Năm Thánh Lòng Thương Xót. Lm Joe Mai CSsR
Năm Thánh Lòng Thương Xót sẽ khai mạc vào ngày 8-12-2015, lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và kết thúc ngày 20-11-2016, lễ Chúa Kitô, Vua vũ trụ. Trong Năm Thánh Toàn xá này Đức Thánh Cha mong muốn các tín hữu sẽ đón nhận như một cơ hội để gặp gỡ Lòng Thương Xót đích thực của Thiên Chúa, Đấng chăm lo cho chúng ta một cách thật ân cần và chu đáo. Và qua kinh nghiệm gặp gỡ thật mật thiết giữa chúng ta với Thiên Chúa Cha, đức tin của chúng ta được nuôi dưỡng và cuộc sống của chúng ta sẽ trở thành chứng tá của Lòng Thương xót mà Thiên Chúa muốn dùng để chia sẻ cho nhân loại. Lòng thương xót của Thiên Chúa thật vô biên, không loại trừ một ai. Tất cả mọi người, kể cả những người đã có những hành động đi ngược lại với quyền giáo huấn của Giáo Hội; những người hiện đang sống ly khai; những người bị bỏ rơi, bị gạt ra bên lề xã hội; những người đang đau khổ về phần hồn cũng như phần xác… Tất cả đều có một chỗ đứng thật quan trọng trong cung lòng của Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm hồn và hoàn cảnh riêng của từng người và với Lòng thương xót, Ngài không muốn ai trong họ bị hư mất (Gioan 17,12) Năm Thánh không chỉ là cơ hội để chúng ta chụp lấy ơn toàn xá; nhưng thật ra đây là thời điểm mà chúng ta ý thức hơn về vai trò chứng nhân của mỗi tín hữu. Mỗi người trong chúng ta được mời gọi để chia sẻ và ban phát Lòng Thương xót của mình cho tha nhân và nếu chúng ta không cảm nghiệm được sự vui mừng xuất phát từ Lòng Xót Thương của Thiên Chúa thì chúng ta lấy gì mà cho đi. Vì chúng ta đều biết rằng: Người có lòng thương xót là người biết chia sẻ, biết quan tâm, biết yêu thương và nhất là biết cất đi những khó nhọc, vất vả cũng như sự đau khổ của tha nhân. Điều đó còn có nghĩa là luôn sẵn sàng lau khô những giọt lệ phát sinh từ sự đau khổ của người khác, biến nó thành những giọt lệ của niềm vui. Trong Năm thánh này, mỗi một tín hữu được mời gọi để sống và trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Tuy nhiên, khi nói đến Năm Thánh, tâm trí con người thường hay nghĩ đến việc tổ chức các chuyến hành hương, gia tăng công việc đạo đức để đủ điều kiện được lãnh nhận ơn Toàn Xá. Đó là điều tốt, nhưng không phải là việc thiết yếu. Bởi vì, không phải chờ đến năm nay nhân loại mới nhận được các ân sủng của Chúa. Nhưng mỗi giây, mỗi phút trong cuộc sống của chúng ta đều là ân sủng. Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong bài nói chuyện với giới trẻ vào đầu năm 1997 đã nhắn nhủ rằng nếu con người muốn sống trong an bình thì hãy trao cho nhau sự thứ tha. Đức cố giám mục John Heap, nguyên là Giám Mục phụ tá của Tổng Giáo Phận Sydney, trong chương mở đầu cuốn “A Love That Dares To Question” đã chia sẽ là hiện rất nhiều người có một cuộc sống ngăn trở với Giáo Hội, nhưng họ vẫn một niềm yêu mến Thiên Chúa và tha nhân qua các công tác tốt nhất mà họ có thể thực hiện để diễn tả lòng yêu mến đó. Điều cần thiết nhất mà những người sống trong các hoàn cảnh đó đang khao khát là sự thông cảm và tha thứ. Và gần đây nhất, trong bài giảng ngày thứ bẩy trước lễ Kính Lòng Chúa Thương xót ngày 11/4/2015; Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô đã nhấn mạnh đến việc cần làm trong Năm Thánh Lòng Thương xót là làm cho nhiều người nhận thấy tình thương xót của Thiên Chúa. Theo Ngài thì đây là thời điểm của tình thương, thời điểm thuận lợi để chữa lành các vết thương, thời điểm để cống hiến cho hết mọi người ơn tha thứ và hòa giải. Đây chính là dấu chỉ tuyệt hảo nhất mà Giáo Hội nên có để diễn tả sự đón chào và mời gọi mọi người trở về hiệp thông với Giáo Hội. Như thế, Năm Toàn Xá là cơ hội để con người sống yêu thương hơn, sống tha thứ và biết bỏ qua những nợ nần của nhau. Hãy can đảm để đổi mới cách sống: thay vì nhìn nhau bằng cặp mắt soi mói, ghen tương, lên án hay hận thù thì hãy trao cho nhau sự tin tưởng, lòng nhân ái và hãy thông cảm những yếu hèn, sự mỏng giòn trong thân phận kiếp người của nhau. Muốn được như thế, chúng ta hãy làm hòa với Thiên Chúa; có nghĩa là cùng nhau chấp nhận Ngài và tha nhân là một phần tử cùng ăn, cùng uống, cùng chia sẻ, cùng làm việc, cùng vui chơi để thiết lập mối quan hệ ngày càng mật thiết, bền chặt và luôn luôn mới hơn.
