa ngay rằng: đầu óc thằng bé cò kém cỏi, lắm. Chẳng dám múa rìu qua mắt bậc đàn anh linh mục, hoặc các thày vừa dạy vừa chạy đâu. *Còn, hỏi tại sao lại đặt tên là: Đạo-đời. Nghe hơi giống Đạo vào Đời, thế? - Xin thưa là: vào cuối năm 1968, hoặc đầu 1969 ở học viện Dòng Chúa Cứu Thế Đà Lạt, anh em chúng tôi lúc ấy đang “rộn” lên với bầu khí “Vào đời”, nào là “Ca vào đời” “Đạo vào đời”, tu sinh vào đời, vv các anh Nguyễn Thành Tâm, Trần Sĩ Tín, Nguyễn Đức Mầu, Cao Đăng Minh, Nguyễn Tiến Lộc, Vũ Đức Nhuận, Lương Thế Vinh, Nguyễn Quốc Tuấn và nhiều anh em khác trong đó có tiểu đệ họ Trần này thực hiện một ban đàn hát mang tên Ban Hallêluyah, gồm những ông thầy trẻ áo chùng thâm cổ trắng, mang đàn mang kèn trống lên đường đến với những người trẻ ở giáo phận Đà lạt, hát cho nhau nghe những bài ca “Vào đời”, “Trên đường Emmau”, để nói rằng: “Chúa yêu trần thế”, có “Người gieo giống ra đi reo lúa trên ruộng mình” vân vân… Cũng từ đó, bọn chúng tôi cảm thấy có nhu cầu đem Đạo vào đời bằng những phương tiện thích hợp với người trẻ hơn. Và hôm nay, 40 năm nhìn lại, bản thân tôi thấy mình không còn sức để đàn và hát nữa, bèn nghĩ ra cách khác cũng đem Đạo vào đời cho những người đọc còn trẻ, chỉ thích chuyện vui. Dù là vui đời đi Đạo. Và, sống Đạo giữa đời. *Câu hỏi cuối: tại sao đã tính ra sách rồi lại còn ra CD, MP3 hoặc Website, Youtube để làm gì? -Thì xin thưa với quý vị, là: lúc đầu bản thân tôi chỉ muốn viết và lách thôi, nhưng giới trẻ và giới đã bớt trẻ bây giờ thấy có nhu cầu là giáo hội phải theo kịp thời đại trong rao truyền lời Chúa bằng phương tiện truyền thông hiện đại như các CDs mà quý vị thấy có mặt cùng lúc với ấn phẩm, đây. Thú thật, về mấy thứ này, tôi cũng mù tịt như một số các bạn già ở các nơi, bèn uỷ thác việc này cho các anh em trẻ người hoặc trẻ về tinh thần, thôi. Hy vọng là mấy lời tâm huyết ở đây cũng đủ nói lên khát vọng và công việc mà một số anh em trong gia đình An Phong ở Sydney đang và sẽ thực hiện. Muốn thành công trong chuyện này, phải có sự tiếp tay của tất cả quý vị, người nghe cũng như người đọc, để Đạo của ta cứ phom phom đi vào cuộc đời, của mọi người. Đó là tâm tình rất bé nhỏ của bần đạo và bần đệ các anh các chị đây. Xin Ơn Trên phụ giúp cho công việc của mọi người chúng ta được tiếp tục và thực hiện có kết quả. À quên, còn một câu hỏi nhỏ của một bạn vừa mới quen, hỏi rằng: tại sao tác giả “chuyện phiếm” không lấy tên thật mà lại dùng bút hiệu dài dòng quá như thế? - Xin thưa: thoạt khi sinh ra, tôi đã là người thứ muời hai trong gia đình, các cụ tìm không ra tên nào hay hơn nữa, bèn đặt tạm tên Trần Ngọc Tá rồi sẽ hỏi cha Trịnh Như Khuê (hẹn rằng sẽ hội ý cha Trịnh Như Khuê, lúc ấy cha xứ nhà thờ Hàm Long Hà Nội), rồi sửa đổi sau. Nhưng vị, cha xứ sau đó làm Tổng Giám Mục rồi Hồng Y, các cụ không dám quấy rầy cha cố nữa bèn quên bẵng đi mất. Để rồi thằng cháu, khi di cư vào Nha Trang, quan chức gọi tên, thì thay vì Trần ngọc Tá, cứ đọc là Trần Ngọc “Té”, nghe như thằng bé bị té giếng không nghe gọi, mãi chẳng xuất hiện… Thôi thì, xin chọn tên này làm … quê hương, dẫu cho khó thương. Và, đó là những tâm tình hơi khó thương, nhưng có thật, đấy ạ. Và, bây giờ xin cho em về lại dưới giếng … tình thương có những chuyện phiếm rất Đạo, nhưng không đời, được chứ ạ?
Trần Ngọc Mười Hai
CHUYỆN PHIẾM ĐẠO ĐỜI – TẬP II
5. Nếu vắng anh, ai dìu em đi trong chiều lộng gió 14. Anh đi về đâu mà bụi đường vương trên mái tóc 21. Đấng trung gian cầu bầu đã nên duyên 26. Lênh đênh ngàn mây trôi êm đềm 33. Và niềm tin đã dâng về người, tôi hy vọng được ơn cứu rỗi 41. An ninh, an bình và bất an 49. Dìu nhau đi chung một niềm thương 61. Thiên Đàng hỏa ngục hai bên 69. Tha rồi hãy quên 75. Có một lần tôi đưa em về trên đỉnh yên bình hiền hòa 82. Xin cho thương em thật lòng, còn có khi lòng thôi giá băng 88. Thương khó- Khó thương, vẫn cứ thương mà không khó 93. Bàn tây đưa anh ra khỏi long đời 101. Tình yêu- sự chết – hai điểm nóng của cuộc đời 105. Tôi thấy em trong tiền kiếp trong cọng buồn cỏ cây 114. Đêm qua chưa mà trời sao vội sáng 122. Em đứng lên gọi mưa vào hạ 130. Nhẹ nhàng như gió thì thầm 136. Đã là sự thật sao vẫn còn ngờ 146. Bảo đảm, bảo trợ lẫn bảo kê 152. Cầu xin: nguyện cầu hay xin xỏ? 159. Hạnh phúc tôi những ngày con nước về 167. Cho Không- Không Cho -Hai cụm từ quanh một chữ “Cho” 172. Đau thương xé nát môi gầy, mà long vẫn mơ say 180. Một Thời Để Phiếm, Những Đạo Và Đời 185. Em ngồi đây với anh trong cuộc đời này 191. Biết làm sao định nghĩa được tình yêu 198. Ước vọng- Dục vọng – Hy vọng 204. Em có nghe chăng một dặn dò 211. Anh đi về dấu giáo đường, cho cuộc tình bay cao 219. Nghịch lý- Nghịch thường 227. Nụ cười quên tắt trên môi 232. Những chuyên kể năm hai ngàn lẻ 240. Thảm cỏ tình yêu dứơi chân mình 247. Thôi nhé nghe em mình xa nhau từ đây 256. Giờ mình có nhau rồi, đời đẹp vì Tiếng Anh Cười
|
Trần Ngọc Mười Hai > Chuyện Phiếm Đạo Đời >