Số 62 – Quý 2 /2008 Vẫn chuyện lời lãi thế gian Lm Mai Văn Thịnh Tôi có người anh họ, ỡ thuở thiếu thời sống rất cơ cực. Mới 6, 7 tuổi đã phải ra đồng mò tôm bắt cá, phụ đợ cha mẹ trong cộng việc đồng áng. Khi khôn lớn, hoàn cảnh gia đình anh không hơn gì các gia đình khác. Chính mắt tôi, đã thấy cái cảnh anh vừa đóng rương mộc, vừa học bài. Cuối cùng, anh cũng được đền bù xứng đáng, với mảnh bằng bác sĩ nắm trong tay. Cuộc sống gia đình vì thế khấm khá hơn.
Sang đến Úc, hoàn cảnh thay đổi, anh đã không còn cơ hội để tiếp tục nghề “lương y như từ mẫu” nữa, mà phải thức khuya lặn lội kiếm kế sinh nhai, nuôi gia đình còn lại bên nhà. Mỗi khi có cơ hội gặp anh, tôi vẫn nghe anh nói về những thành công trong quá khứ. Nhưng sau đó, là những than vắn với thở dài, nào là: Chúa ban cho anh quá nhiều, mà anh chưa làm được gì sinh lợi cho Ngài.
Giờ đây, tóc đã ngả mầu, anh vẫn cứ cặm cụi trong lao động và tìm khuây khoả bên ánh đèn mờ, có tiếng chuông. Điều chua sót tôi chợt nhận ra: anh không lười biếng, nhưng suốt ngày chỉ biết than thở mà quên đi những việc đang chờ đợi mình. Thay vì thế, anh lại đi tìm quên lãng trong ánh đèn mờ có tiếng chuông reo.
Ció người, làm việc cũng hăng say. Công tác cộng đồng nào cũng có mặt. Không những, họ chỉ cống hiến tài năng, tiền của mà còn động viên các thành phần trong gia đình cùng tham gia. Tuy nhiên, khi gặp chuyện “bất bình”, đụng chạm “cái tôi”, đã không chấp nhận được mọi thử thách, bèn kéo bè lập phái, cốt tìm những sơ hở của người khác, để buông lời chỉ trích, rất cau nghiệt. Thiếu bác ái. Thậm chí, còn dùng quyền hành mình có để cấm đoán hoặc ngăn ngừa con cháu tham gia công việc mà trưóc đây mình vẫn thúc giục mọi người làm. Họ cứ tưởng chỉ mình mới có thể hoàn thành tốt công tác mà hiện nay mình không còn vương víu, bận tâm.
Những trường hợp như thế không thấy thiếu trong cuộc sống. Chẳng cần đợi đến lúc phải “quá khoá” như các thánh tử đạo hồi xưa, mới biết mình phải đối diện với các đòi hỏi triệt để trong Tin Mừng, mà chọn cách đầu tư cho Nước Trời. Trung tín với Tin Mừn, không thể mang thái độ nửa vời: vừa đầu tư cá nhân vừa cho gia đình mình mà thôi; hoặc tệ hơn, có những người sẵn sàng hiến thân người để thăng tiến một mình mình.
Tin Mừng về những nén bạ, Chúa muốn nhắc nhở: không ai được tạo dựng giống hệt như người khác. Mỗi người có nét vẻ riêng. Tuy nhiên, mọi người đều được mời gọi làm giàu và thăng hoa những gì mình đang có. Người được một nén, không nhiều như người được năm nén. Đó là điều thật rõ nét. Nhưng, một nén là tất cả những gì anh ta cần. Nói khác đi, mỗi người đều quan trọng và có chỗ đứng riêng trong tim của Chúa. Và, có cùng bổn phận phải chu toàn, trong chương trình Ngài đưa ra. Điều quan trọng, không ở việc nhận nhiều hay ít, nhưng ta nên sống thế nào để phù hợp với những gì được trao ban hầu rạng Danh Chúa.
Người có một nén, cũng cùng một cơ hội như người được năm nén. Nhưng, ông chọn kiểu đem giấu đi. Đó là điều tệ hại. Tệ hại, là ta tưởng rằng những gì mình nhận lãnh để đầu tư vào “cái tôi” cho nó phình to ra. Phình đến độ, ta cứ nghĩ chỉ mình “tôi” mới làm được chuyện này, việc nọ. Phải chăng “cái tôi” và những tham vọng gồm tóm trong đó, đã thay đổi vị trí của Chúa trong cuộc sống của mình? Thay đổi những việc ta đang làm? Thay đổi là thay vì làm rạng Danh Chúa, thì bằng mọi cách và mọi phương tiện, ta làm chỉ để mình được tôn vinh. Như thế, Chúa đã bị chôn vùi trong chính “cái tôi” của ta.
Ngày nay, khi trao “bài sai” cho ai, các đấng bản quyền thường định rõ công việc người ấy phải chu toàn. Như trong dụ ngôn nén bạc, khi trao cho người làm công, ông chủ không trao cho họ bài sai nào rõ ràng, hết. Điều này có nghĩa: ông chủ tôn trọng tự do của người nhận nén bạc. Dù có tự do làm như thế, ông vẫn không lạm dụng quyền tự do của mình để làm giàu bản thân. Bởi, biết chắc một ngày nào đó, ông chủ sẽ tra vấn điều mình làm.
Cách sinh lợi của người nhận năm nén bạc, khiến ta nghĩ đến các doanh thương ngày nay. Ngoài khả năng tính toán đầu tư, họ vẫn phải liều lĩnh. Liều, không phải bạ đâu cũng đầu tư, nhưng họ vẫn khôn như con rắn và hiền như chim bồ câu, mỗi khi cần.
Là tín hữu, ta được mời gọi hành xử một cách tự do, có vốn liếng đã trao cho mình. Tự do, khiến ta liều lĩnh chấp nhận thua thiệt để trung thành với đòi hỏi triệt để của Tin Mừng. Liều, trong tin yêu vào Chúa là đức tính cần thiết ta phải có. Liều, để làm chứng cho Tình yêu Chúa ngập tràn nơi cuộc sống của ta. Hành vi của lòng tin được đánh giá bằng lòng mến và việc thiện ta làm, như thánh Giacôbê viết: “Giả như anh chị em không có áo che thân, không đủ của ăn hằng ngày, mà anh chị em lại nói với họ: hãy đi bằng an, mặc cho ấm, ăn cho no, nhưng lại không cho họ thứ họ đang cần, thì nào ích chi? Cũng vậy, đức tin không có việc làm quả là đức tin chết”.(Gc 2: 15-17). Và hành động lòng tin mà không dựa trên lòng mến thì cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèn. (1Cr 13: 1)
Viết giòng này, tôi nhớ có đồng nghiệp đã chia sẻ về tình yêu, lòng mến, hành vi bác ái, cho đi… trong buổi nguyện cầu nọ. Ngôn ngữ anh dùng thật bóng bảy. Tuy nhiên, phía sau lời bay bổng ấy, tôi nhận ra nỗi đắng cay của kiếp người. Lời lẽ, ngôn từ anh dùng đã đi quá xa, vẫn là những lời mời gọi, lạc lõng. Chính vì thế, anh chạm vào nỗi đau của chính anh, của tôi và có thể của bạn nữa. Quả vậy, suy tư về lòng mến là suy nghĩ về sự không cùng của Thiên Chúa. Việc này vượt quá giới hạn của ngôn ngữ. Vượt lên trên cả những gì thuộc về trần thế, để ta vươn tới cõi vĩnh hằng, nơi mà thánh Phao-lô có nói đến trong bài ca đức mến: “hiện nay đức tin, đức cậy và lòng mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến.” (1Cr 13: 13)
Trong đời thánh An Phong, đấng sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế, ngài tha thiết có một điều, và điều này ngài đeo đuổi cho đến ngày cùng cuộc sống, đó là: “Hãy yêu mến Chúa Giê-su.”
Mừng lễ tử đạo Việt Nam hay tất cả các thánh, ta không thể phủ nhận gương can đảm chấp nhận khổ hình và lòng trung tín, của các ngài. Tuy nhiên, thật thiếu xót nếu ta chỉ nhấn mạnh đến nét hào hùng, gương can đảm, đến cực hình các ngài gánh chịu, mà quên đi động lực chính đã giúp các ngài đi đến cùng đích, đó là: lòng yêu mến Chúa Giê-su, rất hăng say. Dĩ nhiên, tử vì Đạo là cái chết dũng cảm. Nhưng, nét oai hùng ấy, vẫn có thể tìm thấy nơi các vị anh hùng của đất nước. Dân tộc ta đã có biết bao nhiêu là người từng hy sinh cho quê hương bằng cái chết hào hùng, quả cảm như thế. Nhưng, có hy sinh cách mấy cũng chỉ làm cho mình trở nên anh hùng mà thôi. Còn, những gì làm cho các thánh ở đây, nhất là các vị tử vì Đạo, được trở nên thánh thiện đáng kính phục, lại chính là lòng mến.
Có yêu mến, các thánh mới từ khước được tất cả. Và chấp nhận chết cho tất cả. Thật vậy, mọi nhận thức thấu hiểu về giáo lý hoặc tín điều về thiên Chúa nơi các thánh, thật ra vẫn nông cạn. Các ngài không có được các suy tư cao siêu về thần học. Nhưng khi trở thành tín hữu, các ngài đã yêu mến Chúa bằng tất cả con người mình. Đỉnh cao của tình yêu nơi các ngài, được thể hiện qua việc chấp nhận cái chết, hầu noi gương Chúa Giê-su hiến thân, mà tỏ bày lòng yêu mến tuyệt hảo của Thiên Chúa, cho nhân loại.
Không ai có thể tìm được nơi sử hạnh của các thánh Tử vì Đạo, trong giờ phút chờ chết, những lời thốt ra thật cay đắng, hoặc nguyền rủa kẻ giết hại mình. Trái lại, các ngài vẫn luôn có nụ cười. Luôn tỏ bày niềm vui. Và, luôn an ủi người khác. Sau cùng, là việc các ngài thứ tha cho kẻ giết hại mình.
Sống đến tận cùng lòng mến và chấp “bài sai” như một thách đố của lòng tin, để rồi trong cuộc đời thường nhật, ta luôn trung tín. Và, để ta làm giàu hơn thêm, những gì Trên đã trao ban, là: hãy sống ơn gọi tử vì Đạo. Sống cho Đạo, thì cũng phải dám chết cho Đạo, có thế mới đúng với “bài sai” Chúa gửi đến cho mỗi người.
Như các thánh sống vì Đạo và chết cũng vì Đạo, Thiên Chúa vẫn phán: “Hỡi con yêu dấu, con đã trung tín trong việc nhỏ, ta giao phó; thì giờ đây, ta sẽ đặt con trông nom việc lớn hơn thế. Hãy vào mà hưởng niềm vui trọn vẹn, với Ta.”
Đó là “bài sai’ Chúa vẫn gửi đến mỗi người và mọi người, hôm nay. Ở thời đại này. Chuyện còn lại là của mỗi người. Có nói lời xin vâng và thực hiện “bài sai” ấy hay không, việc đó tuỳ mỗi người.
Chúa vẫn đợi nơi ta, câu trả lời thân thưong, đích thực. Như các vị hiển thánh và tử đạo đã làm.
Mai Văn Thịnh. Một chút sử liệu về Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới
Biến cố trọng đại “Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới Sydney 2008” sắp diễn ra. Xin Mục Diễn Đàn tóm tắt giúp anh chị em Cursillistas có cái nhìn chung về biến cố này, lịch sử, mục đích và ý nghĩa của nó, vì nhiều anh chị em không có giờ cũng như không có phương tiện để tìm hiểu rỏ ràng và theo dõi các diễn tiến của nó. Xin chân thánh cám ơn. NTN Melbourne.
Ngày Giới Trẻ Thế Giới là một biến cố lớn do sáng kiến của Đức đương kim Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ngài mời gọi tất cả các Bạn Trẻ trên khắp năm châu cùng đến một địa điểm để tạo một sự nối kết vững chắc giữa niềm vui ngày hội và Đức Tin. Đó là một ngày hội ngộ niềm tin. Ngày Giới Trẻ Thế Giới là ngày hội quốc tế: tại Cologne (Đức Quốc), nơi tổ chức ngày Giới Trẻ Thế Giới vừa rồi (2005), các Bạn Trẻ từ trên 160 quốc gia đã đến tham dự. Mục đích chung của họ là : làm quen với nhau, chia sẻ những kinh nghiệm sống và cùng với Đức Thánh Cha vui ngày hội. Như dã nói ở trên, Ngày Giới Trẻ Thế Giới được khởi xướng do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Trở về hơn hai mươi năm trước, trong năm 1983-1984, Giáo Hội Công Giáo mừng Năm Thánh đặc biệt để tưởng niệm cuộc Tử nạn và Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô cách đó 1950 năm. Trước lễ Phục sinh năm 1984, cũng là thời điểm kết thúc Năm Thánh, Đức Thánh Cha đã mời gọi các Bạn Trẻ trên toàn thế giới đến tham dự Chúa Nhựt Lễ Lá tại Roma, và rất đông bạn trẻ đã đến. Phấn khởi vì con số tham dự quá đông này, Đức Thánh Cha đã lấy năm kế tiếp, năm mà Liên Hiệp quốc đã công bố là Năm Của Giới Trẻ để mời các bạn trẻ đến Roma gặp gở lần nữa vào ngày Chúa Nhựt Lễ Lá 1985. Xúc động vì sự thành công của ngày gặp gở giới trẻ tại Roma này, Đức Thánh Cha đã công bố chính thức rằng, từ nay sẽ tổ chức mỗi năm ngày gặp gở cho giới trẻ. Và hơn thế nữa, trong tương lai, cứ hai năm một lần sẽ có một Ngày Giới Trẻ Thế Giới thế giới được tổ chức thay đổi tại các nơi trên thế giới. Giữa hai năm đó, Đức Thánh Cha mời gọi giới trẻ tham dự Ngày Giới Trẻ Thế Giới thuộc cấp địa phận được tổ chức vào ngày Chúa Nhựt Lễ Lá tại các giáo xứ địa phương. Cho đến nay đã có 23 ngày Giới Trẻ Thế Giới , trong đó có 10 lần gặp gở quốc tế như sau : - 1987 tại Buenos Aires (Á Căn Đình) - 1989 tại Santiago de Compostela (Tây Ban Nha) - 1991 tại Tschenstochau (Ba Lan) - 1993 tại Denver (USA) - 1995 tại Manila (Phi Luật Tân) (khoảng 4.000.000 người) - 1997 tại Paris (Pháp) (đã có trên 1 triệu người tham dự Thánh - Lễ bế mạc tại Paris) - 2000 tại Roma (Ý) (có khoảng 2 triệu) - 2002 tại Toronto (Canada) (có khoảng 800.000) - 2005 tại Cologne (Koln) Đức Quốc (có tới 1 triệu 2 ngưòi tham dự Thánh Lễ bế mạc) - Và năm nay 2008, tại Sydney Australia. Ngày 21 tháng 8 năm 2005, nhân ngày bế mạv Đại Hội Giới Trẻ tại thành Phố Cologne, Đức Thánh Cha Beneditô 16 đã tuyên bố thành Phố Sydney được chọn làm nơi tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới vào năm 2008.