Năm Toàn Xá trong Cựu Ước:
Một trong những đặc tính của người Do Thái là sử dụng thời gian sao cho thích hợp, đem lại ý nghĩa cho cuộc sống. Vì thế, sau sáu ngày làm lụng vất vả họ dành riêng một ngày để nghỉ ngơi và dưỡng sức để lấy lại những năng lực đã hao phí trong tuần qua. Ngày đó được gọi là ngày hưu lễ. Sau 7 năm họ để ra trọn năm: năm toàn xá; và sau 7 lần 7 năm họ lại cử hành một năm gọi là “chúa của mọi ngày hưu lễ.” Họ trù tính rằng trong một kiếp người, dù dài hay ngắn, thì ai ai cũng có thể tiếp nhận được các đặc ân của năm đó. Trong năm toàn xá, năm ‘chúa của mọi ngày hưu lễ’, toàn thể dân Do Thái tìm lại bản chất đích thực của dân tộc mình. Họ tìm lại sự mới mẻ, trọn vẹn và tinh tuyền cũng như sự tốt đẹp mà Thiên Chúa đã ban cho họ ngay từ những ngày đầu của tạo dựng. Trong năm toàn xá họ giữ thật nghiêm ngặt các qui định sau đây: 1/ Ruộng đất bỏ hoang, không cầy cấy trồng trọt. Việc này có ý nghĩa là hãy quan tâm đến đời sống của mình, vì nó còn quan trọng hơn là trồng cấy. Họ tin tưởng vào sự chăm sóc và nuôi dưỡng của Thiên Chúa trong thời gian này. 2/ Tất cả những ai đang thiếu nợ thì đều được tha. Việc tha nợ nói lên chủ đích là đừng để nợ nần chồng chất từ đời này sang đời khác. Nó cũng nhằm bảo đảm cho những ai dù vất vả suốt đời nhưng vẫn không có khả năng trả nợ, thì được tha hết. 3/ Những ai đang sống trong thân phận nô lệ đều được trả tự do và quyền công dân được phục hồi. Điều lệ này nhằm chống lại việc phân chia giai cấp, vì con người được sinh ra không phải để làm nô lệ cho kẻ khác. 4/ Việc giảng dậy về sự khôn ngoan của lề luật được phổ biến rộng rãi cho toàn dân, ai ai cũng được học hỏi về lẽ khôn ngoan. Đó không phải là điều mà chỉ có những người thuộc thành phần ưu tú hay có địa vị mới được lĩnh nhận mà thôi.
