Duc in altum số 61

Gia Đình An Phong Chi Hội Sydney    Mừng Lễ Thánh Tổ

Một lần nữa gia đình anh chị Phạm Văn Chuơng lại có dịp mở rộng vòng tay để tiếp đón chi hội đến để mừng Lễ Cha Thánh An Phong vào chiều chủ nhật 3 tháng 8 năm 2008. Từ vài ngày truớc, cá nhân anh Chương – nhờ mới về hưu – nên đã có thời gian trang hoàng nhà cửa và cũng là cơ hội làm vệ sinh trong ngoài  – điều chắc chắn đã làm vui lòng bà xã.

Hiện diện trong buổi gặp gỡ, ngoài người anh em LM Giuse Mai Văn Thịnh – luôn luôn có mặt trên từng cây số – còn có anh LM Giuse Hồ Đắc Tâm – đến từ kinh thành ánh sáng BaLê nhân dịp tham dự Đại Hội Giới Trẻ WYD Sydney. Bác huynh trưởng Nguyễn Ngọc Liên, vì tình hình sức khoẻ, không thể đến, thế nhưng trong một lá thư đầy tình nghĩa, đã gửi lời mừng lễ và không quên đóng góp cho Dòng Mẹ và ủng hộ cho nội san Duc In Altum. Ngoài ra một sự hiện diện khá bất ngờ, đó là 2 bác Nguyễn Anh Cung từ Adelaide vừa đến phi trường Sydney đã được chở ngay đến địa diểm tập họp để cùng chung vui trong ngày lễ Cha Thánh. Tuy nhiên chi hội nhận thấy có sự thiếu vắng một số khuôn mặt thân thuơng, có thể là vì một lý do bất khả kháng nào đó. Thế nhưng các bạn đã không quên nghĩa vụ đóng góp và nhất là Dòng Thánh vẫn được thường xuyên nhớ đến trong lời kinh nguyện. Như vậy là cũng đủ rồi. Chi hội  cũng xin ghi nhận sự có mặt quý báu của một số thân hữu như chị Tính, a/c LoanDũng, gia đình các cháu của anh chị Chương, của anh chị Tá, 2 cháu BBảo/Tuấn con a/c Bình gia đình các em Nam/Vân.. …….. .. 

Theo chương trình dự trù 3 giờ có mặt và đúng 4 giờ, qua một vài lời giới thiệu thân tình và dí dỏm của VNhuận, thánh lễ đã bắt đầu trong một bầu không khí ấm cúng gia đình. Có lẽ theo một truyền thống tốt đẹp nào đó mà LM MVThịnh đã dành vai trò chủ tế cho LM HĐTâm. Trong bài chia sẻ, LM HĐTâm -  qua đôi lời ngắn gọn - đã nhắc đến lý tưởng của DCCT là quan tâm đến giới nghèo và trong tình hình hiện tại cần phải mạnh dạn và tích cực nêu lên vấn đề công lý. Thánh lễ đã chấm dứt với 1 bài hát truyền thống về Cha Thánh An Phong.

Sau đó, chi hội trường Nguyễn Đắc Dũng – trong ngày cuối cùng tại chức – đã chào mừng và chúc lễ mọi người. Nhân dịp này, anh LDPhước – có người thân là chị Tuyết Hoa mới qua đời – đã có lời cám ơn chi hội qua những tâm tình quý báu và xin mọi người tiếp tục cầu nguyện cho người quá cố. Kế tiếp anh TNTá cho biết một vài thông tin mới nhất – dưới hình thức chuyện phiếm (sở trường của chàng)   mà người thân trong gia đình thường yêu thương gọi đó là những

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                      Số 63 – Quý 3 2008

.. con vịt cồ. Thế nhưng, điều thú vị là những con vịt cồ đó đôi khi lại là chuyện có thực 100%. Vấn đề chỉ là thời gian, cứ đợi vài ba năm rồi sẽ rõ..Tớ đã bảo mà ! 

Theo thông lệ, trong buổi họp mặt mừng lễ Cha Thánh lần này, chi hội sẽ bầu lại chi hội trưởng & phó. Phải nói là trong nhiệm kỳ 2 năm vừa qua, cặp bài trùng NĐDũng và HCLợi đã có nhứng nỗ lực lớn trong việc liên lạc và tạo tình thân trong chi hội ngày càng bền chặt. Để chuẩn bị cho việc bầu bán lần này, đã có những vận động tuy ngấm ngầm, thế nhưng không thiếu phần áp lực – đương nhiên cũng chỉ trong tinh thần anh em. Chẳng thế mà nguời sắp sửa được đề cử vào chức Chi Hội Trưởng mới buớc chân vào nhà anh chị Chương đã được cháu Su – con của anh chị LVKhuê ở Việt Nam – hởn hở bắt tay chào: CHÚC MỪNG CHÚ. Rõ ràng là Ý TRỜI rồi còn gì!

            Quả là một cuộc bầu cử .. chẳng giống ai. Thế nhưng điều đáng nói là chẳng ai lấy làm điều và vì thế chức chi hội trưởng & phó đã mau lẹ về tay Nguyển Duy Lâm và Trần Ngọc Tá. Ngay sau đó lễ bàn giao được tổ chức – có lẽ vì sợ có sự đổi ý vào phút chót - với một cặp táp đựng giấy tờ, tài liệu, hình ảnh cũng như tiền qũy ( xin nói nhỏ không còn một cắc, vì rằng sống theo tinh thần tin mừng là luôn luôn sẵn sàng không biết Chúa gọi chi hội về lúc nào ! ) đã được chuyển lại cho ban điều hành mới. Để cho thêm phần trịnh trọng, các phu nhân đã được mời lên đứng chung vói các đức lang quân để chứng tỏ cùng gánh vác trách nhiệm được chi hội giao phó. Trách nhiệm có nặng đến mấy đi chăng nữa mà nếu có sự tiếp tay của các chị, thì rồi cũng xong thôi.

Qua đến phần quyên góp giúp Tỉnh Dòng Việt Nam, thì xem ra ai cũng đều nhớ và hoàn toàn trên tình thần tự nguyện và tùy hoàn cảnh tài chánh của mỗi gia đình. Tin sơ khởi cho biết là số tiền đóng góp năm nay rất khả quan. Hy vọng chi tiết việc đóng góp này được cung cấp đầy đủ trong nội san DIA.

Cuối cùng là phần liên hoan, cũng với những món ăn gia truyền, nặng tình, nặng nghĩa. Đây quả là lúc hàn huyên tâm sự, vì rằng có những anh chị em chỉ qua những buổi gặp gỡ như thế này mới biết được tin tức của nhau và của nhà Dòng. Buổi họp mặt tuy đã kết thúc, thế nhưng một số thành phần khilikhitô, thì vẫn còn tiếp tục chiến đấu và thường trong những giấy phút như vậy thì sáng kiến mới ứa trào. Giả dụ như có một đề nghị là có thể trong nhiệm kỳ tới – 2 năm nữa – tại sao không bầu cho các chị làm chi hội trưởng - phó. Biết đâu các chị sẽ mang đến một luồng gió mới mà xem ra lúc này rất cần cho một chi hội mà thành viên trẻ nhất cũng xấp xỉ .. 5 bó rồi. _____________________TẦU HÁ MỒM GHI NHANH

Góp nhặt sỏi đá

Vào buổi họp mặt

ngày 03/8/2008,

mừng lễ thánh tổ

An Phong Đệ Li-gô-ri

anh chị em 

Gia Đình An Phong Sydney

đã quyên góp tiền/quà

gửi về giúp

đào tạo linh mục

Dòng Chúa Cứu Thế Việt nam,

như sau: 

__________________________

Anh chị Huỳnh Công Lợi           $150

Anh chị Nguyễn Đắc Dzũng      $150

Hai Bác Trần Ngọc Liên            $150   

Anh chị Nguyễn Kim Linh          $150

Anh chị Phạm Văn Chương      $200

Anh chị Nguyễn Văn Dũng        $150

Anh chị Vũ Nhuận                      $500

Hai bác Nguyễn Anh Cung        $150

Anh chị Nguyễn Anh Phương    $50

Anh chị Nguyễn Duy Lâm          $140   

Bác Nguyễn văn Kim  - Oanh    $100

Anh chị Lê Duy Phước              $150

Anh chị Nguyễn Quý Bân          $150

Anh chị Nguyễn Tiến Hùng       $200

Anh chị Trần Ngọc Tá               $350

Anh chị Nguyễn An Bình           $200

Anh chị Nguyễn Minh Tâm         $100

Anh chị nguyễn Duy Vũ             $1000

Anh chị Nguyễn Hồng Tân        $150   

Cô Trần Thị Bích Huyền            $50

Cháu LêVăn ThụNhân-Phượng $50

Anh chị Vũ Hải Nam                   $100 

Anh chị Đỗ Quốc Dũng - Loan   $200

Anh chị Trần Hùng & Dung        $100   

Chị Nguyễn Thị Đào Hường      $120

Chị Nguyễn Thị Thả & Phụng    $240

Chị Hồng Phước & Ánh Mai      $20   

Anh chị Mai Thành Hải              $100

Cháu Trần Đàm ThiênÂn-Thư   $200

Cháu Trần Đàm Việt Quốc        $760

            Tổng cộng:         ______$6,230

 

 

Sydney góp tặng Nhà Đệ tử Nha Trang:

Anh chị Nguyễn Tiến Hùng                                       $100

Anh chị Nguyễn An Bình                                           $200

Anh chị nguyễn Duy Lâm                                          $150

Anh chị nguyễn Đắc Dũng                                        $200

Anh chị Huỳnh Công Lợi                                             $50

Anh chị Vũ Nhuận                                                       $50

Anh chị nguyễn Văn Dũng                                        $100

Anh chị Phạm Văn Chương                                     $100

Anh chị Lê Duy Phước                                             $100

Anh chị Nguyễn Minh Tâm                                        $100

Một gia đình không ghi tên                                        $650

Quà tặng lai rai dịp ĐHGTTG08                                $950

(Các anh chị đóng góp năm 2008:

NĐDũng $50,Mai Tá $50,NTHùng $50

 PVChương $50,ĐỗThiThuVân $50)                            $250

            Tổng cộng:                ___________          $3,000

    Ai tín

___________________________

Gia đình An Phong Sydney

rất đau buồn

được tin

thành viên gia đình,

chị Têrêsa

Nguyễn Thị Tuyết Hoa

đã về nhà Cha

hôm 27/7/2008

Cầu Chúa nhân từ

mở rộng vòng tay

đón tiếp chị

về chốn miên trường.

Hạnh phúc.

Gia đình An Phong

thành thực phân ưu

cùng Anh Maurice

Lê Duy Phước

và gia đình.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


      

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                               

                                               

 

 

 

 

Gia đình An Phong

cũng được tin

Hiền thê của

Bác Trần Tứ cảnh

là Maria Mađalêna

Trần Thị Cơ

đã về nhà Cha

hôm 24.08.2008,

sau 92 năm

cùng hành trình

trên dương thế.

Cầu Chúa nhân từ

thương đón

Linh hồn

Maria Mađalêna

về nơi an nghỉ 

chốn vĩnh hằng.

Gia đình An Phong

Sydney

thành kính

phân ưu cùng

Bác Trần Tứ Cảnh

và bửu quyến

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

                                                     

                                                     

 

     Lễ Chúa Cứu Thế:

  niềm lạc quan mới

Lm Kevin O’Shea CssR

            LTS.

            Suy niệm này, do Lm Kevin O’Shea nguyên Giáo sư Học viện Liên Dòng ở Rôma và Melbourne, gửi đến các sĩ tử của Dòng thánh ở Úc. Anh Mai Văn Thịnh, kỳ này không đóng góp cho DIA được bài nào, đã yêu cầu Mai Tá chuyển ngữ, để gửi đến bà con.    

 

            Mỗi năm, vào ngày 20 tháng Bẩy, Dòng thánh chúng ta vẫn mừng lễ Chúa Cứu Thế, ở khắp nơi. Chúa Cứu Thế, là danh xưng của Dòng, có từ ban đầu. Nên, lễ này còn là đại lễ của Dòng. Và, danh xưng Chúa Cứu Thế, là biểu tượng nói lên lý lịch của mọi sĩ tử ở trong cũng như ngoài. Nói lý lịch, là nói đến công việc hiện thời chúng ta đang làm. Là, hỏi sao ta vẫn có thể gắn bó với nhau? Vẫn cùng chung sống chung? Vẫn cùng làm? Tại sao ta vẫn cùng hướng mình về một mục đích, cả vào thời buổi này? Trả lời các câu hỏi trên, hẳn ai trong chúng ta cũng đều hơn một lần có kinh nghiệm bản thân. Kinh nghiệm, trong bàn bạc. Kinh nghiệm, có tranh luận. Bổ sung. Năm nay, ta lại có thêm lý do để mừng lễ Chúa Cứu Thế một cách long trọng hơn; vì có thêm niềm lạc quan mới. Lạc quan và biết ơn, khi ta sẻ san mầu nhiệm cứu độ, ta vẫn mừng kính.

            Niềm lạc quan tôi muốn nói, là sự vui mừng trong mục vụ mà Chúa Giê-su Cứu Thế mang đến cho chúng ta.

            Cách đây không lâu, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã ra tông thư “Niềm Hy Vọng Cứu Độ” (Spe Salvi), qua đó ngài nhấn mạnh nhiều về điểm mà ta hằng quan tâm, là: nhờ hy vọng ta mới được cứu rỗi. Hy vọng, không làm ai chán ngán. Ủ ê. Có hy vọng, ta mới kinh nghiệm được việc mình làm, không trở nên hư luống. Thiển nghĩ, nỗi niềm lạc quan, là hoa quả của hy vọng, giúp ta xét nghiệm tính chất chân thực của hy vọng ấy. Lạc quan, là vì: những điều tốt đẹp không là chuyện xảy đến trong lai thời, mà là chuyện đang diễn tiến. Là, những gì đang thực sự xảy đến.

            Niềm lạc quan đến trong mọi khoảnh khắc ở đời sống Giáo hội. Đến, từ ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập thể: tức, no đầy sự sống thánh thiêng, Chúa phú ban. Và, trong trường hợp của chúng ta, niềm lạc quan còn đến với ý nghĩa đặc biệt có chiều kích Cứu Thế trong Nhập thể. Xem như thế, tính chất đầy đặn của sự sống thánh thiêng được trao ban ngang qua ta. Và, qua công việc mục vụ ta thực hiện với cho người khèo khó/tất bạt. Và, khi cảm nghiệm rằng việc ấy đang diễn tiến, không thể thực hiện được, nếu không có niềm lạc quan.

           

 

Có ba phương cách chính yếu diễn tả niềm lạc quan, như sau:

1.Phương cách kể truyện, rất mới mẻ:

Thiển nghĩ, mọi người chúng ta đều có thừa khả năng rao giảng. Và, tất cả anh em mình đều đã và đang thành công trong việc này. Ai trong chúng ta cũng đều có tài kể truyện. Nhưng ta biết được nhiều chuyện hay hơn các truyện ta vẫn kể. Đó là truyện về Đức Kitô Phục Sinh và sự sống lại của mọi người nghèo hèn được Chúa dấu yêu, đã sống trong Ngài. Và, với Ngài, người tất bạt/nghèo hèn không phải là người bị bỏ rơi, nhưng chính là người được Chúa dấu yêu, vẫn còn đang sống trong cảnh nghèo hèn. Tất bạt. Và, ta đều hiểu biết rằng truyện chúng ta kể, sẽ kết thúc như thế nào. Nói cách khác, truyện kể ấy đã kết thúc trong sự phục sinh của Ngài và sự sống lại của mỗi người chúng ta. Chúng ta hăng say kể về sự Phục Sinh được hoàn tất bằng hoà giải, ngang qua mọi thuyết phục. Thuyết phục bằng ý nghĩa của sự sống có phục sinh. Tức, sự sống của Đức Kitô mà chúng ta và những người tất bạt đang san sẻ. Thuyết phục, làm trỗi dậy những cảm nghiệm đọng-lắng, những nét đẹp về những điều Ngài ban cho tất cả chúng ta. Là, truyện kể về Chúa Cứu Thế rất chí thánh. Về, sự kiện Ngài vẫn tiếp tục cứu chuộc…                         

2. Phương cách mới hướng dẫn hành động:

Toàn thể Giáo hội đều biết rằng ơn Chúa quan phòng đang dẫn dắt ta, qua suốt chặng dài đường đời. Đi vào cuộc với công cuộc thừa sai - mục vụ, rất năng động. Rất mới mẻ. Giáo hội ta đã thay đổi. Dòng thánh mình cũng đổi thay. Ơn Chúa quan phòng, gửi đến chúng ta đường hướng tông đồ, rất mới. Không chỉ là tông đồ thừa sai ở nước ngoài trong khi các người anh em dòng Biển Đức, vùng Chartres lại thất bại, ở tại nhà. Thừa sai không chỉ theo mẫu mực ‘tông đồ bác ái’. Không chỉ lo hoàn tất mỗi kỳ đại phước được trọng dụng và ưu đãi nhờ tăm tiếng nổi cộm (tựa hồ kiểu thừa sai ở các giáo xứ, khi xưa). Nhưng, tất cả đều mới mẻ. Truyện mới. Địa điểm mới. Người mới. Phương cách mới. Không chỉ như một quả quyết, là: ta có thể thực hiện được mọi việc. Không phải, vì sau đó (có khi là trước đó), ta sẽ được mọi người công nhận là “sĩ tử Cứu Thế”. Nhưng đúng hơn, phải là: những gì ta đã và đang thực hiện, trông có dáng vẻ Cứu Thế, lại càng “Cứu Thế” hơn bất cứ những gì ta quen làm. Ta không mơ ước gì hơn. Ta cũng chẳng màng đi đến giải pháp anh hùng nào, để hoàn thành những việc như thế. Có một số sự kiện xảy đến trong khi ta hoạt động mục vụ, việc này đưa ta về với cảnh tình không biết rồi ra sẽ đưa dẫn ta đi về đâu. Gọi đó là ơn Chúa quan phòng; là Chúa Thánh Thần soi sáng. Gọi đó, là việc Chúa Cứu Thế sinh động dự phần ở trong ta. Ngài đưa ta về cùng hành trình với Ngài. Hành trình lớn lao hơn cả chính ta, nữa. Ta cảm tạ Chúa về chuyện ấy… Vì, kế hoạch của ta, không định như thế. Nhưng, kế hoạch của Ngài đã thực sự tác động thành chuyện. Và, kế hoạch của Ngài vẫn chưa chấm dứt.       

3. Niềm hưng phấn mới mẻ về quần chúng:

Leonard Boyle (một thành viên dòng Đa Minh Ái Nhĩ Lan, vị quản-thủ thư-viện Vatican) có nói trước khi ông qua đời, rằng: “có sự phấn kích về ngôn từ”. Đúng thế, với ta, đó là ngôn từ ta nói. Là, từ ngữ ta rao giảng. Lời lẽ ta thánh hoá. Và, là ngôn ngữ ta nghe được từ mọi người. Mọi phía.  

Thánh nữ Catarina thành Sienne cũng đã bảo: “nhân loại là người được Chúa dấu yêu”. Thế nên, hôm nay, người tất bạt/nghèo hèn “bị bỏ rơi” là những người được Chúa dấu yêu. Thế nên, ta gần gũi với họ hơn bao giờ hết.

Trong tông thư đầu đời của ngài, Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô đệ Nhị đã nhấn mạnh: ‘người nghèo ấy, con người thực sự ấy là đường lối của Giáo hội’ [Từ hơn thế kỷ nay, ta được dạy dỗ khác hẳn. Ngược hẳn…]

Cũng là điều hay, khi ta nghe nhiều anh em trong Dòng thường vẫn nói: vâng, đó là nơi anh em tôi vừa đến, dịp cuối tuần. Hoặc mới đây thôi. Mới chiều tối, hôm qua. Hoặc, nơi đó phải là điểm tới của anh em mình. Người mình. Cũng là điều tốt, khi ta cảm nghiệm, rằng: người ở trước mặt, hoặc đang quanh quẩn bên ta, chính là những người được ta nhắc nhiều nhất trong các bài giảng hùng hồn, đại phước. Càng phúc hơn, nếu như ta đích thực gặp gỡ những người như thế. Họ đang ở nơi đây. Bây giờ. Họ là người của chúng ta. Ta là người của họ. Nếu anh em ta chưa từng cảm thấy phấn chấn về những chuyện như thế, chắc cũng chẳng bao giờ ta được như thế. Rất phấn khởi. Sôi động. Những sống lại.

Nhiều đoạn trong truyện kể Phúc Âm về Đức Giê-su, cũng thấy Ngài rất phấn chấn vì những chuyện tốt đẹp xảy đến nơi Ngài và qua Ngài. Ngài biết Thần Linh Thánh Ái của Cha vẫn ở với Ngài. Thần Linh Chúa, đã được Cha ban cho Ngài. Đã xức dầu cho Ngài. Biến ngài thành Tin Vui cho người tất bạt/nghèo hèn. Biến Ngài thành sự tự do cho người bị cầm buộc. Biến Ngài thành thị kiến cho người mù loà. Làm cho Ngài thành Đấng cất nhắc người bị chèn ép. Ngã quỵ. Biến Ngài thành niềm vui cho những ai mệt mỏi. Rã rời. Ngài biết “hôm nay” Lời đã thành hiện thực, nơi Ngài. Và, nơi người nghe Ngài rao giảng.

Khi môn đệ trở về với Ngài sau những ngày chung đụng ở với chúng nhân, Ngài đã nhảy lên vì vui sướng. Vui, khi thấy Satan đã quỵ ngã như sấm chớp xẹt từ trời cao. Ngài chúc tụng Chúa Cha, vì Cha đã che giấu nhiều điều không cho người khôn ngoan thông thái được biết. Nhưng, Cha lại bộc lộ cho những kẻ thấp hèn. Bé mọn. Được sẻ san.

Vào đại lễ Chúa Cứu Thế hôm nay, những kẻ bé mọn kia lại chính là ta. Những người được san sẻ niềm vui Cứu Thế. Của Ngài.

Kevin O’Shea, CssR

Melbourne

20-7-2008

  

       Có mặt nơi đây

                                                          (tiếp theo)

______________________________________

    Mễ Duy

 

●Cảm giác đơn thuần

Một buổi sáng đẹp trời,- như người ta thường viết để mở đầu một câu chuyện vui- tôi lái xe ra bưu điện gần nhà để gửi một lá thư cho một người bạn bên Úc. Nhà bưu điện này mới đây được nới rộng, có thêm phòng đón khách rộng rãi thoáng mắt, có thêm bãi đậu xe xinh xắn khang trang. Bãi đậu xe mới này thật sạch, thật đẹp, thật mát mắt, nhưng chuyện lạ là người ta gần như dửng dưng với nó, thiên hạ vẫn thích giữ thói quen vào đậu ở bãi đậu xe cũ dơ bẩn, đông nghẹt. Phần tôi cứ khi nào có thời giờ rộng rãi, như sáng hôm đó, thì vào đậu trong bãi đậu xe mới. Bánh xe lướt nhẹ trên đá vụn mầu xanh lam, gây ra những âm thanh xào xạc mềm nhẹ.Tôi chạy thật chậm, như muốn kéo dài cái cảm giác người và xe bỗng nhẹ ra, trườn mình trên một thứ nhạc cụ vui tai. Nhưng rồi cũng đến lúc phải ngừng xe và làm các «thủ tục» thường lệ: ấn nút cho cửa kiếng ập lên, vặn ngược chìa khoá lên về phía trái cho tắt máy, thò tay xuống dưới gầm ghế moi ra cái bóp đựng giấy tờ mầu đen rồi quàng nó vào cổ tréo sang một bên hông, móc quai cửa cho bực ra, đẩy cửa  ra, bước cẩn thận ra khỏi xe, dùng chìa khoá khoá cửa xe cho đến khi nghe một tiếng «bực». Và thẳng người bước đi về phía phòng đợi. Bỗng toàn thể cơ thể tôi khựng lại như một thứ người máy hết năng lượng, vì bỗng có một tiếng cảnh cáo vang lên trong tâm trí tôi : quên gì rồi ! Rất có thể bạn đã đoán ra tôi đã quên gì. Nhưng phần tôi, tôi đã phải «ôn lại»,  tuy chỉ là trong một phần nhỏ của một giây đồng hồ, mọi cử chỉ động tác vừa làm trong mấy giây đồng hồ vừa qua, mới giật mình nhận ra mình đã quên cầm theo lá thư để gửi đi.

Bạn thử tưởng tượng xem, một người đã về hưu, tức thời giờ khá rộng rãi, sinh sống trong một thành phố bé tí, không đông đảo xe cộ, trước khi ra khỏi nhà chỉ có một ý nghĩ trong đầu là đi ra bưu điện bỏ một cái thư, hơn nữa đã cẩn thận nhét phong bì đó vào hông cửa xe cạnh mình thế mà khi xuống xe để vào nhà bưu điện lại quên lấy theo lá thư đó! Chuyện gì đã xảy ra trong đầu tôi trong cái giây đồng hồ đáng lý tôi phải dùng vào việc cầm lấy lá thư đó? Chắc hẳn trong cái giây đồng hồ đó tâm trí tôi đã bị chi phối bởi một vài ý nghĩ tuy có liên quan đến việc bỏ thư nhưng thuộc về quá khứ hay tương lai chứ không liên quan đến hiện tại. Ý nghĩ gì? Sau này tôi mới biết là thay vì cầm lấy lá thư để đi bỏ, tôi đã đặt ra câu hỏi: không biết giờ này có đông người đợi không?

Rồi thì tôi nhớ lại cái lần đó, không rõ là lần nào, tôi phải ngồi đợi thật lâu, thường xuyên dương mắt lên dán vào màn ảnh để kiểm điểm xem cái số phiên đợi, có ghi trên phiếu đợi đã lấy từ máy phát phiếu, đã xuất hiện trên màn ảnh chưa. Cũng có thể là thắc mắc  không biết kỳ này mình gặp ai ở guichet đây, đàn ông hay đàn bà, mà nếu là đàn bà thì trẻ hay đã đứng tuổi, nước da mầu gì, đen hay bánh mật hay trắng, tính tình dễ chịu hay khó thương…vì ngay lúc đó trong trí tưởng tượng của tôi đã diễn lại đoạn phim của một kinh nghiệm không vui. Lần đó là ngày đầu tiên khai trương hệ thống phát phiếu đợi do máy tự động, mỗi người khi đến nơi thì lấy từ máy phát phiếu một phiếu đợi và ngồi đợi đến khi nào thấy số phiên mình và số guichet xuất hiện trên màn ảnh thì đi đến guichet đã được chỉ định để được phục vụ.

Hôm đó cũng là ngày thứ hai trong tuần nên thật đông đảo. Tôi lấy một phiếu, đứng đợi vì đã hết chỗ ngồi. Phòng đợi quá đông, hơn nữa thấy phiên mình còn lâu mới đến, nên sau vài phút đứng đợi, tôi ra ngoài sân đi bộ 15 phút. Khi trở lại vào trong thì số của tôi đã xuất hiện từ mấy giây rồi và sắp sửa trong tíc tắc nhường chỗ cho số kế tiếp. Tôi bước nhanh đến guichet nhưng không kịp. Nhân viên trước mặt «làm khó dễ», bắt tôi phải lấy phiếu đợi lại từ đầu. Tôi đành nuốt tự ái, xuống nước năn nỉ.Tôi kể nào là đã quen đợi theo kiểu đứng xếp hàng như xưa, rằng thì là chưa quen cách tổ chức «tối tân» như thế này, nào là hôm nay mới chỉ là ngày đầu tiên áp dụng «kiểu mới» mà! Phải uốn lưỡi như thế cô ta mới «tha tội» cho tôi đấy. Đúng thế! Đó là một «cô» tóc ngắn như Mireille Matthieu, tóc đen, đeo kính, nước da  bánh mật, nét mặt cứng, ít nói và có vẻ «khó chịu». Kinh nghiệm này sau này khiến tôi ngại gặp lại «người xưa»…

Kể ra một kinh nghiệm sống như vậy để chúng ta thấy rằng hiện tại không phải chỉ đo bằng phút mà có khi phải tính bằng giây đồng hồ hoặc ngắn ngủi hơn nữa, và rằng sống trong hiện tại không phải là việc dễ làm, vì thường tâm trí chúng ta dễ bị chi phối bởi những chuyện đã xảy ra trong quá khứ hoặc bối rối về tương lai, hoặc bị choán bởi một câu chuyện tưởng tượng nào đó.

Quá khứ ảnh hưởng đến hiện tại và hiện tại quyết định tương lai. Tiến trình này có thể là tốt mà cũng có thể là xấu. Khi xấu thì tôi cần thay đổi cái tròng đó và tôi chỉ có hiện tại để đổi thay con người của tôi, sao cho trong tương lai tôi làm chủ những cảm xúc, những ý nghĩ, hầu hành động đúng trong mọi hoàn cảnh, không thụ động cũng không hấp tấp, bộp chộp chẳng hạn và không quên việc phải làm. Xử dụng hiện tại theo chiều hướng tốt đẹp như vậy, hay nói cách giản tiện hơn luôn  sống hiện tại, là sống trọn vẹn đầy đủ cái giây phút đang trôi qua đây. Làm thế nào? Một trong những cách tập luyện sống có mặt với hiện tại mà tôi đã lãnh hội được nhờ đọc về những phương pháp trị liệu các khó khăn về mặt tâm thần, đó là cảm giác đơn thuần (sensation pure). Để bạn hiểu phần nào sự hiệu nghiệm của phương thức này, tôi xin trình bày sau đây hai trường hợp.

Trường hợp một.

Cuộc đời mục vụ của linh mục Jomin, người Pháp, dòng Tên chia làm hai giai đoạn: hơn hai mươi mấy năm làm thừa sai bên Trung quốc cho đến khi bị trục xuất khỏi xứ này năm 1950 và sau đó về lại Pháp «hành nghề» điều-trị-viên tâm thần psychothérapeute) suốt ba mươi năm. Ngài đã chữa cho cả ngàn người bằng một phương pháp gọi là Horathérapie nhằm tập cho người bệnh thói quen sống trong giây phút hiện tại. Phần chính yếu của phương pháp này là tập cảm giác đơn thuần. Linh mục Jomin đã thí nghiệm phương thức này trong trường hợp bản thân. Mỗi lần cử hành thánh lễ ngài cần có sự hiện diện của một linh mục khác bên cạnh mới có thể đọc lời nguyện lớn tiếng được, nếu chỉ là một mình thì đành chịu thua.  Nhờ áp dụng cảm giác đơn thuần mà  dần dà ngài đã  lành khỏi cái «bệnh» này. Khi chữa trị cho người khác, ngài gặp bệnh nhân ba bốn lần và nhiều lắm là tám chín lần mà cũng đủ chữa cả những trường hợp trầm cảm nặng, so với nhà thương tâm thần có khi giữ bệnh nhân cả hai ba năm trời mà chưa chắc đã đi đến đâu. Lần đầu tiên bao giờ cũng là để giải thích vai trò quan trọng của việc tập cảm giác đơn thuần. Ngài giải thích như sau:

«Trong lần hội chẩn lần đầu, sau khi để cho bệnh nhân tự do trình bày những vấn đề của mình, điều trị viên cho hiểu rằng tâm trí của người bệnh lúc nào cũng ngổn ngang những ý nghĩ, những hình ảnh, những kỷ niệm, những nuối tiếc, những ước vọng, những sợ hãi, những nghi ngờ mà vô phương tránh khỏi. Do đó mà căng thẳng, mỏi mệt, mất ngủ, đau yếu, ám ảnh, bồn chồn lo lắng, sợ này sợ kia, vv…Đôi khi, trong vòng một thời gian dài ngắn, trở nên u buồn, thất vọng, trầm cảm mà không biết lý do tại sao, hoặc chỉ vì một duyên cớ không đáng kể. Giống như một cuốn phim đang diễn ra, mà không do bệnh nhân lựa chọn, không có quyền định đoạt về nội dung. Không chế ngự được những ý nghĩ của mình, bệnh nhân không làm chủ chính mình, nên không tự do. Không tự do thì không bình an, cũng không có niềm vui, cũng không có sức khoẻ.

(…)

«Cần thiết là phải tập làm chủ những cảm giác của mình, và chính nhờ đó mà tập làm chủ tâm trí mình. Chúng ta sống nhờ cảm giác, nhưng mỗi cảm giác bị bọc chặt bởi một mớ ý nghĩ ; vì thế nên cần phải tập tiếp nhận những cảm giác đơn thuần (nói như bác sĩ VITTOZ thì đó là những hành vi ý thức): nhìn, nghe, sờ chạm, thở, đi bộ, mà không nghĩ về hành vi mình đang làm hay nghĩ gì khác cả, không cố gắng, y như một trẻ bé mọn. Thụt lùi ư? Tôi tiếp mười lăm người bệnh mỗi ngày, mỗi ngày đọc xong một cuốn sách và không bao giờ biết mệt. Nhưng mọi sự là những hành vi mình muốn trong đó mình làm chủ chính mình, nên mình tự do.

«Mình có trong ý thức điều mình muốn có. Đó - những cảm giác đơn thuần- là những hành vi thật chóng vắn (một hai giây đồng hồ)   nhưng làm nhiều lần và thường xuyên, trong khi sinh hoạt theo lề thói đã quen, việc tay chân, di chuyển, thể thao. Việc phải làm thì làm, chỉ thế. Có mặt trong hiện tại (être dans le présent) đó chính là điều làm thư giãn và đem lại nghỉ ngơi. Cảm giác việc mình đang làm chính là sống trong cơ thể có thực trong một thế giới có thực. Đối với bộ óc của chúng ta không ngừng làm việc thì những cảm giác đơn thuần quả là những dịp nghỉ ngơi đích thực» (1)

Trước khi đề cập đến trường hợp hai, tôi cảm thấy cần bàn rõ về ba điểm đã được đoạn văn trên đây nêu lên.

 

1. điểm một : những ý nghĩ của con người chính là nguyên do làm khổ con người về mặt tâm thần. Tuy nhiên những ý nghĩ nói đến ở đây không phải là những ý nghĩ được lựa chọn hay quyết định bởi người bị khổ đau về mặt tâm thần, chúng như từ nhiều phương hướng ập đến mà người bệnh chỉ muốn được giải thoát khỏi chúng. Xin lấy một vài ví dụ. Khi làm việc trí óc, như phải giải quyết một công việc, thảo luận hay trình bày một vấn đề, một đề tài, hay thảo một dự án, làm một đề thi, học một môn, bộ óc của chúng ta trong những trường hợp đó ở trong thế tích cực, chủ động, đi tìm tòi các ý nghĩ khác biệt để đạt một kết quả. Nhưng khi phải suy nghĩ vì cuộc sống có những thăng trầm, đổi thay, nỗi buồn, thiếu thốn, mất mát, lo lắng, thì những suy nghĩ đó đưa đến khổ đau về mặt tâm thần. Không phải ai cũng khổ như nhau trong những hoàn cảnh đó, có người vượt qua dễ dàng, nhanh chóng đương đầu cách hiệu quả với những nghịch cảnh, có người bộ thần kinh không phải là «bê tông cốt thép», nhạy cảm hơn, nên ít nhiều gặp trở ngại về mặt tâm thần. Ở đây chúng ta nhận thấy giáo dục toàn bộ con người hầu tạo bản lãnh là điều quan trọng, nhưng cũng cần chấp nhận khổ đau ở đời này và cũng nên hiểu rằng những người gặp khổ đau khi được giải thoát, chữa  lành thì niềm vui của họ sâu đậm hơn là nếu thử thách đã không xảy đến.

 

2. điểm hai: Làm sao để những ý nghĩ tiêu cực, chủ quan, yếm thế bớt hành hạ tâm thần hoặc được dứt bỏ đi. Ở đây chúng ta chỉ đứng về mặt tự nhiên, về phương diện tâm lý thực hành. Tuy nhiên siêu nhiên cần có một nền tảng tự nhiên vững chắc để có thể đặt mình trên đó. Điều khiến đạt được mục đích đó (làm vơi hoặc dứt bỏ những ý nghĩ làm khổ đau  tâm thần) là trở về với cảm giác đơn thuần y hệt như con trẻ. Khi bị tấn công vây hãm bởi một hay nhiều ý nghĩ tồi bại, tội lỗi, hay dày vò, cách hay nhất vẫn là chẳng hạn nhìn các sự vật, mầu sắc, xung quanh mình, nhìn để giúp mình không còn nghĩ gì cả dù chỉ là trong vài giây đồng hồ. Nếu dùng ý nghĩ để thắng một ý nghĩ đen tối thì cuộc « nội chiến » sẽ cam go và chưa chắc đạt kết quả, nhất là trong cấp bách. Phương pháp của linh mục Jomin (hay phương pháp của bác sĩ Vittoz) đều dùng cảm giác đơn thuần làm nền tảng cho việc giải thoát người bệnh khỏi ám ảnh bởi quá khứ.

 

3. điểm ba: Trong đoạn văn trên, khi viết về cảm giác đơn thuần, linh mục Jomin có ghi chú trong ngoặc đơn tên bác sĩ Vittoz và danh từ « hành vi ý thức - actes conscients». Bác sĩ Vittoz là người Thụy sĩ sống trước linh mục Jomin mấy chục năm vào đầu thế kỷ 20 đã xử dụng cảm giác đơn thuần làm nền tảng cho phương pháp trị liệu các bệnh tâm thần thông thường, nhưng ông lại gọi chúng là những «hành vi ý thức». Một hai giai thoại sau đây cho phép hiểu bí quyết của Vittoz. Cô Henriette Lefèbre, -sau này đã trở thành  cộng tác viên đắc lực của Vittoz,- nhưng lúc đầu cũng là một bệnh nhân đến hội chẩn, lần đầu tiên gặp bác sĩ Vittoz, ông hỏi cô :

- Thường sáng thức dậy cô nghĩ gì? Henriette trả lời bằng cách kể  bao nhiêu là thứ chuyện trong đầu cô khi thức dậy.

- Và trong lúc rửa mặt, cô nghĩ gì? Cô tiếp tục như trước, huyên thuyên.

- Và trong lúc vận quần áo? Cô gái tiếp tục kể ra những ý nghĩ của mình trong những giây phút đó.

- Như thế này nhé ! Sáng mai khi thức dậy thay vì nghĩ chuyện này việc kia, cô hãy  cảm thấy mình thức dậy, cô hãy cảm thấy mình đang rửa mặt, cô hãy cảm thấy mình đang vận quần áo. Và sau đó trở lại gặp tôi vào giờ ấn định.

            Bác sĩ Pourtal vừa là bạn vừa là người theo phương pháp Vittoz yêu cầu một bệnh nhân cởi giầy ra.

- Ông /bà nghĩ gì trong lúc đó?

-….

- Vậy hãy đi giầy vào và cảm thấy việc mình đang làm mà không nghĩ gì khác. (2)

Điều mà bác sĩ Vittoz gọi là hành vi ý thức là khi chúng ta làm một động tác rất thông thường như mở một cách cửa chẳng hạn mà không lo ra nhưng hoàn toàn có mặt , để hết ý thức vào việc mình đang làm, đó là điểm thứ nhất . Điểm thứ hai là trong hành vi ý thức, bộ óc hoàn toàn cảm nhận chứ không hề nghĩ. Cảm (sentir) chứ không phải tập trung (concentrer) vì tập trung là một hình thức của nghĩ. Tiện đây tôi cũng nhớ lại đã đọc được ở đâu câu nói sau đây: «Ngay đến Einstein khi cột giây giầy thì cũng không nghĩ gì khác». Tuy nhiên hành vi ý thức là hoàn toàn không nghĩ gì hết, ngay cả đến việc mình đang làm, chỉ có cảm nhận. Cảm nhận là ý thức cách trực tiếp, không qua trung gian của một ý nghĩ mà qua giác quan.

Người cảm thấy mình không được thoải mái về tâm thần thì cần hiểu rằng mình đang khổ vì nghĩ nhiều quá và cần phải thường xuyên ngừng suy nghĩ bằng cách cảm nhận thế giới bên ngoài như mầu sắc, tiếng động, âm thanh, cảm nhận bằng năm giác quan Trời ban cho mình. Để bạn hiểu rõ tập cảm giác đơn thuần như thế nào tôi xin đề cập đến trường hợp hai.  

 

 

Trường hợp hai.

            Bà Thiện An (3) thuộc loại những người hay mơ màng, do dự, không biết mình muốn gì, tìm kiếm gì, đầu óc đâu đâu, lơ đễnh, khi nói chuyện cũng đeo đuổi những ý nghĩ riêng tư, khiến có khi hỏi đi hỏi lại một chuyện, nhìn mà không thấy, nghe mà không lãnh hội… Như vậy nên bà không tự tín, có cảm tưởng là mình không tự mình quyết định nhiều việc liên hệ đến cuộc sống của mình, thụ động để cho hoàn cảnh đưa đẩy, người khác quyết định thay mình. Bà cho rằng  trạng thái suy nhược về tâm thần nói trên bắt nguồn bởi sự kiện hồi nhỏ bà được bao bọc chở che quá đáng mà cho đến khi lớn lên bà vẫn không phản kháng nên bà đã trở nên thụ động như thế. Khi nào bà cảm thấy bị ép buộc hoặc phật lòng thì cứ làm thinh và lẩn trốn trong mơ mộng và ảo tưởng.

Càng gần tuổi già bà càng cảm thấy khó chịu trong tâm khảm, cảm thấy mình sống không thực, muốn cầm trong tay vận mệnh mình mà không đủ sức. Bà cứ tiếp tục tưởng tượng một cuộc sống khác và trôi mình trong mơ mộng.

            Khi đã thật đứng tuổi, sau khi tham dự nhiều cuộc tĩnh tâm dành vào việc chữa lành nột tâm (guérison intérieure) bà đã can đảm làm bảng tổng kết về đời mình và đã có khả năng nhận định như sau:

«Mọi người chúng ta được sinh ra đời để cho đi cái phần tốt nhất của bản thân mình, để thực hiện và đạt kết quả ; ai trong chúng ta cũng có những năng khiếu, những khả năng cần được khai triển để nẩy nở bản ngã và phục vụ trong môi trường mình sống, gia đình, sở làm, xã hội ; mọi người chúng ta ai ai cũng khát vọng thể hiện con người mình, trong một sự thống nhất tâm thần.  Liệu có ai trong chúng ta mà không cảm thấy, ít nhất là một ngày nào đó, một nghị lực phi thường trong đáy lòng mình chỉ muốn được biểu lộ ra ngoài bằng sáng tạo và hành động ? Và nghị lực đó rất thường bị tắt lụm chỉ vì chúng ta thiếu sự quân bình nội tâm, thiếu sức mạnh tâm thần.»(dịch thoáng một đoạn, trang 12)

Sau khi nhận định rõ như vậy về hoàn cảnh của mình bà đã lên thủ đô Paris gặp một điều trị viên hành nghề theo phương pháp Vittoz. Sau đây là lời bà tường thuật lần hội chẩn đầu tiên.

             « Ngay từ buổi họp đầu tiên, tôi đã cảm thấy thoải mái trong việc tập luyện hầu có được một khả năng cảm nhận, thụ cảm (réceptivité) : quan trọng là cảm thức (sentir) chứ không nghĩ ! Ý thức bằng giác quan những sự vật bên ngoài xung quanh tôi, tìm lại cảm giác đơn thuần, rõ nét  và chính xác, không suy diễn, không phán đoán, ví dụ: tiếng máy nổ của một chiếc xe đang chạy ngoài đường, y như đứa bé , nghe mà không biết đó là gì ; tiếp nhận tiếng động đó, mọi tiếng động đến với tôi, cảm nhận chúng, ý thức chúng ; tôi có cảm giác mình chỉ còn là một cái tai lớn  mở rộng ra với thế giới bên ngoài, hứng nhận bao nhiêu là tiếng động, âm thanh. Tôi thu nhận, đón tiếp không một chút cố  gắng cả một thế giới kêu vang ; tôi cảm được những âm thăng, âm trầm, âm thật thấp, cường độ khi tăng khi giảm, sự xê dịch của âm thanh, tất cả mà không thắc mắc, không « nghĩ đến » chúng. Sau đó điều trị viên giúp tôi tập nhìn : tiếp nhận những mầu sắc quanh tôi; tôi gọi thành tên mỗi khi nhận thức một mầu; tôi tiếp nhận mầu xanh lá cây, mầu vàng,vv…trên màn cửa, dưới thảm, trên các đồ vật, trên bàn ghế, kiểu như tôi lặn chìm trong chúng. Sau đó nữa, tôi tiếp nhận các đồ vật theo cùng một phương thức, chỉ giản tiện nhìn chúng mà không một chút cố gắng, không một chút căng thẳng ; tôi nói tên, để ý thức chúng rõ ràng hơn, từng sự vật trong lúc tuần tự ý thức chúng.» (trang 21)

            Trong cuốn sách nhỏ thuật lại việc bà phục hồi sức khoẻ tâm thần, bà Thiện An không nói rõ bà đã hội chẩn bao nhiêu lần, nhưng lần nào cũng quy về việc tập cảm nhận mầu sắc, âm thanh, cơ thể mình. Áp dụng phương thức cảm giác đơn thuần, từ từ bà đã trở nên yêu đời, lạc quan và tỉnh táo và trở thành điều trị viên theo phương pháp Vittoz.

            Khi tôi mới đọc về cảm giác đơn thuần, tôi cũng không tin lắm hoặc cảm thấy khó hiểu, nhưng sau khi đã tập một thời gian tôi thấy thật là hay. Tuy nhiên hiểu biết nhiều cũng chẳng ơn ích gì nếu như những hiểu biết đó không đưa đến thực hành áp dụng trong cuộc sống thường nhật.

            Kỳ tới tôi sẽ bàn thêm về đề tài này đứng về phương diện khoa học. Sau đó  sẽ trả lời những vấn nạn có thể đặt ra về giải pháp này.  Nếu như bạn đọc có những câu hỏi liên quan đến vấn đề này, xin vui lòng gửi về toà soạn DIA nhờ chuyển cho tôi như vậy chúng ta sẽ cùng học hỏi cách hào hứng.

 

            ________________________________

(1) Phlippe de LABRIOLLE, Dom Guy-Marie OURY, Jean-François et Liliane VEZIN, Quand le présent devient Présence, Editions de l’Emmanuel, trang 58,59.

(2) L. Bron-Verlay, Le conscient chez Vittoz, Téqui.

(3) Christiane Zéphir, Mon expérience du Vittoz, du rêve à la réalité un chemin de bonheur, Téqui.

 

 

        NGƯỜI

           VIỆT

GỐC

MỸ

  LTS:

     Tác giả Nguyễn Thế Thăng tốt nghiệp  khoá K2DH/DH/CTCT, định cư tại Mỹ 1992, diện HO 13, hiện là cư dân tiểu bang Oregon.

     Công việc: Sỹ quan điều hành tổ thông dịch viên của Lực Lựơng Phòng Vệ thuộc Vệ Binh Quốc Gia, Oregan, cấp bậc Thiếu Tá.
(
Oregon
Army National Guard/State Defense Force/Interpreters Team/X.O) (ORANG/SDF/Interp.Team/XO).
     Bài viết về nước Mỹ đầu tiên của ông là chuyện về một người bạn cựu chiến binh Mỹ tự xưng là “người Việt gốc Mỹ”.

    DIA hân hạnh trích đăng bài viết của anh Nguyễn Thế Thăng, một thành viên thân hữu của Gia Đình An Phong ở Mỹ. Anh Thăng là con rể hai  bác Trần Trọng Luật, và anh rể của cựu đệ tử DCCT lớp Les Gabriels, anh Trần Trọng Dũng hiện ở Sydney, Úc Châu, cả bác Luật lẫn anh Dũng đều là thành viên Gia Đình An Phong, ở Sydney.          

                             ooo000ooo

        Tôi biết Mike khoảng hai năm sau ngày đặt chân lên đất Hoa Kỳ. Dù hành trang sẵn có chút ít tiếng Anh từ trước 1975, tôi vẫn phải vất vả hội nhập vào xã hội mới bằng những bước chân chập chững, e dè trong độ tuổi "bất hoặc".
        Thật may mắn, tôi tình cờ được gặp và quen biết Mike. Anh đã cho tôi một cái nhìn khá bao quát nước Mỹ từ phong tục tập quán đến văn hóa xã hội lẫn chính trị. Mike đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ cả vật chất tinh thần để tôi có được một nghị lực, niềm tự tin, sự phấn khởi tràn trề khi bắt đầu nửa cuộc đời còn lại nơi tha phương, đất khách.

Trong buổi họp mặt cựu Chiến Binh nhân dịp Memorial Day của State Guards Association of U.S (SGAUS), bàn của tụi tôi rất ồn ào với đủ mọi vấn đề trên trời dưới đất, vui nhất là những chuyện tiếu lâm xoay quanh đời sống thường nhật của người Mỹ, đặc biệt lớp tuổi về hưu phải đương đầu với nhà dưỡng lão, bệnh tật, nhất là bệnh lãng trí Alzheimer....

Hôm ấy, tôi kể chuyện một đôi vợ chồng già, Bác Sĩ nói với người vợ: tôi thấy sức khỏe ông nhà ngày càng khá hơn khi ông tìm được niềm vui nơi Thượng Đế, tin tưởng nhiều hơn vào Chúa Quan Phòng, đến nỗi, ông nghĩ Chúa đang theo giúp đỡ ông trong mọi việc, trong từng bước chân đi. Ông nói với tôi, đêm qua, khi ông vừa mở cửa nhà vệ sinh để đi tiểu thì Chúa bật đèn lên cho ông liền....

Bà vợ la lên, ngắt lời Bác Sĩ:

- Ôi lạy Chúa tôi, ổng lại đái vào tủ lạnh của tôi rồi!!!
     Cả bọn cười bò lê bò càng. Cười lớn nhất là một chàng cao lớn, tóc vàng tên là Mike.
     Anh vỗ vai tôi:

-Ê, bạn người gốc nước nào?

-Việt Nam.

     Mike bật đứng dậy, bàn tay như hộ pháp chụp lên đầu tôi, nói thật lớn, nguyên văn bằng tiếng Việt đặc sệt giọng miền nam:
-Đ.M. nãy giờ sao hổng nói?

-Ủa, anh biết tiếng Việt hả?

     Mike vênh mặt lên, tay phải vỗ bồm bộp vào cái ngực đang ưỡn, vẫn dùng tiếng Việt:
-Hai lần công tác Việt Nam, đem về Mỹ một cô giáo dạy tiếng Việt tại gia từ 1972, học và nói tiếng Việt từ hồi đó đến giờ, bộ ngu lắm sao mà không biết, biết rành quá đi chứ!!
Không ngờ trong bàn lại có một số cựu chiến binh Việt
Nam
khác, đua nhau xổ ra những câu tiếng Việt họ còn nhớ lõm bõm:
-Chòi đắt ui (trời đất ơi)

-chào cắc Ong, mành giỏi? (chào các Ông, mạnh giỏi)

-Con gái Viết Nàm đe.p lám (con gái VN đẹp lắm)

-Ngùi Viết Nàm tót lám, đi đi mao, đin kí đàu (người VN tốt lắm, đi đi mau, điên cái đầu !)....

 

 

 

     Riêng Mike nói tiếng Việt rất lưu loát, không hề sai một âm nào (giống như ca sĩ Delena hát tiếng Việt vậy), kể cả cách dùng chữ rất trí thức, đôi khi dí dỏm, có lúc thật tiếu lâm.
     Tôi đã gặp một nhân viên Bộ Ngoại Giao rành tiếng Việt đến nỗi khi tôi đùa hỏi "Anh người gì mà nói tiếng Việt ngon lành vậy" Anh trả lời tỉnh bơ "Tôi người Bắc !".

     Tôi cũng đã gặp một số người Mỹ chính gốc, thuộc giáo phái Mormon, họ thảo luận Kinh Thánh, đi truyền đạo Tin Lành bằng tiếng Việt thật trôi chảy, nhưng đó là nghề của họ.
Còn Mike, anh nói tiếng Việt bằng cả tấm lòng: tên Mỹ của tôi là Micheal, tên Việt của tôi là Mai, theo giọng Việt Nam có nghĩa là hên, là may mắn, còn giọng Việt Bắc (?) hay Việt Trung (?) có nghĩa là hoa mai, một loài hoa rực rỡ mùa xuân !

      Vợ tôi vẫn thích kêu tôi là Mai Cồ, hay Anh Cồ, hoặc Cồ ơi chỉ vì tôi bự con! Con rể của nước Đại Cồ Việt mà! Một ông thày bói VN nói số tôi phải cưới vợ họ Trần vì cả đời tôi không thích mặc áo..vv và vv ... tôi há hốc miệng ngồi nghe một chàng mắt xanh, mũi lõ, tóc vàng 100% Anglo-Saxon đang chơi chữ bằng chính ngôn ngữ của tôi !!!

      Một đêm hội ngộ tuyệt vời, vui như chưa từng thấy từ ngày mất nước, từ ngày sống kiếp lưu vong.

     Một tuần sau, Mike điện thoại mời tôi đến nhà.
     Từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: gia đình Mike gồm vợ chồng và 2 con hoàn toàn sinh hoạt theo truyền thống Việt
Nam
và tự nhận là người VN. Mike nói: đúng ra tôi là người Việt gốc Mỹ! Người bản xứ khi nghe tôi giới thiệu là người VN, nói tiếng VN thì họ vui lắm, vài người lúc đầu cứ tưởng nước VN ở đâu đó bên Đông Âu nên mới tóc vàng, mắt xanh!
     Người gốc VN lại tưởng tôi là Mỹ lai, càng vui hơn, gần gũi hơn vì có 50% máu Việt Nam trong người mà, ai cũng vui. Mike dùng chữ "vui cả làng"!

     Cả gia đình dùng tiếng Việt làm ngôn ngữ chính.
     Sống trên đất Mỹ, Mike tâm sự, nói tiếng Anh là việc đương nhiên, thế mà nhiều gia đình VN từ vợ chồng con cái đều ra vẻ hãnh diện với mớ tiếng Mỹ đôi khi trật giọng, sai văn phạm....hoặc nói đệm, câu nào cũng chêm thêm chữ Mỹ vào, trong khi cố tình lơ lớ tiếng mẹ đẻ của mình, dễ mất gốc quá, tủi hổ ông bà tổ tiên quá, uổng phí quá.

     Lại có cả vài người viết văn, nhiều chữ thông thường không biết, hay giả vờ không biết, lại phải dùng tiếng Anh mới thấy dổm làm sao.
Tôi rất khâm phục những gia đình còn giữ vững truyền thống tốt đẹp VN. Tôi thấy những em bé VN thật dễ thương với tiếng Việt líu lo như chim hót nhưng tôi nhìn các em với cặp mắt bình thường nếu các em nói tiếng Anh, thật bình thường vì đây là nước Mỹ, sau này khi lớn lên phải học thêm một ngoại ngữ ngoài tiếng Anh, họ sẽ hối hận. Tiếc quá, Mike chặt lưỡi, lập đi lập lại, tiếc quá !!

     Anh có biết "bà lang kẹt" là ai không? Thế mà một ông VN đã tuyên bố tự nhiên như người Sàigòn, vào mỗi mùa Đông, trên giường của ông phải có ít nhất hai bà lang kẹt ngủ mới đã, mới đủ ấm !?!?

     Mai Liên, vợ anh, một sinh viên Đại Học Cần Thơ sinh quán Sóc Trăng.

     Hai người quen nhau khi Mai Liên đi học thêm Anh ngữ trong một lớp do chính Mike phụ trách phần đàm thoại và luyện giọng. Thế rồi hai người yêu nhau nhưng không thể tiến đến hôn nhân vì gia đình hai bên đều không tán thành.

     Mike phải xin trở lại Việt Nam lần thứ hai, kiên trì thuyết phục cha mẹ Mai Liên bằng chính tiếng Việt anh đã học được từ người tình. Cuối cùng không những cha mẹ, anh chị em của Mai Liên mà cả bà con xóm giềng cũng hài lòng với "thằng Cồ" vui tánh dễ thương lúc nào, nơi nào cũng pha trò được.

     Riêng gia đình Mike lúc đầu vẫn chưa mấy thiện cảm với người dâu dị tộc. Hai vợ chồng son cố gắng sống hòa hợp với mọi người, không tỏ ra khó chịu mà còn thấy vui vui với cái tên Liên vài người cố tình đọc trại thành Alien (=người lạ).

 

 

 

     Chẳng bao lâu sau tình thế hoàn toàn đảo ngược. Khi cha mẹ Mike dọn vô nhà dưỡng lão chỉ có vợ chồng Mike thăm viếng thường xuyên.
     Ông bà rất cảm động, thỉnh thoảng lại công khai ngỏ lời xin lỗi Mai Liên và giới thiệu với mọi người Liên là đứa con gái yêu quý nhất.
Bốn gia đình anh chị của Mike tan vỡ hết ba, sự kiện phổ thông với trên 60% gia đình Mỹ bị rắc rối trong hôn nhân. Cứ một lần li dị lại một lần chia gia tài, riết giống như chuyện thường tình. Tuy nhiên, có điều lạ là sau khi chia tay, họ vẫn liên lạc qua lại với nhau, coi nhau như bạn, không ai ghen tuông gì hết.

     “Tạ ơn trời đất (Mike không dùng chữ Chúa) tôi có được một bà vợ tuyệt vời. Liên lo lắng chăm sóc tôi kỹ lắm từ mọi sinh hoạt đến từng miếng ăn hàng ngày. Tôi đã quen và rất thích thức ăn Việt Nam. Rất hợp lý nếu ta không biết kiêng cữ, cứ ăn tầm bậy là đưa đủ thứ bệnh tật vào thân thể mình thôi. Anh ăn cái gì anh sẽ như thứ ấy (1).

     Ăn nhiều rau, đậu, trái cây tươi, da thịt anh sẽ tươi. Anh ăn mỡ, cơ thể anh sẽ phải đeo mỡ (2).

     Tốt nhứt nên ăn chay. Gia đình tôi ăn chay mỗi tuần một lần, nhiều nhất là các loại rau. Đồ chay Liên làm ngon lắm. Món nào cũng ngon, cũng tốt cho sức khỏe vì Liên chỉ dùng dầu olive thay cho mỡ động vật, không mặn lắm, không ngọt quá như đồ ăn Mỹ, nhất là hoàn toàn không dùng bột ngọt. Đặc biệt nước mắm ăn riết rồi mê luôn nhưng điều cần thiết nước mắm mua ở chợ về phải đem nấu cho sôi lên rồi đổ lại vô chai xài vì trong nước mắm có thể có nhiều siêu vi trùng, nhất là siêu vi bệnh gan, các loại mắm cũng vậy.

     Chế độ ăn uống như thế làm sao bị phát phì như ba phần tư dân Mỹ hiện nay. Đến như con nít trên 6 tuổi thì phân nửa đã vượt quá trọng lượng được coi là mập rồi. Còn về thẩm mỹ, Anh thấy không, thông thường da người Mỹ trắng lại quá trắng, trắng nhễ nhại (?!)trắng như Bạch Tuyết nên trông có vẻ yếu đuối, bệnh tật, vì vậy họ phải đi phơi nắng ngoài biển hay vô các phòng nhuộm da trong các tanning clubs để cho da họ có màu đồng nâu hay màu bánh mật, nhìn rất khỏe mạnh, thể thao hơn, mốt thời thượng mà! Bà xã tôi được Trời Đất thương cho cái màu tự nhiên đó từ bé nên Ông Bà Ngoại sắp nhỏ mới đặt cho cái tên Mai Liên, anh đọc lái lại coi?!”

 

 

           

     Nghe đến đây chính tôi đã phải kêu lên: chu choa mệ tổ ơi, mần răng mà cái chi mô anh cũng biết hết rứa chừ hết biết luôn.
Mike hiện nguyên hình một "chú Sam" há hốc miệng "Wh...what? What d'you say?"

     Ngay sau khi dành thắng lợi đem được Mai Liên về Mỹ, Mike giải ngũ. Liên đi làm 2 nghề khác nhau cho phép Mike trở lại Đại Học lấy xong bằng Kỹ Sư Điện Tử.

     Mike rất vui mỗi lần nhắc lại giai đoạn này:
tôi sướng như Ông Trời con, ngày ngày đi học, còn Liên cực lắm, hy sinh vừa đi làm vừa lo cho tôi còn hơn Ba Má tôi ngày xưa, dĩ nhiên tôi yên tâm học xong rất nhanh.
Bên Mỹ này anh muốn học là phải được, muốn học gì cũng được, muốn lấy bằng gì cũng có, chỉ cần anh có ý thích và có ý chí. Anh có thể học toàn thời gian, bán thời gian, học hàm thụ hay học ngay cả trên online. Không có tiền thì Chánh Phủ hoặc một cơ sở, một công ty hay một tổ chức nào đó ứng tiền cho mượn nếu đủ tiêu chuẩn. Tuy nhiên khi nộp đơn xin việc làm, người chủ chỉ căn cứ một phần trên bằng cấp, còn phần lớn dựa trên kinh nghiệm việc làm đã qua và sự giới thiệu, phê bình của các chủ cũ.

     Tôi là cựu chiến binh, gần lấy xong bằng Kỹ Sư thì hãng Điện Tử Intel đã nhận trước rồi.

     Năm đầu tiên tôi đi làm Liên chỉ còn làm một nghề, đến năm thứ hai Liên nghỉ việc hoàn toàn để đi học ngành Y tá. Đó là lý do chúng tôi chậm có con và chỉ có hai đứa.

     Bên Mỹ này nghe nhà nào có 3,4 con là thiên hạ lắc đầu, le lưỡi liền. Có bầu, sanh con thật dễ dàng nhưng khó nhất, đau đầu nhất là vấn đề giáo dục, không dạy dỗ con được thì lại đổ thừa "cha mẹ sanh con, Trời sanh tánh", chưa chắc vậy đâu !

     Có rất nhiều gia đình nuôi con đến 18 tuổi là bắt nó phải tự lập, nghĩa là đẩy nó ra ngoài xã hội, xét cho cùng điều này cũng có phần tốt.
     Vì vậy, cũng rất công bằng khi bố mẹ già yếu, đến phiên chúng nó sẽ đẩy bố mẹ vô nhà hưu dưỡng thôi!

-Mai Lan ơi, ra chào chú đi con, Mike gọi.

     Một cô gái Mỹ đẹp như tài tử điện ảnh Hollywood tươi cười bước ra, hai tay khoanh trước ngực, đầu cúi xuống, nói bằng tiếng Việt rất chuẩn:

-Cháu tên Mai Lan, cháu chào chú.

     Tôi đứng dậy, Mai Lan bắt tay tôi bằng cả hai bàn tay:

-Chú tên là Long, Chú rất hân hạnh được biết cháu, được quen biết gia đình cháu, một gia đình tuyệt vời, cháu là một cô gái tuyệt vời. Cháu có về VN lần nào chưa?

-Dạ, cám ơn lời khen của Chú. Cháu đã về VN hai lần. Năm rồi cháu đi VN miễn phí.

-Sao vậy?

-Cháu có hai người bạn, hai chị em, bố mẹ họ là người Việt, hai bạn cháu không rành tiếng Việt nên bao cháu đi chung về VN để làm thông ngôn. Vui quá chừng. Bà con chòm xóm dưới quê cứ nhìn cháu chằm chằm: sao kỳ quá hè, Mỹ nói tiếng Việt còn Việt đặc thì bù trất, kỳ hén!

     Lại nữa, Mỹ thì tên Việt còn Việt lại lấy tên Mỹ, ngộ ghê!!

     Cháu dịch lại cho hai đứa bạn nghe, tụi nó mắc cỡ quá, về đến Mỹ bắt đầu học tiếng Việt ngay.
     Ba má tụi nó kèm riết, cháu cũng dạy thêm, bây giờ nói được hơi nhiều rồi. Hè năm nay tụi cháu lại về VN nhưng lần này cháu phải trả tiền vé máy bay vì bạn cháu không cần thông ngôn nữa, thông ngôn thất nghiệp rồi !!
Ông bà ngoại cùng gia đình mấy Cậu, mấy Dì thương cháu lắm. Cũng có thể sẽ có anh Liêm đi cùng.

-Liêm là ai?

-Anh Hai cháu. Ảnh tên là Uy Liêm.

-Có phải đó là phiên âm tiếng Việt của chữ

William không?

-Dạ đúng

-Thế anh cháu thích tên nào?

-Cả nhà cháu thích tên Uy Liêm hơn vì đa số tên riêng của Mỹ không có ý nghĩa gì hết, thường được bắt chước từ trong Kinh Thánh. Còn tên VN có lồng nghĩa trong đó, có khi mang cả ước vọng của cha mẹ đặt ở người con.
-Vậy Uy Liêm nghĩa là sao? Tôi giả vờ hỏi.

-Uy là uy phong, uy nghi, uy quyền, uy lực... còn Liêm là liêm chính, liêm sỉ, thanh liêm.
Người có quyền uy thì phải liêm chính. Người ta khi có chút quyền chức thường hay sanh tật xấu, rồi tham nhũng, rồi phách lối.

     Ba má cháu muốn anh Hai khi nào có địa vị lớn thì phải sống thanh liêm.

-Anh hai cháu đã có địa vị lớn chưa?
-Dạ ảnh chỉ mới là Đại Úy Thủy Quân Lục Chiến đang chiến đấu ở
Iraq
. Còn 4 tháng nữa ảnh sẽ xong nghĩa vụ, khi trở lại Mỹ, được nghỉ phép, anh Hai sẽ theo tụi cháu về thăm Ngoại.
-Anh Hai có biết tiếng Việt không?

-Hết sẩy Chú ơi, dù dở nhứt nhà nhưng cũng gần ngang tầm với Ba cháu ...

     Mike ngồi nghe tôi khảo hạch cô con gái, miệng cứ tủm tỉm cười.

     Tôi thật sự cảm động, nếu không nói là choáng váng, cứ ngây người ra. Giả sử có ai đó kể tôi nghe về một gia đình như thế này, về một cô gái Mỹ thế này, về một Đại Úy Đại Đội Trưởng TQLC Mỹ như vậy... chắc chắn tôi không thể tin vì tôi đã phải chứng kiến nhiều hoàn cảnh trái ngược.

     Có lần, vừa bước vô nhà một người bạn VN, ngay tại phòng khách treo một tấm bảng bằng carton với chữ: "No Vietnamese!" tôi ngập ngừng, hơi tái mặt, rồi lẳng lặng, chẳng nói chẳng rằng bước ra ngoài. Chủ nhà chạy theo đon đả.

     Tôi nuốt nước miếng cho dằn cái gì đó nghèn nghẹn trong cổ họng rồi chậm rãi: có phải ông không muốn tiếp khách người VN hay ông không cho phép ai ngồi trong phòng đó nói tiếng Việt ?