"And now, as the living presence of the Risen Christ in our midst nourishes our faith and hope, I am pleased to announce that the next World Youth Day will take place in Sydney, Australia, in 2008. We entrust to the maternal guidance of Mary most holy, the future course of the young people of the whole world." His Holiness, Pope Benedict XVI, 21 August 2005
Thế là Thành Phố Sydney được chọn làm nơi tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới năm 2008. Thật là một sự vui mừng và niềm vinh dự cho quôc gia Úc được tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 23 này . Đức Thánh Cha đã cầu nguyện và xác tín trọn vẹn niềm tin phó thác vào Chúa Giêsu Kitô và Mẹ Maria trong việc dẫn dắt các bạn trẻ đến gần với Thiên Chúa.Khi nói đến Đại Hội Giới Trẻ phải nói dến vị cố Giáo Hoàng Gioan –Phaolô II rất đáng kính của chúng ta. Trong tờ DETROIT NEWS số Chúa Nhựt 14-8-2005 có kể lại câu chuyện như sau: “Shawn Wrathell thấy mình chảy hai hàng nước mắt, ôm những người lạ bên cạnh lòng đầy xúc động khi xe của ĐTC Gioan Phaolô II đi ngang qua cậu trong ngày Quốc Tế Giới Trẻ tại Toronto, Canada”. Bài báo bắt đầu bằng câu chuyện của Shawn Wrathell để đi đến nhận định rằng ngày Quốc Tế Giới Trẻ là một di sản của Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II . Ngài bắt đầu biến cố này từ năm 1984 tại Roma và phát triển lên thành Đại Hội Quốc Tế Giới Trẻ gồm nhiều ngày quy tựu các bạn trẻ Công giáo tại Á-căn-dình, Tây Ban Nha, Balan, Denver, Manila, Paris, Roma, Toronto, Cologne và năm nay tại Sydney. Bài báo viết tiếp: “Đức cố Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã linh hứng người trẻ Công giáo và chiếm được trái tim họ không như bất cứ Giáo Hoàng nào khác. Họ thấy Ngài lôi cuốn và vui tươi, nhưng rất khôn ngoan . Người trẻ thường khóc ngay cả trước khi ngài bắt đầu nói....”
Tại Toronto (Canada), Đức Gioan-Phaolô II đã đặt các bạn trẻ giữa hai sự lựa chọn: “Chúa đang mời gọi các con lựa chọn giữa hai tiếng nói đang cạnh tranh để chiếm hữu tâm hồn các con. Sự lựa chọn đó chính là bản chất và là thách đố của ngày Quốc Tế Giới Trẻ. Tại sao các con từ các nơi trên thế giới tụ họp về đây? Thưa để nói lên trong tâm tư các con : “Lạy Chúa, chúng con còn biết theo ai? Chúa Giêsu – người bạn thâm giao của mọi người trẻ – có lời ban sự sống đời đời”. (Ga 6:68). Rồi Ngài giải thích vai trò của người trẻ trong thế giới ngày nay: “Thế giới mà các con đang thừa hưởng là một thế giới đang tuyệt vọng, đang cần đến một ý nghĩa được canh tân của tình huynh đệ và liên đới nhân loại. Đó là một thế giới cần được chạm đến và chữa lành nhờ vẻ đẹp và sự phong phú của tình yêu Thiên Chúa. Thế giới đang cần đến các chứng nhân của tình yêu Chúa, đang cần đến các con là muối đất và là ánh sáng thế gian”. Và nhiều bạn trẻ đã khóc khi nghe những lời của vị Cha chung đó.
Nói tiếp truyền thống của vị tiền nhiệm, Đức Thánh Cha Bênêdictô 16 đã cố gắng tìm ra cách của mình để giao tiếp với người trẻ, dù người ta không mong đợi Ngài là một siêu sao như Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II. Ngài đã thành công ở Cologne và Ngài sẽ tiếp tục linh hứng người trẻ tại Sydney (và các nơi kế tiếp...) để tiếp tục giữ được cho Giáo Hội Công giáo mạnh mẻ, đầy sức sống trong thế hệ tiếp theo.
Đại Hội Giơi Thế Giới tại Sydney đang ráo riết chuẩn bị. Chỉ còn 163 ngày nữa là tới ngày Đại Hội. Còn biết bao nhiêu công việc của Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 23 này đang dươc tiến hành và chuẩn bị trong năm tháng sắp tới. Chủ đề của Đại Hội là: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Anh em sẽ là chứng nhân của Thày.” (Cv 1:8) “You will receive power when the Holy Spirit has come upon you, and you will be my witnesses”. (Act.1:8). Nước Uc nói chung, và Sydney nói riêng, đang nôn nao để được đón tiếp Đức Thánh Cha trong dịp Ngài đến thăm viếng vùng đất miền Nam của quả địa cầu này. Nước Uc là nơi mà theo lời Đức Có Giáo Hoàng Gioan –Phaolô II thường gọi là vùng đất của Chúa Thánh Linh đang dẫn dắt. Đại Hội giới trẻ thế giới là dịp để các bạn trẻ trên toàn cầu cùng tìm về với nhau thể hiện qua yêu thương, qua những dịp gặp gở chân tình và nhất là cảm nhận và chia sẽ với nhau về tình yêu sâu xa của Thiên Chúa đang ban nhiều cho các bạn trẻ. Và đây cũng là cơ hội các bạn trẻ cùng hưóng về và cùng tham dự Thánh Lễ, trọng tâm của các Bí tích. Các bạn còn dịp lãnh nhận Bí tích Hòa Giải, và ôn lại vài điểm giáo lý trong đời sống đạo. Để khi trở về nơi sinh sống của mình, các bạn trẻ sẽ là những chứng nhân sống động trong các môi trường mà các bạn đang sinh sống và tiếp xúc. Chương trình Đại Hội giới trẻ tại Sydney ngoài Lễ Tiếp đón Thánh Giá Đại Hội và Anh Tượng Đức Mẹ vào ngày 01 tháng Bảy 2007 ở Sydney để mở màng cho các cuộc du hành qua khắp Uc Châu. Kế đó “Những Chương Trình tại Giáo Phận” sẽ diễn ra từ ngày 10 đến 14 tháng 7 năm 2008, khách hành hương sẽ đến thăm các giáo phận trên khắp Uc Châu với những sinh hoạt do các cộng đồng địa phương tổ chức. Tuần lễ chính của Đại Hội Giới Trẻ Sydney sẽ khởi sự sau những sinh hoạt trên, · Thứ Ba 15 tháng 7-2008 : Thánh lễ khai mạc do Đức Hồng Y George Pell, Tổng Giám Mục Sydney chủ tế, sau đó là các buổi hòa nhạc. · Thứ Tư 18 tháng 7-2008 : buổi sáng co các giờ Giáo Lý, và buổi chiều & tối có các cuộc Liên Hoan Giới Trẻ. · Thứ Năm 17 tháng 7-2008 : tiếp đón Đức Giáo Hoàng . · Thứ Sáu 18 tháng 7-2008 : Chặng Đàng Thánh Giá – Tưởng niệm cuộc Khổ Nạn và Sự Chết của Chúa. · Thứ Bảy 19 tháng 7-2008: tất cả tới địa điểm tổ chức Thánh Lễ Bế Mạc, tham dự đêm Canh Thức với Đức Thánh Cha và cùng ngủ qua đêm ngoài trời “dưới những vì sao”. · Chúa Nhựt 20 tháng 7-2008 : Thánh Lễ Bế Mạc và các nghi thức kết thúc.
Đây là biến cố vô cùng trọng đại, là một hồng ân Chúa ban mà tất cả, cách riêng các bạn trẻ không thể bỏ qua.
Huỳnh Công Lợi, Sydney chuyển tải từ báo Ultreya Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới và Ảnh Đức Mẹ
Từ lúc Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI trao Thánh Giá và Ảnh Tuợng Đức Mẹ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới cho Ban Tổ Chức Đại Hội Giới Trẻ Sydney, Ảnh Mẹ đã hành trình qua nhiều nơi trên đất Úc. Trong số những người được vinh hạnh diện kiến Ảnh Mẹ, có độc giả đã cảm kích gửi đến tuần báo The Catholic Weekly yêu cầu báo này giải thích thêm một chút sử liệu về Ảnh Mẹ. Dưới đây, là câu hỏi - đáp xuất hiện trên tuần báo số 4410, ra ngày 06-04-2008. Để độc giả gần xa nắm được sử liệu về Ảnh, xin trích dịch ở đây lời hỏi-đáp đã đăng:
Vừa qua, tôi đã có cơ hội được hân hạnh diện kiến bức Đức Mẹ Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới từng luân lưu khắp miền, ở đất Úc. Nói chung, nhìn kỹ Ảnh, tôi rất thích, và rất cảm kích mến phục. Hôm nay, nhằm tiến sâu và tiến xa trong tâm tình giữ lại kỷ niệm đẹp về Ảnh, tôi mạo muội gửi đến quý báo để nhờ giải thích thêm vài nét đặc trưng Ảnh Mẹ. Xin vui lòng cho biết.
Và, câu trả lời là của linh mục John Flader, người phụ trách mục hỏi đáp trên tuần báo:
Ảnh mà bạn nói ở đây, chính là ảnh Đức Mẹ từng xuất hiện rất lâu trong cổ sử, rất được mến mộ. Ảnh này còn có tên là ảnh Đức Mẹ, Đấng Cứu Vớt Dân Thành La Mã (tức là bức mang tên Salus Populi Romani), được lưu giữ tại Nguyện Đường Đức Mẹ ở Vuơng Cung Thánh Đường Đức Bà Cả, Rôma. Danh xưng “Salus Populi Romani”, nghĩa tự là “Sự lành thánh” hoặc “Ơn Cứu Độ” hoặc “Đấng Bảo Vệ Dân Thành La Mã”, có nguồn gốc theo truyền thống đạo hạnh rất xưa, do việc Đức Mẹ đã cứu thành đô La Mã khỏi sự tàn phá của cơn dịch tễ dưới triều đại Đức Giáo Hoàng Grê-gô-riô Cả (590-604).
Theo truyền thống, cơn dịch nói trên đã tàn phá toàn bộ thành La Mã, khiến cho Đức Giáo Hoàng Grê-gô-riô phải cho ra lệnh dân chúng hãy kiệu ảnh mẹ trong buổi rưóc long trọng đi ngang mọi ngõ ngách toàn thành phố, vào mùa Phục Sinh. Khi đoàn kiệu kịp đến lăng mộ thánh A-dri-an, khi đó mọi người đều nghe tiếng các thiên thần hát mừng ca vịnh Phục Sinh có tên là “Nữ Vương Thiên Đàng” (Regina coeli). Vào độ ấy, Đức Giáo Hoàng đã ra lệnh cho ghi thêm vào ca vị câu đáp thẳng “xin cầu bàu cho chúng tôi trước mặt Đức Chúa, Ha-lê-lu-ya”.
Cũng vào lúc đó, có vị thiên thần, được mọi người tin là Tổng Lãnh Thiên Thần Mi-ca-e, đã xuất hiện trên nóc đỉnh của mộ lăng. Khi ấy, thánh nhân lấy kiếm xỏ vào bao, như để ám chỉ rằng cơn dịch đã lui thoái. Và thực tế, con dịch ấy đã hoàn toàn chấm dứt. Không một ngờ vực, chính vì lý do này, mà vào năm 1240 có tài liệu đã qui ảnh tượng của Mẹ như ảnh hình có tước hiệu “Nữ Vương Thiên Đàng”.
Ngày nay, Lăng mộ này được biết dưới tên gọi “Castel Sant’Angelo”, tức “Đền thánh Mi-ca-e”. Cũng có truyền thống khác, đã liên kết ảnh hình này với câu chuyện về trận tuyết rơi không ngừng nơi đồi Esquiline ở Rôma, vào năm 352. Lúc ấy, vào khoảng tháng Tám, thời điểm nóng nhất trong năm, ở Ý. Chính đó là lý do khiến Đức Giáo Hoàng Li-bê-ri-ô (352-366) phải ra quyết định xây vương cung thánh đường tại nơi đây để bày tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ, ngay trên đồi. Cũng một lý do tương tự, mà Ảnh Mẹ còn được biết dưới danh hiệu “Đức Bà Núi Tuyết”. Có truyền thống nói rằng, Đức Giáo Hoàng sau đó đã ra lệnh treo ảnh Mẹ tại thánh đường nói trên. Ảnh Mẹ do thánh Hê-len, thân mẫu của Hoàng đế Constantine, đã mang từ nơi xa đến thành La Mã, vào khi đó.
Còn nhiều niên biểu khác, trải dài từ thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ XIII, sau công nguyên. Ở trường hợp nào đi nữa, ảnh Mẹ mang niên tính rất cổ xưa và là một trong các ảnh nổi tiếng thấy có ở kinh thành La Mã.
Có ảnh cùng loại được biết dưới tên “hodegetria”, theo cổ ngữ Hy Lạp có nghĩa là “Đấng chỉ lối dẫn đường”. Theo nghĩa này, Mẹ thường được diễn tả bằng cảnh tượng có ánh mắt trìu mến của Mẹ nhìn thẳng vào những người đang chiêm ngưỡng; tay Mẹ chỉ vào Đức Giê-su, Con của Mẹ, như muốn bảo: chính Ngài là Đường lối, dẫn ta đi.
Nơi Ảnh Mẹ lúc trưóc mang tên “Đấng Cứu Vớt Thành Đô La-Mã” và bây giờ là “Ảnh Tượng Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới”, vẫn luôn thấy Đức Giê-su được Mẹ ẵm bồng nơi cánh tay trái, có hình Chúa nhẹ giơ trong tư thế chúc lành. Ngón tay trỏ và ngón giữa của Chúa nhập lại làm một, như muốn bảo: nơi Đức Kitô vẫn hiện hữu cả hai tính chất:cả thiên tính và tính phàm trần. Ba ngón còn lại, cũng nhập chung diễn tả Ba Ngôi Đức Chúa, cùng đồng vị. Ở tay trái, Ngài cầm gọn quyển sách, có ý hàm ngụ: Lời Chúa đích thị nơi Thánh Kinh.
Mắt của Chúa ngước nhìn Mẹ, trong khi ánh mắt Mẹ Hiền lại hướng về chúng nhân. Tay phải Mẹ, vẫn ôm choàng qua bên trái trong cử chỉ nhẹ nhàng vẫn ôm chặt gìn giữ Con, trong mọi tình huống. Người của Mẹ ra như đang toát lên lực cuốn hút tầm nhìn người chiêm ngưỡng đang ngắm nhìn cảnh tượng của tình yêu thương bằng ánh mắt Người Mẹ nhìn Con, rất Đức Chúa. Và, Hài Nhi Giê-su vẫn chúc lành muôn dân, gồm đủ cả và trước nhất là Mẹ của Ngài. Mẹ chính là Đấng sẻ san cách mật thiết chân tình, công trình Nhập Thể của Chúa Con.
Tại nơi Ảnh, vẫn thấy có 3 ngôi sao truyền thống lấp lánh nơi vai và tại vầng trán Mẹ. Ba sao, là để biểu tỏ tính trinh trong miên trường của Mẹ, cả vào lúc truớc, lẫn khi diễn tiến và ngay sau ngày Mẹ sinh ra Giê-su Đức Chúa, Con Chí Ái của Mẹ. Ở phía trên cao Ảnh Mẹ, có ghi hàng chữ nói Mẹ chính là “Mẹ Thiên Chúa”.
Xem thế, sử liệu và hình tượng hiển hiện nơi Ảnh mang tính dồi dào sung mãn, nhiều ấn tượng. Đặc trưng này, từng lôi cuốn những người đến chiêm ngắm Ảnh, đã lôi kéo họ về gần với Đức Giê-su, Con Thiên Chúa và là Đấng Cứu Chuộc, trần thế.
Kể từ 2003, là năm mà Đức Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô Đệ Nhị trao Ảnh Mẹ cho các người trẻ trên thế giới với quyết định hãy để Ảnh Mẹ lúc nào cũng đồng hành với Thánh Giá Đại Hội, suốt hành trình.
Vào lúc trao Ảnh Mẹ, Đức Thánh Cha nói: “Hôm nay, Cha giao phó cho các bạn bức Ảnh này đây. Từ nay, Ảnh Mẹ sẽ luôn tháp tùng Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới, cùng với Thánh Giá Đại Hội. Này đây, là Mẹ của các bạn! Đây sẽ là dấu chỉ: Mẹ luôn hiện diện với các bạn như Người Mẹ rất thương con. Để rồi, tình mẫu tử nơi Mẹ càng gần gũi các bạn hơn. Gần gũi những người trẻ, từng được kêu mời, như vị Tông đồ Chúa thương là thánh Gio-an, sẽ đón nhận Mẹ như người Mẹ đích thật trong cuộc sống các bạn.”( Rô ma, Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới 2003).
Mai Tá chuyển ngữ
Có mặt nơi đây. Mễ Duy 04.2008
Tôi đang đọc một cuốn sách về thánh lễ (1). Đọc lại thì đúng hơn. Vì đã đọc cách đây bẩy tám năm. Bây giờ mỗi ngày đọc một hai trang. Có khi ít hơn. Ngày nào quên thì trước khi đi ngủ cũng rán đọc thoáng qua một hai đoạn đã tô mầu vàng, xanh, hồng. Thú thật là cũng có khi « không có giờ » đọc, đành xin lỗi lương tâm, và mong Chúa « thông cảm ».