Đức Giêsu và Năm Toàn Xá. Nhìn vào công trình rao giảng của Đức Giêsu về Nước Thiên Chúa, chúng ta nhận thấy tất cả lề luật của đạo Do Thái, đặc biệt là các qui định về ‘năm toàn xá’ đã được kiện toàn và trở nên sống động. 1/ Đức Giêsu đã khuyên bảo những người theo Ngài hãy tin tưởng và phó thác vào quyền năng của Thiên Chúa, Đấng chăm sóc cho chim trời được mau lớn và hoa huệ ngoài đồng mau trổ bông; mặc dù chúng không gieo cũng như không gặt và hoa huệ thì không làm lụng cũng không kéo sợi. Còn mạng sống của chúng ta còn không quí giá hơn chúng sao. Hãy tin tưởng vào sự chăm sóc và dưỡng nuôi của Thiên Chúa. 2/ Trong Kinh lậy Cha thường được gọi là bản tóm lược công trình loan báo Tin Mừng. Đức Giêsu đã truyền dậy là hãy tha thứ cho những ai mắc nợ mình, vì chính mình cũng đã được tha thứ trước. 3/ Ngài đã đến để phục vụ chứ không phải để được phục vụ. Qua lời giảng dậy và gương sáng về việc phục vụ, Đức Giêsu muốn phá hủy chế độ chủ nhân và tôi tớ, hạ bệ kẻ ăn trên ngồi trốc. Nơi Ngài chỉ có ban phát và chia sẻ cuộc sống cho nhau mà thôi. 4/ Ngài còn dậy chúng ta hãy cho đi những gì ta có, vì chúng ta đã không xin mà vẫn được ban phát. Đừng bao giờ coi Nước Thiên Chúa như gia sản của riêng mình, vì Nước đó đã được ban tặng cho tất cả mọi người, không ai có đặc quyền ôm giữ Nước Thiên Chúa cho riêng mình. Mặc dù Đức Giêsu là người Do Thái, nhưng Ngài đã không phải chờ đến năm 50 theo như chu kỳ của thời gian mà luật Do Thái đã ấn định về ‘năm toàn xá’. Nhưng, ngay tại Nazareth, trong bài giảng khai mạc, Ngài đã công khai loan báo về hoạt động của Thần Khí Thiên Chúa, Đấng đã xức dầu tấn phong để Ngài công bố về năm Hồng Ân của Thiên Chúa. Thời đại của Hồng Ân đã được loan báo bởi các tiên tri nay được ứng nghiệm nơi sự hiện diện của Ngài. Thời đại đó không còn chỉ dành riêng cho người Do Thái, nhưng cho mọi dân tộc trên thế giới. Hơn thế nữa, Ngài không chỉ là dấu chỉ của Hồng Ân, mà còn là ‘Con Người Hồng Ân’. Tất cả những ai đã gặp Ngài đều cảm nghiệm được điều đó. Bằng chính cuộc sống cũng như các lời giảng dậy, Đức Giêsu đã là Tin Vui cho người nghèo, những kẻ thấp cổ bé miệng, bị bỏ rơi và thân phận không được tôn trọng. Ngài đã không chỉ giải thoát con người khỏi ách nô lệ của tội lỗi mà thôi, nhưng còn lôi họ ra khỏi sự giam cầm của thứ luật lệ đã giam hãm và làm mất đi phẩm giá của họ. Từ sự giải thoát ấy, họ cảm nghiệm được lối sống phát sinh từ sự tự do của ân sủng nơi Ngài.
Con người năm Thánh. Với những đặc tính của Năm Toàn Xá theo tập tục của cha ông chúng ta trong Cựu Ước, và nhất là qua sự nhập thể của Đức Giêsu, Đấng đã đến để kiện toàn lề luật và làm cho những khoản luật, đặc biệt là những qui định của năm toàn xá được trở nên sống động hơn. Giờ đây, toàn thể thế giới đang hân hoan bước vào một thời đại mới. Mỗi người chúng ta cũng được mời gọi có một lối sống khác: lối sống nhân từ và đổi mới. Sống nhân từ và thương xót. Người có lòng nhân từ và hay thương xót là người biết chia sẻ, biết quan tâm, biết yêu thương và nhất là biết cất đi những khó nhọc, vất vả cũng như sự đau khổ của tha nhân. Điều đó còn có nghĩa là luôn sẵn sàng lau khô những giọt lệ phát sinh từ sự đau khổ của người khác, biến nó thành những giọt lệ của niềm vui. Người ta kể lại rằng: Bạn của một Rabbi (Thầy dậy đạo của người Do Thái) nọ là người rất thánh thiện, luôn luôn yêu thương người khác. Sau khi chu toàn bổn phận tại trần gian, ông ta được các thiên thần đến đón về để sum họp với các tổ phụ và ca tụng Thiên Chúa trên Thành Thánh Giêrusalem vĩnh cửu ở trên trời. Vị Rabbi rất đau buồn phải xa người bạn cũ, đêm ngày ông tưởng nhớ đến bạn mình. Một ngày kia, trong lúc cầu nguyện, ông ta xuất thần và thấy mình cũng được đưa về Thành Giêrusalem vĩnh cửu. Ông vội vàng đi tìm người bạn cũ để thỏa lòng mong nhớ. Tìm khắp nơi, khắp chốn nhưng không thấy bạn mình đâu, gặp ai ông cũng hỏi thăm và ông ta được mọi người cho biết bạn ông thực sự đang ở trên Thiên đàng.