     Anh ta phân bua: tôi chỉ muốn bà Xã và các cháu luyện tiếng Anh cho thật nhuyễn để mau thành dân Mỹ thôi !?!?

     Vậy nếu ông vào một nhà hàng, một công viên, lên máy bay, xe lửa, xe buýt hay vô nhà một người Mỹ nào đó, ông thấy hàng chữ này, ông hiểu nó thế nào?!?!

     Cách đây vài chục năm, khi tình trạng kỳ thị chủng tộc còn tồn tại trên đất nước Mỹ, người ta thường thấy trên xe buýt hay công viên có đeo bảng: No dogs and negroes (cấm chó và người da đen). Đến thập niên 60 mới chấm dứt. Bây giờ ông treo "No Vietnamese" trong phòng khách nghĩa là làm sao?!?!

     Ông ta gỡ bảng xuống liền.

     Ông bà này nghe nói qua Mỹ có mấy năm đã về VN xum xue, bà con bên nhà ngạc nhiên thấy ông và gia đình lột xác nhanh quá, sức mạnh một đại cường quốc có khác.

     Bên này cả hai ông bà đi làm vệ sinh, quét dọn trường học, về VN khoe làm trong ngành giáo dục nên rất ít nói tiếng Việt.

     Riêng dân Mỹ hay người VN tại Mỹ chỉ nghe âm Mít đặc, không cần nhìn, đều biết ngay ông chánh gốc là "dân địa phương" Alaska vì, mười câu hết chín, ông đều nhắc đến tên một thành phố lớn của Tiểu Bang này: Du nô (3).

 

 

 

     Nhưng thôi, đây là đất nước tự do mà! Tự do dân chủ với lưỡng đảng đàng hoàng.
Mike thường nói đùa với tôi "coi dzậy chứ hổng phải dzậy mà còn quá cha dzậy nữa" khi đề cập đến hệ thống lưỡng đảng của Hoa Kỳ hiện nay.

     Cứ nhìn vô gia đình Thống Đốc Tiểu Bang California: Ông chồng Schwarzenegger thuộc đảng Cộng Hòa trong khi bà vợ lại theo Dân Chủ. Khi làm việc, hai đảng kiểm soát lẫn nhau như vợ theo dõi chồng, như chồng để ý coi chừng bà vợ.

     Nhưng khi có những sự kiện trọng đại liên quan đến an ninh đất nước, đến sự tồn vong của quốc gia, đến sự sống còn của dân tộc Hoa Kỳ thì hai đảng chỉ là một như sau vụ 9/11 mấy năm trước đây. Hình như có một thứ siêu chính quyền đâu đó quyết định tất cả, tương tự ảnh hưởng nội ngoại trên hai vợ chồng giữ cho hạnh phúc lứa đôi bền vững, từ đó nuôi dạy con cái thành công, kinh tế gia đình thịnh vượng, cho nước Mỹ chỉ mới hơn 200 năm lập quốc đã tiến lên bá chủ hoàn cầu. Nước Mỹ đang đứng nhất trên toàn thế giới về mọi phương diện nhưng rất tiếc, nhất luôn về vô luân thường, vô đạo lý và nhất luôn về cả lãnh vực tội phạm!

     Đấy, Mike hướng dẫn cho tôi nhiều, rất nhiều điều, nhiều chuyện.

     Chúng tôi ngày càng thân hơn khi biết tôi ngày xưa cũng có một thời gian đi dạy học. Vợ chồng Mike và cháu Lan lại thích tìm hiểu sâu xa tiếng Việt hơn qua những từ ngữ Hán Nôm mà tôi đã được Ông Ngoại, một Cử Nhân Hán Văn, khoa thi cuối cùng, dạy dỗ.

     Nhờ vợ chồng Mike, tôi thực sự hội nhập vào xã hội Mỹ lúc nào không hay. Từ sự nhiệt tình giới thiệu của Mike, tôi được một chân Technician trong hãng Merix ở Forest Grove. Một năm sau, Mike khuyến khích và hướng dẫn vợ chồng tôi mua một cơ sở kinh doanh riêng ngay trung tâm thành phố Tigard đến nay đã tròn 12 năm.

     Thời gian cứ lặng lẽ trôi nhanh như những áng mây ngoài khung trời rộng. Thênh thang như giấc mơ Hoa Kỳ của gia đình tôi liên tiếp nở hoa.

     Cho đến một ngày... Tin như sét đánh ngang tai. Hai vợ chồng Mike vừa qua đời trong một tai nạn xe! Cháu Lan gọi báo cho tôi bằng tiếng được tiếng mất, tức tưởi, nghẹn ngào.
     Một anh Mễ nhập cư bất hợp pháp say rượu lái xe vào đường cấm ngược chiều. Xe Toyota Camry của vợ chồng Mike nằm bẹp dí dưới gầm chiếc xe tải F350 chở đầy đồ nghề làm vườn cắt cỏ.

     Toán cấp cứu phải cưa xe mới đem được hai người ra nhưng cả hai đều đã tắt thở vì sức va chạm quá mạnh và vì vết thương quá nặng....
     Lại thêm một nhức nhối của người Mỹ trước làn sóng nhập cư bất hợp pháp... lại thêm một vết đen tệ nạn say rượu, say xì ke lái xe DUII (4) ngày càng nhiều....

     Tang lễ thật đơn giản gồm đa số người quen gia đình, bạn bè làm chung Intel với Mike và đồng nghiệp trong bệnh viện của Mai Liên.
Cháu Uy Liêm được thông báo từ
Iraq về để vừa kịp nhìn cha mẹ lần cuối trước khi đóng nắp quan tài.

     Trời Oregon chiều nay mưa buồn day dứt. Nghĩa trang Finley Sunset Hills với những dốc thoai thoải quay về hướng Tây, về hướng Thái Bình Dương mà tận cùng bên kia bờ có một vùng đất mang tên VN, quê hương yêu dấu của Mike và Mai Liên suốt cả đời người. Gió buốt miên man như xoáy sâu vào tận xương tủy. Như chưa bao giờ.

     Vài tia sáng yếu ớt long lanh trên những ngọn cỏ đầm đìa. Mắt tôi nhạt nhòa trong cái lạnh tái tê. Cũng xong một kiếp trong vô lượng luân hồi. Một chút gì đó có lẽ hai người đang hài lòng là vẫn còn được đi chung với nhau, vẫn còn được tay trong tay, cùng qua một thế giới khác, hy vọng sẽ tốt đẹp hơn.

     Ít nhất về vật chất bây giờ xác hai người vẫn còn được nằm bên nhau, hai ngôi mộ song song, cùng nhìn về quê hương VN tít mù xa thẳm cuối chân trời.

     Riêng tôi lòng trĩu nặng mối ân tình chưa thanh thỏa.

     Trong suốt cuộc đời còn lại, dù còn sống trên đất Mỹ này, hay giang hồ đó đây, hình ảnh tươi vui khỏe mạnh, tràn đầy sinh lực, gương mặt dễ thương, cử chỉ ân cần, lời nói nhã nhặn nhiệt tình và đặc biệt ân nghĩa của vợ chồng Mike đã dành cho gia đình tôi chắc chắn sẽ khó phai mờ.

     Cám ơn Michael Erickson.

     Cám ơn Mai liên Trần.

     Xin tạm biệt.

 

     NGUYỄN THẾ THĂNG

 

 

 

 

                                             Tình bạn Có là tình của loài chim

Mary Vũ

     Các anh các chị trong gia đình An Phong thân,

     Hôm vừa rồi, ngồi buồn viết tầm bậy cho các anh chị đôi ba giòng. Thế mà anh chủ bút nội san Duc in Altum của Gia Đình An Phong lại vớ ngay, làm thành bài viết. Đọc thấy cũng ngộ.

     Hôm nay, em thấy có hứng lại lấy giấy bút ngoằn nghèo thêm ba chữ, để gọi là “cứu bồ” anh chủ bút kiêm biên tập báo nhà. Vì không có ý tưởng gì hay ho để sẵn trong đầu, nay em xin mạn phép nghĩ gì, viết nấy. Xin các anh chị bỏ lỗi cho nhé.

     Thú thật, là hôm rồi lục lại trong mục Giọng cũ xa gần, em nhặt được những ý tưởng “rất hay” của một cô bé chừng đôi tám, thế hệ thứ hai. Xin trích dẫn vài đoạn ở đây, để xem các anh chị có đồng ý hay đồng lòng không nhé. Cô bé viết về tình của loài chim như thế này:

            Ba yêu quý của con.

            “Năm ngoái, con có đến Idecaf để xem phim “các loài chim di trú” của một nhà làm phim thiên nhiên, người Pháp. Tuyệt vời lắm! Ông đã bỏ ra 5, 7 năm trời bay theo các loài chim di trú để có được những thước phim thật đẹp, thật sống động… Cuối phim, có một câu kết luận thế này: “Các chú chim di trú, mỗi năm vượt hàng chục ngàn cây số bay đến những vùng đất ấm áp tránh đông nhưng sau đó, chúng luôn trở về lại vùng trời phương Bắc, như một lời giao ước tình nghĩa, không bao giờ lỗi hẹn cả!” Con vẫn thắc mắc, không hiểu sao bọn chúng lại chẳng chịu ở luôn tại nơi trú đông ấm áp, dồi dào thức ăn? Tại sao chúng lại làm những cuộc hành trình gian khổ và lắm hiểm nguy như thế, vào mỗi năm? Vì bản năng?? Vì, những vùng đất phương Bắc sẽ trở nên thiên đường tươi đẹp khi xuân về?? Vì, những đặc điểm sinh học của chúng thích hợp với phương Bắc hơn?? Những điều này, có thể gọi là hợp lý đấy, nhưng con chưa thể xác quyết gì cả. Có lẽ sau này, trình độ về sinh học của con cao hơn, nghiên cứu nhiều hơn, con sẽ giải thích được rõ ràng… Nhưng liệu sẽ có bao nhiêu người chỉ tay vào những bầy ngỗng trời, vịt trời mà bảo: bọn chim dở hơi, bay đi bay lại làm gì cho tốn công tốn sức, cho nguy hiểm đến thế!!!”.. Đấng Tạo hoá sinh ra chúng như thế từ ngàn năm, những chú chim vẫn lướt qua núi cao, mây trời, băng qua sa mạc khô khốc, vượt đại dương mênh mông, bất chấp cả những viên đạn ác nghiệt từ họng súng thợ săn luôn rình rập đâu đó, không màng đến những lời nhận xét của những người không hiểu biết, chẳng biết đến dấu hỏi hoài nghi của một nhà…’động vật học tương lai’, như con…Chúng cứ “bay, bay mãi, từ thế hệ này sang thế hệ khác, vì một lời “hò hẹn” Đông-Xuân với hai vùng đất khác nhau vạn dặm, vì đó là ‘CHÂN LÝ’ để sinh tồn mà Tạo hoá đã khéo léo sắp đặt thành ‘bản năng’ cho mỗi chú chim từ thuở vừa chui khỏi trứng, một thứ bản năng diệu kỳ không phải ai cũng tường tận, cũng thấu đáo… Nhờ thế, mỗi năm người ta vẫn có thể thấy được ‘đội hình chữ V’ của các chú vịt trời gấp gáp tiến về phương Nam cho kịp lời hẹn ước, chẳng quan tâm đến những câu hỏi, những lời nhận xét…

     Các anh các chị thân mến,

      chảy trên đây của cô bé lúc đặt bút viết mới chỉ đôi tám, là giòng chảy hài hoà gửi về người cha ở nhà, khi biết được giòng chảy hoà hiền lâu nay đã gặp phải khúc xiết. Và, cô tiếp tục với ý tưởng rõ nét hơn:

“Ba ơi,

Con nói dài dòng như thế, cũng chỉ muốn nhắn với ba rằng, dù cho ai đó có nói gì đi nữa, nếu mình cảm thấy đã làm hết sức rồi và với mình, đó là LẼ PHẢI, thì không có gì phải hối tiếc cả!!

Bản thân con, con luôn tin rằng những điều ba đã làm được thật tuyệt vời! Một tờ giấy trắng tinh tươm, ba đã nhọc công nắn nót viết nên những dòng thư pháp đẹp đẽ, nếu lỡ có ai đó làm lấm lem vài vết mực, ba đừng lấy đó làm buồn lòng, nhìn từ xa nó vẫn đẹp lắm lắm!!”    

Con muốn nói thêm vài điều như thế này… Một con sông, ở thượng nguồn, chảy thật êm đềm, điều hoà, đến gần những ghềnh thác, chảy thật xiết, thật xoáy, đến một lúc nào đó, dòng sông bỗng chia làm hai nhánh, chảy riêng rẽ, có thể hai nhánh ấy sẽ nhập lại với nhau ở một nơi nào đó, rồi tiếp tục đổ ra biển khơi, nhưng có khi, nhánh sông tách ra sẽ nhập vào dòng sông khác, chẳng biết bao giờ mới tương phùng… nhưng dòng sông kia thì vẫn đều đặn chảy mãi, chảy mãi, tìm về biển khơi mênh mông…

Và, cô gái yêu thấy chuyện hiểu lầm tình bạn thân thương giữa thân phụ và người thân thiết nhất trong nhà, hàng mấy chục năm trời, lại đã viết thêm:

 

“…Bản thân con, vẫn rất mong chờ vào một ngày nào đó, nhánh sông rẽ sẽ chuyển mình để nhập trở lại, với dòng chảy luôn tồn tại, từ quá khứ, hiện tại đến tương lai… Nhưng nếu điều đó không xảy ra, thì con tin, ba vẫn luôn tiếp tục theo đuổi dòng chảy huớng về tự do, công bằng bất chấp có những hòn đá xấu xí, thô kệch chắn ngang, nước chảy đá mòn mà!! Với lại, vẫn còn rất nhiều nhánh sông vẫn hoà nhập vào dòng chảy của ba: những người bạn, những học trò luôn ủng hộ ba hết mình…

 

Và, con gái yêu kết thúc giòng chảy bằng hai câu thơ của Lý Bạch:

 

Có hai câu thơ trong bài “Hiệp khách hành” của Lý Bạch mà con rất thích, bây giờ tặng ba:

Sự liễu phất y khứ

Thâm tàng thân dữ danh

 

Xong việc phất áo ra đi,

Không màng đến danh lợi.

 

Các anh các chị thân,

Thật ra, ý của cô con gái yêu không hẳn là những ý tưởng về tình bạn thân thương gặp phong ba sóng gió, cho lắm. Để biểu đồng tình với cô bé, em cũng vừa nhặt được ý tuởng ở trên mạng về tình bằng hữu, xin trích ra đây để các anh chị thưởng lãm:

 

Hãy nhoẻn cười đi! bạn sẽ lại nhận được những 10 nụ.

Hãy cứ yêu đi! Rồi cũng được yêu

Hãy làm ngay những cử chỉ đẹp để hiến tặng bạn bè.

Hãy sẻ san, thì sẽ được san sẻ.

Hãy an ủi động viên nhau, rồi mình cũng sẽ được ủi an, khích lệ.

Hãy nguyện cầu cho bạn mình, tự khắc mình sẽ nhận được kết quả lời cầu nguyện của bạn.

Hãy giúp đỡ bạn bè, mỗi khi có thể làm được.

Hãy xin lỗi ngay, khi vừa biết mình có lỗi với bạn bè.

Hãy làm hoà với nhau trước khi mặt trời lặn.

Đừng chờ đợi…

Bởi, bạn đâu còn đủ thời gian và cơ hội  mà làm.

 

Thưa các anh chị, trên đây cũng chỉ là vài thông điệp nhỏ, em bất chợt tìm gặp, nay chuyển đến cho nhau, để suy nghĩ.

                               

Nay kính,                   

Mary Vũ.    

 

  Lời hay, ý được                                   

*Đàn ông đến từ Hoả tinh, đàn bà từ Thuỷ tinh

 

*Bầu ơi thương lấy bí cùng, mai sau có lúc… nấu chung một nồi.

 

*Trăn năm bia đá vẫn mòn, bia chai cũng bể, chỉ còn bia… ôm!

 

*Khi gặp chó dại hay rắn độc, thì hãy đứng yên để cho nó cắn. Vì, chạy đằng nào nó cũng cắn hết.

 

*Cô gái nào đứng trước mặt mình mà cúi xuống, có nghĩa là cô ta đang thẹn vì thích mình đấy. Nhưng, nếu mình mà lại nhìn xuống đất khi đứng trước mặt cô gái nào, đơn giản chỉ là vì mình thích … cặp giò của cô ấy.

 

*Còn … nói, còn… tát.

 

*Hôn nhân luôn tặng mọi người một đặc ân: chỉ người nào đã qua cầu rồi, mới có quyền ly dị.

 

*Nhà sạch thì mát, bán sạch rất tốn xà bông.

 

*Quân tử nhất ngôn là quân tử dại. Quân tử nhai đi nhai lại là quân tử khôn.

 

*Bạn có thể thành bác sĩ mà chẳng cần học y khoa, nếu các cụ đặt tên bạn là Sĩ mà cô em hay cậu em bạn lại có con, thì chúng sẽ gọi tâng bạn lên thôi.

 

*Trèo cao ngã đau, trèo thấp ngã cũng đau.

 

*Cá không ăn muối cá ươn. Con không ăn muối… thiếu i-ốt mất rồi, con ơi.

 

*Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn nàng khổ lắm các anh ơi.

 

*Một điều nhịn bằng chín điều… nhục.

 

*Không mày đố thày dạy ai.

 

*Trông bạn thấy quen quen, hình như mình chưa gặp bao giờ.

 

*Trúc xinh trúc mọc đầu đình, em xinh em hút thuốc chùa cũng xinh.

TU SĨ VÀ BẰNG CẤP

                                        T.N.B.

Người không đi tu háo danh, gian dối, lấy không làm có… là những việc làm sai trái thường xảy ra. Bởi đó mà người ta gọi cõi đời là thế gian, trần tục . Nhưng người tu hành mà gian dối, háo danh, khoe khoang, khoe bằng, khoe chức, khoe của… là điều không ai có thể chấp nhận được. Người tu hành bất cứ đạo nào phải là hình ảnh khiêm cung, siêu thoát, đơn giản trong cung cách sống và lời nói. Nếu không, sao xứng đáng gọi là lãnh đạo tinh thần, hướng dẫn đời sống tâm linh? Vậy mà bịnh khoe bằng cấp/bằng cắp vẫn không tha giới tu sĩ Việt Nam trong nước và nhất là ở hải ngoại.

Một thượng tọa có bằng Ph. D. chủ lễ cầu siêu cho người chết có gì khác hơn một thượng tọa không có Ph. D.? Sao lại phải khai ra? Đức Phật Thich Ca sau khi xuất gia tu hành đâu còn xưng mình là Thái Tử? Chính cái tâm, cái đức của người tu hành, không phải cấp bằng hay chức tước, mới thật sự quan trọng.

Linh mục là chức thánh do Đức KiTô lập nên trước khi thọ hình. Chức này phải cao cả hơn hết ở thế gian, không gì có thể so sánh được. Người ta có thể bỏ tiền ra mua bằng cắp, chạy chọt quan chức nhưng không thể dùng tiền mua chức linh mục. Trong thời gian 15 năm qua ở Việt Nam, có trường hợp gia đình phải cắn răng chi tiền, “lịch sự” với quan chức cộng sản để chi bộ đảng cộng sản chấp thuận cho con em được phong chức linh mục, nhưng đây không phải là mua chức vì ứng cử viên đã hội đủ mọi điều kiện đối với Hội Thánh và giáo quyền:

Thế chiến quốc thế Xuân Thu

Gặp thời thế thế thời thời phải thế!

          Nhưng một số lớn linh mục đã không cảm thấy chức linh mục là chức cao quý nhất nên mới có thêm những tước vị lòng thòng đi kèm, để phân biệt cá nhân mình với các linh mục... tầm thường khác: linh mục nhạc sĩ Nguyễn Văn A, linh mục tiến sĩ Vũ Văn M, linh mục giáo sư tiến sĩ Lê Văn X...

* Soạn nhạc, viết nhạc thì giáo dân biết mình là nhạc sĩ rồi, cần gì phải xưng danh là “linh mục nhạc sĩ”?

* Và xưng để làm gì?

* Bán CD, DVD nhạc?

Ở Hoa Kỳ hầu hết các giáo sư đều có bằng Ph. D. Giáo sư mà không có bằng Ph. D. thật là họa hiếm và phải thật giỏi, xem bằng Ph. D. chẳng vào đâu nên không bận tâm đạt lấy, như trường hợp linh mục Henri Nouwen, tác giả hơn 40 quyển sách nổi tiếng. Vậy đâu cần thiết phải xưng danh là “giáo sư tiến sĩ”?

Trừ phi muốn phân biệt mình với các “giáo sư” từ Việt Nam chạy sang! Đôi khi chính các ông các bà giáo dân đã tự động gọi nâng các cha cố, các thầy của mình lên khiến các ngài lỗi đức khiêm nhường và bị “tục hóa!”

Một vấn đề khác đáng nói là hiện tượng manh nha trong giới tu sĩ VN ở hải ngoại trong mười năm qua là hiện tượng học tiến sĩ hàm thụ online từ một số trường, nhất là các trường hàm thụ ở tiểu bang California. Tiểu bang California có quy chế xin mở trường đại học khá đặc biệt và lỏng lẻo. Vài người có bằng Ph. D. hợp lại là có thể xin mở trường đại học gồm... một thầy, một cô, một chó cái! Các trường này không được các hội nghề nghiệp chuyên môn liên hệ công nhận (accredited). Sinh viên học hàm thụ online, một năm hai lần về trường để ôn tập một tuần. Nhưng học phí thì rất đắc, và khi “tốt nghiệp” chỉ dùng bằng cấp/học vị để treo tường, in trên thiệp mà không tìm được việc làm tương xứng.

Nói khác, đây là những trường chuyên phân phát “bằng cắp,” dành cho các sinh viên ngoại quốc thuộc thành phần con ông cháu cha, cô chiêu cậu ấm thích du hí mà không thích học, nhưng lại muốn có... bằng cấp to để về nước lòe thiên hạ và nối nghiệp cha ông! Vậy rõ ràng những trường... học đại này được lập ra không phải vì mục đích giáo dục, và người theo học cũng không phải muốn học mà chỉ muốn có... bằng cắp!

Một linh mục VN theo học trường loại này, đỗ bằng “Psych Doc” (Tiến sĩ Tâm Lý Học!), đã ghi hai chữ này khá to sau chức linh mục và tên mình trên các bài viết trên mạng! Nhưng cũng có linh mục tự trọng, đậu bằng cắp loại này không dám khoe!

Trong ba năm qua, vài ba linh mục Việt Nam có bằng tiến sĩ họp nhau lại lập chương trình học tiến sĩ hàm thụ về tôn giáo/thần học/mục vụ ở California để giúp các linh mục VN... hiếu học. Chương trình học ba năm, bằng tiếng Việt với học phí hơn 20.000 đô la một năm. Vài giáo xứ, cộng đoàn VN phải... gánh chịu học phí này một cách bất đắc dĩ để linh mục chánh xứ/ quản nhiệm của mình... tu học thêm, để giảng Lời Chúa về phép công bằng cho đúng hơn?! Từ cát bụi hình thành, con người sẽ trở về với bùn đất, cát bụi. Danh vọng, quyền hành, bằng cấp/bằng cắp… không làm đổi thay thân phận con người: chết! Người tu hành há chẳng biết câu “Việc đời thành hay bại, muôn sự cũng là không?” Sao lại thích bon chen giữa chợ đời trần tục, thế gian đầy gian dối?

                    Giọng cũ xa gần                             

                                    Dân Gầy phụ trách

*Ngồi buồn nhớ lại chuyện xưa:

Duc in Altum vừa nhận được tin-thư liên lạc của anh em lớp Vô nhiễm, vẫn thường gọi là thư của “Capo cánh già”. Kỳ này, đại diện lớp có những tưởng niệm về một nhận định. Nhận định là của “Cây Đại Thụ DCCT Trần Hữu Thanh”, rất thân và cũng dễ yêu, như sau:

GIA ĐÌNH AN PHONG  NGOÀI TU VIỆN

            Sài gòn, ngày 30/05/2008  

            Thưa các Anh, các Chị, các Cháu.

            Thánh Lễ tháng 06/2008 sẽ được tổ chức vào lúc 8g00 Chúa Nhật, ngày 08/06/2008, , tại Nhà Nguyện Cộng đoàn Kỳ Đồng.

Nếu trong quá khứ đã có lần các Anh, các Chị, các Cháu … bỏ qua buổi họp mặt hàng tháng này vì nhiều lý do, thì buổi họp mặt sắp tới, các Anh, các Chị, các Cháu không thể bỏ qua. Phải về tham dự để được nghe chuyện ma quỷ quậy phá Cộng đoàn Kỳ Đồng trong tháng năm vừa qua. Nhớ nhé !

CHUYỆN ĐẾN BÂY GIỜ MỚI … KỂ LẠI

TRONG MỘT TUẦN LỄ, TẠI NHÀ THỜ KỲ ĐỒNG, HAI LẦN GIA ĐÌNH AN PHONG TUYẾN 2 ĐƯỢC NHẮC ĐẾN.

1/ Ngày 07/11/2005, lễ phát tang Cha Alphongse Hồ Đỉnh tại nhà thờ Kỳ Đồng. Cha sinh năm 1935, vào Dòng Chúa Cứu Thế, du học tại Pháp và kẹt lại sau năm 1975. Cha “đầu quân” làm mục vụ tại giáo phận Versailles, xin ra khỏi Dòng năm 1993 để thực thụ là linh mục Triều thuộc quyền Giám mục giáo phận.

Cha giảng lễ Nguyễn Thể Hiện, Giám đốc học vụ Học viện DCCT đã nhắc tới việc sau khi xin ra khỏi Dòng “về mặt hành chánh”, Cha Hồ Đỉnh đã tự nguyện gia nhập Gia Đình An Phong Tuyến 2 để vẫn tiếp tục sống tinh thần An Phong như các anh em cựu tu sĩ, cựu đệ tử của Dòng, mà Cha Eugène Larouche đã gọi là những “rédemptoristes du dehors” (hôm nay mang danh rất chính xác và tránh được ngộ nhận chẳng lành : GIA ĐÌNH AN PHONG NGOÀI TU VIỆN). Trong một cuộc điện đàm tại nhà anh Nguyễn Ngọc Lan giữa Cha Hồ Đỉnh và Quản gia lúc bấy giờ, Cha Đỉnh đã xin đăng ký và Quản gia đã … duyệt ! Cuối thánh lễ, Cha Bề Trên Giám Tỉnh Cao Đình Trị đã ngỏ lời cảm ơn cộng đoàn phụng vụ, gia tộc Cha Hồ Đỉnh và GĐAP Tuyến 2.

2/ Ngày 11/11/2005, nhân cuộc tĩnh tâm hàng năm của Tỉnh Dòng Chúa Cứu Thế, một thánh lễ đồng tế đã được dâng với cộng đoàn phụng vụ đông đảo khác thường để kỷ niệm 80 năm (1925-2005) DCCT hiện diện tại Việt Nam.

Cây đại thụ của Tỉnh Dòng, Cha Trần Hữu Thanh ngồi trên xe lăn trong phẩm phục hành lễ, được đẩy ra giữa cung thánh giảng thuyết. Hai ý tưởng chính của cụ già 90 tuổi mà đầu óc còn minh mẫn, mà giọng nói còn sang sảng :

Một : Cám ơn Tỉnh Dòng mẹ Canađa đã có quyết định sáng suốt ngay từ đầu là gởi các thày đại chủng sinh Canađa sang Việt Nam học tập cùng với các thày Việt Nam. Sau thời gian học lý đoán và thần học (6 năm) các cha Canađa có thể bắt tay vào công việc mục vụ với giáo dân Việt Nam, trôi chảy bằng tiếng Việt. Trong lúc đó thì tất cả các dòng khác lại gửi các thày đại chủng sinh Việt Nam ra nước ngoài, sang tỉnh mẹ ngoại quốc, xa rời … “trận địa” là đồng lúa Việt Nam. Cha già Trần Hữu Thanh đã không cầm được nước mắt trước những hy sinh cao cả của các cha Canađa và người nghe cũng nghẹn ngào.

Hai : Cây đại thụ Trần Hữu Thanh nói : “Khác với các dòng khác, DCCT chúng tôi, những anh em đang sống trong các cộng đoàn trên đất nước Việt Nam và phục vụ toàn thời gian cho công việc truyền giáo, là Tuyến 1 của Dòng. Các anh em khác đã từng học trong Dòng 3 năm, 5 năm, 10 năm và đã từng hấp thụ tinh thần của Cha Thánh Anphongsô, nay họ về đời, cùng với gia đình họ, họ tiếp tục sống tinh thần này và phục vụ Giáo Hội, chúng tôi gọi họ là GĐAP Tuyến 2”. Tuyến 1, Tuyến 2 nhưng cùng một gia đình.

Thưa các Anh, các Chị, các Cháu,

Xin tiếp tục sống tinh thần này tuỳ hoàn cảnh của mỗi người và … “Đừng sợ!” (Lời dạy của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô 2).

Xin cám ơn anh Tân Giám Tỉnh và các bạn trẻ đã phục hồi sinh hoạt lành thánh của các thành viên ngoài tu viện.

CAPÔ CÁNH GIÀ

 

*Người Việt là người gì?

Trong quá trình tìm kiếm giọng cũ xa gần, có một giọng tương đối ở vào bậc trung. Đó là những giọng “đực rựa” chuyên vác dao vác rựa ra mà chém. Trong số những người bị giọng này chém, trước nhất là người Việt. Hãy cứ thử nghe hơi gió của máy chém này, xem sao! Máy vừa “phạp” xuống, như sau:

Người Việt là người giỏi nhất:

Cả thế giới đều sợ người Mỹ. Vì, người Mỹ đã “lói” là “nàm”.

Thế nhưng, người Mỹ lại sợ nhất người Nhật, vì người Nhật “nàm” xong mới “lói”.

Vậy thì, người Nhật sợ nhất là ai? Xin thưa, đó là người Trung Hoa, vì người Hoa không “lói” cũng vẫn “nàm”.

Người Nhật luôn đề phòng người Trung Hoa, vì Trung Quốc là cường quốc có tiềm lực quân sự.

Vậy thì, xin hỏi người Trung quốc, sợ ai nhất. Vâng, chính đó là người Việt. Vì, người Việt nói một đàng làm một nẻo, bố ai mà lần. Vì thế có phải người Việt mình giỏi nhất, không?

Người Việt lại là người gan dạ nhất:

Năm 1990. Vào thời đó, lần đầu tiên và cũng là lần cuối, Á châu tổ chức hội thi: Người gan dạ nhất… hành tinh.

*Có một người Hoa đứng lên cho rằng: người Trung quốc gan nhất vì dám nhảy từ độ cao 10m xuống đất, mà chẳng cần lưới an toàn, như phim tập. Nghe xong, mọi người vỗ tay khen. Đồng ý.

*Người Nhật cho rằng: người mình gan nhất, vì dám cầm dao rạch bụng, móc ruột ra khoe với mọi người, xong rồi nhét ruột vô khâu lại. Các khán giả đều vỗ tay nhiệt liệt hưởng ứng cho rằng người Nhật gan dạ nhất.

*Đại diện các nước khác thay nhau liên tục biểu diễn các trò mạo hiểm để chứng tỏ người mình gan cùng mình. Khán giả lại được dịp vỗ tay khen ngợi không ngớt. Nói chung, dân tộc nào cũng có người gan dạ, và giám khảo đắn đo mãi vẫn chưa quyết định.

Cuối cùng, người Việt Nam cử hai đại diện khệ nệ bưng một vật hình khối dài gần 1m đặt giữa khán đài, rồi cả hai cầm cưa sắt kéo qua kéo lại, khán giả thoạt nhìn, có người vội trề môi chê là tầm thương, không có gì chứng minh gan dạ hết. Bất chợt, từ phía ban giám khảo bước ra một vị cầm máy vi âm, với giọng nói run lẩy bẩy: thôi, xin dừng ngay cho. Tôi chính thức công nhận người Việt gan dạ nhất rồi. Xin nhị vị đừng kéo cưa nữa, kẻo nó nổ chết cả lũ bây giờ… Lúc ấy, khán giả mới hiểu ra: quái vật dài 1m mà hai người kia đang cưa, là quả bom chưa phát nổ. Thế là, mọi người ú té, kéo nhau chạy.  

Chạy dài, sợ luôn cả người Việt.

 

*Có những “ranh” ngôn:

Thật ra, phải gọi là danh ngôn mới … cứng. Nhưng ở đây tác giả vô danh nọ, chỉ thích cứ gọi đó là “ranh”, tức đọc chữ “danh” theo kiểu giọng Bắc kỳ Công giáo di cư, thôi. Và, “ranh” ngôn ấy, cũng đã thành “danh” ngôn như thế này:

  1. Có chí thì… ghê.
  2. Con nhà tông không giống lông, đỡ giống… khỉ.
  3. Gần mực thì đen, gần đèn thì … hút.
  4. Bầu ơi, thương lấy bí cùng,

Mai sau có lúc nấu chung một nồi.

  1. Liệu cơm mà gắp… hết.
  2. Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc,

Áo nàng xanh, anh bán cúc, nuôi gà.

7          Tham thì thâm, không tham thì ngâm

8          Thuận vợ thuận chồng, con đông mệt quá.

9          Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ

Vô duyên đối diện cũng um sùm.

10.        Hạt muối chia hai, hạt đường nuốt hết.

11.        Bạn bè có phúc cùng chia, có hoạ bỏ trốn

12.        Có công mài sắt có ngày chai tay.

13.        Tay trắng làm nên mấy chục ngàn bạc nợ.

14.        Kiến tha lâu… mỏi cẳng.

15.        Nhất tự vi sự, bán tự… vô sư. (Một chữ cũng là thầy, bán chùa hết còn sư)

16.        Nhà sạch thì mát, bát sạch… tốn xà bông để rửa.

17.        Một con ngựa đau cả tàu bỏ chạy.

18.        Môi hở, răng hô.

19.        Máu chảy, ruột đánh lôtô vì sợ.

20.        Cá không ăn muối cá ươn,

Con cãi cha mẹ, trăm đường con… đi.

21.        Trèo cao ngã đau, trèo thấp ngã vẫn đau.

22.        Qua cầu ngả nón trông cầu,

Cầu bao nhiêu nhịp… tốn xăng dầu bấy nhiêu.

23.        Học một biết mười, học mười quên hết.

24.        Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh. (Lắm nghệ tinh dễ kiếm việc)

25.        Tay làm hàm nhai, tay quai miệng… đỡ mỏi.

26.        Ăn quả nhớ kẻ trồng cây, chặt cây nhớ canh cảnh sát.

27.        Học đi đôi với hành, hành đi đôi với tỏi.

28.        Có tiền, mua tiên cũng… uổng.

29.        Chắc như đinh đóng cột … mục.

30.        Nhiễu điều phủ lấy giá gương,

         mai sau có lúc ngoài đường “on sale”.

31.        Ăn trông nồi, ngồi trông người bên cạnh.

32.        Cọng giá cắn đôi, Big Mac ăn cả.

 

Lời Bàn của Dân gầy:  Cứ cái kiểu đặt ca dao, ngữ… tục như thế này, ắt có ngày ăn roi các thày cô, đấy nhé bà con.

 

*Ai bảo rằng đời mình chẳng vui:

Mới đây, DânGầy được đọc một “chuyện phiếm’ của anh Trần ngọc Mười Hai (hình như là một cựu đệ tử), có viết về chuyện “buồn – chán”. Nay, lại đọc thêm nhưng vần thơ của người nào đó không ký tên, trên dòng chày điện báo, những muốn gửi đến bạn bè, đọc cho vui, những ngày không thấy chán mà cũng chẳng thấy buồn, như sau:

Trong mắt em anh thấy cả ngày mai
Trong vòng tay nhau, tình ta hun đúc
Cuộc sống chung chứa chan niềm hạnh phúc
Tình nồng nàn suốt hiện tại, tương lai
Chìa khóa trái tim anh duy nhất
Em giữ và cứ mở ra coi
Để tin tưởng ở trong chứa chất
Bóng hình chất ngất: Chỉ em thôi !

Anh sẽ hái những vì sao cao ngất
Làm cá dưới sông biết nói cười
Ếch nhái biết gảy đàn, múa hát
Mọi điều… miễn được thấy em vui

Có người thích đổi thay
Nhưng không mong biến động
Có người khoái trái cây
Muốn ngọt ngào, chiều chuộng
Có người ưa thẳng ngay
Giản đơn, không pha trộn
Vị tình yêu… ngất ngây
Đến thế nào… cũng sướng
Hỡi người yêu duy nhất của lòng anh
Món quà quí chất lượng cao vô giá
Em nhỏ bé, với anh là tất cả
Suốt đời này chỉ biết có em thôi
.

 

*Sống lâu hay chết mau:
Dạ thưa, đó vẫn là vấn đề. Của thời xa xưa, lẫn hôm nay. Hôm nay, điều này vẫn được chứng thực qua lời của nhiều bác sĩ, mà “thầy sáu hụt” nhà ta là bác Huỳnh Công Lợi, có một vòng “siêu” tầm như ri:

10 bí quyết sống lâu

Người Trung Quốc có câu: "Không sống nổi 100 tuổi, lỗi chính là tại mình". Vậy làm cách nào để trường thọ? Các nhà khoa học cho rằng, nếu làm được 10 điều sau thì việc sống lâu trăm tuổi là trong tầm tay.

1. Có mục tiêu:

Luôn tâm niệm tất cả vì mục tiêu sức khỏe, mọi hoạt động đều phải xoay quanh mục tiêu này. Chỉ có sức khỏe tốt, bạn mới có cuộc sống chất lượng cao.

2. Thư giãn:

Hãy thư giãn một chút khi phiền muộn. Lúc vui vẻ sảng khoái hãy nhâm nhi một chút rượu, một chén trà, một chút thư giãn sẽ làm cho tâm hồn thảnh thơi. Trồng hoa, chăm cây, câu cá, thả chim, du lịch, đọc sách... sẽ làm cho tâm hồn khoáng đạt.

3. Nên quên:

Quên tuổi tác, quên bệnh tật, quên hận thù, không được để ý nghĩ "mình già rồi" thường trực trong đầu và là câu cửa miệng. Nói già, già sẽ đến, nói bệnh, bệnh tự sinh. Luôn canh cánh hận thù, oán đời... là kẻ thù của tuổi thọ.

4. Vận động:

Luôn để cơ thể đang trong trạng thái vận động. Cách vận động tốt nhất là đi bộ, hãy đi bộ mỗi ngày 3 cây số trong vòng 30 phút. Các hình thức vận động khác như bơi lội, đạp xe, thể dục, đánh bóng, leo cầu thang cũng rất thích hợp.

5. Giảm tinh bột:

Tuổi càng cao nên ăn thanh đạm là chính, ăn nhiều rau, hoa quả. Lương thực nên dùng chủ yếu là các loại lương thực sơ chế, các chế phẩm từ đậu, rau dại... Mỗi ngày nên ăn 1 ít thịt nạc, trứng, cá. Còn mỡ, nhất là mỡ động vật, đường và muối chỉ nên dùng một chút. Mỗi bữa không nên ăn quá no.

6. Giảm ham muốn:

Lòng tham là kẻ thù của tuổi thọ. Chớ ham danh lợi, vứt bỏ các điều phiền muộn làm cho thân thể và đầu óc luôn được thảnh thơi, vui vẻ và hạnh phúc.

7. Nhân nhượng:

Hãy chân thành đãi nhau, khi có tranh chấp nên đặt chữ Nhẫn lên trên. Nên làm nhiều việc thiện, khoan dung với mọi người.

8. Giao hảo:

Cô đơn là kẻ thù lớn của sức khỏe. Cô độc lâu dài não sẽ bị thoái hóa, làm người chóng già, thậm chí còn có thể gây bệnh ngớ ngẩn cho người già. Tăng cường giao lưu với bạn bè tốt sẽ gia tăng hứng thú cho cuộc đời.

9. Giảm rượu, bỏ thuốc lá:

Một chút rượu màu cho 1 ngày có lợi cho sức khỏe, nhưng uống nhiều rượu trắng lại làm bệnh tật gia tăng. Mỗi ngày không nên dùng quá 15gr rượu. Bỏ thuốc lá càng sớm càng tốt.

10. Cởi mở:

Tâm tình khoáng đạt, chớ so kè với mọi người, luôn giữ cho tâm lý cân bằng. Hòa thuận với người, vui vẻ giúp bạn, đọc nhiều làm vui... Tự tận hưởng những ngày thú vị.

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi

Cách nhau cái cọc để phơi áo quần

Hai người nhầm lẫn tứ tung  

Nàng n  cũng có cái quần giống tôi

Ðể rồi có một lần phơi  

Thế nào tôi lấy nhầm ngay của nàng .

Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng  

Thấy nàng hé cửa gọi sang thế này

"Ấy ơi ấy hãy vào đây,  

Cho tui đổi lại cái này chút coi"

Lần đầu tiên thấy nàng cười  

Nàng che một tấm vải dày! ngang hông (?)

"Cái quần duy nhất của em,  

Hôm qua anh lấy về bên ấy rồi ."

 

*Thơ con nhái bén:

Dân Gầy có người bạn từ quê nhà, thư sang, cho biết: lúc này ở Việt nam có nhiều hiện tượng văn nghệ lắm. Nào là thớ Bút Tre, Nhiếp ảnh Tam Thái, nhạc… viết đến đây Dân Gầy bèn tịt ngòi vì đầu óc lúc này sao không nhớ nổi những tên cùng tuổi, nhất là số tuổi của người mà mình quên tên. Đại khái có nhiều người còn trẻ cả bộ lòng lẫn đầu óc, tức trẻ người nhưng không non dạ, trẻ cả về tư tưởng lẫn tinh thần. Bằng chứng được trích dẫn qua thơ văn con nhái bén tài tử như thơ nhại sau sau đây:

Trăm năm trong cõi người ta

Ai ai cũng phải hít ra thở vào

Trăm năm trong cõi người nào

Ai ai cũng phải hít vào thở ra

Xa xa như nước Cu-Ba

Người ta còn phải hít ra thở vào

Gần gần như cái nước Lào

Người ta cũng phải hít vào thở ra

Nói chung trong cõi người ta

Bắt buộc là phải thở ra hít vào .

 

*Chuyện người trẻ, chuyện con ngưòi:

Người trẻ, là con người hay người con, cũng vẫn là trẻ người nhưng không non dạ. Non dạ sao được, khi các người trẻ ở Úc, có những nhận định rất ư là không “non dạ”, vào những ngày trước khi Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới  2008diễn ra ở Sydney, như sau:

Khi được hỏi:

1.Anh/chị có được kinh nghiệm gì khi tham gia Đại Hội lần này, ở Úc?

2.Nếu được phép hỏi Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI chỉ một câu, câu đó như thế nào?

Trả lời của Caterina Golotta, 27 tuổi ở Alice Springs:

1.Hy vọng rằng nhờ thấy và gặp gỡ rất nhiều người cùng san sẻ một niềm tin, tôi sẽ thấy sống lại nơi tôi niềm linh đạo đã có từ ttrước, và thấy mình vững chãi hơn khi bước theo chân Chúa trong yêu thương và có quyết tâm.  

2. Có lẽ tôi sẽ hỏi ngài: Ngài có vui không, thưa Đức Thánh Cha?”. Và tôi chắc cũng chỉ muốn nói chuyện với ngài như một con người bình thường, chỉ để xem ngài có phản ứng ra sao, ththế thôi.

Carly McDermott, 23 tuổi ở Melbourne:

1.Lâu nay tôi vẫn có nhiều bạn sống đúng vai trò người Công giáo, ở quanh tôi. những người có các hành xử đúng của người làm chứng cho Đức Kitô, thật sự. Các linh mục đã khuyến khích tôi rất nhiều nên dính dự vào với Đại Hội Giới Trẻ thế Giới. Đôi lúc, tôi nghĩ: với tư cách một người trẻ trong hội thánh, mình cũng thấy có hơi đơn độc, lẻ loi. Nhiều khi, thấy mình là người trẻ tuổi duy nhất còn đi lễ nhà thờ. Nên, cứ đến với Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, mở to con mắt ra mà nhìn, sẽ thấy và sẽ gặp gỡ cả triệu người Công giáo trẻ, ở quanh ta.

2. Trả lời cho câu hỏi: Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới làm được gì cho nước mình? Thì tôi nghĩ: Hy vọng rằng Đại Hội như thế này sẽ tạo nhiều hình ảnh tích cực về Hội thánh. Và, tôi đoán, nó cũng sẽ cho thấy các chấn động và rung cảm nơi người trẻ như tôi tham dự Đại Hội. Nội việc ấy, cũng đã làm nhiều người thêm trẻ trung.

Với Alexandra, 23 tuổi ở Melbourne:

1.Đại Hội GTTG 2008 làm được gì cho nước tôi ư? Tôi nghĩ, đây là cơ hội tuyệt vời cho các người trẻ như tôi để học hỏi thêm về niềm tin của mình.

2.Điều gì lôi cuốn tôi đến với Đại Hội ấy à?

Tôi nghĩ: Niềm tin của người Công giáo chúng ta đã đem đến cho anh chị em mình nhiều hy vọng. Với thế giới này, chúng mình cần đến sức mạnh để trải qua nhiều tình huống không dễ. Hội thánh Chúa thực sự là tình yêu; và đối với tôi, điều này rất quan trọng. Dù đó chỉ là nụ cười mỉm hay một lời nói thôi, cũng đủ làm nhẹ nâng tâm can của nhiều người. Tôi nghĩ, niềm tin là những gì như thế đấy.   

 

*Về nhà đào tạo: 

Từ ngày đức thày họ Mai di chuyển hình hài nơi miệt dưới, bà con gia đình An Phong ở Sydney thấy vợi đi những tháng ngày cồm cộm có với Khilikhitô. Kịp đến những ngày gần đây, “phe ta” mới lại thấy có những giây phút tình thân thương lại đợ nở rộ, một vài chốn. Trước mắt là chốn an bình tại gia của nhị vị những Mai và Tá. Số là, người anh em linh mục họ Huỳnh tên Lê Pháp, CssR Vi-En đặc trách đào tạo nhà tiền-tập Nha Trang. Người anh em cũng quá bộ hành trình đến với chi hội Sydney để có màn vãn kể chuyện thời nay. Nói nào ngay, người em linh mục trẻ-người-nhưng-không–non-dạ này là cánh tay nối dài của vị giám đốc mang tên rất Tiến (và cũng có) Lộc, Tiến Lộc, có trọng trách lo cho các em. Vốn là đàn em của linh mục (có) Lộc, nên Lê Pháp cũng thu thập được một món cũng khá, tại nhà nhị vị Mai-Tá. Lộc và tài không chỉ có bấy nhiêu. Vẫn còn khác nhiều bạn bè/ân nhân của gia đình An Phong hứa hẹn sẽ còn nhiều hơn nữa. Nói theo kiểu người Tây/người Úc, thì: ta cứ nghéo tay gắng chờ, sẽ còn nhiều màn ngoạn mục vào giờ “hoàng đạo” góp với quyên, về sau. Chờ đi nhé, hỡi bà con.

 

* Tiếp tục có thư đi lại có về:

Thư là thư của “capo” lớp Vo Nhiễm, ở quê nhà. Như sau:

GIA ĐÌNH AN PHONG

NGOÀI TU VIỆN

Tp.Hồ Chí Minh ngày 1.7.2008

Thưa các Anh, các Chị, các Cháu.

Thánh lễ và cuộc gặp gỡ tháng 7 sẽ được tổ chức vào lúc 8 giờ ngày Chúa nhật, ngày 13.7.2008 tại nhà nguyện cộng đoàn DCCT Kỳ Đồng.

Thân mời các anh chị “già” và con cháu về dự đông đủ. “Già” có nghĩa là các anh chị từ lớp anh Đinh Tiến Lăng …… trở về trước, cho đến các anh “già thật” như quý anh Phan Trung Tín, F.X.  Phước, Lê Bá Mưu, Nguyễn Văn Cảo vv …… Đây là những người mà capô cánh già có nhiệm vụ nhắc nhở mỗi tháng, qua một lá thư ngắn.

CÁC BẠN TRẺ CỦA GĐAP ƠI

THẾ LÀ VÀO NỀ NẾP RỐI ĐẤY

Capô cánh già (từ nay xin viết tắt là CPCG) dám quả quyết điều này, rằng thì là nhờ lòng ưu ái của anh tân Giám Tỉnh, nhờ những cố gắng của lớp Vô Nhiễm và capô các lớp, mà sinh hoạt của GĐAP/NTV đã vào nề nếp.

Cứ lấy ví dụ cuộc họp mặt đầu tháng 6.2008 vừa qua mà xem, Cũng là để hiệp thông với GIA ĐÌNH mừng 25 năm cha Trần Công Vang chịu chức linh mục, cha đã về dâng lễ với anh chị em và các cháu. GIA ĐÌNH đã chúc anh Vang không mệt mỏi trong … 25 năm nữa, CỨ THẾ, như hôm nay anh đang cống hiến hết mình cho người nghèo.

Trong giờ sinh hoạt sau Thánh lễ, đích thân anh Giám Tỉnh đã tới chuyện vãn và thông tin cho anh chị em:

1.            VỀ MỤC VỤ:

         Anh GT cho hay là hàng năm không dưới 1000 tân tòng tới thọ giáo và lãnh phép Thanh Tẩy tại Trung Tâm Hiệp Nhất của cộng đoàn 38 Kỳ Đồng. (Trong khi có những Giáo phận đón nhận chưa tới 500 tân tòng/năm). Cánh đồng lúa của Chúa hình như đã được di dời về ngay tại … 38 Kỳ Đồng. Rất cần sự tiếp tay của anh chị em GĐAP/NTV, như một số anh chị em đã và đang cộng tác với Nhà Dòng.

 

2.  VỀ SINH HOẠT CỦA GIA ĐÌNH AN PHONG /TRONG TU VIỆN :

Nhà dòng sẽ tổ chức trong tháng 6 và 7 những khoá hội thảo chuyên đề:

A- Hội thảo về đào tạo: theo anh GT thì việc đào tạo các sĩ tử của Dòng tại Việt Nam đã tỏ ra lạc hậu so với các tỉnh dòng khác trên Thế Giới. Phải cùng nhau suy nghĩ về công tác đào tạo của từng giai đoạn : tìm hiểu, dự tu, tập viện, học viện, hậu linh mục, thường huấn..

B- Hội thảo về Đại phúc, một công tác mục vụ được coi như ... “đặc sản” của DCCT đã một thời nở rộ và đem lại hoa trái. Nay thì công việc này cũng phải được suy nghĩ lại trong hoàn cảnh của Giáo Hội và Quê Hương hiện tại.

Hiện nay các cộng đoàn DCCT đã được thiết lập tại hầu hết các giáo phận trong Hội Thánh Việt Nam. Có giáo phận mà các thợ gặt DCCT được gia nhập như từ một … cơn mơ. Ở Lạng Sơn, khi Đức Cha Giuse Đặng Đức Ngân về nhận giáo phận, chính quyền địa phương đã muốn tặng cho vị tân giám mục một món quà do ngài tự chọn và đề nghị, không một phút chần chừ, Đức Giám Mục đã đề nghị chính quyền Lạng Sơn cho phép DCCT về dựng lều trong Giáo phận của ngài. Thế là một cộng đoàn DCCT được thành lập ngay gần biên giới Việt – Trung, gồm 2 linh mục, trong đó một vị đã từng là bộ đội ở Lạng Sơn, nói thông thạo tiếng Tày, Nùng…

C-  Anh Giám Tỉnh thông báo việc nhà thờ Kỳ Đồng cung nghinh ảnh Đức Mẹ HCG La Mã – Bến Tre từ ngày 16/6 – 26/6/2008. Anh cũng thông báo lịch trao tác vụ Phó tế và Linh mục cho một số thầy của Dòng.

Thế đấy! Những buổi sinh hoạt vào Chúa Nhật thứ hai mỗi tháng của GĐAP/NTV vui vẻ và bổ  ích như vậy đấy. Không có lý gì mà các anh các chị các cháu lại không về tham dự, dù chỉ để nhìn nhau một cái cho ấm lòng. 

CÓ MỘT CHUYỆN NHỎ ……

Ấy là chuyện hồi đầu tháng 6 vừa qua, Capô cánh già (xin đừng gọi là… Capô già, bởi bản thân hắn chưa già, không chịu già) có dịp lên Bảo Lộc dự đám cưới con một người bạn. CPCG đã không bỏ lỡ cơ hội, nhân vì sự ấy, nhậu một mách với chi chòm Bảo Lộc trước lúc dự tiệc cưới buổi chiều rồi lên xe về Sài Gòn ngay trong ngày. Quần hào gồm các tay kiếm: Sỹ Danh Điểm, Trần Văn Đàn, Nguyễn Văn Đức, Chu Quang Kiều, Nguyễn Văn Báu, Võ Dĩnh đã bày tiệc ngay bên bờ ao nuôi cá của họ Sỹ, cây cối rợp bóng và hoa lá xum xuê, trong cái nóng chịu đựng được của Bảo Lộc, không cần máy điều hòa và rượu vẫn rót đều tay. Trong cái không khí vui hơn Tết ấy, chi chòm Bảo Lộc nhờ CPCG thông báo cho cả Gia Đình là: từ nay, capô Bảo Lộc là người cao tuổi Trần Văn Đàn. Chàng tuy cao tuổi nhưng vốn dòng hào kiệt, rượu uống như máy, lúc đứng lên suýt té xuống ao của họ Sỹ. Phải vất vả lắm cộng đoàn Bảo Lộc mới dìu được capô Đàn qua chiếc cầu tre lắt lẻo dẫn vào bán đảo bên bờ ao có bàn tiệc. Chỉ có điều lạ là cánh Bảo Lộc lại đi ngược giòng với… Trung Uơng ở Sài Gòn, Sài Gòn đang trẻ trung hoá bộ máy thì ở Bảo Lộc lại bầu một anh capô thuộc cánh già. Ngược giòng hơn nữa khi các hắn đề nghị đổi (một chút xíu thôi) cái tên của Gia Đình mình. Thay vì gọi là Gia Đình An Phong Ngoài Tu Viện, các hắn đề nghị gọi là “Gia Đình An Phong Tu Ngoài Viện”, bởi “có giá” hơn là tu trong viện. Các cụ đã chẳng từng dạy:

Thứ nhất là tu tại gia

Thứ hai tu chợ

Thứ ba tu chùa.

CPCG cứ ngẩn tò te trước sự thông minh của cánh nhà vườn Bảo Lộc. Các bạn nghĩ sao?

VÀ MỘT ĐỀ NGHỊ NHỎ

Một tua du lịch khiêm nhường trong thời buổi tiết kiệm gói trọn trong ngày: Khởi hành từ Sài Gòn, cơm trưa dã ngoại tại Bảo Lộc (do chi chòm BL đảm trách), 14 giờ vào thăm thác Damhri, 17 giờ trở ra thị xã BL, quơ một túi trái cây, rồi đổ ra đèo về Sài Gòn. Các bạn nghĩ sao ?

CPCG

 

*Tứ hải… có giai huynh đệ?

Huynh đệ đây là huynh đệ chi… tình dòng thánh An Phong. Số là, đầu năm nay ở Úc đã có thay đổi Bề trên Giám Tỉnh. Thay đổi nhiều về đuờng lối quản trị dòng cho toàn vùng. Vùng Dòng Canberra – Úc nay gồm có Úc Châu, Tân Tây Lan, Philíppin, Singapore và Mã Lai.

Tạp chí tu đức của Vùng Dòng, tờ The Majellan số 7-9/2008 có đề cập đến chuyện anh em học viên DCCT người Việt được bổ qua Úc để học Anh Văn-Thần học hầu trở thành linh mục DCCT Vùng Canberra-Úc, được tiếp đón và tuyên dương rất nhiệt nồng.

Bản tin được trích đăng có đoạn nói: “Việc anh em DCCT người Việt tới Úc là một ví dụ cụ thể cho sự hợp tác giữa sĩ tử Dòng Chúa Cứu Thế ở các nơi trên thế giới. Hiện nay, trên thế giới có đến 5,500 sĩ tử ở rải rác các tỉnh Dòng. Và công tác hàng đầu của anh em, trong những năm sắp tới, sẽ triển khai đường lối hợp tác, qua đó tất cả chúng ta sẽ cùng chung lưng hoạt động trên lĩnh vực quốc tế.”

Thế mới biết, quả đất nay đã thật tròn. Và cũng nhỏ. Năm Châu bốn biển, nay đã thành một nhà. Có mặt người anh em Dòng Chúa (cứ thế mà) Cứu thế, ở khắp nơi. Và, khắp nơi cũng sẽ chỉ là một nơi thôi. Nơi của Nước Trời, trong lòng anh em toàn Dòng.

 

*Sydney lại có dịp Khilikhitô:

Khilikhitô lần này, có lẽ hơi to và cũng khá lớn. Lớn và to không chỉ về hình thái, thể lý. Mà về cả ý nghĩa, của lời kinh. Lời kinh hôm nay, được phát ra thật lớn và cũng thật to. Vì có đến 5 linh mục đồng tế: Cha Đinh Ngọc Quế, Phan Thiện Ân, Phan Văn Dũng và Huỳnh Lê Pháp, DCCT đến từ Mỹ và Việt nam. Vị linh mục thứ năm, là Lm Vũ Thái Hoà (cựu đệ lớp Les Gabriels) hiện là đương kim linh mục chánh xứ ở Pháp. Anh em cùng Dòng hai dòng ba, hay dòng bốn tụ tập tại tư gia anh Vũ Nhuận để cùng nhau họp mặt gặp gỡ nhân chuyến ghé Sydney mừng Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 23, và cũng để mừng cha Phan Thiện Ân kỷ niệm 50 linh mục. Có Khilikhitô là có mừng, rồi dù đó là mừng gì, mừng gì, chẳng quan trọng cho lắm. Mừng hơn cả, phải là mừng tình Dòng … Cứ thế mà Cứu thế, đến với nhau. Hy vọng, tình dòng thánh cả An Phong cứ thế mà kéo dài, rất nhiều năm.

 

*Có những vấn đế:

Dân Gầy có thói quen không được hay ho cho lắm, là: chuyện trị sưu tập những chuyện “trong huyện ngoài làng”, vui vui và cũng lạ. Chuyện vui không lạ hôm nay, là chuyện về: các vấn đề của con người: những nam và nữ. Vấn đề thì nhiều, nay tóm gọi có bấy nhiêu, thôi. Còn để bà con mình hạ hồi… đóng góp chứ.

10    vấn đế với nam nhân:

1. bia bọt

2. lê la ngoài quán/chợ

3. đối xử với nhạc mẫu

     4. ghiền bấm bộ phận điều khiển từ xa

     5. luôn để nắp bàn cầu dựng đứng

     6. cho là tính dục giải quyết hết mọi sự

     7. Mê bóng

     8. Không chịu hỏi đường để lái xe

     9. Sợ có quyết tâm

   10. Chẳng bao giờ biết vật gì để ở đâu

 

10 vấn đề đối với phận nữ lưu:

     1. Ham mê mua sắm không ngừng nghỉ

     2. Trực giác bao giờ cũng đúng

     3. Chất chồng đủ mọi thứ quá cồng kềnh

     4. Bao giờ cũng hỏi: trông em thấy thế nào?    

     5. Luôn thay ý kiến rất bốc đồng, không thể ngờ

     6. Nói nhiều

     7. Nghĩ là sẽ tiết kiệm tiền bạc nếu mua đồ rẻ

     8. Tiêu tiền… và cứ thế mà tiêu tiền

     9. Đeo nịt ngực không dễ tháo cởi  

    10. Xách tay đựng cả ngàn thứ đồ.

 

Lời bàn của Dân Gầy: ngày nay, các vấn đề trên vẫn cứ lẫn lộn, không riêng gì nam hay nữ.

 

*Chuyện bên lề cuộc họp mặt:

Họp mặt mừng lễ thánh tổ An Phong, thì: năm nào mà chả giống nhau. Nghĩa là: cũng có thánh lễ, có nguyện cầu cho nhà Dòng, có Khilikhitô bầu cử và… quyên góp, vv. Nhưng họp mặt kỳ này lại có chuyện bên lề, rất cần chú ý: Bên lề kỳ này, không chỉ một chuyện mà là 2, 3 như sau:

1.      Nhận thấy đà lạm phát gia tăng, nhưng kỹ năng lãnh đạo chưa thấy có gì rõ ràng là tăng gia cả. Vì thế các vị đồ đệ thánh An Phong bèn nảy ra ý nghĩ: tại sao ta không bầu cho các con dâu cha thánh làm Chi hội trưởng, rồi phó thì kiếm chàng nào đó, phụ tá. Ý kiến hay. Nhiều tiếng vỗ tay đồng ý.

2.      Có ý kiến còn đề nghị ta chuyền cho thế hệ nối tiếp, những con và cháu. Trẻ trung hơn. Ý kiến khác, là đề nghị hai anh trưởng và phó mới là: Nguyễn Duy Lâm và Trần Ngọc Tá, nên chứng tỏ một kế hoạch thật mời, như: anh em mình rủ nhau làm một chuyến họp mặt ờ đâu đó, ngoài tiểu bang. Thế là CHT Nguyễn Duy lâm có ý tưởng rất trẻ: Hay là anh em mình xuống Melbourne một chuyến thăm đại ca thần tăng Mai Vĩnh Xăng? Lại một ý kiến hay.

3.                              Vốn là chuyên gia vi tính với truyền hình, phát thanh, CHTrưởng mới lại tin: sắp tới, giới truyền thông An Phong sẽ cho ra một công ty mới mang tên Vũ Nhuận Enterprise. Công ty này làm tất mọi chuyện từ A đến Z về truyền thông trên mạng, theo dạng podcast ấy mà. Bản thân Dân Gầy chẳng hiểu mô tê gì để quảng cáo cho công ty rất bà và con này, bèn nhắn nhủ các Tám nó rằng: Ta hãy cứ chờ và xem!

Còn nhiều chuyện bên lề nữa, nhưng thôi, cứ từ từ sẽ loan tin dần. Loan hết, lấy gì mà viết với lách.

 

*Lại thêm một sưu tầm:

Sưu tầm lần này, cũng lại của thày sáu hụt-kiêm thày đờn họ Huỳnh tên (rất ư là có) Lợi. Xin mời quý bạn thưởng lãm, và cũng cám ơn người thày “chạy” họ Huỳnh. 

37 triệu chứng để nhận ra mình đã "GIÀ"
1, Toàn kể chuyện ngày xưa.
2, Vặn Tivi lên để ngủ.
3, Thích ăn cơm nhão.
4, Mô-bai lúc nào cũng tắt cho đỡ tốn pin.
5, Chẳng biết SMS là cái gì.
6, Ðoc Word file, luôn luôn View 150%.
7, Ðến nhà bạn chơi, ngủ gật.
8, Cả ngày đi tìm chìa khoá nhà, chìa khoá xe.
9, Ngưng nhổ tóc bạc.
10, Nếu là đàn bà, vứt hết mini-jupes.
11, Ra bãi biển, trùm chăn.
12, Ra đường "bị" gọi bằng cô, chú (đến giai đoạn bị lên chức bác, thì triệu chứng đã bắt đầu trầm trọng).
13, Lên xe buýt "bị" nhường chỗ (giai đoạn ultimo).
14, Coi phim buồn hay không buồn gì cũng rươm rưóm nưóc mắt.
15, Thích người khác để ý và săn sóc mình nhiều hơn xưa..
16, Rất là ghét nhìn những cặp "amoureux" khoảng 20 tuổi..
17, Rất thích nhìn mấy anh trẻ đẹp trai, hay mấy cô nàng tuổi giữa 20-30.
18, Vẫn mê ăn phở, nhưng thích luộc bánh phở cho thật là mềm.
19, Rất rất là thích những câu như "dạo này trông bạn trẻ hơn và ốm hơn năm trước".
20, Có đồ ăn ngon thì lấy đầy đĩa mà ăn không hết.
21, Giấc ngủ trưa dài hơn.
22, Ði đứng nằm ngồi chậm lại (chưa nói đến vấn đề sex!).
23, Toàn dùng kem đánh răng loại "Extra-whitening" .
24, Uống cà phê đen tối ngủ không được.
25, Hay hỏi thăm tin tức các cụ cùng tuổi xem "còn khoẻ hay không".
26, Phone "mobai" reo lúng túng mãi mới bắt được thì phone đã tắt.
27, Xài "mobai" loại cũ, không dám đổi loại hiện đại.
28, Đi chơi, cho nhau số mobai rồi không mở mobai.
29, Gửi SMS 15' mới đánh được một chữ.
30, Đi chơi làm biếng lái xe đi xa.
31, Thân hình có vòng thứ hai càng ngày càng to.
32, Ngại lên xuống thang lầu vì sợ té.
33, Cứ bốn, năm giờ sáng là đã dậy.
34, Mở báo đọc hay tìm trang cáo phó đọc trước.
35, Không muốn nhắc nhở đến ngày sinh nhật.
36, Nhìn gương thường xuyên, để ý đến chân dung nhiều hơn.
37, Nói chuyện hay kể chuyện bệnh và chỉ nhau thuốc trị bệnh.