(1) L’Eucharistie à l’école des saints, Nicolas Buttet, Editions de l’Emmanuel.
Sách dày 382 trang. Tính đến những ngày đang viết bài này, tôi mới đọc được một phần tư. Thế mà cũng đã có cảm giác đã lãnh hội nhiều, am hiểu được những ý nghĩa chính yếu và cao trọng của thánh lễ. Để bạn cảm được phần nào sự phong phú của cuốn sách, xin trích và rút gọn một đoạn như sau :
Khi dự thánh lễ là tôi đến cuộc hẹn ân tình Chúa đợi tôi. Như xưa Chúa đợi Mai-sen trong bụi cây cháy sáng, để tỏ danh tánh Ngài. Như Chúa hiện mình vinh quang trên núi Thabor. Như khi Chúa ban chìa khóa hạnh phúc trên đồi Tám Phúc. Như đám cưới với Lang quân, với vị Cứu tinh, với đấng Mục tử. Dự thánh lễ là thực sự có mặt dưới chân thánh giá trên đồi Sọ, khi Chúa hiến tế mạng mình vì yêu nhân trần. Là có mặt trong Nhà hội khi Thần Khí tỏ mình trong cộng đồng tông đồ.( xem trang 72)
Chỉ mấy hình ảnh vừa qua đã đủ làm rực lên ánh sáng và mầu sắc của mầu nhiệm thánh lễ. Và trong tiềm thức không khỏi đặt ra câu hỏi : vậy phải làm sao - không đặt vấn đề xứng đáng hay không- để tham dự cách thích hợp với khả năng của con người ? Và đây là câu trả lời đầy thích thú :
« Như vậy, tham dự thánh lễ cách nào đây? Làm sao tìm lại được một sự sốt sắng… ? Trước hết bằng cách quyết định có mặt tại chỗ. Đã biết bao lần vào nhà thờ một cái là hồn vía như lên mây không còn chú ý đến gì nữa, tâm trí đi « du lịch » trong quá khứ hoặc trong mộng tưởng. Để rồi bất chợt thấy mình đang mơ mộng, đang nghĩ đến chuyện này chuyện kia, đầu óc như bướm vàng lượn đi lượn lại trên hoa lá cành. Dĩ nhiên «cầm lòng cầm trí» liên tù tì đâu phải là chuyện dễ. « Con điên trong lều », tên mà thánh nữ Têrêxa cả gán cho trí tưởng tượng, chơi chúng ta đủ trò. Dẫu sao đi nữa, nếu chúng ta không dốc quyết, bằng một hành vi tự do của ý chí, thực sự có mặt và chăm chú vào cuộc cử hành sắp diễn ra, thì có nhiều phần là chúng ta sẽ chỉ đi ngang qua mà không vào gặp mầu nhiệm. Cha sở họ Ars chỉ dẫn cho chúng ta cách thức tham dự thánh lễ : « Cách hay nhất để tham dự thánh lễ là kết hợp với vị chủ tế trong mọi lời ngài nói, mọi hành vi ngài làm, càng « kỹ » càng càng tốt ; và cố gắng cho thấm vào lòng những tâm tình yêu mến và cảm tạ. » ( xem trang 81-82, dịch thoáng, có thêm mắm muối . Chữ đậm là do tôi )
Thật là thích thú khi để gặp Thiên Chúa - bởi vì trong lòng tin Công giáo, Mình Thánh Chúa trong thánh lễ chính là sự hiện diện thiết thực của Đức Cứu Thế vinh hiển - người ta chỉ cần có mặt.
Từ nhận định này, chúng ta có thể suy ra một áp dụng để làm nền tảng cho việc xây dựng một thái độ sống, một thể thức hiện hữu, một nghệ thuật sống. Sự áp dụng đó là như thế này :
Nếu như gặp Thiên Chúa mà chỉ cần, hoặc không thể làm gì hơn, là có mặt, vậy thì để gặp bản thân, tha nhân, vạn vật, vũ trụ, sự vật…chúng ta cũng không thể dùng một phương thức nào khác hơn là có mặt. Ngay đến một vấn đề, một khó khăn, một gian nguy, muốn giải quyết hay thắng nó, chúng ta cũng đành phải giáp mặt với chúng. Đó cũng chính là nguyên nhân phát sinh ra các khoa học. Có mặt chính là hiện hữu, là sống.
Dĩ nhiên sự có mặt chúng ta muốn bàn đến ở đây, trong khi tham dự thánh lễ cũng như trong cuộc sống thường nhật, đòi hỏi những điều kiện rất cụ thể, rất thiết thực, rất quan trọng, đó là những điều kiện của thân xác, của cơ thể : tình trạng sức khỏe khả quan, không đói lả mà cũng không no nê hầu có sức mạnh về mặt thần kinh mà tỉnh táo ; sạch sẽ, ăn vận chỉnh tề… Ở đây chúng ta không bàn đến những khía cạnh đó. Tôi xin bàn về những yếu tố có thể nói là tâm lý tâm linh, đó là :
- cảm giác (sensation) - chú ý ( attention) - chú tâm ( intention).
Để tránh nhàm chán, tôi không bàn theo thứ tự trên đây, nhưng viết xem ra « lung tung », nên nếu bạn theo dõi được thì thật là hay. Ngoài ra, tôi cũng xin được phép tự do trong việc dùng chữ, chẳng hạn như chú tâm sau đây tôi lại gọi là tâm tình . *** (phần một: tâm tình Trạng thái có mặt mà chúng ta bàn ở đây không thể chỉ là sự có mặt đơn độc, vô duyên, của một mình cái xác, có thể chụp thành hình ảnh đăng trên báo, khắc thành tượng phô trương ngoài đường, nhưng của toàn diện nhân cách ( personnalité). Về những sự có mặt « có đó nhưng không có đó », thiên hạ thấy mình có mặt đó nhưng tâm trí, tâm tình, tâm hồn mình thì lại để nơi khác, thì không cần phải đợi đến tuổi già mới hiểu được như thế là thế nào. Đến một tuổi nào đó, ai ai cũng đã phải trải qua những buổi tham dự sinh hoạt này sinh hoạt nọ một cách miễn cưỡng. Giả nhân gỉa nghĩa, làm bộ, cũng là một sự có mặt miễn cưỡng, chỉ là bên ngoài, sự miễn cưỡng này do chính mình đặt ra nhằm đạt được một kết quả nào đó. Nghe đâu những người làm nghề tài tử đóng phim, diễn viên, khi phải đóng vai kẻ hạnh phúc yêu đời ra riết, mặt nở như hoa ngày tết, mà trong khi đó lòng dạ, cuộc sống riêng tư thì như chiếc lá vàng mùa thu, thì khổ lắm, đến nỗi sau khi hạ màn, rút về phòng riêng, thì việc đầu tiên là nốc vài ngụm rượu để xóa bỏ cái cảm giác đã lạc mất chính bản thân mình.
Tuy nhiên, không phải diễn viên nào cũng thế, tất cả tùy thuộc cách thức có mặt khi ở trên sân khấu, tùy thuộc nội tâm mình bị giằng co nhiều hay ít. Cũng là hành một nghề mà có người vui nghề, có người khổ nghiệp. Như trường hợp một anh thợ nọ, -tôi đọc trong một cuốn sách về tâm lý học,- vui nghề vui việc, khác với tất cả các bạn đồng nghiệp của anh ta. Giờ làm việc tan một cái là họ lôi nhau vào bar uống rượu. Rõ ràng họ cần xả đi cái cực nhọc của một ngày lao động, vì điều kiện làm việc quá cực nhọc, xưởng làm nóng như hỏa lò. Còn anh thì về hí hoáy thiết kế mảnh vườn bồng lai tiên cảnh với đầy tiểu xảo mới lạ, ánh sáng huyền ảo. Tìm hiểu kỹ ra thì mới biết anh lại là người hăng hái, tích cực nhất trong xưởng làm. Cứ khi nào có máy móc trục trặc là anh tự động « nhào vô » sửa, bất chấp cực nhọc khó khăn. Hỏi kỹ ra anh mới khai ra là thương tình máy móc, không muốn chúng bị vứt bỏ. Đó là tâm tình của anh đối với sự vật khiến anh luôn năng động trong việc làm.
Có những hoàn cảnh trong đó con người bị bắt buộc phải giấu kín tâm tình mình thật sâu thật sâu nơi đáy lòng, nhưng họ vẫn có tâm tình, vẫn sống cho một niềm tin. Nhưng khi đó điều họ phải làm bên ngoài không thể gọi là có mặt. Người ta kể rằng thời Liên Xô Viết, cứ mỗi lần có meeting, khi bài diễn văn của ủy viên chánh trị vừa chấm dứt thì cử tọa thi đua nhau vỗ tay thật lâu không ai dám tự động ngừng. Vỗ tay như thế không thể gọi là vỗ tay cách có mặt.
Ấy thế cứ khi nào con người không thực sự tự do (không nên hiểu là vô kỷ luật ) như khi con người bắt buộc phải giả vờ, đóng kịch để được yên thân, không hăng hái, chỉ vì bị ép buộc, thì không có sự hợp nhất giữa hồn xác trong việc mình làm, trong cách mình sống, thì không thể sống trọn vẹn, đâm ra sống trong giằng co, giả tạo, và không cảm được niềm vui sống. Ngược lại, khi trong một việc làm có được sự hợp nhất giữa cơ thể, tư tưởng, tâm tình, ý chí thì con người đạt được niềm vui, bất chấp hoàn cảnh người ngoài nhìn vào cho đó là khổ. Ý nghĩ, trí tưởng tượng, sự chú ý, chú tâm, đó chính là cái phần hồn, khi chúng ta nói « hồn xác kết hợp với nhau ».
Cái phần «tâm tình» mà tôi đã đề cập sơ qua trên đây là cái ý hướng thầm kín trong đáy lòng. Thí dụ làm một nghĩa cử xem ra là đẹp, nhưng ý hướng sâu thẳm trong lòng ( chỉ một mình biết được) lại là chỉ muốn có danh thơm tiếng tốt, thì đối với tôi là không có tâm tình. Trong một sinh hoạt, một sự hành nghề, người ta có thể làm với tâm tình hay không và nếu như không có tâm tình, không có ý hướng tốt đẹp trong thâm tâm thì không thể có mặt trong việc mình làm. Có thể đan cử một vài ví dụ, như trường hợp các người leo núi hay chơi một môn thể thao nào đó chỉ vì thích thú chứ không vì ham giầu, những nhà bác học, nghệ sĩ thực sự yêu nghề. Nhưng thực ra bất cứ ai yêu việc mình làm, bất cứ ai yêu cuộc sống thực tế hàng ngày của mình đều là sống với tâm tình. Dù chỉ là chăm sóc mấy con gà, con heo, ngọn rau.
Một điều quan trọng trong lãnh vực giáo dục là vấn đề chọn nghề, chọn việc, nếu như không có tâm tình với một nghề mà chỉ nhắm những cái lợi ngoại lai thì sớm muộn gì cũng đem lại khổ đau. Ví dụ như chọn nghề vẽ chỉ vì mơ viển vông rằng mình sẽ là họa sĩ nổi tiếng, mỗi bức họa sẽ bán được cả trăm ngàn đô, nếu đó là động cơ chính yếu, thầm kín nhất, thì khi học vẽ không thể có mặt tuy là cái xác ngồi đó trong lớp và có nhiều cơ may là sẽ …bỏ nghề. Tâm tình, ý hướng bên trong, chính là cái lõi, cái hạt nhân, cái ruột của một việc làm, một cuộc đời.
Làm thế nào để có được một cái lõi, cái nhân, cái ruột cho mỗi hành động, cho cuộc đời mình ? Tôi nghĩ người ta có thể học hỏi nơi những bậc thầy đã đi trước hay còn đang sống trong các lãnh vực nội tâm như tâm lý, triết học, tâm linh, tôn giáo, qua sách họ viết hay chính cuộc sống của họ. Điều quan trọng là đem ra thực hành. Rất tiếc là xem ra người ta chỉ coi tôn giáo như những tập tục và lễ nghi, coi nhẹ cái phần tu đức (ascèse) là cuộc sống nội tâm, với những rèn luyện phải có.
*** ( phần hai : trị liệu tâm thần )
Tâm tình, như vừa trình bày trên đây, chính là cái phần tâm linh ( spirituel) trong mỗi hành động chúng ta làm, nhưng tâm tình không thể đứng lơ lửng, nó cần được mọc rễ trong một tâm lý lành mạnh, tôi muốn nói đến khả năng chú ý, khả năng làm chủ những ý nghĩ và hình ảnh trong tâm trí. Ví dụ một bác sĩ phẫu thuật yêu nghề, có tâm tình với nghề, muốn phục vụ sự sống, mà thiếu khả năng chú ý, không thể chú ý trong suốt cuộc giải phẫu thì không thể hiện được cái tâm tình tốt đẹp đó, mà đâm ra thất vọng. Cũng như khi dự thánh lễ với ý hướng tốt đẹp, muốn tham dự cùng cộng đoàn cảm tạ ca ngợi Chúa, nhưng lại không có khả năng chú ý, không thể «cầm lòng cầm trí», suốt buổi lễ bị ám ảnh bởi một vấn đề, một mối lo thì khổ thật !
Dẫu rằng không dễ gì phân biệt được giữa tâm lý, tâm linh, tôn giáo khi bàn đến cuộc sống nội tâm, nhưng khi học hỏi thì không nên lẫn lộn. Sau đó, chúng sẽ sáng tỏ hơn, chống đỡ nhau, bổ túc cho nhau. Vì thế, ở đây chúng ta đặt khả năng chú ý trong địa hạt tâm lý học. Đâu là những trở ngại cho một cuộc sống tâm lý và tâm thần dồi dào ? Trước tiên, theo tôi, đó là một lối sống hay một hoàn cảnh xung quanh quá hung hăng đối với sức chịu đựng của hệ thống thần kinh, ví dụ truyền thanh, truyền hình, nhạc kích động mở bự hết ga 24 trên 24, tiếng xe cộ tầu bay tầu bò thi nhau inh ỏi, người đi tấp nập trước mắt suốt đêm ngày, phim ảnh coi không còn biết ngủ là gì….Trở ngại thứ hai là không đủ khả năng làm chủ những ý nghĩ và hình ảnh trong tâm trí, hoặc những thúc đẩy thầm kín. Nói tóm lại nếp sống tâm lý cũng đòi hỏi có hoàn cảnh thuận lợi bên ngoài, tùy nhu cầu của mỗi người. Ít ai thành công về nghề nghiệp mà không có những giây phút sống một mình trong ngày. Và cũng cần một sự tập luyện để duy trì, phục hồi hay tăng cường khả năng chú ý. Mỗi người tìm hiểu cái phần tâm lý trong mình một cách, như có ngườì nghĩ rằng chỉ cần dùng nội quan (introspection) là đủ. Tuy nhiên, chúng ta sống với sự tiến hoá của toàn thể nhân loại. Và thật đáng tiếc nếu chúng ta không hiểu qua một vài khám phá trong tâm lý học kể từ ngày ông Freud đưa ra ý niệm tiềm thức (le subconscient). Ngoài cái ý niệm này, thiên hạ còn đồng ý với nhau về hai thực tại nội tâm khác, đó là ý thức ( le conscient) và vô ý thức ( l’inconscient).
Để chăm sóc sức khoẻ cho tâm lý (psychologie) và tâm thần (psychisme) , có hai khoa trị liệu, đó là tâm thần học ( psychiatrie),thuộc y học vì người chữa trị là thầy thuốc cho toa ấn định thuốc, hai là những liệu pháp tâm lý ( psychothérapies) mà tôi xếp vào khoa tâm lý học hơn là y học vì người chữa trị không phải là thầy thuốc và không có quyền ấn định thuốc.