Cuối cùng, có người cho hay là vừa thấy bạn của ông bước vào con đường dẫn đến khu rừng rậm rạp, mà không ai trong bọn họ dám bước vào. Vị Rabbi nhà ta mong muốn gặp lại bạn xưa, nên đã liều lĩnh tiến vào. Ông bị bao trùm bởi sự tối tăm của khu rừng, không khí thật là ngột ngạt và khó thở. Ông tiếp tục đi sâu vào trong, và cuối cùng nhìn thấy một đại dương bao la, mực nước dâng rất cao, tiếng sóng va chạm vào nhau tạo nên những âm thanh ai oán và rên rỉ, hình như đó là các tiếng thổn thức của bao tâm hồn đang bị đau khổ.
Và kìa người bạn thiết nghĩa của ông đang quì bên bờ biển. Ông vội vã tiến về phía đó. Hai người ôm chầm quấn quít bên nhau. Bạn ông hỏi: “Anh có nghe thấy tiếng gì không?” Ông đáp: “Có, tôi nghe thấy tiếng sóng biển vỗ vào nhau.” Bạn ông giải thích: “Đúng vậy, đây là đại dương của nước mắt, và đó không chỉ là tiếng sóng vỗ mà thôi, nhưng thật ra là những tiếng khóc than của dân mình, một dân tộc đang trông chờ sự giải thoát. Họ rên xiết và kêu cầu bằng nước mắt để xin Thiên Chúa can thiệp vì chỉ có Ngài mới có thể giải thoát dân tộc mình.”
Quả thật, họ là hai người bạn thân thiết, họ có cùng một lối suy nghĩ như nhau. Bạn của vị Rabbi tiếp tục: “Anh ơi! Làm sao tôi có thể vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, khi dân tộc mình đang bị quằn quại trong đau khổ. Anh có muốn cùng với tôi lau khô những giọt lệ trong mắt họ không?” Nghe như thế, vị Rabbi vội vàng quì xuống bên cạnh bạn mình. Hai người đồng tâm hiệp lực khẩn cầu. Trong khi cầu nguyện, hai người cảm thông với sự đau khổ đang dầy xéo trên dân tộc mình. Và, trong mắt họ, những giọt lệ bắt đầu chảy ra và rớt xuống biển.
Thật là kỳ diệu, mỗi giọt nước mắt của họ khi rơi xuống thì mực nước biển lại giảm dần, cứ thế, từng giọt rồi từng giọt nước mắt rơi xuống mặt biển cho đến khi cả đại dương khô cạn. Nhìn lên trời cao, đôi bạn nhìn thấy một cây cung ngũ sắc có hình thù như chiếc cầu vồng mà Thiên Chúa đã ban cho ông No-ê sau trận lụt đại hồng thủy. Họ biết rằng dấu hiệu đó đã làm cho niềm hy vọng của họ được tràn đầy. Thiên Chúa đã không quên giao ước mà Ngài đã thiết lập. Ngài đã ban giao ước của sự hoan lạc và bình an cho toàn thể thế giới.
Chúa Giêsu Kitô đã đến trong trần gian không chỉ để lau khô những giọt lệ sầu của dân tộc Do Thái, nhưng Ngài còn trải rộng tấm khăn để lau sạch mọi giọt lệ trên trần gian, và đưa họ vào chốn an bình. Nơi thập giá, Ngài đã thiết lập một giao ước vĩnh cửu và tồn tại qua muôn thế hệ. Đó là giao ước của Tình Yêu, của Lòng Thương Xót, của Sự Nhân Từ nơi Thiên Chúa cho nhân loại. Sự hiện diện của Đức Giêsu Kitô trong cuộc sống của mỗi Kitô hữu là bảo chứng hùng hồn của Giao ước đó. Sống đổi mới. Hướng đi mới của lịch sử nhân loại đã được đánh dấu bởi sự hiện diện của Đức Kitô, con người của Hồng ân. Trong Ngài chúng ta lĩnh nhận mọi ân sủng của Thiên Chúa, và với Ngài chúng ta có bổn phận làm cho lượng ân sủng được phong phú và tràn đầy để đưa cả vũ trụ và thời gian tới hồi viên mãn (E-phê-sô 1:3-14).