 

*Và thêm một bài thơ “già”

Già là chuyện gì, mà sao nhiều vị hay làm thơ vịnh thế? Thơ về “tuổi già”, chắc chỉ nên để người đang tuổi xế đọc mà thôi. Không tin ư? Bạn cứ thử đọc tiếp những hàng ở dưới, sẽ đồng ý ngay thôi:

Bài thơ Tuổi Già
Lâu nay cứ tưởng mình già
Bây giờ mới biết quả là y chang
Suốt ngày nói chuyện thuốc thang
Gặp nhau lại kể cả tràng chuyện xưa
Tivi dỗ giấc ngủ trưa
Sức khoẻ lại giảm, mắt mờ, da nhăn
Ðọc chữ phóng đại mấy trăm
Lại còn đãng trí, tần ngần, hay quên
Cả ngày mỏi mắt đi tìm
Hết tìm khoá cửa lại tìm khoá xe
Nhiều hôm thăm viếng bạn bè
Ðược dăm ba phút nằm phè ngủ ngon
Tóc bạc chen chúc tóc non
Không dám nhổ nữa sợ còn bình vôi
Kiến thức mới nuốt chẳng trôi
Bước ra khỏi cửa trùm người áo len
Ra đường chẳng ai gọi tên
Cứ gọi chú, bác có phiền hay không ?
Khi lên xe buýt dẫu đông
Dăm người nhường chỗ 'Mời ông cứ ngồi
Lại hay nhạy cảm, tủi đời
Thích được săn sóc hơn thời ngày xưa
Thấy tình nhân trẻ vui đùa
Mà lòng chua xót phận vừa cuối thu
Suốt ngày trung tiện lu bù
Cơm thì phải nhão, phở cho thật mềm
Thích nghe tiếng hỏi, lời khen
'Lúc này thon thả, trẻ hơn dạo nào'
Thức ăn cứ lấy ào ào
Ăn thì chẳng nổi mà sao cứ thèm
Ngủ trưa giấc cứ dài thêm
Ðứng, ngồi, 'chuyện ấy' ngày thêm chậm rì
Ðánh răng, tìm thuốc loại gì
Ðể răng được trắng không thì khó coi
Cà phê chỉ hớp một hơi
Ðêm về trắng mắt nhìn trời đếm sao
Gặp người cùng tuổi như nhau
Thường hay hỏi 'Bác thế nào? Khoẻ không?'
Cell Phone thì khổ vô ngần
Lúng ta lúng túng thường không trả lời
Ðể chuông reo mãi một hồi
Mở ra thì đã chậm rồi còn đâu ?
Bệnh tật nó đến từ đâu
Cao mỡ, cao máu lâu lâu ... tiểu đường
Tránh né việc nặng là thường
Việc nhẹ thì cũng đau xương, mệt nhoài
Ði chơi càng khổ gấp hai
Ði đâu cũng ngại đường dài lái xe
Giữ thân cho khỏi tròn xoe
Vòng hai sao cứ bè bè phình to
Thang lầu càng nghĩ càng lo
Chỉ sợ trượt ngã khổ cho thân này
Ngủ thì chẳng ngủ được say
Bốn năm giờ sáng dậy ngay tức thì
Sinh nhật, sinh nhiếc làm gì
Cái chuyện lẻ tẻ ấy thì nên quên
Vẫn hay nhìn kiếng thường xuyên
Xem chân dung đã trở nên thế nào
Buồn tình đếm thử xem sao
Bao nhiêu triệu chứng ấy bao nhiêu già!

 

 

*Dia kỳ này nở rộ:

Nhất là những bài sưu tầm từ các bài báo trên mạng. Lần nay, là một ý tưởng của giới trẻ ở quê nhà, về “ăn”. Xin giới thiệu với bạn đọc DIA:

 Ăn gì không chết?
Cán bộ họp gia đình, vợ bảo chồng:
- Ăn uống phải cẩn thận, thời buổi này thực phẩm độc hại nhiều quá!
- Hay ta chỉ ăn cơm với cá thôi! Thịt thì ...
lở mồm long móng, H5N1, tăng trọng, phoóc-môn ...
- Không được đâu! Cá thì bị ướp... u rê! Hay ta chuyển sang... ăn chay!
- Ăn chay cũng chết, rau thì dư lượng thuốc  trừ sâu, nước tương thì chứa 3-MCPD, gây ung  thư...
Vợ thở dài: Ăn gì cũng... chết! Biết ăn cái  gì đây?
Thằng con góp ý: Chỉ có ... 'ăn hối lộ' là không chết! Con thấy người ta chỉ bị 'nghiêm khắc phê bình' hoặc  ... 'hưởng án treo' là cùng! Hay ta chuyển  sang... ăn hối lộ đi bố mẹ!
 - Ăn hối lộ là 'chân truyền' của bác Hồ truyền lại cho đảng ta con ạ.

 

*Truyện tình toàn “T”
 Cũng là truyện. Cũng là Tình. Nhưng “Tình” ở đây lại toàn bằng chữ T. DânGầy mới nhận được từ người anh em có tên không đứng đầu bằng chứ T, nhưng rất T. Tê tái. Tình tiền. Thắm thiết…

Tuyệt tình
Trần Thị Thu Thủy tên thật Trần Thị Thỏ, trú tại thôn Tám, Trảng Tranh, Tỉnh Thừa Thiên. Thủa thiếu thời, trí tuệ thì thư­ờng thôi, tuy thế, tính Thủy thật thà, thủ thỉ thù thì, thỏn thà thỏn thẻn, thật thư­ơng! Tới tuổi trăng tròn, Thủy tròn trặn, tư­ơi tắn, trắng trẻo, tay tròn trĩnh, tóc thơm thơm, thật tuyệt!
Thủy tuyệt trần, tôi tả thì thô thiển. Thôi thì tàm tạm thế.
Trai tráng trong thôn Tám, từ trai tơ tới tuổi tứ tuần, từ tuổi tứ tuần tới tuổi thất thập, thoạt trông thấy Thủy, tất thảy tấm tắc trầm trồ:
-Trời! Trắng tựa tuyết!
-Thon thả thế!
-Tóc thật thư­ớt tha!
- ' Ti' ' to thế ! Tròn thế !
- Trác tuyệt !Trác tuyệt !
Trai tơ thổn thức, tứ tuần tơ tư­ởng, thất thập thẫn thờ. Thấy Thủy thấp thoáng, tất thảy táo tác, thập thà thập thò, thật tội.
Tứ tuần thách trai tơ: tán thắng Thủy thì thua tam trâu.
Thất thập thách tứ tuần : tán thắng Thủy thì thua tám thúng tiền.
Thách thì thách thế thôi, thua Thủy tất tần tật. Thủy tựa thần tiên, trai tráng trong thôn thì thô thiển, tiền tài trắng trơn, thân thế thấp tè, thế thì tán tới trăm tuổi!
Tiếng tăm Thủy truyền trong toàn tỉnh. Thư­ từ tới tấp tới tay Thủy. Thư­ thì thủ thỉ tâm tình.  Thư­ thì tranh thủ trình thêm thân thế, tiền tài. Thư­ thì than thở tức tư­ởi. Thư­ thì thêm thơ, thêm tranh, trang trí thật trang trọng... Trong tám tháng  trên tám trăm thư­, thật thế !
Trai tráng trong tỉnh tìm tới tán tỉnh Thủy tới trăm thằng . Tám thằng thân tôi: Thằng Thịnh, thằng Tâm, thằng Thông, thằng Thìn, thằng Thỉ, thằng Trung, thằng Tuy, thằng Tuấn tán tỉnh tài thế, tí ta tí tởn tới tán Thủy, tốn tiền trăm tiền triệu, tiêu tiền tới trắng tay, thua tiếp tục thua. Tám thằng thất thểu tìm tới tôi than thở:
-Thôi ! Tiền thế, tài thế, tập tễnh tới tán Thủy thêm thiệt thòi.
Tôi thích Thủy, tuy thế tôi tỉnh táo tự thấy: trí tuệ tôi tầm thư­ờng, tiền tài thiếu thốn, thân thế tiếng thì to, thực tình thanh thế tổ tiên thôi, thân thế tôi thấp tẹt.
Tôi trù tính: thư­ từ tán tỉnh, trật ! Tiền tài: trật! Thân thế: trật. Tổ tiên ta từng truyền tụng: tham thì thâm. Thư­ từ, thân thế, tiền tài... trật trật trật! Thua thua thua !
Thủy thích tinh tế, trung thực, thật thà, thế thôi.Tôi tính toán thật tình tiết: từ thị trấn Tân Tiến tận tụy tới thôn Tám tìm Thủy tâm tình, từ từ, từ từ, tránh trắng trợn, tránh thô thiển, thỉnh thoảng thêm tí tranh, thêm tí thơ tặng Thủy, trời thư­ơng trời trợ thủ thì tất thành.
Trời thư­ơng tôi thật.Tới thôn Tám, thấy Thủy trơ trọi, thui thủi trên thềm, tôi thích thú thấy tôi tính toán trúng.
Tôi trấn tỉnh, từ từ tiến tới tận thềm, thì thầm:
-Thủy! Tôi tên Trí, Trần Trọng Trí, thầy thuốc Tây...
-Trần Trọng Trí !-Thủy trầm trồ- Thầy thuốc trị tim, trị thận , trị toàn thân thể, tiếng tăm truyền tám tỉnh! Trời, trẻ thế! Trẻ thế !-Thủy tấm ta tấm tắc.
Tôi trùng tên thầy Trí, thầy thuốc thiên tài trên tỉnh. Thủy tư­ởng thế, thật trúng tủ, trời toàn thư­ơng tôi !
Thấy tình thế thật thuận tiện, tôi tiếp tục thủ thỉ :
-Thủy, tôi trốn thầy, trốn thủ trư­ởng, trốn tránh tất thảy, từ thị trấn Tân Tiến tới tìm Thủy !
Thủy trao tôi tách trà, thẹn thùng:
- Thủy thật tầm thư­ờng, tìm Thủy thật trớ trêu...
Tôi tíu tít:
-Thủy ! Thủy ! Thủy tránh tự ti. Thủy thật tuyệt trần, tiếng thơm truyền từ tỉnh Thanh tới tỉnh Thừa Thiên, thật thế!
-Thầy Trí tư­ởng thế thôi...- Tiếng Thủy trong trẻo, thánh thót.
Tôi thủng thẳng tán tỉnh, thầm thầm thì thì, tu từ thật tốt, thỉnh thoảng thêm tí thán từ. Thấy Thủy thinh thích, tôi tấn tới, thả từng tiếng thật tha thiết:
-Tháng tư­, tôi trông thấy Thủy tha thư­ớt trong thị trấn. Tôi thảng thốt: 'Trời, tiên từ trên trời tới thị trấn!'
Từ tháng tư­ tới tháng tám, tối tối tôi thao thức, trằn trọc. Tâm thần tôi trục trặc, thân thể tiều tụy. tư­ởng tư­ợng thấy Thủy trẻ trung, tư­ơi tắn, tôi thổn thức: 'Thiếu thủ trư­ởng thì thảnh thơi, thiếu trời thì tổn thọ, thiếu Thủy thì tắc thở ! Thủy! Trái tim tôi tràn trề tình thư­ơng Thủy.Tôi tìm tới Thủy trao trọn trái tim thật thà, trái tim trong trắng, trái tim thân thư­ơng, trái tim trẻ trung, trái tim trung thực... Tôi thề, tôi trao trọn!'
Thấy tôi thề thốt thật tha thiết, thật tận tình, Thủy thấy thư­ơng thư­ơng, thẹn thò túm tóc thỏn thẻn:
-Thôi thôi, Trí thôi thề thốt...
Thủy tin tôi, thật tuyệt! Thế thì tôi toàn trúng tủ, thật tuyệt ! Tôi từ thủ thỉ tâm tình tiến tới thề thốt trầm trọng, toàn từ to tát:
-Thủy tin tôi, thư­ơng tôi thì tôi thôi thề thốt.Thủy thiếu tin tư­ởng thì tôi tiếp tục thề. Tôi thư­ơng Thủy, tha thiết trao trọn tình tôi tới Thủy. Thủy tuyệt tình tôi thì tôi tự tử. Tôi theo Thủy tới trăm tuổi, tôi tuyệt tình Thủy thì tôi tắc tử !
-Trí !- Thủy thổn thức-Thủy tin Trí, thu­ơng Trí....
Tôi trúng to, trúng to !
Trăng tròn tháng tám thấp thoáng trong tre, trời thu tư­ơi tốt, tiếng thu thánh thót. Tôi tấn tới tìm tay Thủy.
Tay
Thủy trong tay tôi.
- Thủy... Trí thư­ơng Thủy, thư­ơng tới tận tim...- Tôi thì thầm, từ  từ thơm tay Thủy.
Thủy thẻ thọt từng tiếng, từng tiếng thật thư­ơng:
- Tính Thủy thật thà, thư­ơng thì thư­ơng thật. Trí tâm tình thế, Thủy tin. Tất thảy tình thư­ơng, Thủy trao trọn. Thủy tin: tình ta thắm thiết !
Trời tối, Thủy tin tư­ởng trao thân. Tôi thơm tay Thủy, thơm tóc Thủy, thơm tới tận tai, thơm thơm thơm thơm. Trò trác táng tôi thành thục từ tuổi thiếu thời, tôi từ từ tấn tới, thao tác trơn tru, tay thọc tứ tung.
Tay
thì thoa 'ti' ', tay thì thò tới tận .. tung thâm...
Thủy thất thần túm tay tôi, thét:
-Thôi, Trí ! Trí thư­ơng Thủy thì thư­ơng từ từ. Tình ta tránh trần tục. Trí... thụt tay !
Trí  tôi, tên trác táng, tha Thủy thì thua thiệt, tốn tiền tàu từ thị trấn Tân Tiến tới thôn Tám. Thành thử tôi tiếp tục trổ tài tán tỉnh. Tôi thủ thỉ tâm tình:
-Thủy thư­ơng Trí thì thư­ơng thật tình. Thủy trao trọn tình thì Trí trân trọng. Thủy thủ thế, trốn tránh, thiết tư­ởng thiếu tin tư­ởng Trí.
Thủy thật thà tin tôi, thả tấm thân trinh trắng tùy tôi thao túng. Thân thể Thủy trắng trẻo, thơm tho. Thủy thi thóp thở, túm tóc tôi, tôi thúc tới tấp, Thủy thét thất thanh...
Tôi tả thế thôi, tả thêm thì thô tục, tùy toàn thể tư­ởng tư­ợng.
Tiếp tục trò trác táng trên thân thể Thủy thêm tám tháng, tôi trân tráo tuyệt tình Thủy. Tôi trốn tránh Thủy. Thủy tất tả tìm tôi từ tháng tám tới tháng tư ­, từ tỉnh Thừa Thiên tới tỉnh Thanh thì thấy tôi. Thủy túm tay tôi tấm tức:
-Trí! Thủy tìm Trí...
-Tìm tôi ? Tôi tiền thì thiếu, tài thì thấp. Tìm tôi thật trớ trêu.
-Trí !- Thủy tức tư­ởi thét to.
Tôi thong thả từng tiếng:
- Tình ta thế thôi. Thư­ơng tôi, Thủy tất thiệt thòi.
- Trí !- Thủy thút thít- Thủy trúng thai....
- Trúng thai ?-Tôi trơ tráo tủm tỉm.- Thông tin thật trơ trẽn!
- Trời, thằng tráo trở ! Thật tởm !- Thủy tức tối thét.
Thủy tát tôi tới tấp, thụi tôi tứ tung, toàn thân tôi thâm tím. Tóc tai Thủy tơi tả, tay túm tóc tôi, tay thụi trúng thận tôi.
- Thôi !- Tôi trợn tròng, thét.- Tôi thế thôi, Thủy trách tôi thì trách ! Tránh !- Tôi tức tốc thúc Thủy tránh tôi.
Tránh thoát Thủy, tôi túc tắc tới tám tư­- Tô Tịch tìm Thanh Trà.
Thanh Trà thanh tú, thon thả, thơm tho... trên tài Thủy. Trà tiền tấn, tôi thì thiếu tiền, tán thắng Trà thì tiền từ túi Trà tới túi tôi tức thì. Tôi tin tôi tán Trà tất thành.
Tính Trà thận trọng, tôi tỉa tót từng từ, thêm thắt tính từ, trợ từ, thỉnh thoảng thêm trạng từ thật tốt. Trà thích thơ. Thơ Ta, thơ Tây, thơ Tàu Trà thích tất. Trà thích tính tân tiến trong thơ Tây, tính thâm trầm trong thơ Tàu, tính trong trẻo trong thơ Ta, tuy thơ Ta thừa tính thép thiếu tính thành tâm. Thấy thế, tôi truy tầm thơ tặng Trà, toàn thơ tình, từ thơ Thâm Tâm tới thơ Thanh Thảo: trăm tập.
Trà thích thú trầm trồ:
- Trời, toàn thơ tình ! Trí tặng Trà thế thì tốn tiền Trí thật...
Tôi tìm từ thật thành thật:
- Trà, tí ti tiền, thiết tư­ởng thấm tháp tình Trà thân thiện tiếp tôi...
Trà thầm thì:
- Trí thật tận tâm...
Trà tỏ thân thiện trư­ớc tôi. Tai Trà tim tím, tức Trà thẹn thùng ttrư­ớc tôi, tức trà thích tôi. Trà thích tôi thế thì tôi tiếp tục trúng to, trúng to!
Tôi trộm thơ thằng Thiều, thơ thằng Thái tặng Trà. Thơ thằng Thiều trúc trắc tựa thơ Tây, tuy thế thơ thật thanh tao. Thơ thằng Thái thì thâm thúy tựa thơ Tàu. Trà tư­ởng thơ tôi, tấm tắc:
- Thanh tao, thâm thúy thật! Thơ Trí trên tài thơ Trọng Tạo!
Tôi thành thật tâm tình:
- Thơ tôi thư­ờng thôi. Trọng Tạo tài thơ từ thủa thiếu thời tới tuổi tứ tuần. Tài thế thật trân trọng. Trọng Tạo tháp tùng thủ trư­ởng Thỉnh, trực tờ Thơ, thân thể tiều tụy, tóc trán th­a thớt, tiền thì teo tóp, thê thiếp tứ tung, thêm trà tửu trầm trọng... Thế thì tắc thơ thôi.
- Thật tội Trọng Tạo!- Trà thở thư­ờn thư­ợt.- Trà thích thơ Trọng Tạo từ thủa thiếu thời. Trọng Tạo tìm tứ thơ thật tài!
- Thế thơ Thanh Thảo, thơ Trúc Thông?- Tôi thử trí tuệ Trà.
- Thanh Thảo thông tuệ, Trúc Thông tìm từ thật tinh tế!
- Trà thật thạo thơ!- Tôi tán.
Trà t­ơi tắn thỏ thẻ:
- Trư­ớc tám tư­, thơ Thanh Thảo thật tuyệt. Từ trẻ thơ tới thất thập, tất thảy thích thơ Thanh Thảo. Tuy thế, Thanh Thảo thích thể thao, toàn tư­ờng thuật thể thao, thành thử từ tám tư­ thơ Thanh Thảo tịt từ từ, thật tiếc!
- Trời, Trà thạo thơ thế thì thôi!- Tôi tiếp tục tán.- Thế thơ Trúc Thông?
- Trúc Thông tìm từ thật tài. Từ trong thơ Trúc Thông thanh tao, tinh tế. Tuy thế, Trúc Thông tham từ, thiếu tình, thiếu tứ, thành thử thơ thiếu thanh thoát. Thơ toàn từ, thiếu tính thơ, thơ thế tựa thơ tắc tị!
- Tuyệt! Trà thật thẳng thắn!- Tôi trầm trồ.- Thế thơ thủ trư­ởng Thỉnh?
- Thơ thủ trư­ởng Thỉnh trác tuyệt, tài thủ trư­ởng Thỉnh trên tài tất thảy. Tuy thế, thủ trư­ởng Thỉnh thôi thơ từ thời thủ trư­ởng thành thủ trư­ởng. Tiếc thế! Thủ trư­ởng Thỉnh thích trọng trách, tìm tòi trọng trách thì thôi tìm tòi thơ. Thủ trư­ởng Thỉnh tiếp tục theo trên thì thơ tiếp tục thả thủ trư­ởng Thỉnh.
- Trúng Trúng!-Tôi tán thành tư­ tư­ởng Trà.- Thơ trọng tình, tránh tham tiếc. Thủ trư­ởng Thỉnh thấy trên thư­ơng, tư­ởng trúng thế, thiếu tỉnh táo, thành thử tính toán trật.
Trà than thở:
-Thủ trư­ởng Thỉnh tính trật từ tháng tư­-tám tám. Tự trong thâm tâm, Trà thư­ơng thủ trư­ởng Thỉnh. Tiếc thay tài thơ!
-Tiếc thay tài thơ!- Tôi than tiếp theo Trà.
Tôi thấy trái tim Trà từ từ tròng trành.
Tôi tìm tay Trà thẻ thọt thơ:
Tư­ơng tư­ từ thủa thấy Trà.
Thấy Trà trong trẻo th­ớt tha tôi tìm
Thư­ơng Trà thư­ơng tận trái tim
Trái tim trong trắng, trái tim thật thà
Trái tim thao thức tình ta...
- Trời! Thơ toàn 'T', Trí tài thế!- Trà thành thật tán thư­ởng.
Tôi thơm tay Trà, thủ thỉ:
- Trà... thơ Trí tức tình Trí...
Trà thôi trùng trình, thành thật tỏ tình thân:
- Trà thấy Trí tính tình thì thật thà, trung thực, tận tâm; tri thức thì thông tuệ, từng trải, thành thục trăm thứ. Toàn thể trai tráng trong tỉnh ta thua Trí tất.
Tôi tì trán tận 'ti' Trà:
-Trà! Trời thư­ơng tôi. Tôi tìm thấy Trà tựa tìm thấy thần tiên!
Trà thong thả tuột 'ti', tay Trà tha thư­ớt trên thân thể tôi.
Thích thế!
Trà từ thận trọng tới thân tình, từ thích thú tới thẫn thờ, từ trao tâm tình từng tí tới tin tư­ởng trao toàn thân, tròn tháng.
Tôi thấy tôi thật tài, tán tỉnh thế trời thua!
Thấm thoắt tới tuần trăng tròn thứ tám. Trời thu thăm thẳm, trăng thanh thanh, tràn trề tinh tú. Trà theo tôi tình tự trên tấm thảm tím. Trà thơm tóc, thơm tay tôi. Tôi thẫn thờ, tự thấy tâm thần trì trệ, thiếu tỉnh táo, thấp tha thấp thỏm.
Trà trư­ờn trên tôi:
- Trí... Trà thèm Trí....
Trà thò tay thức tỉnh 'thằng thao tác tình'. 'Thằng thao tác tình' thõng th­ợt, teo tóp, trông thật thảm thương.
Tôi thơm Trà, thì thầm:
- Trí thấy thiếu thích thú...
Trà thở thư­ờn thư­ợt, tìm tờ 'Tuần tin tức' trong túi, tìm tin trong tỉnh. Tôi tựa tay Trà thiêm thiếp....
Trà thúc thúc tôi, thảng thốt:
- Trí, thím Trà tự tử!
- Thím Trà?
- Thím Trà tên Thủy...
- Thủy?
- Thu Thủy thôn Tám-Trảng Tranh...
- Trời!
Tôi túm tờ ' Tuần tin tức' tìm tin tự tử: 'Trần Thị Thu Thủy thôn Tám, Trảng Tranh, theo thằng trác táng, trúng thai. Thằng tráng táng tráo trở, Thủy thất tình tự tử!'- 'Tuần tin tức' truyền tin thống thiết!
Thôi thế thì thôi!Thủy trong trắng thế, trẻ trung thế, tại tôi Thủy tự tận! Thảm thư­ơng thay!Thê thảm thay!
- Trí! Trà thấy Trí thất thần...- Trà túm tay tôi thì thầm.
Tôi thấy tôi thậm tồi tệ, thậm thiếu tử tế, thậm thiếu thật thà, thậm thiếu trung thực. Trời, tôi thiếu toàn tính tốt! Tội tôi thật trầm trọng. Tôi túm tay Trà thổn thức thú thật tội tôi tráo trở Thu Thủy, thú tội tất thảy...
Trà trợn trừng, toàn thân tím tái.
- Trí...Trí thật tồi tệ...
Trà trụy tim, thoi thóp thở. Tôi thét thất thanh:
- Trà!
Trà từ từ tắt thở.
-Trà!
Thi thể Trà trên tay tôi tê tái! Tình tôi thành tang tóc, thảm thư­ơng thay!
Từ tối Trà tạ thế, tối tối tôi trằn trọc, thao thức, thui thủi trong tối tăm.Thủy thì trong trắng, thật thà. Trà thì thơm thảo, trí tuệ. Tại tôi! Tại tôi Trà, Thủy từ trần, thăng thiên, thành tiên trên trời.
Tối thứ tư­, tôi thao thức tám tiếng, tới tiếng thứ tám thì tức tốc tới tờ : ' Tuần tin tức' thú tội. Thủ trư­ởng  Tuần tin tức' thâm thấp, tròn tròn. Tính thủ trư­ởng trầm tĩnh, trên thích thủ trư­ởng tính thật thà, tuy thủ trư­ởng thiếu trí tuệ. Trên toàn thích thế thôi. Thủ trư­ởng tập trung thao tác tờ Tết thì tôi tới. Thấy tôi, thủ trư­ởng từ tốn trao tôi tách trà:
- Tôi tiếp Trí thân tình, Trí từ từ tư­ờng trình thật trung thực...
Tôi thút thít thú tội. Tội tôi tráo trở Thủy, tội tôi thiếu trung thực Trà...
Thủ trư­ởng trách tôi thậm tệ. Thủ trư­ởng tru trời:
-Thú tội thật trễ tràng!
Tôi túm tóc tôi thét to:
-Thư­a thủ trư­ởng, tại tôi, tại tôi tất thảy!
Thấy tôi thật thà thú tội, thủ trư­ởng trù trừ, tính tha tội tôi. Thấy thế, tôi túm tay thủ trư­ởng thống thiết:
- Tội tôi thật trầm trọng, thủ trư­ởng tha thì trời trị tội tôi. Thủ trư­ởng thanh toán tên trác táng, tống tù tôi, thế thì tôi thanh thản.
Trái tim tôi: trái tim tráo trở, trái tim trâng tráo, trái tim thú tính. Trái tim thối tha, tanh tư­ởi thế thì tất thảy tránh tôi thôi, tất thế. Tiền tài, thân thế tôi thiêu thành tro than. Tôi trơ trọi từ thủa tứ tuần tới tuổi thất thập. Tết Tân Tỵ, tôi tự tay thảo truyện 'Tuyệt tình' thành thực trình tới toàn thể.
Tập tễnh
(Tức Nguyễn Quang Lập, tên thật toàn thiếu 't', tức thế!)

 

*Bên lề ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008:

Câu chuyện “chính mạch” ngày Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 ở Sydney, các báo đài đều nói đến. Chuyện bên lề/nội bộ ít thấy thưa. Vậy thì, hôm nay ta thưa rằng: ở Sydney/nội bộ Gia Đình An Phong, có chuyện vị “thày chạy kiêm sáu hụt kiêm thày đờn” họ Huỳnh nay rất mãn nguyện, vì xém chút nữa thì được hôn tay-có-đeo-nhẫn của Đức Giáo Chủ Bênêđitô thứ 16 chẵn. Chả là, thày sáu-hụt vẫn được phép trao Mình Thánh Chúa cho nhiều trăm người, trong đó có gần chục linh mục đi theo cũng trao Mình Chúa cho mọi người. Ngoài ra, thày Sáu Lợi còn được gặp riêng Đức Giáo Hoàng cùng với cả ngàn người thiện nguyện vào sáng 21/7/08 trước khi Ngài bay về Rôma. Âu cũng là niềm vui hiếm có.

Có tin là thầy “Sáu” nhà ta quyết trau dồi sức khoẻ để ba năm nữa sẽ lại bay qua thủ đô Madrid của tây Ban Nha để lại sẽ đích thân bắt tay chứ không hôn tay Đức Giáo Tông nhà mình. Không biết khi ấy có còn là Ngài Biển Đức thứ XVI không? Thứ tự thứ XVII hay XVIII đâu thành vấn đề, phải không thưa thày đờn.

Ngoài chuyện nội bộ của GĐAP Sydney ra, nghe nói kỳ này bà con mình hụt mừng gặp mặt người linh mục trẻ có họ tên: Bùi Duyh Chiến, Hồ Đắc Tâm, vv. Nghe đâu các người trẻ linh mục này còn mải xa-luân-chiến với lễ lạy hội hè ở nhiều nơi. Thôi thì, không hội ngộ kỳ này, ta sẽ gặp kỳ tới. Hấp dẫn hơn. Vẫn mong và chờ.  

 

*Thành viên dâu rể thánh An Phong lục tục ra đi:

Lần này là chi Têrêxa Nguyễn Thị Tuyết Hoa (em dâu các lm Felix Lang, Lê Văn Nghĩa và Lê Thanh Châu) vừa về nhà Cha, hưởng thọ 66 tuổi. Đến phân ưu với gia đình anh Lê Duy Phước, nhận thấy có các anh Lợi, Bình, Nhuận, Đắc Dũng, Chương và Mai Tá.

Cầu chúc hương hồn chị vui hưởng hạnh phúc siêu phàm bên Đức Chúa. Chắc chắn linh hồn chị Têrêxa Hoa sẽ cầu bầu cho anh chị em trong gia đình An Phong, đặc biệt là các anh chị ở Sydney, mà chị đã từng có nhiều kỷ niệm thân thương trong sinh hoạt thường kỳ.   

 

*Đôi giòng Cha Giám Tỉnh:

Vừa qua, Cha Giám Tỉnh DCCT VN và Chi Hội Phó Trần Ngọc Mười Hai, đã trao đổi điện thư, nhân chuyến gửi quà của Chi Hội về hỗ trợ cho công cuộc đào tạo linh mục. Trong thư có đoạn  như sau:

“Anh Tá thân mến,

Tỉnh Dòng vừa nhận được số tiền $6,230, do dịch vụ mang đến. Xin chân thành cảm ơn anh chị em trong gia đình An Phong ở Sydney đã gửi tặng. Số tiền này, đã chuyển ngay cho cha Quản lý Tỉnh để ngài lưu giữ. Xin đề nghị với vị ân nhân có nhã ý tặng riêng các Thầy, rằng: các thầy ở đây đã được Tỉnh Dòng lo rất chu đáo, người đau cũng như không đau, nên không cần phân biệt làm gì. Xin anh em cứ để số tiền này chung vào quỹ của Tỉnh.

Anh Tá thân mến,

Có nhiều chuyện muốn nói với anh và anh em bên đó, chắc hẹn một ngày rất gần đây để gặp nhau, dù trời đẹp hay không đẹp. Xin anh chuyển lời với anh Chi Hội Trưởng Nguyễn Duy Lâm nhé. 

Em (xưng em vì nhỏ hơn nhiều) vừa trở về từ Canada và Cali, ở Canada đã gặp anh Đặng Lộc và anh Đức (lớp Gabriel), ở Cali thì gặp anh Vũ Ngọc Lợi (em cha Phát) và anh Vinh, cả anh Mỹ từ Na-Uy sang nữa; đã trao đổi được nhiều và thông tin về tình hình cựu đệ tử bên nhà; anh Lợi sẽ làm trang web về cựu đệ tử của chúng ta, chúng ta sẽ có một trang nhà để tâm sự, chia sẻ với nhau.

Mới đọc một bài của anh viết trong Ephata, đọc rồi không cầm được nước mắt. Trong bài có câu chuyện về một người con “thoát” vòng yêu thương của vợ mà về thăm mẹ, đi ăn một bữa cuối cùng với mẹ mình. “Đồng xanh là chốn đây, thiên đàng cỏ cây”. Ở VN đang chiến đấu sinh tử. Cầu nguyện cho nhau nhiều.  Phạm Trung Thành, DCCT.

Có và Không
Thursday, May 15, 2008

 

 

 

Yến Tuyết

Cô bạn gái của tôi,

Chúng ta phải cảm ơn Thượng Ðế vì đang may mắn sống yên ổn ở nước Mỹ trong khi mấy tuần nay trên thế giới thì đầy những tai ương và biến động. Nào là bão tố ở Burma với hàng trăm ngàn người chết, cả triệu người vô gia cư. Còn chỉ mới một vài ngày trước đây thôi, cơn động đất kinh hồn ở vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc đưa đến sự tử vong của gần 20 ngàn người và con số này còn đang tăng thêm mỗi ngày.

Biết được cảnh khổ của người khác, chúng ta không khỏi xót thương cho họ và tôi hy vọng với tấm lòng nhân từ của con người đối với nhau, chúng ta sẽ sẵn sàng để góp phần vào việc giúp đỡ những nạn nhân kể trên bằng vật lực và tài lực trong khả năng của mình. Các cơ quan thiện nguyện như Hội Hồng Thập Tự Hoa Kỳ, The Salvation Army... là những nơi chúng ta có thể liên lạc để biết được cách thức đóng góp vào việc cứu trợ bạn ạ.

Từ những mất mát và vô thường của đời sống như thiên tai, bệnh tật, tai nạn, khủng bố, chiến tranh, chúng ta không biết chuyện gì sẽ xảy ra cho ngày mai phải không bạn? Những gì chúng ta đang có trong tay, chưa chắc sẽ hiện hữu vào ngày mai. Do đó, tôi tự nhắc nhở mình phải sống tốt hơn và tử tế hơn nữa với những người thân quen hay xa lạ.

Tôi sẽ nhắc nhở mình đừng đi tìm những điều toàn bích trong đời sống. Bởi vì trên thực tế, làm gì có điều nào là toàn bích mà đi tìm cho mệt mỏi!

Tôi cũng nhắc nhở mình dành nhiều thì giờ hơn cho gia đình và bạn bè trong cái thời giờ “ít ỏi” 24 tiếng đồng hồ một ngày của mình với bao nhiêu là đa đoan của công việc và dự định.

Buổi sáng lái xe đi làm tôi thường thích nghe nhạc từ một chương trình phát thanh có tên The Wave , 94.7 FM. Người phụ trách chương trình này là một ca, nhạc sĩ người Mỹ da đen có tên là Brian McNye.

Từ câu chuyện về người xướng ngôn viên phát thanh này tôi nghĩ lan man rằng, Thượng Ðế thường rất công bằng (mặc dù nhiều người vẫn than rằng ông Trời bất công!) Ngài ban cho người Mỹ gốc Phi Châu màu da đen đúa khiến họ hay bị kỳ thị, nhưng bù lại, phần lớn những người Mỹ đen có được giọng hát độc đáo, trầm ấm và mạnh mẽ như Whitney Houston, như Ray Charles, như Nat KingCole... Người Mỹ da đen cũng được Thượng Ðế ban cho thể chất mạnh mẽ và họ chiếm được những chỗ đứng quan trọng trong lãnh vực thể thao như bóng rổ và bóng chày.

Tôi đưa ra một thí dụ điển hình về người Mỹ da đen để thấy rằng, luật bù trừ hiện hữu hàng ngày trong đời sống, chỉ có điều là chúng ta không để ý đến mà thôi. Thí dụ như có người học thức uyên bác, nói năng trôi chảy, cử chỉ bên ngoài rất lịch thiệp nhưng bản chất thật của họ ích kỷ và lòng của họ mang đầy sự bất như ý và thù hận. Người khác thì dung nhan diễm lệ mà lại vô lễ với mọi người, tự cho mình cái quyền kiệu hãnh vì sắc đẹp, địa vị và sự giàu có của riêng mình. Trong khi đó có những người, dù không có được một bề ngoài xinh đẹp nhưng lời nói và hành động của họ thì dịu dàng và lòng họ lại là một trời bao dung!

Tiếp tục suy nghĩ đến những cái “Có và Không” mà Thượng Ðế ban cho và lấy đi, sự còn và mất của đời sống. Tôi tự điểm qua những kinh nghiệm riêng tư của mình; nhìn suốt cái xã hội mà tôi là một phần tử; học hỏi qua sách vở mà tôi đọc được; hay qua những người mình may mắn được quen thân, hoặc kẻ xa lạ tình cờ gặp gỡ trên đường đời, tôi chỉ ao ước làm sao luôn nhớ trân trọng những gì mình có được trong tay, dù chúng không được toàn bích như mong muốn của mình.

Ðó có thể là điều bất như ý về quyết định của đứa con gái khi nó tự chọn một ngành nghề ít lương mà nó ưa thích vì được phục vụ những người nghèo khó. Ðó có thể là sự khó chịu về người chồng quá chân thật. Ðó có thể là sự buồn lòng về cái nhà cũ, về công việc làm ít lương.

Cuối cùng, xin hãy vui và chấp nhận sự có và không trong đời sống, bạn đồng ý không?

Hẹn bạn thư sau nhé. (Y.T.)

 

NỐI LỬA CHO ĐỜI

                                      Lm Vĩnh Sang, DCCT

LTS. DIA mạn phép đăng lại bài viết của vị linh mục cấp cao, cùng Dòng ở Việt Nam. Da98ng, như một nhận định thực trạng để cảm thông. Và nguyện cầu. Cho nhau. 

Mấy ngày nay, kể từ khi giá cả tăng nhảy vọt và nhất là khi xăng dầu lên giá, điện chập chờn lúc có lúc không, báo Tuổi Trẻ phát động chuyên mục viết về những kinh nghiệm, những suy nghĩ về việc tiết kiệm. Rất nhiều những bài viết cụ thể, không nói suông, bắt nguồn từ những kinh nghiệm thực tế và phải nhận thật là xuất phát từ những quyết tâm hết sức cụ thể.

Có những bài viết về cách răn dạy con em một thói quen tiết kiệm, gợi cho tôi nhớ nhiều bài học nơi những người thân yêu đã một thời dạy dỗ, làm gương sáng cho tôi về chuyện tiết kiệm. Có lần tôi đến và ở lại dùng cơm nhà người anh của tôi ( anh là con nuôi của cha mẹ tôi ), nhà không đến nỗi nghèo nàn gì, nhưng anh bắt các cháu không được làm rơi vãi một hạt cơm nào, nhặt trong chén cơm có hạt thóc, anh bắt các cháu tách vỏ ra để ăn hạt cơm bên trong.

Sau cuộc chiến tại Việt Nam, anh sang định cư tại Hoa Kỳ. Trong một lần đi công việc của Nhà Dòng tôi ghé thăm anh chị. Đãi tôi một bữa cơm trên sân thượng bằng gỗ đang sau nhà, vẫn là anh, giản dị, gần gũi và tiết kiệm, anh nhặt tất cả thức ăn còn dư lại, gói cẩn thận cất đi, miệng lẩm bẩm trách các cháu: “Hãy nhớ đến những người thân yêu đang đói tại quê nhà”, bọn trẻ cười khúc khích: “Sang đến đây rồi mà bố cháu vẫn cứ như ở Việt Nam, chẳng thay đổi gì cả !”

Theo dõi phản ứng của độc giả báo Tuổi Trẻ, tôi rất mừng khi nhận thấy rất nhiều người ý thức và có những thực hành nghiêm chỉnh về tiết kiệm, điều này hứa hẹn sẽ giảm thiểu sự lãng phí rất lớn trong xã hội. Đất nước chúng ta vẫn còn trong danh sách nghèo đói, nếu trong cuộc đua tiết kiệm này, chúng ta có những chính sách cụ thể, những quyết tâm cụ thể và những việc làm cụ thể, hẳn dịp này là cơ hội cho chúng ta rút ngắn được khoảng cách với các nước tiên tiến khác.

Thế nhưng tôi như người mộng du giữa ban ngày, thực tế làm tôi ngã xuống trong chán chường, lòng trĩu nặng một nỗi thất vọng. Vẫn còn những chiếc xe đời mới của hàng cán bộ thừa tiền rửng mỡ, vẫn còn những nhà hàng nhấp nháy xanh đỏ thâu đêm, vẫn còn những quán nhậu động nghẹt người mỗi chiều tối, vẫn còn những sa hoa vung vãi chốn quần hồng ! Đã đành người ta có tiền thì người ta xài, nhưng cán bộ công chức đồng lương rõ ràng không đủ sống, sao lại có thể có xe hơi đời mới, sao lại có tiền cho con đi du học ở nước ngoài ( đi du học nước ngoài không là cái tội, nhưng tiền đâu mà họ mua nhà mua xe cho con, mà lại mua ngay bằng tiền mặt chứ không trả góp ! ), sao lại phô trương khoe mẽ với các thứ trang thiết bị cực xịn, sao lại vung vít thừa mứa những món ăn thức uống ?

Thu nhập có thể từ những nguồn khác ngoài lương, thế nguồn khác là nguồn nào nếu không phải là lương... lậu, là tham nhũng hối lộ ? Ngồn ngộn giữa ban ngày những điều chướng tai gai mắt nhưng vẫn tồn tại, hãy đi bất cứ một cơ quan nào, “xin” bất cứ một điều chính đáng nào mà không bị hành mới là lạ, hành cho đến khi làm đủ các thủ tục... “đầu tiên” thì mới “tạm thôi” ! Cả nước vẫn còn những cảnh đó thì khó mà lãnh đạo chia sẻ với người dân về một quốc sách tiết kiệm.

Sáng nay đọc một bài báo ( trang 7, báo Tuổi Trẻ số ra ngày thứ Tư 23 tháng 7 ) bàn về “tiết kiệm trong xây dựng nhà ở” ( tác giả là kiến trúc sư Lê Công Sĩ ), tác giả đã chỉ ra điều mà mọi người vẫn thấy sờ sờ trước mắt trong bức tranh bát nháo xây dựng ở khắp mọi nơi, nhà cửa hoành tráng một cách kỳ cục, hợm hĩnh và quái dị, đó là cái nhìn tổng quát, vào chi tiết, rất nhiều “không gian chết” làm cái hợm hĩnh trở nên hợm hĩnh hơn và nhất là quá sức lãng phí ! Phải chăng người ta có tiền, người ta thể hiện sự có tiền của mình bằng những cách làm quái dị như trên ? Để cho mọi người biết mình và mình không thể giống như mọi người !

Xót xa cho xã hội một, mình lại phải xót xa cho Giáo Hội gấp mười, bởi trong Giáo Hội hôm nay cũng đang có những con người hợm hĩnh như vậy, dĩ nhiên phải xót xa vì Giáo Hội của Chúa Kitô là Giáo Hội của người nghèo. Hãy xem một số Nhà Thờ “đua nhau” làm cầu thang vòng ở đầu Nhà Thờ. Xin các vị có trách nhiệm hãy bỏ giờ ra quan sát, một ngày có bao nhiêu người không đi cầu thang bậc trước Nhà Thờ mà sử dụng cầu thang vòng như hai càng cua ở đầu Nhà Thờ ? Làm mà không ai sử dụng thì gọi đó là “không gian chết”, và đó là lãng phí, nếu làm để xe hơi đi lên thì một năm có mấy lần xe hơi của Đức Cha và các vị quan khách đi lên và số lần đi lên như vậy có đáng để gây tốn phí bổ lên đầu Giáo Dân phải đóng góp hay không ?

Tôi mới nhận được CD và lịch biếu của một Linh Mục, trên bìa CD là hình của bản thân “người”, trên các trang lịch cũng lại chính là chân dung của... “người” ! Vậy “người” giới thiệu Chúa hay “người” giới thiệu chính “người” ?… Có ai đó đã chia sẻ với tôi rằng, làm Linh Mục phải làm được Nhà Thờ, ra được CD nhạc và ra một cuốn sách, thế là thỏa mãn ! ? ! Tôi đã nhận được khá nhiều CD biếu, danh sách ca sĩ trình bày gồm toàn những tên tuổi nổi tiếng, tôi nghĩ giá cát-xê hát không ít hơn hàng triệu bạc mỗi bài, nhưng CD nhạc của “người” nghe một lần rồi không biết tìm đâu ra chỗ mà cất cho nó khỏi bừa bộn linh tinh !

Giáo Hội của người nghèo và cho người nghèo, Thiên Chúa thuộc về những người nghèo, những người đau khổ thua thiệt, bị bỏ rơi. Chắc chắn chúng ta phải xem lại cách ăn nết ở của chúng ta, xem lại những phương tiện chúng ta đang sử dụng, những cái đó khẳng định “đẳng cấp” của chúng ta, cái đẳng cấp của thế gian hay đẳng cấp trong Nước của Thiên Chúa ?

Hãy xem lại đi những điện thoại di động, một người Tu Sĩ có cần loại “dế” quá nhiều chức năng như vậy không ? Hãy xem lại đi chiếc xe đang đi, có cần phải “vi vu” như vậy không ? Càng phải xem lại cái ”con xe” bốn bánh vừa sắm dùng trong thời xăng 19.000 đồng 1 lít. Hãy xem lại những bữa tiệc “tạ ơn” linh đình đãi hàng ngàn người, tôi nghe nói có bữa tiệc tốn hai tấn thịt… chó ! càng phải xem lại những chuyến rong chơi ở nước ngoài. Trời ơi, cứ như vậy thì thấy thỏa mãn hả hê và phủ phê sao ?!?

Hôm nọ có người Giáo Dân điện thoại than thở với tôi. Tôi vốn dĩ rất dị ứng với những lời tố cáo Linh Mục, nhất là các lời tố cáo về sự liên quan đến điều răn thứ sáu, đến người khác phái. Hình như đây là loại tin “giật gân” mà người ta thích thú to nhỏ, tôi càng dị ứng hơn với những lá thư nặc danh của những kẻ hèn nhát tồi bại, viết để bôi lọ một người Linh Mục nào đó mà họ không ưa. Phải gọi là hèn nhát vì họ không dám ra mặt, phải gọi là tồi bại vì kết tội một người mà không cho người ta có cơ hội để thanh minh.

Thế nhưng đây là một Giáo Dân, xưng đầy đủ tên tuổi của mình và than thở về cung cách sống của một Linh Mục nọ, tôi chẳng vội tin ngay nhưng buồn vì những câu hỏi của tôi được trả lời bằng những dẫn chứng xem ra rất thật, rất đúng về một lối sống sa hoa trưởng giả, về một lối sống mà Giáo Dân không thể đến gần được, vẫn biết chỉ là một số người thôi, nhưng cứ như vậy mà hình thành một cách sống thì dễ làm người ta ngộ nhận về Giáo Hội lắm.

Đất nước mình đang lâm vào tình trạng có quá nhiều bế tắc, đã có những cố gắng để gỡ rối và khai thông, không thể phủ nhận được vai trò của tôn giáo, không chỉ là vai trò không gì có thể thay thế được trong đời sống tâm linh, nhưng vai trò xây dựng và hình thành chuẩn mực xã hội cũng vô cùng cần thiết.

Trong những ngày này, một hội nghị bàn về “xã hội hóa giáo dục, y tế và từ thiện xã hội” đang được tổ chức với lời mời các Dòng Tu Công Giáo tham dự tọa đàm, lần đầu tiên Nhà Nước chủ động mời tôn giáo bàn về vấn đề xã hội hóa các công việc này, một vấn đề mà xưa nay phía các tôn giáo đã... “năn nỉ” Nhà Nước cho làm mà chẳng được ! Chẳng lẽ bây giờ Nhà Nước lại sẽ dễ dàng chấp thuận để các tôn giáo tham gia chăng ? Coi chừng mình sẽ không chuẩn bị kịp, cần và đủ để “góp gió” với đời và cho đời, nếu như mình không chịu thay đổi ngay lối sống của mình !

C

 

 

 

 

 

 

 

 

 

hCha Tiến Lộc từ những năm 1970, đã cùng cha Võ Tá Khánh viết một bài cho cánh sinh viên thể loại du ca, mang tên là “Nối Lửa Cho Đời”. Bây giờ lẩm nhẩm hát lại, giật mình thấy ứng nghiệm, thấy như nó đang vận vào mình, đang đặt cho mình một trách nhiệm sâu xa và bức bách:

“Nối Lửa cho đời và nối lửa cho ta, nối ở trong đời và nối tự tim ra,

Nối cho cho muôn người nguồn sức sống nhiệt thành,

Nối cho muôn người lòng mến, mến thật tình...”

Lạy Chúa, xin giúp chúng con còn nuôi được Lửa, giữ được Lửa cho ấm cho sáng, và nhờ đó mà có Lửa để nối cho đời !

Lm. VĨNH SANG, DCCT 24.7.2008

 

Nhân ngày lễ

tạ ơn linh mục

Lm JB Hồ Quang LÂm

Có một người hỏi: “Ông cha ấy hôm nay mới tạ ơn Chúa? Thế lâu nay không có tạ ơn sao cha?”

Lời ông thánh Phaolô vẫn luôn vang lên với hết mọi người chúng ta: Có điều gì nơi anh em mà anh em đã không nhận lãnh?... Anh em có được là gì thì cũng là nhờ ơn Thiên Chúa. Thành ra, tạ ơn phải là tâm tình luôn phải có trong đời sống con người. Và tâm tình đó phải có một cách thường xuyên và liên tục, bởi trong từng giây phút của cuộc sống, ân huệ Thiên Chúa vẫn tuôn trào không ngơi nghỉ.

Nhưng trong những chuỗi ân huệ đó, có những lúc người ta đón nhận những ân huệ đặc biệt, niềm vui quá lớn, hạnh phúc ngập tràn, một mình tạ ơn không thể thỏa lòng. Tôi muốn mời anh em chị, bà con xóm giềng, bạn bè thân hữu … cùng với tôi để hát to lên, cùng nhảy múa để tạ ơn Chúa vì ân huệ tôi được đón nhận. Giống như ông Đavít ngày xưa, cảm nhận tình thương của Chúa, ông nhảy múa như thằng điên …  Tân Linh mục hôm nay cũng thế, ngài muốn mời tất cả mọi người thân thích, ruột thịt đến để cùng chia sẻ, hát to lên với nhau để tạ ơn Thiên Chúa vì thiên chức linh mục đã nhận được. 

Hôm kia có một vị linh mục giảng lễ tạ ơn khấn trọn cho người cháu ruột, có nói: “Thực ra, người ta tạ ơn, tri ân, … là muốn xin thêm”. Tân linh mục mời mọi người đến tạ ơn, cũng có nghĩa là xin mọi  người xin thêm cho mình. Xin cho mình được vững bước trên con đường mới bước vào, xin được nhiều ân huệ để có thể chu toàn sứ vụ …

LINH MỤC

QUÀ TẶNG THIÊN CHÚA BAN CHO

NHÂN LOẠI

Linh mục là tặng phẩm cao trọng Chúa Ban cho nhân loại. Tặng quà là diễn tả sự quan tâm, lòng trìu mến của người này dành cho người kia. Cách tặng là một phần ý nghĩa của việc tặng, giá trị món quà giữ một ý nghĩa quan trọng khác. Có người thích chọn món quà giá trị về vật chất, lại cũng có người thích chọn món quà mà bản thân mình nghĩ là giá trị để tặng. Nhưng có lẽ ý nghĩa nhất là khi người ta hiểu được tâm tư, sở thích, nhu cầu của người được tặng và chọn món quà theo sở thích của người đó. Món quà sẽ làm đẹp lòng, mang lại niềm vui và đem đến lợi ích thiết thực cho người mình tặng quà.

LINH MỤC là MỘT QUÀ TẶNG Thiên Chúa ban cho nhân loại, và chính Thiên Chúa mời gọi người lãnh chức vụ linh mục phải thi thố như thế nào để món quà mà Ngài ban cho nhân loại phải thực sự là niềm vui, sự nâng đỡ và làm cho người ta được sống và sống dồi dào trong sự bình an và hạnh phúc.

Một linh mục mà mỗi khi nghĩ đến, người ta cảm thấy kinh hoàng sợ hãi, linh mục đó đang làm ê mặt Thiên Chúa. Một Linh mục chỉ tìm kiếm sự sang trọng cho bản thân để rồi những người được trao phó phải sống trong sự cô độc, lạnh lẽo vì bị quên lãng … Linh mục đó đang làm biến dạng khuôn mặt của Thiên Chúa, khiến cho Ngài trở nên méo mó trước mặt người ta.

Thành ra, làm linh mục không dễ! Luôn luôn phải là sự nỗ lực tự bản thân, là sự tìm tòi, thích nghi, để có thể chu toàn công việc Chúa trao phó cách tốt nhất. Ngồi ngoài nhìn vô đơn giản lắm, ở trong cuộc mới biết cũng khó khăn, cũng đau khổ như thế nào. Có người nói vui: “Làm cha dễ lắm và cũng thích lắm, tay như mấy que củi, khua như khua ruồi, tiền vô như nước!” Ngon thì nhào vô khua đi! Người khác thì nói: “Làm cha đã thật, ngồi nghe hết tội của người khác, sướng!” Vô ngồi một hồi biết sướng hay khổ liền chứ gì. Có người thì thích cho con đi tu vì thấy cha nào cũng trắng, mập, bụng bự, đẹp …! Chúng ta hãy cầu nguyện cho Tân linh mục để ngài trở thành quà tặng ý nghĩa nhất mà Thiên Chúa đã tặng cho người ta.

Một quà tặng ý nghĩa được biểu lộ ở những phương diện: rường cột, khanh tướng.

LINH MỤC,

NGƯỜI GIỮ VAI TRÒ RƯỜNG CỘT.

Hôm kia con đọc một bài báo, có người lên án nặng nề một linh mục rằng không ngay thẳng, không có tư chất một mục tử …, rồi đi chỗ này chỗ kia nghe người ta phàn nàn, phê phán vị này vị nọ … dĩ nhiên, phê là điều cần thiết và rất tốt để đương sự có thể rút bài học cho bản thân. Nhưng cái gì cũng có hai mặt, và hôm nay con nhìn ở mặt thứ hai để nói. Lời phê phán không phải luôn luôn đúng. Mà bị phê phán cũng không luôn có nghĩa là linh mục không tốt. Đôi khi có nhiều vị cũng điêu đứng vì những người không có thiện cảm phê phán.

Và con nghĩ: người Linh Mục phải là người có khả năng để chấp nhận bị người khác không thích. Không thích không phải do bản thân mình xấu, nhưng không thích vì mình đã không làm đúng ý người ta, đã can đảm bảo vệ sự thật, sự công bằng, bảo vệ người cô thế … Và khi người ta không thích, thì nhiều chuyện lắm: công kích, mạt sát, vu khống, dè bỉu …

Nếu chỉ là sự tìm kiếm để người ta không ghét mình, tìm mọi cách làm hài lòng hết mọi người, đôi trường hợp nó sẽ đưa linh mục đi đến chỗ phản lại chính sứ vụ của mình. Dễ hiểu thôi, trong một cộng đồng xứ đạo, 9 người đã 10 ý. Làm linh mục là “làm dâu trăm họ”, nếu tìm cách làm cho mọi người đều hài lòng, thì sẽ rất mệt nhọc, và rất nhiều khi biến linh mục thành người ba phải. Cái gì cũng phải mà không có lập trường. Và nếu cái gì cũng phải như thế, có nhiều trường hợp mình đang đồng lõa với cái xấu.

Cho nên cần thiết biết bao một bản lãnh, một sức mạnh tinh thần để có thể đón nhận sự không thích của người khác cùng những hệ luỵ của nó. Nhờ đó, linh mục trở thành cột trụ, để gìn giữ một nếp sống đạo vững vàng cho bản thân và cho cộng đoàn dân Chúa.

 

LINH MỤC,

NGƯỜI GIỮ VỊ TRÍ “KHANH TƯỚNG”.

Có bài hát người ta thường hát trong thánh lễ tạ ơn Linh mục: “Từ bụi tro, Chúa nâng con lên hàng khanh tướng”. Có ông cha thì biến đổi nó đi một chút cho đời hơn: “Từ thuốc Mây, Chúa nâng con lên hàng Ba Số”. Tức là nói đến tính cao quý, chức trọng của chức linh mục.

Có nhiều người không thích từ “khanh tướng”, vì nó gợi đến một lối sống ăn trên ngồi tróc, lối sống “quí tộc”, kẻ cả. Và thực tế có nhiều vị linh mục đã sống như thế, biến chữ khanh tướng theo nghĩa trần tục. Sống một cách trịch thượng và “bề trên”, để rồi tự cho phép mình xử sự với ông già đáng tuổi cụ mình bằng cung giọng của bậc kẻ cả: “Cụ là con nhà ai hử?”.

Dĩ nhiên con nghĩ có nhiều cách tiếp cận đối với một từ ngữ. Tính cách khanh tướng đặt trong tương quan với bụi tro cần được hiểu ở sự cao trọng của quyền bính, những lợi thế của linh mục trong việc loan báo Tin Mừng và dễ được yêu mến tôn trọng.

-        Linh mục là người được Chúa trao quyền bí tích. Không có linh mục, không có Thánh thể. Không có các bí tích. Điều đó xác định tính khanh tướng rõ nhất của linh mục. Có nhiều lúc con cảm nhận sự quý giá của bí tích nơi cách chờ đợi, đón nhận của những người giáo dân, khiến cho con thấy với tư cách linh mục, mình quan trọng hết sức. Có những cụ già nhất định không đi bệnh viên bao lâu chưa gặp ông cha cái đã, để lãnh bí tích xức dầu.

- Thứ đến là sự tin tưởng của người giáo dân. Làm linh mục rồi con thấy nếu mình hy sinh một chút, chịu nhục một chút, dấn thân một chút thì hiệu quả sẽ lớn nhiều lần so với một người bình thường đi làm bác ái. Người linh mục được lợi thế là dễ được người giáo dân tin tưởng. 

-        Người Linh Mục cũng dễ được yêu mến và đón nhận. Là một linh mục dòng, được giúp xứ tại đây con cảm nhận rõ nét điều này. Một anh thanh niên trẻ đến với người ta thì được đón nhận cách khác với cách đón nhận một linh mục trẻ. Nhờ chức linh mục mà con được đón nhận cách trân trọng và yêu mến.

Dĩ nhiên tính khanh tướng mà Chúa ban cho người linh mục thì cần được linh mục tận dụng và sống cách tốt nhất theo thánh ý Thiên Chúa. Được trao quyền thì phải phục vụ. Được ban cho lợi thế thì phải dấn thân. Được yêu mến thì phải tận dụng nó làm cho tình yêu mến triển nở trong cộng đồng.

 

KẾT.

Con nhớ lời Đức Cố Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận: “Xét theo cá nhân thì mọi người đều có giá trị như trước mặt Thiên Chúa. Điều làm cho anh hơn người khác hệ tại cách anh sống như thế nào trong tương quan với Thiên Chúa và với Tha Nhân. Còn xét theo Theo truyền thống của Giáo Hội, bậc tu trì vẫn được coi trọng hơn bậc giáo dân, vì bậc tu trì sống diễn tả trước đời sống mai hậu trên thiên quốc”.

Nói như thế có nghĩa là để được coi trọng hơn, anh phải sống những yếu tố có trong cuộc sống mai hậu. Đó là cuộc sống trào tràn tình yêu thương, chia sẻ, …

Xin hãy cầu nguyện cho tân linh mục cách riêng và tất cả các linh mục nói chung, để trong bậc sống của mình, mọi người làm tôn vinh danh Cha theo quyền năng mà Cha đã ban.   

 

            Lm JB Hồ Quang Lâm

 

            Lãnh nhận thần lực

                 do Guy Sebastian & Paulini trình bầy

 

Suy tư thần học

về bài hát chủ đề Đại Hội

Lãnh nhận lãnh sức mạnh quyền uy”

do Guy Sebastian và Gary Pinto  

trình bầy

Gm Anthony Fisher, OP

viết.

 

LTS:

Đại Hội Giới Trẻ thế Giới Sydney 2008 đã kết thúc, nhưng âm hưởng của bài hát được dùng làm chủ đề Đại Hội vẫn còn văng vẳng đâu đây. DIA xin ghi lại giòng chảy tư tưởng làm nền cho bài hát, như một chứng tích lịch sử, trong Giáo hội.

 

Bài này được chọn làm chủ đề cho Đại Giới Trẻ Thế Giới (ĐHGTTG) lần tứ 23, được tổ chức vào tháng Bẩy năm 2008 ở Sydney, Úc Châu. Bài này có tựa đề là: “Hãy lãnh nhận lãnh sức mạnh quyền uy” . Lời ca và ý nhạc của bài dựa trên chủ đề mà Đức Giáo Hoàng Biển Đức đã chọn ra từ sách Công Vụ: “Các con hãy lãnh nhận sức mạnh quyền uy của Chúa Thánh Thần khi Ngài ngự đến trên các con; và các con sẽ làm chứng nhân cho Thầy.” (Cv 1: 8). Chủ đề gồm hai phần: phần đầu, Đức Kitô lập lại lời hứa sẽ gửi Chúa Thánh Thần đền (Cv 1: 8a; x. Lc 24: 44-53; Yn 7: 37-39; 14: 25; 16: 13-14; 20: 22) – chúc thư được hoàn thành khi Chúa Thánh Thần ngự đến với các thánh tông đồ vào Lễ Ngũ Tuần và những ngày tháng sau đó (Cv chương 2; xem 3: 31; 4: 8, 31; 8: 14-17, 39; 9: 17; 10: 44-48; 11: 12-18; 13: 52; 15:8; 19: 1-7). Phần hai, Đức Kitô nói đến đáp ứng quà tặng Chúa ban một cách nhưng không, bằng cuộc sống đã được sức mạnh quyền uy Chúa Thánh Thần nâng đỡ: và các tông đồ trở nên “chứng nhân của Đức Chúa cho đến ngày tận cùng của trái đất” (Cv 1: 8b; 5: 32; 10: 34-43; xem Lc 24: 44-53; Mt 28: 19; Yn 15: 27).

 

 

Đối đáp trong Thánh Thần Chúa giữa Đức Kitô và các môn đồ trẻ

 

Bài hát diễn tả có hiệu quả các khía cạnh của chủ đề. Trong phần hát bè, Đức Kitô Sống Lại đã tỏ bày với các người trẻ trên thế giới: “Hallêluyah! Hallêluyah! Các con hãy lãnh nhận sức mạnh quyền uy của Chúa Thánh Thần. Hallêluyah, Halleluyah! Hãy lãnh nhẫn sức mạnh quyền uy để trở nên ánh sáng cho muôn dân.” Ở phần tiểu khúc, các người trẻ tiếp lời: “Chúng con sẽ theo chân Thầy đến miền tận cùng của trái đất”; “Chúng con ứng đáp làm theo ý Thầy”; “Chúng con sẽ mãi mãi làm chứng cho Lòng Thương xót của Thầy và Tình yêu không nhạt phai của Thầy.”; “Và chúng con đến phụng thờ Thầy”. Lời đối đáp trong Chúa Thánh Thần giữa Đức Kitô và các môn đồ trẻ là trọng tâm của việc rao truyền Phúc âm, giảng dạy giáo lý, hành động tin yêu phụng thờ. Tất cả đang nằm trong tâm hồn Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới.

 

Bài hát mang tính Thánh Kinh

 

Một trong các mục tiêu và thành quả của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là sự kiện các người trẻ đã lại khám phá ra sự giàu có của Lời Chúa, tức Thánh Kinh. Điều này không những chỉ tạo hứng bài hát bằng chủ đề chính của Đại Hội, mà hầu như toàn bộ lời ca trong bài đều mang ý nghĩa Thánh Kinh. Như sách Công Vụ nói rõ; quà tặng Chúa Thánh Thần ban cho các thánh tông đổ để các ngài có thể làm chứng qua công tác trọng tâm rao truyền Lời Chúa (x Cv 4: 33).

 

 

Bài hát mang nguồn hứng của Thánh Linh

 

Chủ đề Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 kêu mời chúng ta suy niệm về sức mạnh quyền uy của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống những người trẻ. Bài hát nhắc đến lời cầu khẩn Chúa Thánh Thần đến ba lần trong phần phụ họa của ban hợp xướng. Và, Đức Kitô mời gọi các người trẻ “Hãy lãnh nhận sức mạnh quyền uy của Chúa Thánh thần”. Và, các người trẻ đáp lại lời mời gọi qua câu hát “Vì lời mời gọi của Chúa Thánh Thần đã cất lên, chúng con sẽ đáp lại và sẽ làm theo thánh ý của Thầy.”  Khía cạnh thánh thiêng của bài hát đã làm cho Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ở Sydney trở nên riêng biệt, độc đáo.

Bài hát mang tính Kitô học

 

Chủ đề của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 được rút ra từ lời cuối Đức Kitô nói với các thánh tông đồ trước ngày Ngài về với Cha. Lời Ngài hứa sẽ gửi Chúa Thánh Thần đến đã được nối kết một cách đặc biệt qua lời mời các người trẻ hãy làm chứng nhân, hãy trựng bằng chứng và hãy chấp nhận cái chết cho Đạo nữa. Nhưng nối kết với ai? Quả thật, là Chúa Thánh Thần đã gầy dựng sức mạnh quyền uy cho người trẻ để, không phải để làm chứng nhân cho chính mình, cũng không phải cho Chúa Thánh Thần, mà làm chứng cho Đức Kitô, như Lời Ngài đã nói: “Và các con sẽ làm chứng nhân cho Thầy”. Bài hát rõ ràng nói lên lòng hăng say của các môn đồ trẻ hôm nay quyết đáp ứng lời mời gọi trên và củng cố sức mạnh quyền uy ấy.

 

 

Bài hát mang tính Thánh Thể

 

Thánh Thần Chúa được gửi đến, không phải để làm tăng trưởng sức mạnh của riêng ai, nhưng để khích lệ chúng ta hãy đến mà phụng thờ và cảm tạ Ngài. Chính vì thế, vào ngày Lễ Ngũ Tuần, các môn đệ có đầy Thần Khí Chúa trong mình “đã nguyện hết lòng giúp đỡ các thánh tông đồ” trong việc dạy dỗ và hiệp thông trong Bẻ Bánh và nguyện cầu” (Cv 2: 42).Ở lời đầu bài hát, các bạn trẻ đã hát lên lời ca hãnh tiến nói rằng “chúng con rất sung sướng có Ngài hiện diện”  và nơi ‘cây cầu kết nối’ “Lạy Chiên Thiên Chúa, chúng con thờ lạy Ngài. Lạy Chúa Chí Thánh, chúng con thờ kính Ngài.” (Yn 1: 29, 36; 6: 69; Mt 1: 33). Đây là bài hát đầy tính chất thờ phượng. Một bài ca, mà ít nhất đối với người Công Giáo, sẽ giúp các người trẻ biết khẩn cầu Đức Chúa nơi Thánh Thể mà họ phượng thờ. Cao điểm của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới là việc cùng với Đức Thánh Cha cử hành Thánh Lễ. Và, thành quả của Đại Hội là lòng sùng kính Thánh Thể ngày càng gia tăng.

 

Bài hát mang tính toàn cầu (‘Công Giáo’)

 

Bài hát được mở đầu bằng lời khẳng định “Các dân nước, các bộ tộc khắp nơi, đều cùng đến thờ lạy Ngài.” (Kh 7: 9-10; xem 5: 9-11). Đây là chú thích được gửi đến tất cả các người trẻ ở mọi miền đất nước có ngôn ngữ khác nhau. Những người sẽ đến Úc để tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới với tư cách người hành hương và cũng là các tiền hô cho Tin Mừng của Chúa. Đây cũng là khía cạnh thánh thiêng mà bài hát đã nắm bắt. Trong trình thuật Ngày Lễ Ngũ tuần, thảm họa của tháp Babel đã được lật ngược: mọi dân nước sẽ không còn chống đối lẫn nhau; ngôn ngữ của người phàm trần không còn rẽ chia các dân tộc. Sẽ không còn đưa dẫn họ đến tình trạng không hiểu nhau. Thay vào đó, Thánh Thần Chúa đã hợp nhất tất cả nên một và mọi người nay hiểu rõ nhau hơn. Đây chính là quà tặng của Lễ Ngũ Tuần và cũng là quà tặng của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới.