Về những phương pháp trị liệu thuần tâm lý, có lẽ là phần đông trong chúng ta đã nghe nói đến ông Freud và khoa điều trị các khổ đau tâm thần bằng phân-tâm-học ( psychanalyse) do ông ta sáng chế ra, với cái hình ảnh là bệnh nhân nằm trên ghế dài (nhắm mắt) tự do nói lung tung, đôi khi điều trị viên hỏi hoặc gợi ý bằng một hai câu. Nhưng theo chỗ tôi hiểu thì phương pháp này thật phức tạp, kéo dài trong thời giờ và kết quả không đảm bảo, vì chủ trương của nó là đi tìm moi móc trong tiềm thức những khúc uẩn để đưa chúng ra ánh sáng của ý thức, nhưng ai là người thực sự hiểu được tiềm thức của tôi, kể cả chính tôi? Một trong những bất tiện khác nữa của phương pháp này là con bệnh hoàn toàn lệ thuộc điều trị viên, , nên thường xảy ra hiện tượng «chuyễn dời » (transfert ), con bệnh đâm quá lệ thuộc người trị bệnh, như đâm phải lòng chẳng hạn. Bên cạnh phương pháp cổ truyền đó, có những phương pháp trị liệu mới, rất gần với triết học và cả với khoa tu đức của các tôn giáo; nhờ thế có thể dùng chúng làm nghệ thuật sống, áp dụng cho bất cứ ai đều là tốt. Điểm nổi bật của những phương pháp trị liệu mới này là bệnh nhân tham dự tích cực vào việc trị liệu, làm chủ việc tiến lui, thành công hay thất bại, người chữa trị chỉ đóng vai trò dẫn dắt, có thể nói là cả hai bên đều học hỏi tìm hiểu, vì chính người điều trị cũng đã áp dụng cho chính bản thân mình ( làm sao giúp người khác nếu như chính mình chưa từng thí nghiệm trên chính bản thân) . Một điều quan trọng nữa là các trường phái này tuy không phủ nhận tiềm thức, nhưng không quan tâm hoặc đả động đến nó, ít nhất là trong giai đoạn đầu của thời gian điều trị, vì họ muốn lo hiện tại thay vì tìm hiều quá khứ, muốn tăng cường khả năng tự chủ, khả năng ý thức thay vì bới móc những gì là u tối. Sở dĩ tôi đã đề cập sơ qua về các phương pháp trị liệu tâm thần, vì ba lý do : 1) Hiện nay những khó khăn, khổ đau về mặt tâm thần, thiên hạ không còn giấu kín chúng trong thâm tâm, người ta đem chúng ra bàn gần như mỗi ngày trên truyền hình, và sách báo về các vấn đề tâm lý cũng tràn ngập trên các quầy bán sách. Như thế cũng là một điều hay mà cũng khiến bớt chú ý đến chúng hoặc khiến người phàm tục không biết đâu mà phó thân. Mà nếu không giải quyết các khổ đau nội tâm thì làm sao sống vui ? Vậy tốt nhất là nên hiểu biết một số giải pháp. 2) Những phương pháp trị liệu tâm thần không phải là lý thuyết hay xa vời nhưng thiết thực. Hiểu biết chúng, chúng ta hoặc phục hồi sức khoẻ về tâm thần, hoặc vun trồng mảnh vườn tâm lý mình, xây dựng một triết lý sống độc đáo giữa một xã hôi đang làm phân tán nhân cách. Nói cách khác dẫu như có cảm giác là mình vững mạnh về mặt tâm lý cũng cần biết các phương pháp trị liệu này. 3) Thuở xưa, các khoa tu đức giúp con người sống vui, nhưng bây giờ vì không còn mấy ai là gương mẫu hoặc chưa được cập nhật hóa nên chúng không còn lôi cuốn, trong khi đó những phương pháp trị liệu tâm thần mới giúp sống vui và chính chúng sẽ giúp trở về với những giá trị của triết học và tôn giáo. Trong những trạng thái phân tán nhân cách như suốt ngày sống trong mộng, nửa tỉnh nửa mê, bần thần, vui quá đáng, lo âu, trầm cảm, đều có thể gọi là tâm bệnh, và cần được chữa trị, kẻo không cuộc sống trở thành đen tối, đó là những trạng thái trong đó tiềm thức trở nên quá mạnh, như nước lụt, bao phủ ý thức. Vậy tiềm thức là gì ? Chúng ta có thể ví tiềm thức như một cái nhà kho tối mù, đầy nghẹt tất cả những gì chưa được « tiêu hoá », tất cả mọi kinh nghiệm sống vui cũng như khổ, nhưng chưa sống trọn vẹn. Nhất Hạnh có một hình ảnh - mà tôi rất thích- để mô tả tiềm thức. Ông gọi đó là cái nhà hầm ( sous- sol) từ đó thỉnh thoảng khổ đau, sợ hãi mò lên nhà trên, là ý thức ( le conscient), chúng như những người khách xa lạ, kỳ cục, nhưng nếu được tiếp đón, thuần phục sẽ bớt đi sự quấy nhiễu. Kỳ tới chúng ta sẽ bàn đến những cách thức đơn giản hữu hiệu nhằm « hóa giải » tiềm thức, và đề cập đến hai yếu tố quan trọng khác của nghệ thuật sống « có mặt », là cảm giác (sensation) và chú ý (attention), chưa bàn đến được trong kỳ này. Mễ Duy
Lời hay Ý đẹp Đàn ông - đàn bà
*Con ruồi nó chết vì giọt mật. Đàn bà chết vì đàn ông nhiều lời. Đàn ông chết vì vợ đẹp. Cha mẹ chết vì con bất hiếu. (Kant)
*Đàn bà lo cho tương lai mình mãi đến khi lấy chồng là hết. Đàn ông, lo tương lai, chỉ sau khi lấy vợ. (W.H.C)
*Đàn ông nói điều mình biết. Phụ nữ nói điều mình thích. (J. J. Rousseau)
*Nên khen người đàn ông khôn sau lưng họ, và chỉ nên khen người đàn bà trước mặt họ. (Tục ngữ Pháp)
*Đàn ông làm ra luật pháp, đàn bà tạo nên phong tục. (De Segur)
*Đàn ông thường yêu những kẻ mà họ không kính trọng. Đàn bà thì trái lại chỉ yêu những người mà họ cảm phục.” (Sanial Dubay)
*Muốn có hạnh phúc với người đàn ông, phải hiểu họ rất nhiều và y6u họ. Ít ít cũng được. Muốn có hạnh phúc với đàn bà, thì phải yêu họ thật nhiều và đừng nên tìm hiểu họ. (H.B - Nectar in a nutshell)
*Đàn ông yêu ái tình trước rồi cuối cùng mới yêu người đàn bà. Đàn bà thì trái lại, yêu đàn ông trước rồi cuối cùng mới yêu ái tình. (Remy De Gourmont)
*Tôi thích những người đàn bà không có dĩ vãng và những người đàn ông đầy tương lai. (Wells)
*Lúc còn là tình nhân, đàn ông là người đau khổ nhất. Lúc thành vợ thành chồng, đàn bà chịu thiệt thòi nhiều nhất. (Shakespeare)
*Đời sống của người đàn ông là Danh.; đời sống của người đàn bà là Tình. (Honore De Balzac) Có chăng Nỗi niềm Hạnh phúc? Mary Vũ
Kính thăm các anh các chị,
Lời nói đầu tiên, chắc hẳn phải là lời van xin rất có lỗi! gửi đến các anh chị. Có thể nói rằng em út xưa nay vẫn là người có lỗi. Hứa hẹn đủ điều, mà chẳng thực hiện được bao nhiêu. Thật ra, em có cái cố tật là nhiều khi không lượng sức mình, cứ hứa “lèo’ rồi lại để mọi chuyện trôi sông, lỡ một buổi chợ. Mời đây, em gặp anh chủ bút nhân ngày anh ra mắt sách đầu đời, được nhắc nhở là sao lâu nay cứ im tiếng. Thú thật với các anh chị, sở dĩ lâu nay em không có ý kiến ý còng gì với nội san của mấy anh, vì tụi em lúc này lu bu lắm. Cũng cười cười nói nói thật đấy. Nhưng trong héo ngoài tươi đấy các anh chị ạ. Ai nhìn vào cứ tưởng bọn em hạnh phúc lắm. Nhưng sự thật thì hỡi ôi! Sợ lắm. Hạnh phúc, hiều theo nghĩa nào đây. Nếu là ngày hai bữa “vỗ bụng rau bình bịch”, thì bọn em vẫn có đấy. Rất hạnh phúc là đàng khác. Nếu hiểu là con đàn cháu đống, ăn học đề huề, công thành danh toại, vv… thì tưởng cũng nên đặt lại. Thú thật là hôm gặp các anh trong gia đình An Phong Sydney, em có hứa là kỳ này sẽ viết bài cho báo nhà. Nhưng hứa rồi mới thấy sợ. Biết viết gì đây. Đang loay hoay tìm kiếm đề tài, thì có chị bạn đến bảo: bồ hay viết lách, sao không viết về hạnh phúc cuộc đời gì cả vậy? Vâng, hôm nay, thể theo lời yêu cầu của chị bạn, em đi siêu tầm sách báo tìm xem có chỗ nào nói về hạnh phúc là gì ... thì may quá, giở chồng sách báo cũ, bắt được mấy tư tưởng này do một bạn gửi tặng. Tư tưởng trong sách bạn gửi cho em, không có gì mới lạ. Nhưng, mới lạ chỉ ở chỗ là nhiều khi mình quên rằng hạnh phúc là chuyện xưa như trái đất. Chỉ mới nếu mình nhìn nó theo cặp mắt mới mẻ thì mới, chứ chẳng có gì hết. Hôm nay, bấn xúc xích về chuyện kiếm đề tài để viết cho báo, em xin mạn phép bàn về chuyện này. Đó là chuyện hạnh phúc trăm năm, hay vài năm… Xin anh chị nào biết rồi, thì cho em xin hai chữ “đại xá”. Hay ta nghe lại nếu thấy vui là được, phải không các anh chị? Cũng xin thú thật với các anh chị thêm một điều là mỗi lần nói tiếng “hạnh phúc” lòng em thấy nó như sôi sục, dữ lắm. Mặc dù tuổi tác của bọn mình bây giờ không còn được như thế. Tiếp xúc nhiều bạn bè cùng trang lứa, ai cũng đều cùng tâm trạng như em thôi. Mỗi người kể cho em nghe thế nào là hạnh phúc, như họ quan niệm. Em nghe rất nhiều, nhưng chẳng nhớ được bao nhiêu. Có lẽ cũng tại vì trí nhớ của em bây giờ đã cùn. Vậy, để anh chủ bút được thêm dăm phút hạnh phúc, em cố nhớ và ghi lại ở đây ý kiến của nhiều bạn về hai chữ hạnh phúc như sau: 1. Hãy đổi cách suy tư. Đổi cách và sống đích thực một ngày của đời mình, coi như ngày cuối cuộc đời. Tựa như những người mắc bệnh trầm kha, hết thuốc chữa. Hoặc, người vừa gặp nạn, không còn nhiều thì giờ để sống. Hãy đi đây đó, làm những việc mà lâu nay mình mong ước. Tìm đến bè bạn hoặc về với gia đình lâu nay xa cách. Bởi vì sẽ không còn cái gọi là “ngày mai” để mình thực hiện điều mình muốn làm nữa đâu. 2. Tập thói quen ghi nhật ký. Hãy ghi vào tập nhỏ những gì xảy đến mỗi ngày. Ghi lời lẽ dễ thương của đứa con, bọn cháu. Bởi vì trí nhớ vẫn là trí của cõi lòng quên. Mình không thể nhớ được những lời nói nhẹ nhàng dễ mến của cháu con nếu mà không ghi. Có thế, mọi ưu tư phiền nuộn sẽ được giải toả rất nhanh. 3. Cứ coi mọi việc đều có lý sự của nó. Thử nghĩ xem mình nên kể điều gì về cuộc đời mình đã sống cho con cho cháu nghe.Cả điều tầm thường lẫn việc quan trọng, cứ vẫn kể. Miễn nó làm mình sung sướng khi nhớ đến. 4. Đừng để chuyện nhỏ làm mình bận tâm. Đừng những chuyện vặt vãnh làm mình bực tức nhớ dai. Bởi lẽ nó không đáng để mình ưu tư như thế. Cứ mỉm cười vẫy chào cảm tạ khi người lái xe lạ không cho mình vào chỗ đậu dù chờ quá lâu. Hắn bất lịch sự vì bị mụ vợ cằn nhằn hoặc có đang vấn đề chưa giải quyết. Bạn lỡ tầu điện ư? Bực dọc tiếc nuối đâu giải quyết được gì! Hãy làm làm ly cà phê nóng, chờ chuyến sau. 5. Làm công việc mà mình bỏ lâu quá. Những việc chẳng thích làm chút nào, bây giờ là lúc nên nhúng tay mà làm. Càng trì hoãn càng làm mất nghị lực và đầu óc đâm nặng nề. 6. Thay đổi cố tật cùng thói quen. Đời người dễ thành nhàm chán với các thói quen khiến mình làm như cái máy. Thành thử, nên tạo hứng khởi trong cuộc sống mà tìm ra điều mới mẻ trong cái cũ. Nếu Chủ nhật là ngày được ngủ nướng, sao không dậy sớm ra công viên mà ăn sáng. Sẽ thấy ngày dài đáng sống hơn. 7. Giữ vững lập trường. Hàng xóm mới có hồ bơi. Bạn bè mua xé mới cáu cạnh ư? Kệ họ. Họ làm việc chết xác, suốt tuần mới được như thế. Dâu có thì giờ mà vui chơi chúng bạn. Lo cho gia đình, như mình đâu. 8. Dọn dẹp, cho đi những thứ không cần. Quần áo hết mốt, bỏ xó cả năm trời. Đồ đạc sách báo chất đống, không dùng đến. Giữ mà làm gì. Mang cho từ thiện, giúp bạn trẻ vừa lập gia đình có hơn không? Ai sướng hơn ai? 9. Biết nói tiếng “không”. Không cần làm như họ. Đời người đã quá bận rộn. Làm không hết việc. Cứ bỏ mọi chuyện, thử nghĩ đến mình. Sẽ thấy vui. 10. Trở về mái nhà xưa. Nhớ yêu thương người tình như thuở mới quen. Tình yêu đôi lứa vẫn cần trau chuốt, điểm trang. Như mọi thứ dính liền cuộc đời mình. 11. Đừng cợt nhả với người thân. Là người thân, ai cũng muốn được tôn kính. Được đối xử như bạn bè đầy trân quí. Quí trọng người sẽ quí trọng mình 12. Nói tiếng yêu đương với người nhà. Như nói với người mình vừa mới thương yêu. Cất tiếng khen ngợi chẳng thiệt mất đi một chút gì. Có khi được khen lại, giống như thế. 13. Chìa vai cho bạn kê đầu. Việc này kể ra khó làm. Nhưng nếu bạn bè cần đến, sao ta nỡ chối từ. 14. Liên lạc với bạn cũ. Mất liên lạc bạn bè xưa cũ, phải chăng vì bận rộn? Cũng nên tái lập lại bang giao. 15. Trở về với cỏ cây. Cũng nên tái tạo vườn nhà một ít hoa. Hoặc rau cỏ. Vì hoa cỏ làm người mình thêm phấn chấn. 16. Đi biển. Ra biển, hay lên đồim leo núi là những thú tiêu khiển đem lại sự thoải mái trong tâm hồn. Gió biển, sóng vỗ, phơi nắng hay dạo bộ trên cát.. đều là dịp thư giãn, bớt căng. 17. Vui niềm sáng tạo. Vẽ tranh, làm vườn, chơi nhạc, nấu nướng đều là cơ hội tạo niềm vui ít thấy. 18. Hít thở khi trong lành. Du ngoạn ngoài trời hoặc mở cửa sổ để đón nhận không khí trong lành, là việc rất nên làm. 19. Đi bộ. Một kiểu tập luyện để tái tạo thân xác. Ngày nay, ta có thể chữa nhiều bệnh bằng việc đi bộ, chảy mồ hôi. Mỗi ngày chừng nửa tiếng. 20. Mướn phim tập hoặc băng dĩa ca nhạc. Những màn kịch hài khiến ta cười vui thoải mái là liều thuốc vô giá đem lại niềm hạnh phúc hiếm quý. 21. Thay đổi cách bài trí trong nhà. Đây là cách tái tạo niềm vui ít thấy. Chẳng cần mua sắm gì thêm, chỉ cần đổi chỗ cũng đã vui. 22. Lâu lâu cũng nên đăng ký đi xa. Đi nghỉ mát nơi xa, cắm trại về đêm, vv. Đều là kinh nghiệm hiếm có. Rất nên làm. 23. Mời bạn bè đến ăn. Cũng nên có những buổi mời mọc bạn bè đến nhà chơi. Uống chút trà. Nhâm nhi chút bánh, rượu, thịt nướng sẽ thấy đời đáng sống hơn. 24. Cười nhiều lên. Mỉm chi hay cười rộ, đều cần thiết. Cứ thử mà xem, sẽ thấy mình vui không muốn dứt. 25. Giúp người khác có ngày vui. Đây là một việc khiến ta thêm bận. Bận rộn, mà vui. Sao không thử. Cứ thử tình nguyện làm việc gì đó giúp hội từ thiện, giúp người già yếu đang cần quan tâm. Cần người tiếp chuyện. Nhất nhất đều làm người khác vui. Người người nếu vui , mình sẽ vui theo.