Thời gian viên mãn này đã được bắt đầu nơi Đức Giêsu như tác giả của Tin mừng theo Thánh Mác-cô đã quả quyết: “Thời kỳ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần bên. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin mừng.” (Mc 1:15)
Động từ ‘sám hối’ theo nguyên ngữ Hy Lạp metanoê có nghĩa là suy nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng, hối tiếc, hối hận. Như thế, để thuộc về Nước Thiên Chúa là những ai dám can đảm thay đổi hướng đi, triệt để quay về với Thiên Chúa và dấn bước vào cuộc sống mới. Tuy nhiên, nếu một mình ta mới mà những người khác đều cũ thì chưa đủ. Chúng ta cần phải cùng nhau và cũng giúp nhau đều có một lối sống mới, từ đó gia đình, cộng đoàn, xã hội và thế giới đều mới. “Vì thế, từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù chúng tôi đã được biết Đức Kitô theo quan điểm loài người, thì giờ đây chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa. Cho nên, phàm ai ở trong Đức Kitô đều là thọ tạo mới. Cái cũ đã qua, và cái mới đã có đây rồi.” (2 Cor 5:16) Cái cũ có thể là từ trước đến nay chúng ta nhìn nhau bằng cặp mắt soi mói, nghi ngờ, ghen tương, đố kỵ, sợ hãi... thì giờ đây, hãy thay bằng cái nhìn mới, cái nhìn của yêu thương, của tin tưởng, nhân ái, thương xót, thứ tha, hiệp nhất và những gì giống như thế... Muốn được như thế, chúng ta hãy làm hòa với Thiên Chúa; có nghĩa là cùng nhau chấp nhận Ngài và tha nhân là một phần tử cùng ăn, cùng uống, cùng chia sẻ, cùng làm việc, cùng vui chơi để thiết lập mối quan hệ ngày càng mật thiết, bền chặt và luôn luôn mới hơn. Kết Luận. Mặc dù vẫn còn nhiều biến động và tai ương do thiên nhiên hay bàn tay con người tạo nên. Nhưng nhân loại, hầu hết đang hướng về tương lai với niềm hy vọng và cậy trông. Người Kitô hữu, có Chúa cùng đồng hành, luôn hiên ngang bước tới và chào đón tất cả các biến cố có thể sẽ xẩy ra trong vũ trụ.
Tuy nhiên, biến cố dù kinh hoàng đến đâu cũng không làm chúng ta chùn bước, không làm xao nhãng bổn phận ‘đem Tin Mừng đến mọi môi trường’ của ta. Bởi vì, chúng ta xác tín là Thiên Chúa luôn hiện diện trong mọi phút giây để chăm sóc, nuôi dưỡng và dẫn đưa nhân loại tiến về cùng đích tối hậu là ‘trời mới và đất mới’, tại nơi đó chỉ có bình an và hoan lạc. Hiện tại chúng ta vui sống và tin tưởng vào Tình yêu của Thiên Chúa, Đấng không bao giờ quên những Giao Ước, nhất là Giao Ước Tình Yêu đã ban cho nhân loại qua Người Con duy nhất. Nhất là, với Mầu nhiệm làm người của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã không đến để nói vài lời an ủi hay khích lệ; nhưng còn chia sẻ mọi điều kiện sinh sống của kiếp nhân sinh, và ban ân sủng cho chúng ta được trở nên giống Ngài. Ngài đã thậm chí chấp nhận cả sự chết để bầy tỏ tình yêu vâng phục và mở cho chúng ta một lối về Nhà Cha.
Như vậy, lối sống ‘đổi mới và nhân từ’ đã được đề nghị ở phần trên cũng không mới mẻ gì, đó chỉ là sự trở về nguồn, trở về nguyên thủy để ôn lại và làm cho những lời rao giảng và việc làm của Chúa Giêsu được sống mạnh lại trong cuộc sống của mọi người. Và như vậy, chúng ta sống vui vẻ với Chúa, trong Chúa và nhờ Chúa để đưa mọi sự đến cùng đích và qui phục Đức Ki-tô là thủ lãnh và vua của chúng ta (Eph 1:10) Chúc mọi người được đầy ân sủng của Chúa Giêsu trong Năm Thánh Lòng Thương Xót này. Lm Joe Mai, CSsR Melbourne ... Xin mời đọc tiếp > Download trọn bộ Duc In Altum Số 92 – Quý 4/2015 |
Duc In Altum >