 

Bài hát mang tính khải huyền

 

Trong sách Khải Huyền, thánh Gio-an đã có thị kiến về “đoàn người đông tới độ không thể nào đếm nổi; họ đến từ mọi miền đất nước khác nhau, từ các dân tộc, các nhóm người có tiếng nói khác nhau. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên… [và] họ kêu lớn tiếng: ‘Ơn cứu độ từ Đức Chúa… và từ Chiên Con.” (Kh 7: 9-10; xem 15: 3-4). Nhạc thiều của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 là điềm báo trước, là vị ngọt nếm trước của ngày mà một khi đã có sức mạnh quyền uy của Chúa Thánh Thần rồi, mọi dân nước sẽ không còn phân rẽ nhau và “mọi dân nước, mọi bộ tộc” sẽ “cùng đến với nhau để phụng thờ Ngài … Chiên Thiên Chúa.”

 

 

Đặc điểm và sự Liên tục

 

Bài hát đặc biệt này được chọn làm nhạc thiều, vốn nói lên chủ đề của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 ở Sydney – đã qui chiếu lời kêu mời và sức mạnh quyền uy của Chúa Thánh Thần cũng như đã mời gọi lớp người trẻ hãy làm chứng nhân – nhưng vẫn kêu gọi và kết hợp nhiều chủ để giáo lý sâu sắc của vị cha già sáng lập Đại Hội Giới Trẻ, Đức Gio-an Phaolô Đệ Nhị với các chủ đề như: “Đức Chúa Ở Cùng” (ĐHGTTG 2000 ở Rôma), “Ánh sáng cho muôn dân” (ĐHGTTG 2002 ở Toronto) và “Chúng con thờ lạy Ngài” (ĐHGTTG 2005 ở Cologne). Chính vì thế, bài hát đã diễn tả được nét đặc thù của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2008 ở Sydney. Bài hát còn nói lên tính chất liên tục nối kết 20 năm sau các Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, trước đây. Sau hơn hai ngàn năm liên tục công tác rao truyền Lời Chúa kể từ khi Tổng lãnh Thiên thần Ga-bi-ri-en đặt tên cho Hài Nhi Giê-su là “Emmanuel – Chúa đến ở cùng chúng ta” (Mt 1: 33) và khi thánh Gio-an Tẩy Giả nhận ra Ngài là “Chiên của Thiên Chúa” (Yn 1: 29-36) hai đặc điểm này vẫn còn rõ nét. Và, sẽ kéo dài mãi về sau.

 

Gm Anthony Fisher, OP

Mai Tá dịch

 

 

Một chút

sử liệu về

Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới

                       

 

Biến cố trọng đại “Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Sydney 2008” sắp diễn ra. Xin Mục Diễn Đàn tóm tắt giúp anh chị em Cursillistas có cái nhìn chung về biến cố này, lịch sử, mục đích và ý nghĩa của nó, vì nhiều anh chị em không có giờ cũng như không có phương tiện để tìm hiểu rỏ ràng và theo dõi các diễn tiến của nó. Xin chân thánh cám ơn.

                                                                 NTN  Melbourne.

 

Ngày Giới Trẻ Thế Giới là một biến cố lớn do sáng kiến của Đức đương kim Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngài mời gọi tất cả các Bạn Trẻ trên khắp năm châu cùng đến một địa điểm để tạo một sự nối kết vững chắc giữa niềm vui ngày hội và Đức Tin. Đó là một ngày hội ngộ niềm tin. Ngày Giới Trẻ Thế Giới  là ngày hội quốc tế: tại Cologne (Đức Quốc), nơi tổ chức ngày Giới Trẻ Thế Giới vừa rồi (2005), các Bạn Trẻ từ trên 160 quốc gia đã đến tham dự. Mục đích chung của họ là : làm quen với nhau, chia sẻ những kinh nghiệm sống và cùng với Đức Thánh Cha vui ngày hội.

Như dã nói ở trên, Ngày Giới Trẻ Thế Giới được khởi xướng do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II.  Trở về hơn hai mươi năm trước, trong năm 1983-1984, Giáo Hội Công Giáo mừng Năm Thánh đặc biệt để tưởng niệm cuộc Tử nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô cách đó 1950 năm. Trước lễ Phục sinh năm 1984, cũng là thời điểm kết thúc Năm Thánh, Đức Thánh Cha đã mời gọi các Bạn Trẻ trên toàn thế giới đến tham dự Chúa Nhựt Lễ Lá tại Roma, và rất đông bạn trẻ đã đến. Phấn khởi vì con số tham dự quá đông này, Đức Thánh Cha đã lấy năm kế tiếp, năm mà Liên Hiệp quốc đã công bố là Năm Của Giới Trẻ  để mời các bạn trẻ đến Roma gặp gở lần nữa vào ngày Chúa Nhựt Lễ Lá 1985. Xúc động vì sự thành công của ngày gặp gở giới trẻ tại Roma này, Đức Thánh Cha đã công bố chính thức rằng, từ nay sẽ tổ chức mỗi năm ngày gặp gở cho giới trẻ. Và hơn thế nữa, trong tương lai, cứ hai năm một lần sẽ có một Ngày Giới Trẻ Thế Giới thế giới được tổ chức thay đổi tại các nơi trên thế giới.  Giữa hai năm đó,  Đức Thánh Cha mời gọi giới trẻ tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới thuộc cấp địa phận được tổ chức vào ngày Chúa Nhựt Lễ Lá tại các giáo xứ địa phương.

Cho đến nay đã có 23 ngày Giới Trẻ Thế Giới , trong đó có 10 lần gặp gở quốc tế như sau :

-                                  1987 tại Buenos Aires (Á Căn Đình)

-                                  1989 tại Santiago de Compostela (Tây Ban Nha)

-                                  1991 tại Tschenstochau (Ba Lan)

-                                  1993 tại Denver (USA)

-                                  1995 tại Manila (Phi Luật Tân) (khoảng 4.000.000 người)

-                                  1997 tại Paris (Pháp) (đã có trên 1 triệu người tham dự Thánh          

-                                                Lễ  bế mạc tại Paris)

-                                  2000 tại Roma (Ý) (có khoảng 2 triệu)

-                                  2002 tại Toronto (Canada) (có khoảng 800.000)   

     -    2005 tại Cologne (Koln) Đức Quốc (có tới 1 triệu 2 ngưòi tham dự Thánh Lễ bế mạc)

-                                  Và năm nay 2008, tại Sydney Australia.

Ngày 21 tháng 8 năm 2005, nhân ngày bế mạv Đại Hội Giới Trẻ tại thành Phố Cologne, Đức Thánh Cha Beneditô 16 đã tuyên bố thành Phố Sydney được chọn làm nơi tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới vào năm 2008.

 

 "And now, as the living presence of the Risen Christ in our midst nourishes our faith and hope, I am pleased to announce that the next World Youth Day will take place in Sydney, Australia, in 2008. We entrust to the maternal guidance of Mary most holy, the future course of the young people of the whole world." His Holiness, Pope Benedict XVI, 21 August 2005

 

Thế là Thành Phố Sydney được chọn làm nơi tổ chức  Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2008. Thật là một sự vui mừng và niềm vinh dự cho quôc gia Úc được tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 23 này . Đức Thánh Cha đã cầu nguyện và xác tín trọn vẹn niềm tin phó thác vào Chúa Giêsu Kitô và Mẹ Maria trong việc dẫn dắt các bạn trẻ đến gần với Thiên Chúa.               

Khi nói đến Đại Hội Giới Trẻ phải nói dến vị cố Giáo Hoàng Gioan –Phaolô II rất đáng kính của chúng ta.

Trong tờ DETROIT NEWS số Chúa Nhựt 14-8-2005 có kể lại câu chuyện  như sau: “Shawn Wrathell thấy mình chảy hai hàng nước mắt, ôm những người lạ bên cạnh lòng đầy xúc động khi xe của ĐTC

Gioan Phaolô II đi ngang qua cậu trong ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại Toronto, Canada”.

Bài báo bắt đầu bằng câu chuyện của Shawn Wrathell để đi đến nhận định rằng ngày Quốc Tế Giới Trẻ là một di sản của Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II . Ngài bắt đầu biến cố này từ năm 1984 tại Roma và phát triển lên thành Đại Hội Quốc Tế Giới Trẻ gồm nhiều ngày quy tựu các bạn trẻ Công giáo tại Á-căn-dình, Tây Ban Nha, Balan,  Denver, Manila, Paris, Roma, Toronto, Cologne và năm nay tại Sydney.

Bài báo viết tiếp: “Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã linh hứng người trẻ Công giáo và chiếm được trái tim họ không như bất cứ Giáo Hoàng nào khác. Họ thấy Ngài lôi cuốn và vui tươi, nhưng rất khôn ngoan . Người trẻ thường khóc ngay cả trước khi ngài bắt đầu nói....”

 

Tại Toronto (Canada), Đức Gioan-Phaolô II  đã đặt các bạn trẻ giữa hai sự lựa chọn: “Chúa đang mời gọi các con lựa chọn giữa hai tiếng nói  đang cạnh tranh để chiếm hữu tâm hồn các con. Sự lựa chọn đó chính là bản chất   và là thách đố của ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Tại sao các con từ các nơi trên thế giới tụ họp về đây? Thưa để nói lên trong tâm tư các con : “Lạy Chúa, chúng con còn biết theo ai? Chúa Giêsu – người bạn thâm giao của mọi người trẻ – có lời ban sự sống đời đời”. (Ga 6:68).

Rồi Ngài giải thích  vai trò của người trẻ trong thế giới ngày nay:

Thế giới mà các con đang thừa hưởng là một thế giới  đang tuyệt vọng, đang cần đến một ý nghĩa được canh tân của tình huynh đệ và liên đới nhân loại. Đó là một thế giới cần được chạm đến và chữa lành nhờ vẻ đẹp và sự phong phú của tình yêu Thiên Chúa. Thế giới đang cần đến các chứng nhân của  tình yêu Chúa, đang cần đến các con là muối đất và là ánh sáng thế gian”.  Và nhiều bạn trẻ đã khóc khi nghe những lời của vị Cha chung đó.

 

Nói tiếp truyền thống của vị tiền nhiệm, Đức Thánh Cha Bênêdictô 16 đã cố gắng tìm ra cách của mình để giao tiếp với người trẻ, dù người ta không mong đợi  Ngài  là một siêu sao như Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II. Ngài đã thành công ở Cologne và Ngài sẽ tiếp tục linh hứng  người trẻ tại Sydney (và các nơi kế tiếp...) để tiếp tục giữ được cho Giáo Hội Công giáo mạnh mẻ, đầy sức sống trong thế hệ tiếp theo.

 

Đại Hội Giơi Thế Giới  tại Sydney đang ráo riết chuẩn bị. Chỉ còn 163 ngày nữa là tới ngày Đại Hội. Còn biết bao nhiêu công việc của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 23 này đang dươc tiến hành và chuẩn bị trong năm tháng sắp tới.

Chủ đề của Đại Hội là:

“Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Anh em sẽ là chứng nhân của Thày.”  (Cv 1:8)

“You will receive power when the Holy Spirit has come upon you, and you will be my witnesses”. (Act.1:8).

Nước Uc nói chung, và Sydney nói riêng, đang nôn nao để được đón tiếp Đức Thánh Cha trong  dịp Ngài  đến thăm viếng vùng đất miền Nam của quả địa cầu này. Nước Uc là nơi mà theo lời Đức Có Giáo Hoàng Gioan –Phaolô II thường gọi là vùng đất của Chúa Thánh Linh đang dẫn dắt.

Đại Hội giới trẻ thế giới là dịp để các bạn trẻ trên toàn cầu cùng tìm về với nhau thể hiện qua yêu thương, qua những dịp gặp gở  chân tình và nhất là cảm nhận và chia sẽ với nhau về tình yêu sâu xa  của Thiên Chúa đang ban nhiều cho các bạn trẻ. Và đây cũng là cơ hội các bạn trẻ cùng hưóng về và cùng tham dự Thánh Lễ, trọng tâm của các Bí tích. Các bạn còn dịp lãnh nhận Bí tích Hòa Giải, và ôn lại vài điểm giáo lý trong đời sống đạo. Để khi trở về nơi sinh sống của mình, các bạn trẻ sẽ là những chứng nhân sống động trong các môi trường mà các bạn đang sinh sống và tiếp xúc.

Chương trình Đại Hội giới trẻ tại Sydney ngoài Lễ Tiếp đón Thánh Giá Đại Hội và Anh Tượng Đức Mẹ vào ngày 01 tháng Bảy 2007 ở Sydney để mở màng cho các cuộc du hành qua khắp Uc Châu. Kế đó “Những Chương Trình tại Giáo Phận” sẽ diễn ra từ ngày 10 đến 14 tháng  7 năm 2008, khách hành hương sẽ đến thăm các giáo phận trên khắp Uc Châu với những sinh hoạt do các cộng đồng địa phương tổ chức.

Tuần lễ chính của Đại Hội Giới Trẻ Sydney sẽ khởi sự sau những sinh hoạt trên,

·                              Thứ Ba 15 tháng 7-2008    : Thánh lễ khai mạc do Đức Hồng Y George Pell, Tổng Giám Mục Sydney chủ tế, sau đó là các buổi hòa nhạc.

·                              Thứ Tư  18 tháng 7-2008   : buổi sáng co các giờ Giáo Lý, và buổi chiều & tối có các cuộc Liên Hoan Giới Trẻ.

·                              Thứ Năm 17 tháng 7-2008 : tiếp đón Đức Giáo Hoàng .

·                              Thứ Sáu 18  tháng 7-2008  : Chặng Đàng Thánh Giá – Tưởng niệm cuộc Khổ Nạn và Sự Chết của Chúa.

·                              Thứ Bảy 19 tháng 7-2008: tất cả tới địa điểm tổ chức Thánh Lễ Bế Mạc, tham dự đêm Canh Thức với Đức Thánh Cha và cùng ngủ qua đêm ngoài trời “dưới những vì sao”.

·                              Chúa Nhựt 20 tháng 7-2008 : Thánh Lễ Bế Mạc và các nghi thức kết thúc.

 

Đây là biến cố vô cùng trọng đại, là một hồng ân Chúa ban mà tất cả, cách  riêng các bạn trẻ không thể bỏ qua.                                                                                   

 

Huỳnh Công Lợi, Sydney

chuyển tải từ báo Ultreya

Đại Hội

Giới Trẻ Thế Giới

Ảnh Đức Mẹ

 

Từ lúc Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI trao Thánh Giá và Ảnh Tuợng Đức Mẹ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới cho Ban Tổ Chức Đại Hội Giới Trẻ Sydney, Ảnh Mẹ đã hành trình qua nhiều nơi trên đất Úc. Trong số những người được vinh hạnh diện kiến Ảnh Mẹ, có độc giả đã cảm kích gửi đến tuần báo The Catholic Weekly yêu cầu báo này giải thích thêm một chút sử liệu về Ảnh Mẹ. Dưới đây, là câu hỏi - đáp xuất hiện trên tuần báo số 4410, ra ngày 06-04-2008.

            Để độc giả gần xa nắm được sử liệu về Ảnh, xin trích dịch ở đây lời hỏi-đáp đã đăng:

  

Vừa qua, tôi đã có cơ hội được hân hạnh diện kiến bức Đức Mẹ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới từng luân lưu khắp miền, ở đất Úc. Nói chung, nhìn kỹ Ảnh, tôi rất thích, và rất cảm kích mến phục. Hôm nay, nhằm tiến sâu và tiến xa trong tâm tình giữ lại kỷ niệm đẹp về Ảnh, tôi mạo muội gửi đến quý báo để nhờ giải thích thêm vài nét đặc trưng Ảnh Mẹ. Xin vui lòng cho biết. 

 

            Và, câu trả lời là của linh mục John Flader, người phụ trách mục hỏi đáp trên tuần báo:

 

Ảnh mà bạn nói ở đây, chính là ảnh Đức Mẹ từng xuất hiện rất lâu trong cổ sử, rất được mến mộ. Ảnh này còn có tên là ảnh Đức Mẹ, Đấng Cứu Vớt Dân Thành La Mã (tức là bức mang tên Salus Populi Romani), được lưu giữ tại Nguyện Đường Đức Mẹ ở Vuơng Cung Thánh Đường Đức Bà Cả, Rôma. Danh xưng “Salus Populi Romani”, nghĩa tự là “Sự lành thánh” hoặc “Ơn Cứu Độ” hoặc “Đấng Bảo Vệ Dân Thành La Mã”, có nguồn gốc theo truyền thống đạo hạnh rất xưa, do việc Đức Mẹ đã cứu thành đô La Mã khỏi sự tàn phá của cơn dịch tễ dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Grê-gô-riô Cả (590-604).

 

Theo truyền thống, cơn dịch nói trên đã tàn phá toàn bộ thành La Mã, khiến cho Đức Giáo Hoàng Grê-gô-riô phải cho ra lệnh dân chúng hãy kiệu ảnh mẹ trong buổi rưóc long trọng đi ngang mọi ngõ ngách toàn thành phố, vào mùa Phục Sinh. Khi đoàn kiệu kịp đến lăng mộ thánh A-dri-an, khi đó mọi người đều nghe tiếng các thiên thần hát mừng ca vịnh Phục Sinh có tên là “Nữ Vương Thiên Đàng” (Regina coeli). Vào độ ấy, Đức Giáo Hoàng đã ra lệnh cho ghi thêm vào ca vị câu đáp thẳng “xin cầu bàu cho chúng tôi trước mặt Đức Chúa, Ha-lê-lu-ya”.

 

Cũng vào lúc đó, có vị thiên thần, được mọi người tin là Tổng Lãnh Thiên Thần Mi-ca-e, đã xuất hiện trên nóc đỉnh của mộ lăng. Khi ấy, thánh nhân lấy kiếm xỏ vào bao, như để ám chỉ rằng cơn dịch đã lui thoái. Và thực tế, con dịch ấy đã hoàn toàn chấm dứt. Không một ngờ vực, chính vì lý do này, mà vào năm 1240 có tài liệu đã qui ảnh tượng của Mẹ như ảnh hình có tước hiệu “Nữ Vương Thiên Đàng”.

 

Ngày nay, Lăng mộ này được biết dưới tên gọi “Castel Sant’Angelo”, tức “Đền thánh Mi-ca-e”.

Cũng có truyền thống khác, đã liên kết ảnh hình này với câu chuyện về trận tuyết rơi không ngừng nơi đồi Esquiline ở Rôma, vào năm 352. Lúc ấy, vào khoảng tháng Tám, thời điểm nóng nhất trong năm, ở Ý. Chính đó là lý do khiến Đức Giáo Hoàng Li-bê-ri-ô (352-366) phải ra quyết định xây vương cung thánh đường tại nơi đây để bày tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ, ngay trên đồi. Cũng một lý do tương tự, mà Ảnh Mẹ còn được biết dưới danh hiệu “Đức Bà Núi Tuyết”. Có truyền thống nói rằng, Đức Giáo Hoàng sau đó đã ra lệnh treo ảnh Mẹ tại thánh đường nói trên. Ảnh Mẹ do thánh Hê-len, thân mẫu của Hoàng đế Constantine, đã mang từ nơi xa đến thành La Mã, vào khi đó.

 

Còn nhiều niên biểu khác, trải dài từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ XIII, sau công nguyên. Ở trường hợp nào đi nữa, ảnh Mẹ mang niên tính rất cổ xưa và là một trong các ảnh nổi tiếng thấy có ở kinh thành La Mã.

 

Có ảnh cùng loại được biết dưới tên “hodegetria”, theo cổ ngữ Hy Lạp có nghĩa là “Đấng chỉ lối dẫn đường”. Theo nghĩa này, Mẹ thường được diễn tả bằng cảnh tượng có ánh mắt trìu mến của Mẹ nhìn thẳng vào những người đang chiêm ngưỡng; tay Mẹ chỉ vào Đức Giê-su, Con của Mẹ, như muốn bảo: chính Ngài là Đường lối, dẫn ta đi.              

 

Nơi Ảnh Mẹ lúc trưóc mang tên “Đấng Cứu Vớt Thành Đô La-Mã” và bây giờ là “Ảnh Tượng Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới”, vẫn luôn thấy Đức Giê-su được Mẹ ẵm bồng nơi cánh tay trái, có hình Chúa nhẹ giơ trong tư thế chúc lành. Ngón tay trỏ và ngón giữa của Chúa nhập lại làm một, như muốn bảo: nơi Đức Kitô vẫn hiện hữu cả hai tính chất:cả  thiên tính và tính phàm trần. Ba ngón còn lại, cũng nhập chung diễn tả Ba Ngôi Đức Chúa, cùng đồng vị. Ở tay trái, Ngài cầm gọn quyển sách, có ý hàm ngụ: Lời Chúa đích thị nơi Thánh Kinh.   

 

Mắt của Chúa ngước nhìn Mẹ, trong khi ánh mắt Mẹ Hiền lại hướng về chúng nhân. Tay phải Mẹ, vẫn ôm choàng qua bên trái trong cử chỉ nhẹ nhàng vẫn ôm chặt gìn giữ Con, trong mọi tình huống. Người của Mẹ ra như đang toát lên lực cuốn hút tầm nhìn người chiêm ngưỡng đang ngắm nhìn cảnh tượng của tình yêu thương bằng ánh mắt Người Mẹ nhìn Con, rất Đức Chúa. Và, Hài Nhi Giê-su vẫn chúc lành muôn dân, gồm đủ cả và trước nhất là Mẹ của Ngài. Mẹ chính là Đấng sẻ san cách mật thiết chân tình, công trình Nhập Thể của Chúa Con.

 

Tại nơi Ảnh, vẫn thấy có 3 ngôi sao truyền thống lấp lánh nơi vai và tại vầng trán Mẹ. Ba sao, là để biểu tỏ tính trinh trong miên trường của Mẹ, cả vào lúc truớc, lẫn khi diễn tiến và ngay sau ngày Mẹ sinh ra Giê-su Đức Chúa, Con Chí Ái của Mẹ. Ở phía trên cao Ảnh Mẹ, có ghi hàng chữ nói Mẹ chính là “Mẹ Thiên Chúa”.

 

Xem thế, sử liệu và hình tượng hiển hiện nơi Ảnh mang tính dồi dào sung mãn, nhiều ấn tượng. Đặc trưng này, từng lôi cuốn những người đến chiêm ngắm Ảnh, đã lôi kéo họ về gần với Đức Giê-su, Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Chuộc, trần thế.

 

Kể từ 2003, là năm mà Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô Đệ Nhị trao Ảnh Mẹ cho các người trẻ trên thế giới với quyết định hãy để Ảnh Mẹ lúc nào cũng đồng hành với Thánh Giá Đại Hội, suốt hành trình.

 

Vào lúc trao Ảnh Mẹ, Đức Thánh Cha nói: “Hôm nay, Cha giao phó cho các bạn bức Ảnh này đây. Từ nay, Ảnh Mẹ sẽ luôn tháp tùng Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, cùng với Thánh Giá Đại Hội. Này đây, là Mẹ của các bạn! Đây sẽ là dấu chỉ: Mẹ luôn hiện diện với các bạn như Người Mẹ rất thương con. Để rồi, tình mẫu tử nơi Mẹ càng gần gũi các bạn hơn. Gần gũi những người trẻ, từng được kêu mời, như vị Tông đồ Chúa thương là thánh Gio-an, sẽ đón nhận Mẹ như người Mẹ đích thật trong cuộc sống các bạn.”( Rô ma, Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2003).

                                   

 Mai Tá chuyển ngữ

Có mặt nơi đây.    

Mễ Duy

04.2008

 

Tôi đang đọc một cuốn sách về thánh lễ (1). Đọc lại thì đúng hơn. Vì đã đọc cách đây bẩy tám năm. Bây giờ mỗi ngày đọc một hai trang. Có khi ít hơn. Ngày nào quên thì trước khi đi ngủ cũng rán đọc thoáng qua một hai đoạn đã tô mầu vàng, xanh, hồng. Thú thật là cũng có khi « không có giờ » đọc, đành xin lỗi lương tâm, và mong Chúa « thông cảm ».

 

(1) L’Eucharistie à l’école des saints, Nicolas Buttet, Editions de l’Emmanuel.

 

  Sách dày 382 trang. Tính đến những ngày đang viết bài  này, tôi mới đọc được một phần tư. Thế mà cũng đã có cảm giác  đã lãnh hội nhiều, am hiểu được những ý nghĩa chính yếu và cao trọng của thánh lễ. Để bạn cảm được phần nào sự phong phú của cuốn sách, xin trích và rút gọn một đoạn như sau :

 

Khi dự thánh lễ là tôi đến cuộc hẹn ân tình Chúa đợi tôi. Như xưa Chúa đợi Mai-sen trong bụi cây cháy sáng, để tỏ danh tánh Ngài. Như Chúa hiện mình vinh quang trên núi Thabor. Như khi Chúa ban chìa khóa hạnh phúc trên đồi Tám Phúc. Như đám cưới với Lang quân, với vị Cứu tinh, với đấng Mục tử. Dự thánh lễ là thực sự có mặt dưới chân thánh giá trên đồi Sọ, khi Chúa hiến tế  mạng mình vì yêu nhân trần.  Là có mặt trong Nhà hội khi Thần Khí tỏ mình trong cộng đồng tông đồ.( xem  trang 72)

 

Chỉ mấy hình ảnh vừa qua đã đủ làm rực lên ánh sáng và mầu sắc của mầu nhiệm thánh lễ. Và trong tiềm thức không khỏi đặt ra câu hỏi : vậy phải làm sao - không đặt vấn đề xứng đáng hay không-  để tham dự cách thích hợp với khả năng của con người ? Và đây là câu trả lời đầy thích thú :

 

« Như vậy, tham dự thánh lễ cách nào đây? Làm sao tìm lại được một sự sốt sắng… ? Trước hết bằng  cách quyết định có mặt tại chỗ. Đã biết bao lần vào nhà thờ một cái là  hồn vía như lên mây không còn chú ý đến gì nữa, tâm trí đi « du lịch » trong quá khứ hoặc trong mộng tưởng. Để rồi bất chợt thấy mình đang mơ mộng, đang nghĩ đến chuyện này chuyện kia, đầu óc như bướm vàng lượn đi lượn lại trên hoa lá cành. Dĩ nhiên «cầm lòng cầm trí» liên tù tì đâu phải là chuyện dễ. « Con điên trong lều », tên mà thánh nữ Têrêxa cả gán cho trí tưởng tượng, chơi chúng ta đủ trò. Dẫu sao đi nữa, nếu chúng ta không dốc quyết, bằng một hành vi tự do của ý chí, thực sự có mặt và chăm chú vào cuộc cử hành sắp diễn ra, thì có nhiều phần là chúng ta sẽ chỉ đi ngang qua mà không vào gặp mầu nhiệm. Cha sở họ Ars chỉ dẫn cho chúng ta cách thức  tham dự thánh lễ : «  Cách hay nhất để tham dự thánh lễ là  kết hợp với vị chủ tế trong mọi lời ngài nói, mọi hành vi ngài làm, càng « kỹ » càng càng tốt ; và cố gắng cho thấm vào lòng những tâm tình yêu mến và cảm tạ. »

( xem trang 81-82, dịch thoáng, có thêm mắm muối . Chữ đậm là do tôi )

 

Thật là thích thú khi để gặp Thiên Chúa - bởi vì trong lòng tin Công giáo, Mình Thánh Chúa trong thánh lễ chính là sự hiện diện thiết thực của Đức Cứu Thế vinh hiển - người ta chỉ cần có mặt.

 

Từ nhận định này, chúng ta có thể  suy ra một áp dụng để làm  nền tảng cho việc xây dựng một thái độ sống, một thể thức hiện hữu, một nghệ thuật sống. Sự áp dụng đó là như thế này :

 

Nếu như gặp Thiên Chúa mà chỉ cần, hoặc không thể làm gì hơn, là có mặt, vậy thì để gặp bản thân, tha nhân, vạn vật, vũ trụ, sự vật…chúng ta cũng không thể dùng một phương thức nào khác hơn là có mặt. Ngay đến một vấn đề, một khó khăn, một gian nguy, muốn giải quyết hay thắng nó, chúng ta cũng đành phải giáp mặt với chúng. Đó cũng chính là nguyên nhân phát sinh ra các khoa học. Có mặt chính là hiện hữu, là sống.

 

Dĩ nhiên sự có mặt chúng ta muốn bàn đến ở đây, trong khi tham dự thánh lễ cũng như  trong cuộc sống thường nhật, đòi hỏi những điều kiện rất cụ thể, rất thiết thực, rất quan trọng, đó là những điều kiện của thân xác, của cơ thể : tình trạng sức khỏe khả quan, không đói lả mà cũng không no nê hầu có sức mạnh về mặt thần kinh mà tỉnh táo ; sạch sẽ, ăn vận chỉnh tề… Ở đây chúng ta không bàn đến những khía cạnh đó. Tôi xin bàn về những yếu tố có thể nói là tâm lý tâm linh, đó là :

 

-          cảm giác (sensation)

-          chú ý ( attention)

-          chú tâm ( intention).

 

Để tránh nhàm chán, tôi không bàn theo thứ tự trên đây, nhưng viết xem ra « lung tung », nên  nếu bạn theo dõi được thì thật là hay. Ngoài ra,  tôi cũng xin được phép tự do trong việc dùng chữ, chẳng hạn như chú tâm sau đây tôi lại gọi là tâm tình .

***

(phần một: tâm tình

Trạng thái có mặt mà chúng ta bàn ở đây 

  không thể chỉ là sự có mặt đơn độc, vô duyên, của một mình cái xác, có thể chụp thành hình ảnh đăng trên báo,  khắc thành tượng phô trương ngoài đường, nhưng của toàn diện nhân cách ( personnalité). Về những sự có mặt « có đó nhưng không có đó », thiên hạ thấy mình có mặt đó nhưng tâm trí, tâm tình, tâm hồn  mình thì lại để nơi khác, thì không cần phải đợi đến tuổi già mới hiểu được như thế là thế nào.  Đến một tuổi nào đó, ai ai cũng đã phải trải qua những buổi tham dự sinh hoạt này sinh hoạt nọ một cách miễn cưỡng. Giả nhân gỉa nghĩa, làm bộ,  cũng là một sự có mặt miễn cưỡng, chỉ là bên ngoài, sự miễn cưỡng  này do chính mình đặt ra nhằm đạt được một kết quả nào đó.  Nghe đâu những người làm nghề tài tử đóng phim, diễn viên,  khi phải đóng vai kẻ hạnh phúc yêu đời ra riết, mặt nở như hoa ngày tết, mà trong khi đó lòng dạ, cuộc sống riêng tư thì như chiếc lá vàng mùa thu, thì khổ lắm, đến nỗi sau khi hạ màn, rút về  phòng riêng, thì việc đầu tiên là nốc vài ngụm rượu để xóa bỏ cái cảm giác đã lạc mất chính bản thân mình.

 

Tuy nhiên, không phải diễn viên nào cũng thế, tất cả tùy thuộc cách thức có mặt khi ở trên sân khấu, tùy thuộc nội tâm mình bị giằng co nhiều hay ít. Cũng là hành một nghề mà có người vui nghề, có người khổ nghiệp. Như trường hợp một anh thợ nọ, -tôi đọc trong một cuốn sách về tâm lý học,- vui nghề vui việc, khác với tất cả các bạn đồng nghiệp của anh ta. Giờ làm việc tan một cái là họ lôi nhau vào bar uống rượu. Rõ ràng họ cần xả đi cái cực nhọc của một ngày lao động, vì điều kiện làm việc quá cực nhọc, xưởng làm nóng như hỏa lò. Còn anh thì về hí hoáy thiết kế mảnh vườn bồng lai tiên cảnh với đầy tiểu xảo mới lạ, ánh sáng huyền ảo. Tìm hiểu kỹ ra thì mới biết anh lại là người hăng hái, tích cực nhất trong xưởng làm. Cứ khi nào có máy móc trục trặc là anh tự động « nhào vô » sửa, bất chấp cực nhọc khó khăn. Hỏi kỹ ra anh mới khai ra là  thương tình máy móc, không muốn chúng bị vứt bỏ. Đó là tâm tình của anh đối với sự vật khiến anh luôn năng động trong việc làm.

 

Có những hoàn cảnh trong đó con người bị bắt buộc phải giấu kín tâm tình mình thật sâu thật sâu nơi đáy lòng, nhưng họ vẫn có tâm tình, vẫn sống cho một niềm tin. Nhưng khi đó điều họ phải làm bên ngoài không thể gọi là có mặt. Người ta kể rằng thời Liên Xô Viết, cứ mỗi lần có meeting, khi bài diễn văn của ủy viên chánh trị vừa chấm dứt thì cử tọa thi đua nhau vỗ tay thật lâu không ai dám tự động ngừng. Vỗ tay như thế không thể gọi là vỗ tay cách có mặt.

 

Ấy thế cứ khi nào con người không thực sự tự do (không nên hiểu là vô kỷ luật ) như khi con người bắt buộc phải giả vờ, đóng kịch để được yên thân, không hăng hái, chỉ vì bị ép buộc, thì không có sự hợp nhất giữa hồn xác trong việc mình làm, trong cách mình sống, thì không thể sống trọn vẹn, đâm ra sống trong giằng co, giả tạo, và không cảm được niềm vui sống. Ngược lại, khi trong một việc làm có được  sự hợp nhất giữa cơ thể, tư tưởng, tâm tình, ý chí thì con người đạt được niềm vui, bất chấp hoàn cảnh người ngoài nhìn vào cho đó là khổ. Ý nghĩ, trí tưởng tượng, sự chú ý, chú tâm, đó chính là cái phần hồn, khi chúng ta nói « hồn xác kết hợp với nhau ».

 

Cái phần «tâm tình» mà tôi đã đề cập sơ qua trên đây là cái ý hướng thầm kín trong đáy lòng. Thí dụ làm một nghĩa cử xem ra là đẹp, nhưng ý hướng sâu thẳm trong lòng ( chỉ một mình biết được) lại là chỉ muốn có danh thơm tiếng tốt, thì đối với tôi là không có tâm tình. Trong một sinh hoạt, một sự hành nghề, người ta có thể làm với tâm tình hay không và nếu như không có tâm tình, không có ý hướng tốt đẹp trong thâm tâm thì không thể có mặt trong việc mình làm. Có thể đan cử một vài ví dụ, như trường hợp các người leo núi hay chơi một môn thể thao nào đó chỉ vì thích thú chứ không vì ham giầu, những nhà bác học, nghệ sĩ thực sự yêu nghề. Nhưng thực ra bất cứ ai yêu việc mình làm, bất cứ ai yêu cuộc sống thực tế hàng ngày của mình đều là sống với tâm tình. Dù chỉ là chăm sóc mấy con gà, con heo, ngọn rau.

 

Một điều quan trọng trong lãnh vực giáo dục là vấn đề chọn nghề, chọn việc, nếu như không có tâm tình với một nghề mà chỉ nhắm những cái lợi ngoại lai thì sớm muộn gì cũng đem lại khổ đau. Ví dụ như chọn nghề vẽ chỉ vì mơ viển vông  rằng mình sẽ là họa sĩ nổi tiếng, mỗi bức họa sẽ bán được cả trăm ngàn đô, nếu đó là động cơ chính yếu, thầm kín nhất, thì khi học vẽ không thể có mặt  tuy là cái xác ngồi đó trong lớp  và có nhiều cơ may là sẽ …bỏ nghề. Tâm tình, ý hướng bên trong, chính là cái lõi, cái hạt nhân, cái ruột của một việc làm, một cuộc đời.

 

Làm thế nào để có được một cái lõi, cái nhân, cái ruột cho mỗi hành động, cho cuộc đời mình ? Tôi nghĩ người ta có thể học hỏi nơi những bậc thầy đã đi trước hay còn đang sống trong các lãnh vực nội tâm như tâm lý, triết học, tâm linh, tôn giáo, qua sách họ viết hay chính cuộc sống của họ. Điều quan trọng là đem  ra thực hành. Rất tiếc là xem ra người ta chỉ coi tôn giáo như những tập tục và lễ nghi, coi nhẹ cái phần tu đức (ascèse) là cuộc sống nội tâm, với những rèn luyện phải có.

 

***

( phần hai : trị liệu tâm thần )

 

Tâm tình, như vừa trình bày trên đây, chính là cái phần tâm linh ( spirituel) trong mỗi hành động chúng ta làm, nhưng tâm tình không thể đứng lơ lửng, nó cần được mọc rễ trong một tâm lý lành mạnh, tôi muốn nói đến khả năng chú ý, khả năng làm chủ những ý nghĩ và hình ảnh trong tâm trí. Ví dụ một bác sĩ phẫu thuật yêu nghề, có tâm tình với nghề, muốn phục vụ sự sống,  mà thiếu khả năng chú ý, không thể  chú ý trong suốt cuộc giải phẫu thì  không thể hiện được cái tâm tình tốt đẹp đó, mà đâm ra thất vọng. Cũng như khi dự thánh lễ với ý hướng tốt đẹp, muốn tham dự cùng cộng đoàn cảm tạ ca ngợi Chúa, nhưng lại không có khả năng chú ý, không  thể «cầm lòng cầm trí», suốt buổi lễ bị ám ảnh bởi một vấn đề, một mối lo thì khổ thật !

 

Dẫu rằng không dễ gì phân biệt được giữa tâm lý, tâm linh, tôn giáo khi bàn đến cuộc sống nội tâm, nhưng khi học hỏi thì không nên lẫn lộn. Sau đó, chúng sẽ sáng tỏ hơn, chống đỡ nhau, bổ túc cho nhau. Vì thế, ở đây chúng ta đặt khả năng chú ý trong địa hạt tâm lý học.

Đâu là những trở ngại cho một cuộc sống tâm lý và tâm thần dồi dào ? Trước tiên, theo tôi, đó là một lối sống hay một hoàn cảnh xung quanh quá hung hăng đối với sức chịu đựng của hệ thống thần kinh, ví dụ truyền thanh, truyền hình, nhạc kích động mở bự hết ga 24 trên 24, tiếng xe cộ tầu bay tầu bò thi nhau inh ỏi, người đi tấp nập trước mắt suốt đêm ngày, phim ảnh coi không còn biết ngủ là gì….Trở ngại thứ hai là không đủ khả năng làm chủ những ý nghĩ và hình ảnh trong tâm trí, hoặc những thúc đẩy thầm kín. Nói tóm lại nếp sống tâm lý cũng đòi hỏi có hoàn cảnh thuận lợi bên ngoài, tùy nhu cầu của mỗi người. Ít ai thành công về nghề nghiệp mà không có những giây phút sống một mình trong ngày.  Và cũng cần một sự tập luyện để duy trì, phục hồi hay tăng cường khả năng chú ý.

Mỗi người tìm hiểu cái phần tâm lý trong mình một cách, như có ngườì nghĩ rằng chỉ cần dùng nội quan  (introspection) là đủ. Tuy nhiên, chúng ta sống với sự tiến hoá của toàn thể nhân loại. Và thật đáng tiếc nếu chúng ta không hiểu qua một vài khám phá trong tâm lý học kể từ ngày ông Freud đưa ra ý niệm tiềm thức (le subconscient). Ngoài cái ý niệm này, thiên hạ còn đồng ý với nhau về hai thực tại nội tâm khác, đó là  ý thức ( le conscient) và vô ý thức ( l’inconscient).

 

Để chăm sóc sức khoẻ cho tâm lý (psychologie) và tâm thần (psychisme) , có hai khoa trị liệu, đó là tâm thần học ( psychiatrie),thuộc y học vì người chữa trị là thầy thuốc cho toa ấn định thuốc,   hai là những liệu pháp tâm lý ( psychothérapies) mà tôi xếp vào khoa tâm lý học hơn là y học vì người chữa trị không phải là thầy thuốc và không có quyền ấn định thuốc.

 

Về những phương pháp trị liệu thuần tâm lý, có lẽ là phần đông trong chúng ta đã nghe nói  đến ông Freud và khoa điều trị các khổ đau tâm thần bằng phân-tâm-học ( psychanalyse) do ông ta sáng chế ra, với cái hình ảnh là bệnh nhân nằm trên ghế dài (nhắm mắt) tự do nói lung tung, đôi khi điều trị viên hỏi hoặc gợi ý bằng một hai câu. Nhưng theo chỗ tôi hiểu thì phương pháp này thật phức tạp, kéo dài trong  thời giờ và kết quả không đảm bảo, vì chủ trương của nó là đi tìm moi móc trong tiềm thức những khúc uẩn để đưa chúng ra ánh sáng của ý thức, nhưng ai là người thực sự hiểu được tiềm thức của tôi, kể cả chính tôi? Một trong những bất tiện khác nữa của phương pháp này là con bệnh hoàn toàn lệ thuộc điều trị viên, ,  nên thường xảy ra hiện tượng «chuyễn dời » (transfert ), con bệnh đâm quá lệ  thuộc người trị bệnh, như đâm phải lòng chẳng hạn.

Bên cạnh phương pháp cổ truyền đó, có những phương pháp trị liệu mới, rất gần với triết học và cả với khoa tu đức của các tôn giáo; nhờ thế có thể dùng chúng làm nghệ thuật sống, áp dụng cho bất cứ ai đều là tốt. Điểm nổi bật của những phương pháp trị liệu mới này là bệnh nhân tham dự tích cực vào việc trị liệu, làm chủ việc tiến lui, thành công hay thất bại, người chữa trị chỉ đóng vai trò dẫn dắt, có thể nói là cả hai bên đều học hỏi tìm hiểu, vì chính người điều trị cũng đã áp dụng cho chính bản thân mình ( làm sao giúp người khác nếu như chính mình chưa từng thí nghiệm trên chính bản thân) . Một điều quan trọng nữa là các trường phái này tuy không phủ nhận tiềm thức, nhưng không quan tâm hoặc đả động đến nó, ít nhất  là trong giai đoạn đầu của thời gian điều trị, vì họ muốn lo hiện tại thay vì tìm hiều quá khứ, muốn tăng cường khả năng tự chủ, khả năng ý thức thay vì bới móc những gì là u tối.

Sở dĩ tôi đã đề cập sơ qua về các phương pháp trị liệu tâm thần, vì ba lý do :

1) Hiện nay những khó khăn, khổ đau về mặt tâm thần, thiên hạ không còn giấu kín chúng trong thâm tâm, người ta đem chúng ra bàn gần như mỗi ngày trên truyền hình, và sách báo về các vấn đề tâm lý cũng tràn ngập trên các quầy bán sách. Như thế cũng là một điều hay mà cũng khiến bớt chú ý đến chúng hoặc khiến người phàm tục không biết đâu mà phó thân. Mà nếu không giải quyết các khổ đau nội tâm thì làm sao sống vui ? Vậy tốt nhất là nên hiểu biết một số giải pháp.

2) Những phương pháp trị liệu tâm thần không phải là lý thuyết hay xa vời nhưng thiết thực. Hiểu biết chúng, chúng ta hoặc phục hồi sức khoẻ về tâm thần, hoặc vun trồng mảnh vườn tâm lý mình, xây dựng một triết lý sống độc đáo giữa một xã hôi đang làm phân tán nhân cách. Nói cách khác dẫu như có cảm giác là mình vững mạnh về mặt tâm lý cũng cần biết các phương pháp trị liệu này.

3) Thuở xưa, các khoa tu đức giúp con người sống vui, nhưng bây giờ vì không còn mấy ai là gương mẫu hoặc chưa được cập nhật hóa nên chúng không còn lôi cuốn,  trong khi đó những phương pháp trị liệu tâm thần mới giúp sống vui và chính chúng sẽ giúp trở về với những giá trị của triết học và tôn giáo.

Trong những trạng thái phân tán nhân cách như suốt ngày sống trong mộng, nửa tỉnh nửa mê, bần thần, vui quá đáng, lo âu, trầm cảm, đều có thể gọi là tâm bệnh, và cần được chữa trị, kẻo không cuộc sống trở thành đen tối, đó là những trạng thái trong đó tiềm thức trở nên quá mạnh, như nước lụt, bao phủ ý thức. Vậy tiềm thức là gì ? Chúng ta có thể ví tiềm thức như một cái nhà kho tối mù, đầy nghẹt tất cả những gì chưa được « tiêu hoá », tất cả mọi kinh nghiệm sống vui cũng như khổ, nhưng chưa sống  trọn vẹn. Nhất Hạnh  có một hình ảnh - mà tôi rất thích-  để mô tả tiềm thức. Ông gọi đó là cái nhà hầm ( sous- sol) từ đó thỉnh thoảng khổ đau, sợ hãi mò lên nhà trên, là ý thức ( le conscient), chúng  như những người khách xa lạ, kỳ cục, nhưng nếu được tiếp đón, thuần phục sẽ bớt đi sự quấy nhiễu.

Kỳ tới chúng ta sẽ bàn đến những cách thức đơn giản hữu hiệu nhằm « hóa giải »  tiềm thức, và đề cập đến hai yếu tố quan trọng khác của nghệ thuật sống « có mặt », là   cảm giác (sensation) và chú ý (attention), chưa bàn đến được trong kỳ này.

Mễ Duy

Lời hay Ý đẹp

Đàn ông - đàn bà

 

*Con ruồi nó chết vì giọt mật. Đàn bà chết vì đàn ông nhiều lời. Đàn ông chết vì vợ đẹp. Cha mẹ chết vì con bất hiếu. (Kant)

 

*Đàn bà lo cho tương lai mình mãi đến khi lấy chồng là hết. Đàn ông, lo tương lai, chỉ sau khi lấy vợ. (W.H.C)

 

*Đàn ông nói điều mình biết. Phụ nữ nói điều mình thích. (J. J. Rousseau)

 

*Nên khen người đàn ông khôn sau lưng họ, và chỉ nên khen người đàn bà trước mặt họ. (Tục ngữ Pháp)

 

*Đàn ông làm ra luật pháp, đàn bà tạo nên phong tục. (De Segur)

 

*Đàn ông thường yêu những kẻ mà họ không kính trọng. Đàn bà thì trái lại chỉ yêu những người mà họ cảm phục.” (Sanial Dubay)

 

*Muốn có hạnh phúc với người đàn ông, phải hiểu họ rất nhiều và y6u họ. Ít ít cũng được. Muốn có hạnh phúc với đàn bà, thì phải yêu họ thật nhiều và đừng nên tìm hiểu họ. (H.B - Nectar in a nutshell)

 

*Đàn ông yêu ái tình trước rồi cuối cùng mới yêu người đàn bà. Đàn bà thì trái lại, yêu đàn ông trước rồi cuối cùng mới yêu ái tình. (Remy De Gourmont)

 

*Tôi thích những người đàn bà không có dĩ vãng và những người đàn ông đầy tương lai. (Wells)

 

*Lúc còn là tình nhân, đàn ông là người đau khổ nhất. Lúc thành vợ thành chồng, đàn bà chịu thiệt thòi nhiều nhất. (Shakespeare)

 

*Đời sống của người đàn ông là Danh.; đời sống của người đàn bà là Tình. (Honore De Balzac)

 

*Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm. (Tục ngữ Anh)

 

*Đàn ông đến từ Hoả Tinh, đàn bà đến tử Thuỷ Tinh. (Một nhà văn người Mỹ

Có chăng

Nỗi niềm Hạnh phúc?

                                                      Mary Vũ

 

Kính thăm các anh các chị,

 

Lời nói đầu tiên, chắc hẳn phải là lời van xin rất có lỗi! gửi đến các anh chị. Có thể nói rằng em út xưa nay vẫn là người có lỗi. Hứa hẹn đủ điều, mà chẳng thực hiện được bao nhiêu.

Thật ra, em có cái cố tật là nhiều khi không lượng sức mình, cứ hứa “lèo’ rồi lại để mọi chuyện trôi sông, lỡ một buổi chợ. Mời đây, em gặp anh chủ bút nhân ngày anh ra mắt sách đầu đời, được nhắc nhở là sao lâu nay cứ im tiếng.

Thú thật với các anh chị, sở dĩ lâu nay em không có ý kiến ý còng gì với nội san của mấy anh, vì tụi em lúc này lu bu lắm. Cũng cười cười nói nói thật đấy. Nhưng trong héo ngoài tươi đấy các anh chị ạ. Ai nhìn vào cứ tưởng bọn em hạnh phúc lắm. Nhưng sự thật thì hỡi ôi! Sợ lắm.

Hạnh phúc, hiều theo nghĩa nào đây. Nếu là ngày hai bữa “vỗ bụng rau bình bịch”, thì bọn em vẫn có đấy. Rất hạnh phúc là đàng khác. Nếu hiểu là con đàn cháu đống, ăn học đề huề, công thành danh toại, vv… thì tưởng cũng nên đặt lại.

Thú thật là hôm gặp các anh trong gia đình An Phong Sydney, em có hứa là kỳ này sẽ viết bài cho báo nhà. Nhưng hứa rồi mới thấy sợ. Biết viết gì đây. Đang loay hoay tìm kiếm đề tài, thì có chị bạn đến bảo: bồ hay viết lách, sao không viết về hạnh phúc cuộc đời gì cả vậy?

Vâng, hôm nay, thể theo lời yêu cầu của chị bạn, em đi siêu tầm sách báo tìm xem có chỗ nào nói về hạnh phúc là gì ... thì may quá, giở chồng sách báo cũ, bắt được mấy tư tưởng này do một bạn gửi tặng.

Tư tưởng trong sách bạn gửi cho em, không có gì mới lạ. Nhưng, mới lạ chỉ ở chỗ là nhiều khi mình quên rằng hạnh phúc là chuyện xưa như trái đất. Chỉ mới nếu mình nhìn nó theo cặp mắt mới mẻ thì mới, chứ chẳng có gì hết.

Hôm nay, bấn xúc xích về chuyện kiếm đề tài để viết cho báo, em xin mạn phép bàn về chuyện này. Đó là chuyện hạnh phúc trăm năm, hay vài năm… Xin anh chị nào biết rồi, thì cho em xin hai chữ “đại xá”. Hay ta nghe lại nếu thấy vui là được, phải không các anh chị?

Cũng xin thú thật với các anh chị thêm một điều là mỗi lần nói tiếng “hạnh phúc” lòng em thấy nó như sôi sục, dữ lắm. Mặc dù tuổi tác của bọn mình bây giờ không còn được như thế. Tiếp xúc nhiều bạn bè cùng trang lứa, ai cũng đều cùng tâm trạng như em thôi. Mỗi người kể cho em nghe thế nào là hạnh phúc, như họ quan niệm. Em nghe rất nhiều, nhưng chẳng nhớ được bao nhiêu. Có lẽ cũng tại vì trí nhớ của em bây giờ đã cùn. Vậy, để anh chủ bút được thêm dăm phút hạnh phúc,  em cố nhớ và ghi lại ở đây ý kiến của nhiều bạn về hai chữ hạnh phúc như sau:

1.      Hãy đổi cách suy tư.

Đổi cách và sống đích thực một ngày của đời mình, coi như ngày cuối cuộc đời. Tựa như những người mắc bệnh trầm kha, hết thuốc chữa. Hoặc, người vừa gặp nạn, không còn nhiều thì giờ để sống. Hãy đi đây đó, làm những việc mà lâu nay mình mong ước. Tìm đến bè bạn hoặc về với gia đình lâu nay xa cách. Bởi vì sẽ không còn cái gọi là “ngày mai” để mình thực hiện điều mình muốn làm nữa đâu.

2.      Tập thói quen ghi nhật ký.

Hãy ghi vào tập nhỏ những gì xảy đến mỗi ngày. Ghi lời lẽ dễ thương của đứa con, bọn cháu. Bởi vì trí nhớ vẫn là trí của cõi lòng quên. Mình không thể nhớ được những lời nói nhẹ nhàng dễ mến của cháu con nếu mà không ghi. Có thế, mọi ưu tư phiền nuộn sẽ được giải toả rất nhanh.

3.      Cứ coi mọi việc đều có lý sự của nó.

Thử nghĩ xem mình nên kể điều gì về cuộc đời mình đã sống cho con cho cháu nghe.Cả điều tầm thường lẫn việc quan trọng, cứ vẫn kể. Miễn nó làm mình sung sướng khi nhớ đến.

4.      Đừng để chuyện nhỏ làm mình bận tâm.

 Đừng những chuyện vặt vãnh làm mình bực tức nhớ dai.  Bởi lẽ nó không đáng để mình ưu tư như thế. Cứ mỉm cười vẫy chào cảm tạ khi người lái xe lạ không cho mình vào chỗ đậu dù chờ quá lâu. Hắn bất lịch sự vì bị mụ vợ cằn nhằn hoặc có đang vấn đề chưa giải quyết. Bạn lỡ tầu điện ư? Bực dọc tiếc nuối đâu giải quyết được gì! Hãy làm làm ly cà phê nóng, chờ chuyến sau.   

5.      Làm công việc mà mình bỏ lâu quá. Những việc chẳng thích làm chút nào, bây giờ là lúc nên nhúng tay mà làm. Càng trì hoãn càng làm mất nghị lực và đầu óc đâm nặng nề.

6.      Thay đổi cố tật cùng thói quen.

Đời người dễ thành nhàm chán với các thói quen khiến mình làm như cái máy. Thành thử, nên tạo hứng khởi trong cuộc sống mà tìm ra điều mới mẻ trong cái cũ. Nếu Chủ nhật là ngày được ngủ nướng, sao không dậy sớm ra công viên mà ăn sáng. Sẽ thấy ngày dài đáng sống hơn.  

7.      Giữ vững lập trường.

Hàng xóm mới có hồ bơi. Bạn bè mua xé mới cáu cạnh ư? Kệ họ. Họ làm việc chết xác, suốt tuần mới được như thế. Dâu có thì giờ mà vui chơi chúng bạn. Lo cho gia đình, như mình đâu.

8.      Dọn dẹp, cho đi những thứ không cần.

Quần áo hết mốt, bỏ xó cả năm trời. Đồ đạc sách báo chất đống, không dùng đến. Giữ mà làm gì. Mang cho từ thiện, giúp bạn trẻ vừa lập gia đình có hơn không? Ai sướng hơn ai?

9.      Biết nói tiếng “không”.

Không cần làm như họ. Đời người đã quá bận rộn. Làm không hết việc. Cứ bỏ mọi chuyện, thử nghĩ đến mình. Sẽ thấy vui.

10.    Trở về mái nhà xưa.

Nhớ yêu thương người tình như thuở mới quen. Tình yêu đôi lứa vẫn cần trau chuốt, điểm trang. Như mọi thứ dính liền cuộc đời mình.

11.    Đừng cợt nhả với người thân.

 Là người thân, ai cũng muốn được tôn kính. Được đối xử như bạn bè đầy trân quí. Quí trọng người sẽ quí trọng mình

12.        Nói tiếng yêu đương với người nhà.

Như nói với người mình vừa mới thương yêu. Cất tiếng khen ngợi chẳng thiệt mất đi một chút gì. Có khi được khen lại, giống như thế.

13.        Chìa vai cho bạn kê đầu.

 Việc này kể ra khó làm. Nhưng nếu bạn bè cần đến, sao ta nỡ chối từ.

14.    Liên lạc với bạn cũ.

Mất liên lạc bạn bè xưa cũ, phải chăng vì bận rộn? Cũng nên tái lập lại bang giao.

15.        Trở về với cỏ cây.

Cũng nên tái tạo vườn nhà một ít hoa. Hoặc rau cỏ. Vì hoa cỏ làm người mình thêm phấn chấn.

16.        Đi biển.

Ra biển, hay lên đồim leo núi là những thú tiêu khiển đem lại sự thoải mái trong tâm hồn. Gió biển, sóng vỗ, phơi nắng hay dạo bộ trên cát.. đều là dịp thư giãn, bớt căng.

17.        Vui niềm sáng tạo.

Vẽ tranh, làm vườn, chơi nhạc, nấu nướng đều là cơ hội tạo niềm vui ít thấy.

18.        Hít thở khi trong lành.

Du ngoạn ngoài trời hoặc mở cửa sổ để đón nhận không khí trong lành, là việc rất nên làm.

19.        Đi bộ.

Một kiểu tập luyện để tái tạo thân xác. Ngày nay, ta có thể chữa nhiều bệnh bằng việc đi bộ, chảy mồ hôi. Mỗi ngày chừng nửa tiếng.

20.        Mướn phim tập hoặc băng dĩa ca nhạc.

Những màn kịch hài khiến ta cười vui thoải mái là liều thuốc vô giá đem lại niềm hạnh phúc hiếm quý.

21.        Thay đổi cách bài trí trong nhà.

Đây là cách tái tạo niềm vui ít thấy. Chẳng cần mua sắm gì thêm, chỉ cần đổi chỗ cũng đã vui.

22.        Lâu lâu cũng nên đăng ký đi xa.

Đi nghỉ mát nơi xa, cắm trại về đêm, vv. Đều là kinh nghiệm hiếm có. Rất nên làm.

23.        Mời bạn bè đến ăn.

Cũng nên có những buổi mời mọc  bạn bè đến nhà chơi. Uống chút trà. Nhâm nhi chút bánh, rượu, thịt nướng sẽ thấy đời đáng sống hơn.

24.        Cười nhiều lên.

Mỉm chi hay cười rộ, đều cần thiết. Cứ thử mà xem, sẽ thấy mình vui không muốn dứt.

25.        Giúp người khác có ngày vui.

Đây là một việc khiến ta thêm bận. Bận rộn, mà vui. Sao không thử. Cứ thử tình nguyện làm việc gì đó giúp hội từ thiện, giúp người già yếu đang cần quan tâm. Cần người tiếp chuyện. Nhất nhất đều làm người khác vui. Người người nếu vui , mình sẽ vui theo.

 

Trên đây là những đề nghị có hơi khó làm đối với bạn nào còn ở các nước tiến chậm. Khó lòng thực hiện. Như các cụ thường nói: có thực mới vực được đạo. Dù đó là đạo Chúa hay đạo làm người. Tuy nhiên, trong khuôn khổ cho phép, vẫn có thể thực hiện, chỉ một vài đề nghị nho nhỏ, rất vô tư. Không tốn kém lắm đâu. Nào, xin dám đề nghị các anh các chị nào lâu nay quá bận rộn với đủ thứ chuyện công-tư, đều có đủ. Cứ thử một lần xem, sẽ thây ngay thôi.

 

Và đó là những điều em dám mạo muội gửi đến các anh các chị. Ít ra đây cũng là bằng chứng cho thấy em đâu có quên anh chị nào đâu.

Mary Vũ. 

Thiên Chúa

có can thiệp không?

Một vài suy nghĩ về

phép lạ.

______________________________________

Lê Văn Khuê

2008

 

Trong những năm vừa qua, khi theo dõi tình hình thế giới, tôi chứng kiến trên truyền hình cũng như trên báo chí không biết bao nhiêu là thiên tai, đại họa giết hại muôn vàn sinh mạng con người, như vụ tấn công khủng bố tòa tháp đôi ở New York ngày 11/9/2001, chiến tranh ở Afghanistan, đại họa sóng thần ở Ấn Độ Dương ngày 26/12/2004 và mới đây nhất là cơn bão Nargis tại Myanmar. Chừng ấy con người với tất cả phẩm giá hiện hữu và là đỉnh cao của tạo dựng trong phút chốc trở về với hư vô. Là người công giáo tôi phải tự hỏi: Vậy Thiên Chúa Toàn Năng, Yêu thương và Nhân Hậu ở đâu mà không can thiệp để cho trái đất bớt đi những thiên tai, đại họa? Đồng thời, tôi chứng kiến chung quanh mình có những người không ngớt cầu nguyện để được lành bệnh, để tai qua nạn khỏi. Liên kết các sự kiện này lại với nhau và tôi tự vấn nạn: Hơn hai trăm ngàn người bị mất mạng trong đaị họa sóng thần năm 2004 mà không được cứu thoát thì cá nhân người bệnh này cầu xin cho hồi phục, người du khách kia cần xin đi đến nơi về đến chốn làm sao mà được toại nguyện? Đi lùi xa hơn chút nữa, sáu triệu người Do Thái là người cùng quê hương với Đức Giêsu bị tàn sát trong thảm họa Holocaust trong thế chiến thứ hai mà Thiên Chúa có ra tay can thiệp đâu mặc dù vạn vạn người trong số họ đã không ngớt cầu nguyện với Thiên Chúa là Thiên Chúa của họ và cũng của chúng ta. Vậy thì Thiên Chúa có thực sự can thiệp vào tiến trình của thiên nhiên và lịch sử của con người không? Nói cách khác, Thiên Chúa có làm phép lạ đi ngược lại định luật tự nhiên không? Và lời cầu nguyện của con người có tác dụng gì ở đây?

 

I. Những sự kiện và những vấn nạn.

 

Khi nhìn vào lịch sử hình thành của vũ trụ cũng như của sinh vật và của con người, chúng ta không thể không thấy rằng có những định luật tiến hóa phổ quát, đặc biệt định luật tuyển chọn tự nhiên (cá lớn nuốt cá bé hay mạnh được yếu thua) đã làm cho vũ trụ và thế giới có hình thái của ngày hôm nay. Quá trình tiến hóa này suy cho cùng không loại bỏ cũng không bao hàm một Đấng Tạo Dựng từ khởi nguyên hay một mục đích tối hậu. Tuy nhiên đối với người hữu thần, nếu mọi sự từ hư vô mà có thì chẳng giải thích được gì, do đó người hữu thần chúng ta tin Thiên Chúa là khởi nguyên của những định luật này. Nhung khi đã được tạo dựng thì Thiên Chúa có còn can thiệp một cách siêu nhiên vào những định luật này nữa hay không? Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo viết rằng: ”Thiên Chúa quan phòng chăm sóc mọi sự cách cụ thể và trực tiếp, từ những cái nhỏ nhất đến những biến cố vĩ đại nhất của thế giới và lịch sử” (đoạn 303). So với thực tế diễn ra trong thiên nhiên (sóng thần, bão, núi lửa, động đất) và trong lịch sử loài người (thảm họa Holocaust, cuộc xâm lăng Iraq), nói như vậy có phải là nói ngoa không? Hay sau khi đã tạo dựng vũ trụ với những định luật của nó, Thiên Chúa đã bỏ mặc cho vũ trụ tự hoạt động mà bất chấp những hậu quả. Hay Thiên Chúa bị lâm vào cảnh người phù thủy tập sự khi đã thả lũ kiêu binh ra thì không thể kềm chế chúng được nữa? Đây có phải là dấu hiệu của sự yếu kém hay thiếu thận trọng?

 

Điều này càng rõ ràng hơn khi chúng ta nhìn vào những thảm họa chính con người tạo ra cho con người. Thảm họa điển hình trong lịch sử là việc Đức Quốc Xã giết hại 6 triệu người Do Thái trong thế chiến thứ hai. Tại sao Thiên Chúa toàn năng, yêu thương nhân hậu lại có thể làm ngơ khi người ta mở những cái van lò khí độc để giết hàng loạt người? Nếu Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu thấy được hậu quả của thảm cảnh nầy thì Thiên Chúa chỉ cần cho Hitler bị đột quỵ là đủ cứu hàng triệu sinh mạng rồi. Nếu thiên tai (sự dữ thể lý) Thiên Chúa đã không can thiệp thì trong thảm họa do lòng ác của con người làm ra (sự dữ luân lý) thì Thiên Chúa không những không can thiệp mà lại không can thiệp được bởi vì con người là những thụ tạo thông minh và tự do, tự do đến nỗi có thể khước từ chính Đấng tạo dựng mình ra. Vậy thì Thiên Chúa cũng bó tay trước cái ác của con người.

 

Nếu Thiên Chúa không can thiệp cũng như Thiên Chúa bị bó tay thì phép lạ sẽ được hiểu làm sao đây và lời cầu nguyện của chúng ta có tác dụng gì? Phép lạ theo định nghĩa ngày hôm nay là một điều xảy ra đi ngược lại với định luật của tự nhiên. Ví dụ, một người bị bệnh ung thư gan giai đoạn cuối thì đương nhiên sẽ ra đi trong một thời gian rất ngắn, nhưng không hiểu sao lại được bình phục hoàn toàn. Đó là phép lạ. Vậy Thiên Chúa có làm phép lạ không? Thiên Chúa đã không can thiệp vào những thiên tai để cứu bao nhiêu sinh mạng cũng như Thiên Chúa đã không ra tay trong thảm họa Holocaust thì lý gì mà Thiên Chúa đi ngược lại định luật tự nhiên để cứu mạng những cá nhân riêng lẻ? Hans Kung viết: “Một sự can thiệp của Thiên Chúa vào thế giới sẽ là một điều phi lý, bởi vì hậu quả sẽ không lường được nếu thực sự Thiên Chúa cho tạm ngưng một lúc những quy luật của hệ thống mà chính ngài đã đặt ra. Thiên Chúa đã tự buộc chính mình bởi những định luật giải thích mọi sự đồng thời chỉ được giải thích trong chính Ngài.“ (Hans Kung, Does God Exists, Doubleday & Company, New York 1980, trg.653).

 

Nếu thực sự như vậy thì lời cầu nguyện của chúng ta có tác dụng gì? Đã có người kêu lên: “Tôi đã cầu nguyện biết bao nhiêu lần mà kết quả có thấy đâu?” (Christopher Hitchens, God Is Not Great, Hachetle Book Group, New York, 2007 trg.3). Quả vậy, trong những thời kỳ các loại bệnh như dịch hạch, lao phổi hay đậu mùa hoành hành và khi mà chưa có liệu pháp, thì thử hỏi một bệnh nhân tha thiết cầu nguyện cho được bình phục thì có được Thiên Chúa nhậm lời chăng? Và nếu người đó được nhậm lời thì tại sao vô vàn bệnh nhân khác lại không được? Nếu thực sự Thiên Chúa nhậm lời hết thảy thì mỗi lần có cơn dịch hoành hành, con người cứ chạy vào nhà thờ mà cầu Chúa cho khỏe chứ bỏ công nghiên cứu liệu pháp và chữa trị làm gì cho mất công. Và như thế thì ngày nay con người đã chẳng có thuốc chống lao và cũng chẳng tiêu diệt hoàn toàn bệnh dịch hạch và đậu mùa. Cũng vậy, nếu Thiên Chúa cứ nghe con người cầu xin mà chận đứng các vụ động đất hay những cơn sóng thần thì ngay nay con người đã chẳng có máy đo địa chấn để cảnh báo trước cho người dân đối phó với thiên tai.

Đó là những sự kiện và vấn nạn về sự dữ trong thiên nhiên và sự dữ do con người làm ra mà người tín hữu ngày hôm nay không thể không đặt ra và tự đi tìm cho được câu trả lời.