Trên đây là những đề nghị có hơi khó làm đối với bạn nào còn ở các nước tiến chậm. Khó lòng thực hiện. Như các cụ thường nói: có thực mới vực được đạo. Dù đó là đạo Chúa hay đạo làm người. Tuy nhiên, trong khuôn khổ cho phép, vẫn có thể thực hiện, chỉ một vài đề nghị nho nhỏ, rất vô tư. Không tốn kém lắm đâu. Nào, xin dám đề nghị các anh các chị nào lâu nay quá bận rộn với đủ thứ chuyện công-tư, đều có đủ. Cứ thử một lần xem, sẽ thây ngay thôi.
Và đó là những điều em dám mạo muội gửi đến các anh các chị. Ít ra đây cũng là bằng chứng cho thấy em đâu có quên anh chị nào đâu. Mary Vũ. Thiên Chúa có can thiệp không? Một vài suy nghĩ về phép lạ. ______________________________________ Lê Văn Khuê 2008
Trong những năm vừa qua, khi theo dõi tình hình thế giới, tôi chứng kiến trên truyền hình cũng như trên báo chí không biết bao nhiêu là thiên tai, đại họa giết hại muôn vàn sinh mạng con người, như vụ tấn công khủng bố tòa tháp đôi ở New York ngày 11/9/2001, chiến tranh ở Afghanistan, đại họa sóng thần ở Ấn Độ Dương ngày 26/12/2004 và mới đây nhất là cơn bão Nargis tại Myanmar. Chừng ấy con người với tất cả phẩm giá hiện hữu và là đỉnh cao của tạo dựng trong phút chốc trở về với hư vô. Là người công giáo tôi phải tự hỏi: Vậy Thiên Chúa Toàn Năng, Yêu thương và Nhân Hậu ở đâu mà không can thiệp để cho trái đất bớt đi những thiên tai, đại họa? Đồng thời, tôi chứng kiến chung quanh mình có những người không ngớt cầu nguyện để được lành bệnh, để tai qua nạn khỏi. Liên kết các sự kiện này lại với nhau và tôi tự vấn nạn: Hơn hai trăm ngàn người bị mất mạng trong đaị họa sóng thần năm 2004 mà không được cứu thoát thì cá nhân người bệnh này cầu xin cho hồi phục, người du khách kia cần xin đi đến nơi về đến chốn làm sao mà được toại nguyện? Đi lùi xa hơn chút nữa, sáu triệu người Do Thái là người cùng quê hương với Đức Giêsu bị tàn sát trong thảm họa Holocaust trong thế chiến thứ hai mà Thiên Chúa có ra tay can thiệp đâu mặc dù vạn vạn người trong số họ đã không ngớt cầu nguyện với Thiên Chúa là Thiên Chúa của họ và cũng của chúng ta. Vậy thì Thiên Chúa có thực sự can thiệp vào tiến trình của thiên nhiên và lịch sử của con người không? Nói cách khác, Thiên Chúa có làm phép lạ đi ngược lại định luật tự nhiên không? Và lời cầu nguyện của con người có tác dụng gì ở đây?
I. Những sự kiện và những vấn nạn.
Khi nhìn vào lịch sử hình thành của vũ trụ cũng như của sinh vật và của con người, chúng ta không thể không thấy rằng có những định luật tiến hóa phổ quát, đặc biệt định luật tuyển chọn tự nhiên (cá lớn nuốt cá bé hay mạnh được yếu thua) đã làm cho vũ trụ và thế giới có hình thái của ngày hôm nay. Quá trình tiến hóa này suy cho cùng không loại bỏ cũng không bao hàm một Đấng Tạo Dựng từ khởi nguyên hay một mục đích tối hậu. Tuy nhiên đối với người hữu thần, nếu mọi sự từ hư vô mà có thì chẳng giải thích được gì, do đó người hữu thần chúng ta tin Thiên Chúa là khởi nguyên của những định luật này. Nhung khi đã được tạo dựng thì Thiên Chúa có còn can thiệp một cách siêu nhiên vào những định luật này nữa hay không? Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo viết rằng: ”Thiên Chúa quan phòng chăm sóc mọi sự cách cụ thể và trực tiếp, từ những cái nhỏ nhất đến những biến cố vĩ đại nhất của thế giới và lịch sử” (đoạn 303). So với thực tế diễn ra trong thiên nhiên (sóng thần, bão, núi lửa, động đất) và trong lịch sử loài người (thảm họa Holocaust, cuộc xâm lăng Iraq), nói như vậy có phải là nói ngoa không? Hay sau khi đã tạo dựng vũ trụ với những định luật của nó, Thiên Chúa đã bỏ mặc cho vũ trụ tự hoạt động mà bất chấp những hậu quả. Hay Thiên Chúa bị lâm vào cảnh người phù thủy tập sự khi đã thả lũ kiêu binh ra thì không thể kềm chế chúng được nữa? Đây có phải là dấu hiệu của sự yếu kém hay thiếu thận trọng?
Điều này càng rõ ràng hơn khi chúng ta nhìn vào những thảm họa chính con người tạo ra cho con người. Thảm họa điển hình trong lịch sử là việc Đức Quốc Xã giết hại 6 triệu người Do Thái trong thế chiến thứ hai. Tại sao Thiên Chúa toàn năng, yêu thương nhân hậu lại có thể làm ngơ khi người ta mở những cái van lò khí độc để giết hàng loạt người? Nếu Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu thấy được hậu quả của thảm cảnh nầy thì Thiên Chúa chỉ cần cho Hitler bị đột quỵ là đủ cứu hàng triệu sinh mạng rồi. Nếu thiên tai (sự dữ thể lý) Thiên Chúa đã không can thiệp thì trong thảm họa do lòng ác của con người làm ra (sự dữ luân lý) thì Thiên Chúa không những không can thiệp mà lại không can thiệp được bởi vì con người là những thụ tạo thông minh và tự do, tự do đến nỗi có thể khước từ chính Đấng tạo dựng mình ra. Vậy thì Thiên Chúa cũng bó tay trước cái ác của con người.
Nếu Thiên Chúa không can thiệp cũng như Thiên Chúa bị bó tay thì phép lạ sẽ được hiểu làm sao đây và lời cầu nguyện của chúng ta có tác dụng gì? Phép lạ theo định nghĩa ngày hôm nay là một điều xảy ra đi ngược lại với định luật của tự nhiên. Ví dụ, một người bị bệnh ung thư gan giai đoạn cuối thì đương nhiên sẽ ra đi trong một thời gian rất ngắn, nhưng không hiểu sao lại được bình phục hoàn toàn. Đó là phép lạ. Vậy Thiên Chúa có làm phép lạ không? Thiên Chúa đã không can thiệp vào những thiên tai để cứu bao nhiêu sinh mạng cũng như Thiên Chúa đã không ra tay trong thảm họa Holocaust thì lý gì mà Thiên Chúa đi ngược lại định luật tự nhiên để cứu mạng những cá nhân riêng lẻ? Hans Kung viết: “Một sự can thiệp của Thiên Chúa vào thế giới sẽ là một điều phi lý, bởi vì hậu quả sẽ không lường được nếu thực sự Thiên Chúa cho tạm ngưng một lúc những quy luật của hệ thống mà chính ngài đã đặt ra. Thiên Chúa đã tự buộc chính mình bởi những định luật giải thích mọi sự đồng thời chỉ được giải thích trong chính Ngài.“ (Hans Kung, Does God Exists, Doubleday & Company, New York 1980, trg.653).
Nếu thực sự như vậy thì lời cầu nguyện của chúng ta có tác dụng gì? Đã có người kêu lên: “Tôi đã cầu nguyện biết bao nhiêu lần mà kết quả có thấy đâu?” (Christopher Hitchens, God Is Not Great, Hachetle Book Group, New York, 2007 trg.3). Quả vậy, trong những thời kỳ các loại bệnh như dịch hạch, lao phổi hay đậu mùa hoành hành và khi mà chưa có liệu pháp, thì thử hỏi một bệnh nhân tha thiết cầu nguyện cho được bình phục thì có được Thiên Chúa nhậm lời chăng? Và nếu người đó được nhậm lời thì tại sao vô vàn bệnh nhân khác lại không được? Nếu thực sự Thiên Chúa nhậm lời hết thảy thì mỗi lần có cơn dịch hoành hành, con người cứ chạy vào nhà thờ mà cầu Chúa cho khỏe chứ bỏ công nghiên cứu liệu pháp và chữa trị làm gì cho mất công. Và như thế thì ngày nay con người đã chẳng có thuốc chống lao và cũng chẳng tiêu diệt hoàn toàn bệnh dịch hạch và đậu mùa. Cũng vậy, nếu Thiên Chúa cứ nghe con người cầu xin mà chận đứng các vụ động đất hay những cơn sóng thần thì ngay nay con người đã chẳng có máy đo địa chấn để cảnh báo trước cho người dân đối phó với thiên tai. Đó là những sự kiện và vấn nạn về sự dữ trong thiên nhiên và sự dữ do con người làm ra mà người tín hữu ngày hôm nay không thể không đặt ra và tự đi tìm cho được câu trả lời.
II. Câu trả lời.
Phải nói ngay từ đầu là không dễ gì mà có một câu trả lời hoàn toàn thỏa đáng về sự dữ và đau khổ mà chúng ta chứng kiến mỗi ngày, mỗi giờ. Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo viết: “ Nếu Thiên Chúa là cha Toàn Năng, Đấng sáng tạo nên thế giới có trật tự và tốt lành , chăm sóc mọi thụ tạo, tại sao lại có sự dữ? Trước câu hỏi không thể tránh và khẩn thiết này, vừa đau thương, vừa bí nhiệm, không thể có câu trả lời ngắn gọn và đầy đủ được”. (đoạn 309). Chính thánh Augustino cũng đã vật lộn gay gắt với câu hỏi nầy: “Tôi đã đi tìm hiểu nguồn gốc của sự dữ nhưng không tìm ra lời giải đáp”. Thực vậy, chính vì không giải thích được thực tại của đau khổ trong đời sống con người và trong lịch sử nhân loại mà nữ văn sĩ Simone de Beauvoir đi đến chỗ tuyệt vọng, nhân vật Ivan Karamozov trong tiểu thuyết “Anh Em nhà Karamazov” của Dostoevsky cũng như nhà văn Albert Camus đã nổi loạn khước từ Thiên Chúa, và biết bao người theo chân họ để trở thành vô thần (Hans Kung, On Being A Christian, Doubleday & Company, New York 1976, trg.431). Cho dù không thể ngắn gọn và đầy đủ, nhưng cũng phải tìm cho ra câu trả lời.
Theo Hans Kung, trước thảm cảnh Holocaust, người ta dễ đi đến chỗ chối bỏ sự hiện hữu cũng như quyền năng và sự yêu thương của Thiên Chúa. Nhưng chủ nghĩa vô thần có phải là lời giải đáp không? Thái độ vô thần có giải quyết tốt hơn sự hình thành của vũ trụ và của con người không? Câu trả lời là không. Và Hans Kung vì không thể giải thích được về mặt lý trí tại sao Thiên Chúa không can thiệp, Thiên Chúa không ngăn chặn thảm họa Holocaust, ông đề nghị trước những thảm cảnh tương tự chúng ta chỉ có thể có thái độ giữ im lặng và tin tưởng như ông Gióp trong Sách Cựu Ước (Hans Kung, Credo, editions du Seuil, Paris 1996 trg.120-121). Trước những tổn thất nặng nề giáng lên tài sản của ông, trước cái chết đau thương của con cái ông, trước những đớn đau nơi thân xác và thống khổ trong tâm hồn, ông vẫn một mực tin Thiên Chúa hiện diện với ông, giữ gìn ông không phải khỏi đau khổ mà ngay trong đau khổ. Đó là lòng tin thác không lay chuyển vào một Thiên Chúa là tình yêu và là ánh sáng bất chấp và ngay trong đêm tối dày đặc.
Vậy thì tại sao Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng lại không tạo dựng một thế giới thật hoàn hảo để không có một sự dữ nào xuất hiện? Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo trả lời: “Xét theo quyền năng vô biên Thiên Chúa vẫn có thể tạo dựng được điều tốt hơn. Nhưng trong sự khôn ngoan và nhân hậu vô biên của Người, Thiên Chúa đã tự ý sáng tạo một thế giới trong tiến trình hướng về sự trọn hảo tối hậu. Theo ý định của Thiên Chúa, sự tiến hóa này gồm có sự vật này xuất hiện và vật khác biến đi, có cái hoàn hảo hơn và có cái kém hơn, có xây đắp và có tàn phá trong thiên nhiên. Vì vậy bao lâu mà cuộc sáng tạo chưa đạt được sự trọn hảo của nó, thì cùng với điều tốt thể lý, cũng có sự dữ thể lý“(đoạn 310). Hồng y Christoph Schonborn, chủ tịch ủy ban soạn thảo sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo giải thích thêm: Khi nói đến Thiên Chúa là Đấng Sáng Tạo Toàn Năng, người ta thường nghĩ đến một Đấng vì toàn năng nên bắt buộc phải tạo ra mọi sự đều hoàn hảo. Thiên Chúa không phải là ông thợ làm đồng hồ hay là người làm nên những cái máy. Người là Đấng tạo nên những “sinh linh”, tức những thụ tạo trong trạng thái hình thành, có một khởi đầu, một giai đoạn phát triển và một kết thúc. Nói Thiên Chúa tạo nên những “sinh linh” là nói rằng thụ tạo tăng trưởng trong tìm tòi, khi thất bại khi thành công, khi gặp may khi gặp rủi, khi gặp lành khi gặp dữ, nhưng nói chung điều lành, điều may luôn luôn nhiều hơn và lớn lao hơn điều dữ (xem http://www.cardinalschonborn.com). Hồng y Chistoph Schonborn đưa ra ví dụ cơn sóng thần năm 2004. Tuy là một thảm họa tàn phá ghê gớm nhưng lại là một hiện tượng thiên nhiên cần thiết cho sự sống trên hành tinh của chúng ta, bởi vì sự di động của những mảng vỏ trái đất tạo nên sự động đất nhưng đồng thời cũng là một trong những điều kiện để trái đất có được một nhiệt độ trung bình ổn định, mà không có nó thì hẳn đã không có sự tiến hóa của sự sống trên trái đất.