 

II. Câu trả lời.

 

Phải nói ngay từ đầu là không dễ gì mà có một câu trả lời hoàn toàn thỏa đáng về sự dữ và đau khổ mà chúng ta chứng kiến mỗi ngày, mỗi giờ. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo viết: “ Nếu Thiên Chúa là cha Toàn Năng, Đấng sáng tạo nên thế giới có trật tự và tốt lành , chăm sóc mọi thụ tạo, tại sao lại có sự dữ? Trước câu hỏi không thể tránh và khẩn thiết này, vừa đau thương, vừa bí nhiệm, không thể có câu trả lời ngắn gọn và đầy đủ được”. (đoạn 309). Chính thánh Augustino cũng đã vật lộn gay gắt với câu hỏi nầy: “Tôi đã đi tìm hiểu nguồn gốc của sự dữ nhưng không tìm ra lời giải đáp”. Thực vậy, chính vì không giải thích được thực tại của đau khổ trong đời sống con người và trong lịch sử nhân loại mà nữ văn sĩ Simone de Beauvoir đi đến chỗ tuyệt vọng, nhân vật Ivan Karamozov trong tiểu thuyết “Anh Em nhà Karamazov” của Dostoevsky cũng như nhà văn Albert Camus đã nổi loạn khước từ Thiên Chúa, và biết bao người theo chân họ để trở thành vô thần (Hans Kung, On Being A Christian, Doubleday & Company, New York 1976, trg.431). Cho dù không thể ngắn gọn và đầy đủ, nhưng cũng phải tìm cho ra câu trả lời.

 

Theo Hans Kung, trước thảm cảnh Holocaust, người ta dễ đi đến chỗ chối bỏ sự hiện hữu cũng như quyền năng và sự yêu thương của Thiên Chúa. Nhưng chủ nghĩa vô thần có phải là lời giải đáp không? Thái độ vô thần có giải quyết tốt hơn sự hình thành của vũ trụ và của con người không? Câu trả lời là không. Và Hans Kung vì không thể giải thích được về mặt lý trí tại sao Thiên Chúa không can thiệp, Thiên Chúa không ngăn chặn thảm họa Holocaust, ông đề nghị trước những thảm cảnh tương tự chúng ta chỉ có thể có thái độ giữ im lặng và tin tưởng như ông Gióp trong Sách Cựu Ước (Hans Kung, Credo, editions du Seuil, Paris 1996 trg.120-121). Trước những tổn thất nặng nề giáng lên tài sản của ông, trước cái chết đau thương của con cái ông, trước những đớn đau nơi thân xác và thống khổ trong tâm hồn, ông vẫn một mực tin Thiên Chúa hiện diện với ông, giữ gìn ông không phải khỏi đau khổ mà ngay trong đau khổ. Đó là lòng tin thác không lay chuyển vào một Thiên Chúa là tình yêu và là ánh sáng bất chấp và ngay trong đêm tối dày đặc.

 

Vậy thì tại sao Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng lại không tạo dựng một thế giới thật hoàn hảo để không có một sự dữ nào xuất hiện? Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo trả lời: “Xét theo quyền năng vô biên Thiên Chúa vẫn có thể tạo dựng được điều tốt hơn. Nhưng trong sự khôn ngoan và nhân hậu vô biên của Người, Thiên Chúa đã tự ý sáng tạo một thế giới trong tiến trình hướng về sự trọn hảo tối hậu. Theo ý định của Thiên Chúa, sự tiến hóa này gồm có sự vật này xuất hiện và vật khác biến đi, có cái hoàn hảo hơn và có cái kém hơn, có xây đắp và có tàn phá trong thiên nhiên. Vì vậy bao lâu mà cuộc sáng tạo chưa đạt được sự trọn hảo của nó, thì cùng với điều tốt thể lý, cũng có sự dữ thể lý“(đoạn 310). Hồng y Christoph Schonborn, chủ tịch ủy ban soạn thảo sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo giải thích thêm: Khi nói đến Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo Toàn Năng, người ta thường nghĩ đến một Đấng vì toàn năng nên bắt buộc phải tạo ra mọi sự đều hoàn hảo. Thiên Chúa không phải là ông thợ làm đồng hồ hay là người làm nên những cái máy. Người là Đấng tạo nên những “sinh linh”, tức những thụ tạo trong trạng thái hình thành, có một khởi đầu, một giai đoạn phát triển và một kết thúc. Nói Thiên Chúa tạo nên những “sinh linh” là nói rằng thụ tạo tăng trưởng trong tìm tòi, khi thất bại khi thành công, khi gặp may khi gặp rủi, khi gặp lành khi gặp dữ, nhưng nói chung điều lành, điều may luôn luôn nhiều hơn và lớn lao hơn điều dữ (xem http://www.cardinalschonborn.com). Hồng y Chistoph Schonborn đưa ra ví dụ cơn sóng thần năm 2004. Tuy là một thảm họa tàn phá ghê gớm nhưng lại là một hiện tượng thiên nhiên cần thiết cho sự sống trên hành tinh của chúng ta, bởi vì sự di động của những mảng vỏ trái đất tạo nên sự động đất nhưng đồng thời cũng là một trong những điều kiện để trái đất có được một nhiệt độ trung bình ổn định, mà không có nó thì hẳn đã không có sự tiến hóa của sự sống trên trái đất.

 

Một đặc tính khác của “sinh linh” trong tiến trình hoàn thiện là khả năng tự mình hoạt động, điều mà sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo gọi là “sự cộng tác của các thụ tạo”. “Thiên Chúa không chỉ cho các thụ tạo hiện hữu, nhưng cũng cho chúng phẩm giá tự mình hoạt động, làm nguyên nhân và nguyên lý cho nhau và nhờ đó mà cộng tác vào việc hoàn thành ý định của Người”. (đoạn 306) Chính vì thế mà Thiên Chúa không một mình can thiệp để tiêu diệt bệnh dịch hạch hay đậu mùa mà Người đã để cho con người tự tìm ra thuốc đặc trị, cũng như Người cũng đã không ngăn chặn các vụ động đất để cho con người tự chế ra máy đo địa chấn. Đó chính là sự mời gọi cộng tác của Thiên Chúa và sự đóng góp của con người vào công trình sáng tạo thế giới, đồng thời cũng phản ánh được điều mà Giáo Hội dạy: “Thiên Chúa đã cho sự dữ xảy ra và một cách mầu nhiệm Người đã biết cách rút lấy điều lành từ sự dữ. (đoạn 311)

 

Nếu thế giới trong tiến trình hướng về sự trọn hảo tối hậu theo những định luật tự nhiên do Thiên Chúa đặt ra cùng với sự cộng tác của thụ tạo thì còn có thể nói đến sự can thiệp siêu nhiên của Thiên Chúa, có thể nói đến phép lạ không? Nếu hiểu phép lạ theo nghĩa là đi ngược lại định luật tự nhiên thì, theo thiển ý, có thể không thể có phép lạ cho tập thể cũng như cho cá nhân. Tuy nhiên sách Giáo Lý Công Giáo của Hội Đồng Giám Mục Hà Lan gợi ý rằng phép lạ hiểu theo nghĩa là một bệnh nhân cầu xin Chúa cho hồi phục, và trong quá trình, tìm ra được một bác sĩ giỏi chữa anh khỏi bệnh. Như vậy phép lạ xảy ra khi tìm ra được bác sĩ có chuyên môn giỏi mà không ngược lại định luật tự nhiên của bệnh tình. Ở đây không có sự can thiệp siêu nhiên của Thiên Chúa đi ngược lại định luật tự nhiên mà là sự cộng tác chuyên môn của con người.

 

Vậy nếu Thiên Chúa không can thiệp vào quy luật tự nhiên thì lới cầu nguyện của chúng ta có tác dụng gì nơi Thiên Chúa? Trong trường hợp bệnh nhân ở trên, rõ ràng là Chúa không can thiệp vào bệnh tình của người đó, nhưng có thể Chúa cho gặp được ông bác sĩ giỏi, là điều chẳng đi ngược lại định luật tự nhiên chút nào. Đối với người tin, thì sự gặp gỡ đó là một hồng ân của Thiên Chúa, nhưng đối với người không tin thì đó chỉ là sự trùng hợp may mắn. Theo Hans Kung, “Thiên Chúa là Đấng tự do tuyệt đối nên người có thể hành động một cách tự do, nghĩa là người hành động mà không cần một thứ phép lạ nào, mà không cần phá vỡ luật nhân quả” (Hans Kung, Does God Exist, Doubleday & Company, New York 1980, trg.653). Hơn nữa, Hans Kung còn nói rõ thêm rằng “ Thiên Chúa có thể nói với con người và trong nghĩa nầy có thể can thiệp. Nhưng đây là sự can thiệp và một hành động xảy ra trong sâu kín của một sự tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Như vậy con người có thể được Thiên Chúa nói với trong hoàn cảnh đặc biệt riêng tư của mình. Con người có thể thấu hiểu một ý tưởng, một quyết định như một sự soi sáng thực sự của Thiên Chúa cho chính mình.” (sđđ)

 

Trong quá trình tìm hiểu về vấn đề nầy, liên quan đến việc cầu nguyện, tôi nghiệm ra rằng có hai điều chúng ta cần cầu xin nhất. Một là “Ý cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Bởi vì nhìn những thiên tai, thảm họa xảy ra lúc nầy hoặc lúc khác, nơi nầy hoặc nơi khác, chúng ta thấy bí nhiệm quá và chỉ biết xin chấp nhận. Hai là lòng tin sắt son vào những gì chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính mà chúng ta đọc lên trong Thánh Lễ ngày chủ nhật. Chính lòng tin mới mang đến cho chúng ta hy vọng mà vui sống. “Trước hết phải tìm kiếm nước Chúa và sự công chính của Người, rồi các thứ kia Người sẽ ban cho thêm”. (Mt 6,33)

 

 

Lê Văn Khuê

Anh muốn ly hôn

phải không ?

  st
Nếu muốn ly hôn, hãy bế em ra khỏi cuộc đời anh

Vào ngày cưới của tôi, tôi đã ôm vợ trên đôi tay của mình. Xe đưa dâu dừng tại trước tổ uyên ương của chúng tôi. Ðám bạn thân của tôi nhất quyết bắt tôi phải đưa nàng ra khỏi xe trên đôi tay của mình.


Do vậy, tôi đã bế nàng vào nhà. Lúc đó, nàng là một cô dâu tròn trĩnh và e thẹn, còn tôi là một chú rể rất sung sức và tràn trề hạnh phúc.


Nhưng đó là cảnh của mười năm trước. Những chuỗi ngày sau đó cũng giản dị như một cốc nước tinh khiết: chúng tôi có con, tôi bước vào thương trường và cố gắng kiếm thật nhiều tiền. Khi của cải trong gia đình chúng tôi mỗi lúc một nhiều hơn cũng là lúc tình cảm giữa hai chúng tôi suy giảm dần.


Vợ tôi là một công chức nhà nước. Mỗi sáng chúng tôi cùng ra khỏi nhà với nhau và hầu như về nhà cùng một lúc. Con chúng tôi thì học tại một trường nội trú. Cuộc sống hôn nhân của chúng tôi nhìn bề ngoài hạnh phúc đến nỗi nhiều người phải ganh tị. Nhưng thật ra cuộc sống yên ấm đó gần như bị xáo trộn bởi những đổi thay không ngờ...

Dew đã bước vào cuộc đời tôi. Ðó là một ngày đầy nắng. Tôi đứng trước một ban công rộng lớn. Dew ôm vòng sau lưng tôi. Con tim tôi, một lần nữa, lại đắm chìm trong dòng suối yêu đương cùng nàng. Ðây là căn hộ tôi mua cho cô ấy.


Dew nói: 'Anh là mẫu đàn ông có sức cuốn hút với đàn bà nhiều nhất'. Câu nói của Dew đột nhiên nhắc tôi nhớ đến vợ mình. Hồi chúng tôi mới cưới, nàng nói: 'Mẫu đàn ông như anh, khi thành đạt sẽ rất quyến rũ với phụ nữ'. Nghĩ đến lời nói đó của vợ mình, tôi thoáng do dự. Tôi hiểu mình đang phản bội lại nàng. Nhưng tôi đã không thể cưỡng lại chính mình.


Kéo tay Dew sang một bên, tôi nói: 'Em đi mua mấy món đồ nội thất nhé? Anh có vài việc phải làm ở công ty'. Hiển nhiên là nàng thất vọng rồi bởi vì tôi đã hứa sẽ cùng đi với nàng. Ngay lúc ấy, ý nghĩ phải ly hôn xuất hiện trong tâm trí tôi mặc dù trước đây ly hôn là một điều tưởng chừng không thể.


 

Nhưng tôi nhận ra khó mà mở lời với vợ về chuyện này. Cho dù tôi có đề cập nó một cách nhẹ nhàng đến đâu chăng nữa, cô ấy chắc chắn sẽ bị tổn thương sâu sắc.


Công bằng mà nói, cô ấy là một người vợ tốt. Tối nào, cô ấy cũng bận rộn chuẩn bị bữa ăn tối, trong khi tôi ngồi phía trước màn ảnh TV. Bữa ăn tối thường xong sớm. Sau đó, chúng tôi cùng xem TV. Không thì, tôi lại thơ thẩn bên máy tính, mường tượng thân thể của Dew. Ðó là cách tôi thư giãn.


Một ngày nọ, tôi nửa đùa nửa thật nói với vợ tôi, 'Giả dụ chúng ta phải ly hôn, em sẽ làm gì?'. Cô ấy nhìn chằm chặp tôi phải đến vài giây mà không nói lời nào. Hiển nhiên cô ấy tin rằng ly hôn là một cái gì rất xa vời với cô ấy. Tôi không hình dung được vợ tôi sẽ phản ứng thế nào một khi biết rằng tôi đang nói nghiêm túc về chuyện đó.


Luc vợ tôi bước vào phòng làm việc của tôi ở công ty thì Dew cũng vừa bước ra. Hầu như tất cả nhân viên ở văn phòng tôi đều nhìn vợ tôi với ánh mắt ra chiều thông cảm và cố giấu giếm chút gì đó khi nói chuyện với nàng. Vợ tôi dường như có nghe phong phanh vài lời bóng gió. Cô ấy chỉ mỉm cười dịu dàng với đám nhân viên, nhưng tôi đọc được nỗi đau trong đôi mắt ấy.


Một lần nữa, Dew lại nói với tôi: 'Ninh, anh ly dị cô ấy đi? Rồi chúng mình sẽ cùng chung sống với nhau'. Tôi gật đầu. Tôi biết mình không thể chần chừ thêm được nữa.


Khi vợ tôi dọn ra bàn chiếc dĩa cuối cùng, tôi nắm lấy tay cô áy. 'Anh có điều này muốn nói với em', tôi nói. Cô ấy ngồi xuống, lặng lẽ ăn.


Tôi lại nhìn thấy nỗi đau trong đôi mắt nàng. Ðột nhiên, tôi không biết phải mở miệng như thế nào. Nhưng tôi phải nói cho cô ấy biết những gì tôi đang suy nghĩ thôi. 'Anh muốn ly hôn'. Cuối cùng thì tôi cũng đặt vấn đề hết sức nặng nề này một cách thật nhẹ nhàng.



Cô ấy tỏ ra không khó chịu lắm với lời tôi nói mà chỉ hỏi nhỏ 'Tại sao?'. 'Anh nói thật đấy', tôi tránh trả lời câu hỏi của cô ấy. Cái gọi là câu trả lời của tôi đã khiến cô ta giận dữ. Cô ấy ném đôi đũa đi và hét vào mặt tôi 'Anh không phải là đàn ông!'.

Ðêm đó, chúng tôi không nói chuyện với nhau. Cô ấy khóc lóc. Tôi hiểu cô ấy muốn biết chuyện gì đã xảy ra với cuộc hôn nhân của chúng tôi. Nhưng tôi khó đưa ra được câu trả lời thỏa đáng bởi vì trái tim tôi đã nghiêng về Dew.


Trong tâm trạng tội lỗi tột cùng, tôi thảo đơn ly hôn ghi rõ cô ấy sẽ sở hữu căn nhà, chiếc xe hơi và 30% cổ phần trong công ty tôi. Nhìn lướt qua tờ đơn, cô ấy xé nó ra từng mảnh. Tôi cảm thấy tim mình đau nhói. Người phụ nữ chung sống với tôi suốt mười năm nay bỗng trở nên xa lạ chỉ trong một ngày. Nhưng, tôi không thể rút lại những lời đã nói.


Cuối cùng, điều tôi mong đợi đã đến. Cô ấy òa khóc trước mặt tôi. Tiếng khóc của cô ấy thực sự là liều thuốc an thần cho tôi. Ý định ly hôn dằn vặt tôi suốt nhiều tuần qua giờ đây dường như càng trở nên rõ rệt và mạnh mẽ.


Trời khuya, tôi về nhà sau tiệc chiêu đãi khách hàng. Tôi nhìn thấy vợ tôi đang cắm cúi viết tại bàn làm việc. Tôi nhanh chóng chìm vào giấc ngủ. Nửa đêm, tỉnh giấc, tôi thấy cô ấy vẫn ngồi viết. Tôi trở mình và ngủ tiếp.


Vợ tôi đưa ra điều kiện ly hôn: Cô ấy không cần bất cứ thứ gì của tôi, nhưng tôi phải cho cô ấy thời gian một tháng trước khi chính thức ly hôn; và trong thời gian một tháng đó, chúng tôi phải sống với nhau một cuộc sống bình thường. Lý do chỉ đơn giản vì: tháng sau con trai của chúng tôi sẽ kết thúc kỳ nghỉ hè và cô ấy không muốn nó phải chứng kiến cuộc hôn nhân của chúng tôi đổ vỡ.


Cô ấy đưa cho tôi thư thỏa thuận cô ấy soạn sẵn và hỏi: 'Anh còn nhớ em đã vào phòng cô dâu trong ngày cưới như thế nào không?'.


Câu hỏi này chợt làm sống tại trong tôi tất cả những kỷ niệm tuyệt vời ngày ấy. Tôi gật đầu và nói: 'Anh còn nhớ'.


'Lúc đó, anh đã bế em trên đôi tay của anh', cô ấy tiếp tục, 'do vậy, em có một yêu cầu là anh phải bế em ra vào ngày chúng ta ly hôn. Từ giờ đến hết tháng này, anh phải bế em từ giường ngủ đến cửa nhà mình vào mỗi sáng'. Tôi mỉm cười đồng ý. Tôi biết cô ấy đang nhớ lại những chuỗi ngày ngọt ngào hạnh phúc và muốn cuộc hôn nhân của mình kết thúc lãng mạn.

 
Tôi kể cho Dew nghe về điều kiện ly hôn của vợ mình. Cô ấy cười to và cho rằng đó là một yêu cầu ngu xuẩn. 'Cho dù cô ta có đưa ra mánh khóe gì chăng nữa, thì vẫn phải đối mặt với kết cục ly hôn mà thôi', cô ấy nói một cách khinh bỉ. Lời nói đó của Dew ít nhiều khiến tôi cảm thấy khó chịu.

 



Vợ tôi và tôi đã không đụng chạm gì về thể xác kể từ khi tôi có ý định ly hôn. Chúng tôi đối xử với nhau như hai người xa lạ. Vì vậy ngày đầu tiên tôi bế cô ấy, cả hai chúng tôi tỏ ra khá lóng ngóng, vụng về. Ðứa con trai vỗ tay theo sau chúng tôi: 'Cha đang ôm mẹ trên tay'. Lời nói của con trẻ làm tim tôi đau nhói. Từ phòng ngủ đến phòng khách, sau đó mới đến cửa ra vào, tôi đã đi bộ trên mười mét với cô ấy trên tay. Cô ấy nhắm mắt và nói nhẹ nhàng, 'Chúng ta sẽ bắt đầu từ hôm nay đừng nói gì cho con hay'. Tôi gật đầu và cảm thấy chút gì đổ vỡ. Tôi đặt cô ấy xuống ở cửa ra vào. Cô ấy đứng đó chờ xe buýt, còn tôi lái xe đến công ty.


Vào ngày thứ hai, chúng tôi 'diễn' dễ dàng hơn. Cô ấy dựa vào ngực tôi. Chúng tôi quá gần nhau đến nỗi tôi có thể ngửi được mùi hương từ áo khoác của nàng. Tôi nhận ra rằng đã lâu lắm rồi tôi không nhìn kỹ người phụ nữ thân yêu của mình. Tôi nhận ra vợ tôi không còn trẻ nữa. Ðã xuất hiện một vài nếp nhăn trên gương mặt của nàng.

Ngày thứ ba, cô ấy thì thầm vào tai tôi: 'Vườn ngoài kia đang bị xói mòn đấy. Anh cẩn thận khi đi qua đó nghe'.


Ngày thứ tư khi tôi nâng cô ấy lên, tôi có cảm giác chúng tôi vẫn còn là một đôi uyên ương khăng khít và tôi đang ôm người yêu trong vòng tay âu yếm của mình. Những tơ tưởng về Dew trở nên mờ nhạt dần.


Ðến ngày thứ năm và thứ sáu, cô ấy tiếp tục dặn dò tôi vài thứ, nào là cô ấy để chiếc áo sơ mi vừa ủi ở đâu, nào là tôi phải cẩn thận hơn trong lúc nấu nướng. Tôi đã gật đầu. Cảm giác thân thiết, gần gũi lại trở nên mạnh mẽ nhiều hơn.


Nhưng tôi không nói với Dew về điều này. Tôi cảm thấy bế cô ấy dễ dàng hơn. Có lẽ mỗi ngày đều luyện tập như vậy đã làm tôi mạnh mẽ hơn. Tôi nói với cô ấy: 'Có vẻ bế em không còn khó nữa'.

Vợ tôi đang chọn váy đi làm. Tôi thì đứng đợi để bế cô ấy. Cô ấy loay hoay một lúc nhưng vẫn không tìm ra chiếc váy nào vừa vặn cả. Rồi, cô ấy thở dài, 'Mấy cái váy của em đều bị rộng ra cả rồi'. Tôi mỉm cười. Nhưng đột nhiên tôi hiểu rằng thì ra cô ấy đã ốm đi nên tôi mới bế cô ấy dễ dàng, chứ không phải vì tôi mạnh khỏe hơn trước. Tôi biết vợ mình đã chôn giấu tất cả niềm cay đắng trong tim. Tôi lại cảm thấy đau đớn. Theo phản xạ tự nhiên, tôi đưa tay chạm vào đầu cô ấy.


Ðúng lúc đó, thằng con chúng tôi chạy đến 'Cha à, đến giờ bế mẹ ra rồi' - nó nói. Ðối với nó, hình như nhìn thấy cha bế mẹ ra đã là một phần tất yếu trong cuộc sống của nó rồi. Vợ tôi ra hiệu cho nó lại gần và ôm nó thật chặt. Tôi quay mặt đi vì sợ rằng mình sẽ thay đổi quyết định vào phút chót.


Tôi ôm cô ấy trong vòng tay, bước từ phòng ngủ qua phòng khách, qua hành lang.
Tay cô ấy vòng qua cổ tôi một cách nhẹ nhàng và tự nhiên. Tôi ôm cô ấy thật chặt, tưởng tượng như chúng tôi đang trở về ngày tân hôn. Nhưng tôi thật sự buồn vì vợ tôi đã gầy hơn xưa rất nhiều.


Vào ngày cuối cùng, tôi thấy khó có thể cất bước khi ôm cô ấy trong vòng tay. Con trai chúng tôi đã lên trường. Vợ tôi bảo: 'Thực ra, em mong anh sẽ ôm em trong tay đến khi nào chúng ta già'. Tôi ôm cô ấy thật chặt và nói: 'Cả em và anh đã không nhận ra rằng cuộc sống của chúng mình từ lâu đã thiếu vắng quá nhiều những thân mật, gần gũi'.


Tôi phóng ra khỏi xe thật nhanh mà không cần khóa cả cửa xe. Tôi sợ bất cứ sự chậm trễ nào của mình sẽ khiến tôi đổi ý. Tôi bước lên tàu. Dew ra mở cửa. Tôi nói với cô ấy: 'Xin lỗi, Dew, anh không thể ly hôn. Anh nói thật đấy'.


Cô ấy kinh ngạc nhìn tôi. Sau đó, Dew sờ trán tôi. 'Anh không bị sốt chứ', cô ấy hỏi. Tôi gỡ tay cô ấy ra. 'Dew, anh xin lỗi', tôi nói. 'Anh chỉ có thể xin lỗi em. Anh sẽ không ly dị. Cuộc sống hôn nhân của anh có lẽ tẻ nhạt vì cô ấy và anh không nhận ra giá trị của những điều bé nhỏ trong cuộc sống lứa đôi, chứ không phải bởi vì anh và cô ấy không còn yêu nhau nữa. Bây giờ, anh hiểu rằng bởi anh đưa cô ấy về nhà, bởi cô ấy đã sinh cho anh một đứa con, nên anh phải giữ cô ấy đến suốt đời. Vì vậy anh phải nói xin lỗi với em'.



Dew như choàng tỉnh. Cô ta cho tôi một cái tát như trời giáng rồi đóng sầm cửa lại và khóc nức nở. Tôi xuống cầu thang và lái xe đến thẳng công ty.


Khi đi ngang tiệm hoa bên đường, tôi đặt một lẵng hoa mà vợ tôi yêu thích. Cô bán hàng hỏi tôi muốn viết lời chúc gì vào tấm thiệp. Tôi mỉm cười và viết 'Anh sẽ bế em ra, vào mỗi sáng cho đến khi chúng ta già.

 

St

 

 

Làm gì mà ghê thế?

                                                              Maria Cathy

 

Các anh chị thân mến,

Lời nói đầu tiên, xin được gửi đến các anh chị, là lời xin lỗi rất trịnh trọng. Em xin lỗi là vì bẵng đi có đến mấy năm, hôm nay mới lại về với các anh chị bằng một bức thư trần tình này.

 

Quả thật là vì em quên. Thôi thì, một ngày có mỗi 24 tiếng, 8 tiếng dành cho công việc, 8 tiếng ngủ nghỉ, 8 tiếng còn lại là cho gia đình bạn bè và cả đến người dưng nước lã nữa chứ.

 

Số là hôm qua chi Mary Vũ có gọi điện thoại trách em tại sao lâu lắm rồi không thấy em viết với lách gì hết cả vậy. Em cũng đã xin lỗi chị ấy rằng thì là em ngóc đầu còn không nổi, nói gì đến chuyện viết với lại lách. Mà lúc này con cái nó lớn rồi, em đâu cần lách với len gì đâu. Mẹ chồng em cũng vô viện dưỡng lão rồi, cần gì phải lách và viết nữa cơ chứ. Nói thì nói thế chứ sao độ này em thấy không còn hứng thú gì đến chuyện viết thư viết từ cho ai. Khoẻ ghê héng mấy anh mấy chi. Lúc này bọn em biết cách viết i-meo ngay từ sở làm rồi là cứ thế đến sở thật sớm. Lợi dụng chưa có ai đến cả là mình lén viết thư thôi.

 

Nói thì nói thế chứ viết riết đọc riết rồi cũng thấy chán chuyện. Chán như cơm nếp nát vậy đó. Nhất là lúc này em xài hai địa chỉ i-meo thế mà vẫn không thoát được mấy cái thư rác rưởi cứ gửi tùm lum cho hết mọi người.

 

Ấy vậy chứ, cũng nhờ có thư “rác” mà lâu lâu em cũng lượm được những bài có ý nghĩa ra phết đó. Thôi để coi như một bằng chứng xin tạ lỗi với các anh chị, em xin đánh máy và dịch đại nơi đây một trong các thư em nhận được. Thư này nói về cách giao tiếp với mọi người mà tác giả dùng một đầu đề rất ư là nhà giáo để chỉ dạy mọi người. Thôi thì, anh chị nào từng nhận đưọc các loại thư này bằng tiếng Anh tiếng em mà thấy tiếng Việt em dịch chẳng ra làm sao, thì cũng xin cho hai chữ “đại xá” nhé. Em đi thẳng vào thân bài đây.

 

Có 31 cách để đối nhân xử thế ở đời. Đó là:

  1. Hãy sống thật lòng khi nói “I love you”.
  2. Khi nói câu xin lỗi, hãy nhìn thẳng vào mắt người nghe.
  3. Hãy tin tưởng vào tiếng sét ái tình.
  4. Chớ bao giờ coi thường khát vọng của người khác.
  5. Mình có thể bị tổn thương khi yêu ai say đắm. Đó là cách giúp mình trở nên toàn diện
  6. Hãy thật tình muốn giải quyết tranh chấp, đừng xúc phạm đến người khác.
  7. Chớ bao giờ đánh giá một ai qua dáng dấp bề ngoài.
  8. Nói thì cứ chầm chậm mà nói, nhưng suy nghĩ phải cho nhanh.
  9. Ai hỏi điều gì mà không muốn trả lời, hãy cười và hỏi lại: sao bạn muốn biết chuyện ấy?
  10.  năng gọi điện về cho mẹ mình, ít ra lòng mình nên nghĩ về người mẹ.
  11. Khi thất bại, nhớ coi đó như kinh nghiệm tốt.
  12. Luôn nhớ 3 tiếng có chữ “trọng”: tự trọng, kính trọng người khác, nhận trọng trách về hành vi của chính mình.
  13. Chớ để tranh chấp nhỏ làm hại tình bạn cao quý.
  14. mỗi khi biết mình làm sai, hãy tìm cách sử. Nhưng phải nhanh chân.
  15. Khi nhấc máy nghe, hãy cười bởi vì người bên kia đầu giây sẽ nhận ra nụ cười của bạn
  16. Hãy lấy người nào thích trò chuyện, khi về già sẽ nhận ra chuyện trò là một ưu điểm.
  17. Hãy chấp nhận đổi thay, nhưng đừng bỏ quan điểm của mình.
  18. Hãy luôn nhớ “im lặng là vàng”.
  19. Dành nhiều thì giờ mà đọc sách. Ít xem TV
  20. Tin Thượng Đế, nhưng chớ quên khoá cửa.
  21. Khi cãi lại người yêu, hãy giải quyết bằng lý trí chứ đừng moi chuyện cũ ra nòi.
  22. Chớ lẩn tránh quá khứ.
  23. Hãy để tâm đến ý nghĩa câu mình nói.
  24. Chia sẻ hiểu biết với người khác, đó mới chuyện bền lâu. Hãy làm những gì cần làm.
  25. Đừng tin vào người nào cứ mở mắt trừng trừng khi hôn mình.
  26. Mỗi năm nên đến nơi nào mình chưa ghé.
  27. Khi kiếm ra nhiều tiền hãy làm việc thiện, đó là cách tiết kiệm hay nhất trong đời.
  28. Hiểu và lý giải đúng mọi quy tắc, kế đến hãy lo cải tiến các qui tắc ấy.
  29. Nên nhớ: Cho bao giờ cũng tốt hơn nhận.
  30. Cứ nhìn lại những gì mình quyết tâm đạt đến rồi xem đã thành công đến mức độ nào.
  31. Khi nấu nướng cũng như yêu đương, hãy coi xem mình đã đặt 100% trách nhiệm nơi thức mình xử lý chưa.

 

Đó mới chỉ sơ sơ có 31 điểm thôi đấy. Hy vọng các anh chị sẽ bổ túc thêm sau.

Em chào các anh chị.

Hẹn gặp các anh chị vào dịp tới.

Maria Cathy

Giọng cũ xa gần

                     Dân gầy phụ trách

*Cũng một hồi âm:

Trong cuộc sống hàng ngày, Gia đình An Phong Sydney vẫn nhận đều các thư liên lạc, thăm hỏi. Có thư viết về chuyện riêng tư, tâm sự chỉ nói cho hai người nghe thôi. Cũng có thư viết cho nhiều người đọc, dù chỉ gửi đến có một người. Có thể là bậc suýt-chút-nữa-thành-vị-vọng, như thầy 6 hụt họ Huỳnh rất ư là Có Lợi, sau đây:

“Chào Bác Lợi,

Con đã nhận được số tiền Bác gửi cho con là VND$31,350,000.

Bác cho con xin gửi đến mỗi người trong Gia đình An Phong Sydney lời cảm ơn chân thành của con vì đã ưu ái dành cho con số tiền quyên góp được trong dịp họp mặt đầu xuân Mậu Tý này để con giúp đỡ người nghèo dân tộc ít người tại đây.

Đặc biệt, con xin hết lòng cảm ơn Bác đã thương hy sinh góp nhiều công sức lo lắng để gửi tiền chỗ con một cách tốt đẹp.

Con sẽ sử dụng số tiền vào việc bác ái từ thiện cho người nghèo Ê-đê con đang phục vụ và bù lỗ một chút cho việc xây cất tu viện của cộng đoàn.

Xin Chúa chúc lành cho mọi gia đình trong Gia Đình An Phong Sydney. Chúc mọi người mạnh khoẻ, bình an và năm mới gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp.

Con chảo Bác.

Con

JB. Hồ Quang Lâm, CssR

Buôn Ma Thuột.

 

*8 tháng 3: một ngày như mọi ngày?

Phải chăng đây là câu hỏi của các bậc nữ lưu trong nhà ngoài ngõ, ở quê nhà? Bởi, có ở quê nhà, mới có những ngày “vùng lên” như bài thơ “con nhái” dưới đây:

Em cứ ngồi ngắm hoa.

Em cứ ca cứ hát.

Anh sẽ lo rửa bát.

Anh sẽ lo quét nhà.

Anh sẽ lo giặt là*

Em uống gì anh pha.

Chợ gần hay chợ xa.

Anh lần ra được hết.

Món em ưa anh biết.

Em cứ chờ mà xem.

Em đánh phấn xoa kem.

Anh nhặt rau vo gạo.

Em ung dung đọc báo.

Anh tay nấu tay xào.

Anh tự làm không sao.

Đứng lo gì em nhé.

Tà áo em tuột chỉ.

Đưa anh khâu lại giùm.

Nho anh mua cả chùm.

Buồn mồm em cứ nếm.

Bạn gái em mà đến.

Cứ vô tư chuyện trò.

Anh tắm cho thằng cu.

Rồi anh ru nó ngủ.

Màn hình bao cầu thủ.

Nghe em hét “vào rồi”.

Hết một ngày em ơi.

Hăm bốn giờ thôi nhé.

 

*Ngày 8 tháng 3, ngày gì nhỉ?

Câu hỏi này, có lẽ xuất từ môi miệng các đấng phu quân nhiều hơn phụ nữ. Phụ nữ mình, thường hay hỏi những câu hỏi hóc búa hơn, như những câu ở dưới:

Vợ: Anh đang làm gì đấy?

Chồng: Có làm gì đâu!

Vợ: Có thật anh không làm gì, không? Anh đã chẳng cầm giấy giá thú đọc hằng giờ đấy là gì? Mà đọc giấy đó để làm gì cơ chứ?

Chồng: Ừ thì, anh chỉ tìm xem chỗ nào ghi ngày đáo hạn, mà thôi…

 

Hoặc những câu rất thường ngày, như:

Vợ: Anh có ngồi vào bàn ăn tối không đấy?

Chồng: Anh còn chọn lựa nào nữa đây, chứ!

Vợ: Chỉ cần anh trả lời: “có hay không” thôi.  

 

Hoặc một loại hỏi và han, khác:

Vợ: Sao anh cứ để hình tôi vào bóp, làm gì thế?

Chồng: Mỗi khi có vấn đề to nhỏ, anh đều lấy bóp nhìn vào hình em, vấn đề gì rồi cũng biến

Vợ: Đó, anh thấy quyền năng của tui chưa?

Chồng: Có! Anh nhìn hình em rồi tự hỏi: có vấn đề nào to lớn hơn thế này không?   

 

Những chuyện không thấy ai nói vào ngày 8/3:

Người em bé bỏng: “Một mai khi mình lấy nhau, em muốn chia sẻ mọi ưu tư, khúc mắc rối bời và làm nhẹ gánh cho anh, thôi.”

Chàng trai: “Em thật dễ thương, nhưng anh có ưu tư, khúc mắc nào đâu, bao giờ.”

Người em gái: “là vì ta chưa lấy nhau, đó thôi!”

 

Và, chuyện không nên nói vào ngày 8/3:

Chú bé: Mẹ à! Sáng nay con đang đi xe buýt thì bố bảo tránh ra nhường chỗ cho bà kia ngồi.

Người mẹ: Giỏi, làm thế mới là đứa con ngoan.

Chú bé: Lúc ấy, con ngồi trên đùi của bố mà?!

 

Và, câu chuyện trao đổi nam nữ:

Con gái: Chỉ hôn em một cái thôi, là em sẽ thuộc về anh, suốt đời.

Con trai: Cảm ơn em đã cảnh cáo anh trước!

*Chữ nghĩa quê nhà:

Những ai xa nhà quá lâu như bần đệ, chắc cũng thông cảm cho những thắc mắc về ngôn ngữ tên gọi, như bên dưới:


Đất nước vừa giải phóng, chính phủ có chính sách gộp các tỉnh lại với nhau để dễ cai trị.  Vì vậy, một số các tỉnh được gộp lại như:
-Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế -

được đặt tên: Bình-Trị -Thiên.

-Quảng Đà = Quảng Nam, Đà Nẵng  

-Long Châu Hà = Vĩnh Long, Châu Ðốc, Hà Tiên

-Hà Nam Ninh = Hà Ðông, Nam Ðịnh, Ninh Bình
-Có 3 tỉnh không thể gộp lại được với nhau là: Kontum, Plei-ku, Daklak.  Vì không thể đặt tên được nên chính phủ quyết định không gộp 3 tỉnh này.

    Lý do dễ hiểu là cũng có nhiều cách gộp tên, nhưng không sao công khai tuyên bố ðược:

Thử xem như dưới ðây:

-Kon-Ku-Lak
-Lak-Kon-Ku
-Ku-Kon-Lak
 
Hôm đó, thủ tướng Phạm Văn Đồng sau một hồi bàn luận về tỉnh Kon-Ku-Lak không đi tới đâu thì có người bạo gan ra ý kiến bỏ Kontum ra và sáp nhập Lâm đồng vào. Thủ tướng ban đầu mừng húm vì thoát được cái nạn Lak-Kon-Ku nhưng sau đó đỏ mặt vì biết bị chơi xỏ, là vì chẳng lẻ đặt tên tỉnh là Ku-Đồng-Lak hay Lak-Ku-Đồng hay tệ hơn nửa là Đồng-Lak-Ku, sao.

 

Ấy, đấy mới chỉ ba tỉnh gần nhau thôi, nếu thêm tỉnh Long An hay tỉnh nào khác cắc cớ hơn thì sao?

 

*Lại nói chuyện ngôn ngữ đời thường:

Cũng vẫn là ngôn từ “ghép rất kỹ” của các phe bạn chứ chưa là phe ta. Bà con mình cố đọc rồi sẽ hiểu tại sao các “cụ” cứ thích vắn và gọn:

Trước khi đọc bài viết phía dưới, xin vui lòng đọc và cố tìm hiểu những từ dưới đây. Khi nào không thể hiểu nổi hãy đọc tiếp. Hai từ đầu tiên có tính cách gợi ý, hướng dẫn

Cao xà lá = cao su, xà phòng, thuốc lá

điều nghiên = điều tra, nghiên cứu 

cụ tỉ

cô súc

giao hợp

điều kinh

động phòng

phát tài để đầu lâu

ngoan cố 

Ngày nay, ta sính dùng những chữ ghép kiểu như "phối kết hợp" hay "kỹ chiến thuật". Hay thì chưa thấy đâu nhưng đã nảy sinh những tình huống cười ra nước mắt. Có lẽ do đã từng một thời sống ở khu tập thể Cao – Xà – Lá (cao su, xà phòng, thuốc lá), nên việc gọi tắt của sếp tôi đã trở thành bậc thầy. Nhất là trong việc ghép tắt các từ, đại loại như điều nghiên (điều tra – nghiên cứu)...
Ngày đầu tiên về cơ quan, sếp tôi tuyên bố hùng hồn với nhân viên:
Đây là giai đoạn đổi mới, chúng ta cần có ý thức tiết kiệm thời gian, vận dụng từ chính xác, ngắn gọn, dễ hiểu. Đặc biệt, các bản báo cáo trình lên cho tôi phải "cụ tỉ" và "cô súc"!
Thấy mọi người ngơ ngác, hoang mang, sếp đập bàn cái rầm:
Thời buổi này mà kém suy luận quá, này nhé "cụ tỉ" là nói tắt của hai cụm từ cụ thể và tỉ mỉ, "cô súc" có nghĩa là cô đọng và súc tích, thế thôi.
À, bây giờ thì mọi người đã hiểu. Ai cũng gật gù như mấy cô cậu trong đoạn quảng cáo thuốc tẩy giun. Như vậy, với sếp thì những chuyện xảy ra đã lâu, thuộc dĩ vãng quá khứ thì phải gọi là dĩ khứ.
Rồi một hôm được phân công đi giao lưu với đơn vị bạn thì chúng tôi thật sự kinh hoàng khi nghe sếp lệnh:
Các cô cậu đi "giao hợp" với người ta thật chặt chẽ vào, bên cạnh đó cũng phải điều kinh cho tốt.
Một số chị em đỏ mặt lí nhí hỏi lại, liền bị sếp
quát:
Cấm nghĩ bậy! Tôi muốn nói ngắn gọn "giao hợp"giao lưu và hợp tác, nó cũng tương tự như "giao phối" thôi, còn "điều kinh" là điều tra kinh nghiệm làm ăn của họ. Không lo làm ăn, toàn lo nghĩ bậy!
Phải thú nhận là một thời gian khá dài chúng tôi mới quen cách dùng từ quái chiêu của sếp, cũng nhờ chịu khó cùng nhau suy luận mà chúng tôi đỡ phải khốn khổ. Ví dụ, một lần đi cơ sở, sếp bảo chúng tôi cố gắng "phát tài để đầu lâu", cả công ty xúm vào suy luận mới hiểu ý sếp muốn rằng chúng tôi cố gắng phát hiện tài năng để có hướng đầu tư lâu dài.

Rõ khổ!
Với nguy cơ dịch tả vẫn đang phát, cho đến nay trong cơ quan tôi chưa có ai phải nhập viện vì bệnh ấy, nên sếp có lời khen chúng tôi đã "động phòng" rất tốt. Đã nhiều lần "đúc kinh", chúng tôi hiểu ngay rằng đấy là sếp khen tập thể nhân viên trong cơ quan đã biết "chủ động phòng tránh" dịch rất tốt.
Năm sắp hết, Tết sắp đến rồi. Tết này dẫn theo các nhóc đến thăm sếp để chúc Tết, chắc tôi cũng phải có một chút "sáng tạo ngôn ngữ" khi giới thiệu với sếp rằng các con tôi đứa nào cũng "ngoan cố". Thế nào chúng nó cũng được sếp lì xì vì ngoan ngoãn và cố gắng!

*Chuyện đời lẫn chuyện Đạo:

Có méo mó nghề nghiệp chăng, khi ta đề cập đến những chuyện bên lề chính trị? Chắc câu trả lời sẽ là không, nếu ta nhớ lại lời phát biểu của Gorbachev, con người chủ trương đổi mới Perestroika ở Nga-la-xô năm nào, khi ông bảo: “Giáo hoàng là một trong những người làm chủ thế giới của tôi.” Thế giới mà ông nói, là “thế giới toàn cầu hoá. Và, ông còn nhấn mạnh: đó là một thế giới có những đe doạ môi trường và nghèo đói.

Với tình trạng khí hậu chuyển biến như ngày nay, có lẽ quan niệm và phát biểu của ông trùm sò Liên xô một thời, cũng có lý ấy chứ nhỉ? Có lý nhất là với các hoạt động có tầm cỡ quốc tế Đạo và đời của Đức cố Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô Đệ Nhị và Đức đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI, hôm nay. Phải không các tám nó?  

 

*Thơ tình thứ thiệt.

Dân Gầy có người đồng nghiệp. Cũng làm cho chính phủ, nhưng khác bộ. Bộ phận nào, Dân Gầy cũng chẳng biết. Nhưng, có lẽ làm ở cái bộ phận có tên là “nhà nước” hay sao ấy, mà hình như luôn luôn rảnh rỗi. Có rảnh có rỗi hơi, mới năng viêt lui viết tới nhưng câu lục bát, rất trữ tình như sau:

Nhà nàng ở cạnh nhà tôi,

cách nhau cái chỗ để phơi áo quần

Hai người nhầm lẫn tứ tung,

nàng như cũng có cái quần giống tôi

Ðể rồi có một lần phơi,

thế nào tôi lấy nhầm ngay quần nàng

Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng,

thấy nàng hé cửa gọi sang bên này

'Ấy ơi, ấy hãy vào đây,

cho em đổi lại cái quần chút coi '

'Cái quần duy nhất của em,

hôm qua anh lấy về bên ấy rồi ….'

Lần đầu nhìn thấy nàng cười

Thân tôi run rẩy như người mắc phong

Nàng che tấm vải  ngang hông

Để tôi ngượng ngịu chẵng mong trả quần...

Tỉnh chiêm bao dạ bần thần..

Co' nên giữ lại cái quần làm tin

Tình yêu như thể rút thăm,

rút trúng thì sướng rút nhầm thì đau

Tình yêu như thể đi câu,

anh nào chai mặt ngồi lâu mới tài

Tình yêu như thể quan tài,

mới loanh quanh ở bên ngoài đã run
Tình yêu như thể dây thun,

lúc co lúc dãn lúc còn đứt ngay
Tình yêu như thể ông say,

lúc nào cũng tưởng đang bay trên trời
Tình yêu như thể điểm mười,

có hôm cho hết cả đời vẫn mong
Tình yêu như thể đuôi công,

trông thì đẹp đấy nhưng không ra gì
Tình yêu như thể bánh mì,

tây ta cũng thích chỉ vì nó ngon
Tình yêu như thể thỏi son,

sinh ra chỉ để làm mòn cái môi

 

Và, một “trự” khác cũng lại “rỗi rảnh” khá nhiều giờ, nên mới hoạ lại bài thơ ấy như sau:

Nhà tôi ở cạnh nhà nàng,
Hai đứa chàng ràng phơi áo quét sân
Nàng quét tôi ngó chết trân
Tôi quét nàng lại âm thầm mắt trao
Quét qua quét lại ngọt ngào
Chỉ bao nhiêu rác, cớ sao mãi còn
Quét từ khi tuổi còn son
Nay đã mỏi mòn vẫn quét vẫn phơi
Chỉ một điều khác mà thôi
Tôi phơi tôi quét, nàng ngồi coi phim!!!

*Những tin tức rất… mình từ nhà mình

DIA  hân hạnh có được nguồn tin từ quê nhà như sau. Mời bà con đọc để thưởng lãm.

GIA ĐÌNH AN PHONG

NGOÀI TU VIỆN

Tp. HCM. Ngày 02.04.2008

CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT RỒI, ALLELUIA !

Alô ! Đây là tiếng nói của ca-pô cánh già.

Thế là Gia Đình An Phong chúng ta lại tiếp tục những sinh hoạt phụng vụ và ái hữu như những năm trước đây. Chỉ có một điều duy nhất khác biệt giữa NAY và XƯA là Gia Đình An Phong không còn Quản gia, không cần quản gia, lớn cả rồi, chúng ta tự quản tự phòng. Thay thế anh quản gia già nua, lỗi thời là một hội đồng các ca-pô, toàn thể anh em cựu đệ tử được phân làm hai cánh GIÀ và TRẺ. “Trẻ” bao gồm tất cả các bạn có học ỡ Đệ Tử Viện Thủ Đức (hoặc ở các nhà Đệ Tử khác mà thời gian tương ứng với Đệ Tử Viện Thủ Đức). “Già” bao gồm tất cả các bác chưa hề học ởĐệ Tử Viện Thủ Đức, như vậy các bạn Lăng Cù, L.V.Nghĩa, Hoàng Toán, Ng.V. Tấn v.v… đều thuộc “cánh già”, đều có chung một ca-pô là tay quản gia cũ, nay được hội đồng các ca-pô chỉ định giám quản cánh già, trong khi mỗi lớp ở Thủ Đức đều có ca-pô riêng từng lớp. Điều làm cho ca-pô cánh già áy náy là các phu nhân còn đang độ xuân thì phơi phới cũng bị ăn theo các “bố già” và bị gom vào “cánh già”.

Cách đây hai ngày, ca-pô cánh già có mở hội nghị liên tịch hiệp thương với các anh cựu tu sĩ, mới vỡ lẽ ra là các anh cũng không còn đủ sĩ số để đếm trên mười đầu ngón tay. Basile Kính đã về với Chúa. Henri Khắc quanh quẩn trong nhà với những khối u to bằng quả cà chua do bệnh “gút”, hậu quả một thời dọc ngang xây xây dựng dựng. Patrice Phúc lấy giường làm gốc. Thế là Bruno Mẫn duyệt kế hoạch sát nhập các anh cựu tu sĩ vào cánh già.

Đại khái chuyện gia đình mình hôm nay là thế. Là thư này của ca-pô cánh già hàng tháng sẽ được gửi đến từng bác già, đơn giản là để nhắc nhở các cụ về dự lễ hàng tháng. Các cụ lẩm cẩm, mù vi tính, đâu có biết meo miếc, buộc phải có tờ giấy cầm trong tay để nhớ ngày đem vợ con về lễ với Gia Đình An Phong.

Tiện đây, xin thông báo cho cánh già biết về những đổi thay bề trên của Gia Đình An Phong trong Tu Viện như sau :

                                                     

Nhiệm Kỳ 2008 – 2011

A – HỘI ĐỒNG TỈNH

1.      Giám Tỉnh: Cha Vinh Sơn Phạm Trung Thành, phụ trách đào tạo.

2.      Phó Giám Tỉnh: Cha Giuse Cao Đình Trị, phụ trách đời sống và các Thày.

3.      Uỷ viên Thường Vụ : Cha Giuse Nguyễn Ngọc Bích, phụ trách Linh đạo và Tông đồ mục vụ.

4.      Uỷ viên Đặc vụ: Cha Matthêu Vũ Khởi Phụng.

5.      Uỷ viên Đặc vụ: Cha Giuse Trịnh Ngọc Hiên.

6.      Uỷ viên Đặc vụ: Thày Phêrô Phạm Công Thuận.

 

B – CÁC VĂN PHÒNG (không gọi là Ban nữa)

1.      Trưởng Văn Phòng đào tạo: Cha G.Bt. Lê Đình Phương.

2.      Trưởng văn Phòng Linh đạo: Cha GioaKim Nguyễn Đức Mầng.

3.      Trưởng Văn Phòng Tông đồ: Cha Phêrô Đinh Ngọc Lâm.

4.      Trưởng Văn Phòng Quản lý Tỉnh và Đời Sống :Cha Phaolô Trần Văn Quang.

5.      Trưởng Văn Phòng các Thày: Thày Phêrô Phạm Công Thuận.

6.      Trưởng văn Phòng Tỉnh : Cha Giuse Đinh Hữu Thoại.

 

C – BỀ TRÊN CÁC CỘNG ĐOÀN

  1. Hà Nội: Cha Matthêu Vũ Khởi Phụng.
  2. Cửa Lò: Cha Micae Phan Tuấn Hồng.
  3. Thái Bình: Cha Phêrô Nguyễn Văn Khải.
  4. Phú Tảo: Cha Giuse Nguyễn Văn Hội.
  5. Huế: Cha G.Bt. Nguyễn Minh Sang.
  6. Đà nẵng: Cha Philipphê Lê văn Vui.
  7. Châu Ổ: Cha Micae Trương Văn Hành.
  8. Nha Trang: Cha Antôn Nguyễn Trần Tuấn.
  9. Tây Nguyên: Cha Giuse Trần Sĩ  Tín.
  10.  Ban mê Thuột: Cha Phaolô Lê Văn Quyến.
  11.  Đà Lạt: Cha Gioan Nguyễn Xuân Thu.
  12.  Fyan: Cha Giuse Nguyễn Hưng Lợi.
  13.  Phan Thiết: Cha G.Bt. Hoàng Thanh Huê.
  14.  Phú Dòng: Cha Giuse Trần Văn Hội.
  15.  Sài Gòn: Cha Phêrô Nguyễn Duy Quang.
  16.  Mai Thôn: Cha Micae Nguyễn Hữu Phú.
  17.  Cần Giờ: Cha Giuse Nguyễn Bá Long.
  18.  Vũng Tàu – Bà Rịa: Cha Đ. Nguyễn Hữu Trung.
  19.  Mỹ Tho: Cha Luca Nguễn Hữu Khánh.
  20.  Vĩnh Long: Cha Tôma Trần Quốc Hùng.

 

Hiện nay DCCT đã có mặt ở 20/26 Giáo phận của Hội Thánh Việt Nam.

Thư này cũng được gửi đến Cha Bề Trên Giám Tỉnh “để kính tường” và đến hội đồng ca-pô “để biết”.

 

*Giòng điện thư vi tính chuyển tải:

Phải công nhận rằng từ ngày có điện thư vi tính, ban biên tập DIA đỡ vất vả khá nhiều. Dưới đây là một bằng chứng:

29.04.08

Vừa  qua, Gia Đình An Phong Việt Nam với vị tân Giám tỉnh, đã qui tụ lại vào mỗi tháng như thời gian trước đây. Vì nhiều lý do, nên nòng cốt là anh em giới trẻ (nhưng cũng trên dưới 60 cả rồi!), được tính từ thời đệ tử viện Thủ Đức từ lớp Vô Nhiễm năm 1969 đến lớp cuối cùng, năm 1975. Nhà Dòng cử một thầy trợ sĩ, thầy Phạm Công Thuận (thuộc lớp Vô Nhiễm, thầy Thuận rời Đệ tử viện Vũng Tầu rồi trở lại nhà Dòng 30 năm sau chỉ muốn là tu sĩ và thầy cảm thấy hạnh phúc trong bậc trợ sĩ...) phụ trách. Do đó phưong thức hoạt động của đàn em có hơi khác với anh nguyên quản gia trước đây, nên cũng có chuyện này chuyện nô...

Dù sao cũng là một khởi đầu mới, điều quan trọng là tinh thần AN PHONG vẫn luôn là căn bản để tất cả anh em có thể gặp gỡ nhau, làm cái gì đó cho nhau và cho nhà Dòng.

Anh em đã nhận phụ trách một lớp giáo lý tân tòng tại 38 Kỳ Đồng, khai giảng đến nay vừa đúng một tháng! 

Thêm vài tin tức vụn vặt. Anh em mình luôn cầu cho nhau

Jo TNHuân

 

*Cũng là thơ với thẩn:

Từ ngày làm chân biên tập với lại biêbn vở, bần đệ thường nhận đưọc rất nhiều ý kiến phản hồi, về đủ thứ chuyện. Từ chuyện trên trời dưới bể. Đến chuyện trời trăng đôi lức, rất nhị. Nhân. Dưới đây, là một trong những chuyện … hơi bị

Lỉnh kỉnh ấy. Xin đưọc gửi đến bạn bè người thân, để có một chút giây phút giãn xương và giãn cốt. Câu chuyện “tình yêu”:

Tình yêu như thể rút thăm,

Rút trúng thì sướng, rút nhầm thì đau.

Tình yêu như thể đi câu,

Anh nào chai mặt ngồi lâu mới tài.

Tình yêu như thể quan tài,

Mói loanh quanh ở bên ngoài đã run.

Tình yêu như thể dây thun,

Lúc co lúc dãn, lúc còn đứt ngay.

Tình yêu như thể ông say,

Lúc nào cũng tưởng đang bay trên trời.

Tình yêuy như thể điểm mười,

Có hôm cho hết cả đời vẫn mong.

Tình yêu như thể đuôi công,

Trông thì đẹp đấy, nhưng không ra gì.

Tình yêu như thể bánh mì,

Tây ta cũng thích chỉ vì nó ngon.

Tình yêu như cái môi son,

Sinh ra chỉ để làm mòn cái môi…

(nhà thơ không ghi tên)

 

*So sánh là so và sánh:

Có một thời, người ta cứ hay thích so sánh. So và sánh như nhìn vào “thảm cỏ tình yêu” của nhà bên cạnh. Hocặc, còn nói: nếu cột đèn biết đi, nó cũng chạy ra nước ngoài hết. Nay, thử xem cột đèn ra được nước ngoài rồi, có còn so và sánh nữa, hay khong. Xin mời bầu bạn ghé mă1t nhìn xem những sánh rất là so đo, ở bên dưới:

Quê Nhà v/s X Người

 

Quê nhà  #    QN.

' người #    XN.  


Quê Nhà: Khổ như chó.
Xứ người: Sướng như chó.
QN: Chồng chúa vợ tôi.
XN: Chồng chúa (thì) vợ thôi.
QN: Yêu con cho roi cho vọt.
XN: Yêu con kiểu đó thì lọt vô tù.
QN: Con cái đi thưa về trình.
XN: Cha mẹ đi về một mình, con đâu?
QN: Con mời cha mẹ dùng bữa.
XN: Cha mẹ, giờ ăn, tựa cửa chờ con.
QN: Trước học lễ, sau học văn.
XN: Trước sau cũng chỉ có văn, lễ văng mất rồi!
QN: Cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó là phải xong.
XN: Con đặt đâu cha mẹ ngồi đó, là êm chuyện
QN: Con cái vâng lời cha mẹ.
XN: Con cái nói gì, cha mẹ nên nghe.
QN: Chữ hiếu phải cho tròn.
XN: Đạo làm con thường méo.
QN: Trẻ cậy cha, già cậy con.
XN: Trẻ cậy cha, già cậy chú Sam.
QN: Người chết như rạ, không ma nào ngó.
XN: Khỉ chết bệnh già cũng làm thành tin.
QN: Cái nhà là nhà của ta.
XN: Cái nhà là nhà của nhà băng, ta người ở đậu, phải chăng chủ nhà?
QN: Nợ nhiều thì bị khinh khi.
XN: Nợ nhiều thì được người ta nể vì.
QN: Nợ nần sớm trả cho xong.
XN: Nợ nần trả sớm, nhà băng phạt đền.
QN: Vì nghèo mới phải đi vay.
XN: Càng giàu càng muốn đi vay trả lời.
QN: Lao động nhà nước chỉ tiêu.
XN: Lao động vì đủ thứ "bill" đòi tiền.
QN: Lao động là ép buộc.
XN: Lao động là tự chuốc.
QN: Được làm vua, thua làm giặc.
XN: Được làm vua, thua làm tiền.
QN: Phép vua thua lệ làng.
XN: Phép vua thua luật sở thuế.
QN: Chết là hết nợ
XN: Chết vẫn còn nợ.
QN: Bà con xa không bằng láng giềng gần.
XN: Láng giềng gần còn thua bà con xa.
QN: Dĩ hòa vi quí.
XN: Muốn hòa, đem nhau ra tòa.
QN: Dân chúng gầy vì thiếu ăn.
XN: Người ta mong gầy để được ăn.
QN: Dân chúng sợ đói.
XN: Người ta sợ no, bày ra đủ trò để ăn đói.
QN: Đâu cần bảo hiểm.
XN: Bảo hiểm đâu đâu cũng cần.
QN: Có đủ hai chân, đi đâu cũng tới chẳng cần ai đưa.
XN: Còn đủ hai chân, ngồi nhà lủi thủi, có chân bằng thừa.
QN: Sinh ký, tử qui, sinh ra là tạm "ngày về nhớ ghi".
XN: Sinh nhật nhớ ngày, chết rồi là hết, ma chay làm gì.
QN: Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú vú dì.
XN: Sẩy cha còn mẹ, sẩy mẹ lấy gì mà bú.
QN: Kính lão mới được sống lâu, sống già thì được biết bao kẻ hầu.
XN: Về già, lạnh lẽo cô đơn, cháu con xa lánh, tủi hờn ngày đêm.
QN: Giao tiếp gái trai, tình trong như đã mặt ngoài còn lâu.
XN: Bất cứ nơi đâu, vừa quen nhau đã ôm nhau làm bừa.
QN: Cà phê nhỏ từng giọt, ta ngồi chờ, thảnh thơi.
XN: Cà phê chảy thành dòng, ta nôn nóng, đứng ngồi.
QN: Nghi can nhà nước bắt càn, chẳng cần bằng chứng chết oan là thường.
XN: Nghi can tội phạm rành rành, nhưng mà yếu lý cũng đành phải thua.

 

*Thêm một bài thơ… về Mẹ:

Ở Úc, cũng như phương Tây, người ta hay làm thơ để tặng người Mẹ … vẫn hiền, vào ngày Mẹ Hiền. Dưới đây là một trong các bài thơ như thế:

Happy Mother’s Day
MOTHER
By Howard Johnson
“M” is for the million things she gave me
“O” means only that she’s growing old,
“T” is for the tears she shed to save me,
“H” is for ther heart of purest gold,
“E” is for her eyes with love light shining
“R” means right and right she’ll always be
Put them together they spell “MOTHER”
A word the means the world to me.

Mừng Ngày Hiền Mẫu
Mẹ
Chuyển dịch: Thiên Duyên
“M” là triệu thứ trên đời,
Mẹ cho con cả không lời thở than
“O” là dấu vết thời gian,
Làm cho tóc mẹ ngày càng bạc thêm.
“T” là nước mắt bao đêm,
Khi con trở bệnh càng thêm lo nhiều.
“H” là bao nỗi thương yêu,
Trái tim của Mẹ đều dành cho con.
“E” là đôi mắt sáng ngời
Ấm tình mẫu tử trong hơn sao trời.
“R” là người mẹ tuyệt vời,
Bên con phân giải cạn lời thiệt hơn.
Sáu âm ghép lại thành tên
“MOTHER” – Thế giới yên bình của con!

 

*Ơn kêu gọi có là ơn để kêu và gọi?

Còn nhớ, cũng trong một số DIA hôm trước, Dân Gầy đã mạn phép đăng thư kêu gọi của Lm Yuse Tiến Lộc về việc giúp đỡ xây dựng nhà đệ tử/dự tập. Nay, Lm Tiến Lộc cũng lại có thư tâm tình khác, gửi người anh em như sau:

Kính gửi

Quý Ân nhân, thân hữu

Quý anh cựu tu sĩ và đệ tử DCCT Việt Nam,

 

Thưa quý vị và anh em than mến,

Vào Dòng Chúa Cứu Thế từ năm 1957 tới nay là trên 50 năm, tôi Yuse Tiến Lộc xin được có đôi hàng tâm sự với Quý vị và anh em.

Sống suốt thời đệ tử 7 năm tại Vũng Tàu, lên Nhà tập 1 năm tại Nha Trang, tiếp tục Học viện 6 năm tại Đà Lạt, đi giúp 1 năm tại Đệ tử viện Vĩnh Long, tôi được thụ phong linh mục năm 1972, tính tới nay đúng 36 năm, làm Đệ tử, Tập sinh rồi Sinh viên Học viền 14 năm liền, tôi được nuôi nấng, ăn học đầy đủ do công ơn Nhà Dòng. Để đáp trả, tôi nguyện ở lại phục vụ Nhà Dòng trong công việc đào tạo Linh mục tương lai suốt từ năm 1970 đến nay… lúc thì làm Thầy phụ tá, Cha Phó, lúc làm Giám đốc. Đi “tu huyền” về, dù không có Đệ Tử Viện, tôi vẫn tiếp tục công việc đào tạo tại tư gia nơi tôi thường trú, kết quả cũng giúp được trên một chục Linh mục tiến lên bàn thờ. Tôi nay lại được Bề trên bổ nhiệm làm Giám đốc các nhà Đệ Tử và Dự tập toàn quốc (gồm năm nhà: Hà nội, Huế, Nha Trang, Pleikly, Sài gòn) với tổng số sinh viên gần 200.

 

Trực tiếp lo Nhà Đệ Tử và Dự tập Sài gòn cùng với 3 Cha Phó tại Mai Thôn, tôi cũng có trách nhiệm tinh thần với 4 Nhà còn lạiđể điều hành đường lối huấn luyện cho thống nhất toàn Dòng. Mỗi Nhà đều có một Cha Phó Giám Đốc phụ trách, tổng cộng là 8 Linh mục lo công việc đào tạo nhà Đệ Tử và Dự Tập. Các nhà Hà nội, Huế, Nha Trang, Pleikly được Nhà Dòng sở tại bảo trợ nên tạm ổn định về chỗ ăn, chỗ ở do số Đệ tử ít.

 

Về chi phí đào tạo tại nhà Mai Thôn: Các em Ngoại trú (đang ở tại gia đình hoặc nhà trọ) tự túc, còn các em nội trú thì hàng tháng chi phí cho một người tiết kiệm lắm cũng phải hơn 1,000,000đ. Phần đóng góp của phụ huynh là 300,000đ/tháng cho 6 tháng đầu và 200.000đ/tháng cho những tháng sau đó (khoảng 20USD và 12 USD), Nhà Dòng bù đắp khoảng một phần ba ngân sách chi tiêu hàng tháng, phần còn lại do các ân nhân xa gần tuỳ hỷ đóng góp. Kết toán cuối tháng thường thâm hụt khoảng 20,000,000đ (tức 1,250USD). Do đó, sự sống luôn dựa trên Quan Phòng của Thiên Chúa từng ngày, từng tháng…, đó là chi phí ăn học và sinh hoạt khác, còn nhà ở của Đệ tử, chúng tôi chưa lo được, đang mượn tạm một số phòng tĩnh tâm của cộng đoàn Mai Thôn và làm tạm một số căn nhà lợp lá, lợp tôn, rất thiếu thốn các tiện nghi trong sinh hoạt…

 

Từ Hội Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp được tái lập với cha Giu-se Hoàng Phúc (cựu Giám Đốc) đã thành hình nên Gia Đình Ân Nhân Bảo Trợ Ơn Gọi Đệ Tử và Dự Tập từ hơn 5 năm qua, tạm bù lỗ một phần những thiếu trước hụt sau ấy… Tuy nhiên, với số sinh viên ngày càng đông, chi phí ngày càng tăng nên từ mấy năm nay, chúng tôi tiếp tục vận động để xin thêm ân nhân hỗ trợ việc đào tạo ơn gọi ở giai đoạn đầu tiên này… Các giai đoạn sau (Tập Viện và Học Viện) Nhà Dòng hoàn toàn lo cho các thầy sinh viên cho đến khi làm Linh mục.

 

Dó đó tôi, với tư cách Giám Đốc Đệ Tử Dự Tập, kính xin Quý ân nhân, Quý anh Cựu Tu Sĩ và Đệ tử DCCT quảng đại trợ giúp chúng tôi trong việc Bảo Trợ Ơn Gọi, và xây dựng Đệ Tử Dự Tập Viện

I. Việc Bảo trợ Ơn gọi:

Thể lệ và nội qui như sau:

1.Bổn phận: Cầu nguyện cho ơn gọi DCCT tại Việt Nam đang đà phát triển và rộng tay ủng hộ một số tiền tối thiểu là:

*tại Việt Nam 50,000đ/tháng hoặc 500,000đ/năm

*tại hải ngoại: 5USD/tháng hoặc 50USD/năm cho một Đệ Tử Dự Tập.

2.Quyền Lợi:

*Quý ân nhân được hưởng lợi ích lời cầu nguyện trong thánh lễ hàng ngày và một thánh lễ riêng hàng tháng.

*Một ân nhân qua đời khi được báo tin sẽ được dâng một thánh lễ riêng chỉ cho linh hồn người quá cố. Ở gần, sẽ có thánh lễ tại gia (nếu được phép của Cha Sở) và đại diện các em Đệ Tử Dự Tập phúng viếng.

3.Tài chánh:

*Tiền bạc xin góp chung cho một đại diện ở địa phương được uỷ nhiệm, xin ghi danh tánh và địa chỉ rõ ràng để chuyển về cho Ban Giám Đốc. Danh sách Quý Ân nhân sẽ được ghi trong Sổ Tri Ân lưu giữ tại Nhà Đệ Tử Dự Tập Sài gòn.

*Sau 5 năm Quý vị vị sẽ trở thành ân nhân vĩnh viễn của Dòng.

Việc xây dựng nhà Đệ Tử Dự Tập tương lai tại Mai Thôn:

Trước đây, Nhà Đệ Tử Dự Tập được đặt tại Nhà Kỳ Đồng, nay sỉ số sinh viên Học viện lên tới 100, nên Bề Trên đã di chuyển sang Cộng đoàn Mai thôn, đồng thời rời Tập Viện ra Cần Giờ; nên nhu cầu xây dựng một Đệ Tử Viện trở nên cấp thiết.

 

Chúng tôi một lần nữa tha thiết mong Quý Ân nhân và Quý anh Cựu Tu Sĩ, Đệ Tử DCCT tiếp tay để sớm thực hiện dự án này. Khi gửi tiền xin nêu rõ mục đích Bảo trợ Ơn Gọi hay Xây Dựng Đệ Tử Dự Tập Viện Mai Thôn.

 

Xin Chúa chúc lành và trả công bội hậu cho Quý vị.

Tận tình trong J.M.J.A.

DCCT MaiThôn, ngày 14 tháng Giêng 2008

Yuse Nguyễn Văn Lộc (Tiến Lộc)

Giám Đốc Đệ Tử Dự Tập DCCT

Địa chỉ liên lạc:

1.Lm Yuse Tiến Lộc

đt: 0918 344 344

2.Lm GB Nguyễn Công Nghiễm

đt: 0914 451 400

DCCT Mai Thôn – 970D Bình Quới

Q.Bình Thạnh- TpHCM

Anh em ở Úc muốn đóng góp, xin liên lạc với

Trần Ngọc Tá

33 Goodacre Ave

Fairfield West NSW 2165

Mob: 0410 590 243

(w): 9728 9688 – 9728 9288


*Có nên cười những chuyện như sau?

Nói đến hôn nhân, người dửng dưng hoặc “phớt tỉnh Ăng Lê” hẳn cũng phải có giây phút đến buồn cười, như ri:

Cũng là hỏi đáp:

Trước ngày cưới hỏi:

Chàng: Cuối cùng rồi cũng tới đó. Khó mà chờ.

Nàng: Anh có muốn em bỏ anh không?

Chàng: Không đâu! Anh chả bao giờ nghĩ thế.

Nàng: Anh yêu em không?

Chàng: Dĩ nhiên rồi. Lúc nào anh cũng thế.

Nàng: Có khi nào anh lừa dối em không?

Chàng: Không. Sao em lại hỏi thế?

Nàng: Anh có muốn hôn em không?

Chàng: Bất cứ khi nào anh có dịp.

Nàng: Anh sẽ đánh đập em chứ?

Chàng: Có mà  khùng! Anh không phải là người như thế. 

Nàng: Em có nên tin anh không?

Chàng: Có.

Nàng: Anh yêu ơi…

Sau ngày hợp hôn:

Chỉ cần đọc từ dưới lên.

 

*Về những vần thơ:

Có những vần thơ, nghe qua chi một lần.. rồi bỏ. Nhưng cũng có những thơ vần, nghe rồi vẫn không quên. Như các vần rất thơ và …thẩn, bên dưới:

Chưa đi chưa biết Nha Trang

Đi rồi mới biết họ sang hơn mình

Sáng tắm biển, chiều tắm sình.

Có hồ nho nhỏ cho mình rửa chân.

 

Chưa đi chưa biết Vũng Tàu

Đi rồi mới biết họ giàu hơn ta

Sáng tắm biển, chiều mát xa

Có gà móng đỏ, thả ra … đá liền.

 

Chưa đi chưa biết Đồ Sơn

Đi rồi mới biết chẳng hơn đồ nhà

Đồ nhà tuy có hơi già

Nhưng là đồ thiệt hơn là đồ sơn.

 

*Không phải đồ nào cũng sơn, nhưng thiệt:

Thiệt những chuyện vui buồn rất thiệt ở quê nhà, do đại diện GĐAP VN gửi qua:

XIN MUÔN ĐỜI CHÚC TỤNG, TÔN VINH VÀ TRI ÂN CHÚA.

“ TỐT ĐẸP ”

Quý bạn thường nghe tôi nói “ Tốt Đẹp ”. Hôm nay, tôi xin được chia sẻ với quý bạn về ý nghĩa của từ “ Tốt Đẹp ” này.

 “ Tốt Đẹp”: đây không phải là một tính từ hay trạng từ nữa, mà là một danh từ riêng. Chính vì vậy, nó được viết hoa một cách trang trọng. Ý nghĩa của từ “Tốt Đẹp” này vượt quá ý nghĩa bình thường của nó. Từ “Tốt Đẹp”, mỗi khi tôi nói, có

3 ý nghĩa:  đối Thần, đối Nhânđối Thân.

 *Đối Thần?

Mỗi khi vào chùa, tôi thấy quý sư và bà con Phật tử chào nhau bằng 2 tiếng “ Mô Phật ”. Họ nhắc nhở nhau hãy hướng lòng về Đức Phật để tôn thờ Ngài, để được sống theo lời Ngài dạy, giúp diệt tham, sân, si, giúp tâm được thanh tịnh, thanh thoát. Còn Công Giáo thì Chúa đã dạy “ Cấm kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ ”. Vì vậy, giữa bao yếu đuối, khó khăn, phong ba, bão táp trong cuộc sống, làm sao để mọi người có thể nhớ tới Chúa, sống kết hiệp mật thiết với Chúa, vì chỉ có Chúa mới đem đến cho mỗi người sự bình an đích thực, một cuộc sống yêu thương đầy ý nghĩa.  “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” ( Gl 2 , 20 ) . Vậy, tôi phải làm sao đây?... Sau một thời gian cầu nguyện, Chúa chỉ cho tôi: “ Con hãy lật chương đầu sách Sáng Thế Ký, con thấy từ nào xuất hiện nhiều nhất, con hãy chọn từ đó”. Tôi thấy ở Kn 1 , 3 – 31:  Khởi đầu công cuộc sáng tạo, mỗi ngày sau khi hoàn thành công trình của mình, Thiên Chúa đều thấy “tốt đẹp”. Và Thiên Chúa là Chân – Thiện – Mỹ, cũng là “Tốt Đẹp”.  Vì thế, Chúa đã chỉ cho tôi chọn từ Tốt Đẹp (viết Hoa) để thế Húy Danh của Ngài. Chính vì vậy, khi tôi nói “Tốt Đẹp”là để nhắc nhở tôi và mọi người:

     1 – hãy hướng lòng về với Chúa để CHÚC TỤNG, NGỢI KHEN, TÔN VINH và TRI ÂN NGÀI, vì Ngài đã hiến mạng sống để cứu độ chúng ta, đã và đang ban cho chúng ta quá nhiều ân phúc. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15, 13 )

     2 – hãy luôn SỐNG KẾT HIỆP MẬT THIẾT VỚI CHÚA, nhờ đó chúng ta kín múc được nhiều ân thánh để giúp chúng ta vượt thắng những đam mê tội lỗi, những hờn giận, ghét ghen, những nghịch cảnh, phong ba bão tố trong cuộc sống, hầu đem lại cho mỗi người chúng ta sự bình an đích thực, niềm vui và hạnh phúc trong Chúa. “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” ( Ga 15, 3 )

Có như vậy, chúng ta mới thực sự VUI SỐNG VỚI CHÚA TRONG HIỆN TẠI, TRONG TỪNG HƠI THỞ, TỪNG PHÚT GIÂY CỦA CUỘC SỐNG. Chắc chắn cuộc đời chúng ta luôn được bình an, thanh thoát trong Chúa.

 *Đối Nhân?

Đối với anh em, khi ta nói Tốt Đẹp, nhắc chúng ta nhớ rằng Chúa đang ngự nơi mỗi người anh em. Vì vậy, chúng ta không được NGHĨ XẤU, NÓI XẤULÀM XẤU đối với anh em, mà chúng ta nên NGHĨ TỐT, NÓI TỐT LÀM TỐT cho anh em của mình. Như vậy, chúng ta đang tích cực sống giới luật YÊU THƯƠNG của Chúa.“ Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy, giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô.” (Ep 4 , 31- 32) “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”(Ga 13,34)

Có như vậy,   chúng ta mới thực sự SỐNG YÊU THƯƠNG,  SỐNG HÀI HÒA VÀ SẺ CHIA VỚI MỌI NGƯỜI.

 

* Còn thế nào là đối Tâhn ?

Đối với bản thân, khi nói Tốt Đẹp là mình tự nhắc mình luôn cố gắng sống đời mình mỗi ngày một tốt đẹp hơn như lòng Chúa mong muốn.  

Chúa đã dạy: “các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng Hoàn Thiện.” (Mt 5 , 48)

Được như vậy, chúng ta mới thực sự VUI SỐNG VỚI CHÚA VÀ VỚI ANH EM TRONG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI CỦA ĐỜI MÌNH.

* Ý cuối cùng :

·       Chúng ta thấy 3 ý nghĩa: đối Thần, đối Nhân và đối Thân, đều tận cùng bằng“ – ân”. Ân ân sủng, 3 “ân” nghĩa là nhiều ân sủng, thành ra dòng sông ân sủng của Chúa. Nếu chúng ta thường xuyên sống với từ Tốt Đẹp là chúng ta được dìm trong DÒNG SÔNG ÂN SỦNG CỦA CHÚA nghĩa là ta đang sống ở Thiên Đàng Tại Thế, chứ không phải trông chờ ở đâu xa.

Giờ đây, quý bạn đã thông suốt ý nghĩa siêu nhiên của từ “Tốt Đẹp” mà tôi thường xuyên sử dụng. Kính mong quý bạn và tôi cố gắng luôn vui sống với “Tốt Đẹp.”

MẾN CHÚC QUÝ BẠN VÀ QUÝ QUYẾN LUÔN ĐƯỢC BÌNH AN, HẠNH PHÚC TRONG  TỐT ĐẸP,

Xin lưu ý: Nhiều người cảm thấy ngượng miệng, không dám nói Tốt Đẹp đang khi lòng mình còn nhiều sai lỗi, gian dối, ganh ghét, hận thù, v.v… Hãy can đảm lên! Đừng e ngại! Không ai dám tự hào cho mình là hoàn toàn đâu. Mọi người đều bất toàn. Vì thế, càng nhận ra mình yếu đuối,  nhiều sai lỗi, càng gặp nhiều đau khổ, thử thách, chúng ta càng phải nói Tốt Đẹp nhiều hơn nữa. Ơn Chúa sẽ giúp ta hoán cải, canh tân đời sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn, yêu thương nhiều hơn, tha thứ nhiều hơn, chia sẻ nhiều hơn.  “Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.”(2Cr 12 , 10) 

 XIN MUÔN ĐỜI CHÚC TỤNG, TÔN VINH VÀ TRI ÂN CHÚA.

 

*Người về từ cõi … nhớ:

Còn nhớ người anh em linh mục trụ trì xứ quảng, rất ư là đông Đông… từng bị gãy chân vì tai nạn xe cộ vào độ Giáng Sinh năm 2007, nay đã bình phục. Với cây gậy chống ngang nách. Với miếng sắt xuyên thịt. Nhưng “người” đã thoát chết trong gang tấc trở trong vui mừng. Mừng vui với nhóm nhỏ gia đình An Phong nhân buổi Khilikhitô tại nhà anh chị Mai Tá. Trong buổi này, dĩ nhiên có thần tăng khi tôkhily họ Mai tên Vanh Xăng. Và thần tăng nhà họ Mai có giòng chảy nhung nhớ niềm vui sau:

“Anh chủ biên thân,

Cảm ơn anh chị. Chiều nay, hai anh em chúng tôi về lạI Melbourne. Vài ngày trên Sydney, đặc biệt là buổi tối thứ Tư 15/5 vừa qua tại nhà anh chị thật vui.

Anh em mình tiếp tục liên lạc với nhau.

Hẹn ngày giỗ Thánh Tổ 3/8/2008 này.

Thân kính

MVThịnh 18/5

 

*Và một thư thăm hỏi khác, từ quê hu7ong:

Thư mang danh là của “Capô Cánh già” nhưng lại nói nhiều điều rất trẻ trung. Trẻ trung, tươi mát về tin tức. Trẻ về tinh thần, như sau:

“Gia đình An Phong Việt Nam, với tân Giám tỉnh, đã qui tụ lại mỗi tháng như thời gian trước đây. Vì nhiều lý do, nên nòng cốt là anh em giới trẻ (nhưng cũng đã trên dưới 60 cả rồi) tính từ thời Đệ tử Thủ Đức, tức từ lớp Vô Nhiễm năm 1969 đến lớp cuối cùng, năm 1975. Nhà Dòng cử một thầy trợ sĩ, thầy Phạm Công Thuận (thuộc lớp Vô Nhiễm, rời đệ tử Vũng tàu rồi trở lại nhà Dòng sau 30 năm, chỉ muốn là tu sĩ và thấy hạnh phúc trong bậc trợ sĩ…) phụ trách. Do đó, phương tức hoạt động của tụi em có hơi khác với anh nguyên quản gia trước đây, nên cũng có điều này tiếng nọ…

            Dù sao cũng là một khởi đầu mới. Điều quan trọng là tinh thần An Phong vẫn luôn là căn bản để mọi anh em bất kể tuổi tác, hoàn cảnh… có thể gặp gỡ nhau, làm cái gì đó cho nhau và cho nhà Dòng.

            Anh em đã nhận phụ trách một lớp giáo lý tân tòng tại 38 Kỳ Đồng, khai giảng đến nay vừa đúng một tháng!

            Trên đây là vài tin vụn để các anh hay.

            Luôn cầu cho nhau.

            Thân mến,

            Thành viên lớp Vô Nhiễm.

 

*Và một thư … luân lưu trong nhóm:

Thì ra cánh già hay cánh trẻ cũng đều có cánh. Có cánh là có bay và có nhảy. Nhảy từ đâu và đến đâu, ai biết. Nhưng nhảy cho nhiều, rồi cũng về lại chốn cũ. Với nhau. Với tình An Phong thân thương ấy, như:

Sài gòn, ngày 01/05/2008

Capô cánh già hân hạnh thông báo:

Thánh lễ tháng 5 sẽ được tổ chức vào Chúa Nhật thứ 2, ngày 11/5/2008, lúc 8 giờ tại nhà nguyện Cộng Đoàn Sài gòn, 38 Kỳ Đồng. Thân mời các anh, các chị, các cháu về dự đông đủ.

Nhịp cầu nối những bờ vui

É-phê ra phết, cái lá thư tầm phào tháng trước của ca pô cánh già. Có tấm giấy cầm tay nhắc nhở, các anh già và vợ con về dự lễ đông hẳn lên. Thì bây giờ xế chiều rồi, còn gì nữa đâu mà khóc với cười, lực bất tòng tâm, có muốn chơi nữa cũng chả được, chỉ còn lại chút tình với nhau, với nhà Dòng.

Chả vậy mà Henri Khắc đang nằm bệnh viện, cũng cố lết về họp mặt, thều thào ba điều bốn chuyện rồi lại vào viện.

Chả vậy mà các cô con gái của Basile Kính vẫn hào hứng về với gia đình, với các chú các bác, các anh chị em, cho dù hôm nay bố Kính đã về thiên đàng. Hình như mẹ Kính không được khoẻ phải không? Các con chuyển lời của Gia Đình An Phong đến mẹ Kính nhé.

Chả vậy mà “mệ” Thành đường xa vạn dặm, đón xe đò từ hai giờ sáng để về kịp giờ Lễ. Thương quá “mệ” ơi, cái thân cò da bọc xương ấy.

Chả vậy mà vợ chồng Hồ Trân từ Huế vào, cũng cố dành chút thời giờ tới capô cánh già, nói lời hiệp thông mặn nồng của Huế. Rồi từ Lâm Đồng, Sĩ Danh Điểm i-meo về rối rít thăm hỏi bà con trong họ ngoài làng.

Chả vậy mà … chao ôi! Kể sao cho hết cái tình này.

Tại sao không nhỉ, Hào – Huân - Huy ơi, một Chúa nhật thứ hai nào đó, một chuyến taxi thỉnh cây đại thụ của gia đình về dự Lễ, ông cụ được dịp thấy lại khung cảnh tu viện: Nhà nguyện, Phòng chung, Cha Giám tỉnh và các cha, vv. “Nếu trái núi không đến được với Mahomet thì Mahomet phải đến với trái núi.” Kinh Coran bóng bẩy dạy như vậy. Chả là cánh già hẹn nhau hôm lễ Phục Sinh vừa qua đi thăm anh già Trần Văn Hương, thân phụ của Hào Huân Huy đang nghỉ hưu ở Thủ Đức, thề non hẹn biển, đến ngày “N” thì bỗng anh A lên cơn tăng-xiông, anh B bị gút nó hành, vịn cầu thang lần từng bước rên rỉ… không còn đủ quân số để hành quân, đành dẹp.

Thế đấy, tuổi già như ngọn đèn trước gió. Cười nói duyên dáng như Nguyễn Hữu Đắc, Lê Bá Mưu, Nguyễn Văn Thọ… nhưng thực thì “trong héo ngoài tươi”. Cả đống bệnh trong người đấy.

Lại một lá thư tầm phào của capô cánh già, nhưng xin người đọc đừng quên dắt dìu nhau về dự Lễ.

Thân ái.

 

 

SUY NGHĨ TIẾP VỀ ĐỜI SAU                          _____________________________________________                                                                                 Lê Văn Khuê

                                                                                                                                                     

Trong thời gian gần đây, khi tuổi đời đã vượt qua ngưỡng cửa về hưu và khi được tin những người bạn cùng lứa thay nhau lìa khỏi thế gian này, tôi không thể không nghĩ đến đcai mà chính khách Mỹ Benjamin Franklin gọi là một trong hai điều chắc chăn nhất trong cuộc đời này: cái chết và thuế.  Trong Duc In Altum số 55, năm 2007, anh Mễ Duy, người bạn thân cùng lớp ở Đệ Tử Viện DCCT cũng đã đề cập đến vấn đề này trong bài “ Đời sau.”  Tuy nhiên trong bài này anh Mễ Duy bàn đến ý nghĩa của cuọc đời nhiều hơn là những gì sẽ xảy ra ở đời sau mặc dù anh có nói rằng “người đã từ trần không phải là một thứ “ hồn” nhẹ như không khí, ngược lại họ thấy được, nghe được, giữ lại mọi kỷ niệm của đời trần nay đã được đổi mới, được chiếu soi trong ánh sáng của vĩnh cửu.” Nghe mà thấy vui mừng phấn kích vì có phải tình yêu tôi dành cho ba mẹ, vợ con, anh em, tình bà con và tình bằng hữu thân thương sẽ không nhất thiết bị hủy diệt sau khi chết mà sẽ được giữ lại và thăng hoa?  Để tự trả lời cho mình vấn nạn này và để có được một niềm hy vọng kích thích tôi sống những năm còn lại của cuộc đời trần gian này, tôi đã nghiên cứu sách vở để tìm ra lời giải đáp. Và sau đây là những giải đáp mà tôi tổng hợp và nghĩ là thỏa mãn phần nào vấn nạn của tôi nhưng chắc chắn không phải là những giải đáp cuối cùng.  Do đó tôi xin bạn đọc góp ý để có thể có những giải đáp hoàn chỉnh hơn.  Tôi bắt đầu với ba câu hỏi, đương nhiên là của một người tin vào Đức  Giêsu Kytô.

1.                      Chết rồi, con người đi đâu?

2.                      Người chết sống lại như thế nào?

3.                      Khi nào thì người chết sống lại?

Để trả lời những câu hỏi này, trước tiên tôi tìm đọc Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo. Cuốn giáo lý chính thức của Hội thánh được ban hành ngày 11.10.1992, được dịch ra tiếng Việt và xuất bản ngày 21.7.1997 dạy rằng: “Khi chết, hồn lìa khỏi xác, thân xác con người lâm cảnh hư nát trong khi linh hồn đến gặp Thiên Chúa nhưng trong tình trạng chờ đợi được tái hợp với thân xác vinh quang.” (đoạn 997). Ở chỗ khác sách cũng khẳng định: “chết là “ra đi”, hồn lìa khỏi xác “ (đoạn 1005) và còn thêm rằng “ thông thường người ta chấp nhận là sau khi chết, hồn con người vẫn sống.” Khẳng định như vậy nghe có lọt tai con người ngày nay trong khi tư tưởng hiện đại cho rằng phân biệt thể xác với linh hồn là quá đơn giản hóa vấn đề. Lm. Thiện Cẩm trong bài” Viếng người chết để nghĩ về cái chết” (Nguyệt San Công Giáo và Dân Tộc tháng 11, năm 2006) cũng đã viết rằng “ nếu cứ nghĩ và diễn tả theo thói quen của chúng ta, nghĩa là người chết thì linh hồn lìa khỏi xác thì như vậy chẳng còn là người vì hồn một nơi, xác một nẻo, có khi bị thối rửa, thậm chí bị thiêu thành tro… và một linh hồn ngoài thân xác thì cũng giống như loài thiên thần, là giống thiêng liêng. Tóm lại hồn xác tuy khác nhau nhưng không thể tách rời.”

Trong cùng chiều hướng đó, cuốn Giáo lý của Hàng Giáo Phẩm Giáo Hội Hà Lan (bản Tiếng Việt: Giáo lý Mới Triều Đại Mới do Nguyễn Ước giới thiệu và biên dịch, nhà xuất bản Tôn giáo 2005) lúc đầu cũng công nhận việc phân biệt giữa thể xác và linh hồn ( “sau khi chết, linh hồn tiếp tục hiện hữu cách riêng trong khi thể xác mục nát”) là một cách diễn tả không làm sáng tỏ vấn đề.  Tuy nhiên, ở trong văn bản sửa đổi (trang 925), khi trích dẫn lời của Đức Giêsu nói với người trộm lành, “Hôm nay ngươi sẽ ở trên Thiên Đàng làm một với ta” (Lc 23.43) và câu “Đừng sợ những kẻ giết được thể xác nhưng không giết được hồn,” (Mt 10:28) sách lại khẳng định rằng Chúa muốn nói đến “cái gì đó”, là thành tố đích thực nhất của con người có thể dành lại sau khi chết. Nó là cốt tuỷ sống động của con người, được dựng nên để sống trong một thể xác, nhưng nay nó tiếp tục sống tách biệt khỏi một thể xác đã chết (trang 924).

 

Nói như vậy phải chăng tựu trung cũng trở về với sự phân biệt hồn xác như sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo? Thực ra, có lúc sách Giáo Lý Hà lan đã đi tới chỗ giả thiết rằng “sự hiện hữu sau khi chết vốn là một cái gì đó giống sự sống lại của một thể xác mới, thể xác của sự sống lại mới này không là những phẩn tử được chôn cất và tan tác trong lòng đất (trang 776). Nhưng đó là điều xảy ra sau này khi Đức Kitô quang lâm và làm cho kẻ chết sống lại.

 

Trước những mâu thuẩn trên, phải giải quyết vấn đề ra sao đây? Quả thực, sự mập mờ này bắt nguồn từ Kinh Thánh. Kinh Thánh nói chủ yếu đến sự sống lại của toàn bộ con người, đến sự sống lại của người chết với linh hồn và thể xác. Nhưng đó là điều chỉ đến về sau.  Còn vấn đề ngay sau khi chết những người chúng ta thương yêu lúc này ở đâu? Rõ ràng là Kinh Thánh không đi sâu vào vấn đề này. Các tác giả thần hứng không dự tính đưa ra thông tin rõ rệt về “cách” của đời sau, vì thế các ngài không đưa ra học thuyết rõ ràng về cách con người hiện hữu với Thiên CHúa sau khi chết. Và vì Kinh Thánh không rõ ràng về vấn đề này nên Hội Thánh chọn cách diễn tả dễ hiểu nhất mà nói rằng “khi chết, hồn lìa khỏi xác, thân xác con người làm cảnh hư nát trong khi linh hồn đến gặp Thiên Chúa, nhưng trong tình trạng chờ đợi được tái hợp với thân xác vinh quang.” (đoạn 997)

 

Đến đây chúng ta trở lại với câu hỏi đã đặt ra ở trên là nói như vậy nghe có xuôi tai chăng đối với con người hiện đại nhờ khoa học thần kinh (neuroscience) mà biết được rằng ý thức là sản phẩm của bộ não con người, và khi hoạt động của bộ não ngưng thì ý thức của người đó không còn hiện hữu nữa (xem tạp chí Time số 12 tháng 2, 2007)?  Nói cách khác, khoa học không tin có linh hồn và cũng không tin linh hồn bất tử.

 

Việc tin có linh hồn là lãnh vực của tôn giáo, của tín ngưỡng, tức của lòng tin.. Nhưng ở đây không chỉ tin có linh hồn và tin linh hồn bất tử nhưng lòng tin đó được đặt nền tảng trên lòng tin có một Thượng Đế là Khởi Nguyên và Cứu cánh của vũ tru (bởi có những tín ngưỡng tin có linh hồn nhưng không đặt vấn đề về sự hiện hữu của một Thượng Đế). Riêng đối với Kytô Giáo lòng tin vào sự bất tử cuả linh hồn và sự hiệu hữu của Thiên Chúa lại được đặt nền tảng trên một sự kiện cụ thể xảy ra trong lịch sử con người chứ không phải tin một cách vu vơ. Đó là việc làm chứng của các Tông đồ về việc Đức Giêsu sống lại. Không có con mắt loài người nào chứng kiến ngay lúc Đức Giêsu sống lại. Việc sống lại vượt ngoài phạm vi quan sát sử tính. Chỉ có việc làm chứng của các Tông đồ là có tính lịch sử, và vấn đề là sự làm chứng của họ có đáng tin cậy không? Và sau khi cân nhắc, người ta thấy rằng không có chứng từ nào thuyết phục hơn là tính cách nhất quán của Tân ước (về giá trị sử tính của sách Tân Ước, xem The Case for Christ của Lee Strobel, Zondervan Publishing House, Michigan 1998). Qua các văn bản xưa nhất cho đến sau cùng nhất của sách Tân Ước chỉ có một điều duy nhất được nói lên. Đó là “Thiên Chúa đã làm cho Đức Kytô sống lại từ cõi chết (1 Tx 1:10) và các Tông đồ “đã thấy Chúa” (Ga 20:25). Đến đây chúng ta cũng cần đọc lại đoạn văn làm chứng xưa nhất về việc Đức Giêsu phục sinh. Vào khoảng năm 53, tháng Phaolô đã viết cho tín hữu thành Côrintô khẳng định là ngài nhận được chứng cứ qua truyền thống. “Vì tiên vàn mọi sự tôi đã truyền lại cho anh em chính điều tôi đã chịu lấy, là Đức Kitô đã chết vì tội lỗi chúng ta, theo lời Kinh Thánh, là Ngài đã bị chôn cất, là Ngài đã sống lại, ngày thứ ba, theo lời Kinh Thánh, là Ngài đã hiện ra cho Kêpha, đoạn cho nhóm mười hai. Rồi Ngài hiện ra cho hơn năm trăm anh em một lần, trong đó phần đông đến nay v ẫn còn sống, nhưng cũng có những người đã yên nghỉ. Rồi cuối cùng Ngài đã hiện ra cho Giacôbê, đoạn cho các Tông Đồ hết thảy. Cuối hết Ngài đã hiện ra cho cả tôi nữa, là kẻ không khác một đứa con ranh.” (1 Cr.15: 3-8)

 

Như  vậy, cuối cùng chính Đức Kitô Phục sinh là nguyên lý và nguồn mạch sự sống lại của chúng ta mai sau: “Đức Kitô đã chổi  dậy từ cõi chết, mở đường cho những ai đã an giấc ngàn thu… như mọi người vì liên đới với Adam mà phải chết thì mọi người, nhờ liên đới với Đức Kitô, cũng được Thiên Chúa cho sống lại.” (1Cr15: 21-22)

 

Nhưng đó là sống lại vào thời sau hết khi Đức Kitô quang lâm cùng với toàn bộ cuộc sáng thế mới (Kh.21:5). Vấn đề ở đây là có phải người chết lập tức được hạnh phúc diện kiến thánh nhan Thiên Chúa như lời dạy của sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo: “Khi chết, hồn lìa khỏi xác, thân xác con người lâm cảnh hư nát trong khi linh hồn đến gặp Thiên Chúa…”? Mặc dầu sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo cũng như sách Giáo Lý Hà Lan có đề cập đến luyện ngục như là sự thanh luyện cần thiết nào đó trước khi diện kiến thánh nhan Thiên Chúa, một số nhà thần học ngày nay đã không hình dung luyện ngục như một nơi hoặc một giai đoạn thanh luyện sau khi chết ma ngay khi chết con người đã được Thiên Chúa phán xét, thanh luyện, chữa lành trong ân sủng của Ngài. (xem Hanskung, Credo, La confession de foi des Apotres expliquee aux hommes d’aujourd’hui, Editions du Seuil, 1996 trang 230-231). Nghĩa là người chết tận hưởng nhan thánh rõ ràng của Thiên Chúa Ba Ngôi cả trước khi Đức Kitô quang lâm. Tuy nhiên đó không là vinh quang đầy đủ và tuyệt đối. Vinh quang này sẽ diễn ra lúc Đức Kytô lại đến cùng với toàn bộ cuộc sáng thế mới. Lúc ấy, Đức Giêsu sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của ta sao cho nên đồng hình đồng dạng với thân xác vinh quang của Ngài (Pl. 3,21).

 

Bây giờ chúng ta chuyển qua vấn đề thứ hai: Chúng ta sẽ phục sinh như thế nào? Đây không phải là một vấn đề dễ dàng. Chính sách Giáo Lý Hội thánh Công Giáo đã khẳng định. “ Thân xác con người phục sinh như thế nào là điều vượt qua sức tưởng tựơng và hiểu biết của chúng ta.” (đoạn 1000)  Vậy chúng ta hình dung việc sống lại như thế nào đây? Chúng ta hãy trở lại với cội nguồn của lòng tin của chúng ta là Đức Giêsu Phục Sinh. Ngài đã phục sinh như thế nào? Đức Giêsu đã phục sinh với chính thân xác mình: “Hãy nhìn chân tay Thầy coi; đúng là Thầy đây mà.” (Lc 24:39)  Nhưng Người không trở về với đời sống trần thế. Đúng vậy, Đức Giêsu sau khi sống lại thì  cũng có khác biệt tới độ các Tông đồ biết rằng đó chính là Chúa nhưng thoạt đầu không nhận ra Người. Đó là thân xác vinh quang của Người, và Người cũng sẽ biến đổi thân xác khốn hèn của ta giống như vậy. “Mọi người sẽ sống lại với thân xác của mình, thân xác họ đang có bây giờ.” (Công đồng Latran IV: DS801, sách Giáo Lý Hội thánh Công Giáo đoạn 999) nhưng thân xác đó sẽ biến đổi thành “thân xác vinh hiển”, thành “thân xác thần thiêng” (1Cr.15:44).  Chính thánh Phaolô đã quả quyết: “Có người thắc mắc: kẻ chết sống lại như thế nào? Họ lấy thân hình nào mà trở về? Đồ ngốc! Ngươi gieo cái gì, cái ấy phải chết mới được sống. Cái người gieo không phải là hình thể sẽ mọc lên, nhưng là một hạt trơ trụi… Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà chổi dậy thì vinh quang, gieo xuống thì yếu đuối mà chổi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là xác khí huyết, sống lại là xác thần thiêng…Quả vậy, cái thân phải hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt và cái thân phải chết này sẽ mặc lấy sự bất tử. (1 Cr 15, 35-37, 42-53) Tác giả Hanskung trong sách đã trích dẫn ở trên đưa ra hình ảnh cái kén và con bướm để diễn tả sự biến đổi từ xác khí huyết thành xác thần thiêng (trang 148).

 

Vậy thì điều này sẽ xảy ra lúc nào? Nói cách khác, lúc nào thì Đức Kitô quang lâm và biến đổi thân xác hư mất của chúng ta thành đồng hình đồng dạng với thân xác hiển vinh của Người? Kinh thánh nói chỉ có Chúa Cha mới biết khi nào sự kiện này sẽ xảy ra. Tuy nhiên, chúng ta có quyền suy luận, và điều chắc chắn mà chúng ta có thể nắm được là nó sẽ không xảy ra trong một tương lai gần đây như thời các Tông đồ đã nghĩ. Trong ánh sáng của những khám phá mới của thiên văn học thì chúng ta có thê suy đoán là cũng còn phải lâu lắm nữa nó mới xảy ra. Phải mất 15 tỷ năm kể từ khi hiện tượng Big Bang xảy ra để vũ trụ có hình dạng ngày hôm, 5 tỷ năm để trái đất hình thành, 1 triệu năm (?) để loài người, cùng đích tối hậu của tiến hoá, đạt đến tầm mức hôm nay thì không lý nào ngày một ngày hai lại kết thúc một cách đột ngột được. Đương nhiên con người ngày hôm nay với kho vũ khí hạt nhân khổng lồ của mình có thể tiêu diệt luôn toàn thể loài người trong chốt lát, nhưng trái đất và vũ trụ chắc hẳn vẫn còn đó. Nếu phải mất 15 tỷ năm để vũ trụ hình thành thì có lý mà suy đoán rằng tối thiểu cũng còn phải 15 tỷ năm nữa vũ trụ mới đi đến chổ kết thúc (và sau đó cũng có thể khởi đầu lại).

 

Kinh thánh gọi vũ trụ và nhân loại vào thời Chúa quang lâm là “Trời Mới và Đất Mới” nơi đó cuộc sống và lao động trong lịch sử của chúng ta thật sự được biến thể mà không nhất thiết bị huỷ diệt. “Bởi vì tất cả những thành quả tuyệt hảo của bản chất và tài năng chúng ta mà chúng ta đã tạo nên khắp địa cầu theo mệnh lệnh của Chúa và trong Thánh Thần, chúng ta sẽ nhận chúng lại sau này nhưng chúng đã được thanh luyện khỏi mọi tì ố, được chiếu sáng và biến đổi khi Chúa Kitô trao lại Chúa Cha vương quốc vĩnh cửu và đại đồng (Gaudium et spes 39, 3). Do đó sự trông đợi Trời Đất Mới không làm suy giảm mà trái lại phải kích thích chúng ta nỗ lực phát triển tình yêu và tiến bộ trên trái đất này.

 

Trong ý nghĩa đó thì chúng ta không phải bận tâm đến lúc nào Trời Mới Đất Mới sẽ được thể hiện; đó là việc của Thiên Chúa, và cũng vì chúng ta sống quá lắm cũng trăm tuổi là cùng. Cho nên khi sống, chúng ta phải quan tâm đến phát triển tình yêu và tiến bộ trên trái đất này theo hoàn cảnh và tài năng của mình, biết rằng những nổ lực của chúng ta sẽ không mất đi mà sẽ được Thiên Chúa biến đổi. Và khi chết thì chúng ta biết chắc rằng chúng ta không hư mất đi mà sẽ trở về với Thiên Chúa và những người thân yêu của chúng ta đã ra đi trước chúng ta và cả toàn thể những người đã chết, hạnh phúc trong “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14,17).

 

Trong cuộc sống hiện tại của riêng mỗi người, đó chưa là thực tại, nhưng là một hy vọng, một hy vọng kích thích chúng ta sống, lao động và xây dựng và thương yêu. Và nói như thánh Phaolô , “Hy vọng mà thấy được thì hết là hy vọng, vì điều thấy được ai nào còn hy vọng nữa! Nhưng nếu thực ta hy vọng điều ta không thấy, thì ta kiên nhẫn đợi trông.” (Rm8:24-25). Điều khốn khỗ nhất là sống mà không có hy vọng.

 

Lê Văn Khuê

NHỮNG CỤ GIÀ “ĐI BỤI”

Chỉ vì con cái ăn ở phụ bạc, nhiều ông, bà, cha, mẹ... đã phải bỏ nhà ra đi, tới các thành phố lớn kiếm việc làm mưu sinh. Cũng có cụ già bị đi lạc không còn nhớ đường về quê quán. Họ phải làm đủ thứ nghề để sống qua ngày, từ bán vé số, ăn xin, thậm chí cả nghề... “hai ngón” (móc túi). Những chuỗi ngày cơ cực, lấy vỉa hè, công viên làm nhà. Cuộc sống cứ thế lặng lẽ trôi...

Lang thang đầu đường xó chợ

Cứ mỗi buổi sáng tinh mơ nhiều người ở khu vực phường 7, quận 3, Sài-gòn, đã thấy bà Hai “ve chai” tay xách nách mang chiếc bị đi nhặt những thứ phế thải có thể bán được. Lúc đầu mọi người cứ ngỡ là do hoàn cảnh khó khăn nên phải lặn lội vào Sài-gòn làm nghề ve chai để sống. Nhưng không, bà có ba người con đều thành đạt và khá giả ở một tỉnh miền Tây. Khi còn sống ở quê, bà sống với người con gái út, nhưng do gia đình thông gia thường có những lời qua tiếng lại nói xấu nên bà chịu không nổi, bà đã bỏ lên đây kiếm sống.

Khi được hỏi: “Sao bà không sống với người con khác ?” Bà rưng rưng: “Hai thằng con trai đầu đều sợ vợ, chúng sống chẳng khác nào cái bóng trong gia đình. Vợ bảo gì nghe nấy không hó hé lấy một câu. Thực tế chúng nó cũng thương tôi lắm, nhưng vợ chúng nó thường cho tôi là người vô tích sự, chẳng làm được việc gì nên hồn. Cứ về đến nhà là nói bóng nói gió với chồng là bà ở nhà chùi cái nhà không xong, rửa cái chén cũng chẳng sạch, còn nấu ăn thì lúc mặn nhạt thất thường”.

Giận con dâu bất hiếu, bà Hai bỏ lên thành phố làm nghề ve chai. Bỏ nhà đi đã lâu nhưng con cái bà vẫn chẳng quan tâm mẹ mình đi đâu, làm gì. “Lên thành phố làm cũng kiếm được năm, sáu chục ngàn một ngày coi như cũng đủ sống qua ngày và trả tiền phòng trọ. Tự làm ăn kiếm sống tôi lại thấy lòng thanh thản”, bà Hai tâm sự.

Không may mắn như bà Hai “ve chai”, bà Nguyễn Thị Lợi, 74 tuổi, quê ở Hải Phòng trong một lần vào thăm con gái lấy chồng ở Nha Trang vì mất địa chỉ con, đã lạc vào Sài-gòn. Vào thành phố không người thân thích, không một xu dính túi lại mang chứng bệnh đãng trí nên bà không còn nhớ rõ quê quán để liên lạc.

Ngày ngày bà đi khắp nẻo đường xin ăn sống qua ngày, ban đêm gặp đâu ngủ đó. Cuộc sống của bà Lợi vật vờ trôi tháng này qua tháng khác “tối đâu là nhà, ngả đâu là giường”. Năm 2004 trong một lần ngủ vật vờ trong công viên

Lê Văn Tám, bà Lợi đã được công an đưa về Trung Tâm Bảo Trợ Xã Hội Chánh Phú Hoà để an hưởng tuổi già.

Không còn nhớ đường về quê

Các cụ ở Trung Tâm Chánh Phú Hoà luôn mong ước được đoàn tụ với gia đình.

Tại Trung Tâm Bảo Trợ Xã Hội Chánh Phú Hòa, tỉnh Bình Dương, cụ Nguyễn Thị Hai, sinh năm 1928, sụt sịt khóc: “Nhớ nhà, nhớ quê, nhớ con cháu quá!”. Hỏi quê ở đâu thì cụ không nhớ được, chỉ nhớ nhà ở cạnh chùa Năm Hương, trong xóm có ông Sáu Khê, ông Chín Khương. Ngay cả lý do đi lạc, cụ cũng lẩn thẩn không nhớ ra. Khi thì cụ bảo vào thành phố thăm con, không kiếm được nhà, lúc thì cụ nhớ đi chùa rồi không tìm được lối về...

Ký ức người già thường lẫn lộn, nhớ, quên là chuyện thường nhưng đối với những người già đi lạc sao

mà bi kịch và thương tâm đến vậy. Chuỗi ngày thất lạc của mỗi bà là một câu chuyện đẫm nước mắt.

Trường hợp bà Nguyễn Thị Nụ, sinh năm 1938, gốc Bắc, một người đàn bà thuần nông, cả đời chưa bước chân ra khỏi luỹ tre làng. Nhưng rồi nghịch cảnh xô đẩy, năm 1954, hai đứa con của bà, đứa nhỏ 1 tuổi, đứa lớn vừa lên 2 bị một đôi vợ chồng người Pháp cướp khỏi tay.

Trong nỗi đau mất con, bà Nụ đã dò hỏi khắp nơi và biết được đôi vợ chồng nọ cùng 2 đứa trẻ mua vé bay vào Sài-gòn. Bà đi tìm con theo bản năng của một người mẹ khổ đau. Đi, đi mãi... Năm 1976 bà được đưa vào Trung Tâm, ký ức về người thân, quê quán đã bị xoá sạch.

Cụ nói: “Nhà tôi ở cạnh bờ đê một con sông lớn, phía trước là đồng ruộng mênh mông...” Làng quê Việt Nam ở đâu mà chẳng có sông, có đồng ruộng, quê bà biết tìm đâu bây giờ ?

Bà Phạm Thị Lan, 70 tuổi quê Yên Mỹ, Hưng Yên vì chán cảnh không có con nên đã bỏ nhà ra đi vào Sài-gòn sống bờ, sống bụi. Bà kể: “Lúc còn là thiếu nữ tôi lấy chồng và có công việc ổn định ở một nông trường, nhưng khổ nỗi không sinh lấy nổi một mụn con để nối dõi tông đường nên ông ấy đã bỏ tôi đi lấy vợ khác. Sau đó tôi có hai đời chồng nữa cũng không sinh được con, chán đời tôi đã phải bỏ quê”.

Cuộc sống tha hương cầu thực nay đây mai đó đã biến bà từ một con người thật thà hiền lành trở thành một người chuyên trộm cắp lúc nào không hay. Bà bảo: “Tôi bất mãn vì cuộc sống. Người đàn ông nào lấy tôi đều muốn sinh con đẻ cái cho họ. Còn tình cảm thì không. Tôi là người phụ nữ cũng khao khát được làm mẹ, nhưng ông trời không cho. Xin con nuôi các ông chồng của tôi đều không đồng ý. Chính vì hoàn cảnh éo le như vậy đã biến tôi thành một con người khác”.

Cuộc đời còn lại bà Lan chỉ mong được về quê mở một một tiệm tạp hoá sống với bà con làng xóm. Nhưng khổ nỗi không ai bảo lãnh cho bà. Chỉ có một người anh trai ở quê nhưng quá nghèo không thể vào để đưa bà về được...

Ông Đoàn Thanh Liêm, ở khu người già, Trung Tâm Bảo Trợ Xã Hội Chánh Phú Hòa, cho biết: “Hiện nay trung tâm chúng tôi có trên 100 cụ già đều bị thất lạc quê quán. Một số người không muốn trở về quê sống với con vì phải chịu cảnh là “người vô dụng, ăn bám” trong gia đình. Chính vì vậy họ thường khai những địa chỉ ma. Khi chúng tôi cho nhân viên đem thư, thậm chí về tận địa chỉ mà họ khai nhưng đều là giả mạo”.

Cuộc sống của những người già nơi đây đang rất cần nhận được sự quan tâm chăm sóc của xã hội không chỉ vật chất mà cả tinh thần.

Hai vụ  tòa Khâm sứ

và giáo xứ Thái Hà:

sơ lược, trích dẫn.

 

Có thể sơ lược các diễn biến hai vụ này qua ba giai đoạn chính như sau :

 

- giai đoạn một : Vào khoảng giữa tháng 12.2007, nhà cầm quyền Cộng Sản (NCQCS)  địa phương Hà-nội đột nhiên gia tăng công cuộc chiếm dụng ít nhất là trên một  tòa nhà và một mảnh đất thuộc Giáo hội Công giáo Việt Nam ( GHCGVN). Tòa nhà là tòa Khâm sứ ( TKS), ngày xưa nằm trong khuôn viên tòa Tổng Giám Mục ( TTGM)  Hà Nội. Mảnh đất là của giáo xứ Thái Hà(GXTH) .  Hai tài sản này, -như hàng chục, có thể là hàng trăm, tài sản khác của GHCG và các tôn giáo khác- đã bị NCQCS chiếm dụng ở ngoài Bắc cũng như trong Nam. Hành động gia tăng gia công đơn phương như thế nói ở đây là một sự chà đạp quyền sở hữu của GHCG và làm cho việc GH đòi lại đất và tài sản càng ngày càng trở nên mỏng manh.Trước sự kiện «leo thang» đó trong ý đồ tước đoạt luôn, tòa TGMHN và GXTH  bắt buộc phải có phản ứng nếu không thì với thời gian sẽ đương nhiên mất quyền sở hữu.

*« Một bức tường ngăn cách giữa TGM và Toà Khâm sứ đã bị tịch thu được xây lên. Không biết do bên nào và từ bao giờ. Nhưng ngày trước các cụ nói không có bức tường ấy.

«Khi chúng tôi còn bé, cho đến cuối thập niên 1980, chúng tôi thấy người ta dùng làm Cung Thiếu nhi. Trong thời gian này họ xây một số công trình ở phía trước và phía sau toà nhà cũ của Toà Khâm sứ.

«Mấy năm trước đây, họ phá toà nhà phía trước, tính tái quy hoạch và xây dựng công trình gì đó. Dạo ấy, TGM Hà Nội có gửi thư đi các giáo xứ để kêu gọi giáo dân cầu nguyện. Tưởng như chính quyền sắp trả đến nơi. Các công việc sửa sang, xây dựng bị dừng lại.

«Tuy nhiên, ngôi nhà bé mới quay mặt ra phố Nhà Chung vẫn dùng làm nơi bán phở. Trong khi ngôi nhà họ xây phía sau toà nhà cũ của Toà Khâm sứ hiện vẫn là một địa điểm kinh doanh-một khu ăn chơi-tối đến điện đóm sáng choang-ồn ào và bát nháo cạnh khu vực tôn nghiêm là TGM và Nhà thờ Chính Tòa.

«Thế nhưng thời gian qua đi, chuyện vẫn dậm chân tại chỗ. Tệ hơn, từ tối 12.12, chúng tôi thấy có bắt đầu tập kết phương tiện. Từ sáng 13.12 chúng tôi thấy người ta bắt đầu ngang nhiên dỡ mái Toà Khâm sứ. Công việc đang tiếp tục đến nay là ngày 18.12. Chúng tôi chẳng biết cơ quan nào. Hỏi bảo vệ thì các anh nói không biết. Đến hôm 15 nghe thư của Đức Tổng Giám Mục Hà Nội, mới biết họ định dùng làm ngân hàng. Trong khi khoảng sân rộng phía trước Toà Khâm Sứ, người ta đã cho siêu thị điện máy Nguyễn Kim nằm ở phố Tràng Thi gần đó thuê làm bãi giữ xe. Nhưng sân rộng cỏ tốt chiều chiều người, trẻ và chó vẫn vào chơi. Buổi sáng cũng như chiều có người còn dắt chó vào “ị” ở khu vực sân xa xa giáp tường.

«Xin nói thêm, trong những năm gần đây, một cách chính thức, ngoài Giáo xứ Cửa Bắc và Thượng Thuỵ có đòi được một chút nhà đất, còn lại các chỗ khác như Toà Giám Mục, Nhà thờ Đa Minh, Nhà thờ Sainte Marie, Giáo xứ Hàm Long, Giáo xứ Thái Hà-DCCT, Giáo xứ Hàng Bột vẫn chưa đòi được tý nào. Có chỗ còn tiếp tục bị mất thêm do giới công quyền lạm dụng chức vụ chiếm dụng và hợp thức hoá trái phép.

 

 

«Chúng tôi đi qua đi lại khu vực Toà Giám Mục khá thường xuyên. Chúng tôi cảm thấy bị xỉ nhục lắm rồi! Vì nơi thánh mà bây giờ lâm cảnh “Heo rừng vào phá phách-dã thú gặm tan hoang”! Chúng tôi cảm thấy sốt ruột lắm rồi! Hãy chờ xem sự thể vụ chiếm dụng Toà Khâm sứ này diễn ra thế nào và kết cục ra sao!»

         (trích bản tin Thành Tâm, Hà Nội 18.12.2007)

 

*«Trong lúc cả Giáo hội Việt Nam thắp nến đòi công lý tại Toà Khâm sứ, số 40 A phố Nhà Chung, Hà Nội; trong lúc Chính quyền đang có những cam kết trả lại khu vực Toà Khâm sứ, thì ngay lúc này, Chính quyền Cộng sản cử hàng trăm cán bộ, an ninh, công an 113, thanh tra xây dựng, dân phòng... làm hàng rào bảo vệ cho Công ty Cổ phần May Chiến thắng xây dựng trái phép trên khu đất của giáo xứ chúng con. Bên cạnh đó, họ còn thiết lập một hàng rào giây thép gai, được gia cố bằng một lưới thép B40. Khi giáo dân của giáo xứ đến, cán bộ, công an, dân quân đồng loạt trấn áp, đe doạ bỏ tù... khiến giáo dân Thái hà chúng con bức xúc cao độ về sự vi phạm trắng trợn này »

              (trích « tiếng kêu khẩn cấp từ giáo xứ Thái Hà

                    Đống Đa, Hà nội – giáo dân xứ Thái Hà »)

 

-          giai đoạn hai : 

Về phía GHCG :

Để đối phó, tòa TGMHN và ban quản hạt GXTH đã:

a) kêu gọi giáo dân cầu nguyện trong an bình và rất ư trật tự tại TKS GXTH.

b) tiếp cận trong ôn hòa và lễ độ NCQCS địa phương bằng văn thư và những cuộc thăm viếng chúc tết.

c) kêu gọi tín hữu ở xa cách hiện trường trong nước và ngoài nước hiệp thông cầu nguyện và hổ trợ truyền thông.

*«Một lối ứng xử chưa từng có trong lịch sử Giáo phận Hà Nội. Hàng nghìn người có mặt tại Toà Khâm Sứ trong đêm. Thắp nến hát thánh ca cầu nguyện đòi công lý.

« Lời Kinh Hoà Bình của ca đoàn tổng hợp trong đêm Hát lên mừng Chúa vừa dứt trong tiếng vỗ tay, thì tiếng một cha nào đó vang lên trên hệ thống tăng âm có vẻ vừa ngọt ngào và hiền hoà, vừa nghiêm trọng và quyết liệt. Ngài nói đến việc đòi đất Toà Khâm Sứ theo nội dung của bức thư chung của Đức Tổng Giám Mục gửi cộng đồng dân Chúa ngày 15.12 vừa qua.

«Lúc đó là 22 giờ 6 phút.

«Kết thúc ngài nói: “Để các cấp chính quyền sớm giải quyết đúng với mục tiêu công bằng, văn minh, trên đường ra về, chúng ta hãy hướng về Toà Khâm Sứ. Xin tất cả hãy đi hàng đôi hướng về Toà Khâm sứ và đọc kinh cầu nguyện.”- Tôi đang mải chạy cho nên nhớ không chắc đúng từng từ.

«Tức thì tôi thấy một đoàn rước đông đảo. Thánh giá nến cao đi đầu. Theo sau là một đoàn người đông đảo. Khoảng hơn 2000 người. Có linh mục, tu sĩ, chủng sinh, giáo dân. Trong và ngoài giáo phận. Cả cán bộ nữa có lẽ. Vì vừa có buổi trình diễn thánh ca và khách tham dự thuộc nhiều đối tượng và đến từ nhiều giáo phận Miền Bắc. Tất cả trong trang phục lễ hội. Từ sân Đại Chủng viện đoàn người đi qua khu vực Toà Giám Mục tiến thẳng sang sân Toà Khâm sứ, nơi đang bị chiếm dụng bất công và bất hợp pháp từ gần nửa thế kỷ nay. »

(trích bản tin «Hà nội thắp nến đòi công lý»,Thành Tâm)

*«Tối nay, vào lúc 19giờ30, sau thánh lễ, khoảng hơn 3000 giáo dân giáo xứ Thái Hà đã tiếp tục thắp nến đòi công lý, tại khu đất mà sáng nay Chính quyền Cộng sản dàn quân hỗ trợ cho Công ty Cổ phần May Chiến Thắng xây dựng trái phép trên khu đất của Dòng Chúa Cứu Thế.

«Chúng tôi nhận thấy giáo dân Thái Hà trên cả tuyệt vời, một lòng một ý, một niềm tin tưởng sắt son vào tình thương Chúa cao vời.

«Cũng nên biết, chiều nay, hơn 1000 em thiếu nhi đã sang tận khu đất để dâng lời cầu nguyện cho Nhà Dòng. Lời kinh hoà bình vang lên từ đôi môi trẻ thơ mới thấy đẹp và xúc động dường nào. Tôi không biết những vị công an hiện diện ở đấy nghĩ gì, chỉ biết rằng một chiến sĩ công an đã thuê một người bán báo dạo 50.000 đồng, để người này, quay loa về phía các em, mở hết công xuất các bài hát ca ngợi Đảng và Bác. Thật đau xót dường nào. Một cách hành xử thiếu yêu mến vị lãnh đạo đáng kính Hồ Chí Minh. Chắc các chiến sĩ công an nghĩ rằng, các em thiếu nhi, suốt bao năm qua, trong nhà trường, đã bị bắt học cho thuộc những bài hát này, nên muốn dùng các bài hát ấy gây nhiễu lời cầu nguyện của các em. Nhưng, họ đã lầm. Thay vì, bị quấy nhiễu; thay vì lời kinh bị ngắt quãng, các bài hát ấy vô tình lại làm cho các cháu thiếu nhi được thêm sức mạnh. Vì lòng yêu mến bác Hồ, các em  càng ra sức cầu nguyện.»

(trích bản tin » Hà Nội, đêm 6/1/2008 , An Dân »)

 

Về phía NCQCS :

Nhanh như chớp, NCQCS đã nổ «  súng hạng nặng» sau đây :

a) gửi văn thư cáo buộc nhiều thứ tội tòa TGM và GXTH.

b) ra lệnh cho báo chí, đài truyền hình nhà nước xuyên tạc bôi nhọ không gớm miệng gớm tay.

c) thả  các lực lượng công an nổi chìm trấn áp tại hiện trường với máy quay phim, lời  dọa nạt…

*«Những người tham gia cầu nguyện đòi đất, có một số đã bị áp lực trực tiếp hay gián tiếp. Một số học sinh đi học ở trường bị một số bạn nói rằng nếu bạn cứ đi cầu nguyện ở bên khu đất Nhà Thờ thì sẽ bị đuổi học. Một số cô giáo nói rằng các em học sinh cứ đi cầu nguyện thế thì sẽ học dốt. Một số Giáo Dân phục vụ đắc lực thì bị de doạ đến chức vụ và công ăn việc làm ở cơ quan.

«Một số anh chị em xa quê đi cầu nguyện bị chủ nhà cấm cản và bị đe doạ đuổi khỏi nhà trọ. Nghe nói là họ bị tổ trưởng dân phố và Công An khu vực đến làm việc. Tuy nhiên, khi cha Giám Tỉnh và Cha Phó Giám Tỉnh truyền cho Giáo Xứ chúng con mở cửa nhà nguyện Giêrađô để đón tiếp những anh chị em này trong trường hợp bị chủ nhà đuổi không cho tạm trú vì áp lực của Công An hay tổ dân phố, thì các anh chị em này không sợ nữa. Họ tiếp tục đi ngủ đêm tại hiện trường, vì thấy mình được bảo vệ và nâng đỡ. »  

(trích «báo cáo của giáo xứ Thái Hà-Hà nội 23.1.2007 », lm. Giuse Trịnh Ngọc Hiên,bề trên chính xứ)

* Cổng Toà Khâm Sứ nay đã được bảo vệ mở sẵn. Ai tinh mắt thì thấy các bảo vệ hôm nay đội mũ đeo băng đỏ trông rất lịch sự, khác hẳn mọi ngày. Hình như họ mặc đẹp hơn để cùng mừng lễ Chúa Giáng Sinh với giáo dân? Chúng tôi không nghĩ vậy. Vì chúng tôi thấy các nhân viên bảo vệ hôm nay không phải là các anh bảo vệ hằng ngày của cơ quan dịch vụ đang chiếm dụng tại đây. Thực chất các nhân viên bảo vệ trong đồng phục lịch sự hôm nay là các nhân viên an ninh. Họ cho mấy người đứng sẵn với máy quay phim và chụp hình trong tay để tiếp đoàn cầu nguyện của các linh mục tu sĩ và giáo dân. Chắc chắn là để “nghiên cứu” các đối tượng tham gia và để tiếp tục tìm các biện pháp trấn áp tinh thần các cá nhân. »

(trích bản tin « toà Khâm sứ Hà Nội ngày 25.12.2007 » -nhóm pv vietcatholic )

Yếu tố quyết định đã đưa đến chỗ có sự giải quyết tạm ổn hai vụ này là sự quyết tâm và lòng dũng cảm của giáo dân dựng lều trên hiện trường, thay phiên nhau cầu nguyện, canh thức, ngủ đêm trong thời tiết lạnh buốt. Họ thực thi tình huynh đệ không những giữa họ mà cả với cán bộ CS. Tuy căng thẳng lo sợ nhưng họ cũng có những giây phút chuyện vãn dí dỏm vui tươi.

Họ phải đương đầu với trấn áp  như thế kéo dài suốt bốn mươi ngày đêm.

- giai đoạn ba : 

Sự hoạt động ngoại giao của Tòa Thánh VATICANÔ đã đưa đến kết quả tốt đẹp vào những ngày cuối tháng 01.2008 vì cụ thể là đã đạt được sự thoả hiệp với NCQCS trung ương là hai bên đều trở về « vị trí»  cũ như trước khi có sự gia tăng trong công tài sản của  GHCG. Ngoài ra cũng có sự hứa hẹn rằng  NCQCS sẽ trả lại tài sản đất đai cho GHCG VN.

Giáo dân tháo gỡ lều bạt, trở về với cuộc sống thường nhật như bất cứ công dân nào khác, tuân theo mong muốn của hàng giáo phầm và chắc hẳn về phía  NCQCS Hà nội cũng đã tháo gỡ những gì đã mới xây thêm lên.

*«Hơn bốn mươi ngày qua chúng ta đã sống một lễ Hiện Xuống mới. Mọi người đồng tâm nhất trí với nhau, chuyên tâm cầu nguyện và hăng hái rao giảng Tin mừng hòa bình, bất chấp những khó khăn gian khổ, tạo nên một bầu khí hiệp thông rộng lớn không chỉ trong tổng giáo phận mà còn khắp nơi trên thế giới. Chưa bao giờ lòng yêu mến Chúa, yêu mến Giáo hội dâng cao như thế. Chưa bao giờ tình cảm gắn bó giữa chủ chăn và đoàn chiên chặt chẽ đến thế. Chưa bao giờ tình bác ái huynh đệ chan hòa nồng nàn đến thế. Chưa bao giờ lời cầu nguyện chung cho lợi ích của Giáo hội tha thiết đến thế. Thật là một hồng ân lớn lao Chúa ban cho chúng ta. Tôi không ngừng tạ ơn Chúa và cám ơn anh chị em về hồng ân cao quí này.

«Nhờ lời cầu nguyện tha thiết của anh chị em, công việc đã có kết qủa. Sau những căng thẳng, đã có đối thoại giữa Tòa Tổng Giám mục và Hội đồng Giám mục Việt nam với các vị lãnh đạo cao cấp của Nhà Nước để đi đến một giải pháp tốt đẹp. Giải pháp này sẽ thực hiện qua những bước cụ thể trong tôn trọng lẫn nhau theo ý kiến của Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh. Bước đầu tiên vừa hoàn thành đó là dịch vụ kinh doanh đóng cửa quán phở, giáo dân tháo gỡ lều bạt và cung nghinh thánh giá về. Bước đầu tiên này cũng phù hợp vì hiện nay trời rất lạnh và anh chị em phải chuẩn bị đón Tết. Tôi không đành lòng nhìn thấy anh chị em phải lạnh giá giữa trời mùa đông rét mướt. »

              (trích « thư của tòa Tổng Giám Mục Hà Nội »

                                   đề ngày 01 tháng 02 năm 2008 ).

 

 

Ý nghĩa của biến cố

“thắp nến cầu nguyện cho công lý và hòa bình”

_______________________________

Sau đây là một cuộc đối thoại viễn tưởng giữa  một người ngoài Công giáo (phóng viên -pv) và một người CG thường (NgCGth). Tuy nhiên, những ý nghĩ trình bầy ở đây là xuất phát tự tâm can người viết.

 

Pv. Câu hỏi mở đầu của tôi có tính cách tổng quát. Tại sao tôn giáo cũng cần có tài sản ? 

NgCGth. Thì cũng như anh. Để hành nghề nhà báo, viết lách, anh cũng cần có cái nhà để ở, nơi ngủ nghỉ, ăn uống, bàn để viết… Chưa nói đến nếu anh có gia đình…

Pv. Thế nhưng địa hạt của tôn giáo còn xa hơn cả văn hóa, chỉ nhằm tâm linh ?

 NgCGth. Sứ mệnh của GHCG là phục vụ xã hội nhân loại trong việc rao giảng niềm vui được biết Thiên Chúa và trong việc giảm bớt khổ đau của con người. Để hoàn thành sứ mệnh đó, GHCG cần có những phương tiện thể chất là tài sản làm nơi thờ tự, làm cơ sở cho các sinh hoạt xã hội, văn hóa, giáo dục, tôn giáo. Nhưng điều quan trọng hơn nữa là phải nhìn ra tầm kích tâm linh và tôn giáo của những cơ sở đó. Anh thử tưởng tượng một xóm làng mà không có lấy một ngôi nhà thờ, hay một mái chùa, hay một ngôi đình. Huống chi là một thành phố lớn, một thủ đô. Bao nhiêu người trên thế giới, vì nhu cầu tâm linh và tôn giáo, đã phải bỏ ra chi phí cao để đi xa thăm viếng các thánh điện.

 

* « Nếu nói về quyền lợi, thì hiển nhiên các vị Giáo Sĩ và Tu Sĩ ở Hà Nội chẳng có mấy quyền lợi vật chất trong vụ việc này. Nếu chỉ có cá nhân các vị thì chẳng cần gì phải nhiều đất, mỗi người vài mét vuông cũng đủ, Giáo dân cũng chẳng có quyền lợi vật chất gì ở đây, họ chẳng sở hữu, chẳng kinh doanh, chẳng bán chác cái gì cả. Ở đây họ chỉ tha thiết với những giá trị tinh thần và tâm linh là những thứ mà xã hội đã quá nhiều lần coi nhẹ, đã lãng quên quá nhiều, nhưng ngày nay đang rõ là cái cộng đồng đang thiếu và đang cần. Và họ đã nồng nhiệt và cảm thấy như được cởi trói đến vậy, vì tâm linh của họ đã bị dồn nén quá lâu. »

( trích « Nghĩ về chuyện tòa Khâm sứ », lm. Vũ Khởi Phụng, DCCT Sài- gòn 28.1.2008 )

 

Pv. Những tài sản đó đã bị NCQCS chiếm dụng đã từ hơn nửa thế kỷ, trường hợp ngoài Bắc. Tại sao bây giờ mới khởi xướng phong trào đòi đất ?

NgCGth.Đây không phải là một phong trào, chỉ là một việc làm thiết thực, pháp lý, dể chu toàn nhiệm vụ bảo toàn những phương tiện thể chất hầu phục vụ mọi người, mọi thế hệ, CG hay không, trong những khát vọng chân chính của con người. Việc đòi NCQCS trả lại đất đã diễn ra đã rất từ lâu, nhất là về mặt giấy tờ và vận động với các cơ quan hữu trách.

Pv. Nhưng chỉ bây giờ mới thấy công khai xuống đường cầu nguyện ? Tại sao ?

NgCGth. Những vị chủ chăn trong GH có trách nhiệm nặng nề không những lo cuộc sống tâm linh mà còn phải bảo vệ mạng sống cho đoàn chiên. Khi CS đằng đằng sát khí, sự trấn áp hết sức khắt khe, thì không thể tổ chức cầu nguyện dù là cách hòa bình như  trong hai vụ này.

Pv.Như vậy tình hình quan hệ giữa GH và NCQCS đã có phần dễ chịu hơn ?

NgCGth. Có thể là như thế, hy vọng là như thế !

Pv.Theo anh thì đâu là những yếu tố khiến NCQCS không còn chủ trương đàn áp khắt khe lộ liễu tôn giáo ?

NgCGth.  Điều này thì ai cũng biết, NCQCSVN vì lý do kinh tế đã phải chấp nhận « chơi » với cộng đồng quốc tế

 

là những nước dân chủ tự do đích thực, nên họ cũng cần trưng ra một hình ảnh đẹp về mình.

Pv.Ngoài sự kiện là đã có sự tiến triển về phía NCQCSVN, anh có thấy yếu tố nào khác không khiến GHCG có phần « quyết liệt » như qua hai vụ này ?

NgCGth.  Theo nhận xét chủ quan của tôi, thì GHCG đang rất băn khoăn cho tương lai đất Việt, vì giai đoạn kinh tế thị trường hiện nay, -tiếp theo hai giai đoạn chuyên chính vô sảnkinh tế kế hoạch,- đang diễn ra cách thiếu tổ chức, thiếu phương hướng nhân bản, thiếu nền tảng đạo lý, đem đến bao sự đảo điên trong xã hội với hậu quả là những ai « thích nghi » được thì có nếp sống vật chất dễ chịu, còn những ai không thích nghi được thì đành nằm chết trong cơ cực. Chưa nói đến nguy cơ lao mình vào một chủ trương sống chỉ để hưởng thụ,  hưởng thụ tối đa và vội vã, đang đe dọa các thế hệ trẻ. 

Pv. Vì thế GH cần trở nên năng động hơn ?

NgCGth.  Đúng thế !   Và đòi hỏi  NCQCS phải chấp nhận trở nên nghiêm túc hơn, để GH có thể làm việc phục vụ đồng bào.