Một đặc tính khác của “sinh linh” trong tiến trình hoàn thiện là khả năng tự mình hoạt động, điều mà sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo gọi là “sự cộng tác của các thụ tạo”. “Thiên Chúa không chỉ cho các thụ tạo hiện hữu, nhưng cũng cho chúng phẩm giá tự mình hoạt động, làm nguyên nhân và nguyên lý cho nhau và nhờ đó mà cộng tác vào việc hoàn thành ý định của Người”. (đoạn 306) Chính vì thế mà Thiên Chúa không một mình can thiệp để tiêu diệt bệnh dịch hạch hay đậu mùa mà Người đã để cho con người tự tìm ra thuốc đặc trị, cũng như Người cũng đã không ngăn chặn các vụ động đất để cho con người tự chế ra máy đo địa chấn. Đó chính là sự mời gọi cộng tác của Thiên Chúa và sự đóng góp của con người vào công trình sáng tạo thế giới, đồng thời cũng phản ánh được điều mà Giáo Hội dạy: “Thiên Chúa đã cho sự dữ xảy ra và một cách mầu nhiệm Người đã biết cách rút lấy điều lành từ sự dữ”. (đoạn 311)
Nếu thế giới trong tiến trình hướng về sự trọn hảo tối hậu theo những định luật tự nhiên do Thiên Chúa đặt ra cùng với sự cộng tác của thụ tạo thì còn có thể nói đến sự can thiệp siêu nhiên của Thiên Chúa, có thể nói đến phép lạ không? Nếu hiểu phép lạ theo nghĩa là đi ngược lại định luật tự nhiên thì, theo thiển ý, có thể không thể có phép lạ cho tập thể cũng như cho cá nhân. Tuy nhiên sách Giáo Lý Công Giáo của Hội Đồng Giám Mục Hà Lan gợi ý rằng phép lạ hiểu theo nghĩa là một bệnh nhân cầu xin Chúa cho hồi phục, và trong quá trình, tìm ra được một bác sĩ giỏi chữa anh khỏi bệnh. Như vậy phép lạ xảy ra khi tìm ra được bác sĩ có chuyên môn giỏi mà không ngược lại định luật tự nhiên của bệnh tình. Ở đây không có sự can thiệp siêu nhiên của Thiên Chúa đi ngược lại định luật tự nhiên mà là sự cộng tác chuyên môn của con người.
Vậy nếu Thiên Chúa không can thiệp vào quy luật tự nhiên thì lới cầu nguyện của chúng ta có tác dụng gì nơi Thiên Chúa? Trong trường hợp bệnh nhân ở trên, rõ ràng là Chúa không can thiệp vào bệnh tình của người đó, nhưng có thể Chúa cho gặp được ông bác sĩ giỏi, là điều chẳng đi ngược lại định luật tự nhiên chút nào. Đối với người tin, thì sự gặp gỡ đó là một hồng ân của Thiên Chúa, nhưng đối với người không tin thì đó chỉ là sự trùng hợp may mắn. Theo Hans Kung, “Thiên Chúa là Đấng tự do tuyệt đối nên người có thể hành động một cách tự do, nghĩa là người hành động mà không cần một thứ phép lạ nào, mà không cần phá vỡ luật nhân quả” (Hans Kung, Does God Exist, Doubleday & Company, New York 1980, trg.653). Hơn nữa, Hans Kung còn nói rõ thêm rằng “ Thiên Chúa có thể nói với con người và trong nghĩa nầy có thể can thiệp. Nhưng đây là sự can thiệp và một hành động xảy ra trong sâu kín của một sự tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa. Như vậy con người có thể được Thiên Chúa nói với trong hoàn cảnh đặc biệt riêng tư của mình. Con người có thể thấu hiểu một ý tưởng, một quyết định như một sự soi sáng thực sự của Thiên Chúa cho chính mình.” (sđđ)
Trong quá trình tìm hiểu về vấn đề nầy, liên quan đến việc cầu nguyện, tôi nghiệm ra rằng có hai điều chúng ta cần cầu xin nhất. Một là “Ý cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Bởi vì nhìn những thiên tai, thảm họa xảy ra lúc nầy hoặc lúc khác, nơi nầy hoặc nơi khác, chúng ta thấy bí nhiệm quá và chỉ biết xin chấp nhận. Hai là lòng tin sắt son vào những gì chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính mà chúng ta đọc lên trong Thánh Lễ ngày chủ nhật. Chính lòng tin mới mang đến cho chúng ta hy vọng mà vui sống. “Trước hết phải tìm kiếm nước Chúa và sự công chính của Người, rồi các thứ kia Người sẽ ban cho thêm”. (Mt 6,33)
Lê Văn Khuê Anh muốn ly hôn phải không ? st
Nhưng tôi nhận ra khó mà mở lời với vợ về chuyện này. Cho dù tôi có đề cập nó một cách nhẹ nhàng đến đâu chăng nữa, cô ấy chắc chắn sẽ bị tổn thương sâu sắc.
Làm gì mà ghê thế? Maria Cathy
Các anh chị thân mến, Lời nói đầu tiên, xin được gửi đến các anh chị, là lời xin lỗi rất trịnh trọng. Em xin lỗi là vì bẵng đi có đến mấy năm, hôm nay mới lại về với các anh chị bằng một bức thư trần tình này.
Quả thật là vì em quên. Thôi thì, một ngày có mỗi 24 tiếng, 8 tiếng dành cho công việc, 8 tiếng ngủ nghỉ, 8 tiếng còn lại là cho gia đình bạn bè và cả đến người dưng nước lã nữa chứ.
Số là hôm qua chi Mary Vũ có gọi điện thoại trách em tại sao lâu lắm rồi không thấy em viết với lách gì hết cả vậy. Em cũng đã xin lỗi chị ấy rằng thì là em ngóc đầu còn không nổi, nói gì đến chuyện viết với lại lách. Mà lúc này con cái nó lớn rồi, em đâu cần lách với len gì đâu. Mẹ chồng em cũng vô viện dưỡng lão rồi, cần gì phải lách và viết nữa cơ chứ. Nói thì nói thế chứ sao độ này em thấy không còn hứng thú gì đến chuyện viết thư viết từ cho ai. Khoẻ ghê héng mấy anh mấy chi. Lúc này bọn em biết cách viết i-meo ngay từ sở làm rồi là cứ thế đến sở thật sớm. Lợi dụng chưa có ai đến cả là mình lén viết thư thôi.
Nói thì nói thế chứ viết riết đọc riết rồi cũng thấy chán chuyện. Chán như cơm nếp nát vậy đó. Nhất là lúc này em xài hai địa chỉ i-meo thế mà vẫn không thoát được mấy cái thư rác rưởi cứ gửi tùm lum cho hết mọi người.
Ấy vậy chứ, cũng nhờ có thư “rác” mà lâu lâu em cũng lượm được những bài có ý nghĩa ra phết đó. Thôi để coi như một bằng chứng xin tạ lỗi với các anh chị, em xin đánh máy và dịch đại nơi đây một trong các thư em nhận được. Thư này nói về cách giao tiếp với mọi người mà tác giả dùng một đầu đề rất ư là nhà giáo để chỉ dạy mọi người. Thôi thì, anh chị nào từng nhận đưọc các loại thư này bằng tiếng Anh tiếng em mà thấy tiếng Việt em dịch chẳng ra làm sao, thì cũng xin cho hai chữ “đại xá” nhé. Em đi thẳng vào thân bài đây.
Có 31 cách để đối nhân xử thế ở đời. Đó là:
Đó mới chỉ sơ sơ có 31 điểm thôi đấy. Hy vọng các anh chị sẽ bổ túc thêm sau. Em chào các anh chị. Hẹn gặp các anh chị vào dịp tới. Maria Cathy Giọng cũ xa gần Dân gầy phụ trách *Cũng một hồi âm: Trong cuộc sống hàng ngày, Gia đình An Phong Sydney vẫn nhận đều các thư liên lạc, thăm hỏi. Có thư viết về chuyện riêng tư, tâm sự chỉ nói cho hai người nghe thôi. Cũng có thư viết cho nhiều người đọc, dù chỉ gửi đến có một người. Có thể là bậc suýt-chút-nữa-thành-vị-vọng, như thầy 6 hụt họ Huỳnh rất ư là Có Lợi, sau đây: “Chào Bác Lợi, Con đã nhận được số tiền Bác gửi cho con là VND$31,350,000. Bác cho con xin gửi đến mỗi người trong Gia đình An Phong Sydney lời cảm ơn chân thành của con vì đã ưu ái dành cho con số tiền quyên góp được trong dịp họp mặt đầu xuân Mậu Tý này để con giúp đỡ người nghèo dân tộc ít người tại đây. Đặc biệt, con xin hết lòng cảm ơn Bác đã thương hy sinh góp nhiều công sức lo lắng để gửi tiền chỗ con một cách tốt đẹp. Con sẽ sử dụng số tiền vào việc bác ái từ thiện cho người nghèo Ê-đê con đang phục vụ và bù lỗ một chút cho việc xây cất tu viện của cộng đoàn. Xin Chúa chúc lành cho mọi gia đình trong Gia Đình An Phong Sydney. Chúc mọi người mạnh khoẻ, bình an và năm mới gặt hái nhiều thành quả tốt đẹp. Con chảo Bác. Con JB. Hồ Quang Lâm, CssR Buôn Ma Thuột.
*8 tháng 3: một ngày như mọi ngày? Phải chăng đây là câu hỏi của các bậc nữ lưu trong nhà ngoài ngõ, ở quê nhà? Bởi, có ở quê nhà, mới có những ngày “vùng lên” như bài thơ “con nhái” dưới đây: Em cứ ngồi ngắm hoa. Em cứ ca cứ hát. Anh sẽ lo rửa bát. Anh sẽ lo quét nhà. Anh sẽ lo giặt là* Em uống gì anh pha. Chợ gần hay chợ xa. Anh lần ra được hết. Món em ưa anh biết. Em cứ chờ mà xem. Em đánh phấn xoa kem. Anh nhặt rau vo gạo. Em ung dung đọc báo. Anh tay nấu tay xào. Anh tự làm không sao. Đứng lo gì em nhé. Tà áo em tuột chỉ. Đưa anh khâu lại giùm. Nho anh mua cả chùm. Buồn mồm em cứ nếm. Bạn gái em mà đến. Cứ vô tư chuyện trò. Anh tắm cho thằng cu. Rồi anh ru nó ngủ. Màn hình bao cầu thủ. Nghe em hét “vào rồi”. Hết một ngày em ơi. Hăm bốn giờ thôi nhé.
*Ngày 8 tháng 3, ngày gì nhỉ? Câu hỏi này, có lẽ xuất từ môi miệng các đấng phu quân nhiều hơn phụ nữ. Phụ nữ mình, thường hay hỏi những câu hỏi hóc búa hơn, như những câu ở dưới: Vợ: Anh đang làm gì đấy? Chồng: Có làm gì đâu! Vợ: Có thật anh không làm gì, không? Anh đã chẳng cầm giấy giá thú đọc hằng giờ đấy là gì? Mà đọc giấy đó để làm gì cơ chứ? Chồng: Ừ thì, anh chỉ tìm xem chỗ nào ghi ngày đáo hạn, mà thôi…
Hoặc những câu rất thường ngày, như: Vợ: Anh có ngồi vào bàn ăn tối không đấy? Chồng: Anh còn chọn lựa nào nữa đây, chứ! Vợ: Chỉ cần anh trả lời: “có hay không” thôi.
Hoặc một loại hỏi và han, khác: Vợ: Sao anh cứ để hình tôi vào bóp, làm gì thế? Chồng: Mỗi khi có vấn đề to nhỏ, anh đều lấy bóp nhìn vào hình em, vấn đề gì rồi cũng biến Vợ: Đó, anh thấy quyền năng của tui chưa? Chồng: Có! Anh nhìn hình em rồi tự hỏi: có vấn đề nào to lớn hơn thế này không?
Những chuyện không thấy ai nói vào ngày 8/3: Người em bé bỏng: “Một mai khi mình lấy nhau, em muốn chia sẻ mọi ưu tư, khúc mắc rối bời và làm nhẹ gánh cho anh, thôi.” Chàng trai: “Em thật dễ thương, nhưng anh có ưu tư, khúc mắc nào đâu, bao giờ.” Người em gái: “là vì ta chưa lấy nhau, đó thôi!”
Và, chuyện không nên nói vào ngày 8/3: Chú bé: Mẹ à! Sáng nay con đang đi xe buýt thì bố bảo tránh ra nhường chỗ cho bà kia ngồi. Người mẹ: Giỏi, làm thế mới là đứa con ngoan. Chú bé: Lúc ấy, con ngồi trên đùi của bố mà?!
Và, câu chuyện trao đổi nam nữ: Con gái: Chỉ hôn em một cái thôi, là em sẽ thuộc về anh, suốt đời. Con trai: Cảm ơn em đã cảnh cáo anh trước! *Chữ nghĩa quê nhà: Những ai xa nhà quá lâu như bần đệ, chắc cũng thông cảm cho những thắc mắc về ngôn ngữ tên gọi, như bên dưới:
được đặt tên: Bình-Trị -Thiên. -Quảng Đà = Quảng Nam, Đà Nẵng -Long Châu Hà = Vĩnh Long, Châu Ðốc, Hà Tiên -Hà Nam Ninh = Hà Ðông, Nam Ðịnh, Ninh Bình Lý do dễ hiểu là cũng có nhiều cách gộp tên, nhưng không sao công khai tuyên bố ðược: Thử xem như dưới ðây: -Kon-Ku-Lak
Ấy, đấy mới chỉ ba tỉnh gần nhau thôi, nếu thêm tỉnh Long An hay tỉnh nào khác cắc cớ hơn thì sao?
*Lại nói chuyện ngôn ngữ đời thường: Cũng vẫn là ngôn từ “ghép rất kỹ” của các phe bạn chứ chưa là phe ta. Bà con mình cố đọc rồi sẽ hiểu tại sao các “cụ” cứ thích vắn và gọn:
*Chuyện đời lẫn chuyện Đạo: Có méo mó nghề nghiệp chăng, khi ta đề cập đến những chuyện bên lề chính trị? Chắc câu trả lời sẽ là không, nếu ta nhớ lại lời phát biểu của Gorbachev, con người chủ trương đổi mới Perestroika ở Nga-la-xô năm nào, khi ông bảo: “Giáo hoàng là một trong những người làm chủ thế giới của tôi.” Thế giới mà ông nói, là “thế giới toàn cầu hoá. Và, ông còn nhấn mạnh: đó là một thế giới có những đe doạ môi trường và nghèo đói. Với tình trạng khí hậu chuyển biến như ngày nay, có lẽ quan niệm và phát biểu của ông trùm sò Liên xô một thời, cũng có lý ấy chứ nhỉ? Có lý nhất là với các hoạt động có tầm cỡ quốc tế Đạo và đời của Đức cố Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô Đệ Nhị và Đức đương kim Giáo Hoàng Biển Đức XVI, hôm nay. Phải không các tám nó?