*« Tin tức về vụ Tòa Khâm Sứ ở Hà Nội hai hôm nay dồn dập truyền về. Chúng tôi ở Sài-gòn cũng nhấp nhổm không yên về những diễn biến ở thủ đô. Giờ này Công Đoàn Dân Chúa Hà Nội đang ở vào thế dầu sôi lửa bỏng. Chúng tôi ở xa hiện trường, không thể chứng kiến tận mắt để tường thuật với bạn đọc Ephata những sự việc lạ lùng này, Chỉ xin chia sẻ vài cảm nghĩ.

« Những gì đang diễn ra ở Tòa Khâm Sứ ( và ở Thái Hà, ở Hà Đông v.v... ) là hệ quả của quá trình Cách Mạng. Nhìn lại lịch sử các cuộc Đại Cách Mạng, như Cách Mạng Pháp ( 1789 ), Cách Mạng Nga và Liên sô ( 1917 về sau... ), Cách Mạng Trung Quốc ( 1949... ) thì thấy đều đi qua ba giai đoạn: một giai đoạn đầu phá hủy những cái cũ, tiếp đó là một giai đoạn gian nan và bề bộn để cho một xã hội khác trước thành hình, rồi sớm hay muộn, xã hội mới này bắt đầu đi vào giai đoạn phải xây dựng là chính, thì sẽ nhận ra rằng những điều trước đây đã phá hủy không phải điều nào cũng xấu, cũng có hại, trái lại, có những điều tốt, và có ích cho cuộc sống, nhưng vào giai đoạn phá hủy, người ta đã không phân biệt, khi đó sẽ phải tìm cách gây dựng lại những gì đã bị đả phá một cách oan uổng.

« Mao Trạch Đông từng nói rằng Cách Mạng không phải là một cái gì tế nhị lịch sự như một bữa tiệc sang trọng. Cho nên cả ba giai đoạn đó đều để lại cho cá nhân và xã hội nhiều trăn trở quằn quại mới đạt được mục đích mình nhắm tới. Ở nước ta, phải chăng giai đoạn đả phá mang tên là “chuyên chính vô sản”, và giai đoạn xây dựng, trong đó có việc phục hồi nhiều giá trị đã mất, ngày nay kết tinh trong khẩu hiệy xây dựng xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh”.

« Thân phận của các cộng đồng tôn giáo trong quá trình Cách Mạng cũng đi qua ba giai đoạn đó. Cũng như ngày xưa chúng ta cải cách ruộng đất, rồi bao cấp, rồi bây giờ lại kinh tế thị trường nhiều thành phần. Cũng như ngày xưa kịch liệt phê bình Khổng Tử rồi bây giờ dựng lại Văn Miếu. Cũng như ngày xưa phá tán những di sản của dòng họ Nguyễn Tiên Điền rồi bây giờ xây đài kỷ niệm và bảo tàng Nguyễn Du v.v...

« Vì có một thời “chuyên chính” nên Nhà Chung Hà Nội cứ nằm rạp trong cơn bão táp mà chịu mất Tòa Khâm Sứ. (….)

« Cũng vậy, cha già Vũ Ngọc Bích, DCCT, đành chịu mất mảnh đất ngày nay là Xí Nghiệp May Chiến Thắng, để rồi cho đến ngày chết vẫn nhất mực không chịu nhận là mình đã dâng hiến bất cứ cái gì. Cứ nói trắng ra rằng đó là do “chuyên chính” thì mọi sự sẽ rõ ràng thôi !

« Ngày nay, qua giai đoạn chuyên chính rồi, thì người dân muốn lên tiếng, muốn tỏ thái độ. Và giai đoạn nào thì cũng có những quằn quại của nó. Giáo dân trong suốt thời gian dài yên lặng xót xa cho di sản thiêng liêng của cha ông, của tiền nhân trong Đức Tin. Nhưng những mảnh đất xưa kia là đối tượng của “chuyên chính” lại cũng thành những con gà đẻ trứng vàng cho những ai đó.

« Có nghĩa là ba giai đoạn Cách Mạng ấy không chỉ là những giai đoạn trong tư tưởng, mà nó còn được quy ra tiền, ra lợi lộc. Cũng Đức Cha Nguyễn Văn Sang đã cho thấy rõ điều ấy khi ngài tường thuật lại những cố gắng làm trung gian của mình. Nói cho cùng thì sự tiền bạc và lợi lộc đang chi phối xã hội này thì ai cũng biết. »

(lm. Vũ Khởi Phụng, cùng bài)

Pv. Tôi muốn đề cập đến phía giáo dân. Một số giáo dân đã dự kiến có thể bị giết chết mà cứ dự các buổi cầu nguyện. Phải hiểu và gọi làm sao thái độ này ?

NgCGth. Đây là đức dũng cảm bởi lòng tin, lòng mến.

Pv. Nhưng nếu có ai cho đó là cuồng tín thì bạn trả lời làm sao ?

NgCGth. Trong toàn thể giáo dân tham dự các buổi cầu nguyện cho công lý không một ai muốn chết, ngay đến các cụ già, ốm yếu cũng tươi vui . Tất cả họ đều là những người thường dân, chỉ mong được tự do làm công chuyện hàng ngày và giữ đạo, trong an bình và  trật tự xã hội. Gỉa như muốn chết để  được danh tiếng thì họ đã có rất nhiều dịp để làm chuyện này trong quá khứ. Đằng này họ chỉ cầu nguyện cách an bình, bất bạo động, và trong tình huynh đệ chẳng những giữa họ với nhau mà cả với những công an trấn áp họ. Lại nữa, lập tức ngay sau khi đức TGM kêu gọi ngừng, họ lập tức rút lui , trở về cuộc sống thường nhật, y như mọi thường dân khác.

* «  17 giờ chiều ngày 27 tháng 1 năm 2008, đến hạn cuối cùng mà chính quyền thành phố Hà Nội đưa ra "ra lệnh" Tòa Tổng Giám Mục và Giáo Dân thực hiện việc giải tán hoàn toàn khỏi khu "42 Nhà Chung". Tuy nhiên, càng tới giờ có lệnh đó, dân chúng càng tới nhiều hơn, dù ai cũng biết rằng chính quyền có thể đàn áp, bắt bớ, tra tấn và hành tội mình có "hành vị phạm luật vì đã cầu nguyện ở Tòa Khâm Sứ".

« Đã có khoảng trên 3.000 Giáo Dân tụ họp nơi đây hôm nay. Họ một lòng cương quyết, một ý chí sắt son. Đó là câu trả lời cho những đe dọa của bạo quyền, của những con người có đầy đủ súng ống và quyền lực trong tay với một cách hành sử bất công và dối trá !

« Giáo Dân và Tu Sĩ đã cầu nguyện rất sốt sắng trong khuôn viên đất Tòa Khâm Sứ. Ai cũng sẵn sàng cho một sự kiện lớn có thể sẽ xảy ra, hay một vụ đàn áp của chính quyền như họ đã đe dọa...

« Giáo Dân và các Nữ Tu tạo thành một vòng tròn quanh Thánh Giá và Đức Mẹ để cầu nguyện. Họ nói: "Chúng tôi tiếp tục cầu nguyện và chúng tôi sẵn sàng để đối phó trong hòa bình với mọi diễn biến phức tạp có thể xảy ra, hôm nay, ngày mai, bất cứ khi nào, ngay cả sau khi bị đàn áp, và có thể bị giết chết... con cháu chúnng tôi cũng sẽ lại tới đây để cầu nguyện tiếp. Không thế lực nào, không cường quyền nào có thể đè bẹp được Đức Tin của chúng tôi đâu !" ( ... )

(Trích tin VietCatholic, Hà Nội 27.1.2008, blog Kinh Hoa Binh)

*« Có giây phút hi hữu xẩy ra như sau và chúng tôi quan sát được: Một nhân viên an ninh chụp ảnh một bà già tuổi cỡ 80 đang ngồi chung với mấy bà khác. Bà cụ già liền móc tay vào hào bao trong quần, tưởng gì chứ bà rút ngay ra một cái điện thoại nhỏ, bà nói ngay: “Anh cứ chụp, anh tưởng anh chụp tôi mà tôi không biết chụp anh à!” Nói rồi bà lấy điện thoại ra giơ lên và chụp lại ngay anh nhân viên an ninh đó.

« Nhóm các bà đó khoái chí cười hanh hách. Bà khác nói, "Sao bà lại có cái điện thoại tinh vi như vậy?". Tôi nghe được câu trả lời của bà cụ như sau: "Thì thằng cháu tôi tối ngày hôm qua nó dặn dò tôi kĩ lắm là nếu hôm nay có ra ngoài bên khu đất đó nếu có ai động tĩnh gì thì chụp mấy tấm hình để giữ lấy làm bằng chứng... Thế là sáng hôm nay nó bắt tôi bấm lên bấm xuống mãi cái máy nhỏ này. May mà sau cùng tôi cũng nhấn đúng nút, mãi rồi cũng phải quen, nó mới tha cho đó, bà ơi"

( trích bản tin « Mình cầu nguyện ở đây tới khi nào thế chị ? », Nguyễn Lăng Chính, 9.1.2008)

Pv. Làm sao giải thích thái độ răm rắp vâng lời cấp trên của giáo dân ?

NgCGth. Hiệp thông ! Có sự hiệp thông. Chủ chiên thì chu toàn nhiệm vụ lãnh đạo, sẵn sàng hy sinh ngay đến tính mạng vì ràn chiên, còn tín hữu vì cảm mến chủ chiên mà tùng phục. Cũng như trong một gia đình, nếu có sự trên thuận dưới hòa, thì con cái vâng lời bố mẹ là một sự không khó lắm.

Pv. Một số người gán cho hai vụ này một tầm vóc lịch sử. Anh có đồng ý như vậy không ?

NgCGth. Tôi cũng chỉ mong muốn thế. Tuy nhiên, theo tôi còn tùy thuộc thái độ của NCQCS trong những ngày tháng tới. Nếu họ thực tình quan tâm đến việc trao trả lại tài sản cho dân, cho các cộng đồng tôn giáo, hầu huy động mọi nhân lực cải thiện xã hội thì hai vụ này quả là hai cánh cửa mở ra cho một chặng đường mới cho dân Việt.

Pv. Anh tiên đoán gì ?

NgCGth. Tôi không có tài tiên tri. Chỉ nguyện ước sao cho tình hình bên nhà ngày càng sáng sủa hơn.

Pv. Bằng cách nào, về phía người Việt hải ngoại ?

NgCGth. Ồ, tôi nghĩ bất cứ ai quan tâm đến vận mệnh nước Việt cũng có một câu trả lời cho câu hỏi này.

Pv. Riêng các anh phía CG sẽ gia tăng cầu nguyện ?

NgCGth. Chính thế !  Cầu nguyện và hổ trợ vật chất, văn hóa, truyền thông. Chẳng hạn !

Pv.Xin cám ơn anh và hẹn một dịp khác.

NgCGth. Xin cám ơn anh.

người CG thường

soạn thảo xong ngày đầu xuân Mậu Tý

______________________________________________

 

(Tôi đã có thể soạn thảo để trình bầy sơ lược biến cố « thắp nến cầu nguyện cho công lý và hòa bình » và bầy tỏ cảm nghĩ là nhờ tham khảo :

- trang mạng DCCT Saigon,

- Vietcatholic,

- Blog Kinh Hoà Bình.

Tiện đây, tôi cũng xin mạn phép các tác giả các bản tin, các

bài viết, mà sử dụng các đoạn trích. Xin chân thành cảm tạ

toàn thể quý vị. )  

Khi các bác tài

bỏ tay lái

để… xuống đường

Ngyễn Ngọc lan Chi

 

Pháp vốn nổi tiếng quán quân thế giới về… đình công, biểu tình với những đợt « xuống đường » qui tụ hàng triệu người như vào tháng 5 năm 1968 hay gần đây nhất là làn sóng chống điều luật lao động CPE vào tháng 3, tháng 4 năm 2006, từng làm chao đảo chiếc ghế quyền lực của cựu thủ tướng D.Villepin. Trong số các ngành thích « tay giương biểu ngữ, miệng hô khẩu hiệu » thì ngành giao thông  công cộng thuộc vào hàng « top » và những lần họ rục rịch kéo nhau xuống đường, người dân xứ sở hình lục giác lại một phen khốn đốn…

 

1. Ngày của chờ đợi, chen lấn và kẹt xe !

Ngày 18.10.2007 vừa qua là một ngày rất… không bình thường đối với người Pháp : hoặc xin nghỉ phép hoặc bắt đầu một ngày làm việc từ rất sớm để có dịp thử thách lòng kiên nhẫn của mình. Từ trước đó vài ngày, các công đoàn ngành đường sắt và giao thông công cộng đã « đánh tiếng » : « Ngày 18.10, hoặc bạn ở lại nhà hoặc bạn sắm một đôi giày thật tốt để… đi bộ ». Toàn bộ 8 công đoàn của SNCF (Société nationale des chemins de fer français : Công ty đường sắt quốc gia), 6 trong tổng số 8 công đoàn của RATP (Régie autonome des transports parisiens : Công ty tự chủ giao thông tại Paris), cùng với các công đoàn của ngành năng lượng (điện, gaz) là những nhân tố chính của cuộc đình công, biểu tình ngày 18.10. Đây là những ngành nghề chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi dự luật cải cách « chế độ đặc biệt » do Bộ trưởng Bộ Lao động, Quan hệ Xã hội và Liên đới Xavier Bertrand vừa trình bày vào ngày 10.10.

73,5% nhân viên của SNCF, trong đó có 90% các bác tài đã đáp lại lời kêu gọi của các công đoàn. Một con số kỷ lục gây ảnh hưởng đến hơn 30 tỉnh thành của Pháp mà đặc biệt là Paris và các vùng ngoại ô. Theo thống kê hoạt động của RATP, trong năm 2006, mỗi ngày các phương tiện giao thông công cộng đã chuyên chở 10 triệu lượt hành khách tại Paris. Với hệ thống « chằng chịt » métro (tàu điện ngầm), xe bus, tramway (tàu điện) đi trong khu trung tâm thuộc quản lý của RATP cùng hệ thống tàu đi về phía ngoại ô thuộc SNCF, phần lớn người dân sống hoặc làm việc tại Paris đều xem các phương tiện giao thông công cộng là phương thức đi lại chính. Vì vậy, khi RATP và SNCF « sát cánh » cùng nhau để đình công thì Paris kẹt cứng !

 

Chưa đến mức làm cho toàn nước Pháp « tê liệt » suốt 3 tuần lễ như vào tháng 12.1995 trong đợt đình công toàn quốc của nhiều ngành (SNCF, RATP, bưu điện, giáo dục, kiểm soát không lưu…) chống lại dự luật về cải cách các chế độ xã hội của cựu Thủ tướng Alain Juppé, nhưng ngày 18.10 vừa qua đối với nhiều người dân Paris quả là « địa ngục giữa trần gian ». Khốn khổ nhất là những người sống ở ngoại ô nhưng làm việc tại Paris, từ nhà đến nơi làm việc cách nhau vài chục cây số. Các đường tàu RER chạy về phía ngoại ô hoặc hoàn toàn không có hoặc chạy với tần suất… 1/10, métro thường ngày giờ cao điểm cứ 1 phút có 1 chuyến nay thành nửa tiếng 1 chuyến, mà chỉ một số trong tổng số 14 đường métro tại Paris chịu hoạt động. Các chuyến tàu cao tốc TGV đi các tỉnh thành hoặc sang các nước lân cận cũng chỉ có 46 chuyến hoạt động so với 700 chuyến của những ngày khác!  Chờ đợi mòn mỏi hàng giờ đồng hồ để rồi khi những chuyến tàu hiếm hoi xuất hiện, cầu quá tải so với cung, mọi người lại hè nhau chen lấn kiếm một chỗ « nhón » trên tàu. Paris vào giữa thu bắt đầu trở lạnh, nhưng nhiệt độ tại các nhà ga và trong các chuyến tàu « nóng » như một ngày hè tháng 7, nóng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.

Do đình công có thông báo trước nên trên mạng Internet, một số nhóm lại tổ chức… đi làm chung. 4, 5 người có chỗ làm gần nhau hoặc thuận tiện đường đi sẽ họp thành một nhóm, do một người trong số họ dùng xe của mình đưa tất cả « đi đến nơi về đến chốn ». Những người này có thể hoàn toàn chưa hề quen biết nhau trước, nhờ đình công mà có cơ hội… kết giao bạn bè. Tuy nhiên, những chuyến xe « liên đới » này cũng phải khởi hành từ rất sớm, khoảng 4, 5 giờ sáng (ngày làm việc ở Pháp thường bắt đầu từ 9 giờ) vì vào những ngày giao thông công cộng đình công, việc kẹt xe hàng trăm cây số xung quanh Paris là hết sức bình thường…

May mắn nhất là những người sống không quá xa nơi làm việc của mình, đi bộ là thượng sách ! Dịch vụ Vélib’ (Vélo en libre-service : dịch vụ xe đạp tự do) của tòa Thị chính Paris mở từ giữa tháng 7 vào ngày đặc biệt này cũng trở nên quá tải. Muốn kiếm được xe và đảm bảo được một chỗ trả xe tại trạm gần nơi làm việc của mình, dậy sớm là một điều kiện không thể bỏ qua !

 

 

2. Cải cách « chế độ đặc biệt », nước cờ liều của Bộ trưởng Bertrand

Không chỉ đình công, hơn 300.000 người trên toàn nước Pháp đã xuống đường ngày 18.10 để phản đối dự luật cải cách lại chế độ đặc biệt của Bộ trưởng Bertrand. Chế độ đặc biệt là những ưu đãi về việc hưu dưỡng dành cho một số ngành nghề được đánh giá là nặng nhọc như giao thông công cộng (SNCF, RATP), năng lượng (điện, gaz), sân khấu, hầm mỏ, hàng hải (các thủy thủ)… Có thể kể ra một số điểm chính : độ tuổi về hưu sớm hơn, trung bình 55 tuổi (sớm hơn 5 năm so với mức bình thường), đặc biệt nghề lái tàu được về hưu ở tuổi 50 ; thời gian trả thuế để hưởng mức lương hưu tối đa ngắn hơn (37,5 năm so với 40 năm) ; mức lương hưu được tính theo 6 tháng cuối (RATP), tháng cuối (các ngành năng lượng) nghĩa là rất lợi thế so với các công ty tư nhân (lương hưu tính theo mức lương trung bình của 25 năm)…

Chế độ đặc biệt hiện ảnh hưởng đến 1,6 triệu người, trong đó có đến 1,1 triệu người về hưu và chỉ có 500.000 người hiện còn đang làm việc. Mất cân bằng như thế nên mỗi năm Nhà nước phải bù lỗ 5 tỷ euros (riêng cho SNCF là 2,8 tỷ euros). Một mặt khác, theo quan điểm của chính phủ, lý do tồn tại của « chế độ đặc biệt » đối với một số ngành hiện đã không còn phù hợp. Tiêu biểu là chế độ đặc biệt của ngành đường sắt ra đời từ năm 1909, khi ấy tàu chạy bằng than, phải thường xuyên hít thở bụi than độc hại và lao động tay chân nặng nhọc (bỏ than vào lò) nên tuổi thọ trung bình của các lái tàu vào thời điểm ấy chỉ được 51 tuổi. Đó là chuyện của một thế kỷ trước, Bộ trưởng Bertrand đã trình dự luật cải cách lại một số điểm của chế độ đặc biệt, chuyển độ tuổi về hưu thành 60 tuổi, thời gian đóng thuế cho việc hưu trí là 40 năm và mức lương hưu được tính tỷ lệ theo 6 tháng cuối cùng. Tuy nhiên, những công nhân hầm mỏ và các thủy thủ được ở ngoài « tầm phủ sóng » của điều khoản tăng thời gian đóng thuế lên 40 năm.

Có thể nói đây là một nước cờ khá liều lĩnh của Bộ trưởng X.Bertrand vì những cải cách nhằm vào chế độ đặc biệt vốn « đụng chạm » đến ngành giao thông công cộng, ngành có khả năng làm « tê liệt » đất nước một khi họ đình công. Tuy nhiên, sự liều lĩnh của ông Bộ trưởng là có cơ sở vì ông được hậu thuẫn hoàn toàn của Thủ tướng F.Fillon và Tổng thống N.Sarkozy. Mặt khác, không như năm 1995, cuộc đình công và biểu tình lần này không được sự ủng hộ của đại đa số dân chúng vì người Pháp phần đông cũng cảm thấy những mặt bất cập của chế độ đặc biệt. Trong chương trình tranh cử Tổng thống vào tháng 5, Tổng thống Sarkozy có khẳng định việc cải cách chế độ đặc biệt một khi ông đắc cử và các cư tri vẫn bỏ phiếu cho ông.

Ngày 18.10 đối với các công đoàn ngành giao thông công cộng được xem là thành công bước đầu, và nếu những buổi đàm phán sắp tới với Bộ trưởng Bertrand không đạt được kết quả như mong muốn, mùa thu năm nay của nước Pháp ắt hẳn không chỉ có lá vàng rơi…

 

Nguyễn Ngọc Lan Chi

 

Chuyện phiếm Đạo-đời:

 

“Anh đi về đâu mà bụi đường vương trên mái tóc”

(Yn 4: 5-42)

                                       Trần Ngọc Mười Hai

 

            Trong phiếm đạo đường dài, một số bạn đã thuật cho bần đạo nghe, rất nhiều truyện kể. Kể về mọi thứ chuyện trên đời. Từ chuyện trời trăng mây nuớc, lại bước sang chuyện nhà Đạo. Chuyện sống Đạo giữa đời. Và với đời. Có bạn còn cho rằng: sống Đạo bằng ngòi bút hoặc với vi âm, vi tính, có loa phóng thanh lớn nhỏ, có truyền hình, truyền thông... bao giờ cũng là chuyện ngon cơm dễ làm hơn là sống thực ở đời. Chí ít, là sống nghèo sống khổ. Bởi, lúc nào “cái khó cũng bó cái khôn”, sao sống Đạo?

            Để minh họa chuyện này, một đấng bậc thân quen trong thẩm quyền giáo phận, có kể lại cho nhóm người trẻ ngoan Đạo, chuyện “khó tin nhưng có thật” ở khu nhà ổ chuột đầy rác, sau đây:

Cách đây không lâu, Caritas Úc Châu có gửi giấy mời linh mục có tên nghe rất quen là cha Chris đi Phi-luật tân chứng kiến công việc mà cơ quan này thực hiện với người nghèo, vào mùa chay.

Vừa đặt chân đến thủ đô Ma-ni-la, cha Chris đã được các vị đồng đạo hỏi ngay là ngài có muốn sống thử vài ngày với giới nghèo được Caritas giúp đỡ, không? Cha chưa kịp trả lời, thì mọi người quyết định là cha nên ở lại khu nhà chuột ổ nọ ít nhất hai ngày, mới hiểu được thế nào là… sống Đạo. Điểm hẹn cho cha, là khu “lao động” có cái tên rất mộng mơ: “Núi đồi mù mịt”. Tuy gọi là núi, nhưng chốn núi non này thật ra cũng không cao và cũng chẳng mù mịt gì cho lắm.

Thật sự, thì 30 năm về trước, đây là chốn núi đồi nồng nặc mùi xú uế, chốn đi về của mươi ngàn con người, sống gần như là chuột rúc. Vùng này trực thuộc Ma-ni-la, được dân con nội thành lên đây tống khứ đủ mọi thứ xú uế bùi nhùi, rất khó coi. Mịt mù là ảnh hình của lớp mây bụi mù lởn vởn bao quanh, cộng thêm với mầu xanh nhem nhúa của đám nhặng/ruồi và ong bày vỡ tổ, khiến khu đồi đã trọc lại càng khó coi vì là nơi hẹn hò của hợp chất khí - bụi, gây lợm giọng.

Vòng quanh ba mặt của ngọn đồi, là đám dân con thị thành chui rúc để tồn tại. Họ sống bằng cơm thừa canh cặn do người

 

 

dân thị thành phế thải. Cha Chris cũng nghe nhiều chuyện về ngọn đồi bất hủ này từ các viên chức làm trong cơ quan cứu trợ Caritas, ở đây. Nhưng cha chẳng bao giờ lại có thể tưởng tượng rằng một ngày nào đó cha đặt chân đến đây, không để chứng kiến cảnh nghèo và khó mà thôi; nhưng còn để sống cùng và sống với người nghèo, cạnh núi rác bẩn thỉu, dăm ba bữa.  

Tuy chưa đến tận nơi chứng kiến sự cùng cực của lớp nghèo thị thành, nhưng cha Chris cũng đã hình dung ra những đau thương chua xót, những nồng nặc cám cảnh của chốn chợ đời ấy. Nhất thứ, là khi thấy cảnh những người là người đang nhung nhúc chui vào đống rác rưởi để moi móc kiếm kế sinh nhai, thì cha Chris đã không còn tin vào mắt thịt của mình nữa. Kìa, cạnh nơi cao vút đầy rác rưởi cuồn cuộn xú uế khí lợm giọng,là giòng nước đen ngòm uốn khúc vòng quanh. Nước uống thì chỉ từ mấy “phông tên” công cộng, mà thôi.

Dọc con lạch đen ngòm lấm bẩn kia, khách ngoại cuộc thấy có nhiều căn gác lộ thiên bằng phên thùng bằng tôn/giấy lẫn lộn. Nơi đây, người người lớn nhỏ vẫn cứ tìm đến để tắm gội hay tiêu tiện, rất lộ thiên. Trong lúc đó, chiếc xe ủi cứ thản nhiên làm công tác xúc hốt vật bỏ phế hàng ngày. Và, dân cư đua nhau chạy ùa theo xe bốc hốt, chụp giựt, quyết tìm ra những gì có thể mang về đổi chác thành tiền thành bạc, nuôi thân. Tổ ấm cơ ngơi của đám dân nghèo hèn được vội vã dựng lên bằng những chất liệu vụn vặt không thể chống chọi lại thời tiết cay nghiệt, mưa nắng hai mùa.

Cha Chris đã gặp mặt một số linh mục Dòng Tên phụ trách xóm đạo ở chốn mù sương khó thở này. Các linh mục ở đây vẫn cố vận động với giới có thẩm quyền để họ ra quyết định bãi bỏ cảnh tượng thiếu tôn trọng phẩm cách con người này. Cụ chánh xứ đưa cha Chris đến thăm gia đình một giáo dân để cha nghỉ tạm qua ngày. Nhớ lại, hôm leo đồi trèo núi để ghé anh Bing Lu vào một buổi chiều còn nóng bức. Nơi nào cũng thấy lúc nhúc tòan bọn trẻ nhỏ. Cha Chris trộm nghĩ: sao bọn nhỏ ở đây lại có thể đen đuốc bần thỉu, đến như thế. Sao chúng vẫn có thể nô đùa chạy nhảy suốt ngày, mà chẳng được học hành gì cả? Nghĩ tới đó, tâm can cha như quặn thắt . Bụng dạ lại cồn cào, muốn ói mửa.

Đến nhà anh Bing Lu, cha thấy khác hẳn. Dù nghèo, nhưng nhà của anh gọn gàng. Ngăn nắp. Anh tiếp cha bằng cả tấm lòng như của người từng quen biết từ lâu. Thấy cha Chris có vẻ  như ngứa ngáy vì bọn trẻ cứ xán lại bu quanh, rờ mó vào người cha. Anh Bing bèn kéo cha vào chỗ khuất người, đưa cho cha ly nước để uống cho đỡ cơn khát, xé cổ xé họng vào buổi trưa hè nóng bức. Cha Chris cảm thấy khó xử. Chưa biết có nên nhận lời uống ly nuớc chưa quen mùi vị, hay không. Làm sao để tỏ ra cha cũng biết san sẻ cảnh tình của người bần hàn? San và sẻ đến mức độ nào, đây?

Dù khát đến khô họng, cha Chris định bụng từ chối. Tính là, để khi về nhà xứ sẽ dùng nước có đóng khằn trong chai. Cũng may lúc ấy, người con của anh trở ra đem cho cha một chai nước có nắp khóen. Thấy chai nước có thể uống được, cha nhận lời cầm lấy. Anh Bing lại đi tìm ly nhựa định rót ra cho cha. Nhưng cha định thần một lúc rồi cứ thế tu chai như hồi còn nhỏ. Trong một khỏanh khắc không lâu, cha Chris thấy mình lúng túng, chợt liên tưởng đến tình huống được kể nơi Phúc Âm, khi Đức Chúa ghé khu làng người dân ngoại xứ Samari. Ngài cũng lúng túng như người phàm, khi xin nước.

 

        

Truyện kể về cha Chris thấy lúng túng khi ở vào hoàn cảnh sống gần sống với người nghèo, vẫn là chuyện của mỗi người, trong chúng ta. Lúng túng với người nghèo cùng phái, cùng Đạo là chuyện còn dễ. Lúng túng khi tiếp xúc hoặc chấp nhận ở gần người nghèo, người khác phái khác phận, hoặc người khách lạ, địch thù, dân ngoại vẫn là chuyện khó xử nhiều hơn chỉ là lúng túng.

Nơi đời thường, vẫn có những tình huống khó xử, khi giao tiếp và sống với người hôi thối/nghèo hèn. Đây có thể là những tình huống khiến ta có những nhận định hấp tấp, sai sót. Sai sót, mỗi khi ta đến với người nghèo, dù chỉ lân la chuyện trò cho qua, vẫn không biết cách xử sự thế nào cho phải phép. Nói gì đến chuyện tìm cách giúp đỡ. Và hấp tấp trong đối xử, vẫn là dễ sai phạm. Nhất thứ là khi ta lại có những xem xét và phán đóan . Thậm chí, có khi còn bị mang tiếng là có thái độ kỳ thị, đầy thành kiến...

Giao tiếp với người nghèo, đã là chuyện khó. Nếu lại bảo: sống giống như, sống cùng và sống với người nghèo hèn, càng là chuyện khó hơn. Khó gấp bội. Khó trăm bề. Khó không thể tả được. Và, một khi thấy khó, người người thường có thói quen dễ bỏ chạy. Bỏ và chạy, để không còn vướng bận nỗi gì. Vướng và bận, dù chỉ trong tâm tưởng, mà thôi.

Tuy nhiên sẽ còn khó hơn, khi người người nhận được lời khẳng định từ Đức Chúa ở đọan khác, cũng trong Tin Mừng theo thánh Gio-an, Chúa có nói:

“Thật vậy,

người nghèo thì bên cạnh anh em, lúc nào cũng có…”

(Yn 12: 8)

Và, theo thánh Phao-lô, người nghèo nói chung chính là Ngài:      

 

“Quả thật,

anh chị em biết Đức Giê-su Kitô Chúa chúng ta,

đã có lòng quảng đại như thế nào:

Người vốn giàu sang phú quý,

Nhưng đã tự trở nên nghèo khó vì anh chị em

Để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh chị em trở nên giàu có.”

(2Cr 8: 9)

 

Qua chuyện của linh mục Chris nghèo hèn công tác ở ở Ma-ni-la, hẳn người đọc cũng sẽ cảm thấy vững dạ:

“Tôi cảm thấy vui sướng khi mình yếu đuối,

khi bị sỉ nhục hoạn nạn, bắt bớ, ngặt nghèo

vì Đức Kitô:

vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.”

(2Cr 12: 10)

 

Xem như thế, có thể nói được là khi bạn và tôi đã thấy mình nghèo và hèn đi, thì đó là lúc mình mạnh hơn, giàu hơn bao giờ hết. Bởi, chính vào khi mình trở nên nghèo và hèn hơn cả, là lúc Đức Giê-su Kitô đang ở với mình. Mà, đã có Chúa ở với mình, thì còn ai mạnh và giàu hơn nữa chứ? Kinh nghiệm này, thánh Phao-lô tông đồ đã từng trải. Và, cũng như thánh Phao-lô, bạn và tôi cũng sẽ trải qua những kinh nghiệm rất “người” và rất “nghèo” nhưng không hèn, diễn ra đều đặn trong hành trình sống.

Tới đây, có lẽ ta sẽ tự hỏi: những người sống nghèo sống khổ như vậy, có dễ dàng thay đổi để sống vui sống mạnh hơn không? Để trả lời câu hỏi này, mời bạn và tôi, ta hãy đọc truyện kể bên dưới về lập trường của các em nhỏ, về cuộc đời. Về người đời:

 

Vào buổi vấn đáp bọn trò nhỏ hôm ấy, cô giáo đưa ra một đề tài khá hóc búa với trẻ em, mà bảo: các em hãy liệt kê cho cô một danh sách gồm những thứ mà các nghĩ chúng là kỳ quan trên thế giới. Tức là: 7 thứ đẹp nhất trên thế gian này.

 

Mặc dù trong đám học trò nhỏ, có nhiều điểm bất đồng trong chọn lựa, dưới đây là đôi ba danh sách do các trò nhỏ đưa ra, ngày hôm ấy. Danh sách  “Bẩy kỳ quan thế giới”:

1.      Kim Tự Tháp ở Ai Cập

2.      Đền Taj Mahal ở Ấn Độ

3.      Cảnh hùng vĩ Grand Canyon ở Mỹ

4.      Kênh đào Panama

5.      Tòa nhà Empire State ỏ Hoa Kỳ

6.      Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô ở Rô-ma

7.      Vạn Lý Trường Thành bên Trung Quốc

 

Trong lúc thu thập đề nghị của các em học sinh, cô giáo thấy có một em nắn nót chữ viết mãi chưa xong, cô bèn hỏi xem em có vấn đề gì không, mà sao lâu thế.

Em liền đáp:

-Cô chờ em thêm một phút nữa thôi, em đang liệt kê đây. Thật sự, có quá nhiều thứ em không đủ giấy để kể ra hết ở đây. Thôi em tóm tắt như thế này để cô xem nhé!

Cô giáo nói tiếp:

-Cứ nói cho cô biết em đếm được bao nhiêu rồi. Có thể cô và các bạn sẽ giúp em, ngay thôi.

Người học trò nhỏ ngập ngừng trong khỏanh khắc, rồi nói:

-Em nghĩ, Bẩy kỳ quan trên thế giới gồm có tất cả là:

1.   Biết nhìn

2.   Biết nghe

3.   Biết sờ

4.   Biết nếm

5.   Biết ngã

6.   Biết cười

7.  Và biết yêu thương.

Lúc ấy, bầu khí trong lớp học trở nên im ắng cách lạ lùng. Im đến độ, tiếng kim cúc rơi xuống đất cũng có thể nghe thấy được nữa. Những gì mà chúng ta nhìn lướt qua, không để ý vì nó đơn giản và bình thường và nhận lấy như quà tặng trời cho, thì thật sự là kỳ quan, đáng ta chiêm ngưỡng. Bởi, thật ra những gì cao và quý nhất trong đời người và đời mình, chẳng thể nào xây dựng bằng tay hoặc mua được bằng tiền của, thì chính đó là một kỳ quan.

                             

            Rất đúng! Và, kỳ quan chuyện phiếm hôm nay, chính là: biết được là mình đang sống, đang được hưởng 7 kỳ quan trên. Vì, giàu hay nghèo sẽ chẳng thành vấn đề, nhưng ta vẫn cứ được sống. Vẫn cứ trân trọng cuộc sống với các người anh, người chị đang cùng sống với mình. Dù trên “núi đồi mù mịt” đầy những xú uế, rác rưởi ấy hay ở chốn đền đài danh vọng chất chồng, những hôm nay.

Ta cứ sống. Sống hùng. Sống mạnh. Sống vững chãi với người anh em đời thường, ở huyện. Huyện dân gian. Chốn thế trần.   

            Trần Ngọc Mười Hai

            và những kỳ quan rất sống

            trong cuộc đời

có những bụi đường

vương trên mái tóc.

                                               

Tình bạn

muôn thuở

 

 

________________________________________

 

 

 

Yến Tuyết

 

Hôm Thứ Bảy tuần trước, nắng ấm khiến tôi muốn ra ngoài làm vườn một chút. Những cây cỏ đang bắt đầu hồi sinh sau cái Mùa Ðông dài và lạnh lẽo vừa qua. Khi xới đất ở chỗ mấy bụi sả, cụm ớt mà mẹ tôi trồng khi bà còn sinh tiền, lòng tôi bỗng rưng rưng vì nhớ mẹ.

 

Nỗi thương nhớ ấy càng tăng thêm khi tôi nghĩ đến cuộc điện đàm tối hôm trước với cô em gái về một câu chuyện liên quan đến mẹ tôi và tình bạn.

 

Mẹ tôi có khá nhiều bạn bè, biết nhau từ những ngày còn trẻ ở Huế. Sau đó, gia đình tôi di chuyển vô Sài Gòn cư ngụ, một số bạn bè của ba mẹ tôi cũng dọn vào miền Nam nên họ lại tiếp tục gặp nhau và giữ mối dây liên lạc khá thân tình.

 

Ðến khi mẹ tôi qua Mỹ đoàn tụ với con cái, bà tìm gặp lại được những người bạn gái mà bà đã từng quen biết cả 60, 70 chục năm trời. Nhờ đó, cho dù ở San Diego hay khi nào lên thăm và ở lại nhà tôi tại Quận Cam, mẹ tôi vẫn vui vì có bạn bè chuyện trò để nhắc lại những kỷ niệm cũ, cùng đi chùa với nhau, hay đôi khi chỉ để gặp nhau, tỉ mỉ nấu nướng, sửa soạn một bữa ăn nhỏ để đãi bạn.

 

Tôi vẫn thường gọi những người bạn của mẹ tôi là dì, đó là một cách gọi thân mật của người Huế dành cho bạn gái của mẹ. Và dì N. là một người trong số bạn bè mà me tôi rất thương vì tính dì thật thà và hiền hậu; cộng thêm với cái tình bạn giữa hai người, bền bỉ và kéo dài mấy chục năm trải qua bao nhiêu biến đổi của đời sống, nên mẹ tôi càng quý dì N.

 

Dì N. cũng ở tuổi 90 như mẹ tôi nhưng chậm chạp và hay đau ốm hơn. Thế nên khi mẹ tôi mất đi lúc bà còn đi đứng thẳng thớm, nói cười hoạt bát và vẫn còn tươi tắn, dì N. rất bàng hoàng.

 

Hôm đến đưa đám tang mẹ tôi, dì N. cứ tần ngần đứng nhìn không muốn rời, tôi thấy dì chậm rãi lấy khăn tay lau nước mắt hoài. Cứ nhìn một cụ già khóc bạn, cảnh tượng đó vừa buồn mà cũng vừa dễ thương vô cùng.

 

Dì N. mặc dù ở Orange County nhưng hay được con cái đưa xuống San Diego thăm con trai lớn của dì ở đó. Khi mẹ tôi còn sống, dì N. vẫn thường đến thăm mẹ tôi và gần đây, mỗi lần giỗ mẹ tôi, dì đều nhớ đến tham dự. Lâu lắm, từ ngày mẹ tôi mất, dì N. mới ghé thăm cô em tôi ở San Diego hôm tuần trước.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Cô em tôi kể lại là dì N. thắp hương trước bàn thờ, rồi cứ bịn rịn đứng nhìn cái hình của mẹ tôi và nói chuyện như khi mẹ tôi còn sống: “Chị đó hả, tui đến thăm chị đây nì. Chị còn đẹp quá mà chị bỏ tui đi rồi. Không biết khi mô tui mới gặp chị đây?” Nghe cô em kể lại chuyện này tôi thương quá cái tình bạn thật là tuyệt vời của dì N. với mẹ tôi.

 

Tôi ao ước có được cái tình bạn muôn thuở như của mẹ tôi và dì N., được bạn mình thương và thương bạn. Ðược bạn hiểu mình và ngược lại.

 

Tôi đoán là bạn cũng nghĩ như tôi khi nhìn thấy sự cần thiết của việc trân quý tình bạn và những người bạn thân thiết mà mình đã may mắn có được trong đời sống. Nhất là cái tình bạn được thành hình từ những ngày còn trẻ và kéo dài cho đến ngay nay, khi tuổi chúng ta đang ở vào những ngày xế chiều.

 

Bạn có đồng ý là cho dù có thật nhiều tiền hay quyền uy đi nữa, người ta cũng không thể mua được tình bạn, phải không? Người bạn thân là một phần cái đời sống mà chúng ta có được ngày nay, là một mẩu hình (puzzle) trong cái tấm hình lắp ráp, tạo nên cái cuộc đời của một người. Thiếu nó, bức tranh cuộc đời sẽ không toàn bích được, bạn ạ.

 

Chúng ta cũng không cần có thật nhiều bạn bè. Ðôi khi chỉ có một, hai người bạn thân mà thôi cũng đầy đủ rồi. Nếu người ấy đem đến cho bạn một tình bạn bè bền vững với nhiều thương yêu, tha thứ, rộng lượng, hỗ trợ, thông cảm thì cuộc đời bạn cũng được đầy đủ và may mắn lắm lắm rồi!

Hẹn bạn thư sau nhé. (Y.T.)

 

 

   Sơ yếu

  Lịch sử

  Dòng Chúa Cứu Thế

  Việt Nam

    (1925 – 2007)

                                                  

Thuở ban đầu muôn đời ghi nhớ ấy: Năm 1923 đức Giám Mục Henri Lecroart, SJ, được Đức Thánh Cha Pio XI đặc phái sang bán đảo Đông Dương với tư cách Khâm Sai Kinh Lý. Trong bản báo cáo đệ trình Tòa Thánh, ngài đã nhấn mạnh đến sự cần thiết thành lập một tu viện thừa sai chuyên giảng đại phúc cho các họ đạo và giảng cấm phòng cho hàng tu sĩ.

Theo ý kiến của các thành viên thuộc Thánh bộ Truyền Giáo, Đức Hồng Y Van Rossum, C.Ss.R, tổng trưởng Thánh bộ Truyền Giáo đã liên lạc với cha Patrick Murray, bề trên Tổng Quyền Dòng Chúa Cứu Thế (DCCT) để vận động DCCT đáp ứng nhu cầu nói trên. Không đày 10 ngày sau, trong văn thư đề ngày 19.11.1924, cha Patrick Murray đã phúc đáp Tỉnh Dòng Sainte-Anne-de-Beaupré, Canada, hân hoan chấp nhận trọng trách thiết lập DCCT tại Việt Nam.

            Và cũng chỉ sau gần một năm sửa soạn, ngày 14.10.1925, ba vị thừa sai tiên khởi đã rời quê hương Canada, trực chỉ Việt Nam hầu thực hiện nhiệm vụ cao cả. Đó là Linh mục Hubert Cousineau, Linh mục Eugène Larouche và Thày Thomas St-Pierre.

            Sau một tháng lênh đênh trên biển cả, ba vị đã đặt chân lên đất Thần Kinh và được Đức Giám Mục Allys niềm nở tiếp đón ngày 30.11.1925. Từ mốc thời gian này, DCCT đã chính thức hiện diện ở Việt Nam - và sở dĩ cố đô Huế đuợc chọn làm nôi sinh DCCT, tại vì địa điểm này nằm thuận lợi giữa trục giao thông Bắc - Nam. Chroniques de la Famille Alphonsienne(Ký tập Gia đình An-phong) của Tỉnh Dòng Sainte Anne de Beaupré đã ghi ngày 30.11.1925 là Sinh Nhật của Tỉnh DCCT tại Việt Nam.                       

DÒNG CHÚA CỨU THẾ HUẾ

            “Muôn sự khởi đầu nan”. Lời cổ nhân dạy quả thật chí lý. Thời gian đầu ba vị thừa sai đã phải tạm trú tại Nhà Chung, cạnh tòa Giám Mục. Tuy nhiên những vấn đề cam go nhất là ba vị vừa phải bắt tay ngay vào công việc thành lập Tu Viện, vừa phải tập làm quen với khí hậu, phong tục đồng thời học ngôn ngữ.

            Xây dựng cơ sở: Ngày 22.08.1926 (*), ba vị thừa sai di chuyển đến ở tạm trong dinh thự của cụ Đốc Alexis Đinh Doãn Sắc, một ngôi nhà rộng rãi nằm gần đường sắt, thuộc Phủ Cam. Năm sau, ngày 13.09 (*), Cộng Đoàn lâm thời mua được một thửa ruộng gần chợ An Cựu để rồi ngày 18.03.1928, Đức Cha Allys đã chủ lễ đặt viên đá đầu tiên xây cất Tu Viện. Gần một năm sau, ngôi nhà hai tầng kiên cố đã được khánh thành trọng thể và ngày 13.03.1929, Tòa Thánh ký văn kiện thành lập Tu Viện, tuy nhiên phải đợi tới ngày 25.03 cùng năm này, Cộng Đoàn Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp mới chính thức thành hình và Tu Viện cũng chính thức được thiết lập, do cha Hubert Cousineau làm Tập Sư. Hoa trái sớm nhất của Tu Viện là lễ Khấn Dòng đầu tiên ngày 08.12.1929. (**)

Để đáp ứng sự phát triển của Cộng Đoàn, ngôi nhà nguyện 8 gian được khởi công xây cất từ ngày 03.01.1933 để rồi tới ngày 24.04 cùng năm, ảnh Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp được cung nghinh vào nguyện đường mới này. Và cũng từ thời điểm vừa kể, vào các ngày thứ bảy, giáo dân xa gần đến đây thực hiện việc tôn sùng  Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.

            Hoạt động tông đồ: Đồng thời với việc xây dựng cơ sở, các hoạt động tông đồ vẫn được thể hiện tích cực, điển hình là việc giảng cấm phòng cho các tu sĩ và giảng đại phúc cho Pháp kiều, giáo dân và cả cho đồng bào bên lương.  Tuy nhiên đặc biệt hơn cả là chương trình L’Accueil do cha Patrice Gagné đề xướng từ ngày 06.08.1936, nhờ đó thư viện Accueil, hội trường (sau biến thành nhà máy cưa) Accueil cũng như năm 1944 tới lượt cư xá Nguyễn Trường Tộ, tất cả đã được xây cất hầu phục vụ tập thể, bất phân biệt tôn giáo, về lãnh vực giáo dục, văn hóa và xã hội…

            Đảm trách mục vụ giáo xứ: Ngày 20.05.1953, cha bề trên Tổng Quyền đã ký một văn kiện nhằm chuẩn y DCCT Huế lãnh thêm trách nhiệm coi sóc một giáo xứ. Do đó một hợp đồng chính thức đã được ký kết vào ngày 05.06.1954 giữa giáo phận Huế và DCCT Huế. Nhờ vậy một tân giáo xứ ra đời, mang tên Giáo Xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp.Từ đấy, bên cạnh việc đi giảng tĩnh tâm và đại phúc, nhà dòng còn đảm trách mục vụ giáo xứ.

            Khúc quanh lịch sử mới:  Do biến cố 1975, cũng như mọi thành phần dân chúng của  thành phố Huế, tu viện DCCT cũng chuyển mình theo khúc quanh lịch sử này. Không chỉ cơ sở mà cả nhân sự của tu viện cũng giảm thiểu tối đa. Vỏn vẹn còn lại có cha Nguyễn Đình Lành, bề trên - cha Hoàng Diệp, quản xứ - và thày Fidéli Thịnh. Việc tôn kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp vẫn đuợc tiếp tục, nhưng ngắn gọn. Công việc truyền giáo thu hẹp trong phạm vi nhà thờ.

            Mãi tới năm 1994, dòng Huế mới được tăng cường nhân sự với hai linh mục, hai thày và rồi thêm một thày phó tế. Năm 1997, bức tường bảo vệ tu viện và nhà thờ được tái thiết - 1999, thánh đường được khởi sự trùng tu. Các hoạt động tông đồ, mục vụ và đào tạo tu tập sinh phát triển dần dần trở lại…

            Nói tóm lại, tuy cũng thăng trầm theo vận nuớc, tu viện DCCT Huế vẫn giữ được những nét cổ kính, hiền hoà của thời “lối xưa xe ngựa hồn thu thảo”.

(*) - Ngày 01.10.1926 (theo L.M. Lê Huy Bảng trong tài liệu “Vài nét đại cương Dòng CCT Việt Nam”)

      - Ngày 17.09.1927 (-id-)

(**) -  Xem phần riêng “Lịch sử Đệ Tử Viện”)

DÒNG CHÚA CỨU THẾ HÀ NỘI

            Những bước chân tiên phong: Chậm hơn Huế hơn 3 năm, tu viện DCCT Hà Nội được chính thức thành lập theo Giáo luật từ ngày 07.05.1929. Tuy nhiên trước thời điểm này, công cuộc xây dựng cũng đã phải trải qua nhiều giai đoạn quan trọng như sau:

- Tuy đến Việt Nam mới được khoảng 2 tháng, các cha Hubert Cousineau và Eugène Larouche đã phiêu lưu ra tận miền Bắc để giảng phòng cho các linh mục ở Hà Nội, Phát Diệm và Hưng Hóa. Từ lúc này, các vị đã ước muốn thành lập một tu viện DCCT ở miền Bắc. Giữa năm 1926, cha Giám Tỉnh Thomas Pintal trong kỳ kinh lược đầu tiên ở Việt Nam cũng đồng ý cho xúc tiến chương trình với hai linh mục tiên khởi, cha Edmond Dione và cha Pamphile Couture.

- Năm 1928, các cha mua được một khu đất thích hợp, rộng khoảng 6 héc-ta, thuộc ấp Thái Hà, nằm cạnh tuyến đường Hà Nội - Hà Đông.

            - Ngày 26.09.1928, cha Edmond Dione, bề trên Cộng Đoàn DCCT miền Bắc cùng cha Pamphile Couture và thày Eloi Trefflé Claveau về sống trong mấy căn nhà cũ trên miếng đất kể trên sau 2 năm tạm trú tại tòa Giám Mục Phát Diệm.

            Hoạt động: Song song với các công việc trên và trau dồi tiếng Việt, các cha vẫn giảng dạy cho các linh mục, nữ tu các dòng Carmel và dòng Saint Paul de Chartre và Pháp kiều tại Hà Nội, Phát Diệm và Hưng Hoá.

            - Ngày 12.09.1931, tòa nhà Tu Viện Thánh An Phong đã được khánh thành - và ngày cuối cùng của tháng 10 cùng năm này, Tập Viện được chuyển từ Huế về đây.

            - Năm 1935, Học Viện được thành lập. Số sinh viên Việt và Canada gia tăng nhanh chóng, do đó Phụ Tỉnh đã phải xây thêm một ngôi nhà mới ba tầng lầu. Công trình kiến trúc hoàn tất và được khánh thành trọng thể ngày 31.03.1939.

            - Cũng vào năm 1935, ngày 23 tháng 6, số đầu tiên nguyệt san Đúc Mẹ Hằng Cứu Giúp đã được phát hành.

            - Tuy nhiên một thời điểm quan trọng hơn nữa chính là ngày 05.11.1939 - ngày thành lập Giáo xứ Thánh An Phong hay xứ Thái Hà  ấp.

            Chiến tranh: - Từ 1942 đến 1945, thời gian quân đội Nhật chiếm đóng Việt Nam, Tu Viện bị cô lập và mọi sinh hoạt gần như bị ngưng đọng. Hơn thế nữa, giữa năm 1945, Tu Viện còn lâm vào tình trạng hết sức khó khăn vì dịch bệnh, đói kém. Tuy vậy một số cha, số thày vẫn tích cực cứu giúp các nạn nhân ở các trại Thái Hà, Giáp Bát và bệnh viện Bạch Mai.

            - Từ 1946 đến 1954: Thế chiến chấm dứt, nhưng chiến tranh Pháp-Việt bùng nổ ở Hà Nội, sau lan rộng khắp Việt Nam. Ngày 07.12.1950, cha bề trên Giám Phụ Tỉnh quyết định di chuyển Nhà Tập và Học Viện vào miền Nam. Trong khi đó, Tu Viện tiếp tục sống trong cảnh khó khăn, nhưng công cuộc tông đồ của Tu Viện vẫn tiến triển khả dĩ cha Cras, O.P, trong cuộc tổng kết mục vụ của giáo phận Hà Nội năm 1947, đã xác nhận rằng giáo xứ Thái Hà có tổ chức tốt nhất và có nhiều sinh hoạt sống động nhất tại Hà Nội.

            - Cuộc di cư năm 1954: Sau khi hiệp định Genève được ký kết, toàn bộ quí cha, thày và đệ tử di chuyển vào Nam; chỉ còn lại 3 cha: Thomas Côté, Denis Paquette, Giuse (*) Vũ Ngọc Bích - và hai thày: Clémente Phạm văn Đạt và Marcel Nguyễn Tấn Văn. Tuy nhiên ngày 23.10.1958, cha Paquette bị chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà trục xuất - năm sau, tới lượt cha Côté. Thày Marcel Văn chết rũ tù ngày 09.07.1959 trên Yên Báy. Tới ngày 07.10.1970, thày Clémente Đạt cũng chịu cùng số phận.

            - Còn lại một mình, cha Giuse Vũ Ngọc Bích phải tự lo tất cả công việc như coi sóc thánh đường, dạy giáo lý. Cha không được đi làm lễ hay giảng thuyết ở các nơi khác. Cuối năm 1961, nhà nước chiếm trọn ba ngôi nhà, chỉ để lại cho cha Bích một gian nhỏ cạnh lầu chuông và nhà thờ.

            Chỗi dạy: Kể từ sau 1975, chiến tranh chấm dứt trên quê hương Việt Nam với những đổi thay lớn lao.

            - Từ năm 1987, cha Giuse Vũ Ngọc Bích khởi sự tái đón nhận những thỉnh sinh tìm hiểu ơn gọi DCCT.

            - Kể từ năm 1992, các cha từ miền Nam ra giúp thường xuyên tại Thái Hà ấp. Tu Viện và giáo xứ trở nên sinh động. Các lãnh vực mục vụ dần dần được tái tổ chức theo nhu cầu phù hợp với hoàn cảnh.

Như vậy, chúng ta có thể kết luận rằng sau hơn 70 năm, máu, mồ hôi và nước mắt hòa lẫn với lời cầu nguyện, sự hy sinh của quí cha, quí thày cùng toàn thể anh em trong Dòng, đã là những chất dinh dưỡng và xúc tác hầu bảo tồn và phát triển Cộng Đoàn DCCT nơi trái tim đất nước. Nói cách khác, mặc dầu lâm vào thảm cảnh, DCCT Hà Nội vẫn tồn tại. Điều này chứng tỏ tình thương và lòng quan phòng cùng biết bao hồng ân của Thiên Chúa đã luôn luôn tuôn trào trên nhà Dòng.

 

(*) - Tài liệu (đã dẫn) của L.M. Lê Huy Bảng ghi tên thánh của cha Vũ Ngọc Bích  là Gioan-Maria.

DÒNG CHÚA CỨU THẾ SAIGON

            Giai đoạn đầu: Từ ngày 01.01.1931, Đức Giám Mục Dumortier đã đề nghị cha Edmond Dionne lập một tu viện DCCT tại Saigon, nhưng phải đợi tới cuối năm 1932 mới có cơ hội thuận lợi. Đó là dịp Đức Cha Dumortier trao cho các cha DCTT trọng trách hướng dẫn một cộng đoàn - gồm 300 tín hữu và khoảng 1000 người lương - ở Khánh Hội. Tuy nhiên vì ngôi nhà tại Khánh Hội quá ọp ẹp lại chật chội nên cuối tháng 6-1933, các cha phải tạm trú tại số 163, rue Paul Blancy (đường Hai Bà Trưng), trong một ngôi biệt thự do một bà phú hộ người Pháp dâng cúng.

- Ngày 07.10.1933, cha bề trên Tổng Quyền Patrick Murray ký văn kiện chính thức thành lập DCCT Saigon.

- Sau khi mua được một khu đổ rác gần lạch Trương Minh Giảng ngày 06.01.1937, công cuộc xây dựng Tu Viện được khởi sự từ ngày 29.10.1938 cho đến ngày 05.09.1939 thì các cha, các thày đã có thể dọn vào cơ sở mới này - mang tên Tu Viện Thánh Giuse, 38 Kỳ Đồng, Saigon.

- Suốt khoảng thời gian 1941-1945, cùng với toàn thể dân tộc Việt Nam, DCCT Saigon cũng đã trải qua một cuộc chiến kinh hoàng.

- Sau thế chiến, một tiểu Đệ Tử Viện đã được xây dựng ở Saigon.

- Từ tháng 8-1932 đến ngày 20.12.1953, thánh đường Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp đã được kiến thiết hoàn tất tốt đẹp. Thêm vào đó, do cuộc di cư 1954, tòa soạn nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp cũng đã được thiết lập trong khuôn viên Tu Viện.

- 1963, giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp được thành lập.

Hoạt động: Trong lúc chương trình xây cất cơ sở tiến hành thì công tác tông đồ và mục vụ tiếp tục phát triển. Theo đó những nét chính yếu có thể được tóm tắt như sau: Trụ sở Tỉnh Dòng - Tu viện Thừa sai - Trung tâm hành hương kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp - Giáo xứ - Trung tâm mục vụ hôn nhân-gia đình - Nhà xuất bản, toà báo - Trung tâm Giáo lý - Trường trung học - Công trình Công giáo Tiến Hành - Các hoạt động xã hội, văn hóa - Truyền giáo tại Cần Giờ….

            Khúc quanh lịch sử: Biến cố 30.4.1975 đã lật lịch sử nước nhà sang một trang khác. Tu viện DCCT cũng tiến vào một giai đoạn mới. Trước hết, các vị thừa sai Canada bị trục xuất; hai cha Eugène Larouche và Lucien Olivier là hai vị cuối cùng rời Việt Nam. Tiếp theo, trường học, nhà xuất bản, toà báo… bị đóng cửa. Các hoạt động mục vụ, xã hội, văn hoá… bị hạn chế tối đa.

Tuy nhiên kể từ sau năm 1990, hoàn cảnh khách quan trở nên thuận lợi hơn. Nhờ vậy, các hoạt động tông đồ tiến triển trở lại. DCCT Saigon trở thành trung tâm đào tạo lớn của Tỉnh Dòng: Học viện, Tập viện, Dự tập.

Đa tạ Thiên Chúa!

                                               

 

Và… DÒNG CHÚA CỨU THẾ

TẠI CÁC ĐỊA ĐIỂM KHÁC

            (theo thứ tự thời gian thành lập)

 

* DCCT Nam Định (12.06.1942): Mặc dầu thế chiến tiếp tục tàn phá Châu Âu - và tại Á châu, quân đội viễn chinh Nhật Bản tung hoành khắp các nước thuộc Thái Bình Dương - Việt Nam dĩ nhiên cũng không thoát khỏi số phận điêu tàn - nhưng các đấng bề trên DCCT vẫn nhằm tiến tới mục tiêu truyền giáo mà địa điểm được hoạch định để thành lập một tu viện là Nam Định, một tỉnh đông thợ thuyền và sinh hoạt về ngành sản xuất sợi vải.

            Tháng 10 năm 1941, cha Maurice Létourneau khởi công xây cất. Tu Viện mang tên bà thánh Anna và đã được khánh thành vào ngày 12.6.1942. Nhưng không đày năm sau, các cha Canada bị giải về Thái Hà ấp rồi bị giam lỏng, cô lập tại đây, vì vào thời gian này chiến tranh Nhật-Mỹ đã bùng nổ dữ dội. Cha Jean Marie Dong bị máy bay bắn chết.

            Quân đội Nhật thua trận, rút lui về nước, nhưng cuối năm 1946, chiến tranh Việt-Pháp bộc phát. Tu Viện bị đốt phá và tới ngày 23.06.1947, các cha, thày phải hồi cư Thái Há ấp. Tu Viện Nam Định cuối cùng bị biến thành cư xá và đặt dưới sự cai quản của giáo quyền sở tại.

 

* DCCT Đà Lạt (20.07.1952): Nghi lễ chính thức khánh thành Tu Viện đựơc cử hành vào đúng dịp lễ Chúa Cứu Thế, ngày 20.07.1952. Đây là một tòa nhà 4 tầng, toàn bằng đá xanh, ngạo nghễ vươn cao giữa rừng thông xanh mướt. Tuy nhiên lịch sử Tu Viện Đà Lạt đã khởi sự từ năm 1948 sau khi bà quả phụ Blanche Anéliée Ancel ngày 01.07.1942 đã nhượng lại cho nhà Dòng một khu đất rộng 35 héc-ta. Bề Trên quyết định dời Học Viện và Đệ Tử Viện từ Hà Nội vào Nam. Công cuộc xây cất hoàn thành từng đợt để rồi đến giữa năm 1951 Học Viện đã có thể dọn từ khu tạm trú Cité des Pics  vào toà nhà vừa được hoàn tất. Đời sống Tu Viện phát triển như hiện tượng trăm hoa đua nở.

            Về phương diện mục vụ, Nhà Dòng đã góp phần hình thành giáo xứ Tùng Lâm đồng thời đảm trách mục vụ tại đây từ năm 1954. Số giáo dân gồm những ngưòi đã được tuyển mộ từ Huế vào đây năm 1949 để xây cất Học Viện cộng với số giáo dân di cư từ các giáo xứ Thạch Bích, Thái Hà ấp ở Hà Nội.

            Năm 1962, cha Alexis Trépanier, nguyên giám đốc Đệ Tử Viện Vũng Tàu đổi về DCCT Đà Lạt. Ngài đã khởi công xây dựng tư thục Minh Đức, một ngôi trưòng khang trang và qui củ. Ngược lại, tới năm 1971 thì Học Viện được di chuyển về Thủ Đức.

            Năm 1975, do biến cố 30 tháng tư, tòa nhà chính của DCCT Đà Lạt đã do Nhà Nước quản lý và biến thành một căn cứ truyền thông lớn nhất miền Nam. Phần nhỏ cơ sở còn lại tính tới năm 1999 là nơi cư ngụ và sinh hoạt mục vụ cho một cộng đoàn gồm cha bề trên An Tôn Trần Thế Phiệt với hai thày phó tế Gioan Nguyễn Xuân Thu, Gioan Baotixita Nguyễn Công Nghiễm và hai thày Giuse Vũ Đức Huy và Phêrô Vũ Minh Ngữ.

            Nếu “đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” thế nào thì hơn thế nữa DCCT  Đà Lạt cũng đã giữ vững truyển thống thừa sai tông đồ, sống mẫu mực theo đặc sủng DCCT.

 

* DCCT Fyan (tháng 6 năm 1958): Có thể nói lịch sử của Tu Viện Fyan là lịch sử những chuỗi hồng ân bất ngờ của Thiên Chúa dành cho DCCT Việt Nam. Ngày 01.12.1955, một hợp đồng mua-bán đất đã được ký kết giữa Phụ Tỉnh và bà Papadato. Theo đó Phụ Tỉnh trở thành sở hữu chủ của 49,7 héc-ta đất. Theo bản quy hoạch và chương trình phát triển do cha Antoine Lapointe đề xuất, khu đất ấy đã được khai thác thành một đồn điền trồng trọt (café, trà, chuối, rau…) và chăn nuôi nhằm mục đích gia tăng lợi tức và phục vụ công việc của Phụ Tỉnh. Nhân công là những anh em dân tộc - tên gọi quen thuộc là đồng  bào Thượng  - trong vùng. Từ đấy thưòng xuyên diễn ra những cuộc tiếp xúc thân tình giữa các vị thừa sai và các buôn làng. Và cũng từ đó việc truyền giáo cho các anh em dân tộc bắt đầu. Tính đến năm 1961, cộng đoàn Fyan đã rửa tội khoảng 2.500 người.

            Vào đầu thập niên 1960 (*), hai tu viện được thành lập tại Fyan; một nhà dành cho các cha, các thày DCCT và một cho các nữ tu Bác Ái Vinh Sơn. Thêm vào đó hai trường học và hai lưu xá (nam nữ biệt lập) cũng đã được xây dựng.

            Tháng 6.1958, địa điểm Truyền Giáo Fyan được chính thức khánh thành, gồm nhà thờ dâng kính bà thánh Anna và một bệnh xá.

            Từ năm 1961 tới 1966, cha Antoine Lapointe đã cho thành lập nhiều giáo điểm như Kơya, Sôăn, Đàmrồng, Romen, Yalu, Riôngtô, Phisur (Phitô), Plotum, Ganreo… và nhiều nguyện đường, trường học như tại Tơlăngtô, Philan và Portêng. Tuy nhiên các cuộc chiến 1962-1975 đã phá rụi tất cả những công trình này. Những phần còn lại sau 1975 cũng bị các nhà chức trách trưng dụng.

            Sau biến cố 1975, các cha Canada đều bị chính phủ trục xuất về nước. Fyan trở thành Giáo hội thầm lặng. Mãi cho tới tháng 2-1989, cha Giuse Nguyễn Hưng Lợi được Nhà Nườc công nhận và các nguyện đường, cơ sở bị chiếm dụng nay dần dần được trả lại rồi được tái thiết.

            Ngày nay, những hạt giống do DCCT đã gieo trồng lại tiếp tục nẩy mầm và lớn mạnh.

 

(*) - Tài liệu (đã dẫn) của L.M. Lê Huy Bảng ghi “ngày 12.12.1956”.

 

*DCCT Vũng Tàu (09.04.1956): Công cuộc xây cất cơ sở được khởi sự từ ngày 02.09.1955, Những dãy nhà trệt lợp fibro-ciment thành hình trên một khu đất rộng mênh mông, cách thành phố Vũng Tàu 5-6 cây số. Nơi đây, ngày 09.04.1956 Đệ Tử Viện đã được thành lập - và ngày 03.01.1961, Tu Viện mang tên thánh Giêrađô cũng đã được khánh thành.

Năm 1965, Đệ Tử Viện di chuyển về Chợ Lớn.

Năm 1996, một toà nhà khác làm Tu Viện DCCT Vũng Tàu đã đựơc xây cất tại Bãi Dâu, cạnh tượng đài Đức Mẹ. Công việc tông đồ chủ yếu của Tu Viện là giúp các đoàn du khách hành hương và tĩnh tâm, đi giảng phòng tại các giáo xứ và tu viện đồng thời phụ giúp công việc mục vụ tại một số giáo xứ trong vùng.

 

*DCCT Nha Trang (19.04.1959): Năm 1934, Đức Khâm Sứ Tòa Thánh đã đề nghị với cha Louis-Philippe, bề trên Giám Tỉnh Sainte-Anne-de-Beaupré nhân chuyến kinh lược của ngài, việc thành lập một tu viện DCCT ở Nha Trang, nhưng hoàn cảnh thời đó đã không cho phép thực hiện điều mong ước này.

            Phải đợi tới khoảng tháng 12-1958, cơ hội thuận lợi mới đến. Đó là ông chủ Beauregard quyết định bán khách sạn Beau Rivage. Sau khi cân nhắc, Phụ Tỉnh đã quyết định mua khách sạn này để sửa thành tu viện. Thế là ngày 5.3.1959, Beau Rivage đã thật sự thuộc quyền sở hữu của Nhà Dòng.

            Tháng 6-1959, quyết định thành lập Tập Viện được ban hành. Ngày 10.09.1959, Tập Viện đã được rời từ Đà Lạt xuống Nha Trang.

            Ngày 19.04.1959, Tu Viện mang tên thánh Clêmentê được chính thức thành lập và khánh thành cùng ngày này.

            Nhân dịp lễ thánh Clêmentê, bổn mạng Tu Viện, ngày 15.03.1961 (*), nguyện đường Tu Viện DCCT dành cho giáo dân đã được Đức Giám Mục giáo phận làm phép khánh thành.

            Năm 1964, Tu Viện với 4 tầng lầu, hướng ra mặt biển được khởi sự xây dựng mới, nhưng vì chiến tranh gia tăng, công trình mãi tới ngày 12.07.1967 mới hoàn tất (**). Nhưng trong khi các hoạt động mục vụ của Tu Viện phát triển tốt đẹp; các cuộc hành hương của giáo dân tứ phương kính Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp diễn ra sốt sắng … thì biến cố 30.04.75 xẩy đến, làm thay đổi tất cả, khiến Tập Viện phải chuyển về Thủ Đức, nhân sự Tu Viện Nha Trang giảm dần, chương trình tông đồ và mục vụ bị thu hẹp rất nhiều. Đau buồn hơn nữa là Tu Viện bị trưng dụng làm hai khách sạn Hải Yến và Viễn Đông - chỉ còn lại một căn nhà cấp bốn mà diện tích không bằng 1/23 nơi ở cũ dành cho 5 cha và 2 thày.Tuy nhiên đời sống cộng đoàn huynh đệ càng thêm nồng thắm trong hoàn cảnh khó khăn ấy đồng thời mục vụ giáo lý tân tòng vẫn được khai triển, các nghi lễ phượng tự vẫn đuợc cử hành hàng ngày…

           

(*) - Tài liệu (đã dẫn) của L.M. Lê Huy Bảng ghi “ngày 15.04.1961”.

(**) - Tài liêu kể trên ghi:“15/3/1964: Ngày lThánh Clêmentê, Bổn mạng nhà dòng, khánh thành Tu Viện mới, 4  tầng lầu quay ra mặt biển”.

 

 

*DCCT Châu Ô (1963): Trung tâm Truyền Giáo Châu Ổ gồm phần đất hai quận địa đầu tỉnh Quảng Ngãi (Bình Sơn và Trà Bồng). Trứơc nhu cầu cấp bách về phương diện mục vụ, Đức cha Phạm Ngọc Chi đã đề nghị DCCT lãnh nhận nhiệm vụ truyền giáo tại vùng này. Vì thế nhân ngày lễ Đức Mẹ Truyền Tin, 25.03.1963, ba vị thừa sai DCCT đầu tiên đã đặt chân tới Châu Ổ. Đó là cha Denis Paquette, cha Đỗ Văn Thừa và thày Marcô Đàn. Những năm sau, nhân sự gia tăng với 6 linh mục và 5 tu sĩ cho cánh đồng truyền giáo bát ngát này.

Sau 7 năm hoạt động, Trung Tâm Châu Ổ đã có 6 địa điểm trực thuộc: Trà Bồng, An Điềm, Bình Liên, Bình Thiện, Bình Sa và Lý Sơn (cù lao Ré). Nơi nào cũng có nhà thờ, nhà xứ và trường học. Riêng tại Trung Tâm, tính tới cuối năm 1974, nhiều cơ sở về tôn giáo, văn hoá, giáo dục, kinh tế và xã hội đã được thành lập. Những kết quả này, phần chính yếu do ơn Thiên Chúa tác động; phần do nỗ lực và hy sinh của các thừa sai với sự cộng tác tích cực của giáo dân…

Trong số các vị thừa sai ở Châu Ổ, cha An phong Nguyễn Đức Điềm, ngày 23.02.1969 và sau đó một tháng (21.03.1969), thày Phaolô Phạm Mẫn đã được diễm phúc đổ máu làm chứng cho Thiên Chúa.

Năm 1969 ngôi nhà thờ của Trung Tâm Truyền Giáo bị chiến tranh phá sập, nhưng đến năm 1971 đã được tái thiết tân kỳ hơn.

Kể từ năm 1975, các hoạt động truyền giáo gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên với thời gian, đặc biệt kể từ đầu thập niên 1990, miền truyền giáo Châu Ổ đã khởi sắc trở lại.

Sau hơn 40 năm lịch sử, Châu Ổ vẫn còn là một vùng Truyền Giáo đúng nghĩa. Và các thừa sai DCCT tiếp tục công tác của mình trong lãnh vực loan báo Tin Mừng Cứu Độ của Chúa Giêsu Kitô cho những con người nghèo khổ về mọi phương diện tại miền đất này.

 

*DCCT Cần Giờ (1971): Cha Phaolô Maria Trần Văn Lượng và thày Hilariô Đinh Văn Thảo đã đuợc DCCT gửi đến Cần Giờ theo lời thỉnh cầu vào năm 1971 của tòa Tổng Giám Mục Saigon. Giáo điểm đầu tiên được thành lập ở xã Cần Thạnh; năm sau, 1972 tới lượt xã Đồng Hoà và Tân Thạnh. Các thày chủng sinh của Giáo phận và các thày sinh viên Học Viện của Tỉnh Dòng được đón đến ba nơi này để thực tập.

Những thời gian tiếp theo, nhiều cha, nhiều thày cũng đến Cần Giờ. Đời sống hy sinh, phục vụ của các vị đã tạo được nhiều thiện cảm nơi dân chúng địa phương, đặc biệt giúp đỡ được nhiều giáo dân phục hồi đời sống Đức Tin, gia tăng số ngưòi dự tòng và tân tòng.

Ngày 01.02.1998, Đức Giám Mục Nicôla Huỳnh Văn Nghi, Giám quản Tông tòa Tổng Giáo Phận Saigon, đã ký văn kiện trao vùng Truyền Giáo Cần Giờ cho DCCT. Đến nay, Cần Giờ từ khởi điểm một quang cảnh đổ nát bởi chiến tranh, đang nẩy sinh những hoa trái tốt đẹp của công cuộc rao giảng Tin Mừng của Tỉnh DCCT Việt Nam.

 

*DCCT Mai Thôn (1978): Khởi đi từ năm 1978, sau khi Tu Viện Thủ Đức bị giải thể, một số cha, số thày được Sư huynh Huỳnh Khôi, bề trên dòng La San, nhường mảnh đất 80m x 40m để làm nơi lập một tu viện. Ngày 25.04.1979, Tu Viện Mai Thôn hoàn tất. Công cuộc tông đồ trong hơn 10 năm đầu được giới hạn trong viêc dâng lễ Chủ Nhật và lễ trọng cho khoảng 130 giáo dân trong khu vực.

Ngày 25.01.2000, một toà nhà mới tại Tu Viện Mai Thôn được khởi công xây dựng nhằm mục đích làm nơi tổ chức Tập Viện, nhà Tĩnh Tâm và nhà Hưu Dưỡng II… để rồi ngày nay Mai Thôn đã trở thành một trong những tu viện quan trọng của Tỉnh Dòng.

 

*DCCT Vĩnh Long (1981): Mặc dầu từ khoảng thời gian 1966-1968, đã có hai linh mục DCCT - cha Antôn Nguyễn Đức Tuyên (1966) và cha Phêrô Hoàng Yến (1968) đến phục vụ tại trung tâm hành hương Fatima gần thị xã Vĩnh Long - và một tiểu Đệ Tử Viện được xây dựng ở gần cầu Cái Cá và do cha Phê-lích Lê Văn Lang làm giám đốc, nhưng phải đợi tới năm 1981, Cộng Đoàn DCCT Miền Tây mới chính thức được thành lập do thày Gioan Trần Văn Thâm làm Bề Trên tiên khởi.

Sau những đổ nát vì chiến cuộc và những đổi thay theo nhu cầu, năm 1993 Tu Viện Vĩnh Long đã được khởi công xây cất lại. Và công việc tông đồ hiện thời của Tu Viện Vĩnh Long chủ yếu là giúp các họ đạo vùng sâu vùng xa tại ba tỉnh Vĩnh Long, Đồng Tháp và Bến Tre hầu mang Tin Mừng đến cho những người nghèo cực chốn bưng biền.

 

*DCCT Phú Dòng (1981): Đây là Tu Viện duy nhất đảm trách việc đào tạo các anh em trẻ dấn thân theo đặc sủng tu sĩ thừa sai DCCT của Tỉnh Dòng.

Cộng Đoàn Phú Dòng được thành lập ngày 02.11.1981. Cộng Đoàn có một hình thức sinh hoạt rất đặc biệt: Anh em không sống chung dưới một mái nhà, nhưng vẫn ở riêng lẻ. Mỗi tháng, anh em lại họp nhau một lần để tĩnh tâm, cầu nguyện và chia sẻ về đời tu và hoat động tông đồ, mục vụ…

 

*DCCT Việt Nam tại  Mỹ (1977): Nhóm thuộc DCCT Việt Nam tiên khởi ở Hoa Kỳ kể từ tháng 7.1975 gồm có các linh mục: Châu Xuân Báu, Vũ Minh Nghiễm, Phan Văn Đài, Nguyễn Đức Thống, Trần Đình Phúc - và các thày: Đỗ Minh Cẩn, Nguyễn Văn Mới, Huỳnh Viết Hiển, Ngô Đình Tường và Nguyễn Duy Linh. Sau khi xem xét nhiều địa điểm, nào ở Illinois, Louisiana, nào New Orleans, Houston… cuối cùng như đất lành chim đậu, các ngài đã dừng chân tại California. Tuy nhiên tại tiểu bang này, các ngài cũng đã thăm dò nhiều nơi, như San Diego, San Francisco… để rồi sau hết Long Beach đã được chọn làm đất hứa. Và cũng trải qua nhiều cuộc vận động, phái đoàn đã được thừa nhận một nhà Dòng bỏ trống tại giáo xứ St. Lucy, Long Beach, góc đưòng Sta Fe và 23. Thế là từ ngày 01.12.1977, một tấm biển mang tên DÒNG CHÚA CỨU THẾ. Vietnamese Redemptorist Mission đã được treo trên cửa ra vào nhà Dòng, đối diện thánh đường St. Lucy, số 2344, Cota Avenue. Tuy nhiên phải đợi tới lễ Giáng Sinh năm sau mới thật long trọng, thật tưng bừng, “vì chúng tôi đã chọn ngày này để ra mắt đồng bào” (*).

Nay DCCT Long Beach đã trở thành một trung tâm rộng lớn gồm Tu Viện, Tập Viện, tòa báo nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp… cộng với những sinh hoạt mục vụ giáo xứ và truyền thông. Hàng tuần giáo dân Việt Nam đến tham dự rất đông những buổi lễ kính Thánh Linh và thực hiện việc tôn sùng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp…

 

(*) - Xin xem bài “Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam tại Mỹ” của L.M. Vũ Minh Nghiễm.

                       

… và CÁC CỘNG ĐOÀN

* Cộng đoàn Cao Nguyên (10.10.1969): Từ năm 1968, Tỉnh Dòng đã lãnh nhận công cuộc truyền giáo cho đồng bào J’rai theo lời đề nghị của Đức cha Paul Seitz, Giám mục Giáo phận Kontum. Nhóm thừa sai đầu tiên gồm cha Antôn Vương Đình Tài, thày Phêrô Hồ Văn Quân và hai thày phó tế (nay đã làm linh mục) Giuse Trần Sĩ Tín và Phêrô Nguyễn Đức Mầu. Tuy nhiên Cộng Đoàn DCCT Tây Nguyên chính thức chào đời  vào khoảng gần 4 giờ chiều ngày 10.10.1969 sau khi các vị thừa sai kể trên được Đức Cha Paul Seitz lái xe chở lên buôn Pleiky, cách Pleiku khoảng 60 cây số rồi ngà I đem con bỏ… rừng với lời nửa như ra lệnh, nửa như trăn trối: “Tôi trao cho DCCT tất cả đồng bào J’rai. Xin Nhà Dòng gửi đến 72 môn đệ chứ không phải chỉ có 4 anh em đây. Nhớ đấy! Tôi chúc lành cho anh em, cho công cuộc tông đồ của anh em và cho sắc tộc này”. Dĩ nhiên sau này, nhân sự đuợc tăng cưòng; nhà cửa được cất thêm… mặc dù Cộng Đoàn không ngừng phải đối đầu với bao thử thách, đặc biệt với hoàn cảnh chiến tranh.

Thời gian đầu, 1969-1975, ngoài việc học ngôn ngữ, phong tục của ngưòi J’rai, công việc tông đồ của nhóm thừa sai nhằm hướng dẫn đồng bào này về nông nghiệp, y tế, học vụ (tiếng J’rai và tiếng Việt)… Thêm vào đó là nỗ lực dịch Kinh Thánh ra tiếng J’rai.

Từ năm 1978, đồng bào J’rai bắt đầu đón nhận Tin Mừng. Số ngưòi xin theo Chúa ngày một gia tăng, từ 528 người (1987-1990) lên đến 752 người (1991-1993). Nói chung, mỗi năm có khoảng trên 500 người lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy.

Song song với công tác rao giảng Tin Mừng, các trung tâm tiếp tục chú trọng đặc biệt tới các việc phát triển kinh tế, xã hội, giáo dục… chẳng hạn giúp đỡ bệnh nhân phong cùi, khám và chữa bệnh, thực hiện kế hoạch chống sốt rét, hỗ trợ vốn cho người nghèo mua đất đai và nông cụ, mở lớp xoá nạn mù chữ, giúp học bổng cho học sinh và sinh viên…

Phải nói, trải qua biết bao khó khăn, thử thách… Cộng Đoàn DCCT Tây Nguyên đã và đang làm nên nhiều điều kỳ diệu, dưới tác động của Chúa Thánh Thần.

 

* Cộng đoàn Clêmentê (15.03.1993): Đây là một cộng đoàn hết sức đặc biệt, gồm những linh mục, tu sĩ DCCT vốn đã xa nhà một thời gian lâu - có thể vì trước năm 1975 đã là tuyên uý trong quân đội Việt Nam Cộng Hoà, sau phải trải qua 5,10, 13 năm trong các trại học tập cải tạo - hoặc bởi một nguyên nhân nào khác mà bị tù đày. Nay trở về với cuộc sống tạm gọi là binh thường nhưng đa dạng, đối đầu với bao thực tế… các ngài cảm thấy cần được gặp nhau, chia sẻ vui buồn, nâng đỡ nhau về mọi mặt.

Bản nội qui của Cộng Đoàn cho chính các cha, các thày đó tự soạn theo đề nghị từ đầu thập niên 1990 của cha Bề Trên Giám Tỉnh Giuse Trần Ngọc Thao. Cộng Đoàn được chính thức khai sinh ngày 15.03.1969, ngày kính thánh Clêmentê, do đó tên của vị thánh linh mục thừa sai luôn trung thành với sứ mệnh cứu thế… đã được chọn để đặt tên cho Cộng Đoàn.

Tuy mỗi thành viên của Cộng Đoàn Clêmêntê tự quyết định cho mình những công việc tông đồ và mục vụ riêng, nhưng tựu trung vẫn là việc giảng tĩnh tâm, cấm phòng, đại phúc hay các ngày Chủ nhật hoặc các dịp lễ trọng. Ngoài ra, gần như vị nào cũng có những công việc trường kỳ, như sáng tác, dịch thuật các sách tôn giáo, truyền thông Tin Mừng bằng ảnh tượng, băng nhạc…

Tóm lại, sự hiện hữu của Cộng Đoàn Clêmêntê chứng tỏ tinh thần tông đồ cũng như khả năng thích ứng với hoàn cảnh của từng cá nhân trong Cộng Đoàn này nói riêng và nói chung của tập thể Tỉnh DCCT Việt Nam - nhưng trước và trên hết đó chính là dấu chỉ hoạt động của Chúa Thánh Thần vậy.

 

 

 

Tạm kết: Dĩ nhiên bài viết trên về Lịch sử Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam  chưa đầy đủ - và sẽ không bao giờ đầy đủ, bởi hơn 80 năm qua - tuy ngắn theo dòng thời gian - nhưng quả thật đó là những chặng đường dài đối với “một cộng đoàn tu hành và hoạt động tông đồ; cộng đoàn thừa sai dấn thân phục vụ và rao giảng Tin Mừng cho những người nghèo khổ, đã được thiết lập và phát triển trên đất nước Việt Nam thân yêu này”(*). Những chặng đường đã mang nặng bao thăng trầm dâu bể, bao khó khăn nhọc nhằn, bao thử thách gian nan - những chặng đường thắm đậm hy sinh, mồ hôi, nước mắt và máu đào của những linh mục, tu sĩ DCCT Việt Nam - tuy nhiên đó cũng là những chặng đường ghi lại rất nhiều thành quả tốt đẹp, những hoa trái xinh tươi trên cánh đồng Truyền Giáo - nhưng trổi bật hơn cả là những chặng đường ấy minh chứng muôn đời hồng ân của Thiên Chúa tuôn tràn trên DCCT Việt Nam, trên từng cá nhân của cộng đoàn DCCT Việt Nam…

Bởi thế không bút nào tả xiết cuộc hành trình theo Chúa Kitô Cứu Thế của DCCT Việt Nam, một cuộc hành trình mà Linh mục Giuse Cao Đình Trị, bề trên Giám Tỉnh Tỉnh DCCT Việt Nam đã minh định là “Thiên Chúa - trong Đức Kitô và nhờ Chúa Thánh Thần - đã ân bang biết bao ân sủng”.

 

(*) - L.M. Giuse Cao Đình Trị, Bề trên Giám Tỉnh Tỉnh DCCT Việt Nam: Lời giới thiệu tập sách Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam nhân dịp kỷ  niệm 75 năm Nhà  Dòng “hiện diện ở Việt Nam”.

 

An Tôn

Nước Pháp

với mùa thu « nóng »

                                       Nguyễn Ngọc Lan Chi

Tuần vừa qua, bất chấp khí trời trở lạnh đột ngột làm tuyết rơi sớm ở một số khu vực, « nhiệt độ xã hội » tại Pháp vẫn không vì thế mà giảm bớt sức nóng sau một tháng nhiều biến động. Trong bộ máy chính quyền, có lẽ chỉ duy nhất mỗi Bộ Y tế, Thanh niên và Thể thao vẫn tìm thấy một niềm « an ủi » khi từ giữa tháng 10, và đặc biệt là từ ngày 14.11, người Pháp « thể thao » hơn hẳn. Không chỉ siêng năng đạp xe, đi bộ vì các phương tiện giao thông công cộng liên tục đình công, người dân xứ gà Gaulois còn không ít lần rầm rộ kéo nhau xuống đường biểu tình…

 

1. Ngành ngành đình công, người người biểu tình

Kể từ lần tổng đình công đầu tiên của ngành giao thông công cộng vào ngày 18.10, liên tiếp sau đó là nhiều đợt đình công của nhiều ngành khác. Các tiếp viên hàng không của Air France nhất quyết không chịu « lên trời » trong gần một tuần, ngay vào kỳ nghỉ lễ Các Thánh (cuối tháng 10, đầu tháng 11), khiến không ít hành khách phải thay vì đi du lịch thì đành phải « cắm trại » ngay tại… sân bay. Cùng thời điểm đó, để phản đối giá xăng dầu tăng quá cao mà Chính phủ chưa có những hỗ trợ xác đáng, các ngư dân cũng đồng loạt đình công, không chịu « xuống biển » làm đích thân Tổng thống Sarkozy và Bộ trưởng Bộ Nông, Ngư nghiệp phải xuống tận nơi điều đình. Sinh viên một số trường đại học cũng rục rịch khiêng bàn khiêng ghế ra « phong tỏa » lối ra vào để chống lại điều luật về quyền tự chủ của các trường đại học. Điểm xuyết vào tình hình rối ren này là đợt đình công của các luật sư, thẩm phán chống lại những cải cách của Bộ Tư pháp. Từ ngày 14.11, ngành giao thông công cộng lại tiếp tục « lên tiếng » với đợt đình công kéo dài và đến ngày 21.11, ngày đàm phán đầu tiên giữa các công đoàn với ban giám đốc, dân Pháp vẫn phải khốn khổ trong cảnh chen lấn và chờ đợi tại các nhà ga.

Ngày 20.11, đến lượt 8 công đoàn của các viên chức nhà nước kêu gọi đình công, biểu tình. 30% viên chức các ngành đã đáp lại lời kêu gọi, riêng ngành giáo dục có tới 40% thầy cô không bước lên bục giảng. Toàn nước Pháp có từ 375.000 người (theo cảnh sát) đến 700.000 người (theo những nhà tổ chức) xuống đường để yêu cầu tăng lương đồng thời phản đối việc Chính phủ dự định cắt giảm 22.921 việc làm (riêng trong ngành Giáo dục là 11.200), dưới hình thức chỉ tuyển dụng một nhân viên mới trên tổng số 2 hoặc 3 người về hưu trong các cơ quan Nhà nước. Nhân viên các ngành năng lượng, ngành giao thông công cộng vốn « căng thẳng » với Chính phủ từ một tháng qua quanh việc cải cách chể độ đặc biệt cùng với giới sinh viên học sinh cũng không bỏ lỡ cơ hội làm cho qui mô cuộc biểu tình thêm phần rầm rộ.

Theo chân đoàn biểu tình từ Place d’Italie đến Invalides, tôi lại có dịp kiểm nghiệm lại kết luận trong dịp đồng hành cùng hàng triệu sinh viên học sinh xuống đường vào tháng 3, tháng 4 năm 2006 chống lại điều luật CPE : biểu tình vẫn là một phần của văn hóa Pháp. Không có bạo động « ăn theo », cuộc biểu tình ngày 20.11 như « truyền thống » vẫn rất… vui, không chỉ « vui tai » vì sự đả đảo hết sức… nhiệt tình của người tham gia mà còn « vui mắt » vì sự xuất hiện của nhiều loại đồng phục do có sự tham gia của nhiều ngành khác nhau, thậm chí có sự tham gia diễu hành của cả một đoàn xe công sự của nhân viên ngành điện lực.

 

2. Sarkozy và thuốc thử liều mạnh

Những khẩu hiệu đinh trong chiến dịch tranh cử của Tổng thống Sarkozy như « làm việc nhiều để kiếm nhiều tiền », « tăng khả năng mua sắm cho người Pháp», « cải cách lại những bất cập của xã hội »… từng thuyết phục được các cử tri, bây giờ khi đưa vào áp dụng lại chính là cội nguồn của những biến động xã hội tại Pháp thời gian qua.

Tuy có nhiều lý do khác nhau để biểu tình, đình công, nhưng hầu hết những người tham gia đều có chung một nỗi lo ngại về khả năng tài chính của bản thân trong tương lai. Đối với các viên chức nhà nước là việc giá cả đời sống ngày càng tăng trong khi đồng lương của họ chẳng chịu « nhúc nhích », đối với công nhân viên những ngành chịu ảnh hưởng của chế độ đặc biệt, nhiều khả năng đồng lương hưu của họ sẽ suy giảm nếu không tính kèm các khoản thưởng và cộng thêm phần tỷ lệ khấu trừ nếu không làm đủ 40 năm hoặc nghỉ hưu trước 60 tuổi. Thêm vào đó, sự cắt giảm việc làm chắc chắn sẽ làm tăng áp lực công việc, nghĩa là người dân sẽ phải « làm việc nhiều hơn » nhưng tiền kiếm thêm được lại chẳng là bao…

Trong bối cảnh nhạy cảm này, thông báo đăng tải trên khắp các nhật báo vào cuối tháng 10 về việc Tổng thống Sarkozy được tăng lương lên đến 140%, từ 7000 euros lên đến hơn 19000 euro rõ ràng như « dầu đổ vào lửa », làm bùng nổ các cuộc biểu tình phản đối.

Khi cánh hữu đương quyền luôn luôn có nhiều đình công, biểu tình hơn so với cánh tả. « Thế lực đường phố » đã từng chiến thắng các cải cách và các điều luật mới của Chính phủ như cuộc cải tổ chế độ hưu trí của cựu Thủ tướng A.Juppé năm 1995 hay như điều luật lao động của cựu Thủ tướng Villepin năm 2006. Hậu quả mỗi lần thất bại như thế rất nặng nề đối với tiền đồ chính trị của 2 vị cựu Thủ tướng. Mùa thu năm nay, tuy Chính phủ cho biết sẽ mở rộng cửa cho mọi đối thoại, nhưng với khẳng định không nhường bước và quyết tâm thực hiện cải cách của Tổng thống Sarkozy, liệu con số hơn 300 triệu euro thiệt hại vào mỗi ngày đình công cùng các cuộc biểu tình chống… đình công sẽ có điểm dừng ?

Nguyễn Ngọc Lan Chi

 

Nhìn xuống cuộc đời

            Yến Tuyết

Cô bạn gái của tôi,

 

Hôm qua, tôi lại nhận được tin thêm một người quen vừa mới giă từ cuộc sống. Cái chết đến thật bất ngờ và như thế đối với người thân, bạn bè, và nhất là đối với người bạn đời của anh NPP là một mất mát to lớn và đau buồn lắm. Thế nhưng, nếu đă từng sống một cuộc đời đáng sống và tử tế mà trong đó ḷòng đam mê âm nhạc đóng vai tṛò chính, thì chắc rằng khi ra đi tâm hồn anh NPP rất b́ình yên và thanh thản. Linh hồn anh có lẽ đang bay bổng trong tiếng nhạc êm đềm và dịu dàng.

 

Hàng ngày, chúng ta chứng kiến sự ra đi của nhiều người, ở đủ mọi hạng tuổi, nghèo hay giàu, đẹp lẫn xấu, hiền lành hay gian ác. Tử thần có mặt không hề báo trước trong mọi tì́nh huống từ bệnh tật cho đến tai nạn, chiến tranh, thiên tai. Cũng v́ì thế ngày nào c̣òn sống, tôi mong ước rằng thời gian c̣òn lại của đời ḿình là để được sống tốt hơn bằng cách học hỏi và thực hành điều thiện.

 

Tôi cảm ơn những người đă chia sẻ tư tưởng hay ho và chứng minh ḷòng cao thượng của họ bằng những hành động cụ thể để tôi cố gắng noi theo. Và sau đây là một số điều dễ thương mà tôi đă đọc được từ email của người bạn gởi cho, do một ông Mỹ tên là Andy Rooney viết. Cho dù chỉ là suy nghĩ chủ quan nhưng nhận xét của ông Rooney về cuộc đời rất tinh tế . Bạn thử đọc và tùy nghi chấp nhận hay không nhé:

 

“Tôi học hỏi và biết được rằng cái lớp học tuyệt vời nhất của trái đất nằm ngay dưới chân của một người lớn tuổi.

 

Biết được rằng khi bạn đang yêu ai thì tình yêu đó hiện ra rất rõ.

 

Biết được khi một người nói với bạn rằng bạn làm cho họ vui sướng thì bạn cũng cảm thấy hạnh phúc.

 

Biết được rằng đối xử tử tế và nhă nhặn với nhau quan trọng hơn là đối xử với nhau bằng nghi thức.

 

Biết được rằng khi ôm một em bé ngủ trong vòng tay thì đó là cảm giác êm đềm và an bình nhất.

 

Biết được rằng không nên làm trẻ con thất vọng khi từ chối nhận món quà mà chúng tặng, dù đôi khi nó chỉ đơn sơ và giản dị với vài nét vẽ nguệch ngoạc.

 

Biết được rằng dù không giúp được một người nào đó một cách cụ thể thì ít ra chúng ta vẫn có thể cầu nguyện cho họ.

 

Biết được rằng cho dù cuộc sống và công việc có đòi hỏi chúng ta phải nghiêm trang cách mấy, chúng ta vẫn cần một người bạn để cười đùa.

 

Biết được rằng một lúc nào đó trong đời sống, điều cần thiết nhất của một người đôi khi chỉ là một bàn tay ấm áp để nắm lấy và có được một trái tim đồng cảm kề cận.

 

Biết được rằng nên cảm ơn Thượng Đế vì Ngài đă không ban cho chúng ta tất cả những điều mong muốn và biết rằng vì cuộc sống khó khăn nên chúng ta phải luôn cố gắng tranh đấu

 

Biết được rằng chỉ có tình yêu mới chữa lành những vết thương chứ không phải thời gian.

 

Biết được rằng khi bạn muốn trả thù một người nào thì có nghĩa là bạn cho phép người đó tiếp tục làm cho bạn đau khổ.

 

Biết được rằng phải nói và chứng tỏ tình yêu thương với mẹ nhiều hơn khi bà còn sống.

 

Biết được rằng nụ cười sẽ làm cho bạn trông đẹp đẽ và dễ thương hơn và ai cũng cần được yêu thương và chấp nhận.

 

Biết được rằng ai cũng muốn sống ở trên đỉnh núi cao, thế nhưng tất cả hạnh phúc sẽ phải được trả giá khi chúng ta đang trèo lên đỉnh cao đó.”

Hẹn bạn thư sau nhé. (YT)

 

Giọng cũ xa gần

                     Dân gầy phụ trách

 

Các chủ chăn áo đỏ rất mới-

Nếu nhận xét theo kiểu người đời về những kỷ lục và kỷ lục, thì Đức Giáo Hoàng Bê-nê-đích-tô thứ XVI nhà mình cũng đang lập nhiều kỷ lục, không kém vị tiền nhiệm của ngài là Đức Gio-an Phao-lô II. Kỷ lục ở đây không ở việc phong thánh cho các vị rất lành và rất thánh của thời đại, cũng không phải là tấn phong Giám mục - Hồng y. Mặc dù, vừa qua ngài vừa tấn phong cho 23 vị tân Hồng y (tức: các vị chủ chăn áo đỏ).

Kỷ lục cần để ý hơn ở đây, là nhận xét của phóng viên David Willy của đài BBC nói hôm 24/11/07 rằng: trong buổi họp kín hôm thứ Sáu 22/11/07, đa số các Hồng Y đều đồng ý rằng họ thấy đã có dấu hiệu tích cực trong phát triển quan hệ giữa Giáo hội Công giáo và thế giới Hồi giáo”. Phải chăng đây là một kỷ lục đáng kể, đúng hơn phải nói: đây chính là công việc làm trổi bật vị thế của Đức đương kim Giáo Hoàng? Bạn mình cứ chờ và xem. Hạ hồi sẽ rõ.

 

*Lại chuyện “đàn ông!”- “Đàn bà!”-

Một chuyện khác cần nói, là nói về một chuyện rất dài của thế kỷ: chuyện đàn ông - đàn bà. Khi xưa, ta có “chuyện cấm đàn bà”. Nay, ta có đủ chuyện về đàn bà lẫn đàn ông, lông nhông tha hồ mà đọc. Chẳng ai buồn cấm với đoán, hết. Những chuyện khi xưa còn gọi “ai có qua cầu mới hay”. Ở đây, phải gọi đó  là chuyện “cấm nhà tu” đọc, mới đúng. Bởi, chắc sẽ chẳng có ông bà nào từng tu và trì đồng ý về chuyện này đâu! Chuyện ấy như thế này:

 

“Ước chi ..... không có đàn bà
 Một mình thanh thản, cửa nhà êm  ru
 Ðầu óc chẳng phải lu bù
 Sợ lời léo nhéo, gật gù làm theo
 Cuộc sống mát mái, xuôi chèo
 Chẳng lo va vấp, chẳng mèo mở chi
        Ăn, ngủ, chơi ....., thích là đi
        Chẳng lo tra hỏi : làm gì?, ở đâu?
        Thật vui khi chẳng muốn sầu
        Chẳng người yêu bước, lên tàu sang ngang
        Một mình cuộc sống an nhàn
        Ung dung thư thái, đàng hoàng cần chi ?
       Tươi vui cuộc sống có khi
        Kéo dài tuổi thọ, ít thì ..... gấp ba
        Ước chi không có đàn bà
        Ðàn ông một lủ, thế là khỏe ru .....

       Tâm sự đàn bà
        Ước chi ..... không có đàn ông
       Thì đâu có cảnh chờ chồng đêm khuya
       Mê nhậu, mê gái, mê bia ....

Ngất nga, ngất ngưởng .......đi hia một giờ
Về nhà là ngáy khò khò
Quên bài không trả ...., học trò lưu ban !
Thà sống cái kiếp hồng nhan
Còn hơn cứ phải điêu tàn héo hon
Quần áo, giầy dép, phấn son ....
Tha hồ chưng diện, chả còn ai ghen
Mỗi khi thành phố lên đèn,
Vui chơi nhảy nhót đêm đen mới về
Một mình vui thú chán chê
Gạo còn hay hết, chẳng hề lo toan
Thật là cuộc sống huy hoàng
Ðàn ông biến hết, chỉ toàn .... phe ta ....

 

 

*Anh

 *Anh em mình hiệp thông 

 

Hôm 12/12/2007 Gia đình An Phong Sydney nhận được một tin không vui cho lắm từ thần tăng nhà họ Mai ở Melbourne, như sau:

Anh chị em thuộc gia đình An phong quí mến,

Mình mới nhận được tin từ anh em đang công tác mục vụ tại miền cực Bắc VN cho hay anh Lê Đình Các bi đụng xe chiều qua. Cùng đồng hành với anh Các có một sơ từ Đài loan, một giáo dân từ Hồng Kông và bà bếp. Tất cả trên đường đi thăm đồng bào thuộc miền núi để chuẩn bị chương trình Giáng Sinh cho họ. Nhưng không may đã bị xe tải đụng. Anh Các bi gãy hai chân, sơ người Đài Loan chết tại chỗ, bà bếp và tài xế vẫn trong tình trạng hôn mê.

Nơi anh Các bị đụng xe là một làng quê, cách thành phố Côn Minh hon 200 km. Thiếu thốn mọi phương tiện. Vì thế hiện tại anh em bên này đang lo thủ tục để đưa Anh Các về Úc điều trị. Công việc rườm rà và phức tạp với hệ thống giấy tờ tại đó. Gửi đến anh chị em bản tin này và xin anh chị em một lời nguyện cho anh Các. Cảm ơn anh chị em.

Thân

Thịnh

 

*Noẽl “không bẩy” Noẽl buồn?

Cũng chẳng buồn. Cũng chẳng “sang”. Buồn ở đâu, chứ đâu có buồn với gia đình An Phong. Noel với gia đình An Phong năm nào cũng có nhiều tin vui, rất gần. Tin gần gũi, dù được gửi từ người anh, người em ở rất xa. Mãi tận Tây Nguyên buôn làng “Ma Thuột”, “Mà Thuột” ấy. Tin như ri, làm sao mà buồn:

“Từ miền tây nguyên (Daklak – việt Nam), con kính gửi đến Quý cha, Quý bác và Quý chú, Quý Anh lời mừng lễ Giáng Sinh. Kính chúc từng người cùng với gia đình luôn mạnh khoẻ, bình an và đầy tràn ân huệ của Chúa Hài Đồng. hết lòng cảm ơn về những chia sẻ của mỗi người (nhiều nhất là của Bác Mười Hai) trong thời gian vừa qua. Đôi khi “làm biếng” lấy luôn để giảng!

Ước mong tiếp tục nhận được những chia sẻ đắt giá và cụ thể từ cuộc sống để bài thêm phong phú.

JB HQLâm thuộc diện hậu sinh, may mắn được gia nhập vào gia đình này. Xin thương em út nhé.

Cách riêng, qua trang thư này, gửi lời nhắn đến Bác Lợi, Bác Tá, Vũ Nhậu, Sếp Dzũng… có ăn nhậu gì thì báo cho biết với!!! Xin cầu nguyện để nếu thuận buồm xuôi gió được tái ngộ với các Bác.

Kính mến

JB Hồ Quang Lâm CssR

Việt nam – 16/12/2007.

*Và lời nhắn đã có hổi đáp:

Trước nhất là hồi và đáp từ đấng “chẳng-vị-vọng-gì” có tên là Trần Ngọc Mười Hai:

“Từ Miền Tây Nam Sydney, Mai Tá cũng xin chúc tất cả bà con trong họ ngoài làng Úc thòi lòi, một lễ giáng sinh thật vui. Năm mới 2008 thật an lành.

Alphonsus Trần – 17/12/2007

 

Và, từ người “anh (rất) hai” Friborug, Thụy Sỹ:

 

“Từ Fribourg, Thụy Sĩ, tôi cũng cầu chúc tất cả quý Cha, Thầy và anh chị em Dòng họ Chúa Cứu Thế một Mùa vọng, một Mùa giáng Sinh và một Năm Mới được như ý Chúa muốn và sự chấp nhận của lòng thành…

Trần ngọc báu – 17/12/2007

 

Và, từ làng Cecil Parks, Sydney:

Hello  Cha Lâm,

Vẫn nhớ người anh em Tây Nguyên. Nhớ buổi họp mặt mừng Xuân tại nhà anh chị Tá. Không biết năm nay, chi hội sẽ đón Xuân tại nhà ai, mà chưa thấy CHTrưởng & CHPhó thông báo gì hết trơn. Nếu có đọc được e-mail này, thì chắc NDDzũng và HCLợi chắc phải lo liệu đấy.
Cha Lâm yên chí. Tụi này mỗi lần .... nhậu ... đều nhớ đến người anh em - tuy ở xa chỗ nhưng không xa lòng.

Mến
Vũ Nhuận

 

*Và một thư khác từ quê nhà,

Bạn thân mến,

Chắc chắn là tớ phải có giờ, dành thời giờ để đọc những bài viết các bạn lên Ephata.. và luôn tiện in ra luôn để treo trên bảng trong nhà cơm… Cảm ơn bạn về hai bài vừa nhận được : Suy niệm Chúa Nhật thứ IV mùa Vọng và chuyện phiếm “Nhẹ nhàng như gió thì thầm..”

Mình về lo cho các em Đệ tử và sinh viên dự tập (gần 70 mạng) từ hơn hai năm nay…mình đều lấy lại những thói quen tốt ngày xưa ở Đệ tử viện Vũng tàu. Ví dụ, đọc sách trong giờ cơm… ít nhất 5 phút, rồi lắc chuông và “ngợi khen Đức chúa Giê-su và Đức Bà Maria”, rồi nói chuyện. và, các thứ Ba, Năm, Bẩy, nói chuyện bằng tiếng Anh.

Hoặc làm Tuần Cửu Nhật trước lễ Đức Mẹ… tất cả viết một bài về Đức Mẹ (dài độ 2 trang A4) nói chừng 5 phút… Chọn 9 bài lên nói trước Cộng đoàn sau khi đi lần chuỗi..vv..

Cảm ơn bạn về việc hy sinh làm “liên lạc viên” = Chi hội trưởng Hội Ân Nhân Bảo trợ Ơn Gọi DCCT VN”. Mình bắt chước cha Phêrô Đặng Văn Đào về cái vụ này. Bây giờ có đại diện liên lạc khắp nơi. Cứ đúng như đã định là: Ngoại quốc: chỉ xin $5 USD/tháng và $50USD/năm. Ở VN thì, chi 50 ngàn Đồng VN/tháng và 500 ngàn VNĐ/năm. Gửi về địa chỉ một đại diện gần nhất, sau khi gom kha khá, vị ấy sẽ cho mình, đúng như bạn đã làm về trường hợp anh Simon Hoàng Văn Định ở Melbourne…Rất cảm ơn.

Cầu chúc các bạn Giáng Sinh và Năm Mới không những “Ơn Cứu Chuộc Chứa Chan” mà cả “tiền bạc và niềm vui cũng dư tràn” để san sẻ cho mọi người xung quanh.

Hy vọng sẽ gặp nhau năm tới tại Úc…chưa biết vào tháng nào? Đại Hội Giới trẻ Thế Giới? Đi giảng Đại Phúc? Như chương trình cha Tân Giám Tỉnh đã phác thảo.

Till then

In JMJA

Yuse Tiến Lộc, CssR – 17/12/2007

   
Và một điện thư khác, cũng từ người anh em linh mục, Lm Tiến Lộc ở VN:

Anh chị Mai Tá và anh em thân mến,

Mình vừa nghe Cha Vinh Son Phạm Trung Thành, Giám Tỉnh mới được bầu kỳ này báo tin là mình được mời đích danh sang Úc Giảng Đại Phúc tại ít nhất là hai nơi sau đây: Perth và Melbourne.
Hy vọng sẽ có dịp vông lên
Sydney ít ngày ..

Noel vừa qua rất bận rộn , vừa đi giảng , vừa làm Văn Nghệ Giáng sinh ..toàn những Show lớn ..tại Nhạc viện, tại nhà Thờ Ba chuông, Tại Hànội, Tại  Trung Tâm Văn hoá Công Giáo Sàigòn ...Tổng cộng khoàng 20 ngàn Khán
giả ...

Mừng Năm mới Tây "trễ"... và Chúc Mừng "sớm"  Xuân Bính Tý 2008 đến tất cả quý vị.

Thân ái in JMJA 

Tiến Lộc CSsR

 

*Lâu lắm mới lại Khilikhitô:

Nói lâu lắm, là nói ở Sydney chứ đâu phải nơi nào khác. Lâu, là so sánh với những năm về trước. Những năm mà thần tăng nhà họ Mai vẫn còn trụ trì ở “miệt trên” Sydney … 2000 năm một thuở vui vầy này. Và niềm vui ấy vẫn kéo dài, lai rai với gia đình An Phong bé nhỏ nay.

Quả là, từ ngày ấy, Sydney ít có dịp vui vầy Khilikhitô như xưa. Nhưng vừa qua, hôm 16/1/2008 có sự xuất hiện của nhóm học viện Dòng Chúa Cứu Chuộc tỉnh dòng Úc, người Việt, cùng vị thần tăng quản cai và có sự hiện diện của một số cựu tu sinh Dòng như: anh chị CHTrưởng Nguyễn Đắc Dũng, CHPhó Huỳnh Công Lợi, anh chị Vũ Nhuận và Mai Tá. Đám khilikhitô hôm nay tròm trèm cũng được 14 vị. Đặc biệt kỳ này còn có anh Trí, linh mục thừa sai Trung Quốc, người tháp tùng Bề Trên Lê Đình Các về Úc chữa bệnh, sau tai nạn xe cộ ở bên đó.

Có khilikhitô là có vui, có tụ họp. Câu chuyện tụ họp vẫn là những chuyện kể vui vui về Dòng ở khắp nơi và người tu sĩ Dòng từng quen biết. Đặc biệt lần này, anh em được tin là các học viên Dòng Úc người Việt, năm nay, sẽ được về quê thăm gia đình những 2 tháng tròn. Hai tháng không là thời gian dài, nhưng cũng đủ để anh em “lên giây thiều”, lấy lại quân bình trong đời tu, có xa cách, nhớ nhung. Có hụt hẫng. hy vọng, sau những ngày vui vầy ở quê nhà, anh em sẽ lại vui vầy trở lại với Dòng thánh hiện tại ở quê hương thứ hai này. Mong lắm đấy.

 

*Có những bộc lộ:

Quả là vào thời vi tính khoa học, có những điều người người truy cập và lưu trữ rất nhanh. Những điều ấy, gồm một liệt kê những phát biểu công khai ra bên ngoài hoặc còn giữ kín bên trong. Trong nội bộ. trong cửa miệng.

Dưới đây là những khám phá cũ/mới được bật mí từ giới “viết và lách”, ở VN.:

*10 câu nói gây ấn tượng nhất:

1.Câu nói “tỉnh bơ” nhất: “Tôi ký giấy vì… tưởng tỉnh không có quyết định thu hồi đất” (Hoàng Tùng, Chủ tịch UBND Xã Hưng yên, bị can trả lời về sai phạm khi dự án mở rộng quốc lộ 39A)

2.Câu nói “đau khổ” nhất: Mở mắt ra là thấy nhà ngập. Một tháng có tới 20 ngày nước ngập thì làm sao sống?” (Phát biểu của dân P.5,Q8 TP/HCM).

3.Câu nói “hợp tình hợp lý” nhất:”Dự án cuối năm thực hiện ồ ạt là do qui định của ngân sách, của thuế chứ không phải vô cớ mà cuối năm các quận/huyện thi nhau làm. Nếu như cơ chế ngân sách thuế không thay đổi từ trung ương thì chuyện đào đường cuối năm sẽ còn dài dài.” (Ông Nguyễn Việt Sơn- Phó GĐ sở giao thông công chính TP/HCM)  

4.Câu nói “xuyên tạc” nhất: Chuông reo là…cởi” (Báo điện tử Vietnamnet nhận định về phim “Chuông reo là bắn”)

5.Câu nói “thực tế” nhất: “Hầu hết các cuộc hội thảo ở nuớc ta toàn nói “vuốt đuôi” theo kiểu vấn đề anh phát biểu chúng tôi cơ bản đều nhất trí” (Ts Dương Ngọc Dũng)

6.Câu nói “bức xúc” nhất: “Tôi không thể nào chịu được khi một vụ gây thất thoát hàng triệu USD của nhà nước mà kỷ luật thanh tra chỉ kiến nghị xử lý ”kiểm điểm nghiêm khắc” (Ông Vũ Phạm Quyết Thắng- nguyên Phó Tổng Thanh Tra chính phủ).

7.Câu nói “chơi chữ” nhất: “Hối lộ dường như chỉ hối khi bị lộ, chưa bị lộ thì người ta chưa chịu hối đâu. (Bình luận viên Nguyễn Đông)

8.Câu nói “vô tư” nhất: “Đọc nghe thấy sướng tai thì cấp giấy phép” (Ông La Thành Nghiệp, Phó GĐ sở VHTT Bạc Liêu nói về GP phát hành băng dĩa)

9.Câu nói có “uy lực” nhất: “Câm mồm!” (Đại diện viện kiểm sát quát một bị cáo trong phiên toà xét xử Vũ Hoàng Anh cùng đồng bọn tội “giết gnười” tại toà án ND TP Hànôị)

10.Câu nói “thẳng thắn” nhất: “Lương nhà nước thấp quá.” (Ông LươngVLý, nguyên PGĐ sở Kế Hoạch Đầu tư TP/HCM nói lý do ông nghỉ việc).

*10 câu nói khôi hài nhất:

1.”Nhiều đại biểu không hiểu gì, ngay cả thu nhập GDP cũng không hiểu thì làm sao ông dám phát biểu”(Chủ tịch HĐ Dân tộc Quốc hội Tráng A Pao với quan điểm nâng cao trình độ của đại biểu HĐND để tránh tình trạng nghị gật)

2.”Các ki-ốt sạt lở chỉ hư hại có.. 3 trái dưa hấu, không có người dân nào chết là sự hãnh diện của chính quyền địa phương.” (Trưởng phòng Hạ tầng-Kinh tế Phong Điền Lê Văn Hậu trả lời trước thắc mắc của người dân trong vụ bờ kè Phong Điền (Cần Thơ) sạt lở khiến hơn 100 hộ phải “di tản”)

3.Ta hay nói “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, nhưng móng tay nhọn thì vỏ quýt ngày càng dày ra để không bóc được!” (Ts nguyễn Đình Lộc, nguyên Bộ trưởng Tư pháp nói về khả năng đối phó với nghị định minh bạch tài sản, thu nhập).

4. Ngập “lẻ” giảm, ngập “sỉ” tăng, (Chủ tịch HĐND TPHCM Nguyễn Phương Thảo nhận xét khôi hài về tình hình chống ngập ở TP/HCM)

5. Dư luận cho rằng việc học sinh “ngồi nhầm lớp” là một tai hại lớn cho ngành GD-ĐT, nhưng đứng nhầm lớp còn tai hại hơn. (Ông Bùi Trọng Liễu- nguyên giáo sư đại học {Paris (Pháp) nói về chất lượng giáo viên đại học ở nước ta).

6. Nhiều nơi mặn mà với việc cổ phần hoá không do yêu cầu về chính trị mà vì “tiềm năng” chia chác tài sản quốc gia. (PGs-Ts Nguyễn Văn Nam nói về “lỗ rò” cổ phần hoá)

7. Người dân nghèo quê tôi chỉ duy nhất một lần trong đời nhìn thấy bác sĩ khi có nhu cầu… làm giấy chứng tử! (Một người nông dân nghèo ở Đồng bằng sông Cửu Long).

8. Cấp dưới thấy sai vẫn cứ làm. Cấp trên thấy sai nên…để cấp dưới làm (Nhà báo BB bình về vụ chia chác đất đai ở Đồ Sơn).

9. Nhà đầu tư chân chính đi một hồi thì… về nước luôn! Ai giỏi chạy, giởi bôi trơn mới đi tiếp được. (Đại biểu HĐND Đặng Ngọc Hoa nói về cái vòng lẩn quẩn trong thủ tục đầu tư xây dựng).

10. Ai đánh giá thế nào mặc kệ, có gì mà lo? (Vũ Đình Thuần-nguyên phó Chủ Nhiệm Văn phòng chính phủ, trưởng ban Đề án 112-phát biểu khi vỡ lở chuyện xà xẻo trong ngân sách PMU 112).

 

*10gương mặt nổi cộm nhất trong năm 2007

1.Trương Văn Khánh: Tổng Giám đốc Công ty Vật tư Nông nghiệp: biến nhiều tài sản nhà nước thành của riêng. Chỉ riêng tiền tiếp khách trong 4 năm đã gần hết 8 tỉ đồng (hơn 6/ngày).

2.Vũ Đình Thuần: Nguyên phó chủ nhiệm Văn phòng chính phủ. Truởng ban điều hành đề án 112. Điều hành dự án không hiệu quả làm lãng phí của nhà nước hàng ngàn tỉ đồng.

3.Nguyễn Văn Tấn: Nguyên Giám đốc sở Giáo dục và Đào tạo Bạc Liêu cùng các phó giám đốc nhiều cán bộ phòng ban ở sở này nâng điểm thi tốt nghiệp THPT cho nhiều thí sinh vì có “sự gửi gắm”.

4. Nguyễn Văn Khoẻ (Tám Khoẻ): Nguyên chủ tịch UBND huyện Hóc Môn. Chưa học hết cấp 2 mà đã có bằng đại học thậm chí có cả thạc sĩ kinh tế. Cầm đầu đường giây tiêu cực “ăn đất” ở huyện, gây dựng cơ ngơi “cực kỳ … khoẻ”.

5. Phan Xuân tùng: chuyên viên Sở Kế Hoạch và Đầu tư tỉnh KHánh hoà “làm luật” ra giá trắng trợn và ẵm gọn 70.000 đô la Mỹ của một nhà đầu tư.

6. Đỗ Hoài Phương Minh: nguyên cảnh sát giao thông Bình dương hết bắn tiếp viên thủng váy tới cãi cự và mở cốp xe lấy 2 cây kiếm Nhật ra doạ nhân viên an ninh trật tư ở sân bay Đà Nẵng.

7. Nguyễn Hữu Lai: nguyên giáo viên trường tiểu học Đình Tổ 2, Thuận Thành – Bắc Ninh xem như điển hình cho tốp “dâm su” vì đã hiếp dâm 11 lần với 7 em học sinh nữ 9 tuổi học sinh lớp 3!

8.Cặp vợ chồng Chu Minh Đức – Trịnh Thị Phương chủ một cửa hàng bán phở hành hạ em Nguyễn Thị Bình suốt 13 năm trời tàn nhẫn mà các cấp chính quyền đoàn thể ở phưòng Thượng Đình-quận Thanh Xuân, Hà Nội không can thiệp.

9.Nguyễn Ngọc Kim: Nguyên phó chủ tịch thường trực UBND tỉnh Lào Cai trưởng ban phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại. Tiếp tay cho buôn lậu hoành hành trốn thuế hàng chục tỉ đồng, mở lối giải cứu hàng lậu.

10. Phùng Nhanh: Phó cục trưởng Cục thuế Quảng Nam. Trong lúc cả nước đang hướng về bão lụt miền Trung với những tất bật lo âu và chia sẻ thì ông này cùng một số quan chức ngành thuế tụ tập đánh bạc.   

 

*Bên lề cuộc họp mặt: Tin vui mai ngày-

Cũng như mọi lần, họp mặt đầu xuân Mậu Tý năm nay, có đôi chuyện ngoài lề, chưa kịp đăng. Nay, DânGầy phổ biền vài tin, như sau:

-Anh chị Lê Duy Phước nay hân hoan vì quý tử còn lại của anh đã thành giá thất. Chúc mừng anh chị Phước-Hoa.

-Hai Bác Nguyễn Anh Cung: dự tính sẽ về Sydney mừng 50 năm hôn phồi với con cháu. Chúc mừng hai bác Cung.

-Tháng 9/2008 này, Anh chị Huỳnh Công Lợi sẽ lấy vợ cho “út cưng” là cháu Hoàng Huỳnh và qua năm 09 lại gả “út cưng” HuỳnhHồngPhúc con trai của cùng anh chị xuôi vào năm 2009. Lại xin chúc mừng anh chị Thuỷ-Lợi.

-Chi hội Sydney năm nay được mùa ân ái, nên anh chị Nguyễn An Bình cũng sẽ thực hiện gả cưới “út cưng” như anh chị Lợi, tức: cho phép gái út của anh chị là cháu Nguyễn Bích Bảo lên xe “bông” về nhà “trai” rất đẹp, ở Sydney vào hạ tuần tháng Một Mậu Tý năm nay 2008. Xin lại được chúc mừng và chia vui các anh chị Bình-Hoà.

René Goscinny:

làm người khác cười nhanh

hơn cả cái bóng của mình!

                                     Nguyễn Ngọc Lan Chi

 

Đã 30 năm trôi qua (5.11.1977 - 5.11.2007) kể từ ngày nhà văn thiên tài người Pháp René Goscinny rời bỏ những chuyến phiêu lưu vượt không gian và thời gian của mình cùng chàng « cao bồi nghèo đơn độc » Lucky Lucke tại miền Viễn Tây Hoa Kỳ, cùng Astérix, Obélix và ngôi làng Gaulois anh hùng trong cuộc chiến chống quân xâm lược La Mã «vào năm 50 trước Công Nguyên», cùng lão tể tướng Iznogoud xấu tính ở phương đông huyền bí của Ngàn lẻ một đêm, cùng cậu bé Nicolas hồn nhiên trong thế giới của trẻ con… 30 năm vẫn không đủ để gia đình và bạn bè ông nguôi nỗi thương nhớ và 30 năm trôi qua, ông vẫn luôn đồng hành cùng hàng trăm triệu độc giả trên toàn thế giới…

 

1.     Nhà văn với nguyện vọng

    được làm… nhà văn

 

Nhà văn André Malraux (cũng là Bộ trưởng Bộ văn hóa từ năm 1959 đến 1969 dưới thời Tổng thống Charles de Gaulle) từng nói với Goscinny: «Tôi viết về huyền thoại, nhưng anh, tuyệt vời hơn, anh đã tạo nên một huyền thoại». Huyền thoại mà ông cựu Bộ trưởng nhắc đến chính là đứa con tinh thần của Goscinny và họa sĩ Albert Uderzo, bộ truyện tranh Astérix. Sắp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 50 vào năm 2009, sau gần nửa thế kỷ, khoảng 320 triệu bản Astérix đã được tiêu thụ trên toàn thế giới. Con số này đủ để chứng minh vì sao trong một cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, Tổng thống de Gaulle đã vui miệng đặt cho mỗi vị Bộ trưởng của mình tên một nhân vật trong Astérix và chiếc vệ tinh đầu tiên người Pháp phóng vào vũ trụ ngày 25.11.1965 được mang tên Astérix. Tầm ảnh hưởng của Astérix trong nền văn hóa giàu truyền thống của Pháp là không phải bàn cãi!

Nhưng dấu ấn của Goscinny không chỉ dừng lại ở hình ảnh của «người hùng tí hon» Astérix, chàng cao bồi miền viễn Tây Lucky Lucke tuy là «con ruột» của họa sĩ Morris, nhưng chính từ khi có Goscinny tham gia viết lời, Lucky Lucke mới thật sự đạt được thành công tột đỉnh, sau 61 năm, 200 triệu bản đã được bán sạch. Nếu kể thêm 10 triệu bản «Những mẩu chuyện về bé Nicolas» đã được bán, 3 trong số 4 tác phẩm «đinh» của Goscinny đã chứng tỏ khi tên của ông xuất hiện trên bìa sách, các nhà xuất bản hoàn toàn có thể yên tâm về doanh thu.

 

Mọi người đều công nhận Goscinny là nhà văn lớn của Pháp, đặc biệt trong mảng văn học đại chúng, nhưng chính bản thân ông lại chưa bao giờ dám tự nhận mình là một nhà văn mà chỉ cho mình là một người làm nghề… hài hước. Khi nhìn nhận như thế, một phần là do Goscinny đã quá khiêm tốn nhưng mặt khác, vào những năm 50, truyện tranh bị người Pháp xem là «làm hư trẻ con». Goscinny là nhân tố chính góp phần đưa truyện tranh Pháp trở nên ngang hàng với truyện tranh Bỉ của chàng phóng viên Tintin và cũng nhờ bệ phóng Astérix mà truyện tranh ngày nay được xem như «nghệ thuật thứ 9». Những thay đổi về vị trí của truyện tranh trong văn hóa Pháp được chính Goscinny tóm tắt rất ngắn gọn trong một lần trả lời phỏng vấn : « Tintin là bộ truyện tranh đầu tiên thực sự thành công, nhưng đã không tạo nên bước ngoặt như Astérix. Với Tintin, các vị phụ huynh vào thời đó sẽ nói: «Tôi không muốn con tôi đọc truyện tranh, trừ Tintin», nhưng từ khi Astérix xuất hiện, mọi chuyện thay đổi hoàn toàn, truyện tranh được các bậc phụ huynh xem như món ăn tinh thần không thể thiếu của con em mình».

Với những đóng góp quan trọng như thế nên trên các bảng tên của hơn 20 con đường trên toàn nước Pháp mang tên ông, Goscinny hoàn toàn xứng đáng với phần chú thích: «René Goscinny - Nhà văn».

 

2. Thiên tài thích đùa,

     đùa với cả số phận

 

Goscinny sinh ra là để làm cho cuộc đời có thêm nụ cười. Ông có khiếu hài hước bẩm sinh, niềm vui của ông là làm cho người khác phải cười. Sự hóm hỉnh hiện diện trong suốt cuộc đời của ông, từ gia đình, đồng nghiệp đến độc giả của Goscinny, đã biết đến ông thì đều đã từng bị ông « bắt » phải cười.

 

Từ lời thoại truyện tranh của Goscinny, hàng chục câu nói đã theo các nhân vật bước ra khỏi trang sách đi vào đời thực và vô tình trở thành một số thành ngữ của người Pháp. Cậu út nhà Dalton « khi nào thì mình ăn ? » trong mọi hoàn cảnh, ông tể tướng xấu bụng Iznogoud với câu nói nổi tiếng « ta muốn thành Hoàng thượng thế chỗ cho Hoàng thượng » đã trở nên rất quen thuộc với các chính trị gia, đặc biệt hơn, câu slogan « bắn súng nhanh hơn cái bóng của mình » dành cho Lucky Luke không chỉ « nổi tiếng » suông mà đã được đưa vào từ điển của Viện Hàn lâm Pháp …

Chính khiếu hài hước thiên tài, óc tưởng tượng phong phú cùng với khả năng chơi chữ tuyệt vời của Goscinny đã tạo nên những tình huống không-thể-không-cười làm độc giả nhớ mãi và vô tình sử dụng lại một số câu thoại trong các tác phẩm của ông để diễn đạt trong văn nói. Chỉ có ông mới thấy « tiếc » khi họa sĩ Moris « lỡ tay » giết chết anh em nhà Dalton trước thời điểm Goscinny tham gia viết lời cho bộ truyện. Nhận ra được « giá trị hài hước » tuyệt vời của 4 anh em nhà này, Goscinny đã cho họ « sống lại » với hình ảnh của 4 anh em… họ nhà Dalton. Thành công là không phải bàn, 4 anh em «họ» nhà Dalton nổi tiếng và được… yêu mến không thua gì chàng cao bồi Lucky Lucke đẹp trai tài giỏi.

 

Cũng chỉ có Goscinny mới có thể có cái nhìn hài hước của trẻ con về người lớn khi ông vào vai bé Nicolas, cậu học sinh tiểu học, kể lại những chuyện thường ngày ở trường lớp, ở trại hè. Năm 2004, khi con gái ông tập hợp lại những truyện chưa in thành sách trước đây để in lại, 640.000 bản «Những mẩu chuyện chưa từng kể về cậu bé Nicolas» dày hơn 600 trang ngay lập tức được bán sạch và trở thành best-seller mọi thể loại trong năm tại Pháp. Với bối cảnh học đường những năm 50, trẻ con chủ yếu vui đùa với hòn bi, với trò rượt bắt mà Goscinny vẫn khiến cho các cô cậu bé thế hệ «game boy» của thế kỷ XXI say mê bé Nicolas thì ông thật sự xứng đáng là một tượng đài trong nền văn học Pháp.

 

Ông đã không hoàn tất được ước nguyện xây dựng một hãng phim lớn, một « Walt Disney » của Pháp khi ra đi đột ngột do lên cơn đau tim vào ngày 5.11.1977, khi ông mới 51 tuổi. Goscinny là một người thích đùa, và họa sĩ Mézières bạn ông đã nhận xét một cách chua xót: «Chết vì lên cơn đau tim khi đang kiểm tra sức khỏe tại phòng khám của bác sĩ chuyên khoa… tim mạch, trò đùa cuối cùng của Goscinny chăng?». Độc giả khắp thế giới sẽ mãi nhớ đến Goscinny, nhà văn có khả năng làm người khác cười «nhanh hơn cái bóng của mình».

 

Nguyễn Ngọc Lan Chi

 

Suy gẫm từ  mục vụ: 

Tha Thứ

 

Kính gửi Bác,

Ngày đầu năm con phải nhận một sự kiện buồn tê tái.

Một đứa con trai 18 tuổi đi uống rượu say, về nhà quậy phá nhà. Bố mẹ chịu không nổi bèn lên tiếng. Đứa con quay ra đòi đánh Mẹ. Bố đứng chặn đường cản: “Nếu mày muốn đánh, thì đánh tao đây, để Mẹ mày còn sống mà nuôi em.” Đang trong cơn xung nộ, đứa con vung tay vung chân, lỡ trúng chỗ hiểm, ông bố té xỉu tại chỗ. Đưa đi bệnh viện gần đến nơi thì chết.

Cả làng bất bình. Công an còng tay thằng con bất hiếu tại chỗ.

Đêm mồng hai tết, cùng với các anh chị em giáo lý viên vô Buôn dâng lễ an táng. Nhìn cảnh mẹ con nét mặt vẫn chưa hết ngơ ngác vì tai họa ập đến quá bất ngờ, quá khủng khiếp, đau lòng, không ai có thể kìm giữ được nước mắt. Thương cho người vợ từ nay thành goá bụa. Thương cho những đứa con thơ từ nay mất cha. Nhìn cảnh tang tóc, mọi người đều giận thằng con bất hiếu. Công sinh ra nuôi dưỡng bao nhiêu năm nay, thế mà …!

Sau thánh lễ, con chọn một góc ngồi xa xa, ẩn khuất, nhìn về phía quan tài, nơi đó người vợ đang ngồi thổn thức nhìn di ảnh của chồng, … chợt nghĩ đến đứa con đang ở phòng giam: Không biết khi tỉnh rượu, nó sẽ như thế nào nhỉ? Có lẽ nó cũng đau đớn lắm, vì có đứa con nào mất cha mà lại không đau đâu? Nhất là khi cái chết lại do chính mình lỡ dại gây ra. Mười tám tuổi đầu nó đã vấp phải một sai lầm nghiêm trọng, để rồi phải trả một cái giá quá đắt, không thể bù đắp, không có cơ hội sữa chữa. Sai lầm bắt nó phải chịu sự cô lập của tất cả mọi người, chịu sự phát xét của toàn xã hội: “đồ con giết cha”. Có lẽ nó đã mất tất cả … vì cái dại của thằng con trai mới lớn.

 

Con lại nghĩ đến ông bố, đang nằm đấy. Không biết bây giờ ông đang nghĩ gì? Có lẽ bây giờ Ông đã tha thứ cho đứa con rồi, bởi vì ông là cha chứ không phải là người khác. Người cha thường sẵn lòng tha thứ cho đứa con khi nó phạm lỗi. Người cha thường gánh lỗi cho con khi nó dại dột. Người cha thường chở che cho con của mình trước sóng gió cuộc đời, trước búa rìu dư luận… Người cha sẽ đau lòng lắm khi thấy con phải trong vòng lao lý. Có lẽ chỉ với người cha đứa con mới được “yên thân”. Tội nghiệp, người cha bây giờ lại đang nằm đây, bất động!!! Còn người Mẹ, … Bác ạ, lúc đó con không dám nghĩ thêm vì con biết chắc nỗi đau mất mát đang như tảng băng đè nặng trên tâm hồn của người mẹ đó. Con cũng tin chắc rằng trong cái đau của người vợ mất chồng, đau cho những đứa con thơ dại từ nay mồ côi cha, vẫn có đó cái đau của người mẹ đang phải xa con của mình, dù nó bất hiếu. Tâm hồn người Mẹ vẫn thường như thế.

***

Làm người thì phải biết lẽ phải, biết dưới biết trên. Được nhận thì phải biết cám ơn. Làm sai thì phải biết xin lỗi. Con cái thì phải biết hiếu thảo …”. Đó là những chuẩn mực làm người mà ta thường dựa vào đó mà đánh giá, và nhận định một người nào đó. Và cứ theo lẽ thường đó mà phán xét, đứa con thật đáng chết.

Nhưng nếu xét đoán như thế, có bất công quá không với người con trai bất hiếu?

Ở trong một môi trường giáo dục kém, ít ăn ít học, lại phải đối diện thường trực với cảnh nghèo, cha mẹ vì lăn lộn với cuộc sống ít có cơ hội và bản lãnh để ảnh hưởng trên đứa con. Mặt khác, xã hội với những lôi cuốn khắc nghiệt, rồi bạn bè – cũng là những đứa ít ăn học như thế – dễ dàng đưa nó vào một lối sống buông thả và hư hỏng. Và thực sự nó hư hỏng thật. Sai lầm chết người là hậu quả từ lối sống đó.

Phải ở trong một môi trường kém may mắn như thế, thiếu thốn đủ mọi phương diện có thể giúp nó thành người, phải chăng nó là một đứa đáng thương hơn đáng trách!

Con chợt nghĩ đến lời Chúa Giêsu trên thập giá: “Lạy Cha, xin hãy tha cho họ vì họ lầm (lỡ) không biết”. Có lẽ đứa con chưa mất hết vì vẫn còn Chúa, vẫn con Cha Mẹ, vẫn còn … .

Con đã không dám nói ra ý nghĩ đó với những người đang giận dữ xung quanh, ngay sau thánh lễ an táng buồn của những ngày đầu năm. 

 

 

 

JBL. BMT 

 

 

 

 

 

 

 

 

Comments