*Thơ tình thứ thiệt. Dân Gầy có người đồng nghiệp. Cũng làm cho chính phủ, nhưng khác bộ. Bộ phận nào, Dân Gầy cũng chẳng biết. Nhưng, có lẽ làm ở cái bộ phận có tên là “nhà nước” hay sao ấy, mà hình như luôn luôn rảnh rỗi. Có rảnh có rỗi hơi, mới năng viêt lui viết tới nhưng câu lục bát, rất trữ tình như sau: Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, cách nhau cái chỗ để phơi áo quần Hai người nhầm lẫn tứ tung, nàng như cũng có cái quần giống tôi Ðể rồi có một lần phơi, thế nào tôi lấy nhầm ngay quần nàng Tôi chiêm bao rất nhẹ nhàng, thấy nàng hé cửa gọi sang bên này 'Ấy ơi, ấy hãy vào đây, cho em đổi lại cái quần chút coi ' 'Cái quần duy nhất của em, hôm qua anh lấy về bên ấy rồi ….' Lần đầu nhìn thấy nàng cười Thân tôi run rẩy như người mắc phong Nàng che tấm vải ngang hông Để tôi ngượng ngịu chẵng mong trả quần... Tỉnh chiêm bao dạ bần thần.. Co' nên giữ lại cái quần làm tin Tình yêu như thể rút thăm, rút trúng thì sướng rút nhầm thì đau Tình yêu như thể đi câu, anh nào chai mặt ngồi lâu mới tài Tình yêu như thể quan tài, mới loanh quanh ở bên ngoài đã run lúc co lúc dãn lúc còn đứt ngay lúc nào cũng tưởng đang bay trên trời có hôm cho hết cả đời vẫn mong trông thì đẹp đấy nhưng không ra gì tây ta cũng thích chỉ vì nó ngon sinh ra chỉ để làm mòn cái môi
Và, một “trự” khác cũng lại “rỗi rảnh” khá nhiều giờ, nên mới hoạ lại bài thơ ấy như sau: Nhà tôi ở cạnh nhà nàng, *Những tin tức rất… mình từ nhà mình DIA hân hạnh có được nguồn tin từ quê nhà như sau. Mời bà con đọc để thưởng lãm. GIA ĐÌNH AN PHONG NGOÀI TU VIỆN Tp. HCM. Ngày 02.04.2008 CHÚA ĐÃ SỐNG LẠI THẬT RỒI, ALLELUIA ! Alô ! Đây là tiếng nói của ca-pô cánh già. Thế là Gia Đình An Phong chúng ta lại tiếp tục những sinh hoạt phụng vụ và ái hữu như những năm trước đây. Chỉ có một điều duy nhất khác biệt giữa NAY và XƯA là Gia Đình An Phong không còn Quản gia, không cần quản gia, lớn cả rồi, chúng ta tự quản tự phòng. Thay thế anh quản gia già nua, lỗi thời là một hội đồng các ca-pô, toàn thể anh em cựu đệ tử được phân làm hai cánh GIÀ và TRẺ. “Trẻ” bao gồm tất cả các bạn có học ỡ Đệ Tử Viện Thủ Đức (hoặc ở các nhà Đệ Tử khác mà thời gian tương ứng với Đệ Tử Viện Thủ Đức). “Già” bao gồm tất cả các bác chưa hề học ởĐệ Tử Viện Thủ Đức, như vậy các bạn Lăng Cù, L.V.Nghĩa, Hoàng Toán, Ng.V. Tấn v.v… đều thuộc “cánh già”, đều có chung một ca-pô là tay quản gia cũ, nay được hội đồng các ca-pô chỉ định giám quản cánh già, trong khi mỗi lớp ở Thủ Đức đều có ca-pô riêng từng lớp. Điều làm cho ca-pô cánh già áy náy là các phu nhân còn đang độ xuân thì phơi phới cũng bị ăn theo các “bố già” và bị gom vào “cánh già”. Cách đây hai ngày, ca-pô cánh già có mở hội nghị liên tịch hiệp thương với các anh cựu tu sĩ, mới vỡ lẽ ra là các anh cũng không còn đủ sĩ số để đếm trên mười đầu ngón tay. Basile Kính đã về với Chúa. Henri Khắc quanh quẩn trong nhà với những khối u to bằng quả cà chua do bệnh “gút”, hậu quả một thời dọc ngang xây xây dựng dựng. Patrice Phúc lấy giường làm gốc. Thế là Bruno Mẫn duyệt kế hoạch sát nhập các anh cựu tu sĩ vào cánh già. Đại khái chuyện gia đình mình hôm nay là thế. Là thư này của ca-pô cánh già hàng tháng sẽ được gửi đến từng bác già, đơn giản là để nhắc nhở các cụ về dự lễ hàng tháng. Các cụ lẩm cẩm, mù vi tính, đâu có biết meo miếc, buộc phải có tờ giấy cầm trong tay để nhớ ngày đem vợ con về lễ với Gia Đình An Phong. Tiện đây, xin thông báo cho cánh già biết về những đổi thay bề trên của Gia Đình An Phong trong Tu Viện như sau :
Nhiệm Kỳ 2008 – 2011 A – HỘI ĐỒNG TỈNH 1. Giám Tỉnh: Cha Vinh Sơn Phạm Trung Thành, phụ trách đào tạo. 2. Phó Giám Tỉnh: Cha Giuse Cao Đình Trị, phụ trách đời sống và các Thày. 3. Uỷ viên Thường Vụ : Cha Giuse Nguyễn Ngọc Bích, phụ trách Linh đạo và Tông đồ mục vụ. 4. Uỷ viên Đặc vụ: Cha Matthêu Vũ Khởi Phụng. 5. Uỷ viên Đặc vụ: Cha Giuse Trịnh Ngọc Hiên. 6. Uỷ viên Đặc vụ: Thày Phêrô Phạm Công Thuận.
B – CÁC VĂN PHÒNG (không gọi là Ban nữa) 1. Trưởng Văn Phòng đào tạo: Cha G.Bt. Lê Đình Phương. 2. Trưởng văn Phòng Linh đạo: Cha GioaKim Nguyễn Đức Mầng. 3. Trưởng Văn Phòng Tông đồ: Cha Phêrô Đinh Ngọc Lâm. 4. Trưởng Văn Phòng Quản lý Tỉnh và Đời Sống :Cha Phaolô Trần Văn Quang. 5. Trưởng Văn Phòng các Thày: Thày Phêrô Phạm Công Thuận. 6. Trưởng văn Phòng Tỉnh : Cha Giuse Đinh Hữu Thoại.
C – BỀ TRÊN CÁC CỘNG ĐOÀN
Hiện nay DCCT đã có mặt ở 20/26 Giáo phận của Hội Thánh Việt Nam. Thư này cũng được gửi đến Cha Bề Trên Giám Tỉnh “để kính tường” và đến hội đồng ca-pô “để biết”.
*Giòng điện thư vi tính chuyển tải: Phải công nhận rằng từ ngày có điện thư vi tính, ban biên tập DIA đỡ vất vả khá nhiều. Dưới đây là một bằng chứng: 29.04.08 Vừa qua, Gia Đình An Phong Việt Nam với vị tân Giám tỉnh, đã qui tụ lại vào mỗi tháng như thời gian trước đây. Vì nhiều lý do, nên nòng cốt là anh em giới trẻ (nhưng cũng trên dưới 60 cả rồi!), được tính từ thời đệ tử viện Thủ Đức từ lớp Vô Nhiễm năm 1969 đến lớp cuối cùng, năm 1975. Nhà Dòng cử một thầy trợ sĩ, thầy Phạm Công Thuận (thuộc lớp Vô Nhiễm, thầy Thuận rời Đệ tử viện Vũng Tầu rồi trở lại nhà Dòng 30 năm sau chỉ muốn là tu sĩ và thầy cảm thấy hạnh phúc trong bậc trợ sĩ...) phụ trách. Do đó phưong thức hoạt động của đàn em có hơi khác với anh nguyên quản gia trước đây, nên cũng có chuyện này chuyện nô... Dù sao cũng là một khởi đầu mới, điều quan trọng là tinh thần AN PHONG vẫn luôn là căn bản để tất cả anh em có thể gặp gỡ nhau, làm cái gì đó cho nhau và cho nhà Dòng. Anh em đã nhận phụ trách một lớp giáo lý tân tòng tại 38 Kỳ Đồng, khai giảng đến nay vừa đúng một tháng! Thêm vài tin tức vụn vặt. Anh em mình luôn cầu cho nhau Jo TNHuân
*Cũng là thơ với thẩn: Từ ngày làm chân biên tập với lại biêbn vở, bần đệ thường nhận đưọc rất nhiều ý kiến phản hồi, về đủ thứ chuyện. Từ chuyện trên trời dưới bể. Đến chuyện trời trăng đôi lức, rất nhị. Nhân. Dưới đây, là một trong những chuyện … hơi bị Lỉnh kỉnh ấy. Xin đưọc gửi đến bạn bè người thân, để có một chút giây phút giãn xương và giãn cốt. Câu chuyện “tình yêu”: Tình yêu như thể rút thăm, Rút trúng thì sướng, rút nhầm thì đau. Tình yêu như thể đi câu, Anh nào chai mặt ngồi lâu mới tài. Tình yêu như thể quan tài, Mói loanh quanh ở bên ngoài đã run. Tình yêu như thể dây thun, Lúc co lúc dãn, lúc còn đứt ngay. Tình yêu như thể ông say, Lúc nào cũng tưởng đang bay trên trời. Tình yêuy như thể điểm mười, Có hôm cho hết cả đời vẫn mong. Tình yêu như thể đuôi công, Trông thì đẹp đấy, nhưng không ra gì. Tình yêu như thể bánh mì, Tây ta cũng thích chỉ vì nó ngon. Tình yêu như cái môi son, Sinh ra chỉ để làm mòn cái môi… (nhà thơ không ghi tên)
*So sánh là so và sánh: Có một thời, người ta cứ hay thích so sánh. So và sánh như nhìn vào “thảm cỏ tình yêu” của nhà bên cạnh. Hocặc, còn nói: nếu cột đèn biết đi, nó cũng chạy ra nước ngoài hết. Nay, thử xem cột đèn ra được nước ngoài rồi, có còn so và sánh nữa, hay khong. Xin mời bầu bạn ghé mă1t nhìn xem những sánh rất là so đo, ở bên dưới: Quê Nhà v/s Xứ Người
Quê nhà # QN. Xư' người # XN.
*Thêm một bài thơ… về Mẹ: Ở Úc, cũng như phương Tây, người ta hay làm thơ để tặng người Mẹ … vẫn hiền, vào ngày Mẹ Hiền. Dưới đây là một trong các bài thơ như thế: Happy Mother’s Day
*Ơn kêu gọi có là ơn để kêu và gọi? Còn nhớ, cũng trong một số DIA hôm trước, Dân Gầy đã mạn phép đăng thư kêu gọi của Lm Yuse Tiến Lộc về việc giúp đỡ xây dựng nhà đệ tử/dự tập. Nay, Lm Tiến Lộc cũng lại có thư tâm tình khác, gửi người anh em như sau: Kính gửi Quý Ân nhân, thân hữu Quý anh cựu tu sĩ và đệ tử DCCT Việt Nam,
Thưa quý vị và anh em than mến, Vào Dòng Chúa Cứu Thế từ năm 1957 tới nay là trên 50 năm, tôi Yuse Tiến Lộc xin được có đôi hàng tâm sự với Quý vị và anh em. Sống suốt thời đệ tử 7 năm tại Vũng Tàu, lên Nhà tập 1 năm tại Nha Trang, tiếp tục Học viện 6 năm tại Đà Lạt, đi giúp 1 năm tại Đệ tử viện Vĩnh Long, tôi được thụ phong linh mục năm 1972, tính tới nay đúng 36 năm, làm Đệ tử, Tập sinh rồi Sinh viên Học viền 14 năm liền, tôi được nuôi nấng, ăn học đầy đủ do công ơn Nhà Dòng. Để đáp trả, tôi nguyện ở lại phục vụ Nhà Dòng trong công việc đào tạo Linh mục tương lai suốt từ năm 1970 đến nay… lúc thì làm Thầy phụ tá, Cha Phó, lúc làm Giám đốc. Đi “tu huyền” về, dù không có Đệ Tử Viện, tôi vẫn tiếp tục công việc đào tạo tại tư gia nơi tôi thường trú, kết quả cũng giúp được trên một chục Linh mục tiến lên bàn thờ. Tôi nay lại được Bề trên bổ nhiệm làm Giám đốc các nhà Đệ Tử và Dự tập toàn quốc (gồm năm nhà: Hà nội, Huế, Nha Trang, Pleikly, Sài gòn) với tổng số sinh viên gần 200.
Trực tiếp lo Nhà Đệ Tử và Dự tập Sài gòn cùng với 3 Cha Phó tại Mai Thôn, tôi cũng có trách nhiệm tinh thần với 4 Nhà còn lạiđể điều hành đường lối huấn luyện cho thống nhất toàn Dòng. Mỗi Nhà đều có một Cha Phó Giám Đốc phụ trách, tổng cộng là 8 Linh mục lo công việc đào tạo nhà Đệ Tử và Dự Tập. Các nhà Hà nội, Huế, Nha Trang, Pleikly được Nhà Dòng sở tại bảo trợ nên tạm ổn định về chỗ ăn, chỗ ở do số Đệ tử ít.
Về chi phí đào tạo tại nhà Mai Thôn: Các em Ngoại trú (đang ở tại gia đình hoặc nhà trọ) tự túc, còn các em nội trú thì hàng tháng chi phí cho một người tiết kiệm lắm cũng phải hơn 1,000,000đ. Phần đóng góp của phụ huynh là 300,000đ/tháng cho 6 tháng đầu và 200.000đ/tháng cho những tháng sau đó (khoảng 20USD và 12 USD), Nhà Dòng bù đắp khoảng một phần ba ngân sách chi tiêu hàng tháng, phần còn lại do các ân nhân xa gần tuỳ hỷ đóng góp. Kết toán cuối tháng thường thâm hụt khoảng 20,000,000đ (tức 1,250USD). Do đó, sự sống luôn dựa trên Quan Phòng của Thiên Chúa từng ngày, từng tháng…, đó là chi phí ăn học và sinh hoạt khác, còn nhà ở của Đệ tử, chúng tôi chưa lo được, đang mượn tạm một số phòng tĩnh tâm của cộng đoàn Mai Thôn và làm tạm một số căn nhà lợp lá, lợp tôn, rất thiếu thốn các tiện nghi trong sinh hoạt…
Từ Hội Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp được tái lập với cha Giu-se Hoàng Phúc (cựu Giám Đốc) đã thành hình nên Gia Đình Ân Nhân Bảo Trợ Ơn Gọi Đệ Tử và Dự Tập từ hơn 5 năm qua, tạm bù lỗ một phần những thiếu trước hụt sau ấy… Tuy nhiên, với số sinh viên ngày càng đông, chi phí ngày càng tăng nên từ mấy năm nay, chúng tôi tiếp tục vận động để xin thêm ân nhân hỗ trợ việc đào tạo ơn gọi ở giai đoạn đầu tiên này… Các giai đoạn sau (Tập Viện và Học Viện) Nhà Dòng hoàn toàn lo cho các thầy sinh viên cho đến khi làm Linh mục.
Dó đó tôi, với tư cách Giám Đốc Đệ Tử Dự Tập, kính xin Quý ân nhân, Quý anh Cựu Tu Sĩ và Đệ tử DCCT quảng đại trợ giúp chúng tôi trong việc Bảo Trợ Ơn Gọi, và xây dựng Đệ Tử Dự Tập Viện I. Việc Bảo trợ Ơn gọi: Thể lệ và nội qui như sau: 1.Bổn phận: Cầu nguyện cho ơn gọi DCCT tại Việt Nam đang đà phát triển và rộng tay ủng hộ một số tiền tối thiểu là: *tại Việt Nam 50,000đ/tháng hoặc 500,000đ/năm *tại hải ngoại: 5USD/tháng hoặc 50USD/năm cho một Đệ Tử Dự Tập. 2.Quyền Lợi: *Quý ân nhân được hưởng lợi ích lời cầu nguyện trong thánh lễ hàng ngày và một thánh lễ riêng hàng tháng. *Một ân nhân qua đời khi được báo tin sẽ được dâng một thánh lễ riêng chỉ cho linh hồn người quá cố. Ở gần, sẽ có thánh lễ tại gia (nếu được phép của Cha Sở) và đại diện các em Đệ Tử Dự Tập phúng viếng. 3.Tài chánh: *Tiền bạc xin góp chung cho một đại diện ở địa phương được uỷ nhiệm, xin ghi danh tánh và địa chỉ rõ ràng để chuyển về cho Ban Giám Đốc. Danh sách Quý Ân nhân sẽ được ghi trong Sổ Tri Ân lưu giữ tại Nhà Đệ Tử Dự Tập Sài gòn. *Sau 5 năm Quý vị vị sẽ trở thành ân nhân vĩnh viễn của Dòng. Việc xây dựng nhà Đệ Tử Dự Tập tương lai tại Mai Thôn: Trước đây, Nhà Đệ Tử Dự Tập được đặt tại Nhà Kỳ Đồng, nay sỉ số sinh viên Học viện lên tới 100, nên Bề Trên đã di chuyển sang Cộng đoàn Mai thôn, đồng thời rời Tập Viện ra Cần Giờ; nên nhu cầu xây dựng một Đệ Tử Viện trở nên cấp thiết.
Chúng tôi một lần nữa tha thiết mong Quý Ân nhân và Quý anh Cựu Tu Sĩ, Đệ Tử DCCT tiếp tay để sớm thực hiện dự án này. Khi gửi tiền xin nêu rõ mục đích Bảo trợ Ơn Gọi hay Xây Dựng Đệ Tử Dự Tập Viện Mai Thôn.
Xin Chúa chúc lành và trả công bội hậu cho Quý vị. Tận tình trong J.M.J.A. DCCT MaiThôn, ngày 14 tháng Giêng 2008 Yuse Nguyễn Văn Lộc (Tiến Lộc) Giám Đốc Đệ Tử Dự Tập DCCT Địa chỉ liên lạc: 1.Lm Yuse Tiến Lộc đt: 0918 344 344 2.Lm GB Nguyễn Công Nghiễm đt: 0914 451 400 DCCT Mai Thôn – 970D Bình Quới Q.Bình Thạnh- TpHCM Anh em ở Úc muốn đóng góp, xin liên lạc với Trần Ngọc Tá 33 Goodacre Ave Fairfield West NSW 2165 Mob: 0410 590 243 (w): 9728 9688 – 9728 9288
Nói đến hôn nhân, người dửng dưng hoặc “phớt tỉnh Ăng Lê” hẳn cũng phải có giây phút đến buồn cười, như ri: Cũng là hỏi đáp: Trước ngày cưới hỏi: Chàng: Cuối cùng rồi cũng tới đó. Khó mà chờ. Nàng: Anh có muốn em bỏ anh không? Chàng: Không đâu! Anh chả bao giờ nghĩ thế. Nàng: Anh yêu em không? Chàng: Dĩ nhiên rồi. Lúc nào anh cũng thế. Nàng: Có khi nào anh lừa dối em không? Chàng: Không. Sao em lại hỏi thế? Nàng: Anh có muốn hôn em không? Chàng: Bất cứ khi nào anh có dịp. Nàng: Anh sẽ đánh đập em chứ? Chàng: Có mà khùng! Anh không phải là người như thế. Nàng: Em có nên tin anh không? Chàng: Có. Nàng: Anh yêu ơi… Sau ngày hợp hôn: Chỉ cần đọc từ dưới lên.
*Về những vần thơ: Có những vần thơ, nghe qua chi một lần.. rồi bỏ. Nhưng cũng có những thơ vần, nghe rồi vẫn không quên. Như các vần rất thơ và …thẩn, bên dưới: Chưa đi chưa biết Nha Trang Đi rồi mới biết họ sang hơn mình Sáng tắm biển, chiều tắm sình. Có hồ nho nhỏ cho mình rửa chân.
Chưa đi chưa biết Vũng Tàu Đi rồi mới biết họ giàu hơn ta Sáng tắm biển, chiều mát xa Có gà móng đỏ, thả ra … đá liền.
Chưa đi chưa biết Đồ Sơn Đi rồi mới biết chẳng hơn đồ nhà Đồ nhà tuy có hơi già Nhưng là đồ thiệt hơn là đồ sơn.
*Không phải đồ nào cũng sơn, nhưng thiệt: Thiệt những chuyện vui buồn rất thiệt ở quê nhà, do đại diện GĐAP VN gửi qua: XIN MUÔN ĐỜI CHÚC TỤNG, TÔN VINH VÀ TRI ÂN CHÚA. “ TỐT ĐẸP ” Quý bạn thường nghe tôi nói “ Tốt Đẹp ”. Hôm nay, tôi xin được chia sẻ với quý bạn về ý nghĩa của từ “ Tốt Đẹp ” này. “ Tốt Đẹp”: đây không phải là một tính từ hay trạng từ nữa, mà là một danh từ riêng. Chính vì vậy, nó được viết hoa một cách trang trọng. Ý nghĩa của từ “Tốt Đẹp” này vượt quá ý nghĩa bình thường của nó. Từ “Tốt Đẹp”, mỗi khi tôi nói, có 3 ý nghĩa: đối Thần, đối Nhân và đối Thân. *Đối Thần? Mỗi khi vào chùa, tôi thấy quý sư và bà con Phật tử chào nhau bằng 2 tiếng “ Mô Phật ”. Họ nhắc nhở nhau hãy hướng lòng về Đức Phật để tôn thờ Ngài, để được sống theo lời Ngài dạy, giúp diệt tham, sân, si, giúp tâm được thanh tịnh, thanh thoát. Còn Công Giáo thì Chúa đã dạy “ Cấm kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ ”. Vì vậy, giữa bao yếu đuối, khó khăn, phong ba, bão táp trong cuộc sống, làm sao để mọi người có thể nhớ tới Chúa, sống kết hiệp mật thiết với Chúa, vì chỉ có Chúa mới đem đến cho mỗi người sự bình an đích thực, một cuộc sống yêu thương đầy ý nghĩa. “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi.” ( Gl 2 , 20 ) . Vậy, tôi phải làm sao đây?... Sau một thời gian cầu nguyện, Chúa chỉ cho tôi: “ Con hãy lật chương đầu sách Sáng Thế Ký, con thấy từ nào xuất hiện nhiều nhất, con hãy chọn từ đó”. Tôi thấy ở Kn 1 , 3 – 31: Khởi đầu công cuộc sáng tạo, mỗi ngày sau khi hoàn thành công trình của mình, Thiên Chúa đều thấy “tốt đẹp”. Và Thiên Chúa là Chân – Thiện – Mỹ, cũng là “Tốt Đẹp”. Vì thế, Chúa đã chỉ cho tôi chọn từ Tốt Đẹp (viết Hoa) để thế Húy Danh của Ngài. Chính vì vậy, khi tôi nói “Tốt Đẹp”là để nhắc nhở tôi và mọi người: 1 – hãy hướng lòng về với Chúa để CHÚC TỤNG, NGỢI KHEN, TÔN VINH và TRI ÂN NGÀI, vì Ngài đã hiến mạng sống để cứu độ chúng ta, đã và đang ban cho chúng ta quá nhiều ân phúc. “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15, 13 ) 2 – hãy luôn SỐNG KẾT HIỆP MẬT THIẾT VỚI CHÚA, nhờ đó chúng ta kín múc được nhiều ân thánh để giúp chúng ta vượt thắng những đam mê tội lỗi, những hờn giận, ghét ghen, những nghịch cảnh, phong ba bão tố trong cuộc sống, hầu đem lại cho mỗi người chúng ta sự bình an đích thực, niềm vui và hạnh phúc trong Chúa. “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” ( Ga 15, 3 ) Có như vậy, chúng ta mới thực sự VUI SỐNG VỚI CHÚA TRONG HIỆN TẠI, TRONG TỪNG HƠI THỞ, TỪNG PHÚT GIÂY CỦA CUỘC SỐNG. Chắc chắn cuộc đời chúng ta luôn được bình an, thanh thoát trong Chúa. *Đối Nhân? Đối với anh em, khi ta nói Tốt Đẹp, nhắc chúng ta nhớ rằng Chúa đang ngự nơi mỗi người anh em. Vì vậy, chúng ta không được NGHĨ XẤU, NÓI XẤU và LÀM XẤU đối với anh em, mà chúng ta nên NGHĨ TỐT, NÓI TỐT và LÀM TỐT cho anh em của mình. Như vậy, chúng ta đang tích cực sống giới luật YÊU THƯƠNG của Chúa.“ Đừng bao giờ chua cay gắt gỏng, nóng nảy, giận hờn, hay la lối thóa mạ, và hãy loại trừ mọi hành vi gian ác. Trái lại, phải đối xử tốt với nhau, phải có lòng thương xót và biết tha thứ cho nhau, như Thiên Chúa đã tha thứ cho anh em trong Đức Kitô.” (Ep 4 , 31- 32) “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.”(Ga 13,34) Có như vậy, chúng ta mới thực sự SỐNG YÊU THƯƠNG, SỐNG HÀI HÒA VÀ SẺ CHIA VỚI MỌI NGƯỜI.
* Còn thế nào là đối Tâhn ? Đối với bản thân, khi nói Tốt Đẹp là mình tự nhắc mình luôn cố gắng sống đời mình mỗi ngày một tốt đẹp hơn như lòng Chúa mong muốn. Chúa đã dạy: “các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con trên trời là Đấng Hoàn Thiện.” (Mt 5 , 48) Được như vậy, chúng ta mới thực sự VUI SỐNG VỚI CHÚA VÀ VỚI ANH EM TRONG GIÂY PHÚT HIỆN TẠI CỦA ĐỜI MÌNH. * Ý cuối cùng : · Chúng ta thấy 3 ý nghĩa: đối Thần, đối Nhân và đối Thân, đều tận cùng bằng“ – ân”. Ân là ân sủng, mà 3 “ân” nghĩa là nhiều ân sủng, thành ra dòng sông ân sủng của Chúa. Nếu chúng ta thường xuyên sống với từ Tốt Đẹp là chúng ta được dìm trong DÒNG SÔNG ÂN SỦNG CỦA CHÚA nghĩa là ta đang sống ở Thiên Đàng Tại Thế, chứ không phải trông chờ ở đâu xa. Giờ đây, quý bạn đã thông suốt ý nghĩa siêu nhiên của từ “Tốt Đẹp” mà tôi thường xuyên sử dụng. Kính mong quý bạn và tôi cố gắng luôn vui sống với “Tốt Đẹp.” MẾN CHÚC QUÝ BẠN VÀ QUÝ QUYẾN LUÔN ĐƯỢC BÌNH AN, HẠNH PHÚC TRONG TỐT ĐẸP, Xin lưu ý: Nhiều người cảm thấy ngượng miệng, không dám nói Tốt Đẹp đang khi lòng mình còn nhiều sai lỗi, gian dối, ganh ghét, hận thù, v.v… Hãy can đảm lên! Đừng e ngại! Không ai dám tự hào cho mình là hoàn toàn đâu. Mọi người đều bất toàn. Vì thế, càng nhận ra mình yếu đuối, nhiều sai lỗi, càng gặp nhiều đau khổ, thử thách, chúng ta càng phải nói Tốt Đẹp nhiều hơn nữa. Ơn Chúa sẽ giúp ta hoán cải, canh tân đời sống mỗi ngày một tốt đẹp hơn, yêu thương nhiều hơn, tha thứ nhiều hơn, chia sẻ nhiều hơn. “Vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh.”(2Cr 12 , 10) XIN MUÔN ĐỜI CHÚC TỤNG, TÔN VINH VÀ TRI ÂN CHÚA.
*Người về từ cõi … nhớ: Còn nhớ người anh em linh mục trụ trì xứ quảng, rất ư là đông Đông… từng bị gãy chân vì tai nạn xe cộ vào độ Giáng Sinh năm 2007, nay đã bình phục. Với cây gậy chống ngang nách. Với miếng sắt xuyên thịt. Nhưng “người” đã thoát chết trong gang tấc trở trong vui mừng. Mừng vui với nhóm nhỏ gia đình An Phong nhân buổi Khilikhitô tại nhà anh chị Mai Tá. Trong buổi này, dĩ nhiên có thần tăng khi tôkhily họ Mai tên Vanh Xăng. Và thần tăng nhà họ Mai có giòng chảy nhung nhớ niềm vui sau: “Anh chủ biên thân, Cảm ơn anh chị. Chiều nay, hai anh em chúng tôi về lạI Melbourne. Vài ngày trên Sydney, đặc biệt là buổi tối thứ Tư 15/5 vừa qua tại nhà anh chị thật vui. Anh em mình tiếp tục liên lạc với nhau. Hẹn ngày giỗ Thánh Tổ 3/8/2008 này. Thân kính MVThịnh 18/5
*Và một thư thăm hỏi khác, từ quê hu7ong: Thư mang danh là của “Capô Cánh già” nhưng lại nói nhiều điều rất trẻ trung. Trẻ trung, tươi mát về tin tức. Trẻ về tinh thần, như sau: “Gia đình An Phong Việt Nam, với tân Giám tỉnh, đã qui tụ lại mỗi tháng như thời gian trước đây. Vì nhiều lý do, nên nòng cốt là anh em giới trẻ (nhưng cũng đã trên dưới 60 cả rồi) tính từ thời Đệ tử Thủ Đức, tức từ lớp Vô Nhiễm năm 1969 đến lớp cuối cùng, năm 1975. Nhà Dòng cử một thầy trợ sĩ, thầy Phạm Công Thuận (thuộc lớp Vô Nhiễm, rời đệ tử Vũng tàu rồi trở lại nhà Dòng sau 30 năm, chỉ muốn là tu sĩ và thấy hạnh phúc trong bậc trợ sĩ…) phụ trách. Do đó, phương tức hoạt động của tụi em có hơi khác với anh nguyên quản gia trước đây, nên cũng có điều này tiếng nọ… Dù sao cũng là một khởi đầu mới. Điều quan trọng là tinh thần An Phong vẫn luôn là căn bản để mọi anh em bất kể tuổi tác, hoàn cảnh… có thể gặp gỡ nhau, làm cái gì đó cho nhau và cho nhà Dòng. Anh em đã nhận phụ trách một lớp giáo lý tân tòng tại 38 Kỳ Đồng, khai giảng đến nay vừa đúng một tháng! Trên đây là vài tin vụn để các anh hay. Luôn cầu cho nhau. Thân mến, Thành viên lớp Vô Nhiễm.
*Và một thư … luân lưu trong nhóm: Thì ra cánh già hay cánh trẻ cũng đều có cánh. Có cánh là có bay và có nhảy. Nhảy từ đâu và đến đâu, ai biết. Nhưng nhảy cho nhiều, rồi cũng về lại chốn cũ. Với nhau. Với tình An Phong thân thương ấy, như: Sài gòn, ngày 01/05/2008 Capô cánh già hân hạnh thông báo: Thánh lễ tháng 5 sẽ được tổ chức vào Chúa Nhật thứ 2, ngày 11/5/2008, lúc 8 giờ tại nhà nguyện Cộng Đoàn Sài gòn, 38 Kỳ Đồng. Thân mời các anh, các chị, các cháu về dự đông đủ. Nhịp cầu nối những bờ vui É-phê ra phết, cái lá thư tầm phào tháng trước của ca pô cánh già. Có tấm giấy cầm tay nhắc nhở, các anh già và vợ con về dự lễ đông hẳn lên. Thì bây giờ xế chiều rồi, còn gì nữa đâu mà khóc với cười, lực bất tòng tâm, có muốn chơi nữa cũng chả được, chỉ còn lại chút tình với nhau, với nhà Dòng. Chả vậy mà Henri Khắc đang nằm bệnh viện, cũng cố lết về họp mặt, thều thào ba điều bốn chuyện rồi lại vào viện. Chả vậy mà các cô con gái của Basile Kính vẫn hào hứng về với gia đình, với các chú các bác, các anh chị em, cho dù hôm nay bố Kính đã về thiên đàng. Hình như mẹ Kính không được khoẻ phải không? Các con chuyển lời của Gia Đình An Phong đến mẹ Kính nhé. Chả vậy mà “mệ” Thành đường xa vạn dặm, đón xe đò từ hai giờ sáng để về kịp giờ Lễ. Thương quá “mệ” ơi, cái thân cò da bọc xương ấy. Chả vậy mà vợ chồng Hồ Trân từ Huế vào, cũng cố dành chút thời giờ tới capô cánh già, nói lời hiệp thông mặn nồng của Huế. Rồi từ Lâm Đồng, Sĩ Danh Điểm i-meo về rối rít thăm hỏi bà con trong họ ngoài làng. Chả vậy mà … chao ôi! Kể sao cho hết cái tình này. Tại sao không nhỉ, Hào – Huân - Huy ơi, một Chúa nhật thứ hai nào đó, một chuyến taxi thỉnh cây đại thụ của gia đình về dự Lễ, ông cụ được dịp thấy lại khung cảnh tu viện: Nhà nguyện, Phòng chung, Cha Giám tỉnh và các cha, vv. “Nếu trái núi không đến được với Mahomet thì Mahomet phải đến với trái núi.” Kinh Coran bóng bẩy dạy như vậy. Chả là cánh già hẹn nhau hôm lễ Phục Sinh vừa qua đi thăm anh già Trần Văn Hương, thân phụ của Hào Huân Huy đang nghỉ hưu ở Thủ Đức, thề non hẹn biển, đến ngày “N” thì bỗng anh A lên cơn tăng-xiông, anh B bị gút nó hành, vịn cầu thang lần từng bước rên rỉ… không còn đủ quân số để hành quân, đành dẹp. Thế đấy, tuổi già như ngọn đèn trước gió. Cười nói duyên dáng như Nguyễn Hữu Đắc, Lê Bá Mưu, Nguyễn Văn Thọ… nhưng thực thì “trong héo ngoài tươi”. Cả đống bệnh trong người đấy. Lại một lá thư tầm phào của capô cánh già, nhưng xin người đọc đừng quên dắt dìu nhau về dự Lễ. Thân ái.
|
Duc In Altum >